Nguyên Phu
Thành viên diễn đàn-
Số nội dung
10 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
Danh tiếng Cộng đồng
8 NeutralAbout Nguyên Phu
-
Rank
Mới gia nhập
- Birthday
-
Một gia đình tột cùng khốn khó - Thứ Hai, 30/07/2012 14:00 (Congannghean.vn)-Đã đi nhiều nơi, tiếp xúc với nhiều cảnh đời, viết nhiều bài về các gia đình khốn khó, nhưng tôi vẫn không sao cầm được nước mắt trước 3 trẻ thơ quấn khăn tang khóc ngằn ngặt trong lúc người bố cười toe toét bên bàn thờ vợ khói hương nghi ngút. Đến bây giờ, anh Phương vẫn không biết mình là ai, bao nhiêu tuổi, bố mẹ ở đâu và quê quán nơi nào? Cơ duyên trời định trong một ngày đầu năm 2003 ở TP Vũng Tàu hoa lệ đã cho anh may mắn gặp được chị Lanh. Chị Cao Thị Lanh (SN 1979) sinh ra đầu óc đã không bình thường, gia đình lại khó khăn nên chị đi lang thang. Năm 2001, chị phiêu dạt vào tận Vũng Tàu. Hôm đó, trời mưa như trút nước, chị chạy vào mái hiên bên đường trú tạm thì gặp anh. Thấy chị run bần bật vì rét, anh cởi chiếc áo đang mặc che cho chị. Hai người nên duyên vợ chồng từ đó, họ nhặt giấy dầu, bìa các tông che một cái chòi trên bãi cát nương tựa vào nhau. <br type="_moz"> Anh ngây ngây, dại dại nhưng được cái vợ bảo gì làm nấy nên ngày ngày dắt dìu nhau đi làm thuê khắp nơi. Năm 2004, họ có bé Nguyễn Thị Mai Hương. Năm 2009, họ có thêm Nguyễn Thị Bích Huệ. Đầu năm 2012, khi đứa con thứ 3 sắp chào đời, trí óc chị bỗng bừng tỉnh. Họ đưa nhau vượt 1.800 km về lại quê chị ở xã Diễn Ngọc (Diễn Châu). Bằng tình thương máu thịt, người em trai lập tức ngăn 1 gian trong ngôi nhà cấp 4 của mình nhường cho anh chị và các cháu ở. Họ đùm bọc thương yêu nhau theo kiểu lá rách ít đùm lá rách nhiều. Hàng ngày, chị dắt anh xuống cảng cá Lạch Vạn mót con tôm, con cá. Trong xóm ngoài thôn ai gọi gì là chị dắt anh đến làm ngay. Rồi cháu Nguyễn Văn Nam ra đời trong hạnh phúc tột cùng của cả gia đình. Vậy nhưng, một cơn bạo bệnh bỗng nhiên ập đến cướp chị đi khi bé Nam mới tròn 7 tháng tuổi. Chỗ dựa cuối cùng của cả gia đình mất đi, không đất, không nhà, không nguồn thu, không tài sản, 4 cha con rơi vào hoàn cảnh tột cùng khốn khó. Bốn bố con anh Phương bên bàn thờ chị Lanh Tôi đến thăm cha con anh. Bé Nam ngằn ngặt khóc vì đói sữa trên tay người bố đang cười ngớ ngẩn. Bé Mai Hương học lớp hai đang nắn nót viết hàng chữ: “Mẹ ơi con nhớ mẹ lắm” rồi khoe với tôi hai giấy chứng nhận học sinh giỏi toàn diện hai năm liền. Điều kỳ lạ là dù bố mẹ đều ngớ ngẩn nhưng Mai Hương lại học rất giỏi, luôn dẫn đầu ở Trường tiểu học Diễn Ngọc. Bé Huệ vừa mới 3 tuổi ngơ ngác nhìn mọi người, cháu còn quá nhỏ nên chưa thể cảm nhận được sự mất mát lớn lao không gì bù đắp được trong cuộc đời. Những ngày qua, bà ngoại 60 tuổi đã phải bế cháu Nam đi xin sữa khắp trong làng cuối xóm. Ai sẽ đưa anh Phương đi làm thuê? Liệu bé Hương có còn được cắp sách đến lớp 3 để tiếp tục chuỗi thành tích đáng khâm phục của mình? Bé Huệ lấy đâu ra cơm ăn để nhập trường? Bé Nam tìm đâu ra sữa uống? Tất cả đang nhìn vào sự cưu mang của các nhà hảo tâm, các tấm lòng vàng, các tổ chức cơ quan doanh nghiệp trong, ngoài nước. Mọi sự giúp đỡ xin gửi về bà ngoại các cháu: Phạm Thị Liên, xóm Yên Quang, xã Diễn Ngọc, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An hoặc Quỹ từ thiện Báo Công an Nghệ An, 43A Hồ Tùng Mậu, TP Vinh. Đình Lộc
-
<b> HUYỀN NHIỆM CHÚ ĐẠI BI * TS Trần Diễm Thúy Sự linh nghiệm, hiển linh của chú Đại Bi từ lâu đã được dân gian Việt Nam nói riêng, dân chúng khắp nơi trên tòan cõi phương Đông nói chung hiểu là “thần chú của Phật Pháp”. Sự linh ứng của chú Đại Bi thật diệu kỳ: cứu khổ cứu nạn con người không bị ma quỷ, kẻ ác hãm hại; bảo vệ con người trước những khó khăn mà con người phải đương đầu gánh vác; Trị cho con người những thói tật cả về tâm bệnh lẫn thân xác; Có sức chuyển hóa vũ trụ biến tạo nên cát tường từ nghiệp chướng; Hóa giải chứơng duyên, ngang trái; Hóa thân Bồ Tát, giúp con người có sức mạnh vô biên tự mình tháot khỏi ách ngục hình của tha nhân;…Đã có