Kim Cương

Hội viên
  • Số nội dung

    407
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    1

Everything posted by Kim Cương

  1. Vài Nét Về Thượng Tọa Trụ Trì Thích Tuệ Giác (Tự Truyện của Thiền Sinh TRÚC LÂM) Sau đây tôi xin ghi lại những cảm ngộ, những chuyển biến quan trọng trong quá trình công phu tu tập, hay nói đúng hơn đó là sự chuyển hóa nội tâm mà đích thân tôi đã thực nghiệm được qua thời gian tu học, và những giai đoạn nhập thất chuyên tu, lúc còn ở Thường Chiếu cũng như khi ở Thiền Viện Trúc Lâm. I_MAI NỞ VƯỜN XƯA Thưa các bạn, nói về mình quả thật là điều không nên, hay đúng ra đó là điều mọi người không thích. Thế nhưng ở đây chúng tôi muốn trình bày một sự thật, mà sự thật đó do chính bản thân tôi đã thực hành và thể nghiệm qua. Một chứng minh đích thực ở nơi tự thân mình, với kết quả tốt đẹp mà chính tôi cũng không ngở rằng mình có thể thực hiện được điều đó. Điều đã đem đến cho tôi một niềm tin vững chãi thanh tịnh, nguồn phúc lạc vô biên trong niềm vui đạo vị. Ôi Phật Pháp nhiệm màu và cao quí lắm thay! Chúng tôi xin chia sẽ với các bạn nguồn vui chân thật ấy. Chúng ta hãy xem đây như là một chứng tích, một sự kiện lịch sử của đời người đã đem lại niềm tin chân xác, để sách tấn cho nhau trên bước đường tu tập. Kể lại sự kiện này cho những ai còn hoài nghi lưỡng lự, còn do dự ngập ngừng hãy mạnh dạn tiến bước. Bảo sở ở trước mặt, Phật Tổ không bao giờ lừa dối chúng ta. Hãy phá tan lớp mây mờ của mọi sự hoài nghi, sợ hãi. Chúng ta phải gan dạ can đảm, một phen buông sạch hết và đừng tiếc nuối hay bám víu một cái gì cả, hãy hoàn toàn vô tác và bản ngã phải được triệt tiêu. Phải một lần chết đi để muôn đời được sống lại. Hãy buông thỏng hai tay và toàn thân nhẹ nhỏm nhảy thẳng vào vực thẳm không đáy. Và kìa! Trước mắt vườn xuân một đóa hoa Linh Sơn pháp hội diễn bày ra Nụ cười thầm lặng rền như sấm Chấn động ngàn sau nhịp sống hòa. II_MỘT THỜI ÁO TRẮNG Tôi sanh ra đời tại vùng đồng bằng châu thổ sông Cửu Long, thuộc miền tây nam nước Việt Nam , trong một gia đình nông dân nghèo đông con. Ông bà thân sinh (ba má) tôi là người có đạo đức, lại là Phật Tử tại gia, nên sự giáo dục con cái trong gia đình rất nghiêm túc. Thuở còn thơ ấu, chúng tôi đã được cha mẹ dạy dỗ thành người tốt, biết lễ phép, khiêm nhường, sống trên thuận dưới hòa và yêu kính mọi người. Trong nhà có Bà tôi là tu sĩ tại gia, ăn trai trường, tu theo pháp môn Niệm Phật. Bà thân sinh của tôi là người rất mộ đạo, hiền từ. Có lần đi chùa lễ Phật, sám hối vào ngày rằm, bà dắt tôi theo. Trong chùa thờ rất nhiều hình tượng, nhưng không hiểu vì sao tôi chỉ thích lạy duy chỉ có tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi giữa chánh điện. Ở nhà mỗi lần bà thân sinh tôi đọc kinh cho Bà Cố tôi nghe, tôi thường ngồi kế bên. Tuy còn nhỏ không hiểu gì, nhưng tôi rất thích giọng đọc kinh êm dịu của bà. Năm mười hai tuổi, tôi được đọc cuốn sách lịch sử ghi lại cuộc đời của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Tôi rất cảm động và vui sướng đến rơi nước mắt khi biết được đời sống cao thượng, đẹp đẽ và giải thoát của Đức Thế Tôn. Lúc đó tôi phát nguyện trong tâm rằng: “sau này tôi cũng sẽ đi tu, đắc đạo và sống đời sống cao đẹp như đời sống của Đức Phật.” Từ đó, hình ảnh cao thượng của ngài lúc nào cũng ngự trị trong tâm tưởng của tôi. Lớn lên trong đất nước loạn ly, quê hương chìm trong máu lửa. Chiến tranh, súng đạn, chết chóc, sự sanh ly tử biệt và hoàn cảnh khổ chung quanh, đã làm cho tôi sớm ý thức được sự vô thường của cuộc đời. Sau biến cố sôi động năm 1975.... Khi ấy tôi mới học xong lớp tám phổ thông, tôi xin Ông Thân Sinh tôi cho phép tôi được nghỉ học để đi tu nhưng không được người đồng ý. Tuy thế, tâm nguyện, ý chí xuất gia lúc nào cũng thôi thúc và nung nấu trong tôi. Sau khi học xong hết trung học phổ thông, thi tốt nghiệp cấp ba xong, vì hoàn cảnh gia đình khó khăn sau chiến cuộc năm 1975 kết thúc, cả nước đều lâm vào tình trạng nghèo đói... Hơn nữa tôi đã có ý định đi tu nên không tiếp tục thi đại học. Tôi ở nhà làm việc phụ giúp gia đình một thời gian. Lúc bấy giờ tôi có làm quen được nhóm Cư Sĩ bạn đạo. Chúng tôi thường tới lui thăm viếng, học hỏi và trao đổi kinh sách qua lại để nghiên cứu. Những quyển sách tâm đắc hướng dẫn cho tôi biết được pháp môn tu thiền, đi đúng con đường chánh pháp, và chọn được Minh Sư sau này đó là các quyển kinh: Kim Cang Bát Nhã, Bát Nhã Tâm Kinh, Pháp Bửu Đàn Kinh, và Yếu Chỉ Thiền Tông v.v... Năm 1986, tôi quyết định từ giã những người thân trong gia đình, để thực hiện theo chí nguyện xuất gia của mình đã từ lâu ấp ủ mong đợi, cùng với người em chú bác chung chí nguyện là Tuệ Minh bây giờ. Ông Thân Sinh tôi cũng qua đời trước đó vài năm. Thầy Giác T là thầy Bổn Sư truyền Tam Quy, Ngũ Giới và cũng là người hướng dẫn cho tôi đến Thiền Viện Thường Chiếu. Ở đây làm công quả một năm, đến ngày mồng tám tháng mười hai năm một ngàn chín trăm tám mươi sáu, nhân duyên đầy đủ, chúng tôi được Hòa Thượng Tôn Sư làm lễ Thế Phát Xuất Gia và truyền Sa Di Thập Giới. Sau khi được xuất gia, tôi được phân công làm phụ tá Tri Khách hai năm. Sau đó, tôi xin được vào chúng, để được gần gũi sống chung tu học với quí thầy. Từ khi được vào chúng tôi được thầy Trụ Trì (Thích Nhật Quang) phân công làm chuyên viên ruộng ba năm. Năm 1990, chúng tôi được gởi đi thọ giới Cụ Túc (Tỳ Khưu) và Bồ Tát Giới tại giới đàn chùa Long Thiền, Tỉnh Đồng Nai. Năm 1991, Hòa Thượng Tôn Sư vì sức khỏe kém, nghĩ dạy một thời gian, giao việc lại cho quí thầy lớn có trách nhiệm điều hành mọi sinh hoạt tu học của viện, để Ngài được nghỉ ngơi làm người vô sự. Lúc bấy giờ, mười ngôi thiền thất cũng được dựng lên để trong Tăng Chúng quí thầy thay phiên nhau nhập thất, chuyên thực hành công phu thiền tập sau thời gian học hỏi, hiểu rõ đường lối và nắm vững pháp tu. Đầu năm 1992, tôi xin phép nhập thất ba năm được Hòa Thượng đồng ý. Đến tháng 3 năm 1993, Hòa Thượng dạy xả thất theo Ngài lên cao nguyên Đà Lạt để góp công vào công trình xây dựng Thiền Viện Trúc Lâm. Lúc đó tôi cũng vừa đang nhập