Thiên Luân

Quản trị Diễn Đàn
  • Số nội dung

    7.118
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    134

Everything posted by Thiên Luân

  1. Công việc của cha có phải thay đổi hoặc có chuyển biến thiếu tích cực từ khi mang thai cháu bé Tân Mão? Chị để ý xem chồng có biểu hiện gì khác thường ko nhé! Sinh đứa này ra thì từ từ mới tốt lên, dù sao thì con hợp mạng mẹ là 1 yếu tố tốt rồi. Vấn đề này vượt khỏi tầm của luận tuổi, có lẽ nên xem thêm 1 số yếu tố khác như phong thủy nhà ở. Thân mến. Sinh Nhâm Thìn 2012 là rất tốt, tốt ít hơn 1 tý là Quý Tỵ 2013. Chú may mắn.
  2. Sinh năm Quý Tỵ 2013 nhé. Sẽ rất tốt! Thân mến.
  3. Nếu tính được vậy thì cứ làm vậy đi, nhưng đứa Nhâm Thìn sẽ khó dạy, bướng bĩnh.
  4. Muốn hỏi có khả năng tiến tới hôn nhân và đường con cái thì bạn nên qua mục Tử Vi nhé.
  5. ĐỌC NỐI TRONG TIẾNG VIỆT Nguyễn Xuân Quang Cũng như đa số những ngôn ngữ khác, tiếng Việt cũng có hiện tượng đọc nối và nuốt chữ. Đọc nối là một nhu cầu thiết yếu của tiếng nói. Đọc nối để tránh ngượng miệng, líu lưỡi, đỡ ngọng, tránh khổ đọc, để nói cho lưu loát, cho trơn tru, trơn miệng trơn lưỡi, để nói cho nhanh, để nói cho nhịp nhàng, uyển chuuyển, cho tiết điệu âm thanh hòa hợp, để nghe cho êm tai, cho khỏi trục trặc. Ngoài ra đôi khi để nói cho nhanh người ta nói lồng hai chữ vào nhau hoặc nuốt bớt chữ. Đọc nối trong tiếng Việt cũng tuân theo những qui tắc chung của các ngôn ngữ khác. 1. Cách thứ nhất: đọc nối xẩy ra trong trường hợp khi tận cùng của từ thứ nhất đứng trước là một phụ âm và khởi đầu của từ kế tiếp theo sau là một nguyên âm. Ví dụ: .Con nào con ấy đọc nối thành Con nào con nấy. .Con ít đọc nối qua thành con nít. Thoạt đầu nói là con ít sau đọc nối qua thành con nít và ngày nay chúng ta thành thói quen nói là con nít. Từ ít phản nghĩa với lớn, nhiều. Con ít ngược nghĩa với người lớn. Bắng chứng cụ thể là ta thấy rõ từ ít láy với oi như thấy qua cặp từ láy ít oi và ta thấy rất rõ những từ láy con ít con oi đọc nối qua thành con nít con noi hay con ít con nôi. Bằng chứng sống là bà cụ thân sinh ra tác giả trước đây vẫn nói là con ít. Chính cụ đã giúp tôi tìm ra chữ đọc nối này. 2. Cách thứ hai: đọc nối xẩy ra trong trường hợp khi tận cùng của từ thứ nhất đứng trước là một nguyên âm hay chữ y và khởi đầu của từ kế tiếp theo sau là một phụ âm. Ví dụ: .nề nếp đọc nối qua thành nền nếp. nề có nghĩa khắng khít với nếp hơn