Hạt gạo làng

Hội viên
  • Số nội dung

    2.834
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    23

Everything posted by Hạt gạo làng

  1. - Tuổi Canh Thân mà xây nhà trong ba năm Dần - Mão - Thìn là bị phạm tam tai. nên mượn tuổi xây nhà. - Nhà hướng Đông Bắc kỵ xây nhà trong năm Canh Dần Thân mến
  2. Bạn có thấy là người Nhật có cường độ lao động cực kỳ lớn không? Mức độ stress của họ cũng rất lớn Thân mến
  3. Chúc mừng sư phụ Thiên Sứ!!! Việt Nam trên đường chúng ta đi Nghe gió thổi đồng xanh quê ta đó Nghe sóng biển ầm vang xa tận tới chân trời Nghe ấm lòng những khi đang dồn bước Mà vui sao ta chẳng nói nên lời
  4. - Thực ra, tư vấn như thế này rất khó. ít nhất cũng phải có độ của hướng nhà chính xác mới tư vấn được, chứ cửa hướng Tây Bắc lệch Tây nhiều thì nó là Tây hay là Tây Bắc đây. mà nếu là Tây thì đã khác với Tây Bắc rồi. - Mua một cái la bàn về đo đường vuông góc với cửa chính hướng ra ngoài xem được bao nhiều độ. - Vẽ lên giấy tỷ lê chính xác của ngôi nhà, cách bố trí trong nhà rồi ra ngoài tiệm internet scan nó, sau đó lưu vào USB. lên Photobucket.com và upload cái hình đó lên là được. - Nhà bạn có 4 hướng tốt là: Tây Bắc - Tây - Đông Bắc - Đông Nam. Nếu bếp đặt theo hướng Bắc - Nam là rơi vào hướng xấu rồi. - Tránh bếp đối diện với cửa, bếp đốt vào nhà. - Ống nước nằm dưới bếp mà ở dưới nền nhà cũng không sao đâu mà, nếu cảm thấy không yên tâm thì đặt một chậu cây giả nhỏ nằm giữa bếp và ống nước là được. Thân mến
  5. - Phải có sơ đồ nhà mới xem chuẩn được. bếp hướng Đông Nam, cửa hướng Tây Bắc là bếp đốt vào trong nhà, cực kỳ không tốt. - Ống nước bên dưới mà không nằm ngay dưới bếp và nằm sát tường thì không sao. - phần tô màu ở trên không hiểu. Có phải nhà có cửa sau không? Cửa sổ nhà sau hướng Bắc là sao? Thân mến
  6. Xin lỗi nhé, hôm qua trả lời hơi vội nên viết nhầm. Ất Mùi thì mới đúng. Còn nếu đợi đến năm Tân Sửu như chú Thiên Sứ nói thì cực kỳ tốt. Thân mến
  7. đứa đầu sinh năm Canh Dần hoặc Tân Mão. Đứa thứ 2 sinh năm Ất Sửu Thân mến
  8. ở càng sát đất càng tốt, tức để ở tầng 1 là tốt nhất thân mến
  9. http://www.lyhocdongphuong.org.vn/News/03/...-phan-1/70/197/ anh VULONG có thể tham khảo ở đường link trên. Thân mến Chào anh Phong Thủy Sinh anh có thể nói sơ qua về phương pháp lập Thiên Tâm không? Cái này có phải là dùng Huyền không Đại Quái hay Huyền Không Lục pháp không? Thân mến
  10. - xem tên thì hiện tại tôi chưa thể giúp được bạn. - Đèn màu đỏ hoặc vàng đặt ở nhà bạn thôi. Thân mến
  11. Một bên là thuần dương, tức là cả gia đình đều sinh năm dương nên khó sinh. Một bên là âm duơng điều hòa nên phát triển tốt Thân mến
  12. CHÚC MỪNG SINH NHẬT EM ARTEMISIA CHÚC EM LUÔN YÊU ĐỜI, HẠNH PHÚC VÀ THÀNH CÔNG TRONG CUỘC SỐNG