thất một năm. Vì Hòa Thượng có dạy trước khi vào thất rằng: “Mấy chú xin tôi nhập thất ba năm, nhưng tôi bớt đi một năm, chỉ cho nhập hai năm thôi, và tôi cho hay trước là nếu thủ tục giấy tờ xây dựng Thiền Viện Trúc Lâm được nhà nước chấp thuận, thì chừng đó tôi kêu mấy chú phải ra thất, theo tôi lên Đà Lạt bất cứ lúc nào tôi cần. Bây giờ cứ vào an ổn mà nhập thất.” Sau một năm ráo riết, khẩn trương xây dựng. Bắt đầu làm lễ đặt đá khởi công ngày mồng tám tháng tư năm 1993, cho đến ngày mồng tám tháng hai năm 1994, toàn bộ khu ngoại viên và nội viện Tăng Ni của Thiền Viện Trúc Lâm đã hoàn thành phần căn bản. Lễ khánh thành xong Hòa Thượng bắt đầu cho vào chuyên tu III_SỰ CHUYỂN HÓA NỘI TÂM Sau đây tôi xin ghi lại những cảm ngộ, những chuyển biến quan trọng trong quá trình công phu tu tập, hay nói đúng hơn đó là sự chuyển hóa nội tâm mà đích thân tôi đã thực nghiệm được qua thời gian tu học, và những giai đoạn nhập thất chuyên tu, lúc còn ở Thường Chiếu cũng như khi ở Thiền Viện Trúc Lâm. Thật ra tôi không muốn kể lại làm gì, vì e rằng không khéo nó sẽ trở thành sự khoe khoan lố bịch. Thế nhưng, để làm chứng tích cho bạn đồng hành và những người sau, trên bước đường tu tập, đừng mặc cảm rằng đời mạt pháp tu không kết quả. Vì thế cho nên, tôi xin mạo muội ghi lại đây những dòng chữ này, để làm minh chứng sát thực cho sở hành của thiền giả, trong cuộc hành trình trên đạo lộ hoàn nguyên bổn xứ. Kết quả đó không dành phần riêng cho hạng người nào, dù nam nữ già trẻ, không phân biệt Tăng Ni Đạo Tục hay kẻ trí người ngu, mà cho bất cứ ai. Một khi chúng ta đã vững niềm tin, hiểu đúng đường lối, pháp tu rõ ràng, với sự hướng dẫn cẩn thận của bậc Minh Sư, cộng thêm ý chí nỗ lực và lòng quyết tâm tha thiết, thì lo gì việc tu không thành đạt. Chúng ta cũng đừng quên rằng, cuộc đời tu hành không phải lúc nào cũng xuôi buồm thuận gió, cũng đẹp đẽ vinh quang như ý ta tưởng, mà phải trải qua biết bao chông gai, trắc trở, dù khó khăn gian khổ thế mấy cũng quyết chí vượt qua. Có ý thức được những điều như thế, chúng ta mới không nản lòng chùn bước khi gặp phải nghịch cảnh chướng duyên. Nhìn lại gương sáng của người xưa với ý chí và nghị lực phi thường, xả thân cầu đạo như Tổ Huệ Khả tự chặt đức cánh tay của mình, để thể hiện lòng quyết tâm tha thiết. Như Tổ Huệ Năng vì pháp quên thân, phải đeo đá giã gạo (vì thân gầy ốm không đạp nổi cái chày phải đeo thêm đá), và còn bao nhiêu tấm gương cao thượng khác nữa.... Huống chi chúng ta ngày nay sống trong phương tiện vật chất đầy đủ, chỉ gặp chút ít khó khổ như thân bệnh, hoạc ngồi thiền đau chân, hoặc những thử thách nho nhỏ khác chẳng thắm vào đâu đã vội thối lui bỏ cuộc. Than ôi! Người tu đạo như thế, ngục sanh tử biết chừng nào ra khỏi, biển trầm luân bao kiếp mới thoát thân. Giờ đây, trước khi kể lại những cảm ngộ của mình. Thiền giả xin có đôi lời hoài cảm, tán thán, ca ngợi và tri ân ơn đức của vị Đạo Sư tôn kính, người đã dầy công giáo dưỡng, thắp sáng ngọn đèn chánh pháp và khai mở tuệ nhãn cho tôi. Xưa kia tôi thường mặc cảm và tự nghĩ rằng: Mình là con người tội lỗi, sống trầm luân xa đọa không biết bao đời kiếp, lang thang trong lục đạo luân hồi, đắm mê trong biển khổ sanh tử trầm luân từ vô lượng kiếp, mãi cho đến đời mạt pháp này tưởng chừng như không bao giờ ra khỏi. Nhưng thật phước đức thay, vinh hạnh thay, sung sướng thay cho chúng tôi không đến nỗi phải tuyệt vọng. Từ trong bóng đêm vô minh hắc ám đầy khổ não thê lương, chúng tôi đã bắt gặp được ánh sáng chân lý soi rọi lại. Ánh sáng ngọn đèn chánh pháp của Đấng Từ Phụ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni còn lưu truyền lại từ vị tôn sư kính yêu. Tuy ra đời không gặp Phật, nhưng chắc nhiều đời cũng đã từng gieo căn lành, trồng cội phúc, cho nên gặp được Hòa Thượng là bậc chân sư sáng đạo, một vị thiện tri thức hiếm có và là một vị đạo sư lỗi lạc. Nhờ duyên lành huân tập nhiều đời, tôi được thọ ơn pháp nhủ của Ngài. Người mà tôi nguyện đời đời kiếp kiếp tôn thờ kính trọng không bao giờ quên. Hạnh nguyện và ơn đức của Ngài như non cao biển rộng. Đối với tôi thật không có bút mực, lời lẽ nào có thể ghi tả cho hết được. Ôi ân đức bao la như vũ trụ Như Hy-Ma-Lay-A sừng sững ngất mây mù Như Thái Bình dào dạt dạ từ dung Như nhật nguyệt không trung luôn rạng chiếu. Ân đức ấy sâu dầy khôn xiết tả Xin ghi lòng tạc dạ chẳng hề phôi Xin nguyện cầu lên Tam Bảo ba ngôi Cho người được bình an vui vẽ mãi... Hòa Thượng đã bao năm gian khổ nhọc nhằn mở đường chỉ lối cho chúng tôi ra khỏi rừng mê, đã bao năm nếm trải bao đắng cay thử thách, chịu đựng bao gió dập sóng dồi của ngoại duyên đưa đến, Ngài vẫn vững niềm tin thản nhiên trước mọi biến cố của cuộc đời, khéo léo lèo lái chiếc thuyền từ, hướng dẫn cho chúng tôi ra khỏi biển khổ tìm về bảo sở. Nhờ sự chỉ dạy và dẫn dắt tận tình đó mà chúng tôi không bị sa hầm, sụp hố, hay bị lạc lầm vào những con đường hiểm nạn. Ngài thật từ bi hết lòng chỉ dạy, không nệ tấm thân già yếu, nhọc nhằn, dịch kinh, viết sách, giảng dạy. Lại tạo lập đầy đủ phương tiện cho nhập thất. Bên cạnh đó còn có sự ủng hộ hết lòng, hết sức nhiệt tình của các Phật Tử. Chính những động cơ ấy tạo thành sức mạnh và năng lực chủ động thúc đẩy cho chúng tôi nỗ lực tiến tu. Chúng tôi cũng hằng tự nghĩ rằng: Ngày xưa chư vị Tổ Sư là những bậc đại căn thắng sĩ, khi tu hành, chỉ nghe qua một câu kinh, một lời nói, một hành động liền được khai ngộ. Hoặc có vị tham thiền đắc lực trong một tuần lễ hay hai tuần lễ cũng phát minh đại sự. Ngày nay chúng tôi sinh ra trong đời mạt pháp, phước mõng, nghiệp dầy, căn trí lại ám độn cùn lụt, không thể sánh với các Ngài. Tuy nhiên, không vì thế mà chúng tôi mặc cảm, vì sau bao năm học hỏi chúng tôi đã hiểu rõ đường lối và nắm vững pháp tu. Hơn nữa, bên cạnh chúng tôi còn có Hòa Thượng Tôn Sư luôn luôn theo dõi, nhắc nhở, chỉ dạy thì còn lo gì nữa mà không quyết tâm hạ thủ công phu. Chúng tôi tự tin rằng, với thời gian dài hai năm nhập thất, nguyện quyết chí đem hết tâm lực vào việc hạ thủ công phu để làm sáng tỏ việc lớn của chính mình, thì ắt có