Thiên Đồng

Hội viên
  • Số nội dung

    6.278
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    75

Everything posted by Thiên Đồng

  1. @ thanhnhien, Trời!!! nói vậy là hơi bị rỏ rồi đó. Thanhnhien thấy o được thì o, bế đặng thời bế. Ủa mà bộ tính chuyện "vạn đại chung thân" sao? Hehe Thiên Đồng
  2. @ thanhnhien, Chuyển việc thì làm ở vị trị phụ. Công việc hơi vất vả, tuy vậy mang tính thời vụ, có lúc ngồi chơi, có lúc dồn dập. Nên chuyển. Nhớ o bế một nàng cỡ 37 - 39 tuổi, còn ở không, sẽ được việc. Làm mất lòng nường này thì hơi mệt à nha. Chúc thành công. Thiên Đồng
  3. @ danganh, ngày 16/nhâm thìn/ tân mão, giờ mùi. đỗ xích khẩu. sau 3 tháng nữa công việc sẽ ổn định. Nhanh thì 2 tháng nữa sẽ có người gọi đi làm. Sẽ có là kinh doanh phụ trợ thêm cho có thu nhập thêm, nhưng lại trở thành thu nhập chính. hợp tác với người nữ 34 -37 tuổi thì công việc càng thuận lợi. Chúc thành công. Thiên Đồng
  4. ĐẠO THỜ MẶT TRỜI CỦA BÁCH VIỆT (phần 1) Nguyễn Xuân Quang Qua nhiều vài biết của tôi, chúng ta đã biết Đại Tộc Việt là Người Mặt Trời thái dương rạng ngời. Như thế hiển nhiên Bách Việt thờ phượng mặt trời. Xin tóm tắt nhắc lại vài điểm chính về Đại Tộc Việt Người Mặt Trời và đạo thờ mặt trời của Bách Việt đã viết. -Về ngôn ngữ học: Từ Việt biến âm với vọt (roi, nọc, que). Vọt có nghĩa phụ là vượt qua (dùng roi vọt đánh cho con vật đi nhanh vượt qua ‘qua mặt’ nên có từ vọt nhanh, vọt lẹ, dọt nhanh, dọt lẹ, máy xe rất vọt…), vượt qua chướng ngại vật, vượt hơn lên (siêu Việt). Ta thấy nghĩa vọt, vượt của Hán Việt Việt chỉ là nghĩa phụ có gốc từ Việt-vọt (roi, nọc). Việt có một nghĩa là rìu. Với nghĩa ày Việt biến âm với vớt, con dào dài dùng làm khí giới. Vớt ruột thịt với vọt vì khí giới khởi thủy là một vật nhọn. Tóm lại Việt có gốc ở từ thuần Việt vọt, vớt chỉ chung nọc, vật nhọn. Như thế Việt là Nọc mang trọn vẹn tất cả ý nghĩa của chữ Nọc Que (I), một trong hai chữ cái của chữ viết nòng nọc vòng tròn-que. Nọc có gốc nguyên thủy từ bộ phận sinh dục nam (Việt Là Gì?). Vì thế Việt là vọt, vớt có tất cả các nghĩa của chữ nọc que hay liên hệ với chữ nọc que phát gốc từ bộ phận sinh dục nam bao gồm các nghĩa: đực, dương, nam giới, vật nhọn, nọc, cọc, que, vọt, roi, cột, trụ, chầy, lao, giáo, mác, đòng nhọn, dao, búa, rìu, sừng, trống (nghĩa tổng quát), đường thẳng hay có góc cạnh, (ngành) nội, nét nhỏ, tinh tế, góc nhọn, đỉnh nhọn, góc vuông, chấm đặc, đôi khi là chấm hay vòng tròn trắng (với nghĩa trắng là ánh sánh, dương), số 1, số lẻ, mặt trời rạng sáng, mặt trời có nọc tia sáng, sáng (ngược với tối), chim có dương tính (cắt, cò, công, ó, ưng, diều hâu…), thú có dương tính, thú có sừng, núi đỉnh nhọn (nổng, lĩnh), mầu đỏ, lửa, mặt trời (dương)… Vì từ Việt dùng chỉ một đại tộc, một đất nước, một quốc gia, một liên bang thì bắt buộc phải có nghĩa theo triết thuyết vũ trụ quan, nhân sinh quan, tín ngưỡng nghĩa là Việt phải có nghĩa là mặt trời hay liên hệ với mặt trời. Đại Tộc Việt là Người Mặt Trời. Điểm này cũng được tác giả Đỗ Ngọc Thành, trong bài viết giải thích về ý nghĩa của từ Việt, cũng chứng minh cho thấy có rất nhiều từ Việt trong Hán Việt. Tất cả các từ Việt này đều có nghĩa là mặt trời hay liên hệ với mặt trời (nhannamphi.com). -Về văn hóa Truyền thuyết và cổ sử Việt ghi rõ: .Viêm Việt là dòng thần mặt trời Viêm Đế. .Lang (Hùng) là con trai, trai tráng mặt trời. .Hùng Vương là vua mặt trời dòng thần mặt trời Viêm Đế tương tự như các vua Pharaohs Ai Cập cổ. .Vật tổ của Đại Tộc Việt đều có nghĩa là nọc,Việt, mặt trời như chim mỏ rìu, chim cắt, chim khướng (chim mũ sừng hornbill), chim chàng, chim lang (mling, mlang, Mê Linh) chim Việt; hươu sừng (Lộc Tục, Kì Dương), hươu Việt; rắn sừng, rắn Việt; cá cọc (cá sấu), cá Việt…. -Trang phục: nón thúng mặt trời cổ truyền của phụ nữ Việt và Ao-Naga, hình hoa thị, hoa cúc mặt trời nữ trên trang phục của Hai Bà Trưng, bà Triệu. Bà Triệu với hình hoa thị, hoa cúc mặt trời thái dương nữ trên trang phục đầu, trên ngực và trên dải áo trên người voi (tranh dân gian). Hoa thị, hoa cúc biểu tượng cho mặt trời thái dương nữ thấy ở các nữ vương, nữ thần dòng mặt trời cũng thấy ở Cận Đông, Ai Cập cổ, Nhật Bản… ví dụ: Hoàng hậu Ramesses Meryetanum, Thebes có hình hoa cúc mặt trời nữ trên vú mang nghĩa dòng mặt trời thái dương nữ. Hình hoa cúc 16 cánh biểu tượng cho thái dương thần nữ Amaterasu Nhật Bản. Lưu ý số 16 cánh hoa tương ứng với 16 tia sáng đầu tròn mang âm tính của dòng nòng nữ. Đây là biểu tượng của mặt trời nữ thái dương (hoa biểu tượng cho cho nữ). Số 16 là số Khôn OOO tầng 3 ( 0,8,16) tức tầng nước thế gian có một khuôn mặt là Nòng O thái âm OO Nước, theo duy dương là mặt trời Nàng Nước. Mặt trời Nàng Nước ứng với Vụ Tiên, Chim Le Le Nàng Nước, Mặt Trời Nữ Nước, mẹ tổ cõi trời thế gian của người Việt Nam. Thái dương thần nữ Ameraterasu của Nhật có một khuôn mặt mẹ tổ cõi trời thế gian của Nhật Bản tương tự Vụ Tiên. Đây là lý do hoa thị hoa cúc cũng là biểu tượng cho thái dương thần nữ, mẹ tổ Âu Cơ , nữ vương (Bà Trưng), nữ tướng (Triệu Ẩu) dòng mặt trời Hùng Vương, Viêm Đế. -Tế thực Những tế thực liên hệ với sự thờ phượng mặt trời của người Việt như tiết canh, xôi gấc, bánh dầy, bánh đa… (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt). -Về khảo cổ học Đồ đồng Đông Sơn có rất nhiều chứng tích của đạo mặt trời, thờ phượng mặt trời của Đại Tộc Việt: .Trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn luôn luôn có hình mặt trời nọc tia sáng rạng ngời ở tâm mặt trống có một khuôn mặt là trống biểu của ngành Viêm Việt Viêm Đế, của họ Hồng Bàng mặt trời, của Hùng Vương mặt trời… .Người mặt trời ở trống Quảng Xương xem hình ở dưới). .Lang (sói) mặt trời trống Miếu Môn I. .Nhà mặt trời trên trống Quảng Xương. .Những người thể hiện sự thờ phượng mặt trời trong những ngôi nhà nọc mặt trời trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I và các trống họ hàng. Hai người đưa hai tay ra trước mặt tôn vinh mặt trời trong một giáo vụ tế lễ mặt trời trong một ngôi nhà mặt trời trên trống trống đồng âm dương Hoàng Hạ. Rõ hơn là ở thạp đồng Hợp Minh chỉ có một người ngồi đưa hai tay ra phía trước tôn vinh, cầu nguyện mặt trời, vũ trụ (nên không thể nói như một số tác giả cho rằng hai người trong ngôi nhà ở trên đang chơi trò “trồng hoa trồng nụ”). Một người đang tôn vinh, cầu nguyện mặt trời, vũ trụ trên thạp đồng Hợp Minh. .Chim Việt chim cắt biểu tượng cho mặt trời trên trống Duy Tiên và Ngọc Lũ I, trên vật đựng vỏ sò Điền Việt. .Rìu Việt của Điền Việt (Nghệ Thuật Đồ Đồng Cổ của Vương quốc Điền). Và còn nhiều nữa… Bài viết này xác thực vững chắc thêm một lần nữa Đại Tộc Việt là Người Mặt Trời, thờ phượng mặt trời, theo đạo mặt trời. Cảnh thờ phượng mặt trời của Lạc Việt cổ còn vẽ lại rành rành trên vách đá Hoa Sơn (Huashan) ở Quảng Tây, Trung Quốc cách đây hơn 2.500 năm cùng thời với trống đồng nòng nọc, âm dương Ngọc Lũ I. Phần đất nam Trung Hoa thuộc địa bàn cũ của Bách Việt có rất nhiều những hình vẽ trên đá (rock painting). Những hình vẽ này có từ Thời Tân Thạch ví dụ như ở Vân Nam tại hai tỉnh Mengsheng và Menglai, quận Canyuan, tỉnh Lincang có những hình vẽ cổ từ khoảng 3.000 năm trước đây. Hình vẽ thường diễn tả cảnh săn bắn, gặt hái cũng như những hình người nhẩy múa và đánh nhau… Hình vẽ trên đá tại Mengsheng và Menglai (Memories of Mankind, Cultural Heritage of Yunnan, Ethic Acient Literature, Yunnan Fine Art Publishing House, 2005). Lưu ý trong hình nhỏ ở góc trên trái có một hình người ở góc phải phía trên tay giơ cao mang hình ảnh đang tôn vinh mặt trời (xem dưới). Nhưng hình vẽ được các học giả Trung Quốc cho là phần quan trọng nhất trong nghệ thuật vẽ trên đá của Trung Hoa (sic) và cả thế giới là ở trên vách đá Hoa Sơn bên bờ tây sông Mingjiang, tỉnh Yaoda, quận Ningming. Hình vẽ ở Hoa Sơn là hình vẽ trên đá lớn nhất và nổi tiếng nhất trên thế giới. Những hình vẽ này của người Lạc Việt cổ thuộc tộc Tráng (Zhuang), hiện ở vùng đất tự trị của tộc Tráng ở Quảng Tây. Vùng nổi tiếng nhất là khu vách đá ở nhánh sông Zuo. Nổi tiếng về tính cách vĩ đại và có nhiều hình ảnh đầy nghệ thuật. Đây là tác phẩm bất tử về hội họa của tộc Lạc Việt Tráng cổ. Hoa sơn còn được gọi là núi Thiên Nhân (Xianren) và người Tráng gọi là Laiz với nghĩa là núi với mầu sắc đẹp tuyệt vời. Cũng cần phân biệt Hoa Sơn ở đây khác với Hoa Sơn trong Ngũ Nhạc của Trung Hoa. Có giả thuyết cho rằng Hoa Sơn ở đây vốn gốc là Họa Sơn (núi có hình vẽ) về sau nói sai thành Hoa Sơn. Từ Nam Ninh, chúng tôi dùng xe hơi tới Tuolong cách Nam Ninh khoảng 110km rồi từ đó phải dùng thuyền đi ngược dòng sông Zuo lên Hoa Sơn. Ngược dòng sông Zuo (ảnh Michelle Mai Nguyễn). Hình vẽ ở khu vục bên sông Zuo này rộng hơn 170 mét, cao hơn 40 mét trên vách đá dựng đứng bên dòng sông. Có hơn 1800 hình vẽ nhìn thấy rõ và được chia ra 110 nhóm. Hình vẽ trên vách đá ở bờ sông Zuo (ảnh của tác giả). Hình vẽ bằng quặng đất có sắt hematite trộn với chất giao và máu có mầu đỏ máu. Hình phần lớn được nhìn từ một bên. Đa số người ở tư thế đầu gối khuỵu xuống, chân bẹt ra như đang ở tư thế đứng tấn trong võ thuật, hai tay giơ cao, hay đưa ra trước mặt (giống các người ngồi trong nhà mặt trời ở trống Ngọc Lũ I đã thấy ở trên đang tôn vinh, cầu xin mặt trời), bàn tay thường xòe ra thấy rõ năm ngón, chân đi đất, đeo gậy, đeo dao dài hay ngắn, rìu hay kiếm cùng với những hình thú vật như ngựa, chó, thuyền, chập chõa (timbales) và nhất là mặt trời. Ở giữa hay phía trên mỗi nhóm có một người to lớn đeo dao hay kiếm, rìu ở ngang thắt lưng và có cả yên ngựa, mang vóc dáng của người lãnh đạo. Đám đông nhẩy múa, vui chơi, hội hè tưng bừng… Những hình vẽ cao trên vách đá cheo leo, hiểm trở này còn là một thắc mắc, một câu hỏi chưa tìm ra câu trả lời của các nhà khảo cứu là người Lạc Việt cổ làm cách nào mà họ có thể thể hiện được những hình vẽ này. Để vẽ, họ đã dùng dây đu tòng teng xuống vách đá? Họ làm giàn dưới sông? hay trên thuyền? Hay thuở đó con sông còn cách xa vách đá? vân vân… Hình vẽ ở núi Hoa Sơn và vách núi bên sông Zuo do nhiều thời đại tích tụ lại, kể từ thời Chiến Quốc qua Tây Hán, Đông Hán (1.800-2.500 năm). Hình vẽ mỗi thời có một nét đặc trưng khác nhau. Những hình này ghi lại lịch sử của các tộc Bách Việt ở Nam Trung Hoa. Nhìn lên những hình vẽ trên đá vĩ đại này con cháu Lạc Việt không những chỉ cảm nhận thấy được đời sống xã hội sống động của người Lạc Việt cổ mà còn đánh giá được đời sống tâm linh và quan niệm nghệ thuật của Lạc Việt Tráng cổ. Những hình vẽ nầy cung cấp những chứng cứ rõ ràng và xác thực về lịch sử của Lạc Việt cổ đã biến mất. Bách Việt và Lạc Việt ở phía nam Ngũ Lĩnh đã tạo dựng nên một nền văn hóa huy