là nền với nếp vì nếp có nghĩa là lề thói, gia phong như nếp nhà gia giáo.Theo qui tắc từ đôi, từ láy qua nề nếp ta có nề = nếp. Ta thấy rất rõ nề là lề lối, lề thói (lề là dạng nam hóa của nề) như giấy rách phải giữ lầy nề. Nề, lề biến âm với lệ (lệ làng: phép vua thua lệ làng, luật lệ). Nề biến âm với ni là thước tấc, khuôn khổ (như lấy ni để may quần áo). Luật, lệ, lề, nề liên hệ với Anh ngữ law và lối (lề lối) liên hệ với Pháp ngữ loi (luật lệ). .mà cả đọc nối qua thành mặc cả. .hai mươi đọc nối qua tnành hăm như hai mươi mốt thành hăm mốt… .Ba mươi đọc nối qua thành băm như ba mươi mốt thành băm mốt… .i như đọc nối qua thành in như hay y như thành in như. .i nguyên đọc nối qua thành in nguyên hay y nguyên thành in nguyên. Ta thấy về sau i được dùng như in mặc dầu không phải là đọc nối ví dụ y hệt thành in hệt. 3. Cách thứ ba: lồng hai từ vào nhau hay nuốt chữ. Thường thấy trong thể nghi vần hay trong đối thoại, hai từ cuối thường lồng vào nhau sau khi cắt xén bớt để nói cho ngọt giọng. Ví dụ: . Từ thứ hai nuốt mất phần đầu rồi lồng vào từ trước như: Mày đi mau mà về NGHE KHÔNG? Nói nhanh lồng âm vào nhau: -khi nuốt mất chữ K đầu của từ KHÔNG còn lại HÔNG lúc nói nhanh thành: Mày đi mau mà về nghe-HÔNG? -khi nuốt mất hai chữ KH của từ KHÔNG chỉ còn lại -ÔNG thì lúc nói nhanh thành: Mày đi mau mà về nghe-ông? = Mày đi mau mà về nghe-ONG? -khi nuốt mất ba chữ KHÔ- của từ KHÔNG chỉ còn lại -NG thì lúc nói nhanh vào thành: Mày đi mau mà về nghe-Ng ? =Mày đi mau mà về ngheng? -khi nuốt mất chữ G còn lại KHÔN thì lúc nói nhanh thành: Mày đi mau mà về nghe-KHÔN? -khi nuốt mất chữ G và chữ K còn lại HÔN thì lúc đọc thành: Mày đi mau mà về nghe-HÔN? -khi nuốt mất các chữ KHÔG chỉ còn lại chữ N thì lúc nói thành: Mày đi mau mà về nghe-N = Mày đi mau mà về ngheN? -khi nuốt hết các phụ âm của từ KHÔNG chỉ cỏn lại một nguyên âm Ô thì lúc nói nhanh thành: Mày đi mau mà về nghe-Ô? = Mày đi mau mà về ngheO? Lưu ý là hiện tượng nuốt chữ ở đây có khi giống như là hiện tượng giải phẫu cắt bỏ bới chữ (xem Giải Phẫu Chữ Việt). -Cuối cùng cả từ KHÔNG bị nuốt hết chỉ còn dư âm trong cổ họng thì lúc nói nhanh thành: Mày đi mau mà về nghe… Trên đây là một vài ví dụ tiêu biểu về cách đọc nối trong Việt ngữ, chắc chắn nếu nghiên cứu kỹ thêm ta có thể còn khám phá ra thêm ra nhiều nữa. Nhiều từ hiện nay chúng ta đang dùng có thể là do trước kia đọc nối lại mà thành.
