Thiên Đồng

Hội viên
  • Số nội dung

    6.278
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    75

Everything posted by Thiên Đồng

  1. Tuấn Diệp, Người ta như cái máy vi tính nối mạng hay như cái radio tiếp sóng tầng Hz. Do quan hệ huyết thống nên trường năng lương đôi khi "nối mạng" được hay "bắt sóng" được trong điều kện môi trường thông tin ổn định, tức là lúc ngủ. Lúc ngủ thì trạng thái vô thức làm chủ nên các kênh thông tin hay kênh sóng phát hay và "kết nối" được, do vậy mà mơ, thấy được viễn cảnh. Đại khái là vậy. Thiên Đồng
  2. Thiên Đồng
  3. @ Séo chỉa, Séo chĩa "Tái xuất giang hồ" Đầu xuân rối chuyện nhào vô hỏi Đồng Sớm cuối tháng Giếng thì dong Trể tháng bốn chạy rong nước ngoài. Ly hương tính chuyện tiền tài Công sự việc miệt mài đắn đo Lại còn tính chuyện sang đò Chừng nào chán chồng bỏ, nọ cần gì hỏi han? Hôm nay tâm trạng rối bời, Mong Huynh xem giúp ngày rời Việt Nam? (1) Đi vì chuyện học hay làm? (2) Khi nào chồng bỏ, đỡ “nhàm” tấm thân? (3) Muội đây ôm lấy chữ Canh Tám mươi là số chẳng lành tuổi Thân. Ngày Tân con Hợi, tháng đầu năm, Muội vung nét bút cũng nhằm giờ Thân (4:27 pm) Mong Huynh bớt chút phong trần, Xem qua một quẻ bớt phần lo âu… Kính Huynh một ống rượu bầu, Mong sau này có dịp bầu bạn Huynh. Em vừa nhận được tin nên xin anh Thiên Đồng cho em xin đổi câu hỏi thứ 3 lại ạ. Số là mẹ em sắp được bầu vào một vị trí mới, em xin Anh xem giúp mẹ có đỗ hay không ạ? Được. Nhưng đợi hơi dài. Hiện tại là giờ Tuất (7:25 p.m) ngày Tân Hợi tháng Giêng năm Tân Mão. Em xin chân thành cám ơn anh Thiên Đồng ạ @ Tuấn diệp, Chào anh Thiên Đồng, anh xem giúp em với ạ! Em tuổi Ất Sửu (1985) Em hỏi vào ngày 25/02/2011, 16h52' Thương xích khẩu Câu 1: Hỏi về sức khỏe mọi người trong gia đình. Nam dể bị bệnh về tiêu hóa, nữ dể bị trầm cảm. Câu 2: Hỏi về tình duyên của em ạ, liệu năm nay em có... "xuất chuồng" được ko ạ? :"> Nếu tháng 5 âm không được thì sang năm sau. Câu 3: Con đường công danh sự nghiệp năm nay của em thế nào ạ? Tương đối thuận lợi, mặc dù có sự hiểu lầm chuyện nhỏ làm mất lòng đồng nghiệp thân thiết. Em cám ơn anh :) @nguyễn hải Nhờ bác "Thiên đồng" xem giúp cho em 1 quẻ 10h51 phút ngày 25 tháng 2 năm tân mão, kinh đại an cho em hỏi 1. Năm nay có thay đổi công việc không. Không thay đổi, nếu có thì chỉ chuyển trong nội bộ công ty. 2. Việc kinh doanh nhà đất của tôi năm nay kết quả như thế nào. Đóng băng. Nhiều khó khăn và coi chừng bị lừa đão. 3. Năm nay có thay đổi về nhà cửa không. Thay đổi được thì tốt. Sợ là không thay đổi được. Cảm ơn bác, chúc bác sức khỏe, thịnh vượng @MeBongKem Chào chú. Năm mới chúc chú mạnh khỏe, vạn sự như ý Phiền chú xem giúp cháu 1 quẻ: Cháu sinh năm 1982- là nữ lúc 9h58p ngày 27/02/2011 có hỏi: 1, Năm nay gia cảnh cháu thế nào? (, vợ chồng, con cái...) Có khó khăn hơn năm trước ở 6 tháng đầu năm. 2, Việc mua nhà cửa có gặp vấn đề j ko ah? Xem kỷ giấy tờ đất đai, hợp đồng, coi chừng giấy tờ chưa được hợp thức. 3, Công việc của vợ chồng cháu có thuận lợi không ah? Vẫn tà tà, 3 chìm 7 nổi, có cơ hội nhưng ít hiệu quả. Cháu cảm ơn chú nhiều. @rồng đất 23 chào chú. Phiền chú xem giúp cháu 1 quẻ: Tuổi gì: mậu thìn - nam Hỏi vào ngày 28 tháng 2 năm 2011 giờ 9:15p Câu hỏi 01: năn nay sức khỏe cháu thế nào? nên xem lại phổi hay tiêu hóa. Có thể là phổi yếu. Câu hỏi 02: năm nay cháu ra trường liệu có thể đi học tiếp đựoc ko ? ( cháu học cao đẳng giờ muốn học tiếp lên đại học ) Chịu khó về tài chính thì học tiếp, đi làm thêm. Không thì để sau. Câu hỏi 03: liệu năm nay cháu có người yêu ko? Chưa. Bạn bè cho vui thôi. Chúc mọi người như ý Thiên Đồng
  4. NHỊ THẬP BÁT TÚ tg: Bùi Dương Hải Tam Viên nằm ở khu vực giữa của bầu trời – Bắc Thiên Cực. Khu vực dải nằm giữa con đường mà mặt trăng đi qua ban đêm và mặt trời đi qua ban ngày được phân chia theo 28 chòm – 28 Tòa nhà của sao, tức Nhị thập bát Tú. Trong mỗi chòm có một Ngôi sao là chủ tinh, là ngôi nằm gần nhất Bạch đạo, dù ngôi sao đó có thể không phải là sáng nhất. Có tài liệu nói rằng ghi chép về Nhị thập bát tú đã được tìm thấy có từ thời Chiến quốc, 400 TCN ở Hồ Bắc, và khẳng định nó có sớm nhất là vào thế kỷ 5 TCN, trong Sử Ký cũng viết về các chòm. Nhưng việc phân chia thành các cung theo Ngũ hành thì phải đến đời Tần mới có, và việc gán tên các con vật thì còn muộn hơn, có thể là chịu ảnh hưởng của Ấn Độ, giống như gán các con giáp vào các chi vậy. Điều đáng lưu ý là trong kinh điển Ấn Độ cổ cũng đề cập đến các chòm sao quanh Bạch đạo, và cũng nêu con số 27 hoặc 28. Tuy các chòm không trùng nhau, nhưng trong mối quan hệ giao lưu văn hóa thông qua Phật giáo, chúng cũng được gọi chung là Nhị thập bát Tú. Quanh Thiên Cực được quy ước chia làm 4 phương Đông Tây Nam Bắc, 28 Tú cũng được chia là 4 cung, mỗi cung 7 chòm, đó là: Thanh Long – Rồng xanh - phương Đông - hành Mộc, mùa xuân, gồm: Giác – Cang – Đê – Phòng – Tâm – Vĩ – Cơ. Bạch Hổ - Hổ trắng - phương Tây - hành Kim, mùa thu, gồm: Khuê – Lâu – Vị - Mão – Tất – Chủy – Sâm. Chu Tước – Chim đỏ - phương Nam - hành Hỏa, mùa hạ, gồm: Tỉnh – Quỷ - Liễu – Tinh – Trương – Dực – Chẩn. Huyền Vũ – Rùa, rắn đen (1) – phương Bắc, hành Thủy, mùa đông, gồm: Đẩu – Ngưu – Nữ - Hư – Ngụy – Thất – Bích. Nếu xếp theo vòng Đông – Tây – Nam – Bắc thì như vậy. Có thể theo Xuân – Hạ – Thu – Đông thì xuôi chiều kim đồng hồ là Thanh Long – Chu Tước – Bạch Hổ - Huyền Vũ. Tuy nhiên thường 28 Tinh tú được xếp theo vòng vận động trời đất là Đông – Bắc – Tây – Nam, ngược chiều kim đồng hồ, tức Thanh Long – Huyền Vũ – Bạch Hổ - Chu Tước, vì vậy thứ tự các Tinh tú là : Giác – Cang – Đê – Phòng – Tâm – Vĩ – Cơ – Đẩu – Ngưu – Nữ - Hư – Nguy – Thất – Bích – Khuê – Lâu – Vị - Mão – Tất – Chủy – Sâm – Tỉnh – Quỷ - Liễu – Tinh – Trương – Dực – Chẩn. Việc đặt tên các Tinh tú cũng đặc biệt. Mỗi tên gồm 3 chữ, chữ đầu là tên gọi tắt như trên, không thống nhất. Trong đó có bộ phận cơ thể (sừng, cổ, tim,…), có đồ vật (đấu, giỏ, lưới, xe), có con người (nữ), con vật (trâu), có kiến trúc (phòng, tường, giếng…), có cả các khái niệm (gốc, hư,…). Dường như không có quy tắc. Việc này có lẽ phản ánh tư duy phóng khoáng không gò bó cổ đại. Chữ thứ 2 là một trong Thất chính lần lượt theo thứ tự: Mộc - Kim - Thổ - Nhật - Nguyệt - Hỏa - Thủy, tinh tú nào có chữ tương ứng sẽ là phù trợ cho Hành tinh ấy. Thuyết Ngũ hành đời Tần đã đem một khuôn khổ quy luật vào đây. Chữ cuối cùng là tên 1 con vật, gồm cả vật nuôi, vật hoang, và thần thoại. Con số 7 cũng là một cơ số quan trọng đối với người Trung Hoa. Có học giả cho rằng thời cổ đại người Trung Hoa chưa dùng cơ số 10, mà mới dùng cơ số 7, nên để lại một số dấu vết như tục cúng bảy bảy bốn chín ngày. Con số 7 được dùng trong Đạo giáo nhiều hơn. Các chòm này có số sao không giống nhau, ít nhất là 2 và nhiều nhất là 22, nằm trong phạm vi những chòm sao khác nhau của Thiên văn phương Tây. Bản dưới đây là tên đầy đủ, số sao, và thống kê đối chiếu với các chòm phương Tây. Trong đồ hình trên bầu trời, Thanh Long phương Đông nằm ở bên trái, Chòm Giác Đông Nam ở góc dưới bên trái, theo đúng Hậu Thiên bát quái là Trời bắt đầu mở ở Đông Nam, vòng dần lên trên vòng dần lên trên tức là theo phương Nam mà xoay vòng (trên bầu trời phương vị ngược với mặt đất). Vị trí cụ thể các chòm Nhị thập bát tú trong các bản đồ sau, trong đó ngôi màu trắng là chủ tinh. Đường màu đỏ ở giữa là Thiên xích đạo, đường cong màu xanh là Hoàng đạo. Chòm Thanh Long – phía Đông, mùa Xuân Chòm Huyền Vũ – phía Bắc, mùa Đông Chòm Bạch Hổ - phía Tây, mùa Thu Chòm Chu Tước – phía Nam, mùa Hạ Việc phân chia 28 chòm sao này có từ thời cổ đại, và người Trung Hoa không muốn thay đổi những kiến thức của người đi trước, nên họ chấp nhận nó đến hàng ngàn năm sau. Trên thực tế việc dùng 28 chòm có một cái tiện lợi là xác định đường đi của mặt trăng, nhưng có nhiều bất tiện. Trước hết là các chòm không chiếm những cung bằng nhau; có cung như Tỉnh góc lớn hơn 30 độ, trong khi cung Chủy chưa đến 3 độ. Điều này là do độ lớn các chòm chênh lệch quá nhiều, có chòm chỉ có 2 sao, trong khi chòm khác 22 sao. Độ sáng biểu kiến cũng rất khác nhau, rồi có chòm như Chủy gần như nằm lọt vào giữa chòm Sâm, nên không mang tính khoa học. Trong văn hóa Ấn Độ cũng có 27 hoặc 28 chòm sao nằm trong khu vực mặt trời và mặt trăng đi qua, nhưng không trùng với nhị thập bát tú. Các chòm sao của Ấn Độ mang tính khái quát nhiều hơn, tượng trưng cho tất cả các vì sao trên bầu trời. Vì vậy trong kinh Phật giáo cũng nói đến các chòm sao, và khi sang Trung Quốc, được các hòa thượng biên dịch là Nhị thập bát tú luôn, để thống nhất với quan sát, khoa học và truyền thống bản địa. Nhị thập bát tú đã đi vào Văn hóa của Trung Quốc và các nước Hán hóa, mang nhiều ý nghĩa Văn hóa. Chẳng hạn chòm sao Khuê tượng trưng cho Văn học, và ở Văn miếu Hà Nội có Khuê Văn Các (gác sao Khuê) tượng trưng cho vẻ đẹp, cao quý của văn học, trong chòm Khuê có 2 ngôi sáng nữa là Đông và Bích (không phải chòm Bích), nên Đông Bích cũng để chỉ văn học. Nhà Đường lập thư viện hoàng cung đặt tên là Đông Bích phủ. Lê Thánh Tông lập ra Tao đàn nhị thập bát tú gồm 28 người cũng mang tên các chòm sao. Hoặc như Mão cũng tượng trưng cho ánh sáng, vì gà báo trời sáng. Trong hình tượng truyền thống Trung hoa, Tinh chủ của các Tú là các vị thần mang đặc tính của các con vật, hay đúng hơn là con vật mang hình người, khi cần họ có thể biến thành các con vật tương ứng dễ dàng. Các Tú trở thành tín ngưỡng dân gian. Nhị thập bát tú không chỉ phát triển trong đời sống văn hóa, mà còn đi vào tôn giáo. Hơn thế nữa, nhị thập bát tú đi vào đời sống, đến mức khi nói đến vật cứng rắn thì ví với sừng của Cang Kim Long, nói đến chỗ rộng mà trống thì ví với Hư Nhật Thử. Mỗi tú còn gắn với Ngũ hành, kết hợp tạo nên những phạm trù đặc biệt. Trong cuốn sách Y thuật cổ “Hoàng Đế nội kinh”, Nhị thập bát tú ứng với 28 mạch trong cơ thể, trời xoay một vòng qua hết 28 Tú thì cúng tương ứng với mạch vận động 1 chu trình trong cơ thể con người. ----- (1) Hình tượng Huyền Vũ có liên quan mật thiết đến một vị thần có vị trí rất cao trong Đạo giáo là Huyền Thiên Trấn Vũ đại đế (Còn các danh xưng khác là Thượng đế Tổ sư, Đãng ma thiên tôn, Hỗn nguyên Giáo chủ, Bắc Cực Huyền linh đại đế) có hai con vật thiêng là Linh Quy, Thần Xà, tượng trưng cho Trường tồn và Trí tuệ. Vì vậy chữ Vũ trong Huyền Vũ ở đây với nghĩa Sức manh là gồm cả Rùa và Rắn, tiếng Anh còn dịch là Warrior. ----- Tú: hsiu (mansion) Thạch Thân: Shi Shen Cam Đức: Gande Vu Hàm: Wu Xian Tư Mã Thiên: Sima Qian Sử Ký: Shiji Trương Hoành: Zhang Heng Tổ Xung Chi: Zu Chongzhi, Tsu Ch'ung Chi, Cui Zhongji Tô Tống: Susong Nhất Hành: Yi Xing Hỗn Thiên: Hu tian Tam Viên: Three Enclosures Tử Vi: Purple Forbidden Enclosure Thái Vi: Supreme Palace Enclosure Thiên Thị: Heavenly Market Enclosure. Nhị thập bát tú: 28 Mansions Bắc Đẩu: Big dipper Thanh Long: Green Dragon – Azure Dragon Bạch Hổ: White Tiger Chu Tước: Red Bird, Red Sparrow, Vermilion Bird, Huyền Vũ: Black Warrior, Black Tortoise, Murky Tortoise Bát Quái: Ba Gua, Eight Trigrams, Tiên thiên: Earlier Heaven, Primal Arrangement Hậu thiên: Ater Heaven, Inner World Arrangement nguồn: tknd.vn
  5. Như vậy là các chị em Phụ Nỹ đều có cơ hội ốm đẹp dễ thương, khỏi cần giảm béo, lóc mỡ bụng. Các anh sẽ có thân hình săn chắc khỏe mạnh. Ôi, cuộc đời vẫn đẹp sao, tiền xăng không thèm hao. Dù tiền xăng có tăng cỡ nào, dù giá xăng ở đỉnh chót vót, dù cho tháng năm lương tiền không giảm ta vẫn nguyện đi xe đạp thôi. Ôi! Giá xăng vụt cao! Ôi, người người chóng mặt giữa tháng năm sẽ chưa biết được giá xăng về đâu.