ngày việc lớn thành tựu. Vì Phật Tổ thường dạy: “Kia là trượng phu, ta cũng trượng phu vậy, chớ có tự khi mình.” Tổ Động Sơn Lương Giới cũng dạy: “Thân này chẳng sẵn đời này độ, lại đợi đời nào độ thân này.” Có được như thế mới có thể đền đáp được công ơn sâu dày của Thầy Tổ và nợ cơm áo của tín thí đàn na. Với lời chân thành phát nguyện và lòng quyết tâm tha thiết tu hành. Trong thời gian nhập thất, tôi dồn hết tâm lực vào việc hạ thủ công phu, vì nghĩ rằng, mấy thuở trong đời tu lại có cơ hội thuận tiện được nhập thất với thời gian dài hai năm, tất cả mọi duyên sự bên ngoài đều có quí thầy lo liệu. Trong thời gian độc cư hành thiền đó, tôi ít ăn bớt ngủ, tọa thiền mỗi ngày đêm bốn thời theo thời khóa tự mình qui định, mỗi thời hai giờ làm tiêu chuẩn, có khi nhiều hơn hoặc ít hơn. Ngoài những giờ khác, lúc đi, đứng, nằm, ngồi; khi ăn mặc, giặt giũ, tiểu tiện, đều ở trong trạng thái miên mật tỉnh giác. Mỗi niệm khởi lên đều không lầm lẫn, không để cho vọng tưởng lôi cuốn, luôn giữ chánh niệm và tĩnh giác trong mọi hành động “tri hành hợp nhất”. Chỗ gọi là “nắm chặt đầu dây giữ lập trường”, không để lơi lõng. Cho đến một hôm tôi chợt khởi nghi: “Biết vọng hoài đi đến đâu? Ngoài biết vọng còn có thêm gì nữa không?” Ngay lúc đó tôi chợt nhớ lại lời Phật dạy trong kinh viên giác: “Biết huyễn liền lìa, đâu cần phương pháp. Lìa huyễn tức liền đó giác ngộ giải thoát, cũng đâu có lớp lang tuần tự gì.” Lạ thay! Ngay lúc đó tâm tôi bỗng dưng lắng đọng, dừng bặt, liền khi ấy, tôi biết được đường vào. So lại phương pháp tri vọng mà Hòa Thượng Tôn Sư chỉ dạy, với yếu chỉ tri huyễn trong kinh viên giác không có gì sai khác. Khi xưa chúng tôi hiểu lầm rằng, ngoài cái vọng riêng có cái biết. Nhưng thật ra biết và vọng không có hai, hễ “biết thì không vọng, vọng thì không biết”, vậy thôi. Bởi do bất giác nên cái biết tròn sáng bị phân tán, chuyển thành vọng tưởng lăng xăng, vừa sực tỉnh thì bao nhiêu vọng tưởng liền tan biến trở về với tánh biết tròn sáng, khỏi phải ra sức dẹp trừ. Vọng và không vọng chỉ chuyển đổi trong một niệm nhớ và quên mà thôi. Nhận ra yếu điểm này mới sáng tỏ lời dạy của Lục Tổ Huệ Năng là: “Vọng tưởng tức chân như, phàm phu tức Phật, phiền não tức bồ đề”, và lời dạy của Ngài Huyền Giác trong Chứng Đạo Ca: "Tuyệt học vô vi nhàn đạo nhân, Bất trừ vọng tưởng bất cầu chân, Vô Minh thật tánh tức Phật tánh, Huyễn hóa không thân tức Pháp thân..." Từ chỗ nhận ra yếu chỉ công phu tu, chúng tôi phát minh bài kệ tri vọng: "Tri thời tịch tĩnh nguyên vô vọng, Đương vọng hà tằng liễu đắc tri, Tri vọng lưỡng đầu phương giả lập, Nhị biên ly tận nhập vô vi." Nghĩa: "Khi tri tĩnh lặng nguyên không vọng, Lúc vọng đâu từng sáng được tri, Tri vọng đôi đường phương giả lập, Hai bên lìa, rõ đạo huyền vi." Thời gian sau đó, do tâm được an định phần nào, tôi bị hôn trầm dữ dội. Cứ mỗi lần tréo chân lên bồ đoàn là hôn trầm kéo đến, không thể cưỡng lại được, chỉ còn có cách là lạy Phật sám hối và đi kinh hành. Có lúc đi kinh hành vẫn lại bị hôn trầm, thật là kỳ lạ! Sau đó tôi dùng phương pháp quán để trị bệnh ngủ gục, tôi tự hỏi: “Hôn trầm từ đâu đến” và tôi chú tâm tĩnh lực truy nguyên coi hôn trầm bắt đầu phát xuất từ đâu, nó đến bằng cách nào? Nhờ sức tĩnh lực kiên cố nên lần lần hôn trầm bị đẫy lùi. Do đó tôi thấy ra rằng, vì ở trong cái lặng lẽ mà thiếu sự chiếu soi, sự tĩnh giác không liên tục nên rơi vào hôn trầm. Khi quán sát thật kỷ, tôi nhận thấy rõ ràng, trong hôn trầm vẫn có vọng tưởng vi tế lăng xăng sanh diệt như một dòng thác đổ liên tục, chỉ vì ở trong trạng thái mù mờ nên vọng tưởng không rõ ràng, không kiểm soát được đó thôi. Và tôi bắt đầu truy nguyên coi vọng tưởng là gì? Khi nhận định thấu đáo, thấy rõ tâm mình không lúc nào dừng nghĩ. Nếu không vọng tưởng về quá khứ, thì cũng vọng hướng về tương lai. Chính những tư tưởng quá khứ vị lai ấy cùng với sự phân biệt hay dỡ, tốt xấu, rồi theo đó khởi yêu ghét, mừng giận, v.v... làm cho con người hiện tại bất an. Như vậy, muốn cho tâm được bình an, phải dừng những vọng tưởng lăng xăng sanh diệt ấy. Thế thì vọng tưởng từ đâu đến? Nếu là quá khứ thì quá khứ ở chổ nào? - Những gì đã qua là thuộc về cái chết, có ai sửa được quá khứ bao giờ. Không ai có thể đi ngược thời gian, trở lùi trong quá khứ để tìm lại ngày hôm qua đã mất. Vậy thì tất cả những gì xa xưa hãy để nó lùi đi trong dĩ vãng, nhường bước cho cái mới đi lên, và hãy để tự nó chết đi trong quên lãng, mắc mớ gì ta phải bận tâm về những tâm niệm lăng xăng vô ích đó. – Còn tương lai là gì? - Tương lai là những cái gì chưa đến hay sẽ đến. Mà nào ai có thể đi đến được tương lai, dù cho đó là ngày mai gần đây nhất hay một lát nữa đây. Như vậy, tại sao ta cứ để cho những tư tưởng viễn vong xa rời thực tế đó lôi kéo mình làm gì chứ. Chính những tâm niệm quá khứ vị lai ấy làm cho chúng ta quên mất đi cái hiện tại. – Mà hiện tại là gì? - Ạ! Thì ra hiện tại cũng không thật có nốt, vì có cái gì cố định và đứng yên một chổ đâu mà gọi là hiện tại. Tất cả đều đang ở trong vòng chuyển biến vận động liên tục không dừng nghĩ, vừa mở miệng nói hai chữ hiện tại thì hiện tại đã là quá khứ. Rõ ràng ba thời không thực có. Chính ngay lúc ấy đã hiện lên trong tâm trí tôi lời dạy của Đức Phật trong kinh Kim Cang Bát Nhã: “Này Tu Bồ Đề! Quá khứ bất khả đắc, hiện tại bất khả đắc, vị lai bất khả đắc.” Và cũng chính trong thời gian ấy, thân tâm tôi bỗng dưng dừng lặng, tư tưởng ngưng đọng lại, một lúc cùng với ngoại cảnh đồng thời bỗng dưng mất hút và tan biến trong khoảng không mênh mông vô tận, và tôi đã trực nhận được thể tánh rỗng lặng bất sanh, bất diệt. Cái chưa từng bị thời gian chi phối và bị hạn cuộc bởi không gian. Một cái thực tại nhất như trong mọi thời điểm, vô thỉ vô chung. Thấy rõ thân này chỉ là một sự nương gá tạm bợ, là vô thường huyễn hóa, duyên hợp, hư dối, không thật có, chẳng phải mình. Thấy rõ những tâm niệm lăng xăng sanh diệt chỉ là những bóng dáng do phân biệt ngoại cảnh mà có, chẳng phải mình. Thấy rõ những cảnh vật sai biệt bên ngoài, tất cả đều là những giả tướng phân biệt không có thật