  13. Thử tìm lại biên giới cổ của việt-nam: bằng cổ sử, bằng triết học, bằng di tích và hệ thống adn Bác-sĩ Trần Ðại-Sỹ. Giám đốc Trung-quốc sự vụ, viện Pháp-á Chúng tôi xin giới thiệu với độc giả Việt-Nam bài diễn văn của Giáo-sư Trần Đại-Sỹ đọc trong dịp khai giảng niên khóa 1991-1992 tại Viện Pháp-Á (Institut Franco-Asiatique viết tắt là IFA). Nguyên văn bằng tiếng Pháp, đây là bản dịch tiếng Việt của Tăng Hồng Minh. Trong dịp khai giảng niên học này, IFA đã mời một số đông các học giả, trí thức và ký giả tham dự. Sau bài diễn văn, có cuộc trao đổi rất thú vị. Xin nhắc lại, trong khoảng thời gian 1977-1992, tác giả làm việc cho Liên-hiệp các viện bào chế châu Âu (Coopérative Européenne Pharmaçeutique, viết tắt là CEP) và Ủy-ban trao đổi y học Pháp-Hoa (Commité Médical Franco-Chinois viết tắt là CMFC), nên đã được các đồng nghiệp giúp đỡ, dùng hệ thống ADN để tìm lại nguồn gốc dân tộc Việt-Nam. Chính với công trình nghiên cứu của tác giả trong thời gian 1977-1991, dùng hệ thống ADN phân biệt dân-tộc Trung-hoa, dân tộc Việt-Nam...đã kết thúc cuộc tranh cãi 90 năm qua biên giới cổ của Việt–Nam. Kết luận về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam bằng khoa ADN đi ngược lại với tất cả các thuyết từ trước đến giờ. Các thuyết này khẳng định người Việt do người Hoa di cư xuống để trốn lạnh, để tỵ nạn v.v. Nhưng ADN cho biết chính người ở vùng Đông Nam Á đã đi lên phương Bắc thành người Hoa. Sau khi bài diễn văn này phổ biến (1991), có một số "học giả" vì không theo kịp đà tiến hóa của khoa học, đã lên tiếng chỉ trích chúng tôi. Biết rằng họ dốt nát quá, muốn giải thích cho họ, họ phải có một trình độ nào đó... vì vậy chúng tôi không trả lời. Phần nghiên cứu của chúng tôi quá dài, quá chuyên môn. Độc giả muốn tìm hiểu thêm có thể đọc công trình nghiên cứu dưới đây: J.Y.CHU, cùng 13 nhà bác học Trung-quốc cũng nghiên cứu Di-truyền học ADN (DNA), công bố năm 1998: The Nation Academy of Sciences, USA, Vol.95 issue 20, ngày 29 tháng 7 năm 1998. Tài liệu khẳng định rằng nguồn gốc người Trung-hoa, Đông Á, do người Đông-Nam-á đi lên, chứ không phải do người Trung-hoa di cư xuống. ALBERTO-PIAZZA (đại học Torino, Ý): Human Evolution: Towards a genetic history of China, Proc.of Natl. Acad. Sci, USA, Vol 395, No 6707-1998. LI YIN, Distribution of halotypes from a chrosmosomes 21 Region - distinguishes multiple prehistotic human migrations - Proc.of Natl. Acad. Sci - USA, Vol.96 , 1999. Về bài diễn văn này, từ năm 1991, có rất nhiều bản dịch sang nhiều thứ tiếng, đăng trên nhiều báo khác nhau. Mỗi dịch giả lại tự ý lược đi, đôi khi cắt mất nhiều đoạn. Nay chúng tôi xin dịch nguyên bản, đầy đủ. Vì vậy độc giả thấy có nhiều đoạn quá chuyên môn, xin lướt qua. Trong khi diễn giả trình bầy, ông có ngắt ra nhiều đoạn, để thính giả thảo luận. Các bài trích đăng trước không ghi phần này. Để độc giả dễ theo dõi, cô Tăng Hồng Minh (THM) ghi chép, chú giải đặt ngay dưới đoạn liên hệ, thay vì ghi ở cuối bài. Khi xuất bản lần thứ nhất², bộ Anh-hùng Bắc-cương của giáo-sư Trần, chúng tôi có cho trích một phần bài này in vào cuối quyển 4. Nay chúng tôi