  6. TIẾNG LÁY TRONG VIỆT NGỮ Nguyễn Xuân Quang Tiếng láy gồm một từ gốc và một từ tố lặp lại theo âm điệu, vần điệu nhịp nhàng, uyển chuyển với từ gốc. Tôi gọi từ tố láy với từ gốc là thành tố láy (TTL), ví dụ liếm láp thì láp là TTL của liếm. Đa số các nhà ngữ học Việt Nam cho rằng ngoài một số nhỏ TTL có nghĩa còn hầu hết TTL vô nghĩa như mình mẩy, liếp láp, bụi bậm… thì TTL mẩy, láp, bậm không có nghĩa. Tôi khám phá ra rằng các từ lấp láy có TTL hầu như đều có nghĩa. Chúng ta cho là vô nghĩa vì chúng ta không biết nghĩa đó thôi. Nói một cách tổng quát, giản dị cho dễ hiểu thì TTL trong tiếng Việt dù dưới dạng nào đi nữa nó đều phát xuất ở từ gốc, từ mẹ mà nó ‘láy’ sinh ra. Như thế nó mang nhưng di tính (di truyền tính) của từ gốc, từ mẹ không những âm, vần mà kể cả nghĩa ngữ. Nghĩa của TTL có thể còn giữ nguyên nghĩa ngữ của từ mẹ (rõ nhất là dạng láy giữ nguyên dạng như ào ào) hay vì đã láy, đã “lái”, đã “lai” đi thì nghĩa cũng sẽ lai đi, đã thay đổi… Nói gọn lại, từ láy trong tiếng Việt láy cả âm đọc lẫn ý nghĩa. Những TTL này -có thể là những từ cổ Việt đã biến thể đi, đã mai một đi hay đã bị chôn vùi ở đâu đó nên chúng ta không biết nghĩa, ví dụ từ láy kiêng khem có TTL khem là tiếng biến âm của cổ Việthèm có nghĩa là kiêng, taboo. Theo biến âm kh = h như khì khì = hì hì, ta có khem = hèm. -có thể chúng là những từ còn hiện diện ở một ngôn ngữ nào đó của nhân loại nhất là những ngồn ngữ có liên hệ với Việt ngữ. Sự liên hệ này có thể ruột thịt hay vay mượn, tiếp xúc. TTL của Việt ngữ là một từ trong ngôn ngữ khác. Ví dụ thật thà, TTL thà cũng có nghĩa ngay thẳng chính là Phạn ngữ shâ, ‘to stand’, đứng, thẳng. Rõ như ban ngày thà = shâ. Dĩ nhiên ở các ngôn ngữ khác, các TTL ở dưới những dạng biến âm với Việt ngữ vì mỗi tộc ngôn ngữ phát âm theo một âm khác nhau, theo một nguyên âm khác nhau. “Việt ngữ có hầu hết tất cả âm vận của ngôn ngữ loài người” (Bùi Đức Tịnh, tr. 188). Ví dụ Việt ngữ phát âm “ời” như cổ ngữ Việt blời (trời), Pháp ngữ phát âm theo ‘ơ’ như bleu (màu trời) và Anh ngữ phát âm theo ‘u’ như blue (màu trời). U, ơ, ơi, ời là những biến âm của nhau như u, ơ, ù ơi. Blời, bleu, blue cũng có cùng gốc trời và cũng có thể coi như là một hình thức tiếng láy của nhau như blue-bleu giống như mù-mờ của Việt ngữ. Để soi sáng hiện tượng tiếng láy trong Việt ngữ xin đưa ra một vài ví dụ: -Việt và Việt .Tối thui TTL thui cũng có nghĩa là tối, đen. Với h câm, thui = tui, túi, tối. Thui cũng có nghĩa là đen như đen thui, đen thủi, phỉ thui là đuổi cái đen đi. Thui bò, thui heo là nướng cháy (cho đen). Ta thấy rất rõ thui láy âm với tui, tối và có cùng nghĩa là một tiếng láy. .