thể, “sắc tức là không”. Qua lần kinh nghiệm đó, đời người đã được chuyển hóa. Tôi có cảm tác bài kệ nói lên chỗ thấy biết đó. Thì ra: "Xưa mê chấp thực pháp cùng nhân, Tham ái thân tâm đắm cảnh trần. Rõ ra tự tánh nguyên không lặng, Ba đời sanh tử quyết dừng ngăn." Từ nguồn an lạc vui sướng trong đạo vị đó, tôi có cảm tác nên bài ca tĩnh thức.... IV_THỜI GIAN CHUYÊN TU TẠI THIỀN VIỆN TRÚC LÂM Sau một năm ráo riết xây dựng khẩn trương. Thiền Viện Trúc Lâm, khu ngoại viện và nội viện Tăng Ni đã hoàn thành phần căn bản. Lễ khánh thành xong Hòa Thượng cho vào chuyên tu. Vì đã trải qua những lần kinh nghiệm trong thời gian nhập thất ở Thiền Viện Thường Chiếu, nên công phu chúng tôi không bị gián đoạn. Mặc dầu đa đoan công việc, trong thời gian xây dựng phải tiếp duyên xúc cảnh nhiều, nhưng việc tu hành không bị trở ngại, ngược lại rất nhẹ nhàng thoải mái. Càng ở trong chổ ồn ào thời càng hiện rõ mình hơn. Không phải dụng công nhiều mà vẫn không bị mất chánh niệm, vì luôn thực hành tâm xả. Từ khi được vào chuyên tu, công phu lại càng đắc lực hơn. Vào một buổi thiền khuya. Khi thân tâm hoàn toàn yên tĩnh, yên tĩnh và trong sáng lạ thường. Giống như vần trăng rằm mùa thu tỏa rạng giữa đêm thanh vắng, trên nền trời quang đãng không một gợn mây. Tất cả đều chìm lặng, chìm lặng, tư tưởng ngưng động lại trong sự tĩnh táo dị thường và ý thức hoàn toàn vắng bóng. Mọi trạng thái diễn biến đều ở trong cái rõ biết cực tịnh, cái yên tĩnh tịch nhiên khó tả. Không biết lúc đó tôi có thở hay không vì không thấy có thân. Lúc đó chỉ có trạng thái tịch mặc tràng đầy sự an lạc. Bỗng dưng như người đang đứng trên đỉnh núi cao chót vót, hốt nhiên hụt chân, chới với rơi vào một vực thẩm sâu không đáy. Lại cũng giống như người lặng dưới đáy hồ sâu ngàn thước, từ từ trồi lên mặt nước. Lúc đó tôi không có phản ứng nào hết, cứ để cho nó tự rơi, tự trồi một cách tự nhiên. Bất chợt, tôi tan biến vào một cảnh giới ngập tràn ánh sáng rực rỡ vô biên. Một thứ ánh sáng mầu nhiệm không có ánh sáng nào có thể so sánh được. Không phải ánh sáng của mặt trời mặt trăng hay các vì sao, nó cũng không giống một thứ ánh sáng nào của các ngọn đèn điện. Một thứ ánh sáng vi diệu mát mẻ tràn đầy an lạc và tôi đã tiêu dung trong ánh sáng đó, hay nói đúng hơn ánh sáng đó chính là tôi. Từ trong vầng ánh sáng vô biên đó, lại ánh ra muôn ngàn chùm ánh sáng chói lọi, mỗi mỗi chùm ánh sáng lại ánh ra vô số những tia sáng, mỗi mỗi tia sáng lại biến hiện ra muôn sự muôn vật, muôn hình tướng thiên sai vạn biệt. Mỗi mỗi hình tướng sai biệt lại tự phóng chiếu ra hằng hà sa số vầng hào quang sáng chói đủ muôn màu sắc. Tất cả đều dung nhiếp lẫn nhau thành một thể bất biến vô phân biệt, vô sai biệt, và vô sanh diệt. Từ trong thể dung nhiếp đó lại đột nhiên phát ra một tiếng nổ lớn, vang động như tiếng sấm và tất cả đều tan loãng, tan loãng theo tiếng rền vang ấy. Đồng thời tôi cũng ra khỏi cơn thiền định, trở về với thực tại với một trạng thái hoàn toàn yên tĩnh, một sự tĩnh lặng tuyệt vời, với trí tuệ trong sáng tràn đầy sự linh mẫn. Tất cả mọi cảnh vật đều thức dậy dưới ánh triêu dương rực rỡ, chim ca mừng ngày mới, bình minh tỏa chiếu khắp muôn phương. Một hôm trong thời tọa thiền ở thiền đường. Đang lúc ở trạng thái tâm rỗng lặng vô niệm, bỗng dưng vị thầy ngồi kế bên bất chợt kéo mạnh bức màng treo cửa sổ đánh soạt một tiếng, ánh sáng ập vào, trong sát na đó, một sự thể nhập hoàn toàn đến với tôi. Đồng thời tôi thét lên một tiếng làm vang động cả thiền đường làm cho tất cả mọi người phải giựt mình ngơ ngát. Tiếng rống của con mãnh sư vừa thoát khỏi kiếp chồn hoang. Khi ấy, tôi xách bồ đoàn, tọa cụ chạy ra ngoài với tràng cười kinh dị và ngẫu hứng ngâm lên mấy câu kệ: Vẹt màng pháp giới toàn thể hiện Một trời quang đãng sạch mây mù Đêm vắng hồ tuyền soi bóng nguyệt Ngày thanh núi phụng chiếu hình ô. Khi về tăng đường tôi đặt bút lưu xuất tiếp bài kệ: Cả đất trời tan tành sụp đổ Bao mê lầm dứt sạch từ đây Vẹt màng pháp giới hiện bày Chân dung lồ lộ mặt mày xưa nay. Sau khi xã thiền, quí thầy xúm đến hỏi thăm duyên cớ, nhưng chỉ được trả lời bằng nụ cười và sự im lặng. Suốt một tuần lễ sau đó tôi ở trong trạng thái an lạc tuyệt vời vô lượng vô biên. Từ sự trực nhập đột biến chấn động nội tâm đó, tôi như người ngủ mê muôn kiếp được đánh thức dậy, như người lần mò trong hầm tối bắt gặp được ánh sáng mặt trời; Như người lầm lủi trong rừng gai gốc mịt mù tối tâm, bỗng gặp được con đường cái rộng thêng thang. Như chậu úp ngàn năm lật lại dưới ánh mặt trời chói chang. Tất cả những gốc rễ vô minh mê lầm đều được nhổ bật lên, thân tâm tràn ngập nguồn an lạc vô biên. Qua sự đột biến lần thứ ba này, tôi hoàn toàn triệt tiêu hết mọi nghi lầm, trong một sát na hay ra tất cả. Dù trải qua nhiều đời nhiều kiếp nghiên tầm học hỏi cũng không thể so sánh được. Tuy không có hình tướng mà chưa từng che đậy, không có ngôn ngữ mà diễn đạt phân minh, không có văn tự mà trình bày khắp đủ. Qua đó tôi hoàn toàn thông cảm được những thủ thuật khai ngộ kỳ hoặc của các vị tổ sư. Chẳng qua vì lòng từ bi tha thiết của các Ngài, muốn cho chúng ta trực nhận lại con người chân thật, sáng tâm, thấy tánh, cái sẵn có nơi chính mình của mỗi người chúng ta, trong một sát na, phi sát na với một sự chuyển hóa toàn triệt, khỏi phải trải qua nhiều đời khổ công cầu học. Sự thông cảm đó được thể hiện qua bài kệ: Tiếng hét vỡ tan tam giới mộng Phất trần phủi sạch bụi trần ai Quơ gậy vạch mây bày Pháp Nhãn Ba đời Phật Tổ pháp không hai. Từ sự thể nhập qua trạng thái đột biến chấn động nội tâm đó, trí tuệ của thiền giả được phát kiến thật sâu xa... Khi sáng ra được lẽ thực mới thấy được các pháp xưa nay không từng sanh chưa từng diệt, sanh trong cái vô sanh, diệt trong cái chẳng diệt, tất cả những sự sanh sanh diệt diệt đều lồng trong cái bản thể bất sanh bất diệt. Thật ra đây chỉ là một dòng chuyển biến liên tục từ một trạng thái hình thể này sang một trạng thái hình thể khác mà thôi, nhưng bản thể vẫn bình đẳng như như bất động. Vậy thì sự bình an và chân lý ấy đâu cần tìm ở đâu xa, vì nó luôn hiện