hoàng và trở thành một phần quan trọng của văn minh Trung Hoa. Hình vẻ trên đá ở Hoa Sơn đã ảnh hưởng quan trọng lên sự hình thành và phát triển đức tin, tín ngưỡng dân gian Trung Hoa. Chúng vẽ lại một cách sống động cảnh hiến tế của người Lạc Việt, diễn tả sự thờ phượng, lòng tin và ước vọng …. (http://whc.unesco.or...tivelists/5340/) Phong thái các hình vẽ giống như các hình trang trí trên trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn. Có hình mặt trời trống giống trống đồng. Nếu đúng thì có sự hiện diện của trống đồng, của văn hóa của đại tộc Đông Sơn. Hình trông giống trống đồng. Chắc chắn không còn gì nghi ngờ nữa chúng được sáng tác bởi cùng một nền văn hóa của người Lạc Việt trong đó có tộc Tráng. Một vài khí giới Thời Đồ Đồng cũng đã đào tìm được ở đây. Người Tráng có rất nhiều trống đồng (sẽ có bài viết riêng về tộc Lạc Việt Tráng này). http://www.roughguid...f-paintings.asp Những hình vẽ này diễn tả lễ hội, tín ngưỡng, văn hóa mà các học giả Trung Quốc hiện nay cho là lễ hiến tế (sacrificial activity) nhưng họ không nói rõ là hiến tế người hay thú vật. Có lẽ họ không hiểu hay cố ý né tránh, không dám nói ra sự thật đây là cảnh tế lễ mặt trời của Đại Tộc Việt, Người Mặt Trời. Theo tôi, đây đích thực là lễ thờ phượng mặt trời. Dù cho rằng đây là lễ hiến tế, kể cả hiến tế người đi nữa, thì lễ hiến tế cũng vẫn là một khuôn mặt chủ yếu của sự thờ phượng mặt trời. Ví dụ điển hình thấy rất rõ ở người Aztec Mỹ châu chẳng hạn. Đây là một chứng tích hùng hồn và kiên cố cho thấy người Lạc Việt thờ mặt trời và nói cho biết rõ Đại Tộc Việt thờ mặt trời. Tôi xin giải đọc (decipher) cảnh tế lễ thờ mặt trời trên vách đá Hoa Sơn này của Lạc Việt Tráng. -Mặt trời Hiển nhiên trong các hình vẽ này ta thấy rõ có sự hiện diện của mặt trời riêng lẻ hay một nhóm mặt trời. Các hình mặt trời này có vòng tròn bao quanh mang sắc thái của hình mặt trời trên trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn. Thường có những nhóm người nhẩy múa bao quanh một hình mặt trời. Có khi nhóm người nhẩy quanh hình một mặt trời: Nhóm người nhẩy vòng quanh hình vẽ một mặt trời. hay quanh một nhóm nhiều mặt trời. Nhóm người nhẩy vòng quanh tảng đá ở giữa có vẽ một nhóm nhiều mặt trời. Lưu ý .Dựa vào dáng của những người ở phía trước xoay ngang hướng về phía bên tay phải cho thấy nhóm người di chuyển theo chiều dương tức theo chiều ngược với kim đồng hồ, theo chiều mặt trời. Họ đang nhẩy vũ điệu mặt trời. Cảnh này giống như những nhóm người nhẩy múa quanh mặt trời, theo chiều mặt trời trên trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn. Có tác giả cho rằng trong các hình mặt trời này có hình là mặt trống đồng, tức có sự hiện diện của trống đồng. .Nhóm mặt trời có hình mặt trời lớn chủ yếu nằm ở giữa. Mặt trời này có tia sáng nằm trong vòng tròn và lại được bao quanh bởi một vòng tròn lớn ở ngoài. Ta thấy rõ vòng tròn lớn là không gian. Mặt trời lớn là mặt trời-không gian, vũ trụ, tạo sinh, tạo hóa, nòng nọc, âm dương. Các măt trời nhỏ gồm các tia sáng tỏa rạng mang tính nọc thái dương nằm trong vòng tròn cho thấy đây là loại mặt trời thái dương thuộc ngành nòng, không gian ứng với ngành nòng, khôn, Thần Nông. Mặt trời nòng âm thái dương này ăn khớp với tộc Lạc Việt (trong đó có tộc Tráng) thuộc ngành nòng Khôn Thần Nông, Lạc Long Quân. Mặt trời vũ trụ và các mặt trời nhỏ (8 mặt trời nhỏ) xung quanh diễn tả một họ, một ngành mặt trời gồm mặt trời tổ và các mặt trời con cháu ứng với thần tổ mặt trời Viêm Đế, với Tổ Hùng đội lốt thần tổ mặt trời Viêm Đế và các Hùng Vương truyền thuyết hay lịch sử (xem dưới). Hiển nhiên không còn chối cãi gì được nữa với sự hiện diện của nhiều mặt trời này trong lễ hiến tế thì bắt buộc đây là một lễ hội hiến tế của người Lạc Việt cổ. Sự thờ phượng mặt trời này ăn khớp trăm phần trăm với sự thờ phượng trống đồng nòng nọc, âm dương có chủ thể mặt trời ở tâm trống của đại tộc Đông Sơn. Ngày nay một tộc cũng có trống đồng là tộc Yi ở Vân Nam vẫn còn giữ tục thờ mặt trời. Hình biểu tượng mặt trời nhất thể, vũ trụ, thái cực của tộc Yi tại ngôi làng văn hóa sắc tộc ở Thẩm Quyến (ảnh của tác giả). Mặt trời thái cực, vũ trụ của người Yi này diễn tả đúng trăm phần trăm chủ thể mặt trời (trụ) nằm trong vỏ không gian (vũ) ở tâm mặt trống nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn. -Người mặt trời Người mặt trời rạng ngời như đã thấy ở trên trống Quảng Xương: Người mặt trời, trên trống Quảng Xương (nguồn: Nguyễn Văn Huyên). Người mặt trời cũng được ghi khắc lại trên đá ở bãi đá có khắc chữ cổ ở Sapa: Người mặt trời nòng âm ở giữa hai chân có hình nòng hai vòng tròn có một khuôn mặt biểu tượng cho bộ phận sinh dục nữ. Nhìn dưới diện Vũ Trụ Tạo Sinh thì đây là thần mặt trời nòng âm, nữ (nguồn: Lê Trọng Khánh, Phát Hiện Hệ Thống Chữ Khoa Đẩu Thuộc Văn Hóa Đông Sơn). Người mặt trời nọc dương ở giữa hai chân có hình nọc cong mang hình ảnh một thứ rìu Việt biểu tượng cho bộ phận sinh dục nam. Nhìn dưới diện Vũ Trụ Tạo Sinh thì đây là thần mặt trời nọc dương, nam (nguồn: Lê Trọng Khánh). Hai hình người hay thần mặt trời này cho thấy họ mặt trời trong văn hóa Bách Việt chia ra làm hai ngành nòng nọc, âm dương. Vì thế khi nghiên cứu về văn hóa Bách Việt lúc nào ta cũng phải nhìn dưới lăng kính nòng nọc, âm dương tức Dịch lý. Ngoài ra ở đây cũng cho thấy rõ hai chữ cái vòng tròn Nòng và que Nọc trong chữ viết nòng nọc vòng tròn-que phát gốc từ bộ phận sinh dục nữ và nam. Người hay thần mặt trời có mặt trời ba vòng tròn Khôn ở giữa háng liên hệ tới sinh tạo, mắn sinh ở Mường Hoa. Những chứng tích này cho thấy Đại Tộc Việt là Người Mặt Trời, thờ phương mặt trời nên người Lạc Việt cổ Tráng thờ mặt trời là chuyện tất nhiên. Những hình người đứng ở tư thế đứng tấn trong võ thuật giơ hai tay lên cao mang hình ảnh cung nghinh, chào đón, tôn vinh, cầu nguyện mặt trời, thần mặt trời (xem dưới). (còn tiếp)
  5. ĐẠO THỜ MẶT TRỜI CỦA BÁCH VIỆT. (phần 2 và hết) Những người Lạc Việt cổ vẽ trên vách đá Hoa Sơn này cũng thường đeo gậy, lao, kiếm hay linh trượng. Những người Lạc Việt cổ vẽ trên vách đá Hoa Sơn đeo gậy, lao, kiếm hay linh trượng. Hình người Lạc Việt cổ ở Huashan đeo rìu hay linh trượng đầu hình búa (giống hình chiếc búa trong từ Việt rìu búa) trên một điêu khắc hình trống diễn đạt lại cảnh lễ hiến tế của người Lạc Việt cổ Hoa Sơn tại khu tĩnh dưỡng Minh Sĩ Điền Viên gần thác Bản Giốc. Không biết tác giả điêu khắc này có làm một cách trung thực hay không? Đặc biệt nhất là những người cao to có dáng dấp lãnh tụ đeo một linh trượng rất đặc biệt, một đầu có hình vòng tròn và một đầu theo các nhà khảo cổ học Trung Quốc có hình thú vật. Một lãnh tụ Lạc Việt cổ đeo linh trượng một đầu có hình vòng tròn và một đầu có hình thú vật. Rất tiếc tôi không có hình chi tiết vẽ hình các đầu thú vật nên không biết rõ là đầu con thú gì. Bây giờ ta hãy giải đọc cây linh trượng đặc biệt này theo cốt lõi văn hóa Bách Việt dựa trên lưỡng hợp chim-rắn, Tiên Rồng tức theo chữ viết nòng nọc vòng tròn-que. Đầu gậy hình vòng tròn là nòng (O), âm, theo duy âm là không gian và theo duy dương là mặt trời đĩa tròn của ngành nòng âm. Còn đầu gậy hình con thú mặc dù không biết rõ là con thú gì nhưng theo trực giác, tôi biết phải là đầu một con thú mang dương tính Nọc (I) đi đôi với vòng tròn Nòng. Tôi gọi linh trượng này là linh trượng lưỡng hợp, nòng nọc, âm dương, Tiên-Rồng. Ta hãy so sánh linh trượng, tế khí, hay khí giới nòng nọc Tiên Rồng này của người Lạc Việt cổ với chiếc rìu ở từ Việt ‘yue’ trong giáp cốt văn đời nhà Thương. Từ Việt yue trên giáp cốt văn (Wang Hongyuan). Lưu ý ta thấy chiếc rìu Việt yue ở đây có một đầu hình vòng tròn nòng O mang âm tính, nòng O ứng với Khôn và một đầu hình cây chĩa ba mang dương tính, ba nọc nhọn là ba dương ứng với quẻ Càn. Cây rìu Việt này là một thứ rìu Việt thờ mang ý nghĩa nòng nọc, âm dương, càn khôn, sinh tạo, tạo hóa. Như thế linh trượng nòng nọc Tiên Rồng của người lãnh tụ Lạc Việt cổ giống rìu Việt yue này và cũng phải mang ý nghĩa đó. Để hiểu và thấy rõ hơn nữa hãy so sánh linh trượng nòng nọc Tiền Rồng có đầu hình vòng tròn và một đầu thú vật của người Lạc Việt cổ với linh trượng was của Ai Cập cổ. Thần mặt trời Horus với khôn mặt lưỡng hợp, sinh tạo đội vương miện nhất thể biểu tượng cho hai vùng Nam Bắc thống nhất, tay trái cầm linh trượng was nòng nọc, âm dương.Tay phải cầm biểu tượng ankh, ‘chìa khóa sự sống’ cho thấy rõ khuôn mặt nòng nọc, âm dương, sinh tạo của thần và của gậy was. Các nhà Ai Cập học ngày nay cũng chưa biết rõ nguồn gốc và ý nghĩa của gậy was ra sao, chỉ phỏng đoán có nghĩa là “power” (sức mạnh) và “dominion” (quyền thế). Giải thích theo hình ngữ nòng nọc, ta thấy gậy was có đầu con thú có sừng hình nọc, hình búa chim mang dương tính biểu tượng cho nọc, đực, mặt trời, vũ trụ dương, bộ phận sinh dục nam, lửa, Càn và đầu dưới chẻ hẻ hình vòm omega (vòng tròn nòng O mở ra), hình chuông úp biểu tượng cho âm, vòm vũ trụ, bầu trời, tử cung hay âm đạo biểu tượng cho nòng, âm, Khôn, vòm không gian (xin nhắc lại hình khắc trên đá hình omega, hình chuông úp, chữ U lật ngược của thổ dân Úc châu có nghĩa là đàn bà). Gậy was là gậy âm-dương, sinh tạo, tao hóa, vũ trụ-mặt trời hiển nhiên có một nghĩa là “power” là “dominion” (Giải Đọc Trống Đồng Nòng Nọc, Âm Dương Đông Nam Á). Linh trượng was biểu tượng cho nòng nọc, âm dương, sinh tạo, tạo hóa. Linh trượng nòng nọc Tiên Rồng của người Lạc Việt cổ ở đây giống linh trượng was nòng nọc, âm dương của Ai Cập cổ thờ mặt trời. Hơn thế nữa linh trượng của Lạc Việt cổ có đầu nòng O vẫn giữ nguyên dạng nòng vòng tròn nguyên thủy (dạ con) trong khi đầu gậy omega (âm đạo) của Ai Cập cổ đã là biến dạng của nòng O. Hiển nhiên linh trượng hay khí biểu nòng nọc, âm dương, Tiên Rồng của người Lạc Việt cổ là một gậy biểu trong Vũ Trụ giáo, đạo Mặt Trời, cốt lõi của văn hóa Bách Việt. Ngưởi Lạc Việt cổ cầm linh trượng nòng nọc, âm dương có đầu vòng tròn nòng âm và đầu hình đầu thú nọc dương bắt buộc phải mang hình bóng thần mặt trời hay đội lốt các vị thần mặt trời giống như các vị thần mặt trời Ai Cập cổ cầm gậy was. Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, linh trượng nòng nọc, âm dương của người Lạc Việt cổ này là gậy biểu, khí biểu của Viêm Đế-Thần Nông (mặt trời-không gian, trụ- vũ) ở cõi tạo hóa, vũ trụ và biểu tượng cho hai ngành Lửa Mẹ Âu Cơ và ngành Nước Cha Lạc Long Quân, cho Tiên Rồng ở cõi thế gian. Những tế vật, khí giới gốc nọc nọn này của người Lạc Việt cổ ăn khớp với các tế khí, khí giới của các tộc Người Mặt Trời khác nhất là cây linh trượng nòng nọc, âm dương, sinh tạo của Lạc Việt cổ giống cây linh trượng nòng nọc, âm dương was của Ai Cập cổ cho thấy vững chắc đây là cảnh hiến tế mặt trời. Lưu ý Hình vẽ người hay thần mặt trời ở Vitlycke, Bohuslan Thụy Điển ở trên mang hình bóng Người Việt Mặt Trời theo đúng nghĩa chữ Nọc trong chữ viết nòng nọc vòng tròn-que trăm phần trăm. .Nọc là Vọt là roi (nọc ra đánh mấy chục roi). Vượt ruột thịt với Vọt (dùng vọt đánh cho con thú chạy vọt nhanh lên, vượt qua mặt, vượt qua chướng ngại vật; máy xe vọt là máy xe mạnh chậy nhanh, những bước nhẩy vọt). Hán Việt Việt với nghĩa là Vượt có gốc từ Việt ngữ Vọt roi này. Người này đeo gậy hay linh trượng ngang hông. .Nọc là vọt, roi sau thành vật nhọn, khí giới như lao, vớt (dao lớn dùng làm khí giới) ăn khớp với Hán Việt Việt với nghĩa là rìu, búa. Người này tay cầm rìu búa hay dao vớt, rìu Việt. .Nọc là cọc, cược, bộ phận sinh dục nam. Hình người này có bộ phận sinh dục nam cương cứng như cái nõ (ăn khớp với từ cổ c…c nõ, với từ hiện kim c…c lõ). .Việt là nọc, bộ phận sinh dục nam, dương, mặt trời. Người này có hình mặt trời trên người. Rõ như dưới ánh sáng mặt trời người hay thần mặt trời khắc trên đá ở Thụy Điển diễn đạt trọn vẹn ý nghĩa của chữ Nọc trong chữ viết nòng nọc vòng tròn-que, diễn tả trọn vẹn ý nghĩa của Hán Việt Việt. Người mặt trời ở Vitlycke, Bohuslan này là hình bóng của Người Việt Người Mặt Trời dòng thần mặt trời Viêm Đế trăm phần trăm. Những người Lạc Việt cổ trên vách đá Hoa Sơ đang tế lễ mặt trời trăm phần trăm. .Phái nữ Khác với các cảnh tế lễ mặt trời ở trong các nền văn hóa cổ khác của thế giới, đặc biệt ở đây có sự hiện diện của phái nữ. Trong các hình người ở khu vực này thấy có hai người tóc dài bện thành dải hình con rắn, dài quá lưng được cho là hai người nữ. Hai người nữ tóc bện thành dải dài quá lưng. Mặt trời là dương, đực, phái nam nên trong xã hội phụ quyền nhất là phụ quyền cực đoan rất muộn về sau, tế lễ mặt trời chỉ dành cho phái nam tuyệt nhiên không có bóng dáng đàn bà (giống như nhà đình của Việt Nam là di duệ của nhà thờ mặt trời như thấy trên trống Quảng Xương, ngày xưa cấm đàn bà con gái bước vào đình). Ở đây với sự hiện diện của phái nữ cho thấy người Lạc Việt cổ, thứ nhất nếu là hai người nữ thường dân, thì người Lạc Việt còn trọng nữ, họ theo mẫu hệ. Họ cũng có thể thờ phượng mặt trời âm nữ đĩa tròn không có tia sáng, thờ nữ thần mặt trời như thái dương thần nữ Âu Cơ, như Ameraterasu của Nhật Bản. Thật vậy ta thấy rõ ngoài mặt trời có nọc tia sáng tỏa rạng mang dương tính còn có các hình đĩa tròn. Hình đĩa tròn. Theo duy dương, vì ở đây là cảnh tế lễ mặt trời, thì các hình đĩa tròn này có độ cao biểu tượng cho mặt trời nữ đĩa tròn không có tia sáng (như hình mặt trời đĩa tròn trên lá cờ Nhật Bản, con cháu của thái dương thần nữ Ameraterasu). Thứ hai, trong lễ hội nhẩy quanh hình mặt trời này thì đây có độ cao hai người nữ này là hai nữ pháp sư, hai bà đồng. Bà đồng ăn khớp với văn hóa Việt cổ trăm phần trăm. Tín ngưỡng đồng bóng là một tín ngưỡng đặc thù của Bách Việt mà Trung Hoa không có. Đồng bóng còn thịnh hành ở Việt Nam gần đây. Mapuche một tộc thổ dân ở Chile, Nam Mỹ vốn gốc từ Đông Nam Á qua Mỹ châu thờ mặt trời cũng có đồng bóng và bà đồng là nét chủ yếu của văn hóa của họ (Rìu Việt ở Nam Mỹ Châu). Sự hiện diện của hai phái nam nữ trong cảnh tế lễ mặt trời, thờ phượng mặt trời cho thấy xã hội Lạc Việt cổ còn giữ nguyên lý nòng nọc, âm dương đề huề, Tiên và Rồng hòa hợp. Ngoài ra một trong hai người nữ này đang mang thai. Người nữ đang mang thai. Nếu hình này diễn tả một người trần tục thì đây cho thấy người Lạc Việt cổ tôn vinh người có thai, tôn vinh sự sinh sản, mắn sinh nằm trong tín ngưỡng sinh tạo của Vũ Trụ giáo. Nếu người mang thai này mang ý nghĩa biểu tượng tín ngưỡng tức bà đồng đang mang thai thì đây là hình ảnh của Mẹ Đời, Mẹ Sinh Tạo, Thần Nữ Mắn Sinh. Hình ảnh này cũng thấy ở văn hóa Việt Nam trong các hình khắc trên bãi đá cổ ở Sapa, Bắc Việt. Trong các hình khắc ở Sapa thấy hình một người mang thai: Hình một người mang thai trong các hình khắc trên bãi đá cổ ở Sapa (Nguồn Lê Trọng Khánh, Phát Hiện Hệ Thống Chữ Khoa Đẩu Thuộc Văn Hóa Đông Sơn). Người mang thai ở Sapa này đi chung với hình người mặt trời nam nữ đã thấy ở trên, ăn khớp với hình người có thai đi chung với những người nam nữ tế thần mặt trời ở Huashan này. Cũng nên nói ngược lại là cảnh người Lạc Việt cổ tế lễ mặt trời ở Hoashan chứng thực là trong các hình khắc ở bãi đá cổ Sapa cũng có cảnh tế lễ mặt trời, nói một cách khác những hình khắc trên đá ở Sapa thuộc Người Bách Việt, Người Mặt Trời. Hy vọng có dịp tôi được nhìn thấy tận mắt những hình khắc trên đá ở Sapa và hy vọng có thể giải đọc thêm được nhiều chi tiết nữa. Ngoài ra cũng thấy hình một người nữ đẻ bọc ruột thịt với hình người có thai, mang hình ảnh Mẹ Đời Sống, Mẹ Sinh Tạo ở hòn gạch nung đời nhà Lê hiện để tại Viện Bảo Tàng Lịch Sử, Hà Nội . Hình Mẹ Đời Sống, Mẹ Sinh Tạo đẻ ra một cái bọc mang hình ảnh Mẹ Tổ Âu Cơ sinh ra bọc trứng Hùng Vương, đời nhà Lê, Viện Bảo Tàng Lịch Sử Việt Nam (ảnh của tác giả). Cảnh thai nghén, sinh đẻ này ăn khớp với đức tin sinh tạo, mắn sinh của mặt trời trong Vũ Trụ giáo cho thấy vững chắc đây là cảnh hiến tế mặt trời, một khuôn mặt dương của Vũ Trụ giáo. .Cảnh phồn thực Người lái đò cho chúng tôi biết sau chùm cây, trên vách đá có hình hai người đang làm tình. Sau chùm cây, trên vách đá có hình hai người đang làm tình. Đây là tín ngưỡng phồn thực, sinh tạo nằm trong đạo mặt trời, Vũ Trụ giáo. Cảnh giao hợp này cũng thấy trên nắp thạp đồng Đào Thịnh của văn hóa Đông Sơn. Làm tình trong lễ hiến tế cũng là một khuôn mặt đặc biệt thấy trong các cuộc lên đồng tế lễ vũ trụ, mặt trời ở Đông Nam Á và hải đảo. Một số ông mo bà đồng làm tình trong khi lên đồng mang chủ đích, cầu mắn sinh, sinh sản, sản xuất, được mùa. Có tác giả còn giải thích dùng sự giao hợp trong lúc tế lễ là để gợi ý, kích thích thượng đế, thần linh giao hòa âm dương với nhau để trời đất, càn khôn hòa hợp, tương hòa với nhau, không đối nghịch tạo ra những ảnh hưởng xấu lên con người. Cảnh giao hoan, phồn thực này ăn khớp với đức tin đại vũ trụ và con người tiểu vũ trụ cần phải có tương hòa, giao hòa với nhau ngoài ý nghĩa duy tục là nòng nọc, âm dương, sinh tạo, mắn sinh, cho thấy vững chắc đây là cảnh hiến tế mặt trời trong Vũ Trụ giáo. .Thuyền rồng Theo tài liệu còn cho biết hình vẽ trên vách đá Hoa Sơn này có cả hình thuyền và cho là thuyền rồng dùng làm thuyền đua trong lễ hội nước (http://www.roughguid...f-paintings.asp). Rất tiếc tôi chưa được thấy hình vẽ trên vách đá. Tuy nhiên tôi đã thấy chiếc tầu đưa du khách đi xem nghệ thuật vẽ trên đá này có đầu và đuôi thuyền đã được làm phỏng theo hình chiếc thuyền được gọi là thuyền rồng đã nói. Con thuyền “rồng” đưa khách du lịch từ Tuolong lên Hoa Sơn có đầu và đuôi thuyền làm mô phỏng theo hình vẽ trên đá (ảnh của tác giả). Hy vọng các nghệ sĩ làm thuyền mô phỏng theo hình vẽ không lệch lạc nhiều với hình gốc. Ta thấy đầu và đuôi thuyền hình rắn mỏ chim lớn mang dương tính (chim rìu, chim cắt, chim Việt), có bờm gió dưới dạng chim-rắn riêng rẽ hay nhất thể. Rõ như ban ngày đây chưa phải là rồng long của Trung Hoa. So sánh đầu và đuôi các con thuyền ở hình vẽ trên vách đá Hoa Sơn này (qua con thuyền chở du khách này) với các con thuyền trên trống đồng nòng nọc, âm dương ta thấy rất rõ chúng giống hình thuyền trên trống đồng của đại tộc Đông Sơn ở dạng chim-rắn riêng rẽ trên Ngọc Lũ I hay ở dạng kết hợp nhất thể trên trống Quảng Xương, Hữu Chung. Qua sự so sánh này ta thấy rõ thuyền mới chỉ là thuyền đầu rắn mới bắt đầu thần thoại hóa, chỉ là một thứ rắn có sừng, rắn Việt, một thứ thuồng luồng chưa hẳn là thuyền rồng long Trung Hoa (xin nhắc lại Bách Việt, Người Mặt Trời dòng thần mặt trời Viêm Đế họ Khương, Sừng nên các vật tổ đều là loài có sừng: Chim Việt mỏ cắt có mũ Sừng, Hươu Việt có sừng muông gạc, Kì Dương, Lộc Tục và Rắn Việt có sừng, một thứ ‘thuồng luồng’). Rắn Việt là vật tổ biểu tượng cho khuôn mặt nước dương, mặt trời Nước Lạc Long Quân của Lạc Việt. Cũng nên biết là người Lạc Việt Tráng cũng tự nhận mình là con cháu của Rồng. Đúng ra họ phải nhận là con cháu của Rắn Việt, nhận là Rồng là theo văn hóa muộn và đã bị ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa giống như Lạc Long Quân của Việt Nam chúng ta. Bằng chứng là hình thuyền vẽ trên vách đá 2.500 trước giống hình các thuyền đầu rắn hay rắn-chim trên các trống đồng của đại tộc Đông Sơn có niên đại cũng vào khoảng thời gian đó. Ngược lại nhìn theo góc cạnh khác khi nhận là thuyền rồng thì mặc nhiên phải chấp nhận con rồng long Trung Hoa có gốc từ Rắn Việt thuồng luông Việt (Giải Đọc Trống Đồng Nòng Nọc, Âm Dương Đông Nam Á). Sự hiện diện của thuyền Rắn Việt ở dạng khởi đầu thần thoại của Đại Tộc Việt, Người mặt trời cho thấy cảnh lễ hội, hiến tế vẽ trên vách đá Hoa Sơn chắc chắn là lễ hội tế lễ mặt trời nghiêng về ngành mặt trời Nước Lạc Việt. Ta đã biết người Tráng là một tộc Lạc Việt. .Mầu máu, mầu mặt trời. Hình vẽ mầu đỏ do quặng sắt đỏ và máu liên hệ với mầu đỏ biểu tượng cho mặt trời (mầu đỏ là mầu hỏa). Máu là một tế thực của thờ phương mặt trời, biểu tượng cho mặt trời cho thấy cảnh lễ hội, hiến tế vẽ trên vách đá Hoa Sơn chắc chắn là lễ hội tế lễ mặt trời. Kết Luận Hình vẽ ở Hoa Sơn là một tác phẩm vẽ trên đá cổ thời vĩ đại, lớn nhất thế giới, là một tuyệt tác phẩm của nghệ thuật trên đá có một không hai của nhân loại, của Lạc Việt cổ nói riêng và của Bách Việt nói chung nếu không muốn nói là của tổ tiên của Việt Nam chúng ta, bởi vì Việt Nam có một gốc, một ngành Lạc Việt, con cháu Lạc Long Quân. Việt Nam là tộc Bách Việt duy nhất của Bách Việt còn tồn tại ngày nay. Việt Nam là di duệ hiện hữu đại diện cho Lạc Việt, cho Bách Việt. Dầu cho Hoa Sơn ở Quảng Tây bây giờ tuy thuộc đất Trung Quốc nhưng văn hóa Hoa Sơn vẫn là văn hóa Lạc Việt, Bách Việt mà Việt Nam là di duệ còn hiện hữu ngày nay. Người Việt chiếm đất Champa nhưng văn hóa hóa Champa như tháp Champa không thể nào nói là văn hóa Việt. Văn hóa Hoa Sơn không thể nào là văn hóa Trung Hoa. Hình vẽ ở Hoa sơn là một trang sử đá quí giá vô cùng viết lại cái cốt lõi, bản sắc Việt, viết về vũ trụ quan, nhân sinh quan, đời sống tâm linh, tín ngưỡng đạo Mặt Trời, Vũ Trụ giáo, xã hội Lạc Việt cổ… dựa trên nguyên lý nòng nọc, âm dương Tiên Rồng. Những hình vẽ cách đây 2.500 năm mang phong thái nghệ thuật Đông Sơn cho thấy trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn phải cổ hơn rất nhiều. Như thế trống loại Vạn Gia Bá (Thời Xuân Thu 770-474 BC) khai quật được ở miền tây tỉnh Vân Nam được các nhà khảo cổ Trung Quốc cho là loại cổ nhất, họ khoa trương cho rằng nguồn gốc trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn có nguồn gốc ở Vân Nam với ngụ ý là của Trung Hoa (!) chưa hoàn toàn thuyết phục được. Biết đâu một ngày nào đào tìm được một trống của đại tộc Đông Sơn cổ hơn ở phần đất Việt Nam. Hình vẽ trên vách đá bên bờ sông Zuo của người Lạc Việt mà các học giả Trung Quốc hiện nay cho là cảnh hiến tế. Theo sự giải đọc của tôi như đã thấy mọi chi tiết đề mang nghĩa liên hệ với cảnh lễ hội, hiến tế, tế lễ mặt trời. Đây đích thực là cảnh hiến tế mặt trời trăm phần trăm của người Lạc Việt cổ, một tộc của Bách Việt Người Mặt Trời dòng dõi thần mặt trời Viêm Đế. Trong nhóm mặt trên vách đá Hoa Sơn như đã nói ở trên, ta đếm được một mặt trời lớn và 8 mặt trời nhỏ. Mặt trời lớn ở trọng tâm gồm mặt trời có nọc tia sáng nằm trong đĩa tròn không gian mang nghĩa mặt trời nòng nọc, âm dương, sinh tạo, tạo hóa, vũ trụ ứng với thần mặt trời tạo hóa Viêm Đế và những mặt trời nhỏ con cháu ứng với thần mặt trời con theo duy dương là bốn thần mặt trời ở cõi tạo hóa đại vũ trụ và bốn thần mặt trời ở cõi sinh tạo thế gian ứng với bốn tổ phụ mặt trời của chúng ta là Đế Minh, Mặt Trời Ánh Sáng (Lửa), Kì Dương Vương, mặt trời Đất, Lạc Long Quân mặt trời, Mặt Trời và Hùng Vương (khuôn mặt sinh tạo) Mặt Trời Gió vị chi tổng cộng là chín mặt trời. Chúng ta có một nhánh Lạc Việt và 9 mặt trời của Lạc Việt cổ Hoa Sơn giống hệt như truyền thuyết Cửu Thần chín mặt trời Ennead của Ai Cập cổ. Xin nhắc lại truyền thuyết Cửu Thần ở Helipolis là của dòng thần Atum-Ra, dòng mặt trời Chiều, Hoàng Hôn, mặt trời Nước ứng với truyền thuyết Lạc Việt mặt trời Nước, mặt trời Chiều, mặt trời Hoàng Hôn Lạc Long Quân (Sự tương Đồng Giữa Cổ Sử Việt và Ai Cập 3). Như thế Lạc Việt Việt Nam, Lạc Việt Tráng, “Lạc” Ai Cập cổ đều có truyền thuyết 9 vị thần tổ mặt trời. Quan niệm về Vũ Trụ Tạo Sinh và các tộc mặt trời ứng với các mặt trời khác nhau trong Vũ Trụ giáo đã được ghi lại ở trang sử đá này đã có vào thời Quốc Chiến và Đông Hán. Điểm này cũng được ghi rõ trong sử đồng của đại tộc Đông Sơn qua các trống đồng nòng nọc, âm dương có những hình mặt trời khác nhau biểu tượng cho các tộc mặt trời, thờ phượng mặt trời khác nhau của Bách Việt và theo các giai đoạn khác nhau của Vũ Trụ Tạo Sinh, của Vũ Trụ Tạo Sinh. Không còn gì để nghi ngờ nữa. Đại Tộc Việt, Bách Việt là Người Mặt Trời thuộc họ mặt trời Hồng Bàng, ngành Viêm Việt, thần mặt trời Viêm Đế, có tổ Hùng mặt trời, các Lang Hùng mặt trời, các Hùng Vương mặt trời, có chim biểu tượng cho mặt trời là chim Việt, chim rìu, chim cắt mũ sừng, có thú biểu hươu Việt là hươu sừng mang gạc, có Rắn Việt là rắn có sừng… Một lần nữa những trang sử đá này chứng thực và xác quyết như vậy.Các nhà làm văn hóa Việt nếu còn chưa tin những điều tôi viết là Đại Tộc Việt, Bách Việt là Người Mặt Trời, các Hùng Vương là vua mặt trời, trống đồng của đại tộc Đông Sơn có hình mặt trời là trống biểu của Hùng Vương mặt trời… thì xin hãy tìm đến trang sử đá này ‘nhìn tường’ (diện bích) mà suy nghiệm. Hãy ngồi dưới vách đá này nhắm mắt lại để hồn Lạc Việt cổ khai tâm cho biết rõ. Nguyễn Xuân Quang nguồn:http://bacsinguyenxu...va-h%E1%BA%BFt/
  6. @ hoangnt, Bài viết cũng chả có gì sâu sắc, tuy đọc qua thấy có vẻ hào nhoáng uyên thâm. Nhưng thật ra là cũng dùng chiêu "Lục tủ kiếm" và nêu ra các hiện tượng rồi quy kết. Trích: Suy nghĩ hơn một tháng và lục tìm trong tủ sách mà hiểu hay biết ngay cái "Bản sắc văn hóa" thì thật là hay!! Lại nữa: Tác giả không phân biệt được văn minh, văn hóa và bẳn sắc đến nỗi lầm tưởng sự "pha trộn văn hoá" là...văn hóa hay bản sắc. Bài viết cho biết tác giả có tra cứu tư liệu để tìm hiểu, nhưng đa phần là liệt kê các hiện tượng trực quan rồi suy diễn, nhưng cuối cùng lại cũng chẳng hiểu được hay ít ra vẽ nên một chân diện của bản sắc là gì. Thiên Đồng
  7. @ Tuấn Diệp ngày 15/nhâm thìn/ tân mẹo, ngọ, sinh lưu niên. Ở lại làm việc, mặc dù hiện tại có nhiều khó khăn bất cập, nhiều đều trái khoáy mà mình không vừa ý, nhưng cơ bản là sống được. Nếu chuyển đi thì sẽ khó khăn nhiều hơn. Tương lai thì công danh cũng thâm trầm, nhưng đều sẽ có kết cục xứng ý toại lòng. Cuối năm 28 tuổi, 2012 sẽ thấy ổn địh hơn năm nay rất nhiều. Chuyện công danh vững vàng thì đến năm 32-33 tuổi sẽ biết rỏ. Mến Thiên Đồng
  8. Nhà này mặt tiền là đâu vậy bạn kymui? Có sân siếc gì không? Nhiều cửa quá! Ký hiệu vậy không biết cửa nào là cửa sổ hay cửa đi? Thiên Đồng
  9. ĐẠO THỜ MẶT TRỜI CỦA BÁCH VIỆT. (phần 2 và hết) Nguyễn Xuân Quang. .Cung nghinh mặt trời. Người cổ xưa khi tế lễ hay tôn vinh mặt trời thường đứng thẳng người hay đứng khuỵu hai chân xuống như ở thế đứng tấn, giơ hai tay khỏi đầu, thường xòe hai bàn tay hay đưa hai tay ra trước mặt hướng về phía mặt trời. Ta hãy so sánh những hình người trên vách đá này với những hình người đang cung nghinh, tế lễ mặt trời ở các nơi khác. Xin đưa ra vài ví dụ: -Đưa hai tay cao lên trời. .Nam Dương Trong hang Metanduno ở Nam Dương có hình vẽ trên đá thời tiền sử cho thấy cảnh người cung nghinh, thờ phương mặt trời đưa hai tay cao lên trời hướng về phía mặt trời. Hình vẽ trên đá thời tiền sử cho thấy cảnh người cung nghinh, thờ phương mặt trời giơ hai tay cao lên đầu trong hang Metanduno ở Nam Dương (Madanjeet Singh, The Sun, Symbol of Power And Life, UNESCO, 1993). .Thổ dân Mỹ Châu Tại rừng cây hóa thạch ở Arizona, Hoa Kỳ có những hình người cung nghinh, thờ phượng mặt trời đưa hai tay cao lên trời với bàn tay thấy rõ các ngón tay. Hình người cung nghinh, thờ phượng mặt trời tại rừng cây hóa thạch ở Arizona, Hoa Kỳ (Madanjeet Singh). .Kyrgyzstan Người khắc trên đá ở Kyrgyzstan được cho là pháp sư ‘shaman’ giơ hai tay lên trời với bàn tay xoe ra đủ năm ngón, biểu tượng cho tôn vinh mặt trời, tạo hóa. .Ấn Độ ngày nay. Các tín đồ theo đạo mặt trời ở Ấn Độ, vào rạng đông mỗi ngày họ lội xuống sông Hằng đứng giơ hai tay cao lên trời cung nghinh mặt trời mọc ở chân trời. Các tín đồ theo đạo mặt trời ở Benares Ấn Độ, đang cung nghinh mặt trời mọc ở bờ sông Hằng (Madanjeet Singh). Tác giả đang cung nghinh mặt trời hướng về thần mặt trời Viêm Đế, thần tổ của Bách Việt, Người Mặt Trời ở bờ sông Hằng ở Varanasi, Ấn Độ. …… Hãy so sánh những hình cung nghinh, tôn vinh mặt trời của các văn hóa, tín người thờ mặt trời này với hình trên vách đá Hoa Sơn của Lạc Việt cổ ta thấy giống trăm phần trăm. Người Lạc Việt cổ cung nghinh mặt trời với hai tay giơ cao lên trời hướng về mặt trời vẽ trên vách đá Hoa Sơn. -Đưa hai tay ra trước mặt. Đôi khi ở tư thế ngồi hay đứng đưa hai tay ra phía trước mặt .Ai Cập cổ Kệ tang Khonsu cho thấy sự thờ phượng Thần Mặt Trời Bò cái Mehet-Weret, Egyptian Museum, Cairo (Madanjeet Singh fig. 461). .Thiên Chúa giáo Ái Nhĩ Lan. Người Ái Nhĩ Lan cổ thờ mặt trời, khi du nhập Thiên Chúa giáo vào, họ lồng đạo mặt trời vào Thiên Chúa giáo. Vì thế cây thánh giá của họ có vòng tròn mặt trời và các tu sĩ vẫn cung nghinh mặt trời theo đạo gốc. Tranh dát mảnh (mosaic) của Achilli cho thấy các tu sĩ Ái Nhĩ Lan giơ tay theo kiểu người Ai Cập cổ tôn thờ mặt trời (hang thờ St Columbanus, nhà thờ St Peter, Vatican) (Madanjeet Singh). .Văn Hóa Đông Sơn -Trống đồng âm dương Hoàng Hạ, Ngọc Lũ I… Người của đại tộc Đông Sơn cung nghinh mặt trời với hai tay giơ cao ra trước mặt trong một ngôi nhà nọc thờ mặt trời trên trống đồng âm dương Hoàng Hạ… (Ta thấy rõ đây không phải là trò chơi “trồng hoa trồng nụ” như một số nhà khảo cổ học Việt Nam cho là vậy). -Thạp đồng Hợp Minh. Một người búi tóc có dáng dấp phụ nữ (bà đồng, nữ pháp sư) đưa hai tay ra phía trước mặt cung nghinh, tôn vinh hay cầu xin mặt trời, vũ trụ trên thạp đồng Hợp Minh (Khảo Cổ Học). ….. Hãy so sánh những hình cung nghinh, tôn vinh bằng cách đưa hai tay ra phía trước mặt của Ai Cập cổ, Thiên Chúa giáo Ái Nhĩ Lan và của văn hóa Đông Sơn này với hình trên vách đá Hoa Sơn của Lạc Việt cổ ta thấy giống trăm phần trăm. Hình người đang cung nhinh, tôn vinh mặt trời đưa tay ra phía trước mặt trên vách đá Hoa Sơn của Lạc Việt cổ. Như thế các người tổ tiên Lạc Việt nhẩy múa ở đây là những người đang ở tư thế tế lễ mặt trời trăm phần trăm. Những người đứng hay ngồi ở tư thế cung nghinh mặt trời này ăn khớp và cho thấy vững chắc đây là cảnh hiến tế mặt trời trăm phần trăm. .Mặt trời là nọc, dương, đực, nam. bộ phận sinh dục nam. Chữ NỌC trong chữ viết nòng nọc vòng tròn-que có nghĩa là đực, dương, mặt trời có gốc từ bộ phận sinh dục`nam vì thế mặt trời thường đi với phái nam (giống hệt một trăm phần trăm bọc trứng vũ trụ của Mẹ Tổ Âu Cơ sinh ra toàn là con trai, các mặt trời Lang) và mặt trời thường đi với bộ giống phái nam đang cương cứng. Ví dụ như thấy ở: .Kyrgyzstan Người thờ mặt trời có bộ giống nam cương cứng cường điệu Thời Đồ Đồng-Tiền Đồ Sắt (hình a, Saimaly Tash, Kyrgyzstan, Madanjeet Singh). .Thụy Điển Hình vẽ người hay thần mặt trời có dương vật cường điệu, cương cứng trên đá ở Vitlycke, Bohuslan, Thụy Điển. gười mặt trời cầm rìu khắc trên đá ở Vitlycke, Bohuslan, Thụy Điển (H.R. Ellis Davidson, p.62-63). .Ý Hình khắc trên đá ở Val Camonica trên rặng Alps của Ý có hình mặt trời ở giữa hai chân dính vào bộ phận sinh dục nam. Có tác giả giải thích cho là có mang biểu tượng cho mắn sinh. Người hay thần mặt trời có hình mặt trời ở giữa hai chân dính vào bộ phận sinh dục nam ở Val Camonica, Ý(Madanjeet Singh). Hãy so sánh những người mặt trời, thờ phương mặt trời có bộ phận sinh dục nam cường điệu đang cương cứng đầy hùng tính này với hình người đang cung nghinh mặt trời vẽ trên vách đá Hoa Sơn với bộ giống nam đang cương cứng dưới đây ta thấy giống trăm phần trăm. Người Lạc Việt cổ đang cung nghinh mặt trời vẽ trên vách đá Hoa Sơn với bộ giống nam đang cương cứng. Những người nam với bộ phận sinh dục nam cương cứng đứng ở tư thế cung nghinh mặt trời vẽ trên đá này ăn khớp với các nơi khác cho thấy vững chắc trăm phần trăm đây là cảnh hiến tế mặt trời. .Vũ khí, tế khí (ceremonial weapon), linh trượng (scepter). Mặt trời là dương, đực, nọc vì thế khí biểu, tế khí của mặt trời nguyên thủy là một nọc nhọn, gậy, cây lao về sau là linh trượng, rìu, búa, vũ khí nhọn. Những vật này đầu thường có hình vật biểu tượng mặt trời như rìu Việt đầu chim cắt của Điền Việt. Vì thế những người tế lễ mặt trời, thờ phượng mặt trời thường cầm hay mang những khí biểu, tế khí, linh trượng có gốc từ nọc, vọt nhọn biểu tượng cho mặt trời. Ở trên, ta thấy rất rõ những hình người mặt trời hay thờ phượng mặt trời khắc trên đá đều cầm hay mang các khí biểu, tế khí, khí giới (ở Thụy Điển tay cầm rìu, đeo gậy, kiếm hay linh trượng bên hông và ở Ý tay cầm lao). Những người Lạc Việt cổ vẽ trên vách đá Hoa Sơn này cũng thường đeo gậy, lao, kiếm hay linh trượng. (còn tiếp)