Đen đủi Theo qui luật biến âm th = đ như thủng thỉnh = đủng đỉnh, TTL đủi = thủi, thui là đen và theo đ = t, đủi = túi, tối. Đủi biến âm với đui là mù cũng hàm nghĩa tối. .Chút chít Chút là nhỏ, ít, chút biến âm với chót. TTL chít cũng có nghĩa là nhỏ, chót như người cháu nhỏ nhất, chót nhất gọi là chít: cháu, chắt, chút, chít. Với ch câm, chút chít = út ít. .Hỏi han TTL han là tiếng cổ Việt có nghĩa là hỏi: “Gặp nhau hớn hở, han chào” (Nguyễn Du, Kiều). . . . . . . -Việt và Mường Tiếng Việt cổ và Mường ruột thịt với nhau. .Lo lắng TTL lắng chính là Mường ngữ lắng có nghĩa là lo, nhớ như thấy qua mấy câu thơ sau: Nên con nghĩ mà đau quặn, Lắng mà đau quài. (Hoàng Anh Tuấn, tập II, tr.128). hoặc Trời mưa đừng nhớ lặng, Trời nắng đừng thương. Lặng nguyên văn là lắng có nghĩa là lo, nhớ (tập II, tr.28). .Rừng rú rú, Tiếng Mường ở Thanh Hóa là rừng nhưng ở Nghệ Tĩnh rú là đồi non (Hoàng Anh Tuấn, tập I, tr. 126). Tộc người Vân Kiều có tên là người Bru, có nghĩa gốc là người (B)Rú, người Rừng. Cũng nên biết Anh ngữ jungle (rừng) liên hệ với Việt ngữ dừng, rừng (j=d như xe jeep = xe díp). .Ngứa ngáy TTL ngáy là Mường ngữ ngá (ngứa): vôn ngá là (khoai) môn ngứa. . . . . . . . -Việt và Tầy-Thái, Thái Lan .Chim chóc TTL chóc là chim, Tầy-Thái ngữ chốc là chim. Với h câm chóc = cóc = cọc. Thái Lan ngữ nok là chim. Nok là nọc (cọc). .Nhỏ nhoi TTL nhoi là Thái ngữ noi, nhỏ (Bình Nguyên Lộc, Lột Trần Việt Ngữ, tr.36). Noi cũng có nghĩa là nhỏ như thấy trong Việt ngữ con nít, con noi, với n câm, ta có nít noi = ít oi, ít ỏi. .Xanh sao TTL sao chính là Thái Lan ngữ kheeo là xanh (Bình Nguyên Lộc phiên âm là sauu). .Đẹp đẽ TTL đẽ chính là Thái Lan ngữ dee, ‘nice’ (xinh dẹp). .Lỗ rỗ TTL rỗ có nghĩa là lỗ như mặt rỗ như tổ ong bầu. Cái rổ là vật đan bằng tre có lỗ lớn. Rỗ ruột thịt với Thái Lan ngữ roo, lỗ. . . . . . . -Việt và Kampuchia ngữ Tiếng Khmer thuộc họ Nam Á, chi Mon-Khmer cùng với Việt ngữ. .Đất đai TTL đai liên hệ với Kamphuchia ngữ day, đất. .Khờ khạo TTL khạo liên hệ với Kampuchia ngữ klao, chaot l’ngoo-ung, stupid, khờ, ngốc. .Hô hào Hô hào là kêu gọi, hô là gọi lớn như hô to, hô lớn. Hô biến âm với hò là gọi to như hò đò sang sông. TTL hào chính là Khmer ngữ hao (call). . . . . . . -Việt và Hán Việt .Bầu bì TTL bì chính là Việt ngữ bị (bọc có quai, túi có quai, ông Ba Bị), Hán Việt bì là bao, túi, (cân trừ bì là cân trừ bao), là da như bì phu (da là cái bao, cái túi bọc thân người) cùng nghĩa với bầu, bào, bao. .Cà kê TTL kê là Hán Việt kê là gà; theo c=g (như cài = gài), cà = gà, Mường ngữ kha (gà) với h câm kha = ka = cà = gà. .Bạc phếch theo ph = b như phừng phừng = bừng bừng, TTL