công bố toàn bộ tài liệu, lấy làm tài liệu chính thức và phủ nhận tất cả những bản do nhiều nơi phổ biến trước đây. Paris ngày 10-10-2001 Sở tu thư, viện Pháp-Á Kính thưa ông Viện-trưởng, Kính thưa quý đồng nghiệp, Kính thưa quý vị quan khách. Các bạn sinh viên rất thân mến, Tôi không phải là nhà sử học, cũng không phải là nhà khảo cổ, hay nhà chủng tộc học. Tôi chỉ là một thầy thuốc. Nhưng những may mắn đến tiếp diễn trong suốt cuộc đời, vô tình đã đưa tôi đến đây trình bày cùng quý vị về nguồn gốc, biên giới cổ của tộc Việt. Ở cuối giảng đường này tôi thấy có nhiều bạn trẻ bật cười. Tôi biết bạn bật cười vì đa số người ta đều than đời bất hạnh, toàn rủi ro. Còn tôi, tôi lại nói rằng suốt cuộc đời toàn may mắn. Tôi có thể nói thực với Quý-vị rằng, về phương diện nghiên cứu học hành, suốt đời tôi, tôi có cảm tưởng tổ tiên đã trải thảm cho tôi đi trên con đường vô tận đầy hoa. Nếu bạn chịu khó đọc bộ Sexologie médicale chinoise của tôi, phần bài tựa tôi có viết: "Trong lịch sử cổ kim nhân loại, nếu có người may mắn về phương diện nghiên cứu học hành, tôi đứng đầu. Nhưng nếu có người bất hạnh nhất trong tình trường tôi cũng đứng đầu". Hôm nay tôi trình bày với Quý-vị về công cuộc đi tìm biên giới cổ của nước Việt-Nam và nguồn gốc tộc Việt, Quý-vị sẽ thấy tôi may mắn biết chừng nào, và Quý-vị sẽ thấy tộc Việt chúng tôi anh hùng biết bao. Nhưng gần đây, vì chiến tranh tiếp diễn trong hơn 30 năm, khiến cho đất nước chúng tôi điêu-tàn, và... hiện nước tôi là một trong bốn nước nghèo nhất trên thế giới. I. SƠ TẦM VỀ TỘC VIỆT Năm lên năm, tôi học chữ Nho, một loại chữ của Trung-quốc, nhưng dùng chung cho hầu hết các nước vùng Á-châu Thái-bình dương (ACTBD). Thầy khai tâm của tôi là ông ngoại tôi. Ông tôi là một đại thần của triều đình Ðại-Nam (tức Việt-Nam). Chế độ phong kiến của nước tôi đã chấm dứt từ năm 1945, hiện (1991) vị Hoàng-đế cuối cùng của Ðại-Nam là Bảo Ðại. Ngài vẫn còn sống ở quận 16 Paris. Năm lên sáu tuổi, tôi được học tại trường tiểu học do chính phủ Pháp mở tại Việt-Nam. Thời gian 1943-1944 rất ít gia đình Việt-Nam còn cho con học chữ Nho. Bởi đạo Nho cũng như nền cổ học không còn chỗ đứng trong đời sống kinh tế, chính trị nữa. Thú thực tôi cũng không thích học chữ Nho bằng chơi bi, đánh đáo. Nhưng vì muốn làm vui lòng ông tôi mà tôi học. Hơn nữa học chữ Nho, tôi có một kho tàng văn hóa vĩ đại để đọc, để thỏa mãn trí thức của tuổi thơ. Thành ra tôi học rất chuyên cần. Các bạn hiện diện nơi đây không ít thì nhiều cũng đã học chữ Nho đều biết rằng chữ này học khó như thế nào. Nhưng tôi chỉ mất có ba tháng đã thuộc làu bộ Tam tự kinh, sáu tháng để thuộc bộ Ấu-học ngũ ngôn thi. Năm bẩy tuổi tôi được học sử, và năm chín tuổi bị nhét vào đầu bộ Ðại-học. Chương trình giáo dục cổ bắt học sinh học hai loại sử. Bắc-sử tức sử Trung-quốc. Nam sử tức sử của Việt-Nam. Tôi được học Nam sử bằng chữ Nho, đồng thời với những bài sử khai tâm bằng chữ Quốc ngữ vào