  10. Nhà này đang ở và ở từ lâu rồi hay là nhà đất mới mà xây? Linh Nguyen đang có bầu phải không?
  11. Nếu Linh Nguyen nghĩ chỉ thay đổi cái bếp thôi thì...không có gì gọi là phong thủy cả. Bày cho Linh Nguyen cách này, ra nhà nhà sách tìm cuốn Bát Trạch Minh Kính (hay Bát Trạch Minh Cảnh) về tra 5 phút là xoay được cái bếp à. Tốn vài mươi nghìn đồng thôi. Còn theo Phong thủy Lạc Việt thì nhà này phải thiết kể lại. Nam Đinh Tị, năm nay có tuổi động thổ xây nhà, tốt, vì được Nhị Nghi. Hạp hướng Tây Bắc, Đông Nam, Đông Bắc và Tây. Được đưa Nhâm Thìn thì rất tốt. Thiên Đồng
  12. @ Long2010, Ngày 17/4/2011 tức 15/3 âm lịch là ngày Tư Mệnh Hoàng Đạo và là ngày tốt theo tiêu chí Lý học đông phương. Giờ tốt là 9g00 đến 11g00 hoặc là 17g00 đến 19g00 hoặc là 15g00 đến 17g00. Chúc an cư lạc nghiệp Thiên Đồng
  13. TƯỚNG PHÁP QUA CA DAO TỤC NGỮ VIỆT NAM Bài sưu tầm Người xưa có câu: "Giàu ba mươi tuổi chớ mừng, khó ba mươi tuổi em đừng vội lo;" trong khi Khổng Tử thu thập: "Tam thập nhi lập." Ba mươi tuổi đã nhi lập mà cuộc đời còn bấp bênh chưa biết tương lai sẽ thế nào hỏi sao không e ngại. Qua kinh nghiệm sống, con người nhận thấy không phải cứ cố gắng mà đạt được điều mình muốn. Cuộc đời thăng trầm nhiều khi dồn con người vào cảnh bó tay bó chân không phương xoay xở khiến phải tin rằng còn một lẽ nào đó ảnh hưởng đến thực tại tạm gọi là vận số. Nói là vận số vì mình không hiểu được nguyên nhân tại sao. Có những người học hành không ra gì mà cuộc đời làm ăn giầu có; lại những người trông vẻ bên ngoài tầm thường giữ uy quyền muôn mặt ... Lẽ thường tình: "Giàu đâu đến kẻ ngủ trưa ..." thế mà chỉ những người giầu không phải lo lắng bon chen với vật chất mới có thể ngủ muộn; hoặc câu khác: "Những người đói rách tả tơi, của Trời chớ phụ đừng ăn chơi quá nhiều," lại nghịch thường với thực tế. Chỉ những kẻ nhiều của ăn không hết mới phụ của chứ đói rách làm chi có của mà phụ. Câu "Buôn tàu bán bè không bằng ăn dè hà tiện" một phần nào đó khuyên mọi người nên tiết kiệm lúc có để lo cho lúc chẳng may, đừng vung tay quá trán, chứ nếu vừa buôn tàu bán bè vừa ăn dè hà tiện thì phải có hơn chứ không thể nào nói đến không bằng. Tuy nhiên, nếu cho rằng đời người đã được phận số định sẵn làm sao "Có chí thì nên," và phải chăng tin vào phận số chỉ làm hao mòn tinh thần tiến thủ? Xét về phương diện tâm tính đôi khi có những câu thật khó mà hiểu. Chẳng hạn: "Những người lúa đụn tiền kho, ruột bằng sợi chỉ miệng to bằng trời." Nếu nghĩ ngược lại, những người nghèo nàn, lòng rộng rãi lấy gì mà cho, và có rộng rãi thì cũng chỉ giới hạn trong cảnh nghèo của mình. Hơn nữa, thực tế cho thấy, chỉ những người giầu có mới giúp được những người nghèo vì người đã nghèo thì chẳng có nên dù lòng muốn nhưng cái khó nó bó cái khôn, cái nghèo không cho phép bởi chính mình chưa lo nổi cho mình làm sao có thể giúp người. Lấy gì để minh chứng "Người xấu duyên lặn vào trong, bao nhiêu người đẹp duyên bong ra ngoài?" Và làm sao để thử nghiệm "Chớ thấy áo rách mà cười, những giống gà nòi lông nó lơ thơ?" Tuy nhiên có những nhận xét về tướng diện con người nơi Tục Ngữ, Ca Dao dựa trên những gì nhìn thấy theo vẻ bên ngoài vì "Khôn ngoan hiện ra mặt, què quặt hiện chân tay." Những nhận xét tướng diện dựa trên kinh nghiệm chỉ được phần nào áp dụng cho bản thân, và đồng thời được lồng trong khung cảnh kinh tế xã hội Việt qua nhiều thế hệ. Dĩ nhiên, mặc dầu nói tổng quan về tướng diện nhưng không được coi là những định luật bất di dịch mà bao gồm nhiều luật trừ; lý do dễ hiểu, tướng diện bị ảnh hưởng bởi cái nhìn bề ngoài trong khi con người còn có ẩn tướng mà đã là ẩn tướng ai có thể nhìn thấy ngoại trừ chính người mang nó nhận ra hay không. Hơn nữa sự ảnh hưởng nơi người cha cũng góp phần vào số người con theo tướng học vì cũng người đàn bà có số sinh con làm tướng nhưng gặp ông chồng sống thất đức, phá tướng, sẽ sinh con tướng cướp. Đàng nào cũng là tướng nhưng quí tướng và phá tướng chắc chắn không thể giống nhau. Coi tướng diện không phải là coi số hay coi bói. Coi bói toán, vận số tùy thuộc vào những điều người ta không thể kiểm chứng và số mạng con người nào ai giống ai nên làm sao đúng theo như những quy luật cứng ngắc bất di dịch của lá số, của lời giải đoán ... Thế nên chẳng lạ gì: "Tử vi xem số cho người, số mình thì để cho ruồi nó bâu." Tướng diện qua kinh nghiệm thấy sao nói lên vậy: "Nhân hiền tại mạo, trắng gạo ngon cơm" chứ không phải rập theo những kinh nghiệm vô căn cứ không hiểu lý do tại sao; chẳng hạn: "Hà tiện mới có, bẩn như chó mới giầu." Đã giầu có tại sao lại bẩn như chó ... Có lẽ người giàu hiểu rõ hơn về phương diện nào câu tục ngữ này muốn ám chỉ. Tướng diện được diễn tả qua Tục Ngữ, Ca Dao chỉ nói lên phần nào cá tính, tâm tính con người được thể hiện qua diện mạo bên ngoài và kinh nghiệm truyền lại bằng những câu nói ngắn gọn hoặc thêm phần sắp xếp cho có vần điệu. Phần diện mạo dựa trên cách đi đứng, ăn nói tóc tai: "Cái răng cái tóc là gốc con người," hoặc dáng dấp, hình thái kèm theo lối so sánh: "Cây khô không lộc, người độc không con." Tuy nhiên, sự suy diễn, giải nghĩa tướng diện nơi Tục Ngữ,Ca Dao thật ra không theo nghĩa đen mà thường tùy thuộc vào lối ám chỉ, nghĩa bóng. Coi tướng diện không phải là tin nhảm, dị đoan "Thừa tiền thì đem mà cho, đừng đi coi bói thêm lo vào mình." Thực ra cũng có những kinh nghiệm không hiểu tại sao, có lẽ vô tình trùng hợp chẳng hạn "Thứ nhất đom đóm vô nhà, thứ nhì chuột rúc, thứ ba bông đèn;" hoặc "Mèo vào nhà thì khó, chó vào nhà thì sang." Đôi khi có những điều dị đoan đến độ phi lý: "Đi ra gặp đàn bà thà trở vô nhà mà ngủ," hay "Vợ chồng một tuổi, nằm duỗi mà ăn." Lý do coi tướng diện vì ít nhất một phần nào tư cách con người được thể hiện qua phong thái, hình dáng là những nét bề ngoài mọi người có thể nhìn thấy bởi ai chẳng muốn: "Chọn mặt gửi lời, chọn người gửi của" mặc dầu có những trường hợp "Xem tướng ngó dạng anh hào, suy ra nết ở khác nào tiểu nhi." Thực tâm nhận xét, coi tướng diện cho người khác, ai cũng đều gặp kinh nghiệm 90 phần trăm sai lầm, còn lại những trường hợp vô tình may mắn bởi có những ẩn tướng hoặc nét phá hay hộ cách khó có thể tổng hợp cho đúng. Coi tướng diện mục đích nghiệm nơi chính bản thân để biết mình hơn. Trước hết, hình thái phong cách nói lên một phần nào tâm tính con người do đó tướng diện bị lệ thuộc vào tâm đức cá nhân. Tướng số có câu:"Tướng tự tâm sinh, tướng tùy tâm diệt." Dĩ nhiên, ai cũng đều nhận ra những người ngay thẳng, chính trực không thể có cặp mắt láo liên hoặc lời ăn tiếng nói đặt điều xằng bậy. Tâm đức tạo nên phong thái bên ngoài cũng như giá trị con người; đó có thể là lý do tại sao "Cái đức nó bức cái tướng." Cái đức nói theo kiểu bình dân ở đây cũng mang nghĩa thay đổi tướng diện, phong thái một người. Cũng qua kinh nghiệm tướng số, "Đức năng thắng số" đã trở thành châm ngôn cho người người cải thiện lối sống ngày một tốt lành hơn. Tướng diện phát từ tâm hồn con người và coi tướng diện để tự sửa đổi chính mình; nói theo Khổng Tử đó là tu thân. Muốn tu thân cần hiểu chính mình. Coi tướng diện để tự tìm hiểu chính mình, tìm ra phần nào tâm tính không nên nơi mình chưa để ý mà sửa đổi. Thành ngữ có câu: "Người ba đấng, của ba loài;" cuộc đời có kẻ thế này, người thế khác cũng như đồ vật, có món tốt, món xấu chứ không phải tất cả mọi người đều có tâm tính giống nhau, hoặc mọi vật đều như nhaụ Những người khôn thì chóng già vì tâm tính hay suy nghĩ và dĩ nhiên, "Người có tiếng phi mạnh thì bạo." Những người có tăm tiếng phần nhiều là người có tài; tuy nhiên, cũng có trường hợp gian ngoa độc ác dám dùng mưu chước hại người khác để bước lên đài danh vọng. Nhìn vào tướng diện, nét dễ nhận ra, "Nhất lé, nhì lùn, tam hô, tứ lộ." Không hiểu tại sao người xưa lại nói câu này. Nếu xét theo tướng học về lé: "Lưỡng mục bất đồng, tâm can bất chính," cũng chưa chắc những người hai con mắt không ngay ngắn như nhau luôn luôn là bất chính; mà có chăng, người lé, khi thương thì thương nhất mực và khi đã ghét cũng thế ... Hơn nữa, đâu có ai hai con mắt bằng nhau mà thế nào cũng có chút khác biệt. Nếu nói rằng người lùn hay có tính kiêu căng bởi tâm tính thường hay đối nghịch với hình dáng bên ngoài nên lùn được xếp hạng thứ nhì thì càng trái ngược; đâu thiếu chi người lùn nhã nhặn, khoan hòa. Có điều, theo kinh nghiệm cho thấy một số người không được cao cho lắm rất khôn ngoan lại lắm mưu chước thế nên lùn được xếp vào một trong bốn loại dẫn đầu của tướng diện chăng. Có lẽ răng hô được xếp hàng thứ ba cần phải kèm theo điều kiện môi cong bởi theo sách tướng: "Xỉ lộ thần hân tu phòng dã tử;" răng lộ môi cong đề phòng chết đường. Theo Tướng Mệnh Khảo Luận do Vũ Tài Lục biên soạn, một trong tướng lục ác là "thần bất hô xỉ." Môi không che được răng là người bất hòa. Răng hô phải đầm xuống đều thì chất phác; răng đâm ngang hay ngưỡng lên, cực đểu giả (Ngân Hà Thư Xã; Sài Gòn, 1972; tr. 235). Có nơi ghi lại: "Nhất lé nhì lùn, tam hô tứ sún." Có thể sún được xếp hàng thứ tư do ảnh hưởng bởi sự không để ý chăm sóc cơ thể, gặp gì ăn nấy, có thể nói tham ăn nên răng bị hạị Tuy nhiên, đó chỉ là phỏng đoán vô căn cứ; biết bao người sún nên làm răng giả nào ai mà biết. Chẳng lẽ tướng diện bị lệ thuộc nét sửa đổi, và nếu như thế, đâu còn gì là tướng diện, mà tâm sinh do sửa hình dáng. Ngoài ra, nhất lé, nhì lùn, tam hô, tứ sún chưa chắc đã khó thương mà có phần dễ thương tùy thuộc tâm tính từng người. Kiếm người làm, nhất là trong giới nông nghiệp, "Khô chân gân mặt đắt mấy cũng mua." Người chân khô không bị bịnh tê thấp, ảnh hưởng do sự thay đổi thời tiết không tác dụng nên sức khỏe đều đặn, dù nắng mưa, sương gió không cản trở công việc làm của họ nên mướn được người khô chân giúp, công việc mình không bị đình trệ. Những người có đường gân máu nổi lên ở mặt chịu đựng cực khổ dẻo dai. Dùng người khô chân gân mặt để làm việc cho mình thì thật đáng đồng tiền bát gạo, chỉ có lợi chứ không sợ bị thua lỗ. Xét chung, sách tướng có câu: "Ăn nhanh đi chậm là tướng quí nhân." Ăn nhanh nhưng gọn gàng, cử điệu, thái độ chững chạc, không ngồm ngoàm, nhỏ nhặt như chuột; dáng đi khoan thai, đĩnh đạc, lưng thẳng, gót chân đặt xuống đất ... mang phần quí tướng. Tuy nhiên, không phải quí tướng là bất cứ chi cũng quí bởi còn bị ảnh hưởng do các tướng khác nhất là tâm đức. Một điều thường làm cho người có tướng quí lận đận là đã quí e khó phú. Tục ngữ có câu: "Phi thương bất phú," mà buôn bán ảnh hưởng tâm tính khiến con người khó chân thành, ngay thẳng làm mất phần quí. Đó cũng có thể là lý do tại sao "Mặt vuông chữ điền đồng tiền chẳng có" bởi người mặt vuông chữ điền, hơi nặng hàm (như gương mặt các mệnh phụ) biểu hiệu tâm hồn đoan chính, không tham lam, tự tin, không bon chen nên thường nghèo. Ngược lại với dáng đi thanh thản của ăn nhanh đi chậm là tướng vội vàng hấp tấp đi chúi người về phía trước. Những người lam lũ cực khổ thường có dáng đi này: "Cái đầu đi trước, gặp nhiều bước khó khăn." Người khó tính, mặt hay cau có; khi giận thì làm gì cũng hỏng, không mong chi kết quả; do đó: "Mặt khó đăm đăm, tát nước đầm không cạn." Khi trong lòng có chuyện âu lo tất nhiên người ta hay thở dài; những người hay thở dài thường có nội tâm âu sầu thiếu đường giải thoát: "Những người chép miệng thở dài, chỉ là sầu khổ bằng ai bao giờ." Trái ngược với chép miệng thở dài là vui tươi cởi mở: "Hay cười như thể đười ươi, làm ai cũng tưởng là người vô lo." Tuy nhiên, người thâm trầm chín chắn, dẫu trong cảnh âu lo vẫn không lộ nét ưu tư sầu khổ. Sự khác biệt giữa nét vui tươi, không ưu phiền lo lắng được thể hiện bởi nét cười là nét vô duyên: "Vô duyên chưa nói đã cười." Vô duyên ở đây bao gồm nhiều khía cạnh qua cái cười: cười cầu tài, nịnh hót, lẳng lơ, khinh thị ... Tướng diện bao gồm toàn bộ con người từ hình dáng, cách đi đứng, sự cân đối, ưu điểm hoặc khuyết được thể hiện qua diện mạo bên ngoài. Theo Việt Nam