phếch = bệch, biến âm của Hán Việt bạch, trắng. . . . . . . -Việt và Chi Ngôn Ngữ Mã-Lai .Mất mát TTL mát chính là Mã-Nam Dương ngữ mati, chết. .Té de đi cầu té ra nước. Té, te, tè liên hệ tới nước (té nước) và de cũng là nước: mía de là mía nấu nước uống. De chính là Mã-Nam Dương ngữ ayer, nước. .Rừng rậm TTL rậm liên hệ vối Mã ngữ râm, rừng. . . . . . . -Việt và Altaic ngữ Nhật Nhật ngữ đã từng được xếp vào Altaic ngữ. .Xinh xắn TTL xắn là Nhật ngữ shan, xinh (Bình Nguyên Lộc, Lột Trần Việt Ngữ, hình bìa). .Cây cối TTL cối là cây, Mường ngữ coi, cơi là loại cây nhỏ, mềm, dễ gẫy: Có súng bằng cây nứa, Có giáo bằng cây cơi. (Trương Sỹ Hùng, Đẻ Đất, Đẻ Nước, t. I, tr.805) cây cối = “cây con” (Trần Ngọc Ninh, Tuyết Xưa). Cối là loại cây có giống cái vì cối còn có nghĩa là cái cối làm bằng khúc thân cây khoét rỗng biểu tượng cho bộ phận sinh dục nữ. Cối biến âm với củi (cây khô để đốt lửa), với cổ ngữ Nhật kuy, ko và hiện kim ki, cây. Việt ngữ có từ đôi điệp nghĩa kì kèo nghĩa là kì = kèo (kèo là cái cọc nhỏ), ta thấy kì = Nhật ngữ hiện kim ki, là cây. Kì Dương Vương có một khuôn mặt là Núi Trụ Thế Gian, trong có Trục Thế Giới nên truyền thuyết mới nói là ông có tài đi lại được Ba Cõi (Tam Thế), ông xuống thủy phủ (Cõi Nước) cưới nàng Thần Long làm vợ. .Múa may TTL may, theo Bình Nguyên Lộc chính là Nhật ngữ mai là múa (tr.34). . . . . . . -Việt và Ấn-Âu Ngữ .Việt và Anh ngữ .Liếm láp Ví dụ mẹ mắng con: “cái miệng mày liếm láp cả ngày”. TTL lap chính là Anh ngữ to lap, liếm. .Lớn lao TTL lao chính là Anh ngữ loud, lớn, to: loud speaker là máy phóng thanh, loud mouth là to mồm, lao xao chính là Anh ngữ loud sound. .Mù mịt, mờ mịt TTL mịt chính là Anh ngữ mist, sa mù… .Tắm táp TTL táp chính là Anh ngữ tap, vòi nước, liên hệ với tub, bồn tắm. . . . . . . .Việt và Pháp ngữ .Béo bở TTL bở ở đây không phải là bở có nghĩa là dễ rời ra mà chính là Pháp ngữ beurre. Bơ là một chất béo nên láy với béo. Bơ chính là Việt ngữ bồ có nghĩa là chất béo như thấy trong các từ đôi bồ hòn, bồ hôi, bồ hóng, bồ kết… Theo b=m, ta có bồ hôi = mồ hôi, bồ hóng = mồ hóng… mồ chính là mỡ. Bồ hòn là “hòn bơ”, “hòn mỡ”, quả bơ, quả mỡ, thứ quả dùng làm xà phòng, Pháp ngữ gọi cây bồ hòn là ‘savonier’, Anh ngữ là ‘soapberry tree’; bồ hôi, mồ hôi do tuyến nhờn như dầu mỡ ở da tiết ra (có người có mồ hôi dầu) chính là ‘bơ hôi’, ‘mỡ hôi’(chất nhờn như dầu mỡ ở da ra ngoài khí trời bị oxýt hóa thành oi, hoi, hôi); bồ hóng, mồ hóng là chất như dầu đen do khói đọng lại; bồ kết là quả ‘kết’ bơ, mỡ, dầu dùng gội đầu. .Mỏng manh TTL manh chính là Pháp ngữ mince, mỏng (mince lame: lưỡi dao cạo). .Lỏng le lỏng lét TTL le là cổ ngữ Việt có nghĩa là nước như chim le le là chim nước; chua lè là chua chẩy ra nước, chua chẩy ra nước dãi và chua vãi đái ra quần (chua làm rùng mình, làm tăng áp suất trong bọng tiểu khiến vãi đái ra quần). TTL le chính là Pháp ngữ lait, sữa, một thứ nước con người uống khi chào đời. TTL lét chính là Tây Ban Nha ngữ leche, sữa. . . . . . . .Việt và Tây Ban Nha ngữ .Mặn mà TTL mà liên hệ với Tây Ban Nha ngữ mare, biển. Mặn liên hệ với biển, với muối. .Mỡ màng TTL màng ở đây không phải là lớp che, phủ, lớp màng mà chính là Tây Ban Nha ngữ mantequilla, bơ, Bồ ngữ manteiga, bơ, liên hệ với Pháp ngữ moelle (phát âm là ‘moan’), Anh ngữmarrow, tủy (tủy có rất nhiều mỡ). .Nhí nha nhí nhảnh Nhí là nhỏ (kép nhí); nhí nha chính là Tây Ban Nha ngữ niña, bé gái. Nhi nha nhi nhô chính là niña, niño, bé gái, bé trai. . . . . . . .Việt và Tiền cổ-Ấn Âu ngữ (Proto-Indo-European language, PIE) .Tối tăm TTL tăm chính là gốc tái tạo PIE *tem/*tam/*tm, dark, darkness, tối (Bombard, A.R. p.207, No 51). .Cong cớn TTL cớn chính là gốc tái tạo PIE *ker-/*k’or-/*k’r, to twist, vặn, to turn, bẻ quẹo, to bend, uốn cong… .Mạnh mẽ TTL mẽ cũng có nghĩa là mạnh, non, trẻ, bé. Theo m=b, mẻ = bé. Mẽ liên hệ với PIE *mag{h}- (h nhỏ và cao), ‘young’, bé, trẻ, non. . . . . . . . -Việt và Phạn Ngữ .Ướt át TTL át chính là Phạn ngữ ak, aka, nước, addrà, ướt. .Bụi bặm, bụi bậm TTL bặm, bậm chính là Phạn ngữ pâmsu (m có dấu ngã), pâmçu (m có dấu ngã), bụi. Rõ ràng pâm- = bậm. .Đau đớn TTL đớn chính là Phạn ngữ du, duna, ‘suffering’, ‘pain’, ta thấy du là đau, dun là đớn. . . . . . . -Việt và Á-Phi ngữ .Nói năng TTL năng biến âm với rằng, dằng, như nói rằng, “Rằng nghe nổi tiếng cầm đài” (Nguyễn Du, Kiều), liên hệ với gốc tái tạo Proto-AfroAiatic *yan-/*yen- (e ngược), ‘to say’, nói. .Rạng rỡ, rực rỡ TTL rỡ có nghĩa là rõ, rạng, sáng, tỏ, đỏ liên hệ với Ai Cập ngữ Ra, Re, thần mặt trời. .Tối tăm TTL tăm liên hệ với Ai Cập ngữ tms: to hide, che, dấu, kín hàm nghĩa tối tăm. . . . . . . -Việt và Mỹ châu ngữ (Amerind) .Lạnh tanh TTL tanh liên hệ với tộc Almosan-Keresiouan, Algic: gốc tái tạo Tiền cổ-Alongquian *tahk, mát. .Máu me, máu mê TTL me, mê liên hệ với Macro-Panoan, tộc Lenga eme; Proto-Panoan *imi; Proto-Tacanan * ami là máu (dĩ nhiên liên hệ với cả gốc Hy Lạp ema-, hemo-, hema- là máu như anemia, thiếu máu, hematemesis, mửa ra máu). .Thuộc làu, thông suốt làu làu. TTL làu là biết, hiểu liên hệ với tộc Kekchi ngữ nau, know, biết. Ta cũng thấy nau, làu liên hệ với Anh ngữ know. . . . . . . -Việt và Úc châu ngữ .Bù lu bù loa TTL lu, loa liên hệ với Úc châu ngữ .