  6. @Kitty in bác Thiên đồng xem hộ cháu. Tuổi Mậu thìn - Nữ Hỏi lúc 10:31PM ngày 22/2/2011 Cho cháu hỏi: 1. Công việc của cháu sau khi ra trường như thế nào?Có tốt không ạ?Có kiếm được nhiều tiền không ạ? Sau 2 tháng tốt nghiệp sẽ có người gọi đi làm ngay, lương cao bổng lộc nhiều, cơ hội thăng tiến tốt, va chạm cũng nhiều. 2. Sức khỏe của cháu và gia đình? Tốt không gì phải lo, xem lại gan mật cho chắc ăn. 3. Tình cảm của cháu vẫn tiến triển tốt chứ ạ?Có phải đây là một nửa đích thực của cháu không ạ? Riêng chuyện này thì năm nay mệt mỏi đây. Cố gắn dàn xếp cho ổn. Cháu cảm ơn bác nhiều ạ @ Ômai Xin bác Thiên Đồng cho con xin 1 quẻ. Tuổi : Quý Dậu - Nam Hỏi lúc: 16h34p ngày 24 /02/2011 Việc học hành của con năm 2011? Cực nhiều hơn, tất bật, nhưng kết quả cũng khá tốt. Sức khỏe của con và ba mẹ con? Gan yếu, mắt mờ hay kém hoạc có thể là đường tiêu hóa kém. Công việc buôn bán của ba mẹ con? Phải ki cóp ngay từ đầu năm, nếu không đến giữa năm hay cuối năm sẽ hụt vốn. Làm nhiều có, nhưng chi đâu cũng không đủ. Cám ơn bác Thiên Đồng. Chúc bác vạn điều may mắn ! Chúc mọi người may mắn, thành công. Thiên Đồng
  7. Giáo dục và Ngũ hành Thu San Nguyễn Thế Hùng Báo Văn nghệ GS VS Nguyễn Cảnh Toàn có bài trên báo Văn nghệ số 23 ngày 7/6/08 mang tựa đề “Tuyển sinh đại học hay tuyển sinh phổ thông cấp bốn”. Nội dung chính của bài là GS đã so sánh trường đại học như một doanh nghiệp, rồi xét các quan hệ đại học theo mô hình quan hệ trong doanh nghiệp, cuối cùng GS rút ra kết luận phải đổi mới cách tuyển sinh, sao cho phù hợp với công tác đào tạo nghề cao cấp, trong đó Bộ GD ĐT phải tăng quyền tự chủ tuyển sinh cho các Đại học. Đó là một phép so sánh mô hình rất hay. Nhưng từ phương diện tổng thể xã hội, chúng ta còn có thể so sánh đại học với một số mô hình khác, chẳng hạn theo mô hình Ngũ hành. Trong Đông y, người ta ví phổi là Kim, thận là Thủy, gan là Mộc, tim là Hỏa,…. Các vận động của cơ thể, các triệu chứng bệnh, hơn nữa cả mầu sắc và nhịp đập cũng được gán với Ngũ hành nữa. Nhiều thấy thuốc đông y giỏi có thể chẩn đoán đúng bệnh qua nhịp đập, rồi kê đơn thuốc và cách trị bệnh vô cùng chính xác cho bệnh nhân. Do vậy trước khi xây dựng mô hình so sánh đại học với bộ phận nào đó của cơ thể, chúng ta dành ít dòng để thảo luận về Ngũ hành. Sở dĩ trong Đông y, người ta gán hành Kim cho phổi vì căn cứ theo chức năng của phổi, chứ không phải phổi được cấu tạo bằng “kim loại”. Chức năng của phổi là thu vào, tích vào, để chuẩn bị tản ra. Cho nên hành Kim là tích vào. Tích vào mãi thì phải tản ra. Hành Thủy là tản ra. Tản ra là cung cấp vật chất và năng lượng cho sự sáng tạo. Cho nên sau Thủy đến Mộc. Mộc là sinh mới. Sinh mới thì dần dần trưởng thành. Cho nên sau hành Mộc đến hành Hỏa, là hành mô tả sự phát triển đến trình độ cao bằng cách hoàn thiện, bằng cách nhân rộng, như ta muốn có đám cháy lớn chỉ việc thêm củi, không phải nhóm lửa một cách khó khăn giữa ba bốn bề gió thổi nữa. Cuối cùng là hành Thổ. Đó là hành biểu hiện sự tàn lụi của một quá trình, một phong trào, là giai đoạn cuối của sự phát triển, khi mà cái mô hình Mộc đã hết hiệu lực. Sau Thổ sẽ lại là Kim, là sự tích tụ cho một quá trình phát triển mới. Vậy một vòng Ngũ hành sẽ là: Kim – Thủy – Mộc – Hỏa – Thổ , rồi lại tiếp Kim,…. Các vòng Ngũ hành sẽ luân chuyển mãi mãi, Trong một vòng lại có các vòng con. Hiểu theo cách này, thì Ngũ hành không phải là năm nguyên tố như trong triết học cổ đại, cũng không phải là năm đối tượng, mà là năm hành trình của một chu trình phát triển. Nếu coi Ngũ hành là năm bước vận động để đi từ âm sang dương, đi từ mặt đối lập này sang mặt đối lập kia, thì chúng ta đã có một công cụ biện chứng để suy tư về rất nhiều vấn đề, từ nhỏ là điều chỉnh hơi thở tập dưỡng sinh, đến lớn là cải tổ nền giáo dục nước nhà [1]. Thực vậy, theo Ngũ hành ta có thể gán cho nền giáo dục nước nhà là hành Kim, giống như Đông y đã gán cho phổi thuộc hành Kim. Mỗi trường học là một lá phổi của vùng. Khí để cung cấp cho “phổi giáo dục” là tri thức. Hoạt động của trường là tích tụ kiến thức rồi truyền cho sinh viên. Trọng tâm hoạt động của sinh viên trong trường cũng là tích lũy kiến thức, hay còn gọi là tích Kim. Sinh viên khi ra trường sẽ là các tác nhân mang kiến thức đến các bộ phận khác nhau của cơ thể đất nước, giúp cho các bộ phận nhỏ của cơ thể ấy thêm máu, thêm khí để thêm tươi tốt. Người sinh viên ra trường mang tri thức ra thực hành chính là hành Thủy. Khi anh ta đóng góp sức mình để tạo sản phẩm mới chính là Mộc. Nếu coi trường là Kim, trò cũng là Kim, thì ta cần lập kế hoạch để tích Kim cho hiệu quả. Khi nào trong một thời gian ngắn, với chi phí thấp mà lượng tích Kim cao thì lúc đó lá phổi giáo dục đang hoạt động tốt. Hơn nữa, tích Kim (tri thức và nhân cách) là việc làm suốt đời của một con người, như ta phải thở mới sống được, cho nên nhà trường còn phải là nơi dạy cho trò phương pháp tích Kim hiệu quả, tức là phương pháp và niềm say mê tự học. Tóm lại, thay vì so sánh nhà trường với doanh nghiệp như GS Nguyễn Cảnh Toàn, trong bài này chúng ta so sánh nhà trường như lá phổi, như hành Kim trong Ngũ hành. Do so sánh như vậy, chúng ta cần nêu rõ các điều kiện để tích Kim hiệu quả. Các điều kiện ấy như sau: -Trường là nơi bảo đảm những điều kiện cơ bản để tích Kim, tức là nơi có tri thức, có thể sản sinh tri thức (nghiên cứu KHCN để sinh tri thức mới), đủ yên ổn để trò tích Kim mà ít bị các điều kiện bên ngoài tác động, -Thầy, thư viện, internet, vốn văn hóa là nguồn tri thức, tức nguồn khí để “phổi giáo dục” thở, để các sinh viên (phế nang) hấp thụ, -Trò là đối tượng tích Kim tri thức, nhưng chưa biết cách tích phù hợp, chưa biết tự lựa chọn tri thức gì cần tích cho chính bản thân mình, -Thời gian tích Kim của từng cá thể phụ thuộc vào chính hiệu quả tích Kim của cá thể đó chứ không bị cản trở bởi thời lượng lên lớp và số năm học. -Bằng cấp như hiện nay không thể hiện khả năng tích Kim (tự học), chỉ thể hiện phần nào khối lượng Kim (tri thức) đã tích, do vậy phải thay đổi triệt để cách cấp bằng và cách sử dụng bằng. Đó là năm điều kiện cơ bản để đổi mới giáo dục. Với các điều kiện ấy chúng ta có thể đề xuất các biện pháp cải cách giáo dục như sau: (a).Quan niệm lại về triết lý giáo dục: Giáo dục là dạy người ta biết tích tri thức (hành Kim= học), lại biết tản tri thức (hành Thủy = hành), để sinh ra cái mới (hành Mộc = Thổ). Mọi chính sách, chế độ, cơ cấu, tổ chức của Bộ GD ĐT phải lấy triết lý này làm cơ sở. (B).Bất kỳ tổ chức cá nhân nào cũng có thể mở trường, miễn tuân thủ một số điều kiện tối thiểu của luật pháp. Tổ chức nhỏ, có khả thấp thì mở trường nhỏ. Tổ chức lớn thì có thể mở trường lớn, tùy theo sức mình. Học phí thì chỉ cần qui định mức trần, còn cụ thể thì để cơ chế thị trường vận hành. Làm như vậy sẽ phát huy toàn bộ sinh lực của xã hội cho việc tích Kim tri thức của học sinh. ©.Phát triển mạnh mẽ hệ thống internet để cả thầy và trò đều có thể tích Kim tri thức. Thời gian học không bắt buộc là 12 năm với hệ phổ thông và 4 hay 5 năm với hệ đại học, để tạo sự tiết kiệm tối đa thời gian cho sinh viên. Ai có khả năng thì tích Kim mạnh mẽ, thì hoàn thành chương trình học trong vài năm cũng được. Do đó, Bộ GD ĐT chỉ cần soạn và quản lý chương trình tín chỉ là đủ, không phải quản lý từng trường. Như vậy sẽ giải phóng được năng lượng tự thân của học sinh, đồng thời cởi bỏ luôn các hệ lũy của hệ thống hiện hành. (d).Bỏ hệ thống bằng cấp quốc gia thay vào đó là bằng cấp của trường. Từ bằng phổ thống lớp 12 cho đến bằng Đại học hay Tiến sỹ cũng do hiệu trưởng quyết định. Dần dần cơ chế thị trường sẽ đào thải các trường kém, chỉ còn lại các trường tốt. Do đó cũng bỏ luôn qui chuẩn Giáo sư quốc gia chỉ còn Giáo sư cấp trường. Và như vậy việc tuyển sinh vào trường cũng do chính nhà trường đảm nhiệm, Bộ chỉ cần ra qui định chung. Như vậy chỉ có ai thực tài mới có thể tồn tại song hành với bằng cấp của mình. Trường nào thực sự mạnh mới có thể tồn tại theo sự vận hành của thị trường. Nhưng như thế thì Bộ GD ĐT sẽ làm gì? Bộ có một nhiệm vụ sống còn mà nếu làm tốt thì sẽ đưa cả nước ta vào quĩ đạo của nền kinh tế tri thức. Đó là Bộ làm nhiệm vụ tích Kim ở qui mô quốc gia. Việc ấy là đạo tạo các nhà trí thức hàng đầu, ‘những con người lao động sáng tạo, biết hợp tác và thương yêu con người”. Những người đó được đào tạo trong một Đại học quốc gia đẳng cấp cao nhất. Đại học đó phải là một cơ sở công nghệ mạnh, vừa nghiên cứu khoa học và công nghệ, vừa giáo dục và đào tạo, để sau 10 năm nữa chúng ta có một đội ngũ những nhà sáng tạo có thể khởi tạo các vòng Ngũ hành. Trong cơ sở ấy, cá nhân phải rèn luyện ý chí và năng lực. Nhiệm vụ của họ là học tập để trở thành các tổng công trình sư, thành các nhà khởi tạo. Bài tập của họ là khởi tạo doanh nghiệp. Ý chí của họ là gánh việc nước bằng năng lực công nghệ. Lịch sử chỉ ra rằng chỉ cần một cá nhân khởi tạo như Nguyễn Công Trứ thì dân mấy vùng Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình đã được nhờ nhiều lắm rồi. Nếu cơ sở đào luyện các nhà khởi tạo “hành Kim” đó thuộc về quốc gia, thì cái lò quốc gia đào tạo nhân tài ấy xứng đáng được gọi là một “Đại học đẳng cấp quốc tế” theo kiểu Việt nam. Hay nói theo các cụ, đại học đẳng cấp quốc tế kiểu Việt nam trong thời đại mới chính là Quốc tử giám hiện đại. Nếu chúng ta lập được một cơ sở như vậy thì đó chính là món quà lớn cho Thăng Long Hà Nội ngàn năm tuổi. Các nét chính của đại học đó như sau: -Thầy phải là các nhà quân tử thứ thiệt về tâm đức và tài năng, -Trò phải được tuyển là những tinh hoa ưu tú nhất trong thanh niên, -Người tốt nghiệp phải nói thông ít nhất một hai ngoại ngữ, -Các môn học về nhân cách trước hết phải có là lịch sử, triết học, địa lý, văn chương,... Những môn này bồi đắp Kim nhân cách. Người học có thể không bắt buộc phải