Tự Điển, "Mía đõn đầu là mía sâu, người đõn đầu là người ngốc." Kinh nghiệm cho biết, người nào có cái đầu ngắn mà bằng phẳng ở trên là người không khôn; cũng như cây mía nào mà lá ngọn còi là cây mía sâu nõn (tr. 256, phần Thành Ngữ, Quyển Hạ.) Lối nói bình dân có dùng tiếng "mặt thịt;" mặt thịt dĩ nhiên là nhiều thịt hoặc nhìn thấy như nhiều thịt hơn xương. Mặt thịt còn được gọi là mặt nạc; mặt thịt mà dài được gọi là mặt mo vì thịt vun lên giống như chiếc mo cau khô úp vào, "Những người phính phính mặt mo, chân đi chữ bát có cho chẳng màng." Mặt thịt, mặt nạc, mặt mo biểu hiệu thiếu khôn ngoan, ngu đần. Mặt thịt kèm theo môi dầy lại càng tệ; "Những người mặt nạc môi dày, mịt mù trời đất biết ngày nào khôn." Theo Vũ Tài Lục, "môi thật dầy không có khía môi; môi luôn luôn động là mã khẩu, chỉ sự bần tiện." Đàn bà tóc nhiều và dài thì tốt, thuộc tướng sang. Như thế, tướng sang của một người tự bẩm sinh chứ không phải cứ học tập kiểu cách phải thế này phải thế kia mà có thể sang được. Người đã không có tướng sang thì có "học làm sang" cũng không che dấu nổi nét tầm thường của mình. Có lẽ đó cũng là nguyên nhân cho câu "Trưởng giả học làm sang." Trái lại, người đã được sinh ra với cốt cách sang trọng, dù có bị sinh trưởng từ gia đình thuộc lớp nghèo hèn, bình dân, tự bản chất đã mang vẻ tướng của mình. Tuy nhiên, xét theo tướng diện, nếu đàn bà tóc rậm, óng mượt, dài, thuộc cốt sách sang trọng thì đàn ông với cái đầu rậm tóc chẳng lợi lộc gì: "Đàn bà tóc rậm thì sang, đàn ông rậm tóc chỉ mang nặng đầu." Đàn ông, trên đầu không nên nhiều tóc thì dưới cằm lại cần râu. Đàn ông không râu thuộc loại tối kỵ; người không râu mà lại mặt trắng (bạch diện) Vũ Tài Lục gọi là mặt đít ếch. Sách tướng nói: "Bạch diện vô tu chung thân phá bại." Mặt trắng không râu về già tán gia bại sản. Đàn ông không râu cũng như đàn bà không vú: "Đàn ông không râu mất nghì, đàn bà không vú lấy gì nuôi con." Tuy nhiên, nếu đàn ông mà râu rậm hơn lông mày lại đi kèm với cặp mắt sâu sẽ là người nham hiểm đáng sợ, thuộc tướng diện "Rậm râu sâu mắt." Theo Vũ Tài Lục, râu rậm hay thưa phải tùy thuộc lông mày mới đúng cách. Phần trên cằm là miệng; ngoài miệng có môi. Đôi môi một người nói lên nhiều cá tính theo con mắt tướng diện. Môi cần che kín răng bởi "Môi hở răng lạnh." Môi là cửa ngõ của miệng lưỡi nên tướng miệng đi kèm với môi. Ca Dao nói lên: "Cong môi hay hớt, mỏng môi hay hờn, dầy môi ăn vụng ..." và đồng thời "Môi thâm hiểm độc trong lòng." Dẫu tướng miệng tùy thuộc rất nhiều vào môi nhưng vẫn có những kiểu cách riêng. Thành ngữ dùng câu: "Miệng ngậm hạt thị" chỉ người ăn nói không ra lời, lúng búng trong miệng. Lời nói con người được thoát ra từ cửa miệng nên miệng còn được hiểu theo nghĩa bóng chỉ tâm tính; chẳng hạn: "Miệng hùm gan sứa." Sứa nào có gan, mà hùm ai không sợ. Người lớn lối thường hay nhát gan. Đặc tính này thường ở nơi người hay làm oai bắt nạt hoặc thích kiếm chuyện gây khó dễ cho người khác. Một đặc tính của miệng thuộc tướng tốt nơi đàn ông thì lại không tốt nơi đàn bà: "Đàn ông rộng miệng thì tài, đàn bà rộng miệng điếc tai láng giềng." Chẳng những thế, miệng rộng nơi đàn bà còn mang thiệt hại nơi gia đình: "Đàn ông rộng miệng thì sang, đàn bà miệng rộng tan hoang cửa nhà." Có lẽ đàn bà miệng rộng thường là người tiêu xài không tính toán nên gây ra lắm cảnh thiếu hụt. Miệng không phải chỉ được dùng để nói mà còn để ăn; thế nên, "Miệng gàu dai (dây) nhai hết sự nghiệp," và người có "Miệng ống nhổ ăn đổ hết cửa nhà." Trên miệng là nhân trung và mũi. Người có nhân trung dài sống lâu: "Nhân trung dài sống dai như ông bành tổ." Nói về sống như thế nào lại tùy thuộc về cái mũi bởi "Những người lỗ mũi hếch lên, của xe chất đống một bên cũng nghèo." Hơn nữa, chẳng may ai có "Nốt ruồi trên mũi hay tủi tấm thân." Bộ phận ảnh hưởng đến mũi nặng nề nhất là cặp mắt và đồng thời cũng là bộ vị quan trọng nhất của nhân thân. Những người thành công đều có cặp mắt tốt kèm theo mũi ngay ngắn trường nhuận. Nhìn vào màu sắc của mắt, người xưa nói: "Người khôn con mắt đen sì, kẻ dại con mắt nửa chì nửa than." Mắt còn nói lên cá tính hoặc sự khắc thuận của một người thế nào: "Những người con mắt ốc nhồi, trai thời đánh vợ gái thời sát phu." Mắt trắng dã đi kèm với môi thâm chứng tỏ con người bạc bẽo, hiểm độc ... thuộc tướng xấu: "Môi thâm mắt trắng." Xét riêng về tướng đàn ông, thành ngữ có câu khá thâm thúy: "Xấu mặt dễ sai, đẹp trai khó khiến." Điều này không lạ gì bởi cái đẹp bề ngoài đối với con mắt bình thường khác hẳn nét đẹp của tướng diện. Dĩ nhiên, những người đàn ông mặt hoa da phấn thường hay có số đào hoa. Người mang số đào hoa dễ coi thường những người phụ nữ theo đuổi nên sinh ra bất cần, khó khiến ... Chắc chắn một điều, người có số đào hoa chưa chắc đã mặt hoa da phấn nhưng bình thường, nữ giới cũng như nam giới, ai không mang sẵn cá tính bẩm sinh yêu nghệ thuật, ai không dễ xiêu lòng với nét đẹp hợp nhãn ... Đàn ông có một điều tối kỵ đó là lông mọc nơi thân mình: "Mèo vằn chó vá đừng nuôi, râu ria lông ngực là tôi phản thần." Người râu ria rậm rạp kèm theo lông ngực thuộc loại hay thay lòng đổi dạ. Lông bụng tự mình nó đã chứng tỏ con người giảo hoạt, nhỏ mọn, không chí lớn: "Quân tử lông chân, tiểu nhân lông bụng," hoặc "Cá khôn cá lội ra khơi, những người lông bụng chớ chơi mà lầm." Dẫu ca dao có câu: "Người quân tử đắc ý rung đùi, kẻ tiểu nhân đắc ý gẩy đàn môi," nhưng tướng rung đùi lại là tướng xấu: "Đàn ông ngồi hay nhịp cẳng là sẵn tính phá sản." Dân gian nhận xét: "Xem trong bếp biết nết đàn bà;" điều này chẳng lạ gì vì đối với xã hội Việt Nam, đàn bà là nội tướng chuyên lo việc chăm sóc con cái, cơm nước trong gia đình. Dĩ nhiên, "Nhà sạch thì mát, bát sạch ngon cơm." Nhà cửa sạch sẽ, ngăn nắp, bếp núc gọn gàng ... phải là kết quả do sự làm việc của người nội trơ.. Nếu nhà cửa bếp núc ngập ngụa, con cái lấm lem nhăng nhăng nhố nhố chắc hẳn người mẹ cần phải đặt lại vấn đề. Nguyễn Du than trong Đoạn Trường Tân Thanh: "Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen" ám chỉ những người có tài thường hay bị gian truân lận đận ... Đối với khách hồng nhan cũng thế: "Hồng nhan đa truân;" những người đàn bà đẹp theo lối nhìn bình thường của nhân gian thường gặp lắm cảnh trớ trêụ Phụ nữ dưới con mắt tướng diện, câu tục ngữ: "Con mắt lá răm, lông mày lá liễu đáng trăm quan tiền" thường đánh lừa khối người bồng bột không để ý về nét ngoắt ngoéo chơi chữ của người xưa. Trước hết, không ai dùng tiếng mua vợ hoặc mua vợ cho con mà cưới vợ hay dựng vợ gả chồng cho con cái. Ngược lại, người ta chỉ dùng tiếng mua hầu thiếp; đôi khi lịch sự văn vẻ hơn thì mới nói "cưới nàng hầu" trong thời kỳ xã hội Việt Nam còn chấp nhận "Trai năm thê bảy thiếp ..." Hơn nữa, Ca Dao có câu lục bát nói về con mắt lá khoai loại có hình dạng dài gần giống lá răm: "Những người con mắt lá khoai, liếc chồng, chồng chết, liếc trai, trai mù." Phụ nữ đoan chính không thể bị ghép chữ "liếc trai" mà những hạng "liếc trai, trai mù" thì thuộc loại đa dâm. Thế nên những người "Con mắt lá răm, lông mày lá liễu" là người đa dâm, không thể là vợ một ai mà chỉ đáng nàng hầu nếu không nói đa số là kỹ nữ. Câu tục ngữ dùng chữ ngược nghĩa "Đáng trăm quan tiền." Tướng đa dâm nơi nữ giới còn bao gồm: trường túc, trường mi, xích diện và làn thu thủy. Người đàn bà phần chân dài hơn thân mình, lông mày dài và thẳng, mặt lúc nào cũng hồng đôi má và kèm theo cặp mắt ướt như luôn luôn đọng nước ... tướng kỹ nữ hồng trần. Xét về hình dạng, lông mày phái nữ nên hơi cong theo vòng mí mắt; những chị em trang điểm vô tình không để ý thường hay phạm phải điều kỵ này nơi tướng diện. Không hiểu tại sao Ca Dao có câu: "Những người béo trục béo tròn, ăn vụng bằng chớp đánh con cả ngày." Lý do thật khó hiểu bởi đâu thiếu gì những bà vợ có da có thịt một chút chăm sóc chồng con cẩn thận ... lại thuộc người vượng phu ích tử. Đâu phải cứ béo là hay ăn vụng mà người đã không được ốm cho lắm dẫu có cố gắng ăn ít vẫn cứ chịu khó lên cân ... Thế rồi tại sao "đánh con cả ngày" càng thấy không hợp lý hợp tình chút nào. Kinh nghiệm thực tế cho thấy, những người mập thường là những người có tính vui vẻ; thật ra, nếu người mập không vui vẻ cởi mở mà khăn kháu, khó tính, dễ bị bịnh áp huyết cao chết bất ngờ. Có thể rằng câu ca dao này bị giới hạn bởi kinh nghiệm riêng tư nào chăng. Ngược lại với hình tướng béo trục béo tròn là tướng thắt đáy lưng ong, eo con kiến: "Những người đáy thắt lưng ong, vừa khéo chiều chồng lại khéo nuôi con." Tướng nhiều con của người đàn bà là "Lưng chữ ngũ, vú chữ tâm." Người có lưng hơi cong về phía trước, cặp vú ngang hơi thòng xuống sẽ có nhiều con cái. Ngày xưa, trong thời kỳ ấu thơ con cái được nuôi bằng sữa mẹ khác hẳn với ngày nay nên thường có quan niệm: "Cả vú bụ con." Có lẽ cả vú nhiều sữa cho con bú nên con bụ bẫm chăng! Sách tướng chia ra: nhất thanh, nhị sắc, tam hình. Chuông trống, dụng cụ âm nhạc làm bằng đồ tốt thì âm thanh tốt. Con người cũng thế, "Tiếng cả nhà thanh;" người có tiếng nói âm hưởng lan rộng và ngân là quí tướng. Âm thanh tiếng nói theo tướng diện khác với lời nói, "Vàng thì thử lửa thử than, chuông kêu thử tiếng người ngoan thử lời." Lời nói phát tự tâm; tiếng nói thuộc về âm thanh, được xếp vào hàng diện mạo. Theo tướng học, tâm đoan chính, âm thanh tiếng nói biểu hiệu chất hào sảng: "Người thanh tiếng nói cũng thanh, chuông kêu khẽ đánh bên thành cũng kêu." Tiếng nói có âm thanh trầm ấm, âm điệu đĩnh đạc, hơi dài là tốt, là thanh. "Trái ngược với thanh là tục: líu lo, láu táu, thều thào, lí nhí, nói ngắn là xấu, là tục." (Tướng Mệnh Khảo Luận, tr. 55). Nếu "Lầmbầm như chó ăn vụng bột," vừa nói nhỏ, vừa cúi đầu là kẻ gian hoạt, âm hiểm. Âm thanh tiếng nói hoặc kiểu cách nói của phụ nữ biểu hiệu một vài đặc tính của tướng diện. Điểm tối kỵ của phụ nữ về âm thanh giọng nói là lanh lảnh ré lên như tiếng kèn đồng hoặc tiếng lụa xé, đôi khi được gọi sắc như chẻ tre hoặc sắc như dao chém nước: "Đàn bà lanh lảnh tiếng đồng, một tướng sát chồng hai tướng hại con." Theo Vũ Tài Lục, "Đàn bà chỉ cần một tiếng nói sang cũng đủ làm mệnh phụ phu nhân; chỉ cần một tiếng nói giọng đàn ông cũng đủ làm thịt vài ông chồng." Sách tướng có câu: "Nữ hữu nam thanh tất hình phu khắc tử; nam hữu nữ thanh tất tiện bần." (Tướng Mệnh Khảo Luận, trang 58). Coi tướng âm thanh lại cần phải liên kết với thái độ của người nói chuyện. Nếu cười nói tự nhiên là người có tướng về âm thanh tốt. Nói chưa ra lời mà đã cười mang tướng xấu: "Vô duyên chưa nói đã cười, có duyên gọi chín mười lời không thưa.