hàng ngàn câu chuyện truyền tụng về sự huyền diệu của chú Đại Bi có thật trong dân gian và do đó, con người đến với chú Đại Bi như tìm đến một cứu cánh lúc tai nàn. Nói chung, công năng của chú Đại Bi là làm cho chúng sinh tiêu trừ được khổ nạn, đem đến cho con người sự vui tươi và có khả năng chữa lành tâm bệnh lẫn thân xác, năng lực của chú có thể hóa giải cả nghiệp chướng trái duyên, hóa giải tội báo. Thần lực của chú Đại Bi thật vô song. Sự thật, chú Đại Bi không linh nghiệm hết tất cả mọi trường hợp. Vì sao vậy? Để được thụ ân của chú Đại Bi, con người trước hết phải có tâm thiện. Con người có thể nhiều lúc mắc sai lầm nhưng cơ bản tâm phải thiện thì Chú Đại Bi mới linh hiển trong họ. Tuy nhiên, chính chú Đại Bi cũng góp phần cải tạo cho con người có ác tâm được cải hòan thành thánh thiện hơn và họ phải nổ lực trên con đường vươn đến sự thiện hảo. Hãy đến với Mẹ Quan Âm thông qua chú Đại Bi. Hãy niệm tụng với lòng THÀNH KÍNH TIN TƯỞNG TUYỆT ĐỐI VÀ TẬP TRUNG TƯ TƯỞNG TÒAN VẸN. Hãy đứng thẳng hoặc ngồi ngay ngắn trước khi niệm Chú Đại Bi, đó là thân nghiệp được thanh tịnh. Miệng tụng kinh không nói lời gian trá. Tâm thanh tịnh không để ý tán lọan. Ngoại cảnh lắng trong là khế ngộ nguồn tâm, diệu nhập pháp lý. Chân ngôn được phát ra như ngọc tìm dưới đáy nước trong. Vẻ trong sáng của ngọc được hiển bày vào tâm nguyện thành tựu cũng như nhập vào biển diệu nghĩa, thật là huyền nhiệm. Thấu đạt ý kinh cũng chính là lĩnh hội được chân ý như người đến được đỉnh núi cao của trí huệ. Bài kinh văn như sau: <b> “Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni, Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da, nam mố ) a rị da ba lô yết đế thước bát ra da bồ đề tát đóa bà da, ma ha tát đòa bà da, ma ha ca lô ni cá da, án tát bàn ra phạt duệ số đát na đát tỏa. Nam mô tất kiết lật đòa y mong a rì da bà lô yết đe ) thất Phật ra lăng đà bà nam mô na da cẩn trì hê trì ma ha bàn đa sa mế tát bà tha đậu du bằng a thê dân. Tát bà tát đa na ma bà dà ma phàt đạt đầu đát điệt tha án a bà lô hê lô ca đế ca ra đế ) dí.. hệ rị ma ha bồ đề tát đòa tát bà tát bà ma ra ma ra ma hê ma hê rì đà dưng cầu lô câu lộ kiết mong. Đồ lô đồ lô phàt xà da đế ma ha phàt da đế đà ra đà ra ) địa rị ni thất phật ra da, da ra dạ ra ma ma phạt ma ra mum đế lệ y hê y hê thất na thất na a ra sâm Phật ra xá lợi. Phạt sa phạt Sâm phật ra xá da hố lô hố lô ma ra, hố lô hố lố hế rị, tả ra tả ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề da bồ đề da, bồ đà da bồ đà da, di đế rị dạ, ná ra cấn trì. Địa rì sắc ri na ba dà ma na, ta bà ha. Tất dạt da, ta bà ha. Ma ha Tất đạt đa, ta bà ha. Tất đạt du nghệ thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ta tăng a mục khê da ta bà ha. Ta bà ha a tất đà dà ta bà ha, giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà da, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta bà ha. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ ra, nam mô a rị da bà lô yết đế thước bàn ra da, ta bà ha. Án tất điện đô màn đa ra bạt đà ra, ta bà ha. Nam mô Phật đà da. Nam mô Đạt Ma da ”. </b> Khi tụng Chú Đại Bi, hành giả phải gieo trồng đại nguyện và chấp pháp. Ta từng nghe: “Đại Bi thần chú thông thiên địa” nghĩa là Chú Đại Bi thông cả trên trời lẫn địa ngục thảy đều hiểu biết tinh tường, lắng nghe. Nội dung của chú Đại Bi là đảnh lễ 84 vị Bồ Tát. Con người quy y tam bảo dễ dàng nhận được linh ứng của Chú này.Tuy nhiên, để hưởng thụ Thần chú, không phải hễ chỉ có đọc mà thành tựu, vấn đề là tâm nguyện. Phải tự nguyện tinh tấn thực hiện đảnh lễ tương jứng với lời dạy của Phật pháp, tránh sát sanh, trộm cắp, tà dâm, ngũ dục,…và phải “trì niệm”, nghĩa là trì nhiều lần trong một ngày, trì nhiều ngày, trì liên tục. Thường có con số hiệu nghiệm là 7 biến, 21 biến hoặc tốt nhất là 108 biến thì có hiệu nghiệm. Khi ấy, Đức Quan Âm sẽ lắng nghe ở cõi thế gian và cứu độ một cách tự tại, đưa con người vượt qua bể khổ, đến bờ giải thóat. Cúi đầu đảnh lễ 84 vị Bồ Tát thì cũng có