theo lớp các môn này, nhưng phải làm tiểu luận về chúng, để tiết kiệm thời gian học. Đó là các môn bắt buộc, nhằm tạo lập cơ sở nhân cách cá nhân và ý chí mạnh mẽ. Các môn này phải được các bậc cao minh nhất giảng bằng tiếng Việt. -Các môn về công nghệ phải bao gồm cơ học, vật lý, hóa học, sinh học, tin học, đông dược học, điện tử học, điện lực, vật liệu học... Đó là các môn nền tảng công nghệ bắt buộc. Đó là các môn tạo cơ sở căn bản cho sáng tạo công nghệ và tích Kim công nghệ về sau. Các môn này có thể được dạy bằng tiếng nước ngoài, bởi giáo sư Việt hoặc giáo sư nước ngoài. -Các chuyên đề: sau khi học cơ bản, người học có thể tự mình đề xuất các đề tài nghiên cứu, ngay từ năm đầu hoặc năm thứ hai. Tuỳ mức độ hòan thành chuyên đề có thể tốt nghiệp sớm. Mức độ hoàn thành chuyên đề thể hiện mức độ sáng tạo. -Trường Đại học này phải thực sự là cơ quan nghiên cứu, dạy để nghiên cứu, mà học cũng để nghiên cứu nữa. Cả thầy và trò đều phải trực tiếp nghiên cứu. Các đề tài nghiên cứu ưu tiên nhất phải thuộc về chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt nam. Mọi sinh viên chỉ được tốt nghiệp khi hoàn thành đề tài nghiên cứu thực tế. Họ phải có khả năng phát hiện đề tài, phải sáng tạo cách giải quyết. Đó chính là tích Kim công nghệ. Họ phải thâm nhập sâu vào thực tế đời sống để tìm kiếm đề tài nghiên cứu. -Những năm đầu chỉ cần tuyển khoảng 100-200 sinh viên. Họ phải là những sinh viên tốt nhất nước. Sau này, khi trường đã lớn mạnh thì tăng lượng tuyển. -Về cơ sở vật chất, chính phủ có thể dùng vốn ngân sách để khởi tạo Kim cho Đại học này. Trong quá trình phát triển, nó phải dần dần đảm đương các nhiệm vụ lớn lao hơn, thực hiện các đề tài nghiên cứu tầm quốc gia, quốc tế. Lúc đó nó có thể tự chủ kinh phí một phần. -Triết lý của Đại học này là dạy và học các phương pháp để khởi tạo các vòng Ngũ Hành. Nó không dạy học thuần tuý mà nó dạy người ta nghiên cứu, vì chỉ có thể sáng tạo trong nghiên cứu. Còn dạy chay như các Đại học hiện nay gọi là đọc bài giảng, ghi bài giảng và nhớ bài giảng. Không phải là đào tạo những nhà sáng tạo. Việc lập trường Đại học đẳng cấp quốc tế theo kiểu trên chính là công tác tích Kim qui mô lớn quan trọng nhất, cấp thiết nhất hiện nay. Công việc này thuộc về Chính phủ. Trường này nên được mang tên Đại học Nguyễn Bỉnh Khiêm (Nguyen Binh Khiem University) . Vì chỉ nhờ một câu của Ngài khuyên Nguyễn Hoàng mà nước Nam ta ngày nay đã được mở rộng từ Đèo Ngang đến tận mũi Cà mâu. Ngài chính là một nhà sáng tạo bậc nhất trong lịch sử dân tộc Việt nam.[2] Tài liệu tham khảo [1].Thu San Nguyễn thế Hùng, NXB Văn hóa Thông tin, 2007,“Ngũ hành và Khoa học”. [2].Nguyễn Thế Hùng, http://www.dunglac.org/, Tư tưởng trong văn hóa Viêt, “Tại sao bàn tay con người có năm ngón”. Nguồn: Báo Văn nghệ
  8. Chân thành cảm ơn Thanhdc, qtv07, Thiên Luân, 7saccauvong, wildlavender, nhocchantrau, TrungNhan, Rin86, HoangAnh, ntpt Nòng Nọc, dangkhoi. đã gửi lời chúc đến Thiên Đồng. Chúc mọi người may mắn, khỏe mạnh và phát tài.
  9. Chân thành cảm ơn Cattrang, Tictictac, Vietlight đã gửi lời chúc đến Thiên Đồng. Chúc mọi người may mắn, khỏe mạnh và phát tài.
  10. Lìa kinh thuyết pháp thì đồng ma thuyết. Y kinh thuyết pháp thì đau lòng chư Bồ tát, chư Phật. Chỉ có hàng A La Hán mới được thuyết kinh. Kim Cương đã ngộ quả A La Hán chứ?
  11. Làm gì có trước có sau?
  12. @daivietnamNăm mới, nhờ anh Thiên Đồng xem giúp cho em một quẻ. Tuổi Ất Sửu - Nam 1. Công việc của em năm nay như thế nào? Như kẻ vô công rỗi nghề. Muốn làm gì cũng dở. Cơ hội thì tuột mất, hiểu quả chẳng là bao. 2. Sức khỏe của em có cần lưu ý điều gì không? Thần kinh nên lưu ý. Khí huyết đội khi bất ổn. 3. Năm nay em có gặp được "nửa còn lại" để mai sau "kết duyên trăm năm" không? Vẫn phải...giăng câu. Hong biết dích cá nào không. Hic
  13. Hiểu như thế nào về câu kinh này?
  14. Cô thấy con nghĩ vầy có được không, cô? Có thể làNhìn ngay bên trong mình có hình ảnh Bồ Tát ngự trong đó. Nhìn ngay bên trong mình có chủng tử Bồ Tát như hạt mần có sẳn trong đất. Nhìn ngay bên trong mình ví mình như Bồ Tát. Có vị Bồ tát đang quán. Có vị bồ tát đang tự quán chiếu tự tánh mình. Hay, khi một ai đó thấy rỏ được tự tánh thì đã là đắc quả vị Bồ Tát ... Hong biết hiểu sao nữa. Hic.
  15. Án lạ đất phương Nam Kỳ 1: Hai cái sự rơi TT - Năm 1971, lúc 22 tuổi, tôi về Bạc Liêu dạy học. Nhiều em học sinh lớp đệ nhất chỉ thua thầy vài ba tuổi đã thân ái đặt cho tôi ngoại hiệu Tùng Xua tùa hia (tiếng Triều Châu - Đường Sơn đại huynh). Một sáng tháng 10-1971, Tùng Xua tùa hia đang ăn sáng trong tiệm Xừng Ký ngoài chợ Bạc Liêu thì chứng kiến một vụ việc ngộ nghĩnh. Từ đây, những câu chuyện bắt đầu... Như thường lệ, khoảng 6 giờ sáng, chị Thạch Thị Rươl - một phụ nữ Khmer, gánh cái gánh bún nước lèo danh tiếng của mình ra chợ Bạc Liêu bán. Nồi nước luôn luôn sôi bốc lên mùi mắm thơm phức; tôm, thịt quay, cá lóc, rau xanh... tươi ngon hơn các gánh bún nước lèo của người khác. Giá của tô bún chỉ cỡ 5 đồng (giá lít xăng ngày ấy là 12 đồng) nên rất vừa túi tiền của khách hàng. Rơi cái vú giả Hôm ấy, từ trong khu gia binh có một chị vợ lính đi chợ sớm. Thấy chị Rươl gánh bún nước lèo tới, chị này có nhã ý ăn mở hàng nên cúi người nhìn vào nồi nước lèo gọi một tô bún. Trời xui đất khiến làm sao hôm ấy chị ta mặc chiếc áo hở cổ, mà mối chỉ may của chiếc nịt ngực cũng đến hồi quá đát. Cái thế cúi người “thưởng thức” đột ngột khiến sợi chỉ cuối cùng đứt luôn. Tõm một cái, một miếng mút độn áo ngực của chị, tục gọi là vú giả, rơi ngay vào nồi nước lèo thơm phức của chị Rươl. Chị Rươl túm lấy bà khách mở hàng hậu đậu, la bài hãi: “Trời ơi! Gánh bún tui chưa bán mở hàng mà bà làm rớt... vú vào đó. Giờ tui bán cho ai?”. Chị buộc bà khách phải đền tiền nguyên gánh bún 120 đồng. Bà khách vừa xấu hổ sượng sùng, vừa lo số tiền không đủ cũng lên tiếng phân bua. Sợ họ đánh nhau, mấy bà mấy chị trong chợ chỉ họ qua bên Hội đồng xã Vĩnh Lợi cho mấy ông phân xử. Chị Rươl vai gánh gánh bún, tay trái nắm tay bà khách dẫn qua hội đồng xã, cách chợ Bạc Liêu khoảng trăm mét. Chủ tịch hội đồng xã Vĩnh Lợi lúc bấy giờ là ông T.V.V.. Ông mời hai phụ nữ ngồi để nghe họ “tường trình ủy khúc” - chữ dùng thời chế độ cũ. “Nguyên đơn” Rươl giành nói trước rằng nồi nước lèo và gánh bún của chị nói chung giá 120 đồng. Nay bà khách làm rớt... vú giả vào đó, không còn ai dám ăn uống gì nữa. Vậy bà khách phải đền cho chị 120 đồng; còn những món tôm, thịt, rau, bún cứ mang về... ăn cho phỉ. Chị cũng ca cẩm việc rớt vú giả vào nồi nước lèo làm gánh bún danh tiếng của chị bị xúi quẩy, sợ khách hàng sau này không dám ăn, ảnh hưởng đến uy tín “thương hiệu” của mình. “Bị đơn” mặt tái mét, sượng sùng trình bày chị ăn bún nước lèo của chị Rươl nhiều lần, thấy ngon nên định ăn mở hàng nhưng không ngờ “nó” rớt. Chị đi chợ chỉ đem theo mấy chục đồng, thật sự không đền nổi 120 đồng. Vả chăng theo chị, vú giả chỉ rớt vào nồi nước lèo nên chất lượng mấy món tôm, thịt không ảnh hưởng gì. Chị Rươl buộc chị mang về ăn cho phỉ chắc chị ăn không nổi, mà có rủ ai chưa chắc họ chịu ăn. Ông V. thật sự bối rối. Ông nói: “Thôi được, hai chị ngồi chờ mấy phút”. Rồi ông đạp xe chạy qua Tòa án tỉnh Bạc Liêu cách đó khoảng vài trăm mét thỉnh giáo lục sự T.C.H.. Ông H. là người gốc Triều Châu, làm lục sự nhiều năm. Ông H. cố vấn cho ông V.: phần nào thật sự bị hư hao thì đền phần đó, có tính toán để châm chước, gia giảm những thiệt hại khác do sự cố này gây ra. Ông V. quay về hội đồng xã xử như vầy: chị vợ lính làm rơi vú giả hư nồi nước lèo phải đền 30 đồng. Vụ việc đáng tiếc đó cũng gây những thiệt hại thương hiệu cho gánh bún mắm nước lèo nổi tiếng của chị Rươl nên phải đền thêm 20 đồng nữa. Riêng các phần thịt, cá, tôm, rau của chị Rươl không ảnh hưởng gì nên cũng không thiệt hại gì, chị Rươl không nên buộc chị vợ lính phải đền bù. Ông cũng động viên chị Rươl về nấu... nồi nước lèo khác, bán qua trưa và chiều để khỏi thiệt hại thu nhập trong ngày. Án được thi hành tại chỗ. Chị vợ lính đền tiền ngay. Mười giờ trưa hôm ấy, chị Rươl lại gánh bún nước lèo ra chợ Bạc Liêu. Trước khi bán chị làm thủ tục xả xui: cầm hai tờ giấy báo cháy phừng phừng, nhảy qua nhảy lại trên cái đòn gánh để... đốt phong long! Suýt rớt xuống cầu Một sáng tháng 10-1971, ông Vưu Tôn - một người gốc Triều Châu cư trú tại Giồng Biển (phường Hiệp Thành, thành phố Bạc Liêu ngày nay), bưng cái mẹt bánh tiêu đi qua cầu Quay để xuống chợ Bạc Liêu bán như thường lệ. Tôi quen biết với Vưu lão hán, thường ăn bánh tiêu của ông. Ông Tôn đi lên hơn nửa cầu, mắt nhìn xuống khung cảnh buôn bán nhộn nhịp phía dưới thì bỗng nhiên đạp nhằm... một miếng ván mục. Rắc một cái, chân phải của ông lọt thỏm xuống cầu, mẹt bánh tiêu đổ tưng bừng, cái rơi xuống sông, cái lăn như bánh xe xuống tận đầu đường Trương Vĩnh Ký. Bà con qua cầu thương ông già bị tai nạn, nhẹ nhàng đỡ và kéo chân ông ra khỏi lỗ ván mục. Chân ông trầy xước đổ máu, gót chân bị sưng. Một anh xe lôi khỏe mạnh bế ông lên đưa đến nhà thương Bạc Liêu cấp cứu. Bác sĩ bảo ông cữ đi lại trong mười ngày. Ngay chiều hôm đó, ông Tôn bảo con bồng đến một chỗ đánh máy đơn thuê, viết một cái đơn kiện kỹ sư P., trưởng Ty Công chánh tỉnh Bạc Liêu. Đơn nói rõ: Ty Công chánh không làm hết nhiệm vụ, không thay ván mục để ông bị té lọt chân xuống cầu bị thương, đổ hết bánh tiêu và khiến ông mất thu nhập trong mười ngày. Ông Tôn yêu cầu trưởng Ty Công chánh phải đền bù các thiệt hại về sức khỏe và thu nhập cho ông. Đơn kiện không gửi qua tòa án mà lại gửi ngay cho... tỉnh trưởng Bạc Liêu. Tỉnh trưởng Bạc Liêu có bút phê, chuyển qua cho ông phó tỉnh trưởng hành chính - thường gọi là ông phó T., mời hai bên lên giải quyết. Ba hôm sau, kỹ sư P. và ông Tôn gặp nhau tại văn phòng ông phó T.. Bình thường ông Tôn rất hiền, nhưng có lẽ hôm ấy bực bội vì cái chân bị sưng nên ông la rùm trời. Bằng cái giọng nói tiếng Việt pha lẫn tiếng Triều Châu, ông Tôn tự xưng là hỏa (tôi), gọi ông P. khi là lứ (ông), khi là hia (anh). “Lứ coi cho kỹ li, cái chưn hỏa què dồi. Có khi nào lứ li qua li lại cái cầu ấy lâu, chỉ có pà con pình dân như hỏa li thôi. Hia phải lền lại cho hỏa tiền cơm thuốc” - ông Tôn nói cứng. Kỹ sư P. cũng là người hiền lành, thấy ông già nổi nóng nên không dám cãi vã, chỉ xuống giọng năn nỉ: “Tui thấy rồi, tui thấy rồi. Bây giờ bác muốn đền bao nhiêu?”. “Hỏa lấy dẻ thôi. Lây là piên lai thuốc năm chăm tồng, mười ngày không li pán lược là một chăm tồng, pa chục tồng tiền pánh tổ. Vị chi là sáu chăm pa chục tồng”. “Dạ, bác ngồi nghỉ, tui chạy về ty để lấy tiền. Tui đi gấp quá không đem tiền theo”. Ông P. chạy về Ty Công chánh, lát sau đem tiền qua. Ông Tôn nhận tiền đền bù, biểu con viết tờ bãi nại. Ông nói: “Lứ chưởng ty à, cho người thay dán mục li chớ không thì có người té lại lền tiền nhiều nhiều ló”. Có lẽ ông P. thấy điều đó là đúng, vài hôm sau trên mặt cầu Quay được thay nhiều tấm ván mới. VŨ ĐỨC SAO BIỂN ----------------------------------------- Số ngày mai sẽ là những câu chuyện liên quan tới vàng, tình và những sự ham muốn đầy éo le của con người. Kỳ tới: Vàng và tình Án lạ đất phương Nam - Kỳ 2: Vàng và tình Một ông chủ tiệm vàng có tiếng ở thành phố C dù lớn tuổi nhưng vẫn yêu đời, ham chơi một cách chăm chỉ. Ông quen biết một cô gái có hoàn cảnh éo le, gay cấn, tình duyên dang dở. Hai người sống với nhau như vợ chồng được ba năm. Ông có thiện chí tặng cô 10 lượng vàng ròng, cái để làm vốn, cái để đeo chơi cho cuộc sống lóng lánh thêm một chút. Vàng của bổn hiệu được đóng dấu riêng hẳn hòi, đúng 9,8 tuổi, phân lượng đầy đủ. Quả là một thứ vàng danh trấn giang hồ. Vàng lên tiếng Ba năm sau, cô gái quen biết và chung sống như vợ chồng với một thanh niên khác. Ông chủ tiệm vàng và cô gái lặng lẽ chia tay. Trong buổi đầu xây dựng tổ ấm, cô gái chợt muốn mua cái tivi. Cô đưa cho anh thanh niên một lượng vàng bảo đi bán lấy tiền, bởi có tiền mới có tivi. Sách vở dạy vậy. Chàng thanh niên cầm lượng vàng, xem địa chỉ bổn hiệu thấy cũng gần nhà bèn đến đó bán cho chắc ăn. Người đứng sau quầy phụ trách mua bán vàng là cô con gái út của ông chủ tiệm. Cô gái út xem lượng vàng, chê: “Vàng này non, không đủ tuổi”. Anh thanh niên nói: “Cái gì? Cô nói làm sao vậy? Vàng này đóng hiệu của tiệm cô mà không đủ tuổi hả? Ở nhà còn có bảy, tám lượng vậy nữa đó”. Thiệt là một tiết lộ trật bàn đạp! Cô gái út bắt đầu điều tra: “Anh mua làm của hay sao mà nhiều vậy?”. Anh thanh niên: “Tôi đâu có mua. Của người ta cho em gái tôi mấy năm vừa rồi đó”. Việc mua bán vàng xong, khách ra đi. Cô gái út giở sổ sách mua bán năm ngoái năm xưa ra xem, thấy chẳng có ai mua của tiệm vàng nhà mình cả chục lượng. Và cô chợt hiểu ông già tía đã lấy vàng “kính tặng” cô gái nào đó! Cô đem phát hiện rùng rợn ấy thỏ thẻ với mẹ. Bà già nổi xung thiên, thủ sẵn một con dao yếm bén ngót. Điều may mắn là sáng đó ông chủ tiệm vàng đi nhậu bên một thị trấn khác, không về ăn trưa. Chiều ấy, ông về. Hơi men chếnh choáng khiến ông vừa cởi chiếc quần tây vừa cao hứng ca hát râm ran: “Nhớ ai mà ánh đèn hiu hắt, lá vàng nhè nhẹ rơi, mỗi mùa tiễn đưa một người”. Nghe tiếng ca, bà nhìn từ nhà bếp ra. Thấy chồng về, lại nghe mỗi mùa tiễn đưa một người thì nhiều quá nên cơn giận của bà bùng lên. Bà cầm con dao yếm lướt tới định... tiền trảm hậu tấu. Cô gái út hoảng quá la lên: “Tía ơi, má chém tía đó!”. Tuy chưa hiểu lý do gì nhưng ông vẫn nhận ra rằng vợ mình cầm con dao lướt tới không được thân thiết và dịu dàng cho lắm. Ngặt một nỗi lúc mới vào nhà, theo quán tính ông lại đóng cổng. Mà đưa tay mở cổng thì không đủ thì giờ tránh chiêu đao pháp “thương tùng nghinh khách” của bà vợ. Bức tường rào nhà ông kiên cố, xây cao một thước rưỡi. Lần đầu tiên, một số bà con ở đường X, thành phố C được chứng kiến hình ảnh một người nghiệp dư trên 60 tuổi, nặng khoảng sáu mươi mấy ký, cái bụng không thể gọi là thon thả, nhảy một cái ào qua khỏi tường rào nhà mình như một vận động viên nhảy cao chuyên nghiệp. Bà già không rượt chém được chồng đành đứng trong sân mở hết công suất phóng thanh, chửi mấy tràng ngôn ngữ Việt - Hán lộn xộn. Đây nói về ông. Nhảy ra khỏi nhà ông đành đi lang thang qua những đường phố với mình trần, chân đất. Có tiếng xe rà một bên, tưởng xe ôm ông không thèm quay nhìn. “Trời ơi, tía đi đâu vậy?”. Ông ngẩng lên. Hóa ra là người con trai lớn. Ông đáp: “Đi đâu thì kệ tao. Mầy hỏi làm giống gì?”. Người con: “Thôi, tía về đi. Lên đây con chở tía về”. Ông chủ: “Về sao được. Má mầy rượt chém tao. Ngu sao về, mầy?”. Nói xong ông đi thẳng. Chuyện vỡ lở khi bà làm đơn thưa lên công an phường. Thiếu tá trưởng công an phường lắc đầu: “Vụ việc này thuộc gia đình, cơ quan công an không can thiệp được. Ông nhà cho thì cô ấy nhận vậy thôi. Cổ không phạm tội gì hết”. Bà thở một cái khì, bèn lui ra. Hai cục vàng khò Ngày 1-1-2002 trong đời ông L.T.Đ., chủ một tiệm vàng ở thị xã Rạch Giá (Kiên Giang), là một ngày xúi quẩy hết biết. Ông cưỡi chiếc xe Suzuki mang theo hai cục vàng khò (vàng chưa tinh chế) cả thảy 46 lượng bảy chỉ, đến thành phố Long Xuyên (An Giang). Hai cục vàng khò được gói trong giấy báo, để trong túi vải, phía ngoài có bọc nilông. Ông Đ. lên Long Xuyên đổi số vàng này ra nữ trang, bán trong dịp tết 2002. Thế nhưng, khi đến khu vực ấp Hòa Tây B (xã Phú Hòa, Thoại Sơn, An Giang), ông Đ. không nỡ... xa nơi này. Ông ghé vào quán của K.T. uống nước. Khu vực này nằm trên đoạn 10 cây số vui vẻ, yến hót oanh ca, lơ thơ tơ liễu. Nhiều động mại dâm bình dân hoạt động thường xuyên, thường được gọi là xóm Liều. Thôi thì cũng nên vui vẻ tí chút. Từ đây qua Long Xuyên chỉ có vài chục cây số, vội vàng chi khách đa tình ơi! Ông Đ. bèn gửi chiếc xe cho chủ quán nước KT rồi tìm đến một động cách đó khoảng 50m để... giải sầu. Rủi sao hôm ấy Công an xã Phú Hòa ra quân chống mại dâm. Các anh truy quét xóm Liều. Ông chủ Đ. bị bắt quả tang đang làm việc “xóa đói giảm nghèo” cho em út, bị đưa về trụ sở công an xã làm việc. Đây nói về chủ quán KT. Thấy ông Đ. bị bắt, K.T. bèn đem bọc nilông (có đựng 46,7 lượng vàng) của ông để trên bộ ván ngựa nhà mình. K.T. lại nhờ bà N. dẫn xe của ông Đ. gửi qua nhà hàng xóm. Làm xong các việc, K.T. lên trụ sở công an xã nghe ngóng tình hình, xem họ xử lý ông Đ. ra sao. Riêng bà N. gửi xe xong, quay trở về thì gặp bà T., hai bà thấy bọc đồ để trên bộ ván ngựa (của nhà K.T.) thì tò mò mở ra coi. Họ tá hỏa tam tinh khi thấy hai cục vàng khò to tổ nái. Phen này thì đại phát tài. Họ bèn tranh nhau chiếm giữ. Bà N. nói dõng dạc: “Tao nhìn thấy trước nên tao có quyền mang hai cục vàng về nhà cất”. Chiều đó, K.T. về mới biết tin bà N. và bà T. tìm thấy vàng trong bọc đồ của ông Đ.. Ức lòng, bà chủ quán K.T. liền đến nhà bà N. yêu cầu chia cho một cục (không rõ trọng lượng). Bà N. còn lấy dao chặt vàng chia cho bà T. một miếng. Sáng hôm sau, bà T. mang miếng vàng đi cân được 1,4 lượng. Bà N. mang cục vàng đi cân được 17,3 lượng, đổi ra vàng nữ trang chia thêm cho bà T. ba lượng. Nói chung, nhờ của chùa nên ai cũng phát tài, có phần. Bị tạm giữ một đêm, sau khi nộp phạt hành chính xong, ông Đ. trở lại nhà K.T. lấy xe thì thấy mất bọc vàng bèn đi báo công an. Cả ba người đàn bà đều bỏ trốn. Được sự động viên của công an, họ ra trình diện, giao nộp nhiều lần tổng cộng được 38,2 lượng vàng và 4,5 triệu đồng. Phần còn lại là 7,588 lượng vàng chưa thu hồi được. Trong phiên xử vụ trộm vàng, ba lần tòa hỏi ông Đ. muốn giải quyết thế nào về số vàng bị thất thoát, ông Đ. vẫn không yêu cầu các bị cáo trả lại số vàng ấy. Ông nói: “Thưa quý tòa, tôi hổng dám kêu nài thêm. Coi như là tôi bị xui. Xin cảm ơn quý tòa, bảy lượng rưỡi đó coi như... thí cô hồn”. Vì vậy, tòa không đề cập đến trách nhiệm dân sự (bồi thường) của các bị cáo. Hú hồn hú vía ông Đ.! Theo Tuổi Trẻ
  16. Án lạ đất phương Nam (Kỳ cuối) Thứ Năm, ngày 17/02/2011, 03:50 (Tin tuc 24h) - Phàm làm người chẳng ai muốn mình thoát y giữa thanh thiên bạch nhật, trước con mắt của bàn dân thiên hạ bao giờ, trừ khi gặp phải “tai nạn” bất đắc dĩ. Nhưng hi hữu vẫn có những tình huống người ta đã “cởi”. Hai vụ án cởi đồ dưới đây có nguyên nhân khác nhau nên hậu quả cũng khác nhau. Cởi đồ và phạm tội Bà N.T.X.H. là đương sự trong một vụ tranh chấp. Năm 2004 bà bị tòa xử thua, buộc phải thanh toán số tiền hơn 53 triệu đồng. Bản án này được ủy thác cho Chi cục Thi hành án dân sự quận 11, TP.HCM thi hành. Tháng 7-2004, cơ quan thi hành án ra quyết định buộc bà H. phải chấp hành bản án đã có hiệu lực. Sau nhiều lần được giải thích, thuyết phục và hẹn lên hẹn xuống, mãi ba năm sau (tháng 5-2007) bà H. mới tự nguyện đem nộp số tiền trên cho cơ quan thi hành án quận 11 để trả cho người được thi hành án. Tuy nhiên, sau khi tự nguyện nộp tiền bà H. suy nghĩ lại và thấy chẳng tội gì mình phải trả lại tiền theo bản án. Cho rằng các chấp hành viên đã ép mình trả tiền, bà H. nhiều lần tìm đến trụ sở cơ quan thi hành án quận 11 để đòi lại tiền. Có lần đến không gặp được chấp hành viên, bà H. đã la toáng lên ngay tại trụ sở cơ quan thi hành án. Thoát y nơi công cộng Ngày 7-7-2010, bà H. gọi thêm em gái (bà M.) và con trai đến cơ quan thi hành án đòi lại tiền. Khi cán bộ thi hành án giải thích bản án đã có hiệu lực pháp luật, cơ quan thi hành án không thể trả lại tiền cho bà thì chị em bà H. bắt đầu “quậy”. Không chỉ la hét, chửi bới mà hai chị em còn đập bể luôn cửa kính của phòng thủ quỹ. Thấy sự việc coi bộ không ổn, cán bộ thi hành án đã gọi điện nhờ công an phường đến can thiệp. Dù thấy công an, cơn giận của hai bà H., M. vẫn không hạ mà dường như còn tăng lên. Các bà tiếp tục chửi cán bộ và cơ quan công quyền. Lực lượng công an đề nghị