ạ" Ca Dao là thế nhưng gọi chín mười lời không thưa chưa chắc đã có duyên ... Tuy nhiên, chắc chắn rằng chưa nói đã cười lại kèm thêm "đi như chạy" sẽ là người vô duyên: "Những người chưa nói đã cười, chưa đi đã chạy là người vô duyên." Ăn nói nơi người đàn bà còn lệ thuộc vào tướng môi: "Cong môi hay hớt, mỏng môi hay hờn, dề môi ăn vụng." Trong thơ văn, thi sĩ hay dùng tiếng "gót son" để chỉ dáng mảnh mai tơ liễu của tướng đàn bà, tướng quí. Người xưa kinh nghiệm, những người đàn bà có gót chân đỏ sẽ được nhờ cậy nơi con cái sau này: "Những người gót đỏ như son, tướng xuất như vậy có con mà nhờ." Qua cơ cấu gia đình Việt, danh phận người đàn bà lệ thuộc vào danh phận chồng. Ngược lại, theo tướng học, người vợ và người chồng ảnh hưởng lẫn nhau về phận số. Tướng đàn bà cổ cao, ba ngấn sẽ có chồng danh tiếng: "Hỡi cô má đỏ hồng hồng, cổ cao ba ngấn lấy chồng cao sang." Một đặc tính thường có nơi đàn bà đó là ghen. Lẽ thường, "Ớt nào là ớt chẳng cay, gái nào là gái không hay ghen chồng." Ghen không phải chỉ nơi đàn bà mà đàn ông nhiều khi còn quá quắt nhưng không có câu tục ngữ hay ca dao nào nói về đàn ông ghen. Điều này có thể bị quan niệm "Trai năm thê bảy thiếp..." khỏa lấp chăng. Đàn bà có tóc trán quăn là người ghen ghê gớm; ông chồng nào có vợ mang tướng này phải nên coi chừng, nếu không muốn nói là lang bang sẽ có ngày mang họa, "Đàn bà tóc trán quăn quăn, như vậy mới biết người ghen quá chừng." Vô ăn vô lo, sống không cần biết đến ngày mai sẽ ra sao là tướng lẹm cằm. Theo tướng diện, người lẹm cằm mang tướng xấu. Cằm được gọi là "địa các" hay cung "bắc nhạc" chủ về hậu vận. Thế nên, "Thà rằng chịu lạnh nằm không, còn hơn lấy gái lẹm cằm răng hô." Tướng đàn bà bất lợi cho đàn ông là tướng lưỡng quyền cao: "Đàn bà lưỡng quyền cao chỉ mưu mô hiếp chồng." Ngược lại, trên mặt có nốt ruồi nơi rãnh nước mắt sẽ khổ đau về đường chồng con: "Nốt ruồi dưới mắt sẽ nhắc khóc chồng." Trong tiết mục "Hỏi Ông Hư Tử" nơi cuốn "Tướng Mệnh Khảo Luận," Vũ Tài Lục có chép: "Tướng có biến không? Tướng thường biến theo tâm. Theo lời Quỷ cốc Tử nói: 'Hữu tâm vô tướng, tướng tùy tâm sinh. Hữu tướng vô tâm, tướng tùy tâm diệt. Hữu tâm hữu tướng, tướng bất tùy sinh; vô tâm vô tướng, tướng bất tùy diệt." Trong cuộc sống, ai không nhận thấy "Thánh nhân đãi kẻ khù khờ;" vì khù khờ nên không biết hại ai, không mưu đồ gian ác do đó có tâm đức tốt, hướng thiện tất nhiên tướng tùy tâm sinh và số theo đức; trong khi những người ma lanh quỉ quyệt, "Ăn cây táo, rào cây sung," hoặc "Đòn càn hai mũi, đâm bị thóc thọc bị gạo" dù cho có cố tình huênh hoang cũng bị trần ai khốn khổ dầy vò. Nguyễn Du cũng nói lên: "Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài." (Đoạn Trường Tân Thanh). Người xưa có câu: "Ở hiền gặp lành." Ở hiền tất nhiên tạo tâm đức. Xét như vậy, phận số con người không phải đã được an bài từ trước mặc dầu ai cũng tin rằng "Cha mẹ hiền lành để đức cho con." Dẫu cha mẹ hiền lành, con cái hưởng phần phúc đức, nhưng nếu con cái không biết lo sống đức độ mà đam mê chạy theo những ham muốn xấu, tất nhiên tự mình phá đổ phần phúc đức, tự mình gieo tai họa cho mình bởi tướng tùy tâm diệt và số tòng tâm. Nghĩ như thế, thưởng phạt một phần nào cũng có ngay trong cuộc sống, và do chính mình tạo ra; thuyết nhà Phật gọi là "nhân quả." Lẽ đương nhiên, không ai kết án con người mà chỉ kết án hành động của con người. Hành động có nhiều cách, nhiều lối từ lời nói đến mưu mô hoặc thực hành sự việc ... Một lời nói thất đức, hại đến danh dự hay dèm pha xúi bẩy tạo cho người khác đi vào ngã chẳng nên có khi gây tổn hại gấp trăm ngàn lần những lỗi lầm vô ý. Ngược lại cũng một lời nói giúp cho người khác thăng tiến, sống tốt lành hơn, tạo nơi mình dầy đường tâm đức. Bình tâm nhận xét, tướng diện học có mục đích giúp mình tự nhận thấy những gì thiếu sót lo sao sống tốt lành hơn để tạo thêm tâm đức. Như vậy, dẫu một người có tướng diện không hay, chẳng nên ca thán hoặc nghĩ mình bị mang số hẩm hiu; trái lại, nên nhớ câu "Đức năng thắng số." Chỉ có một con đường duy nhất để cải số là sống đức đô.. Con người được sinh ra với tướng không tự mình lựa chọn nhưng cải tướng, chuyển số lại bởi tự chính mình. Nhận ra như thế, chẳng lạ gì, những ai "Gieo gió sẽ gặt bão" và đồng thời người nào "Trồng cây dâu ăn trái dâu." Đó cũng là lý do người xưa có nói "Người trồng cây cảnh người chơi, ta trồng cây đức để đời về sau." Người nhận ra tướng diện mình để tu thân chắc chắn không ai có thể "coi bói" hoặc "Trông mặt mà bắt hình dong" được nữa bởi đã tự cải số nên sinh ra "Tướng diện bất như tướng tâm." Tuy nhiên, không phải vô lý mà có câu "Trông mặt bắt hình dong, con lợn có béo thì lòng mới ngon." Khi một người trong lòng vui tất nhiên mặt sẽ hiện lên nét vui tươi, cởi mở, hoặc trong lòng buồn, nét mặt trở thành lo âu sầu khổ. Cái lý của tướng diện cũng tương tợ như tâm lý để lộ qua hình hài, thái độ. Xét như vậy, nếu do tướng diện mà biết được tâm thì chắc chắn tâm ảnh hưởng tướng diện. Thế nên, muốn đổi tướng trước hết cần chuyển tâm; điều này chẳng có gì nghịch lý mà lại thuận theo nghĩa tương đồng vậy. Stầm nguồn:http://vnthuquan.net...CookieSupport=1 Thiên Đồng
  14. TƯỚNG MẠO QUA CA DAO VIỆT NAM Ăn uống khoan thai là người thanh cao Ăn uống nhồm nhoàn làngười thô tục Ăn uống nhồm nhoàm là phàm phu tục tử Bàn tay đỏ ửng như son Không người danh tướng cũng con học hành Bàn tay ngang lại lắmlông Là người nhục dục ắt không phải vừa Bụng bí rợ ở đợ mà ăn Bước chân thình thịch, cúi đầu Bôn ba đây đó, dãi dầu nắng mưa Cá tươi xem lấy đôi mang Người khôn xem lấy đôi hàng tóc mai Tóc mai sợi vắn sợi dài Có đâu mặt rỗ đá mài không trơn Cái sọ trọc như không có tóc Kém công danh lao lực về sau Chẳng tham nhà ngói rung rinh Tham vì một nỗi anh xinh miệng cười Miệng cười em đáng mấy mươi Chân đi đáng nén miệng cười đáng trăm Chim khôn kêu tiếng rảnh rang Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe. Bóng trăng ngả lộn bóng tre Chàng ơi, đứng lại mà nghe em thề. Vườn đào, vườn lựu, vườn lê Con ong vô hút nhụy, con bướm xê ra ngoài. Chàng về nghĩ lại mà coi Tâm tình em ở, gương nào soi cho bằng? Chim sa, cá nhảy chớ nuôi Những người lông bụng chớ chơi bạn cùng Chữ tốt xem tay, người hay xem khoáy Chưa nói mà đã thẹn thò Phải chịu thiệt thòi trong việc làm ăn Con lợn mắt trắng thì nuôi Những người mắt trắng đánh rồi đuổi đi Cua thâm càng nàng thâm môi Cực chi da diết diết da Áo em hai vạt trải ra anh nằm. Da đỏ như gà chọi Da như trứng gà lột Dái tai như hột châu thòng Có thành, có quách, dày, hồng sắc tươi Thiệt người phú quý thảnh thơi Phong lưu tao nhã trên đời chẳng sai 4 Đàn bà chân thẳng ống đồng Khó con mà lại sát chồng, nguy nan Đàn bà chưa nói đã cười Lương duyên vất vả, cuộc đời truân chuyên Đàn bà không biết nuôi heo là đàn bà nhác Đàn ông không biết buộc lạt là đàn ông hư Đàn bà lanh lãnh tiếng đồng Một là sát chồng, hai là hại con Đàn bà tốt tóc thì sang Đàn ông tốt tóc thì mang nặng đầu Đàn bà vú lép, to hông Đít teo bụng ỏng, cho không chẳng cầu Đàn bà yếu chân mềm tay Làm ăn chẳng được lại hay nỏ mồm Đàn ông gân trán nổi cao Tánh tình nóng nảy, dạt dào ái ân Đàn ông gối dụm, chân chàn Chẳng cô gái đẹp cũng nàng nết na Đàn ông ít tóc: an nhàn Đàn bà ít tóc: dở dang duyên tình Đàn ông không râu bất nghì Đàn bà không vú lấy gì nuôi con Đàn ông mà kém bộ râu Văn chương cũng dở, công hầu đừng mong Đàn ông miệng rộng thì sang Đàn bà miệng rộng tan hoang cửa nhà Đàn ông rộng miệng thì tài Đàn bà rộng miệng, điếc tai xóm giềng Người khôn con mắt dịu hiền Người dại con mắt láo liên nhìn trời! Đàn ông trán dựng có tài Đàn bà trán dựng lâu đài soi gương Đàn ông tuổi tý thì tài, Đàn bà tuổi tý thì hai đời chồng. Đi đứng khoan thai, chẳng ai sánh bằng Dữ như tê giác, ác như bà một mắt Gió đưa mười tám lá me Mặt rỗ hoa hòe mà ăn nói có duyên Giọng nói răm rắp tiếng dư Trai thì can đảm, gái ư gan lỳ Gò má mà chẳng cân phân Cuộc đời cam chịu lắm phần lao đao Hai môi không giữ kín răng Là người yểu tướng, nói năng hỗn hào Hàm rộng, miệng cọp: anh hùng Hàm rắn, miệng chuột: bất trung vô nghì Kẻ nào trống giữa bàn chưn Hổng không đụng đất thì đừng chơi xa Khao khao giọng thổ tiếng đồng, Quăn quăn tóc trán là dòng khôn ngoan. Lờ đờ như người say rượu Mắt đỏ hoe, phải liệu mà chơi Lỗ mũi mà hỉnh ngửa lên Bạc tiền chồng chất một bên chẳng còn Lỗ mũi mỏng, đầu cong, nhọn hoắc Ắc lòng tham, hiểm độc gian phi Tướng này đức đã suy vi Nếu không tu thiện, hậu thì khó toan Lưng dài vai mập ba gang, Ăn nhai nửa miệng: Khô khan chai lười Má bánh bầu xem lâu muốn chửi Mặt chữ điền tiền rưỡi muốn mua Má hồng, trán bóng có duyên Lương tâm dẫu tốt, đừng hòng tuổi cao Má miếng bầu coi lâu càng thắm Mặt chữ điền xấu lắm ai ơi Má miếng bầu coi lâu muốn chửi Mặt chữ điền tiền rưỡi chẳng mua Mặt dài tuy nhỏ: vui chơi Tai to mặt ngắn: chịu lời đắng cay Mắt dài, mày ngắn: bất bình Mày dài mắt ngắn: đệ huynh vẹn toàn Mặt đỏ như lửa, thấy bụng chửa cũng sợ Mặt khó đăm đăm, tát nước đầm không cạn Mắt ngước, chân bước nhẹ nhàng Tướng đi khang nhã, rõ ràng hiền nhân Mắt trắng, môi thâm, da thiết bì Người nhiêu lông bụng: vô nghì chớ thân Mắt tròn dưới mí láng sưng Là tên tửu bác, Không ngừng chơi đêm Mi nhỏ như sợi chỉ mành Tình trong chưa thắm, ngoại tình đã giao Miệng mà môi dưới trề ra Trai thì chung thủy, gái là đào hoa Miệng rộng, môi mỏng, liếc ngang Con gái như thế chẳng màng làm chi Miệng tu hú, ăn lở rú lở rí Môi dày, miệng rộng cân phân Nhơn trung sâu rộng, tánh chơn khoan hòa Môi mỏng hay hớt, môi trớt hay thừa Môi mỏng nói điều sai ngoa Mai sau sinh nở con ra hoang đàng Móng tay mỏng, nhọn: cơ cầu Tâm tư hiểm độc, hay xâu của người Mụt ruồi màng tang cả làng ăn thép. Mụt ruồi bên mép, ăn thép cả làng, Ngồi khòm đầu gối quá tai Là người cực khổ chẳng sai chút nào Ngón tay bàn móng, kẽ thưa Dù làm cho cố cũng chưa có giàu Ngón tay thon thỏn búp măng Tánh tình khoan nhã, thơ văn đủ mùi Đây người dưng đó cũng người dưng, Cớ chi nước mắt rưng rưng nhỏ hoài Hai tay ôm vạt áo dài, Chậm lên con mắt, chậm hoài không khô. Người đen mà ốm lại cao Tóc quăn, môi lớn, lao đao tháng ngày Người hiền tại mạo trắng gạo tại cơm Người khôn con mắt đen sì Người dại con mắt nửa chì nửa than Người mồ hôi nhờn lại khét Đời phần nhiều lao lực về sau Nhân hiền tại mạo Có trắng gạo mới ngon cơm Nhất lé nhì lùn tam hô tứ sún Nhìn hoa thì dễ Nhìn rễ thì khó Nhơn trung sâu tợ như đào Thung dung trần thế, ai nào dám đương Những cô chưa nói đã cười Chưa đi đã chạy là người vô duyên Những người béo trục béo tròn Ăn vụng như chớp đánh con cả ngày Những người chép miệng thở dài Chỉ là sầu khổ bằng ai bao giờ Những người con mắt lá răm Lông mày lá liễu đáng trăm quan tiền Những người mặt nạc, đóm dày (Như) Mo nang trôi sấp, biết ngày nào khôn Những người mặt nặng như mo Chân đi bậm bịch, có cho chẳng màng (thèm) Những người râu mép ngoảnh ra Mép dày môi mỏng, ấy là tinh khôn Những người tai mỏng mà mềm Là phường xấc láo, lại thêm gian tà Những người tai ngửa ra sau Tướng hèn mà lại cứng đầu, chậm nghe Những người thành thật môi dày Lại thêm ít nói lòng đầy nghĩa nhân Những người thắt đáy lưng ong Vừa khéo chiều chồng, lại khéo nuôi con. Những người béo trục béo tròn Ăn vụng như chớp đánh con cả ngày Những người mặt nạc đóm dầy Mo nang trôi sấp, biết ngày nào khôn. Những người ti hí mắt lươn Trai thì trộm cướp, gái buôn chồng người Những người, lẩm bẩm một mình Giàu sang chẳng được, lại sinh kém tài Quân tử lắm lông chân, tiểu nhân nhiều lông rốn Ra đi chân bước nhẹ nhàng Là người hiếu khách, rõ ràng yên vui Răng cao, miệng nhỏ: điêu ngoa Răng thấp môi kín: thương cha nhớ chồng Răng đều, khít, kín, tốt , cân phân Nhỏ, dài, thẳng, chắc, trắng ngần dưới trên Tựa như hạt lựusoi đèn Đủ băm sáu cái nắm quyền tướng khanh Răng thưa, da trắng: gái hay Răng thưa, mặt sẫm: đổi thay chuyện tình Râu rìa, lông ngực đôi bên Chẳng phường phản bạn, cũng tên nịnh thần Tai dài như Phật, quả thật sống lâu Tai quặp về trước bủm tròn Không cháu tể tướng cũng con anh tài Tay chiêu, móc niêu chả rồi Thông minh, học giỏi, anh tài Ngón (tay) nhỏ mà dài tựa đọt hành non Thực tốc hành trì: quý nhân chi tướng Tiếng nói rít qua kẽ răng Là người nham hiểm sánh bằng hổ lang Tóc đen, thưa, rộng mà dài Vuông tròn sắc mặt là trai anh hùng Tóc mai dài xuống mang tai Là người khó tánh ít ai vừa lòng Tóc thưa, dài, mướt, trắng da Ở hàng lầu các, dung hòa phu nhân Tốt tóc nặng đầu, tốt râu nặng cằm Trai mà có cặp răng nanh Gan dạ , chịu đựng, khôn lanh đủ điều Trai mà nói giọng đàn bà Tánh tình nhu nhược, còn là long đong Trai thâm môi gái lồi mắt Trán cao có cái đầu vuông Văn chương, khoa bảng có nhường ai đâu Trán cao, mắt sáng phân minh Là người học rộng, công danh tuyệt vời Trán cao, miệng rộng, mũi dài Có khoa ăn nói, ít ai sánh bằng Trên rừng thì hổ lang dưới làng thì mặt rỗ Tướng đi chân bước hai hàng Nàng thì rộng lượng, còn chàng tiểu tâm Vai ngang, mặt lớn, tiếng to Nhiều chồng mà lúc về già vẫ không Vật có thúi mới sinh dòi Người có dạ xấu mới ăn lời dèm pha Voi chéo ngà, đàn bà một mắt Xoáy trâu: không giàu cũng sướng Xoáy ngựa hiện tượng: là tướng điêu ngoa. Nguồn: http://www.capcodoc.net/index.php?option=com_content&task=view&id=911&Itemid=133