*lu-n/*yu-n (weep, khóc) liên hệ với Việt ngữ lu trong bù lu bù loa, lũ, lụt (liên hệ với nước), lóc (khóc lóc). .Báng bổ TTL bổ có nghĩa là búa, liên hệ với *bu-m hay *bo-m) (hit, đánh; kill, giết) liên hệ với Việt ngữ bổ (đánh giết bằng búa), với báng (húc, giết bằng vật nhọn). .Mần mà mần mò Việt ngữ mần là làm như đi mần, mần việc, mần ăn. Nguyên thủy con người làm bằng hai tay, mần ruột thịt với Pháp ngữ main, bàn tay, Tây Ban Nha ngữ manos, bàn tay, Anh ngữmanual, thuộc về bàn tay… mà, mò ruột thịt với mần. TTL mà, mò liên hệ với gốc động từ ma-, ma-n (to do, make) của tộc thổ dân Úc Mangarayi. . Đứng đắn TLL đắn liên hệ với DHa-n (to stand), đứng. . . . . . . Tóm lại TTL trong tiếng láy của Việt ngữ đều có nghĩa, có thể còn giữ nguyên nghĩa của từ gốc, từ mẹ mà nó láy hay đã láy đi, lai đi, lái đi. TTL có thể là một từ cổ Việt mà ngày nay ta còn nhận ra và biết nghĩa hay còn bị chôn vùi ở đâu đó hoặc là một từ của một ngôn ngữ loài người nhất là ở những chi ngôn ngữ ruột thịt với Việt ngữ. Qua sự kiện TTL có mặt trong tất cả ngôn ngữ loài người cho thấy tiếng Việt là một ngôn ngữ tối cổ hay liên hệ với một ngôn ngữ tối cổ, nằm ngay gốc của cây ngôn ngữ loài người. Ta có thể dùng từ láy trong công cuộc truy tìm nguồn gốc ngôn ngữ loài người (xem Việt Ngữ và Nguồn Gốc Ngôn Ngữ Loài Người). Tôi dựa vào khám phá này để mò tìm nguồn gốc nghĩa ngữ của cổ ngữ Việt và ngôn ngữ loài người, tìm sự liên hệ giữa Việt ngữ và ngôn ngữ loài người, để học ngôn ngữ loài người một cách cặn kẽ, dễ hiểu và dễ nhớ, dùng Việt ngữ giải thích ngôn ngữ loài người và ngược lại…
  7. Lúc đảo chính Diệm Nhu thì tòa nhà này chưa xây xong longphi ơi! Những lam như thế này trong PT gọi là "lòi (giơ) xương". Thân mến.
  8. 2 người này mạng ko xung theo Lạc Thư Hoa Giáp, vợ mạng Hỏa sinh chồng mạng Thổ. Sinh con năm Quý Tỵ 2013, Kỷ Hợi 2019 sinh con út!
  9. Yêu nhau cứ lấy! Quan trọng là năm sinh con!
  10. Đệ tử đi 1 vòng và chụp từ hồi trước Tết, nhưng hơi lười nên chưa post lên, để đệ tử tìm lại rồi đưa vào lớp học cho ACE mổ xẻ!
  11. Tấm ảnh này hay hay nè nah :D
  12. Trước giờ Giang hồ hay đồn rằng Thế Giới sợ nhất VN vì VN "nói 1 đường, làm 1 nẻo". Bây giờ thì Trung Quốc cũng vậy .
  13. Có 1 sai lầm về PT trong phòng làm việc của ông NVT, đó là để 1 bức tranh vẽ cảnh biển đằng sau ghế ngôi, đó là cảnh quê hương của ông (sẽ bổ sung hình sau), bức tranh này vẫn còn trưng bày ở Dinh Độc Lập.
  14. Thật ra Thiên Đồng nên nói là "Vạn Lý Độc Hành" cho giống Điền Bá Quang, và đi rồi chỉ gặp ni cô thôi chứ ko có gặp Phong Thanh Dương đâu
  15. Nhà anh/chị nên sinh con năm Quý Tỵ 2013. Thân mến.
  16. Úi cứ hù em út ko hà
  17. tức là chỉ có 2 năm trên thôi đó!