hai bà và cả cậu con trai về phường làm việc, không được gây rối tại trụ sở cơ quan nhà nước thì cả ba tiếp tục chống đối. Cực chẳng đã, những người thi hành nhiệm vụ định kéo các bà về công an phường làm việc thì cả hai tung chiêu... cởi đồ. Cả hai chị em bà H. đã tự động cởi quần áo để chống đối. Bất ngờ trước tình huống này, những cán bộ thi hành nhiệm vụ có khựng lại đôi chút nhưng cuối cùng quyết định “điệu” những “Êva” này về trụ sở công an phường để lập biên bản. Cộng thêm một số hành vi chống đối khác, hai chị em bà H. đã bị truy tố, xét xử về tội “chống người thi hành công vụ”. Riêng cậu con trai do chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự nên không bị xử lý trong vụ “quậy” cùng mẹ và dì. Trong phiên tòa xét xử các bị cáo của TAND quận 11, lúc đầu cả hai bà không thừa nhận đã tự cởi đồ mà cho rằng bị co kéo nên tuột ra. Sau đó, các bà mới thực tình “vì tức quá không kiềm chế được mà trót dại, với lại cũng chẳng ngờ làm thế là phạm tội nên mong được tòa khoan hồng”. Dù có khoan hồng nhưng bản án tòa dành cho hai bà H., M. về hành vi cởi đồ tại cơ quan công quyền là hơn 5 tháng tù và 12 tháng tù. Muốn khám thì... cho khám! Câu chuyện cởi đồ của bà Đ. lại khác. Là một doanh nhân thành đạt, kinh doanh lớn nhưng lại bị nghi ngờ lấy đồ siêu thị mà không tính tiền thì quả thật là ê mặt. Chưa hết, bà Đ. còn bị các nhân viên bảo vệ đối xử thô lỗ quá nên ức lòng mà phải... cởi. Một buổi chiều tháng 5-2010, bà Đ. đến siêu thị M. để mua hàng. Khi bà đẩy xe qua cửa an ninh, chẳng hiểu lý do gì máy soi lại kêu “tít tít” nhiều lần. Nghĩ rằng có đồ bất minh trong xe hàng của bà Đ., các nhân viên bảo vệ đã chặn xe và kiểm lại hàng. Kiểm nhiều lần không thấy hàng gì chưa tính tiền, trong khi cái máy vẫn tiếp tục “tít tít” nên nhân viên siêu thị yêu cầu bà Đ. vào phòng trong để khám người. Việc bị chặn lại đã làm nhiều người tò mò đứng nhìn, giờ lại bị yêu cầu khám người khiến bà Đ. rất tức giận. Bà Đ. yêu cầu: muốn khám người bà phải có phòng riêng, phải lập biên bản và có đại diện của ban giám đốc siêu thị chứng kiến. Các nhân viên bảo vệ cho biết không thể mời đại diện ban giám đốc xuống được nhưng vẫn buộc bà phải vào phòng trong để khám. Bà Đ. không đồng ý, định bỏ đi thì một nhân viên bảo vệ nữ nắm tay bà giữ lại. Bà giằng ra đi về phía cổng thì một nhân viên nam khác nhào tới, kéo tay kéo áo không cho bà đi. Việc co kéo này đã khiến chiếc áo bà đang mặc xô lệch và... tuột. Ức lòng vì bị hàm oan, lại bị đối xử không ra gì trước mắt bao nhiêu khách hàng siêu thị, bà Đ. không kìm được đã tự mình cởi luôn phần đồ bên dưới để bảo vệ... khám cho toàn diện! Thấy bà Đ. trong tình trạng “hở trên trống dưới”, các nhân viên đã xúm lại và co kéo bà Đ. vào phòng trong. Vụ việc phải nhờ cơ quan công an đến giải quyết. Sự thật thì bà Đ. chẳng giữ trong người món đồ nào của siêu thị mà vẫn bị đối xử khiếm nhã. Sau khi khiếu nại và lãnh đạo của siêu thị đã có lời xin lỗi nhưng bà Đ. vẫn cảm thấy uất ức về việc bị đối xử như kẻ trộm. Bà gửi thư đề nghị lãnh đạo siêu thị phải xin lỗi bà công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng và bồi thường danh dự cho mình. Tuy nhiên, các yêu cầu này của bà không được phía siêu thị đáp ứng. Vì vậy, bà M. đã nộp đơn khởi kiện ra tòa. Khi làm việc với cơ quan chức năng, lãnh đạo siêu thị vẫn cho rằng nhân viên bảo vệ của mình làm đúng chức trách vì máy báo có hàng chưa tính tiền và cho rằng bà Đ. bất hợp tác, tự cởi đồ. Băng ghi hình cảnh khám xét và cởi đồ của bà Đ. tại siêu thị đã được cung cấp cho cơ quan có thẩm quyền. Khi làm việc, bà Đ. chẳng chối bỏ chuyện mình đã tự cởi “phần dưới”, nhưng “phần trên” là do nhân viên bảo vệ túm kéo mà tuột ra. Bà Đ. cho rằng chính việc túm áo, tuột áo đã khiến bà bức xúc cởi nốt cho bảo vệ khám xét thoải mái. Hơn nữa, theo bà Đ., bà đã bị nhân viên bảo vệ cư xử khiếm nhã, đánh gây thương tích trong khi xô xát nên bà cương quyết đề nghị phải xử lý hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm khách hàng này. Vụ án cởi đồ này xảy ra đã gần cả năm nay, nhiều người khuyên bà Đ. “thôi bỏ qua, đôi co làm gì kẻo lại rùm beng lên”. Có lúc bà Đ. cũng định bỏ qua nhưng mỗi lần nhớ đến cảnh bị ê mặt giữa chốn đông người, cơn giận của bà lại nổi lên. Do bận nhiều việc, bà Đ. đã ủy quyền cho luật sư thay mình theo đuổi vụ việc này. Xem ra kết cục của vụ án đòi bồi thường vì bị cởi đồ này vẫn phải chờ... hạ hồi phân giải!
  17. @ Tho2006Kính chào anh Thiên Đồng! Chúc anh năm mới thắng lợi mới, mạnh khỏe, hạnh phúc, An khang và Thịnh vượng. Đầu xuân mong anh gieo quẻ giúp Tho2006 với ạ: Tuổi: Tân Dậu hỏi lúc 22h 15’ ngày 11 tháng 2 năm 2011 (tức ngày 09/Giêng/Tân Mão) Kinh tiểu cát. Câu hỏi 1: Sức khỏe, hạnh phúc và tài lộc năm 2011 thế nào? Hạnh phúc hơn mong đợi, tài lộc đến bất ngờ, sức khỏe không cần lo. Nhưng chú trọng đường ruột, đôi khôi khó tiêu hay đầy hơi. Câu hỏi 2: Năm 2011 tho2006 muốn đi học cao học theo diện cử đi học có được không? Liệu thi cử có đỗ đạt không? Có khó khăn, đến phúc cuối thì cũng đi được. Riêng thi cử thì không đổ đạt. Câu hỏi 3: Năm 2011 công việc có thuận lợi không? Không thuận lợi. Sẽ có nhiều biến động. Công việc cứ ì ạch trong cơ hội, đối phó nhiều trở lực. Cảm ơn anh nhiều @ Thùy lam Xin bác thiên đồng xem giúp cháu. Cháu sinh 9/9 năm ất sửu. Hỏi vào 12/2/2011 lúc 9h11' AM, sinh vô vong Bác cho cháu hỏi: 1. Năm nay công việc của cháu có tiến triển tốt không? Thu nhập có khá không? Mất nhiều cơ hội. Thu nhập đủ sống. Không khá, cũng không tệ. 2. Sức khỏe của cháu và mẹ như thế nào ạ? Tạm thời không có gì nghiêm trọng, nên gặp thầy thuốc thường xuyên. Chú ý bao tử hay thần kinh. 3.Cháu có gặp được người yêu trong năm nay không? Có gặp nhưng không phải là người yêu. tháng 5 âm sẽ đến. Cháu cảm ơn bác thiên đồng @ quoc cuong Nhờ anh xem hộ giúp quoccuong 1 quẻ nhé Ngày tháng năm sinh: 21-4 năm ất tỵ Hiện tại 9:17 sáng, ngày 12-2-2011, thương đại an 1. Sức khỏe của quoccuong như thế nào? Bệnh lâu ngày, bao tử kém, tiêu hóa có vấn đề. 2. Gia đạo có bình yên, hạnh phúc không? Nhiều cái cần xả stess, chén trong sóng khua nhưng đừng làm cho mẻ chén dĩa là được. 3. Công việc, tiền bạc như thế nào, có khá không? Kha khá, chống đến rồi mau đi. Cầm chưa ấm tay đã hết nghĩ lại không biết tại sao, chi cho gì xứng đáng. Xin cảm ơn và chúc sức khỏe tới anh. @ cachua hihi... chào anh Thiên Đồng. Trước có lần em post câu hỏi để hỏi anh mà chưa có duyên được anh trả lời. Nay Xuân mới này, thấy anh mở quán Bói quẻ đầu xuân, em cũng xếp hàng xin anh quẻ Xuân cho may mắn, hihi... Lúc 11:12p trưa ngày 12 tháng 02 năm 2011. Em muốn hỏi anh những vấn đề sau: 1. Công việc năm nay có tốt hơn năm trước không? tiền, lộc năm nay có kiếm được thật nhiều không? Nhiều trắc trở, coi chừng cái vị trí công tác lung lay. Coi chừng chi nhiều hơn thu. 2. Bao giờ em lấy chồng và chàng sẽ là người như thế nào? http://diendan.lyhocdongphuong.org.vn/public/style_emoticons/default/eyelash.gif (em sinh năm 83) Đang có rồi, đang tính chuyện "Chung thân". Nhanh thì 6 tháng sau, chậm thì sau 1 năm sẽ "ký chung thân". 3. Sức khỏe của bố mẹ, mọi người trong gia đình thế nào? Em rể em đang bị viêm gan C còn cháu gái (con anh trai) đi học mẫu giáo bị bạn ủi đập tím má, giờ bị teo cơ má thành vệt lõm ngang trên má liệu có chữa khỏi được không - mỗi lần nhìn má cháu em thấy xót xa quá :huh: Sức khỏe mọi người trong gia đình không đến nỗi nào, chú ý ngộ độc thực phẩm hoạc bội thực, khuyên đưa cháu đi bác sĩ thẩm mỹ, viêm gan C thì tập thể đục và ăn nhiều trái cây, uống nước ép trái cây vào ban ngày sẽ không sao cả. Cảm ơn anh Thiên Đồng. Chúc anh và gia đình một năm mới an lành! @ Thuy Duyen Rất háo hức mong chờ topic này của anh Thiên Đồng. Anh Thiên Đồng tốt bụng quá. hihi. Nhờ Anh xem giúp em quẻ này nhé! Tuổi Đinh Mão hỏi lúc 11h28' ngày 12/02/2011, đỗ lưu niên 1. Bao giờ em sẽ đi làm? Nhanh thì một tháng kể từ khi hỏi, chậm thì sau 6 tháng sẽ có. 2. Năm nay có thay đổi lớn nào về nhà cửa ko? Có di chuyển nhà cửa hay nơi ở ít nhất 2 lần. Tháng 4 âm lịch trở đi. 3. Em có nên khởi sự kinh doanh trong năm nay ko? Nếu có thì nên kinh doanh ngành nghề nào là tốt? Không nên. sẽ bị lỗ nặng. Kinh doanh vàng bạc đá quý, hàng điện tử điện máy... Cảm ơn anh Thiên Đồng, chúc anh và gia đình năm mới an khang, thịnh vượng! @ bé Na Chào anh Thiên Đồng. Đầu xuân xin anh một quẻ http://diendan.lyhocdongphuong.org.vn/public/style_emoticons/default/eyelash.gif Tuổi: Quý Sửu Hỏi lúc: 19:25p ngày 12/02/2011 kinh tiểu cát 1. Công việc kinh doanh của em năm nay thế nào? Thành công rực rỡ. 2. Năm nay em nên lưu ý hạn xấu gì không? Thất thoát tiền bạc, vướn chuyện thị phi kiện cáo, hay ít ra cãi vã. 3. Đang mong có đứa con đầu lòng năm nay có được tốt và như ý không ạ? Nếu có tin vui rồi thì nói chung là tốt, nếu chưa thì tốt nhất năm quý tị 2013. Năm nay sinh thì có thể là gái. Chúc anh Thiên Đồng một năm mới mạnh khoẻ, vạn sự cát tường! @ nguyenhoang271 m mới vào diễn đàn nên có gì mong anh chị chỉ bảo,nhân đây mong anh coi giúp bố e một quẻ tuổi : Quý mẹo (1964) giờ hỏi: 18:11 13.02.2011 kinh tiểu cát câu 1:năm nay bố em có nên chuyển công tác không? có chuyển, nhanh thi tháng giêng này, tháng 3 âm. câu 2:năm nay nhà em có tin gì không? Chưa có tin gì. câu 3:nhà em có nên dời mộ ông ngoại hay không? Không nên, năm nay kiêng. em xin chân thành cảm ơn,chúc anh năm mới mọi điều tốt lành @ canhcut A Thiên Đồng xem giùm em một quẻ ạ Tuổi: Canh Ngọ. Năm 1990. Giờ hỏi: 13h52 ngày 16 tháng 2 năm 2011 (Dương lịch) khai vo vong E xin được hỏi mấy vấn đề sau ạ - Topic về xem quẻ đầu xuân, không biết em hỏi về việc quá khứ có sao ko ạ? Em xin được hỏi tháng 11 âm năm ngoái trước ngày bốc mộ ông em, gương nhà em có bị vỡ, không hiểu có vấn đề gì xấu không ạ? Nhà có ai bị bất bình thường về tinh thần tâm lý kể từ đó không? - Chuyện tình duyên năm nay của em thế nào ạ? Một là bình chân như vại, hai say good bye. Muốn giữ lại thì khoan bày tỏ ý kiến về việc gì sâu xa. - Em định năm nay đi làm thêm, có nên ko ạ? xin việc có được dễ dàng không ạ? Nên đi làm. Xin việc cũng khó khăn. Em xin chân thành cảm ơn ạ Chúc anh 1 năm mới vạn sự như ý !!! @acount300 Tuổi Kỷ Tỵ (10 giờ 07 phút, ngày 27 tháng 05 năm 1989 Dương Lịch) Hỏi vào 13 giờ 33 phút, ngày 18 tháng 02 năm 2011 Dương lịch Hưu đại an Câu 1: Công danh sự nghiệp năm nay thế nào? Dậm chân một chổ. Nên như vậy thì tốt. câu 2: Tình duyên thế nào? vẫn tiếp tục tốt đẹp, hứa hẹn nhiều hơn. Câu 3: Sức khỏe thế nào? Mắt kém hoặc huyết áp có vấn đề, khí huyết kém có thể dể bị cảm hay cúm. Xin trân thành cám ơn. @ hapuma2010 Kính chào bác Thiên Đồng. Mong bác xem giúp cháu 1 quẻ Năm sinh: 1983 Ngày giờ hỏi: 21/02/2011, 4.40pm tử vô vong Câu hỏi 1: Năm nay cháu có lấy chồng không ah? Chưa lấy. Câu hỏi 2: Năm nay công việc cháu có tiển triển tốt đẹp không? có nhiều bất ngờ, thay đổi vị trí tốt, nhưng chịu đấm ăn xôi gà. Câu hỏi 3: Năm nay cháu có đi hoc tiến sỹ được không ah? Hoãn lại thì tốt. đi thì dở dở ương ương. Cháu xin cảm ơn bác Thiên Đồng và mong nhận được hồi âm của bác Kính chúc bác năm mới Sức khỏe, Vạn sự như ý Chúc mọi người như ý, an lạc, may mắn. Thiên Đồng