năm bảy tuổi. Thời điểm bấy giờ bắt đầu có những bộ sử viết bằng chữ Quốc ngữ, rất giản lược, để dạy học sinh; không bằng một phần trăm những gì tôi học ở nhà. Thầy giáo ở trường Pháp biết tôi là cái kho vô tận về sử Hoa-Việt, nên thường bảo tôi kể cho các bạn đồng lớp về anh hùng nước tôi. Chính vì vậy tôi phải lần mò đọc những bộ sử lớn viết bằng chữ Hán như: * Ðại-Việt sử ký toàn thư (ÐVSKTT), * An-Nam chí lược (ANCL), * Ðại-Việt thông-sử (ÐVTS), * Khâm-định Việt sử thông giám cương mục (KÐVSTGCM), * Ðại-Nam nhất thống chí (ÐNNTC). Ðại cương mỗi bộ sử đều chép rất giản lược về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam sau: « Vua Minh cháu bốn đời vua Thần-Nông, nhân đi tuần thú phương nam, đến núi Ngũ-lĩnh, kết hôn với một nàng tiên hạ sinh một con trai tên Lộc-Tục. Vua lập đài, tế cáo trời đất, phong cho con trưởng làm vua phương Bắc, tức vua Nghi, phong con thứ là Lộc-Tục làm vua phương Nam. Ngài dạy hai thái tử rằng: « Nghi làm vua phương Bắc, Tục làm vua phương Nam, lấy núi Ngũ-lĩnh làm cương giới. Hai người làm vua hai nước nhưng vốn cùng gốc ở ta, phải lấy điều hiếu hoà mà ở với nhau. Tuyệt đối Nam không xâm Bắc, Bắc chẳng chiếm Nam. Kẻ nào trái lời, sẽ bị tuyệt tử, tuyệt tôn ». Xét triều đại Thần-Nông, khởi từ năm 3118 trước Tây lịch, đến đây thì chia làm hai: 1. Thần-Nông Bắc. * Vua Nghi (2889-2884 trước Tây lịch) * Vua Lai (2843-2794 trước Tây lịch) * Vua Ly (2795-2751 trưước Tây-lịch) * Vua Du-Võng (2752-2696 trước Tây-lịch). Ðến đây triều đại Thần-Nông Bắc chấm dứt, đổi sang triều đại Hoàng-đế từ năm giáp Tý (2697 trước Tây-lịch). Các nhà chép sử Trung-quốc lấy thời đại Hoàng-đế làm kỷ nguyên. Trong bộ Sử-ký, Tư-mã Thiên khởi chép quyển một là Ngũ-đế bản kỷ, coi Hoàng-đế là Quốc-tổ Trung-quốc, không chép về thời đại Thần-Nông. 2. Triều đại Thần-Nông Nam. Thái-tử Lộc-Tục lên làm vua năm Nhâm-Tuất (2879 trước Tây-lịch) hiệu là Kinh-Dương, lúc mười tuổi. Sau người Việt lấy năm này làm kỷ nguyên lập quốc. Nếu cộng chung cho đến nay (1991) là 4870 năm, vì vậy người Việt tự hào rằng đã có năm nghìn năm văn hiến. (1) [Nội dung bài diễn văn hôm nay, tôi chỉ bàn đến diễn biến chính trị, lịch sử, văn hóa, địa lý của dân tộc -Trung-hoa, và dân tộc Việt-Nam trong khoảng thời gian 4870 năm từ năm 2879 trước Tây-lịch cho đến năm nay 1991. Còn như đi xa hơn về những thời tiền cổ, thời đồ đá, đồ đồng, đồ sắt, quá phức tạp, quá dài, tôi không luận đến ở đây.] Xét về cương giới cổ sử chép: « Thái-tử Lộc-Tục lên ngôi lấy hiệu là Kinh-Dương (2), đặt tên nước là Xích-quỷ, đóng đô ở Phong-châu nay thuộc Sơn-Tây. Vua Kinh-Dương lấy con gái vua Động-đình là Long-nữõ đẻ ra Thái-tử Sùng-Lãm. Thái-tử Sùng-Lãm lại kết hôn với công chúa Âu-Cơ con vua Đế-Lai (3). Khi vua Kinh-Dương băng hà thái-tử Sùng-Lãm lên nối ngôi vua, tức vua Lạc-Long, đổi tên nước là Văn-Lang. Nước Văn-Lang Bắc tới hồ Động-đình, Nam giáp nước Hồ-tôn, tây giáp Ba-thục, đông giáp biển