  18. Có >10' thôi sao, bèo vậy ?
  19. Vậy thì khi nào mình chết đây nhỉ
  20. Chồng chiều vợ quá nên vợ hay vì thế mà lấn lướt chồng. "Cơm sôi bớt lửa", nếu biết nhường nhịn nhau thì sẽ ko có gì là ko giải quyyết được. Nhà này có thể phòng ngủ bị bế khí. Riêng con gái sinh năm Canh Dần mạng Mộc bị mẹ khắc, sức khỏe cũng èo uộc. Nen sinh thêm 1 bé năm Giáp Ngọ 2014 hoặc Bính Thân 2016 thì sẽ ổn. Thân mến.
  21. Ở HN thì xa quá rồi, nếu ở TP.HCM thì có thể giúp anh theo kiểu khác. Riêng việc bỏ con là ko thể chấp nhận. Và vì vong linh cháu bé vẫn sẽ đi theo mẹ nên sau này khó mà đoán được. Nhớ thờ cúng cho tử tế. Thân mến.
  22. Sinh Nhâm Thìn 2012 mạng mẹ Thủy khắc con mạng Hỏa, tính theo Lạc Thư Hoa Giáp, ko tính theo sách Tàu, đây là điều phải tránh theo Luận Tuổi Lạc Việt. Nếu sinh con Nhâm Thìn thì tiền thuốc nhiều hơn tiền ăn, nhiêu đó thôi thì nhà cũng đã mệt rồi, nói gì tới chuyện yên tâm công tác. NĂm tốt nhất để sinh Canh Dần thì đã qua lâu rồi, năm Giáp Ngọ có tiêu chí mạng con hợp mẹ (Kim- Thủy) Giáp Ất so với cha hài hòa nên có thể sinh được. Còn xa hơn nữa thì nên chọn Đinh Dậu 2017. Thân mến.
  23. Dần Thân Tị Hợi có 2 cặp xung và 2 cặp hợp. Dần Xung thân, Tỵ xung Hợi, Dần Hợi nhị hợp, Thân tỵ nhị hợp. Hảy bỏ cái quan niệm tứ hành xung cổ lổ sĩ ra khỏi đầu đi. Trong sinh có khắc, trong khắc có sinh, đó là lẽ thường tình. Chẳng có gì đáng lo cả. Chúng tôi tư vấn tức là đã tính đến tất cả các tương tác rồi. Nếu thật sự ko tốt thì chúng tôi ko tứ vấn cho gia đình bạn đâu nhé. Màu son tường cũng chỉ là 1 yếu tố nhỏ, rất nhỏ mà thôi, nhưng có thể khuyên bạn thế này, ko nên sơn tường màu tối, sẫm, nên dùng màu sáng, sắc sáng cho căn nhà khang trang. Có thể sơn màu xanh vert, màu hồng nhạt hoặc dương nhạt. Thân mến.
  24. Tử Vi Lạc Việt hiệu chỉnh lại 1 số điểm so với Tử Vi truyền thống. Việt đổi mạng Thủy thành Hỏa, Hỏa thành Thủy đã được chứng minh tính hợp lý và logic trong sách "Thời Hùng Vường và bí ẩn Lục Thập Hoa GIáp" và sách "Tìm về cội nguồn Kinh Dịch", xác định học thuyết Âm Dương Ngũ Hành là của dân tộc Việt, bị Hán hóa trong quá trình xâm lăng, tuy nhiên, phần bị cướp đi có sai lệch và thầy Nguyễn Vũ Tuấn Anh chỉnh sửa lại. Anh có thể tìm đọc các tác phẩm trên để hiểu rõ hơn. Thân mến.
  25. Anh nên kiếm bài nào đã được dịch bởi NGƯỜI hoặc là anh chỉnh sửa lại theo phong văn tiếng Việt thì mọi người sẽ dễ hiểu hơn, đọc bản dịch tự động này thì đúng là "cắn lưỡi".