nghĩa là con người đã tự giác, giác ngộ, tự giải thóat cho chính mình khi tắm mình trong lời thiền. Vì vậy, khi trì chú, cần kết hợp với tư thế thiền để hiệu nghiệm hơn. Khi ấy, con người phát tâm Bồ Đề, đạt đến chỗ thành tự viên mãn, an lạc, thù thắng. Đứng trước cái ác, con người can đảm, rất dũng mãnh, tinh thấn làm quân thù khiếp sợ. Trước oai linh thù thắng, không chỉ kẻ gian ác sợ hãi mà chốn ngạ quỷ, năng lực thần chú mạnh mẽ đến nỗi các quỷ dạ xoa, ma quái đều cung kính chấp trì hoặc trốn chạy . Không gian của thần chú vô tận khắp cả mười phương, do đó, khi đã giác ngộ, người trì chú có thể lan tỏa thần nguyện của mình đến các chúng sanh khác làm cho họ cũng đảnh lễ tâm nguyện, do đó thần chú là phước tâm vô thượng, đó cũng chính là sự kỳ diệu của chú này. Quý Phật tử nếu có nhiều thiện căn thì nên dự hội chú Đại Bi, nếu thiền định suốt 49 ngày thì có thể tựu thành chánh giác. Con người là chúng sanh, không thể không tu hành mà thành tựu đạo nghiệp. Ai cũng biết phải nhờ vào tu hành mới đạt được Phật quả. Những người có chân tu mà lười biếng không chịu tu hành thì cũng dễ bị đọa vào địa ngục cùng với loài ngạ quỷ.Hãy siêng năng, tinh tấn thì mới mong có ngày thành tựu. Sự vi diệu của Phật pháp là khôn lường, muốn đạt được như vậy thì sự hành trì cần phải thường xuyên, phải nổ lực công phu thì mới có quả quang minh, không còn tối tăm mê muội tức là không còn vô minh, đó mới là trí tuệ chân thực của con người. Hãy chú nguyện tâm thành với thái độ thơ thới, tinh tấn. Hãy chăm sóc tinh thần như một người vợ đảm đang. Hãy lưu hành giả chú này vì lòng thương xót chúng sinh thong xót những người tạo nghiệp ác quá lớn, vô minh, là ta phát tâm cứu độ chúng sinh khi đem chú này đến truyền bá cho họ. Nhân dịp đầu xuân, tôi để lòng lắng trong, dâng mấy dòng niệm tâm thức này làm quà tặng đầu xuân vô giá cho quý bạn đọc như là tâm nguyện của tôi dâng Đấng Bồ Tát oai nghiêm lĩnh thụ ơn huệ của Ngài đến chúng sinh, đặc biệt là Đức Thiên Thủ Thiên Nhãn Linh cảm ứng Quan Thế Âm Bồ Tát. Nguyện cho tất cả Phật tử có phước duyên được nguyện tụng kinh Đại Bi tâm Đà La ni sớm tựu thành ước nguyện. “Tọai tâm mãn nguyện” là thành tựu viên mãn </b>
-
Chuyện Linh Ứng Của Quán Thế Âm
-
Lýdo phải trì chú đại bi Vìsao phải trì chú? Chú có công năng phi thường, người thành tâm trì chú, thì đượcnhiều hiệu lực không thể tưởng tượng. Thần chú “Bạt nhứt thế nghiệp chướng cănbổn đắc sanh Tịnh độ đà la ni” có hiệu lực tiêu trừ hết gốc rễ nghiệp chướng,làm cho người được vãng sanh về Tịnh độ. Thần chú “Tiêu tai kiết tường” có hiệulực làm cho tiêu trừ các hoạn nạn, tai chướng, được gặp những điều lành. Thầnchú “Lăng nghiêm” thì phá trừ được những ma chướng và nghiệp báo nặng nề v.v…Thần chú “Chuẩn đề” trừ tà, diệt quỷ. Thần chú “Thất Phật diệt tội” có côngnăng tiêu trừ tội chướng của chúng ta từ nhiều đời nhiều kiếp. Vì thế nên chúngta phải trì chú 3
-
vi phạm quảng cáo diễn đàn khác
-
Nguồn: pháp thi Xa Diễm hy vọng được chết vào mùa thu. Thân thể gầy gò của em giống một bông hoa nở theo mùa. Khi hoa vàng nở khắp mặt đất và những chiếc lá rơi chao liệng khắp nơi, em sẽ thấy cả những đàn nhạn di cư bay ngang trời xa. Ngày 30/11/1996 (20/10 âm lịch), "cha" Xa Sĩ Hữu phát hiện một hài nhi mới sinh bị vứt bỏ đang thoi thóp và lạnh toát trong đống cỏ bên chân một cây cầu nhỏ ở thị trấn Vĩnh Hưng, ngực hài nhi cài một mẩu giấy nhỏ, chỉ ghi vắn tắt "20 tháng 10, 12 giờ đêm".Khi đó, cha Xa Sĩ Hữu tròn 30 tuổi, nhà ở tổ 2, thôn Vân Nha, thị trấn Tam Tinh, huyện Song Lưu, tỉnh Tứ Xuyên. Vì nhà nghèo quá, không cưới được vợ, nếu cha nhận nuôi thêm đứa trẻ này, có lẽ càng chẳng bao giờ có cô nào chịu lấy cha nữa. Vì vậy, nhìn đứa trẻ còi như con mèo bé vừa ngáp ngáp vừa khóc thút thít, Xa Sĩ Hữu mấy lần nhặt lên rồi lại đặt xuống, bỏ đi rồi lại ngoái lại nhìn, đứa bé thân mình đầy bùn đất lạnh, tiếng khóc yếu ớt, nếu không ai cứu, chả mấy mà đứt sinh mệnh! Cắn răng, anh ôm đứa bé lên lần nữa, thở dài nói: "Thôi thì tao ăn