Đông-hải.) Cổ sử đến đây, không có gì nghi ngờ, nhưng tiếp theo lại chép: « Vua Lạc-Long lấy công chúa Âu-Cơ sinh ra một bọc trăm trứng nở ra trăm con. Ngài truyền cho các hoàng tử đi bốn phương lập ấp, tổ chức cai trị giáo hóa dân chúng. Mỗi vị lập một ấp theo lối cha truyền con nối. * Hoàng-tử thứ nhất tới thứ mười lập ra vùng hồ Ðộng-đình. (Nay là Hồ-Nam, Quý-châu, Trung-quốc.) * Hoàng-tử thứ mười một tới thứ hai mươi lập ra vùng Tượng-quận. (Nay là Vân-Nam và một phần Quảng-Tây, Tứ-xuyên thuộc Trung-quốc.) * Hoàng-tử thứ ba mươi mốt tới bốn mươi lập ra vùng Chiêm-thành. (Nay thuộc Việt-Nam, từ Thanh-hóa đến Ðồng-nai.) * Hoàng-tử thứ bốn mươi mốt tới năm mươi lập ra vùng Lão-qua. (Nay là nước Lào và một phần Bắc Thái-lan.) * Hoàng-tử thứ năm mươi mốt tới sáu mươi lập ra vùng Nam-hải. (Nay là Quảng-đông, và một phần Phúc-kiến, Trung-quốc.) * Hoàng-tử thứ sáu mươi mốt tới bảy mươi lập ra vùng Quế-lâm. (Nay thuộc Quảng-tây, Trung-quốc.) * Hoàng-tử thứ bảy mươi mốt tới tám mươi lập ra vùng Nhật-nam. (Nay thuộc Việt-Nam từ Nghệ-an tới Quảng-bình.) * Hoàng-tử thứ tám mươi mốt tới chín mươi lập ra vùng Cửu-chân. (Nay thuộc Việt-Nam từ Ninh-bình tới Thanh-hóa, Nghệ-an, Hà-tĩnh.) * Hoàng tử thứ chín mươi mốt tới một trăm lập ra vùng Giao-chỉ. (Nay là Bắc Việt-Nam và một phần tỉnh Quảng-tây, Vân-Nam thuộc Trung-quốc.) Ngài hẹn rằng: Mỗi năm các hoàng-tử phải về cánh đồng Tương vào ngày Tết, để chầu hầu phụ mẫu ». Một huyền sử khác lại thuật: Vua Lạc-Long nói với Âu-Cơ rằng: « Ta là Rồng, nàng là loài Tiên ở với nhau lâu không được. Nay ta đem năm mươi con xuống nước, nàng đem năm mươi con lên rừng. Mỗi năm gặp nhau tại cánh đồng Tương một lần » Các sử gia người Việt lấy năm vua Kinh-Dương lên làm vua là năm Nhâm-tuất (2879 trước Tây-lịch), nhưng không tôn vua Kinh-Dương với Công-chúa con vua Ðộng-đình làm Quốc-tổ, Quốc-mẫu, mà lại tôn vua Lạc-Long làm Quốc-tổ và Công-chúa Âu-Cơ làm Quốc-mẫu. Cho đến nay Quý-vị hỏi trăm người Việt ở hải ngoại rằng tổ là ai, họ đều tự hào: « Chúng tôi là con Rồng, cháu Tiên. Quốc-tổ tên Lạc-Long, Quốc-mẫu tên Âu-Cơ ». Chủ đạo của tộc Việt bắt nguồn từ niềm tin này. Ghi chú của Tăng Hồng Minh, Ký giả chuyên về Văn-minh Ðông-á Jean Marc Decourtenet hỏi về đoạn này như sau: "Thưa Giáo-sư, hiện Việt-Nam là nước theo chế độ Cộng-sản, liệu người Việt trong nước họ có cùng một niềm tin như người Việt hồi 1945 về trước cũng như người Việt hải ngoại hay không?" Trả lời: "Những nhà lãnh đạo đảng Cộng-sản Việt-Nam suốt từ năm 1930 đến giờ, không một người nào muốn dùng triết lý Marxisme, Léninisme để xóa bỏ niềm tin con Rồng cháu Tiên. Trái lại họ còn dùng niềm tin này để quy phục nhân tâm. Vì niềm tin này đã ăn sâu vào tâm não người Việt. Những người lãnh đạo chính trị Việt cả hai miền Nam-Bắc trong thời gian nội chiến 1945-1975 cũng không ai dám, không ai muốn, không ai đủ khả năng xóa bỏ niềm tin này. Người Việt có niềm tin vào Chủ-đạo