  18. Thiên Đồng định đưa bài này lên nhưng Phoenix đưa trước rồi. Đỡ thiệt! Hehe. Thử luận quẻ của Phô thử xem sao? Ngôn ngữ này thuộc nguồn gốc dân tộc nào? Cảnh - Tốc Hỷ Giả thuyết: Có thể là có nguồn gốc từ một dân tộc có nền văn hóa, văn hiến rực rỡ trong quá khứ với một xã hội có trình độ tư duy vượt xa trình độ tri thức hiện nay. Cũng có thể ngôn ngữ này đến từ ngoài trái đất. Tộc người này còn tồn tại không? Tử - Xích Khẩu Có thể tộc người này đã bị tuyệt diệt không còn một cá thể nào tồn tại, nhưng cũng có thể vẫn còn nhưng họ đã không thể nhớ gì hay biết gì về những mảnh vụn còn tồn tại xung quanh hay đôi khi được phát hiện lại bằng sư bất ngờ hay tìm thức. Tuy vậy, với một tư liệu nêu trên thì có thể rất hiếm người có thể hiểu được những gì ghi lại, nhưng họ cũng chưa kịp dịch ra bằng một ngôn ngữ nào đó của thời nay. Bản thảo này nói về cái gì? Kinh - Tiểu Cát Nói về một tri thức có thể nhận thức được, tương đồng trong những vấn đề phổ thông, nhưng có những thứ khác hẳn tri thức hiện nay mà không thể hiểu được. Những khác biệt đó được nhìn thấy thông qua những hình minh họa như những phim khoa học viễn tưởng mà sự liên hệ về nó thì không thể hiểu nổi. Có thể khôi phục lại ngôn ngữ này không? Khai- Vô Vong Có thể đi vào bế tắt. Có giải mã bản thảo này được không? Hưu - Đại An Vẫn chưa giải mã được. Cần một nghiên cứu dài hơi thì may ra có thể được. Bởi người hiểu được nó đã đi vào thiên cổ rồi. Thiên Đồng
  19. ngày 16/giêng/ tân mẹo, thân, Thương tốc hỷ. Quẻ của vanlang không sai. Sự việc sẽ được đưa ra ánh sáng sớm hay muộn, nhưng vì năng lực của các địa phương khác nhau, điều kiện để thực hiện cuộc điều tra khác nhau nên có nhiều trở ngại trong cuộc điều tra. Quẻ tiếp theo là Đỗ xích khẩu, cuộc điều tra sẽ có những chiều hướng mới bất ngờ hơn, những bằng chứng, chứng cứ thông qua các mối quan hệ của nạn nhân sẽ lần lượt đưa thủ phạm ra ánh sáng công lý. Những chứng cứ sắc xảo sẽ nói lên các tội lội cho những kẻ liên quan và chủ mưu. Những đường dây tội phạm sẽ lộ ra và bọn tội phạm sẽ tra tay vô còng. Việc này nhanh thì cuối tháng 2 âm sẽ rỏ ràng, sẽ có sự xét xử các bên, chậm thì giữa tháng 5 âm. Độn quẻ chơi thôi nha. hehe Thiên Đồng
  20. Cơ sở văn hóa Việt Nam của Trần Ngọc Thêm Cao Tự Thanh Ngay sau khi vừa được phổ biến rộng rãi, quyển Cơ sở văn hóa Việt Nam của tác giả Trần Ngọc ThêmTính hệ thống của văn hóaViệt Nam - một đề tài khoa học cấp Bộ đã được nghiệm thu năm 1994 đồng thời là hậu thân của giáo trình cùng tên đã được đưa vào giảng dạy trong một số trường Đại học vài năm gần đây. Tác dụng xã hội của quyển sách do đó đã vượt khỏi phạm vi một công trình nghiên cứu văn hóa thông thường, nên việc nhìn nhận giá trị đích thực của nó là một điều cần thiết. (Trường Đại học Tổng hợp thành phố HCM in, 1995) đã thu hút sự chú ý của nhiều người đọc sách. Bởi vì mặc dù chỉ là một tài liệu lưu hành nội bộ, đây lại là hóa thân của công trình Giở qua Cơ sở văn hóa Việt Nam, một người đọc bình thường cũng có thể thấy ngay rằng nó chứa đựng khá nhiều sai sót, trước hết do kiến thức cơ sở của tác giả về văn hóa và lịch sử Việt Nam. Báo Văn nghệ số 17 và 18 ngày 27. 4 và 4. 5. 1996 đã đăng tải một bài viết nêu ra hàng loạt sai lầm kỳ quặc loại cốm thóc nếp tẻ chiêm mùa trong quyển sách. Cũng có thể kể thêm nhiều ví dụ tương tự, chẳng hạn thực dân Pháp “lập ra Nam Kỳ tự trị” sau khi đánh chiếm luôn ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ năm 1867 (tr. 385), “Kim Đồng thời đánh Pháp, Võ Thị Sáu thời đánh Mỹ” (tr. 398)... Tuy nhiên, các học giả lớn đôi khi không biết tới những sự thật nhỏ, vả lại đó là hệ thống những sai sót mà người đọc bình thường nào cũng có thể đính chính ngay không cần tới “cách tiếp cận hệ thống” hay “phương pháp hệ thống - cấu trúc” sang trọng như Trần Ngọc Thêm, nên chúng chỉ làm tổn thất uy tín của riêng tác giả chứ không phương hại gì tới khoa văn hóa học. Điều quan trọng đáng nói là bên cạnh cái kiến thức cơ sở cần phải đính chính và bổ sung khá nhiều ấy, Trần Ngọc Thêm còn có một kiến thức lý thuyết và lý luận nông cạn và chắp vá về văn hóa. Chính sự nông cạn và chắp vá này mới làm hại cho văn hóa học, với các sai lầm của quyển sách về cả nội dung khoa học lẫn định hướng thực tiễn, về cả phương pháp nghiên cứu lẫn thao tác chứng minh. Tình hình này thể hiện đặc biệt rõ nét ở hai chương đầu (Văn hóa học và văn hóa Việt Nam và Văn hóa nhận thức), mà trước tiên là ngay từ định nghĩa về văn hóa. Khởi đi từ cách hiểu “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình”, Trần Ngọc Thêm đi tới kết luận văn hóa gồm bốn đặc trưng (tính hệ thống, tính giá trị, tính lịch sử, tính nhân sinh) và ba chức năng cơ bản (tổ chức xã hội, điều chỉnh xã hội, giáo dục) (tr. 20 - 24). Ở đây không phải chỗ để vạch chữ tìm nghĩa, nhưng tính chủ động, tính nhân đạo hay chức năng nhận thức, chức năng định hướng, chức năng tái tạo thế giới... của văn hóa là những điều cần đề cập mà chưa được đề cập hay đề cập chưa đúng mức trong quyển sách cho thấy Trần Ngọc Thêm chưa thực sự nắm vững bản chất của văn hóa. Bởi vì văn hóa là một hệ thống giá trị, nhưng nhìn từ một góc độ khác, nó còn là một thế giới quan (worldview) thể hiện và phản ảnh sự lựa chọn của con người trong những điều kiện sống nhất định, sự lựa chọn này biến hệ thống các giá trị văn hóa thành hệ thống chuẩn mực xã hội trước hết trong các hành vi sáng tạo. Và ngay định nghĩa nói trên cũng chưa chính xác. Các giá trị văn hóa luôn luôn được tạo ra trong những điều kiện cụ thể và một cách có mục đích, nên văn hóa không chỉ bao gồm các giá trị được tạo ra mà còn cả những cách thức sáng tạo và sử dụng các giá trị ấy. Dĩ nhiên những cách thức này cũng là những giá trị do con người tạo ra, nhưng đó là một loại giá trị đặc biệt, mang ý nghĩa định tính và đóng vai trò thước đo về trình độ phát triển của mọi nền văn hóa. Vì nếu phương thức phát triển của hệ thống các giá trị được tạo ra chủ yếu là thay thế, phủ định lẫn nhau thì của hệ thống những cách thức sáng tạo và sử dụng này chủ yếu lại là kế thừa, bổ sung cho nhau, nên nó lưu trữ nhiều kinh nghiệm và trí tuệ hơn đồng thời cũng có khả năng dự báo và định hướng cao hơn. Nói theo ngôn từ của các nhà ngôn ngữ học thì đây chính là các yếu tố ngữ pháp và phong cách của một nền văn hóa, cũng vận động và thay đổi theo lịch sử nhưng luôn mang tính ổn định, thống nhất cao hơn hẳn so với các yếu tố từ vựng và ngữ âm. K. Marx từng có một kết luận cần nhắc lại về vấn đề này “Những cá nhân biểu hiện đời sống của mình như thế nào thì họ là như thế ấy, do đó họ là như thế nào, điều đó ăn khớp với sản xuất của họ, với cái mà họ sản xuất cũng như cách họ sản xuất” (K. Marx và F. Engels, Tuyển tập, tập I, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1980, tr. 269). Cho nên với định nghĩa của Trần Ngọc Thêm, người ta sẽ không thấy được sự khác biệt văn hóa giữa hai cái ngạnh trên chiếc lưỡi câu thời tiền sử và thời hiện đại : trên phương diện là một giá trị được tạo ra thì cái ngạnh ấy đã được hoàn chỉnh hàng ngàn năm trước về mặt công cụ để đảm bảo chức năng giữ chặt con cá câu được của nó rồi, nên sự phát triển văn hóa ở đây chỉ nằm trên phương diện cách thức tạo ra, tức kỹ thuật chế tác công cụ ma thôi. Tương tự, hai ca sĩ tài năng đều có thể thành công khi trình bày cùng một bài hát nhưng chắc chắn họ sẽ đưa lại cho người nghe hai cảm xúc thẩm mỹ khác nhau : rõ ràng nhiều giá trị văn hóa đã được tạo ra ngay trong quá trình con người sử dụng - tiêu dùng các giá trị văn hóa. Tóm lại, định nghĩa nói trên chỉ mới đề cập tới cái lượng, cái hình chứ chưa giới thiệu được về cái chất, cái thần của văn hóa. Không lạ gì mà Trần Ngọc Thêm đã chạy theo số lượng khi nỗ lực giành quyền tác giả cho phương Nam, cho Bách Việt các giá trị loại Hà đồ, Lạc thư trên một đường hướng ít minh bạch và với những thao tác thiếu thẳng ngay kiểu nhập nhằng đánh đồng phương Nam với Việt Nam, Bách Việt với Lạc Việt. Ở đây cũng cần nhìn qua sự hiểu biết của tác giả Cơ sở văn hóa Việt Nam về những khái niệm loại âm dương, Ngũ hành, Bát quái..., vì giới thiệu chúng trong chương Văn hóa nhận thức, Trần Ngọc Thêm đã công nhiên gieo rắc nhiều kiến thức sai trái ngoài việc mặc nhiên coi chúng là uyên nguyên của truyền thống triết học và tư tưởng Việt Nam. Trước hết, hãy nói tới những kiến giải về âm dương. Triển khai hai phạm trù nhận thức này vào việc tìm hiểu lịch sử văn hóa, trong