gì, mày ăn nấy!".Những đứa trẻ số phận đau khổ thường khác người. Từ lúc 5 tuổi, em rất biết ý thức giúp cha làm việc nhà, giặt giũ quần áo, nấu cơm, cắt cỏ em đều biết làm thành thạo.Vào học lớp Một, Xa Diễm biết mình phải cố gắng. Em xếp thứ Nhất trong lớp, làm người cha mù chữ của mình cũng mở mày mở mặt với làng xóm.Tháng 5/2005, Xa Diễm thường bị chảy máu cam. Một buổi sáng ngủ dậy định rửa mặt, đột ngột em phát hiện cả chậu nước rửa mặt đã biến thành màu hồng. Nhìn kỹ, là máu mũi đang nhỏ giọt xuống, không cầm máu được. Xa Diễm mắc bệnh máu trắng (Bạch cầu cấp - acute leucimia). Chi phí điều trị căn bệnh này vô cùng đắt đỏ, thông thường điều trị cơ bản đã cần 300 nghìn Nhân dân tệ (tương đương 600 triệu VND), Xa Sĩ Hữu choáng váng.Ông quyết định bán cái duy nhất có thể ra tiền là căn nhà xây bằng gạch mộc, gạch chưa nung của mình. Nhưng nhà thì quá rách nát, lúc đó không thể tìm ra ai muốn mua nó. Đứa trẻ tám tuổi tự lo hậu sự Hôm đó về nhà, một đứa trẻ từ nhỏ đến lớn chưa từng vòi vĩnh cha bất cứ điều gì, đã đòi cha hai yêu cầu: Em muốn có một tấm áo mới, và em muốn được chụp một bức ảnh. Em giải thích cho cha: "Sau này, khi con không còn nữa, nếu cha nhớ con, cha có thể nhìn con ở trong ảnh".Ngày hôm sau, cha Xa Sĩ Hữu nhờ người cô đi cùng đưa cháu lên thị trấn, tiêu hết 30 tệ (60.000 VNĐ) mua một bộ quần áo mới, Xa Diễm tự mình chọn một chiếc quần cộc màu hồng phấn, người cô chọn cho Xa Diễm một chiếc váy trắng chấm đỏ, nhưng khi Xa Diễm mặc thử, thấy tiếc rẻ nên lại cởi ra. Ba người đi đến tiệm chụp ảnh, Xa Diễm mặc bộ đồ màu hồng mới tinh, ngón tay đưa ra hình chữ V, cố gắng mỉm cười, nhưng cuối cùng cũng không kìm được để nước mắt chảy ra. Em đã không thể đến trường nữa, em xách cái cặp đứng trên con đường nhỏ đầu làng, mắt ươn ướt. Nếu không có một phóng viên tên là Truyền Diễm của tờ Thành Đô buổi chiều, thì chắc Xa Diễm sẽ chỉ như một phiến lá cây khô rụng xuống, lẳng lặng bị cuốn đi theo gió. Cô phóng viên này sau khi biết tin từ bệnh viện, đã viết một bài báo, kể lại toàn bộ câu chuyện của Xa Diễm. Sau khi bài báo "Đứa trẻ 8 tuổi tự lo hậu sự" được đăng, cả thành phố Thành Đô đều bị cảm động, cả mạng Internet toàn TQ cũng cảm động. Có một phong trào lan truyền trên khắp TQ, trong cả đời sống thật của thế giới người Hoa lẫn trên mạng ảo, những người có lòng tốt bắt đầu quyên góp để cứu sinh mệnh mong manh của cô bé. Trong vòng mười ngày, con số quyên góp từ toàn thể người Hoa đã lên tới 560 nghìn Nhân dân tệ, đủ để chi phí phẫu thuật, và hy vọng cuộc sống của Xa Diễm lại được thổi bùng lên từ bao nhiêu trái tim nhân ái. Xa Diễm chịu đựng đợt hóa trị khó chịu. Trong cửa kính, Xa Diễm nằm trên giường truyền dịch, đầu giường đặt một chiếc ghế, ghế để một cái âu nhựa, thỉnh thoảng em quay người sang đó nôn. Sự kiên cường của đứa bé khiến người lớn cũng kinh ngạc. Bác sĩ Từ Minh, người điều trị chính cho em giải thích, giai đoạn hóa trị, đường ruột và dạ dày sẽ phản ứng kịch liệt, thời gian đầu mới hóa trị, mỗi lần Xa Diễm nôn đều nhiều, nửa âu, nhưng đến "ho" một tiếng cũng không. Trong lúc kiểm tra tuỷ xương khi nhập viện, mũi tiêm đâm từ ngực, em "không khóc, không kêu la, cũng không chảy nước mắt, đến động đậy cũng không dám". Hai tháng hóa trị, Xa Diễm qua được chín cửa "Quỷ môn quan", sốc nhiễm trùng, bệnh bại huyết septicemia, tan máu, xuất huyết ồ ạt đường tiêu hóa... lần nào cũng "hung hóa cát". Những liệu trình đều do các bác sĩ huyết học Nhi hàng đầu của tỉnh và TQ chẩn đoán quyết định, hiệu quả rất khả quan. Bệnh máu trắng căn bản đã được khống chế. Tất cả đang chờ tin Xa Diễm lành bệnh. Nhưng những bệnh tật đi theo những tác dụng phụ của hóa chất trị liệu rất đáng sợ. Và so với hầu hết những đứa trẻ bị bệnh máu trắng khác, thể chất Xa Diễm rất yếu ớt. Sau đợt phẫu thuật, sức khỏe Xa Diễm càng kém. Buổi sáng ngày 20/8, em hỏi phóng viên Truyền Diễm: "Dì ơi, xin dì cho con biết, vì sao mọi người quyên góp tiền cho con? "Bởi vì họ đều có lòng tốt!" "Dì ơi, con cũng