hữu nơi đây, cứu cánh giải thoát là bây giờ, và chân lý tối hậu là ngay cái thực tại trước mắt. Trực nhận được cái thực tại vô sanh là đạt đến cứu cánh giải thoát. Thôi chớ chạy tìm kiếm quẩn quanh Ngại gì muôn kiếp tử cùng sanh Buông tay thẳng đấy nhà liền đến Chậm bước suy tư mất bảo thành. Và giờ đây chắc các bạn muốn biết tôi đã thấy gì qua tiếng thét ở thiền đường. Chổ này thật khó nói, khó trình bày, vì không có ngôn ngữ để diễn đạt. Thật khó chứng minh cụ thể, vì không có hình tướng để so sánh, nói năng chẳng trúng, suy nghĩ càng lầm. Nhưng nếu…: Bạn muốn biết những gì tôi đã thấy, Vâng! thưa đây lời tha thiết thật thà. "Tôi thấy giữa trời sanh muôn cá lội, Đáy sông khô biển cạn bóng trăng soi, Từng bước chân mộng thế vỡ tan rồi, Và vô vị chân nhân cười rạng rỡ. Thế nào là vô vị chân nhân? Ô kìa! Hãy nhìn xem! Cất bước đạp tan tam giới mộng Dừng chân nắm trọn cả càn khôn Ngồi lại phóng quang trùm pháp giới Nằm dài duỗi cẳng giáp hư không. Nhìn trước mặt, ở sau lưng Xin mời xem lại gót chân. Một vầng vằng vặt giữa trời không Soi khắp mười phương pháp giới đồng Không diệt không sanh qua với lại Chớ bàn thêm bớt có cùng không. Xoay bên hông Rõ ràng trước mắt hỏi gì ông. A ha! cá lội trời xanh kêu tợ sấm Mây trầm biển bích chặng cuồng lưu Gươm lia từng mãnh hư không rớt Dao bầm tan nát mặt hồ bay." Thể dụng như như, gương sáng một vừng, chẳng phiền bước tới, khỏi nhọc đi lùi, cũng chớ đứng lại, nào phải nhọc công ngó tìm quanh quẩn. Vì sao? Bước tới bỏ lại sau, bước lui lại lùi xa, đứng lại bị nhận chìm, ngó quanh bị cướp mất. Thẳng ngay dưới gót chân trực hạ thừa đương, về đến nhà nằm nghỉ ngơi thoải mái. Cơm canh một nồi, tương dưa rau muối nào có thiếu gì, mặc tình thọ dụng. Được gốc rồi, củ, rễ, cành, lá theo nhau, tất cả gôm về một mối. Hương đầy trời, hoa đầy đất, hạt trái tròn đầy, bày lồ lộ chưa từng che đậy. Lục lọi tìm tòi chỉ toi công nhọc sức, nghĩ ngợi suy tư một rừng gai góc mịt mù. Khổ công tham cứu, đường xa muôn dậm ly hương. Dừng lại. Ngay đây nếu nhận được thì cùng với chư vị Tổ Sư nắm tay nhau. Quảy dép đạp cành lau lước sóng, Ngược dòng gió nước thẳng Tây Thiên. Bằng thật ngay đây chưa thấu tỏ Câu rốt sau xin thưa nhỏ anh rằng: “Một con thằng lằng nuốt ba con voi lớn” -Gắp, xét lấy! Và giờ đây mới đích thực là tiếng hót của chim phượng hoàng, mời các bạn thưởng thức. Giải thoát chỉ có đến, Với người trong thực tại, Thực tại muốn chứng biết, Tam tâm tứ tướng lìa. Ba thân cừng bốn trí, Ngay tự thể thừa đương, Mắt huệ trùm pháp giới, Thấu rõ việc xưa nay. Thế nào là việc xưa nay? Tất cả pháp chẳng sanh, Tất cả pháp chẳng diệt, Không tới lui qua lại, Không lớn nhỏ trong ngoài, Nào ngắn dài trên dưới, Chẳng xanh đỏ trắng vàng, Ngoài suy nghĩ luận bàn, Lìa nói năng sanh diệt, Diệt ấy chính là sanh, Sanh ấy chính là diệt, Đương sanh tức không sanh, Đương diệt tức chẳng diệt, Sanh diệt, không sanh diệt, Bản trụ thường tạm nhiên Vô lượng Phật quá khứ, Hằng sa Phật vị lai, Thực tại nhất như này, Thảy thảy đều có mặt, Đồng một thể vô sanh. Hát rằng: Một khắc trừng tâm Tuệ Giác bày, Muôn đời dứt sạch tướng lầm sai. Phá tan sự sản đền ơn Tổ, Đốt sạch kinh thư đáp nghĩa Thầy. Đập chết con trâu lòng cứu khổ, Thằng chăn giết quách dạ ban vui, Thân không tâm trụ vô gia nghiệp, Dậm nát càn khôn bặt dấu hài.
  2. Hôm nay (3.22.03.2011), một tín đồ Cao Đài Giáo tuyên bố trên internet, nội dung có đoạn: Đang cập nhật-Hậu khẩu chiến giữa tín đồ Cao Đài và một nhân vật.
  3. Bát Bộ Thiên Long lập chủ đề này để nắm bắt một vài điểm "nóng" của phái Pháp Luân Công. Thế nào là "nóng", tức là người nóng và pháp nóng. Vấn đề "người nóng" thì có Thầy và Đồ phái Pháp Luân Công; vấn đề "pháp nóng" thì có cũng một vài điểm khá quan trọng cần nhìn nhận. Ngoài ra, cũng có khi cần nói đến cách thức các học viên Pháp Luân Công truyền đạo với phương pháp như thế nào. Hay có thể nói một cách khoát hơn cho nội dung của chủ đề này: -Giáo chủ Pháp Luân Công nói gì về Thiền Tông và Tổ Sư Thiền Ấn Độ và Trung Hoa ? -Những người học Pháp Luân Công đã mất mạng và tàn tật, vậy Pháp Luân Công đã sử lý hậu quả này như thế nào ? -Những người tuyên truyền Pháp Luân Công ở Việt Nam có chánh kiến hay không ? -Và một số vấn đề liên quan. Cảm ơn các đọc giả đã theo dõi và góp ý phân biện cho vấn đề mà Bát Bộ Thiên Long thấy và đặt ra.
  4. Mấy cái hình xoáy xoáy mà các học viên PLC tự với lấy rồi trình lên Lý Hồng Chí để làm hình tượng, sự này thì cũng tương đối mà thôi, thực chất PLC chẳng hiểu ý nghĩa của nó là gì. Nói đến Âm Dương Ngũ Hành, Lý Hồng Chí cũng chẳng hiểu gì đâu, học viên PLC càng không hiểu. Cho nên có ai đó phá hay xây, hoặc tranh cướp cái vấn đề Âm Dương Ngũ Hành thì học viên PLC cũng chẳng biết mô tê thế nào, và như vậy thì sao lại phán quyết ai tội lớn, ai tội nhỏ. Sửa chữa học thuyết cổ, đây là vấn đề Không Tưởng, kẻ sửa chắc là có vấn đề không bình thường. Nhưng cái vấn đề anh chàng Rubi nói thì lại khiến nhiều người hướng theo chiều chỉnh lý, nhưng đa phần là qua mặt Rubi. Sự qua mặt Rubi là dễ dàng bởi cái anh chàng Rubi đó hiền lành quá. Nhưng có lẽ, tất cả những người qua mặt sẽ gặp phải ngõ cụt mà thôi. Sự qua mặt này cũng có tác dụng giúp anh chàng Rubi sử dụng nó để hóa giải "sửa chữa học thuyết cổ, đây là vấn đề Không Tưởng, kẻ sửa chắc là có vấn đề không bình thường" khi trình bày vấn đề với những vị khác. Vấn đề về Phật pháp. Kiến giải của Lý Hồng Chí rất là be bét, nói chung Lý Hồng Chí chẳng biết gì về Phật pháp hết. Các học viên PLC cũng không thấm ngộ được Phật pháp nên bị Lý Hồng Chí đầu độc trong sự nhận định về Phật giáo là chuyện dễ thấy. Chân lý, tu hành thì có công đức và sự hồi hướng. Các học viên PLC tu luyện có công đức gì không, hồi hướng cho ai, chết sinh về đâu. Phật thì đủ 10 danh hiệu. Lý Hồng Chí lại xuyên tạc mỗi một danh hiệu là một tầng cao thấp, rồi lại xuyên tạc Phật chưa được thành Phật mà chỉ thành Như Lai, rồi lại xuyên tạc Phật pháp, cho rằng các Thánh tăng chưa đạt đến tầng Như Lai. Vậy chắc Lý Hồng Chí cao hơn Phật rồi, lên cao tới tầng Địa Ngục Tà Kiến.