nhiều chương sau, Trần Ngọc Thêm đã nhiều lần nhắc lại về hai hệ thống văn hóa - nền văn hóa du mục (và gốc du mục) trọng dương thiên động phương Bắc và nền văn hóa nông nghiệp trọng âm thiên tĩnh phương Nam. Lối phân loại và khái quát lịch sử văn hóa của nhân loại theo một mô hình đăng đối như thế chính xác tới mức nào thì tạm thời chưa bàn, chỉ cần nói ngay rằng Trần Ngọc Thêm đã sai lầm ngay từ những kiến giải về âm dương với việc lấy hình thức làm loại hình, đem khái niệm làm thuộc tính. Ví dụ ở đoạn về “Hai quy luật của triết lý âm dương”, Trần Ngọc Thêm viết “Quy luật về Bản chất của các thành tố : không có gì hoàn toàn âm hoặc hoàn toàn dương, trong dương có âm và trong âm có dương”, rồi nêu ra hai yêu cầu khi xác định tính chất âm dương của một đối tượng là phải “xác định đối tượng so sánh” và “xác định cơ sở so sánh” (tr. 82). Chỉ có một điều gần đúng, vì phải được đặt vào ít nhất là một quan hệ với ít nhất là một sự vật, hiện tượng khác cùng hệ thống thì một sự vật, hiện tượng mới có thể được coi là âm hay dương, chứ tự thân nó thì chẳng âm cũng chẳng dương gì cả, cũng như Thái cực vốn vô đối nên không phân âm dương vậy. Nhưng thao tác gần đúng ấy lại bị “sai hóa” trong hệ thống cấu trúc kiến thức về âm dương của Trần Ngọc Thêm mà trở thành một lối lập luận bị động, đối phó vì bị gắn với một quan niệm sai lạc gán cho tất cả các sự vật trên đời hai thuộc tính âm hay dương hoặc ít hoặc nhiều! Chính vì vậy mà quyển Cơ sở văn hóa Việt Nam đầy rẫy những lập luận ngụy khoa học và kết luận phi lịch sử kiểu “... tên gọi các đối lập cơ bản, thiết yếu (cũng tức là xuất hiện trước nhất) đều tuân theo thứ tự âm trước, dương sau : âm dương, vợ chồng, chẵn lẻ, vuông tròn... (tên gọi các đối lập không cơ bản như cha mẹ, ông bà... xuất hiện muộn hơn, do vậy đã chịu ảnh hưởng gốc du mục trọng nam, trọng dương tính)” (tr. 91). Thật không sao tin nổi rằng tiếng Việt có từ “vợ chồng” trước khi có những từ như “bố cái”,”cha mẹ”, và thật không rõ vì sao tổ tiên ta lại nói “đực cái”, “trống mái” mà không nói ngược lại cho nó trọng âm, trong khi chắc chắn họ phải có ý niệm về đực cái trống mái trước khi có ý niệm vợ chồng mà cũng không cần gì chịu ảnh hưởng của văn hóa gốc nào. Hơn thế nữa, nếu triển khai lập luận và kết luận ấy thì có lẽ ngay cả các nhà ngôn ngữ học cũng đớ lưỡi không nói được các từ ghép loại sông núi - núi sông, trắng đen - đen trắng, ngày đêm – đêm ngày, gạo thóc - thóc gạo là được cấu tạo theo thứ tự trọng âm hay trọng dương ! Bởi vì âm dương là một cặp khái niệm biểu kiến trong tư duy triết học của người phương Đông cổ, nó phản ảnh và khái quát hóa một cách đơn giản nhưng hàm súc sự khác biệt mang tính thống nhất biện chứng giữa các hiện tượng, lãnh vực và quá trình của thế giới chứ không phải là bản chất hay thuộc tính của các hiện tượng, lãnh vực và quá trình ấy... như lối nhận thức và suy diễn của Trần Ngọc Thêm. Về Ngũ hành thì phức tạp hơn, nên Trần Ngọc Thêm càng hiểu ít hơn. Quyển Cơ sở văn hóa Việt Nam giảng giải về Ngũ hành sinh khắc theo kiểu trực quan giống hệt các sách Tử vi nhập môn, nhưng tác giả chưa hiểu được sự tinh tế của cổ nhân khi đặt ra các quan hệ ấy nên mới giải thích Mộc khắc Thổ như “cây hút chất màu của đất” (tr. 104). Nói như vậy thì là Thổ chứ đâu phải Thủy sinh Mộc? Quan hệ tương sinh tương khắc ở đây cũng là những phạm trù biểu kiến trong tư duy triết học của người Trung Hoa cổ, chúng phản ảnh sự mâu thuẫn có tính hiện tượng, bề mặt và sự thống nhất có tính bản chất, bên trong của giới tự nhiên. Nếu Trần Ngọc Thêm thực sự có một “cách tiếp cận hệ thống” thấu đáo và nhất quán thì sẽ thấy ngay rằng các quan hệ tương khắc là các quá trình cơ lý không đưa tới những biến đổi về chất (đất ngăn nước, nước dập lửa, lửa nung sắt, sắt chặt cây, rễ cây phá đất), còn các quan hệ tương sinh mới là các quá trình hóa sinh đưa tới những biến đổi về chất của Ngũ hành. Bên cạnh đó, để phản ảnh chi tiết hơn về giới tự nhiên, các quan hệ sinh khắc còn được chia ra làm hai dạng xuất nhập, chẳng hạn Kim khắc Mộc là Kim khắc xuất còn Mộc bị khắc nhập, Kim sinh Thủy là Kim sinh xuất còn Thủy được sinh nhập..., ngoài ra còn phải kể tới các quan hệ trùng hành kiểu “Lưỡng Hỏa Hỏa diệt, lưỡng Kim Kim khuyết, lưỡng Mộc Mộc chiết” mà có lẽ Trần Ngọc Thêm chưa biết. Nếu nhìn trên một diễn tiến tương sinh khởi từ Thổ (Thổ là mẹ muôn vật, Thủy là nguồn muôn vật, không có Thổ không sinh, không có Thủy không trưởng...) thì quá trình vận động của Ngũ hành là Thổ => Kim => Thủy => Mộc => Hỏa => Thổ... Tuy nhiên, Thổ sinh Kim nhưng khắc Thủy tức là khắc cái mà Kim sinh, Kim sinh Thủy nhưng khắc Mộc tức là khắc cái mà Thủy sinh...: rõ ràng người xưa đã thấy sự chuyển hóa giữa hai mặt thống nhất và đối lập trong quá trình vận động, phát triển của thế giới. Nhưng mô hình Ngũ hành còn thiếu sót trong việc phản ảnh một thế giới thống nhất, hoàn chỉnh, đa dạng và tự vận động. Thứ nhất, nó bao gồm năm yếu tố đẳng lập nên phải được thể hiện bằng một hệ thống không gian, không thể “nhất ngôn dĩ quán chi” nên lại tạo ra ý niệm về một thế giới bị chia cắt thành năm phần trong nhận thức, mặt khác thế giới ấy có điểm không nhất quán : hành Thổ về phương vị thì có vai trò định vị, thống thuộc các hành còn lại vì đứng ở trung ương còn trong quan hệ cả tương sinh lẫn tương khắc thì lại ngang hàng với bốn hành kia vì phải nằm trên một chuỗi năm điểm liên tục để đảm bảo tính liên tục trong sự vận động của thế giới. Thứ hai, sơ đồ tương sinh không ghi nhận được một cách đồng thời các quan hệ tương khắc (Thổ => Thủy => Hỏa => Kim => Mộc => Thổ...), bằng chứng là ngay cả Trần Ngọc Thêm với “phương pháp hệ thống - cấu trúc” được vài giáo sư khen nức nở mà cũng phải vẽ thành hai bảng riêng rời với sự bố trí Ngũ hành khác hẳn nhau chứ không hệ thống hóa và đồng hiện được trong một cấu trúc chung nhất (tr. 104), tình hình này không ăn khớp với quy luật trong khắc có sinh trong sinh có khắc nói theo triết lý âm dương. Thứ ba, các sơ đồ ấy không phản ảnh được đầy đủ thực tế, chẳng hạn Thủy khắc Hỏa nhưng gặp lúc “nước gáo lửa xe” thì kẻ bị cháy nhà chỉ còn cách bỏ của chạy lấy người, hay Thổ khắc Thủy nhưng vẫn có chuyện “Đê dài sắp vỡ, một vốc đất khó nỗi duy trì” nói như Nguyễn Trãi, mặt khác nhìn lên hai sơ đồ sinh khắc thì chỉ thấy Thổ là Thổ hay Thủy là Thủy, không có các dạng đan xen, phối hợp giữa năm hành kiểu “Thổ đới Thủy, Hỏa đới Kim” như giới Tử vi về sau tạo ra, tóm lại không làm rõ được sự khác biệt giữa lượng và chất, giữa nguyên lý và thực tế... Thứ tư, các quan hệ sinh khắc nói trên không thể hiện rõ sự vận động nội tại của sự vật, những thay đổi, chuyển biến mà đặc biệt là ở các quan hệ tương khắc chỉ được mô tả như các vận động có động lực bên ngoài. Chính các thiếu sót ấy đã hạn chế khả năng ứng dụng của thuyết Ngũ hành trong đời sống xã hội, trong việc tổng kết, lý giải và dự báo về hiện thực xã hội, và người xưa đã tìm tới Bát quái. Tới Bát quái thì phải thẳng thắn để nói rằng Trần Ngọc Thêm không biết gì cả nhưng lại viết khá nhiều và đặc biệt là như rất biết, đây dường như cũng là biệt tài của một số học giả đời nay... Truyền thuyết từ Bát quái Tiên thiên tới Bát quái Hậu thiên thật ra phản ảnh quá trình hình thành rồi định hình của Bát quái, chứ hoàn toàn không phải vì thay đổi mục đích sử dụng như Trần Ngọc Thêm viết (hay chép đâu đó) rằng với sự điều chỉnh để làm chính trị của Chu Văn vương, hệ thống Bát quái Tiên thiên phản ánh các hiện tượng tự nhiên đã trở thành mô hình Bát quái Hậu thiên phản ánh các hiện tượng xã hội (tr. 111 - 113). Từ khi hình thành, Bát quái luôn luôn hướng tới mục đích tìm hiểu hiện thực khách quan trong đó chủ yếu là đời sống xã hội. “Quái giả quải dã. Huyền quải vật tượng dĩ thị ư nhân, cố vị chi quái” (Quái (quẻ) là quải (treo). “Treo” các hiện tượng thiên nhiên lên để tỏ việc cho người, nên gọi là quái). Các tượng quẻ như Trời Đất Lửa Nước... là một cách nói hình tượng (về cả ngôn ngữ lẫn chữ viết thì Càn Khôn Ly Khảm đều không phải là Thiên Địa Hỏa Thủy), các danh hiệu Chấn Trưởng nam, Đoài Thiếu nữ... cũng chỉ là một cách nói hình tượng để dễ ghi nhớ thứ tự theo âm dương của sáu quẻ Chấn Khảm Cấn Tốn Ly Đoài, còn phương vị của Bát quái trong không gian cũng tương tự như Ngũ hành, đều là các quy ước mang tính biểu trưng. Nhưng điều quan trọng nhất mà Trần Ngọc Thêm không biết về Bát quái là nó không mô tả một thế giới năm thành phần như Ngũ hành. Nó coi thế giới là nhất nguyên nhất thể (Thái cực), các khác biệt của thế giới là do sự vận động nội tại tạo ra (Thái cực sinh Lưỡng nghi), và bản thân các khác biệt ấy cũng hàm chứa sự vận động nội tại phủ định chính chúng (Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, tức trong Thái âm có Thiếu dương, trong Thái dương có Thiếu âm)..., còn nó là các hiện thực khác nhau trong quá trình vận động nói trên. Sơ đồ Bát quái nhờ vậy đã giản lược được yếu tố không gian, nên Bát quái chỉ còn phải phản ảnh thế giới trong sự vận động của nó trên trục thời gian, hay nói gọn hơn, mỗi quẻ trong Bát quái là một thời điểm của hiện thực. Do không biết điều sơ đẳng này, Trần Ngọc Thêm đã trượt dài trên con đường sai lạc tới bảng so sánh Ngũ hành và Bát quái về lối tư duy với các cứ liệu (nhờ suy diễn mà có) là mỗi hành trong Ngũ hành “có nhiều nghĩa, vừa cụ thể vừa trừu tượng, có quan hệ tương sinh tương khắc, bao quát được cả trung tâm”, còn mỗi quẻ trong Bát quái “chỉ có một nghĩa, luôn rất cụ thể, không có quan hệ gì với quẻ khác, bỏ trống trung ương” (tr. 115). Nhưng không thể so sánh Ngũ hành với Bát quái kiểu ấy, vì nó cũng giống như nói “Anh ấy bị thương hai lần, lần ở chân nặng hơn lần ở Trường Sơn” vậy. Ngũ hành trước hết là các yếu tố tự nhiên, được khái quát hóa thành hệ thống khái niệm phản ảnh nhận thức của con người về các