làm người tốt". "Bản thân con đã là một người tốt. Những người tốt sẽ giúp đỡ nhau, mới làm nên những điều càng thiện lương".Xa Diễm móc từ dưới gối ra một cuốn vở bài tập, đưa cho Truyền Diễm: "Dì ơi, đây là di chúc của con...".Phóng viên Truyền Diễm kinh ngạc, vội vã mở vở ra, quả nhiên là những việc Xa Diễm thu xếp hậu sự. Đây là một đứa trẻ tám tuổi sắp về cõi chết, nằm bò trên giường bệnh dùng bút chì nắn nót viết ba trang "Di chúc".Vì em còn nhỏ quá, còn nhiều chữ Hán chưa học nên chưa viết được hết, còn có những chữ viết sai. Xem có thể biết em không thể viết một mạch bức thư này, mà viết sáu đoạn.Mở đầu là "Dì Truyền Diễm", kết thúc là "Tạm biệt dì Truyền Diễm". Suốt cả bức thư, chữ "Dì Truyền Diễm" xuất hiện 7 lần, và 9 lần gọi tắt là Dì.Phía sau 16 chữ xưng hô này, tất cả là những điều "nhờ vả dì làm hộ" khi em lìa đời. Và còn cả lời muốn qua phóng viên "cảm ơn" và "tạm biệt" với cả thế giới."Tạm biệt dì, chúng ta sẽ gặp nhau trong mơ. Dì Truyền Diễm, nhà cha con sắp sập rồi. Cha đừng buồn, xin cha cũng đừng nhảy lầu. Dì Truyền Diễm xin dì trông coi bố con.Dì ơi, cái tiền của con cho trường con một ít ít, cảm ơn dì chuyển lời cảm tạ tới Hội trưởng Hội Hồng thập tự. Con chết xong, mang hết chỗ tiền còn lại chia ra cho những người mắc bệnh giống con, giúp họ đỡ bị bệnh hơn...".Bức di chúc làm Truyền Diễm giàn giụa nước mắt, khóc không thành tiếng."Con đã từng được sống và con rất ngoan"<Nhìn Xa Diễm đau bụng lăn lộn, bác sĩ và y tá đều bật khóc. Tất cả mọi người đều muốn gánh đau cho em, nhưng, không thể làm gì được.Tám tuổi. Xa Diễm đã thoát được cơn bệnh tật quái ác, và ra đi an lành.Trên bia mộ, một bức ảnh Xa Diễm cười mím mím, tay cầm một bông hoa dại bé xíu. Mặt chính của bia chỉ ghi vỏn vẹn: "Con đã từng được sống, con rất ngoan! (30/11/1996 - 22/8/2005)".Mặt sau bia có ghi vài lời đơn giản giới thiệu thân thế Xa Diễm, câu cuối cùng là: "Trong những năm Em sống, Em đã được nhận những ấm áp của con người. Xin Em yên nghỉ, thiên đường có Em nên thiên đường càng đẹp đẽ".Theo đúng chúc thư, 540.000 Nhân dân tệ còn thừa lại chia thành những tặng vật chia cho những em bé khác bị mắc bệnh máu trắng. Bệnh viện còn ghi lại tên của 7 bệnh nhân nhi này, Dương Tâm Lâm, Từ Lê, Hoàng Chí Cường, Lưu Linh Lộ, Trương Vũ Tiệp, Cao Kiện, Vương Kiệt.Những bệnh nhân này lớn nhất là 19 tuổi, nhỏ nhất là 2 tuổi, đều là những em gia đình quá nghèo, đang giãy giụa giữa sự sống và cái chết.Ngày 24/9, ca phẫu thuật đầu tiên thành công dành cho bệnh nhân được nhận viện phí từ Xa Diễm, là cô bé Từ Lê ở bệnh viện Hoa Tây. Sau phẫu thuật, Từ Lê mỉm cười với gương mặt trắng xanh, nói: "Xa Diễm, hãy yên nghỉ, về sau này, bia mộ của chúng tôi cũng sẽ ghi thêm một dòng như nhau: "Tôi đã từng đến trong đời này, và tôi rất ngoan!"
-
Xin giới thiệu với quý Bạn.xxxx : vi phạm quảng cáo link diễn đàn Qúy Bạn có thể tham gia truy cập kho Đỉa Phật Pháp với file gốc (Hiện đã tải lên trên 400 đỉa, và đang tiếp tiếp tục đưa lên). Qúy Bạn có thể xem,tải xuống và tùy nghi sử dụng. Có thể ấn tống , chép tặng bạn bè Diển đàn sẳn sàng biếu tặng bạn Bạn vài đỉa, còn nếu Bạn ấn tống thì chỉ lấy giá gốc đỉa trắng mà thôi (DĐ nguyện góp công chép đỉa vào việc ấn tống)
-
TRÌ CHÚ ĐẠI BI TRỊ BỆNH UNG THƯ VÀ CÁC BỆNH KHÁC Một công năng khác của Thần chú là cứu khổ. Nhữnglúc ta lâm cảnh hoạn nạn, đau thương, cùng khổ, tuyệt vọng, bi đát nhất; nhữnglúc mà ta thấy mình rơi vào con đường cùng, bế tắc, không còn lối thoát; hãy vữngniềm tin vào Đức Bồ Tát Quán Thế Âm, nhất tâm trì tụng Thần chú Đại Bi, chắc chắnNgài sẽ giúp ta những phương tiện thiện xảo, đưa ta vượt qua cảnh khổ đến nơian lạc, hạnh phúc Đây là người thật việc thật kể về sự nhiệm mậucủa Chú Đại Bi 1/ Anh Lương Tấn Trung pháp danh Chúc Gíác, kỷsư , nhà nghiên cứu khoa học , giảng viên, Anh Trung đã kể rõ trong Chương trình Phậppháp nhiệm mầu , chuyện thật đời mình rất hay ĐT của anh Trung là xxxxxxx 2/ Cháu Nguyễn quỳnh Anh Đoan còn nhỏ bị mắcbệnh ung thư tủy sống