của mình. Họ xây đền thờ các vua Hùng ở Phú-thọ dường như đã hơn nghìn năm. Hằng năm cứ đến ngày 10 tháng 3 âm lịch là người người đều tụ tập về đây để tưởng nhớ công ơn các vua Hùng đã dựng nước. Trong thời gian chiến tranh (1945-1975) vì tình hình an ninh di chuyển khó khăn, vì tình hình kinh tế không cho phép, số người hành hương có giảm thiểu. Nhưng từ sau 1987, số người hành hương tăng vọt. Ngay ở ngoại quốc, người Việt lưu lạc khắp nơi, nhưng hằng năm đến ngày 10 tháng 3, lịch Á-châu, nơi nào họ cũng tổ chức giỗ tổ rất thành kính. Kết quả là dù ở trong nước hay ngoại quốc, hiện người Việt vẫn cùng một niềm tin như nhau." Ghi của Tăng Hồng Minh dành cho người Việt: Theo sự tìm hiểu của Tăng Hồng Minh tôi, các lãnh tụ của đảng Cộng-sản Việt-Nam, đã viếng đền Hùng là: · Chủ-tịch Hồ Chí Minh, ngày 19-9-1954. 19-8-1962. · Tổng bí thư Lê Duẩn, 5-5-1977. · Chủ tịch nhà nước Trường Chinh 6-2-1959. 5-2-1978. · Thủ tướng Phạm Văn Đồng 6-2-1969. 27-8-1978. · Tổng bí thư Đỗ Mười 27-4-1993. nguồn: AnViettoancau.net
  14. phải đo được độ của hướng nhà, vẽ sơ đồ căn nhà thì mới có thể tư vấn được. thân mến
  15. Nhà này mà sinh con năm Nhâm Thìn thì tốt. Năm nay sinh con rất nên cẩn thận cho sức khỏe của mẹ và thai nhi. Sinh đứa con năm nay rồi nên sinh một đứa nữa năm Nhâm Thìn hoặc Quý Tỵ Thân mến
  16. Ngồi theo trục Bắc - Nam tức là ngồi dựa lưng quay hướng Bắc, mặt nhìn về hướng Nam hoặc ngược lại Thân mến
  17. - Chúng tôi chỉ xét tương quan của gia đình, từ đó suy xét đến vấn đề quan hệ gia đình chứ không xét đến thiên chúa giáng sinh. Thường vào những năm mà dân gian gọi là thiên chúa giáng sinh, như năm 33 tuỏi âm của người nữ được mẹ sinh cho con hoàn toàn nên khi mẹ có bầu thì do tính sinh xuất nên mẹ yếu. khi đó cần phải rất chú ý đến sức khỏe của người mẹ để tránh những nguy hiểm khi người mẹ sinh con. - Còn bất kể đứa con nào sinh ra, dù khắc bố mẹ hay bị bố mẹ khắc làm cho nhà về mặt kinh tế không được tốt thì nên coi như cái duyên, cái nghiệp của mình còn nặng, chứ đừng đổ tội cho những đứa con. Những đứa con do mình sinh ra, do mình quyết định, bản thân con cái nó chẳng có tội tình gì cả. thân mến
  18. Tiểu Đồng ạ Tớ nói với cậu nhé, cậu lấy quẻ khá chuẩn đấy nhưng lại sai cơ bản. cậu xem lại hai nick hỏi đi. hai nick đó khác nhau đây :lol: :lol: Thân mến
  19. đứa đầu Canh Dần cũng được. Đứa thứ 2 năm Bính Thân tốt hơn Giáp Ngọ. thân mến
  20. - Nên vẽ sơ đồ nhà thì mới tư vấn được. Đo hướng cửa chính. - Nhà trước cao sau thấp thì là xấu. Nhà bạn ở trong thành thị hay ở vùng nông thôn? Thân mến
  21. có 4 hướng tốt: Bắc - Nam - Đông - Tây Nam. trong đó ngồi theo trục Bắc Nam là tốt nhất. Thân mến
  22. treo gương gì, treo guong phải rất cẩn thận. Muốn biết gương treo tốt hay xấu phải biết treo ntn. nên vẽ sơ đồ nhà và vị trí treo gương mới biết được. chụp được ảnh càng tốt Thân mến
  23. Sinh đứa con năm Nhâm Thìn chính là hóa giải đó Thân mến