hiện tượng, lãnh vực và quá trình của giới tự nhiên, còn Bát quái là các khái niệm nhân tạo, được vận dụng như hệ thống phương tiện để nhận thức về các quá trình của thế giới, đặc biệt là của hiện thực xã hội. Cần nói thêm rằng phải hiểu một quẻ (cả đơn quái lẫn trùng quái) là một thời điểm biểu kiến của hiện thực thì mới đúng tinh thần “Dịch giả dịch dã” (Dịch là biến đổi) của kinh Dịch. Chính vì nhìn nhận Bát quái trên một sơ đồ không gian như Ngũ hành nên Trần Ngọc Thêm mới nói liều rằng mỗi quẻ trong Bát quái không có liên hệ gì với quẻ khác và Bát quái bỏ trống trung ương. Hệ thống các quẻ trong Bát quái liên hệ với nhau rất chặt chẽ, chẳng hạn mỗi quẻ (đơn quái) đều có thể biến thành bảy quẻ kia nếu đổi các hào dương thành hào âm và ngược lại, còn cái trung ương mà Trần Ngọc Thêm cho là thiếu ấy thì thật không ai chỉ ra được cho thời gian. Nếu nói cho thật đúng với kinh Dịch thì trung ương của Bát quái chính là cái không gian biểu kiến tức phần thể là đồ hình Thái cực Lưỡng nghi Tứ tượng, chứ Bát quái chỉ là phần dụng của cái thể Thái cực ấy mà thôi... Cũng có thể đọc thấy một vài đoạn viết liều lĩnh tương tự về Tứ đại (đất nước lửa gió), tóm lại về triết học cổ phương Đông thì sự hiểu biết của Trần Ngọc Thêm hiện tại may ra chỉ đủ để nghe giảng mà biết chứ chưa đủ để tự học mà hiểu, vậy lấy gì mà dạy cho các sinh viên bất hạnh phải học âm dương Ngũ hành Bát quái qua quyển Cơ sở văn hóa Việt Nam? Sau chương Văn hóa nhận thức, quyển Cơ sở văn hóa Việt Nam còn có một số chương mang tên Văn hóa tổ chức cộng đồng..., Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên, Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội, tóm lại tác giả chia văn hóa làm bốn phân hệ là Nhận thức, Tổ chức cộng đồng, Ứng xử với tự nhiên, Ứng xử với xã hội, trong đó những vấn đề như Phật giáo được xếp vào phân hệ Ứng xử với xã hội còn những vấn đề như Tín ngưỡng được xếp vào phân hệ Tổ chức cộng đồng. Thật là một cấu trúc có thể làm đảo lộn quan niệm của những người tìm hiểu văn hóa trong nhiều năm, có điều không thấy tác giả nêu ra căn cứ nào để lý giải về cách phân loại văn hóa không giống ai ấy. Con người không còn là con vật từ khi họ biết sản xuất, nghĩa là có ý thức sáng tạo ra những giá trị vốn không có trong tự nhiên. Và nếu lấy sự phân công lao động làm tiêu chuẩn phân loại thì có thể chia các hoạt động xã hội của con người ra làm năm kiểu (lãnh vực) cơ bản là sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần, quản lý, giao tiếp và tái sản xuất sinh học - xã hội. Sự nghiên cứu, phân loại văn hóa không thể tách rời năm lãnh vực hoạt động cơ bản này. Nhưng khởi đi từ một kiến thức thiếu sót về văn hóa học, Trần Ngọc Thêm lại đi tới một tiêu chuẩn phân loại độc đáo kiểu như xếp Phong tục vào phân hệ Tổ chức cộng đồng (Đời sống cá nhân) và xếp Nho giáo vào phân hệ Ứng xử với xã hội! Nhưng Nho giáo đâu phải chỉ là một cách ứng xử? Hệ thống học thuật - lý luận (Nho học) bao gồm vũ trụ quan, lịch sử quan của nó là một giá trị tinh thần to lớn, và hệ thống chuẩn mực xã hội - tam cương ngũ thường của nó đã thực sự là yếu tố cơ bản trong hoạt động quản lý xã hội của các quốc gia Nho giáo suốt nhiều trăm năm. Và cũng dễ thấy là Trần Ngọc Thêm không biết gì về Nho giáo từ nội dung học thuật tới lịch sử phát triển nên đã áp đặt cho nó những yếu tố “nông nghiệp phương Nam” theo một lối suy diễn rất kỳ lạ. Chẳng hạn câu Khổng tử trả lời Tử Lộ trong Trung dung theo đó ông chia sự mạnh mẽ ra “Nam phương chi cường” và “Bắc phương chi cường” rồi khẳng định người quân tử theo “Nam phương chi cường” thì Trần Ngọc Thêm hiểu đó là “cái mạnh của phương Nam” và “cái mạnh của phương Bắc” (tr. 349) rồi kết luận là Khổng tử đề cao văn hóa phương Nam! Nam phương, Bắc phương đây tức Nam diện (quay mặt về Nam, chỉ kẻ trên) và Bắc diện (quay mặt về Bắc, chỉ kẻ dưới), và hai khái niệm nói trên phải được hiểu là “Cái mạnh của người trên” và “Cái mạnh của người dưới” mới đúng với học thuyết của Khổng tử vốn chia con người làm hai loại là người trên – người dưới, quân tử - tiểu nhân, kẻ lao tâm - kẻ lao lực... Cái học về văn hóa của Trần Ngọc Thêm đại để chắp vá như thế, nên cứ khai thác một vài khía cạnh hình thức để tách sự vật ra khỏi hệ thống có thật của nó rồi ấn vào hệ thống của mình. Và hệ thống về văn hóa của Trần Ngọc Thêm ra sao? Nét độc đáo trong lập luận của Trần Ngọc Thêm là căn cứ vào triết lý âm dương mà chia văn hóa thành hai hệ thống du mục (và gốc du mục) trọng dương thiên động phương Bắc và nông nghiệp trọng âm thiên tĩnh phương Nam. Từ góc độ thao tác luận mà nhìn thì hệ thống ấy quả rất nhất quán và chặt chẽ, có điều nó chỉ phản ảnh kiến thức về văn hóa của tác giả chứ không phải về hiện thực văn hóa của loài người. Thứ nhất, nếu triển khai lập luận Bắc là du mục, Nam là nông nghiệp ấy thì văn hóa Việt Nam trước thế kỷ XVII sẽ mang tính du mục cao hơn văn hóa Campuchia, nhưng chính người Việt Nam chứ không phải người Campuchia đã khai phá thành công đồng bằng Nam Bộ, hay vào thế kỷ XVII - XVIII văn hóa Việt Nam ở Đàng Trong sẽ mang tính nông nghiệp cao hơn ở Đàng Ngoài..., mà mọi người đều biết vào thời gian này đời sống văn hóa - xã hội Đàng Trong lại chịu ảnh hưởng kinh tế hàng hóa tiền tư bản nhiều hơn ở Đàng Ngoài chứ không phải mang nhiều yếu tố nông nghiệp “trọng âm thiên tĩnh” hơn. Thứ hai, với việc lấy hình thức làm loại hình mà coi hoạt động chăn nuôi kiểu du mục không thuộc phạm trù sản xuất nông nghiệp như Trần Ngọc Thêm thì nông nghiệp chỉ còn là trồng trọt đồng thời phải kể thêm vài loại văn hóa khác như “văn hóa du nông” của nhiều tộc người du canh du cư ở miền núi hay “văn hóa đánh bắt” của các cư dân hải đảo... Thứ ba, chia văn hóa làm hai hệ thống có nguồn gốc Bắc - Nam, Trần Ngọc Thêm vô hình trung còn sa vào một loại quyết định luận địa lý về văn hóa, vì nhìn từ khía cạnh phương pháp nghiên cứu thì hệ thống hai nền văn hóa trọng âm - trọng dương ấy là một kết luận đã có trước khi chứng minh, không xuất phát từ thực tế văn hóa sử. Thứ tư, hệ thống của Trần Ngọc Thêm không những không lý giải được sự phát triển văn hóa trong những hoàn cảnh khác nhau về kinh tế, xã hội, khoa học, chính trị... mà còn không làm rõ được cả sự tiến triển văn hóa nói chung, vì với những dương biến thành âm, âm biến thành dương kia thì văn hóa sử chỉ còn là một vòng tròn không lối thoát chứ đừng nói tới việc bước qua kỷ nguyên Tin học... Tất cả những điều nói trên khiến Cơ sở văn hóa Việt Nam trở thành một công trình không có giá trị thực tiễn cũng như khoa học : mặc dù thừa hưởng và sử dụng kết quả đúng đắn và phát hiện quan trọng của nhiều nhà nghiên cứu, nhiều ngành khoa học, nó cũng vẫn không tổng kết được, không lý giải đúng và dĩ nhiên càng không thể dự báo về văn hóa Việt Nam. *** Để chỉ ra đầy đủ và lý giải rốt ráo những sai lầm trong quyển Cơ sở văn hóa Việt Nam thì còn phải tốn thêm rất nhiều giấy mực, đây là chưa nói tới việc vì tiết kiệm thời giờ của người đọc mà bài viết này không đề cập tới những chứng cứ đáng buồn về sự liêm khiết trí thức của Trần Ngọc Thêm... Nhưng những điều đó nếu có cần thiết cũng không quan trọng. Điều quan trọng nhất là phải xử sự với quyển sách một cách xứng đáng. Nó phải được đưa ra khỏi hệ thống các giáo trình văn hóa học hiện hành trong các trường Đại học càng sớm càng tốt. Còn về trách nhiệm để cho một thứ khoa học phẩm nhiều sai lầm mà ít kiến thức như vậy được công nhiên lưu hành đến nay trong các trường Đại học thì xin nhường lời cho giới chức hữu quan. Cao Tự Thanh Tháng 7. 1996 ============================== Mời các bạn xem các bài trả lời của Tác giả Trần Ngọc Thêm: 1- Trần Ngọc Thêm. Đối thoại cùng bạn đọc: về khái niệm “văn hóa” và cấu trúc văn hóa 2- Trần Ngọc Thêm. Đối thoại cùng bạn đọc: về hai loại hình văn hóa 3- Trần Ngọc Thêm. Đối thoại cùng bạn đọc: về quan hệ văn hóa phương Bắc và phương Nam 4- Trần Ngọc Thêm. Đối thoại cùng bạn đọc: về vấn đề âm dương ngũ hành
  21. Ngày xưa, khi học môn "Cơ sở...", Thầy Thêm giảng rằng Âm Dương là của người Việt còn Bát Quái của người Trung Quốc; Thầy bảo môn Tử Vi là khoa học. Ngày đó Thiên Đồng cho nghĩ rằng nhưng thứ bói toán Âm Dương Ngũ Hành là...mê tín, nhưng khi nghe Thầy Thêm giảng mình lại bất ngờ...trời ơi! Ông này là giáo sư mà còn...mê tín và dạy cho học sinh (mới lên...chức sinh viên!) môn...mê tín. Nhưng khi nghe thầy nói Âm Dương Hà Đồ Lạc Thư là của người Việt và 4000 năm văn hiến thì mình lại lấy làm...tự hào Âm Dương là của người Việt và Văn Hiến Việt 4000 hơn mà không mất ngà nào! Cũng không nghe Thầy nói "Ở trần đóng khố" nên nghĩ lại cũng ...ấm lòng. Nhưng khi một lần đọc được ngay quầy sách "Đại hạ giá' trước cửa nhà sách Văn Lang cuốn "Nghiên bút mười năm" của tg Cao Tự Thanh phê phán trên phương diện nghiên cứu học thuật thì Thiên Đồng lại một lần thất kinh, chẳng biết ai đúng ai sai. Nhưng ngày đó trong túi chỉ còn vỏn vẹn 20.000 đồng, nếu mua cuốn " Nghiên bút mười năm" rồi mà đi về trên đường lỡ găp tác phẩm "Xì lóp một giây" thì...oải lắm! Do vậy bỏ lỡ cơ hội không mua được một thông tin thú vị. Nhưng giờ thì nhìn lại thì đã khác nhiều rồi. Dương tịnh âm động là hiển nhiên, Bánh Chưng bánh Dày là duy nhất, Văn hiến Việt 5000 là chân lý. Thiên Đồng
  22. @ the hung Năm nay the hung có tuổi xây cất nhà, gặp Nhị Nghi rất tốt. Theo Phong thủy lạc Việt thì the hung phi cung khôn nhà hướng Tốn, không hợp. Nhưng không quan trọng. Quan trọng là xem xét những yếu tố còn lại quan trọng hơn. Sang năm sau Nhâm thìn nên sinh thêm một đức con nữa thì mọi việc sẽ hanh thông. Nếu the hung ở sài Gòn thì nên tìm đến Sư Phụ Thiên Sứ tư vấn kỹ hơn, nếu bạn thấy cần thiết và cẩn trọng. Mến chào và chúc an lạc. Thiên Đồng
  23. Chúc mừng sinh nhật anh PhongPhongThayChúc cho chân cứng đá mềm Lộc Tài Phát Đạt nhà thêm An Lành