thời kỳ 3 (Di căn) , nhờ cháu và gia đình tha thiết trìtụng Chú Đại Bi mà khỏi bệnh ung thư Xin nhấp vào hai liên kết dưới để xem video : CHÙACHÂU AN Phường 1 Quận Gò vấp . Sư cô Trụ trì là Thích Nữ Lệ Phát .Việc làm từ thiện của Ngài , cũng như hoàngpháp lợi sinh của Ngài , quá vĩ đại so với người phụ nữ ...Người ta liên tưởngđến ...một vị Bồ Tát tái sinh , hiện diện trên cỏi đời nầy , để cứu độ chúngsinh ... Cách đây , khoảng 20 năm về trước, Ngài bị đau mắt nặng , không thấy đường .Hai thuỷ tinh thể đã bị đục , khôngcòn mong chi thấy ánh sáng mặt trời ... Trong hoàn cảnh chùa nghèo , không đủ gạoăn , chỉ qua bửa bằng bo bo ...thì tiền đâu để ra nước ngoài chữa trị .. Ngài là tu sĩ PhậtGiáo , con đường cuối cùng duy nhất chỉ là cầu cứu ĐỨC QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT . Đức Quan Thế Âm có THẦN CHÚ ĐẠI BI , NẾU HÀNH GIẢ CHÍ TÂM XƯNG TỤNG THẤN CHÚ ĐẠIBI , THÌ TẤT CÀ SỰ MONG CẦU ĐỀU ĐƯỢC TOẠI NGUYỆN ...Sư cô ngày đêm xưng tụng ThầnChú Đại Bi vào trong nước lọc nấu chín , dùng nước đó nhỏ vào đôi mắt ...Lạthay , mầu nhiệm thay ! chỉ trong vòng 9 ngày , thì mắt Sư cô từ từ sáng ra..sáng ra ...và cuối cùng đã nhìn thấy trời xanh , mây trắng , vừng hồng đỏ ởgóc chân trời ... Saukhi hết bệnh , Ngài lập nên đạo tràng ĐẠI BI TÂM , và mình may mắn củnglà 1 trong những Phật tử trong đạo tràng nầy. Đạo tràng tụng hàngtháng từ mùng 1 đến mùng 7 âm lịch, bắt đầu từ 18 giờ đến 20g 30 , mỗi ngày 21biến Thần chú Đại Bi , cầu quốc thới dân an , mưa thuận gió hoà , muôn dân an lạc, âm siêu dương thới ....Hiện nay , vào ngày mùng 1 có khoảng 500 đến 700 Phậttử chen chút chật cả hành lang chánh điện , cũng như ở dưới nhà Tổ , để thamgia tụng Thần Chú dưới sự hướng dẩn của Sư Cô trụ trì . Từ Hà Nội đến mũi Cà Mau , Trụ trì các chùa khắp mọi miền đất nước đều đến thỉnhcầu Sư cô và Đạo Tràng Đại Bi Tâm dốt đuốc Đai Bi cho bổn chùa của quý Ngài.
-
BỒ-TÁT QUÁN THẾ ÂM Năm nọ, thành Hàng Châu bị bệnh ôn dịch hoànhhành, vụ mùa lại mất trắng nên dân chúng lâm vào cảnh đói kém bệnh tật thậtđáng thương. Một ngày nọ, có một thiếu nữ nhan sắc kiều diễm ngồi trước mũi mộtchiếc thuyền lớn đang cặp bến vào bờ hồ trong thành. Vì những người đang lâmnạn, cô gái ấy có lời thỉnh cầu rằng: “Hễ ai bỏ tiền mua cô thì cô sẽ vềnhà hầu hạ cho kẻ ấy và xin đem số tiền này giúp đỡ dân chúng trong thành”. Trên bờ hồ mọi người tranh nhau mua và chẳng aichịu nhường ai. Cuối cùng, họ quyết định dùng phương pháp ném tiền, hễ ai némtiền trúng cô gái thì người đó được quyền rước nàng về nhà. Lúc ấy, tiền đồngtiền vàng tiền bạc được ném tới tấp, tiền rơi đầy ắp cả mũi thuyền, khoangthuyền nhưng chẳng có đồng nào ném trúng nàng. Mọi người đều thất vọng và khôngmuốn ném nữa. Cô gái ngồi trên thuyền mỉm cười hướng về những người trên hồchắp tay cám ơn rồi đem tất cả số tiền giúp người nghèo. Tin này nhanh chóng làm chấn động khắp thànhHàng Châu. Những người giàu có hết sức cảm động trước sự nghĩa hiệp của nàngnên hăng hái bố thí. Lúc đó, người nghèo được lương thực, kẻ bần cùng thì đượctiền của, người bệnh thì có thuốc chữa, mọi người được no đủ và rất hạnh phúc. Nhưng bỗng nhiên chiếc thuyền của cô gái bừnglên ánh sáng muôn màu bao trùm khắp một vùng. Một vị Bồ-tát dung mạo trangnghiêm đang chắp tay với nụ cười hiền từ. Mọi người thấy vậy rất đỗi ngạcnhiên. Ngài bảo: “Ta chính là Bồ-tát Quán Thế Âm, ta hiện đến đây để thức tỉnhvà khơi dậy lòng nhân từ của mọi người. Thông cảm, thương mến và giúp đỡ mọingười là tính cách cao quý, là trách nhiệm thiêng liêng, là thiên chức mà nhânloại không thể chối từ. Hôm nay, các người đã thể hiện những nghĩa cử thật đángkhen ngợi, nhất định các người sẽ được hạnh phúc”. Dân chúng nghe Bồ-tát dạy,vừa cảm động vừa sung sướng, không ai bảo ai tự động chấp tay đồng niệm nam môQuán Thế Âm Bồ-tát. Câu chuyện này được phổ biến rộng rãi ở TrungQuốc và làm cho niềm tín ngưỡng của mọi người đối với Bồ-tát ngày càng sâu sắchơn. Bồ-tát Quán Thế Âm rất có duyên với dân chúng Trung Quốc. Ngài