  5. Các học viên PLC có dám hồi hướng công đức cho hương linh người thân được siêu thoát ? Lý Hồng Chí bày đặt Tầng Như Lai, Tầng Phật, và cho rằng Như Lai thấp hơn Phật. Và tà kiến cho rằng Phật Thích Ca chưa đạt đến tầng Phật mà chỉ đạt đến tầng Như Lai. Cứ theo cái đà biện luận này thì có thêm tầng cao hơn, là Tầng Thế Tôn. Nhái cách phát ngôn của Lý Hồng Chí thì sẽ thấy Tầng Thế Tôn cao hơn Tầng Lý Hồng Chí Phật, Lý Hồng Chí Phật cao hơn Thích Ca Như Lai. Rốt cục toàn là tà kiến lớp lớp tầng tầng chất đầy, vậy mà cũng mở miệng khuyên phá chấp trước, hô to chân thiện nhẫn. Nhẫn nhẫn nhẫn, đọa địa ngục mà vẫn còn nhẫn.
  6. Ông Vũ Thế Khanh cũng là người tu Phật, lại vừa là nhân vật hay được đánh giá những người nổi khác. Tuy nhiên, với lãnh thổ học thuật và trong sự kiện gần gần đây thì Ông Khanh có phần bị người khác lợi dụng, bị "điều" đi làm cái việc bên ngoài mà không biết nội tình bên trong. Một việc làm mà nắm được bên trong và bên ngoài thì dễ không lầm, nhưng một việc mà không nắm được bên trong thì bên ngoài dễ bị điều khiển. Hi vọng là ông Vũ Thế Khanh sẽ hiểu ra sự kiện này, như thế sẽ tốt hơn.
  7. Hai người là có chuyện, cho nên mới bị thương . Ha ha ha.
  8. Cho xin một ly nâu đá, hề hề. Trên diễn đàn có cái hình Trống (trống đồng thì phải), so sánh với diễn đàn khác thì thấy có cái Chuông. Trống và Chuông là hai Pháp khí. Trong trận chiến, tiếng Trống là hiệu lệnh xung phong, tiếng Chuông, tiếng Cồng là hiệu lệnh rút lui. Trong nhà Phật, tiếng Trống là sự sách tấn, trí tuệ giác ngộ, tiếng Chuông là để trị phiền não (street). Trong văn hóa, cũng thấy hai pháp khí này. Và trong phân biệt con người thì có lẽ Trống là ứng với Đại Nhân Anh Hùng Quân Tử, còn Chuông thì ngược lại. Các bác thấy thế nào nhỉ ? Hô Trống thì có câu: ...Đại chúng phải siêng tinh tấn Cứu lửa cháy đầu, chỉ nhớ vô thường, chớ có buông lung. Hô Chuông thì có câu: ...Phiền não nhẹ, trí tuệ lớn, bồ đề sanh, nguyện thành Phật, độ chúng sanh. Cuối cùng thì niệm danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng Vương đang độ chúng sanh ở dưới Địa Ngục.
  9. Chủ đề là lý giải tâm linh nhỉ.Đối thoại trước thì có yếu tố là ranh giới phân biệt thiện ác. Kimcuong đề cập đến Ác là Sát và Đạo bởi vì Sát Đạo Dâm Vọng là 4 chủng tính chúng sinh căn bản. Cư sĩ thì bỏ ác theo thiện, đó là bỏ đi Sát và Đạo, xuất gia thì bỏ nốt cái thiện, đó là bỏ đi Dâm và Vọng. Giải thích theo ngôn ngữ tâm linh thì Sát có Ý sát, Miệng sát, và Thân sát, Đạo có Ý đạo, Miệng đạo, và Thân đạo. Ví dụ một tay giám đốc có ý muốn chửi bới người mà hắn ghét-Tâm chỉ muốn người đó biến mất trên con đường mà hắn đang đi, nhưng nếu hắn dùng miệng chửi thì sợ nhiều người quanh hắn nhìn ra bộ mặt thật nên hắn có ý sai một hai tay chuyên đi chửi bới người hắn ghét, rồi người chửi bới đó tuy không Thân sát nhưng Miệng sát. Nói chung phân biệt cái ác và thiện không dễ mà cũng chẳng khó, vấn đề là cách thức tư duy phân tích sau khi tập hợp các yếu tố. Điểm nhấn là Thân, Miệng, Ý, điểm tiếp theo là tác hại hay tác dụng đối với ngã và tha. Théo cách này có lẽ khá là rễ kết luận một pháp là thiện hay ác.
  10. Học Phật muốn sau 10 hay 20 năm có những thấm thía thì phải xem đến Trung Luận của Long Thọ Bồ Tát.Nhưng mà với người mới tìm hiểu đạo Phật thì thực tế cũng chẳng hiểu Phật là thật hay không có thật. Vượt lên trên thì biết là có Phật, biết đến Sử Phật, biết đến Kinh Phật. Đôi khi biết mà người ta cũng chưa tin lắm. Cao hơn, khi bước vào Trí tuệ Phật giáo (cũng không nên gọi là Triết học, nhưng tạm thời gọi thế thì cũng được, bởi vì khi các Triết gia Hy Lạp đang còn dùng tư duy để suy luận về bản thể thì Phật lại dùng sự thực hành để thực nghiệm bản thể. Cho nên dùng từ Triết là theo các Triết gia, còn dùng từ Trí Huệ là sự thấy biết như thật sau khi chứng ngộ chân lý của Phật), và thấy biết các hiện tượng của những người tu chứng, những xá lợi, những chân thân để lại, những sự tai sinh được ẩn chứng (ví dụ: google: milarepa thời hiện đại) Vấn đề Thiện Ác thì lyhocdongphuong cũng thấy rõ ranh giới rồi. Trí, Tín, Lễ, Nghĩa, Liêm sỉ..., có bộ có khoa theo ngũ hành đường hoàng. Thiện thì vẫn còn Dâm dục và Nói dối. Không ảnh hưởng đến người nhưng ảnh hưởng đến bản thân. Ác thì vẫn còn Sát sinh và Trộm cắp. Ảnh hưởng nặng nề đến người khác nên gọi là nghiệp dữ đa mang.
  11. Vừa nghe trực tiếp giọng Duy Khánh ca:lol:: Trên đời này còn có gì khác nữa ngoài mộng vô biên ! Mờ hôm này là 25.-3
  12. Nhân vật chính không chết vì chiêu, cũng chẳng chết vì thế mà có chết thì là do thời mà chết như mất nước thì nhà tan, còn nước thì còn nhà. Nhưng có có những nhân vật phản diện, cũng có thể xem là nhân vật chính. Phản diện là nhân vật chính thì thường là có tình tiết xây dựng đại nghiệp, khi đại nghiệp sụp đổ thì nhân vật chính cũng hết muốn sống, hoặc trở nên điên cuồng như Hoàng Nhan Hồng Liệt tự sát, như Mộ Dung Phục hóa ngớ ngẩn, như Tây Độc Âu Dương Phong tẩu hỏa nhập ma, như Quốc Sư Thổ Phiên mất hết công lực 30 năm tu luyện...cho đến Lưu Chi Tam Tạng hóa thành quỷ tóc đỏ.
  13. "Cho" là sự chấp, vì không hiểu sự thật đẹp xấu là do duyên đồng thời nó không có bản chất, không hiểu được thì sẽ chấp. Trong quan niệm về cái đẹp mà có sự chấp thì đó là phát sinh cái xấu. Cũng vậy, trong quan niệm về cái thiện mà có sự chấp thì đó là phát sinh cái ác, đó là nhìn vấn đề từ nguyên nhân. Còn ở bình diện thô lậu hiển tướng ra ngoài thì thấy liền biết đó là ác hay là thiện, là đẹp hay là xấu. ps: Tâm Linh: Tâm mà chuyên nhất thì tất sẽ có Linh Khoa Học: Khoa là chuyên ngành, Học là nghiên cứu.