để lại rấtnhiều sự tích kỳ lạ và nghiễm nhiên chúng trở thành một tín ngưỡng sâu đậmtrong dân gian. Ngài thường hiện thân nữ vì tánh cách của nữ giới nhu hòa dịudàng, điều này tượng trưng cho lòng nhân từ của Bồ-tát đối với chúng sanh nhưmẹ hiền thương con. Người đời gọi danh hiệu của Ngài là Bồ-tát QuánThế Âm cũng bởi có nguyên nhân và lai lịch của nó. Ngài có chí nguyện vĩ đại,năng lực thù thắng. Hễ người nào niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm thì dầu cholâm vào hoàn cảnh nào, thậm chí gặp các nạn như lửa lớn, bão dữ, tử hình, binhđao, giặc cướp, bệnh tật v.v... Ngài đều từ bi đến cứu thoát, khiến người đanglâm nạn thoát khỏi thống khổ được an vui hạnh phúc. Vì luôn luôn lắng nghetiếng đau khổ của chúng sanh ở thế gian nên Ngài có danh hiệu là Quán Thế Âm.Từ vô số kiếp về trước, Bồ-tát Quán Thế Âm đã thành Phật nhưng do lòng từ bibao la nên Ngài không trụ vào Niết-bàn mà luôn hiện thân thuyết pháp cứu độ mọiloài. Thậm chí, để phù hợp với hoàn cảnh và mong ước của mỗi chúng sanh,Ngài còn hiện thân Phật, thân Bồ-tát, Ðế thích, trưởng giả, Tỳ-kheo, Tỳ-kheoni, thân nam, thân nữ, trẻ em v.v... để gần gũi cuộc sống mọi người rồi sau đódần cảm hóa giác ngộ họ. Nhìn chung, Quán Thế Âm là thể hiện lòng Bi (sa., pi. karuṇā), một trong hai dạng củaPhật tính. Vì vậy, có khi người ta đặt tên cho Bồ Tát là bậc Đại Bi (sa. mahākāruṇika). Dạng kia của Phậttính là Trí huệ (Bát-nhã, sa. prajñā),là đặc tính được Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi(sa. mañjuśrī) thể hiện. Quán Thế Âmlà vị Bồ Tát thể hiện nguyện lực của PhậtA-di-đà(sa. amitābha) và được xem như quyếnthuộc của vi Phật này (Tịnh độtông). Với lòng từ bi vô lượng, Quán Thế Âm thể hiệnsức mạnh huyền diệu cứu giúp mọi chúng sinh quán tưởng đến mình lúc gặp hiểmnguy. Trong nhân gian, Quán Thế Âm là vị bảo hộ tránh khỏi tai hoạ và hay đượcphụ nữ không con cầu tự Mỗi khi tinh thần chúng ta bất an, phiền muộn,sợ hãi, giận dỗi; cuộc sống chúng ta khó khăn, đói khổ, bệnh tật, thất vọng,thì những lúc đó chúng ta nên thành kính niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm. Sựcảm ứng qua lại của tinh thần sẽ giúp ta loại bỏ những phiền muộn, tinh thầnđược hài hòa thanh tịnh và tạo ra một sức mạnh tinh thần khiến tadễ dàng vượt qua mọi khó khăn gian khổ Xin mời xem hai viedo clip dưới đây, thểhiện năng lực cứu khổ cứu nạn, chửa lành bệnh nan y của Ngài trong cuộc đời thực,rất hay
-
HUYỀN DIỆU CHÚ ĐẠI BI Thần Chú Đại Bi được rút ra từKinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại BiTâm Đà Ra Ni, do chính Đức Phật Thích Ca diễn nói trong một pháp hội trước mặtđông đủ các vị Bồ Tát, Thinh văn, Thánh chúng, Trời, Thần, Thiên, Long, các Đạithánh tăng như Ma-Ha Ca-Diếp, A-Nan... cùng câu hội, tại núi Bồ Đà Lạc Ca(Potalaka), một hải đảo ở về phía Nam xứ Ấn Độ, được coi như là nơi mà Đức BồTát Quán Thế Âm thường trụ tích. Ta có thể tin chắc điều đó bởi vì Kinh ThiênThủ Thiên Nhãn được mở đầu bằng câu nói quen thuộc của Ngài A Nan "Như thếtôi nghe" cũng như xuyên qua nội dung hỏi đáp giữa ngài A Nan và Đức ThếTôn đã được ghi lại ở trong kinh. Trong pháp hội này, Bồ Tát QuánThế Âm vì tâm đại bi đối với chúng sanh, muốn cho "chúng sanh được an vui, đượctrừ tất cả các bệnh, được sống lâu, được giàu có, được diệt tất cả nghiệp áctội nặng, được xa lìa chướng nạn, được tăng trưởng công đức của pháp lành, đượcthành tựu tất cả các thiện căn, được tiêu tan tất cả sự sợ hãi, được mau đầy đủtất cả những chỗ mong cầu" mànói ra Thần Chú này. Ngài cho biết lý do ra đời củaThần Chú như sau: Vào vô lượng ức kiếp về trước, Phật Thiên Quang Vương TịnhTrụ Như Lai, vì tâm thương tưởng đến chúng sanh nên đã nói ra thần chú Đại Bivà khuyến khích Bồ Tát Quán Thế Âm nên thọ trì tâm chú này để mang đến lợi íchan vui lớn cho chúng sanh trong đời vị lai. Bồ Tát Quán Thế Âm lúc bấy giờ mớiở ngôi sơ địa khi nghe xong thần chú này liền chứng vượt lên đệ bát địa. Vuimừng trước oai lực của thần chú, Ngài bèn phát đại nguyện: "Nếu trong đờivị lai, con có thể làm lợi ích an vui cho tất cả chúng sanh với thần chú này,thì xin khiến cho thân con liền sanh ra ngàn mắt ngàn tay". Lập tức, Ngàithành tựu ý nguyện. Từ đó, hình ảnh của vị Bồ Tát Quán Thế Âm ngàn tay ngàn mắttrở thành một biểu tượng cho khả năng siêu tuyệt của một vị Bồ Tát mang sứ mệnhvào đời cứu khổ ban vui cho tất cả chúng sanh. Ngàn tay, ngàn mắt nói lên cáikhả năng biến hóa tự tại, cái dụng tướng vô biên của thần lực Từ bi và Trí huệtỏa khắp của Bồ Tát Quán Thế Âm. Ngàn mắt để có thể chiếu soi vào tất cả mọicảnh giới khổ đau của nhân loại và ngàn tay để cứu vớt, nâng đỡ, như Đức Phậtgiải thích với Ngài A Nan ở trong kinh, "tiêu biểu cho hạnh tùy thuận cácsự mong cầu của chúng sanh". Kinh và Thần chú Đại Bi sau đóđã được ngài Dà-Phạm-Đạt-Ma (Bhagavaddharma: có nghĩa là Tôn Pháp) một Thiền sưẤn Độ, du hóa qua Trung Quốc vào niên hiệu Khai Nguyên đời nhà Đường dịch vàchuyển âm từ tiếng Phạn qua tiếng Trung Hoa và được Hoà Thượng Thích Thiền Tâmchuyển ngữ qua tiếng Việt. Với oai lực và linh nghiệm đã được chứng minh quakhông gian và thời gian, thần chú Đại Bi đã được trân trọng trì tụng trong cáckhoá lễ, các nghi thức tụng niệm chính của các quốc gia theo truyền thống Phậtgiáo Đại thừa như : Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam,.. Sự linh nghiệm, hiển linh của chú Đại Bi từ lâu đã được dângian Việt Nam nói riêng, dân chúng khắp nơi trên tòan cõi phương Đông nói chunghiểu là “thần chú của Phật Pháp”. Sự linh ứng của chú Đại Bi thật diệu kỳ: cứukhổ cứu nạn con người không bị ma quỷ, kẻ ác hãm hại; bảo vệ con người trướcnhững khó khăn mà con người phải đương đầu gánh vác; Trị cho con người nhữngthói tật cả về tâm bệnh lẫn thân xác; Có sức chuyển hóa vũ trụ biến tạo nên cáttường từ nghiệp chướng; Hóa giải chứơng duyên, ngang trái; Hóa thân Bồ Tát,giúp con người có sức mạnh vô biên tự mình tháot khỏi ách ngục hình của thanhân;…Đã có hàng ngàn câu chuyện truyền tụng về sự huyền diệu của chú Đại Bi cóthật trong dân gian và do đó, con người đến với chú Đại Bi như tìm đến một cứucánh lúc tai nàn. Nói chung, công năng của chú Đại Bi là làm chochúng sinh tiêu trừ được khổ nạn, đem đến cho con người sự vui tươi và có khảnăng chữa lành tâm bệnh lẫn thân xác, năng lực của chú có thể hóa giải cảnghiệp chướng trái duyên, hóa giải tội báo. Thần lực của chú Đại Bi thật vôsong. Những lúc ta lâm cảnh hoạn nạn, đau thương,cùng khổ, tuyệt vọng, bi đát nhất; những lúc mà ta thấy mình rơi vào con đườngcùng, bế tắc, không còn lối thoát; hãy vững niềm tin vào Đức Bồ Tát Quán ThếÂm, nhất tâm trì tụng Thần chú Đại Bi, chắc chắn Ngài sẽ giúp ta những phươngtiện thiện xảo, đưa ta vượt qua cảnh khổ đến nơi an lạc, hạnh phúc. Tuy nhiên,để Thần chú phát huy được oai lực của nó, khi trì tụng ta phải tự mình quán chiếutại sao ta lại rơi vào cảnh khổ mà người khác lại không, và tại sao Thần chú lạicó công năng cứu khổ? Giáo lý của nhà Phật cho chúng ta biết rằng tất cả mọi việctrên cỏi đời này không có gì xảy ra một cách ngẫu nhiên. Tất cả những đauthương bất hạnh mà ta phải gánh chịu trong kiếp sống hiện tại: gông cùm tù tội,bệnh hoạn, nghèo hèn,... là kết quả của những ác nghiệp mà ta đã gây nên từ baokiếp trước hoặc trong kiếp này, nay đến lúc ta phải trả. Sở dĩ Thần chú Đại Bicó khả năng đưa ta vượt qua khỏi cơn khổ nạn vì công năng siêu tuyệt của nó làPhá Ác Nghiệp Chướng Hãyđến với Mẹ Quan Âm thông qua chú Đại Bi. Hãy niệm tụng với lòng THÀNH KÍNH TINTƯỞNG TUYỆT ĐỐI VÀ TẬP TRUNG TƯ TƯỞNG TÒAN VẸN. Hãy đứng thẳng hoặc ngồi ngayngắn trước khi niệm Chú Đại Bi, đó là thân nghiệp được thanh tịnh. Miệng tụngkinh không nói lời gian trá. Tâm thanh tịnh không để ý tán lọan. Ngoại cảnhlắng trong là khế ngộ nguồn tâm, diệu nhập pháp lý. Chân ngôn được phát ra nhưngọc tìm dưới đáy nước trong. Vẻ trong sáng của ngọc được hiển bày vào tâmnguyện thành tựu cũng như nhập vào biển diệu nghĩa, thật là huyền nhiệm. Xin xem hai liên kết dướiđây để thấy sự nhiệm mầu của Chú Đại Bi