  14. Thiện là Công Tâm, Tâm ngay thẳng để cân bằng Vật. Ác là Vật đè Tâm, ngồi lên Tâm, Tâm đổ, Tâm nghiêng.
  15. Tự nhiên Kimcuong ngộ ngộ cái vấn đề học thuật sinh khắc trong liên quan, liên hệ với khoa học và tâm linh không đối nghịch nhau ạ. Nếu đưa Lý học vào Tâm linh, thì yếu tố khoa học của nó là sự kiện gì đây ạ? Cũng chẳng ngoài sự kiện Ngưu tầm Ngưu, Mã tầm Mã. Con người thì luôn có xu hướng tìm đồng minh, tìm bạn, tìm sự tương hợp tương sinh, và đồng thời tránh đối phương, tránh kẻ thù, tránh sự tương xung tương khắc. Trong đó, khảo sát sẽ thấy hiện tượng, người thiện sẽ tìm và kết giao với người thiện, người ác sẽ tìm và kết giao với người ác. Thiện thần thì Thiện, phân biệt thuận chiều, thiện đúng là thiện, ác đúng là ác; Ác quỉ thì Ác, phân biệt nghịch chiều, thiện cho là ác, ác cho là thiện. Nghiệp thức thiện ác thì lại chiêu cảm các cõi thiện ác tương đồng, nghiệp thiện thì tìm đến cõi thiện, nghiệp ác thì tìm đến cõi ác. Như bây giờ người ác sử dụng lý học, người thiện cũng sử dụng lý học để cầu tài cầu lộc, tuy cùng một nguyên lý nhưng kết quả lại có thể phân biệt phân cực. Người ác thì sẽ hợp với những cái có ác tính nên tài lộc của họ cũng thuộc ác tính, người thiện sẽ hợp với những cái có thiện tính nên tài lộc của họ thuộc thiện tính. Đây có lẽ là sự logic, khách quan, và nó cũng là nền tảng để khẳng định sự chuyển biến nghiệp thức. Người có ác tâm, nhưng có quyền và có thể chuyển ác tâm thành thiện tâm, gọi là sự cải tà qui chính. Người có thiện tâm thì cũng như thế ngược lại. Những điều này đôi khi người ta không ngờ tới và đối diện thực tế thì họ cảm nhận là sự tự nhiên. Nhưng nhìn tổng quan vào những điều được xem là tự nhiên, tình cờ, ngẫu hiên thì nó là có thể phân biệt rất logic như trên.
  16. Cháu xem thêm qua qua, có thể tương đối thế này ạ:Tác giả dùng dấu ";" giữa hai ngữ 'Lạc Thư Hoa Giáp' và 'sự loạn tin trong bói toán', như vậy thì hai ngữ này gần như là hai ý khác nhau trong một đoạn của tác giả, cho nên chú nói "Không có vấn đề" thì cũng có thể là như thế. Cuốn này cũng mang tính hàn lâm toán học, cháu có xem qua qua, cũng thấy có một hai vấn đề hơi để ý. Ngoài ra thì cũng thấy manh nha trong sách có lý giải con số 180 của Tam Nguyên Cung Phi, thì ra 180 năm là một chu kỳ cũng có lý được hiển lộ một chút. Cụ thể là Giáp Tý khởi tại số 1 Lạc thư, thứ tự liên tiếp 60x3=180 ví trí, tiếp theo vị trí 181 thì sự trùng hợp giữa 60 Can Chi với Thập Phân Lạc Thư xảy ra, trong toán học thì có thể người ta gọi là modul giữa Lạc Thư và Can Chi.
  17. Kimcuong xem cái bài này ạ, muốn trực ngộ kiến giải ạ.Trực Ngộ thì Trực là thẳng, ngộ là gặp/hiểu. Chân Như thì Chân là thật là vĩnh cửu, là tuyệt đối, còn Như là giống tức là không khác, không thay đổi/có thể hiểu riêng như vậy. Chân Như thì lại không có hình tướng, nếu mà có hình tướng thì chẳng cần phải nhấn mạnh Trực ngộ Chân như. Vì Chân như không có hình tướng cho nên không thể Tự ngộ, mà phải là Trực ngộ. Vế đối của vấn đề Trực ngộ là Trực chỉ, có người Trực chỉ thì mới có thể có người Trực ngộ. Như vậy, Trực chỉ Chân như dùng để khiến Trực ngộ Chân như. Xin tạm hết ạ. ps: Trực ngộ/Thiên nhãn, cũng tương đồng với Trực nhận/Thiên thủ hoặc là Trực ngộ/Thiên nhãn //Trực chỉ/Thiên thủ
  18. Chắc là cuốn HẰNG SỐ LUÂN HỒI THÁI CỰC HOA GIÁP. google thấy ngay. Tác giả cuốn sách này có vẻ lo lắng về sự loạn tin bói toán vì vấn đề xuất hiện Lạc Thư Hoa Giáp.
  19. Baothachtranlx nói: Sưu tầm một vài nét về Cao Đài Giáo (độc giả tự có ý kiến cho nội dung. Kimcuong không đưa ra kiến giải cá nhân, sưu tầm khách quan):
  20. -_-Quá đơn giản khi có thời gian 5 năm. -3 năm lấy cái bằng cao đẳng thiết kế nội thất -2 năm đi làm là có cơ hội soi xăm đối tượng như ý. Với trình độ như chị em cái nhà bác này ở lúc bấy giờ thì tăm được các anh làm trưởng phòng thiết kế là chuyện bình thường, có thể là giám đốc thiết kế nữa ấy chứ. Túm lại là chị em nhà bác có gan làm hay không thôi:-? .
  21. Nghệ sĩ nói riêng và mọi người nói chung có kiến giải về Bát nhã Tâm kinh có rất nhiều điểm sơ hở, có thể đối lập với chính ý tưởng nghệ thuật mà nói thật rằng kiến giải trần chuồng. Để chứng minh sự sơ hở, hay chứng minh sự trần chuồng kiến giải của nghệ sĩ thì đâu có khó: -Sắc: Sắc trong "sắc tức là không" không phải có ý nói đến riêng cái đẹp, nhưng mà người ta hay cho rằng, nhất là lời nói của các họa sĩ trong lý luận thường định ước đẹp là sắc, sắc là đẹp. Thấm ý rõ ràng về Sắc là Sắc Thân hay gọi là Sắc Ấm, gồm xấu đẹp béo gầy nam nữ già trẻ...tóm lại Sắc là đất nước gió lửa duyên hợp tạo thành thân thể. Đã nói là Sắc Ấm thì tức là nói đến sự chướng ngại, ngăn che; và sự kiện khỏa lõa thân thể nữ sắc lại là chồng thêm, mặc thêm cho người ta các lớp kiến chấp về Cái Ta, chấp Ta là Thân này, Thân này là Ta. Manh nha thấy được sự đối đầu khi mà nghệ thuật chọn Bát nhã Tâm kinh làm nguyên liệu cho ý tưởng. Và dù cho có biện luận cho nó trở nên có triết lý thì cũng e là không tránh khỏi được sự thiên lệch, thế tức là có thêm một lớp chấp sai lầm, ngược với tinh thần của Tâm kinh. Điểm dở ở đây là: 'Đẹp là Sắc, Sắc là Đẹp' khác với 'Sắc là Không, Không là Sắc', và bị trộn lẫn với nhau do yếu tố con người không phân định được sáng suốt, trí tuệ Sắc Không bị che phủ bởi kiến chấp Sắc Đẹp. Mà Sắc Không tức là "Xấu là Không, Đẹp càng là Không". Đẹp và Xấu theo trí tuệ tâm kinh thì nó là duyên hợp, còn kiến chấp sai thì lại cho đẹp là đẹp, xấu là xấu, thế là đẹp, thế là xấu. Nói chung tinh thần của Tâm kinh là muốn dẹp bỏ những định nghĩa sai lầm. Các định nghĩa sai là gì ? ví như định nghĩa Ta là...Thân này, Tâm này, những cái định nghĩa sai hướng tiếp đó là 'Ta sinh ra, Ta chết đi'; Sự thật các pháp là duyên hợp nên không có thật thể, không có thật thể mà cứ cố tình định nghĩa thì sẽ thành kiến chấp. Ví như chấp rằng như thế đó là Sinh, như thế đó là Diệt. Tâm kinh là để dẹp phá các Triết lý của các Triết gia, mà các Triết lý đó có sai thì mới cần phá dẹp, nếu Triết lý đúng thì nó đã là Trí Huệ rồi, nếu đã là Trí Huệ thì đâu có thể bị cái khác phá dẹp. Lộ bày trong lý luận của nhà văn có rất nhiều lớp định nghĩa kiểu như thế, vì thế mà thành ra cái duyên để sinh ra sự kiến thấy rằng Tâm Kinh rất khó nhằn. Cái anh Hư Trúc thấy mình lâm vào sự phạm giới luật nên khởi sự quán theo trí tuệ tâm kinh, nhưng đồng thời của "Sắc tức là Không" là Duyên sinh, chứ không như nhiều người nhận định cái tiếp theo Sắc Không là Không nhân quả; Sắc tức là Không so với Duyên Sinh thì Sắc Không là cấp độ Quán Chiếu của Tâm Kinh, còn Duyên Sinh là cấp độ Thật Tướng của Tâm Kinh. Cho nên trong sự duyên sinh của anh chàng Hư Trúc đó đó, trong cái động băng tăm tối lạnh nẽo đó, duyên với cái sự tương tác âm dương thì lại sinh ra sự thuận theo tự nhiên, thế tức là thay vì phải hành động phá sắc thì ngược lại lại phải phá giới. Nhưng cái sự đó cũng là duyên sinh để Hư Trúc tự biết sự phạm giới không xuất phát từ nội tâm, giới tuy phạm mà công đức không mất. Lại yếu tố quan trọng của Tâm kinh là: -Duyên Sinh tức là có nhân có quả -Sắc Tướng tức là không có tự thể Chứ không phải ngộ rằng các Sắc Tướng không có tự thể thì học giả lại ngộ nhận một lớp nữa là không có nhân quả. Vậy theo hiện tượng kiến giải như vậy thì cần khẳng định chính kiến tâm kinh là: mỗi pháp mỗi pháp đều bao gồm Không tự thể, Có nhân quả. Nếu đã hiểu được tâm kinh như thế thì mới có đủ tầm tri kiến rộng lớn để ngoài thì lõa thể, trong thì vạch ra cốt tủy. Tâm kinh là chủ, nghệ thuật là khách, nếu không cẩn thận, khách lại độ chủ, chủ bị khách chuyển.
  22. Thiền Sư Thích Thanh Từ khi chuyên tu nhập thất ở Thiền Viện Chơn Không, Thiền Sư liễu ngộ lý TÁNH KHÔNG. Sau đó một thời gian lâu khoảng vài chục năm, khi đang trụ ở Thiền Viện Trúc Lâm, Thiền Sư liễu ngộ lý TƯỚNG KHÔNG. Kiến giải TƯỚNG KHÔNG khi được tuyên thuyết, Thiền Sư đã tự an tâm các Đệ Tử và Phật Tử bằng sự khẳng định: "ai khi nghe ngài giảng mà không hiểu không tin thì cũng không sao, và kiến giải về vấn đề này cũng xem như là điên quàng". Lý TÁNH KHÔNG song song cùng lý TƯỚNG KHÔNG trong TÂM KINH TRÍ TUỆ CỨU KÍNH RỘNG LỚN, bản kinh này được xếp vào trọng tâm trong nghi thức các khóa tụng niệm. Nôm na mà nói lại kiến giải của Thiền Sư Thích Thanh Từ là: -TÁNH KHÔNG dịch là KHÔNG TÁNH, không có tánh, không có cái gì có thật tính, mọi sự hiện hữu có hình có tướng thật nghĩa là KHÔNG TÁNH DUYÊN KHỞI. KHÔNG TÁNH tức là DUYÊN KHỞI, DUYÊN KHỞI tức là KHÔNG TÍNH (ví như nói, người sinh ra ta là mẹ ta, mẹ ta là người sinh ra ta), ví thế TÁNH KHÔNG và DUYÊN KHỞI không hai. -TƯỚNG KHÔNG dịch là KHÔNG TƯỚNG, không có hình, không có tướng, bản thể thường chiếu thật nghĩa là KHÔNG TƯỚNG THƯỜNG BIẾT. KHÔNG TƯỚNG tức là THƯỜNG BIẾT, THƯỜNG BIẾT tức là KHÔNG TƯỚNG. Tóm lại, Tính Biết thì Không Tướng, còn Sắc Thân cùng Tâm Thức thì Không Tính. Như vậy thì bất kể là Thừa nào, từ Tối thượng thừa, Kim cang thừa, Đại thừa, cho đến Tiều thừa Phật giáo thì trọng tâm của tất cả giáo pháp của Phật giáo là TÂM KINH TRÍ TUỆ CỨU KÍNH RỘNG LỚN; Tối thượng thừa Phật giáo thì chỉ thẳng ngay từ đầu, ngược lại Kim cang thừa Phật giáo thì sau cùng mới nói.
  23. Trọng tâm này là KHÔNG TƯỚNG.Trọng tâm của cái RỘNG LỚN. RỘNG LỚN nghĩa rõ ràng là thế nào ? có lẽ là học hết Tam Tạng Kinh Điển rồi mới được đến chỗ này để thâu tóm và tháo đinh nhổ chốt. Một đoạn chỉ có hai câu, riêng câu sau đã động đến Tam Tạng Kinh Điển thì quả nhiên chứng tỏ bài kinh này là TRỌNG TÂM của TAM TẠNG. -CĂN: sắc, thọ, tưởng, hành, thức -TRẦN: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp -THỨC: nhãn giới, nhĩ giới, tị giới, thiệt giới, thân giới, ý thức giới -DUYÊN GIÁC: pháp 12 nhân duyên từ vô minh cho đến già chết -THANH VĂN: pháp tứ diệu đế khổ tập diệt đạo -BỒ TÁT: pháp lục độ trí tuệ, thiền định, nhẫn nhục .v.v.. Đó chính là các pháp phương tiện trong Tam Tạng Kinh Điển. Chỗ này được tháo đinh nhổ chốt bằng sự chỉ ra rằng TƯỚNG KHÔNG-KHÔNG TƯỚNG không có/ vượt ngoài CĂN, TRẦN, THỨC, DUYÊN GIÁC, THANH VĂN, BỒ TÁT, tức là vượt ra ngoài kinh điển, không có trong kinh điển, cũng tức là Phật chưa hề nói đến Pháp này, Pháp này tức là Pháp gốc, tức là cái KHÔNG TƯỚNG, TÍNH BIẾT KHÔNG TƯỚNG TÍNH BIẾT không sanh, không diệt, không nhơ không sạch, không thêm không bớt. Người chưa ngộ đạo mà đọc đến phần này thì không thể nào phân tích Tướng Không là gì.
  24. Trọng tâm này là KHÔNG TÍNHTÍNH nghĩa là chủ thể của đối tượng, bất kỳ đối tượng nào. KHÔNG nghĩa là không có. KHÔNG TÍNH thường âm hán đọc là TÍNH KHÔNG. Không Tính nghĩa là đối tượng không có chủ thể. Soi thấy các đối tượng đều không, tức là quan sát bất kỳ đối tượng nào và soi xét phân tích về đối tượng đó, kết quả phân tích thì thấy mọi đối tượng đều không có chủ thể, không có đặc tính tồn tại vĩnh cửu, nên nói KHÔNG TÍNH hay TÍNH KHÔNG nghĩa cơ bản là như vậy. Đối tượng bị quan sát và soi xét phân tích trong đây là: CON NGƯỜI Quan sát cấp 1: Mình và Người đều giống nhau, đều có Thân sắc và Tâm thức. Quan sát cấp 2: Tâm thức lại có bốn phần là Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Bốn phần ứng với Tâm thức cộng với Thân sắc là Năm ( Gọi chúng là Ngũ uẩn vì nó ngăn che, làm ra sự nhận thức có giới hạn) Quan sát cấp 3: Sắc thân không tồn tại mãi, tinh cha huyết mẹ chung hợp nên hình, tóc lông da móng cùng nhau kết hợp. Không có cái nào trong Sắc tướng Thân hình là bất tử để mà đại diện làm chủ thể của nó, đồng thời thấy Sắc Thân chỉ là do Duyên kết hợp mà Khởi động vận hành tạm có theo sự vô thường sinh già bệnh chết. Vì quan sát Sắc uẩn như thế, mặt thứ nhất thấy nó KHÔNG TÍNH, mặt thứ hai thấy nó DUYÊN KHỞI nên nói "Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc". Đối tượng Sắc thân bị thấy rõ khía cạnh Không có chủ thể. "Sắc tức là không, không tức là sắc", đối tượng bị định nghĩa là Sắc, và cũng bị định nghĩa là Không, một đối tượng bị định nghĩa theo hai cách đối lập và đồng thời, có và không đối lập và đồng thời, Có là Giả Có đồng thời với Không là Không Thật. Có đối đãi với Không, Giả đối đãi với Thật đó là đối lập nhưng Giả Có đồng nghĩa với Không Thật, bèn "Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc." Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như thế.
  25. Trọng tâm này là KHÔNG TÍNH Trọng tâm này là KHÔNG TƯỚNG Trọng tâm này là CHÍNH QUẢ Trọng tâm này là CHÍNH NHÂN