  15. Thiên Đồng chuyển giúp chị Điệp ở Củ Chi số tiên là 500.000 đồng (năm trăm nghìn đồng) vào quỹ từ thiện.
  16. Những trận động đất trên thế giới từ tháng 01 đếntháng 04 năm 2011
  17. Lẽ thường ở đời ngưới ta cứ chắm bẩm vào cái marque giáo sư nọ, tiến sĩ kia, nhà nghiên cứu này nói...là coi như oke rồi, coi như chân lý rồi. Vì vậy, mê tín trông khoa học là vậy. Bác Ngò không phải là nhà khoa học, nhưng bằng chứng và phương tiện chứng minh cho lẽ thật là thật. Như vậy cũng khoa học chứ nhỉ?
  18. Bộ Xây dựng Viện Kiến trúc Quy hoạch đô thị nông thôn Tạp chí Kiến trúc Việt Nam. ------------------------- Thông báo Kết quả Cuộc thi " Ý tưởng thiết kế kiến trúc cổng cửa khẩu Việt Nam" Sau gần 4 tháng phát động (Từ ngày 25/5/2008 - 15/9/2008), cuộc thi: ý tưởng thiết kế kiến trúc cổng cửa khẩu Việt Nam đã nhận được sự tham gia nhiệt tình của đông đảo các đơn vị tư vấn, thiết kế xây dựng, các Kiến trúc sư trong cả nước. Cuộc thi đã nhận được 56 phương án tham gia dự thi với nhiều ý tưởng đa dạng và phong phú cho các cửa Khẩu Việt Nam với Trung Quốc, Việt Nam với Lào, Việt Nam với Campuchia. Cửa khẩu Quốc tế (Quốc Môn) là điểm mốc đánh dấu sự thay đổi gianh giới giữa các nước láng giềng. Kiến trúc cửa khẩu là một biểu tượng về văn hóa, tình đoàn kết, hữu nghị của người dân vùng biên giới, đồng thời thể hiện nét độc đáo về văn hóa - kiến trúc của mỗi nước. Thực hiện nhiệm vụ của Bộ Xây dựng giao, cuộc thi: ý tưởng thiết kế kiến trúc cổng cửa khẩu Việt Nam đã được Viện Kiến trúc Quy hoạch đô thị và nông thôn ( KTQHÐT&NT), Tạp chí Kiến trúc Việt Nam tổ chức. Cuộc thi với mong muốn tìm kiếm được những ý tưởng thiết kế kiến trúc cửa khẩu Việt Nam mang nét đặc trưng bản sắc dân tộc Việt Nam, bản sắc dân tộc vùng miền Việt Nam. Vừa qua, Viện KTQHÐTNT đã tổ chức chấm thi. Hội đồng chấm thi gồm 9 thành viên: 1. KTS Trần Ngọc Chính - Thứ trưởng Bộ Xây dựng - Chủ tịch Hội đồng chấm thi 2. TS.KTS Nguyễn Ðình Toàn - Viện trưởng Viện Kiến trúc, Quy hoạch đô thị và nông thôn (BXD) Phó Chủ tịch Hội đồng chấm thi. 3. KTS Lê Ðình Tri - Phó Vụ trưởng Vụ Quản lý Kiến trúc Quy hoạch (BXD) 4. KTS Nguyễn Luận - Hội Kiến trúc sư Việt Nam 5. GS.TSKH Nguyễn Mạnh Thu - Trường Ðại học Xây dựng 6. KTS Trần Ðức Hợp - Trường Ðại học Kiến trúc Hà Nội 7. PGS.TS Nguyễn Quốc Thông - Tổng biên tập TC Xây dựng (BXD) 8. Hoạ sỹ Lương Xuân Ðoàn - Phó vụ trưởng Vụ Văn hóa văn nghệ Ban Tuyên giáo Trung ương 9. TS.KTS Nguyễn Trọng Khang - Viện Kiến Trúc, Quy hoạch đô thị và nông thôn (BXD) Về hình thức chấm giải Hội đồng chấm thi đã thống nhất thay đổi phương thức chấm vòng 2 (theo thể lệ cuộc thi đã đề ra) như sau: Các tác giả của các phương án đạt vào vòng 2 không cần phải trình bày, bảo vệ trước hội đồng để tiết kiệm thời gian và tài chính cho các tác giả, nhất là các tác giả ở xa. Các phương án đã thể hiện đầy đủ ý tưởng và nội dung của các tác giả. Hội đồng đã thông qua quy chế chấm thi: Vòng 1: Chấm 55 phương án theo quy chế chấm thi gồm 3 tiêu chí sau: · Kiến trúc Quy hoạch: 60 điểm · Công năng: 20 điểm · Kinh tế - kỹ thuật tính khả thi: 20 điểm Ðiểm tối đa là 100 Kết thúc vòng 1 Hội đồng thống nhất chọn ra được 19 phương án đạt trên 60 điểm. Vòng 2: Hội đồng đều thống nhất chọn ra 09/19 phương án lọt vào vòng 3 Vòng 3: Xét các giải: Nhất, Nhì, Ba, Khuyến khích . Kết quả cuộc thi: Hội đồng chấm thi đã thống nhất chọn ra 09 phương án đạt giải, bao gồm: 01 giải Nhất, 01 Giải Nhì , 02 Giải Ba; 05 giải Khuyến khích. Cụ thể như sau: GIẢI NHẤT: Phương án thiết kế quốc môn Việt - Trung MS: LC 689 Nhóm tác giả: Nguyễn Như Hải Ðỗ Duy Khang Ðinh Mỹ Hảo Nhi Ðịa chỉ: Công ty TNHH Kiến Trúc Nguyên Bản (Orig.architecture), 69/A Hoàng Hoa Thám, P.6, Quận Bình Thạnh, TP.HCM. Phương án đoạt giải nhất của cuộc thi Ý tưởng thiết kế Chọn vị trí đặt quốc môn Việt - Trung tại Lào Cai, nơi có 2 mùa tuyệt đẹp để ngắm cảnh kỳ thú của ruộng bậc thang - mùa gieo cấy lúa ruộng đẹp như những bức tranh thuỷ mặc và mùa lúa chín vàng đẹp như mơ trải dài ven sườn núi xanh mờ sương… Có thể tự hào mà nói rằng mỗi vẻ đẹp của ruộng bậc thang ở Tây bắc là những kiệt tác mỹ thuật do con người làm ra.Những cánh đồng bậc thang không chỉ là cảnh đẹp thuần tuý mà còn là những bồ thóc không bao giờ vơi của đồng bào các dân tộc vùng cao. Ðó cũng là kết quả của phương thức năm nay. Ðây là những điểm đến hấp dẫn của du khách quốc tế và du khách các tỉnh đồng bằng mỗi khi lên du lịch vùng núi Sa Pa, Bắc Hà, Bát Xát,Simacai. Chính vẻ đẹp của ruộng bậc thang đã tạo ra cảm xúc cho chúng tôi hình thành ý tưởng và đó cũng là tên đồ án “ruộng bậc thang”. Hình khối công trình được cách điệu từ hình ảnh ruộng bậc thang, như một niềm tự hào về bản sắc văn hóa của vùng miền núi Tây Bắc, nhằm tạo nên một cái nhìn mới về hình khối kiến trúc cửa khẩu mang đậm nét bản địa. Ðược làm bằng kết cấu bê tông cốt thép nên công trình sẽ thể hiện được sự mạnh mẽ bền vững với tinh thần phát triển không ngừng của đất nước trên con đường hội nhập quốc tế. Mặt đứng công trình như hình mầm cây vươn lên, thể hiện sự phát triển không ngừng của đất nước trên con đường hội nhập quốc tế. Ðường cong trên mặt đứng và mặt bằng thể hiện tinh thần rộng mở, hiếu khách của đất nước thời mở cửa. Các hạng mục phụ của công trình được bố trí xung quanh cổng. Cột mốc gắn quốc huy là điểm nhấn công trình. Quảng trường, sân nghi lễ thay vì một khoảng sân bê tông trơ cứng, được cách điệu từ hình ảnh ruộng bậc thang để không làm mất đi cảnh quan thiên nhiên xung quanh cũng như nét đẹp tổng thể. Trạm nhập cảnh và xuất cảnh bên trong công trình được bao bọc bởi kính phản quang cũng nhằm mục đích đưa hình ảnh vùng núi trùng điệp này lên trên công trình. Tuy nhiên, tổng thể công trình không thiếu đi sự mềm mại bởi những nét cong nhằm ẩn dụ tinh thần cởi mở, hiếu khách của con người Việt Nam. Ðó cũng là thông điệp của nền văn hóa Việt gửi đến bạn bè thế giới! GIẢI NHÌ: Phương án thiết kế cửa khẩu Việt - Trung MS: KD 020 Nhóm tác giả: Lê Thu Trang Vũ Ngọc Tú Ðào Thái Hà Nguyễn Minh Trì Ðịa chỉ: Nhóm sinh viên trường ÐH Xây Dựng Hà Nội Phương án đoạt giải nhì của cuộc thi Ý tưởng thiết kế được khai triển dưới dạng một “tấm kính”lớn. Một cánh cổng rộng mở và gần gũi về cả nghĩa đen hay nghĩa bóng. Một mặt phẳng duy nhất và vĩnh cửu. Lối đi cho người đi bộ như một đường hầm nhỏ - gần gũi, thân thiện. Cánh cổng lớn là một ranh giới. Ðường hầm chính là lối đi đưa con người qua ranh giới. Ðiều thú vị là khi ở trong đường hầm, ta hầu như không còn có ý thức về ranh giới ta đang vượt qua, ta đang ở bên này hay bên kia của ranh giới ấy. Hai lối ra của đường hầm tràn ngập ánh sáng. Một như níu kéo, một như mời gọi. Biên giới là tuyến ngang phân định ranh giới giữa hai đất nước với hai nền văn hóa - xã hội đặc trưng. Trong đó cửa khẩu được hiểu như là một điểm trên tuyến nơi diễn ra việc lưu thông của con người. Ðiểm đó đóng một vai trò vô cùng quan trọng cả về mặt vật chất và tinh thần đối với một quốc gia.Nó thể hiện sức sáng tạo, nền văn hóa dân tộc, tình hữu nghị, và quan trọng nhấn mạnh vào yếu tố chủ quyền. Vật liệu sử dụng : Phương án không sử dụng các vật liệu đặc như gạch, bêtông mà dùng kính để tạo lập hình thức cửa khẩu. Vật liệu này đem đến cho người xem một hình dung, suy nghĩ mới về “cánh cổng” quốc gia. Về mặt ý tưởng: Trong sự phát triển đi lên của đất nước, yếu tố “hội nhập” đang trở thành một trong những quốc sách hàng đầu. Vì vậy, một hình thức cửa khẩu mới phải thể hiện được sự cởi mở, thân thiện, sẵn sàng hội nhập. Phương án đã sử dụng vật liệu Kính - một vật liệu phổ biến trong kiến trúc - xây dựng để xóa nhòa cái ranh giới cụ thể đó. Tuy nhiên, trong suốt không có nghĩa là có thể thẩm thấu, xuyên qua, cũng giống như tiêu chí thứ hai “không hòa tan”. Cửa khẩu vẫn là một bức tường vững chãi khẳng định tính độc lập chủ quyền của quốc gia, không kẻ thù nào có thể xâm phạm. Với hai tiêu chí đó, phương án của chúng tôi muốn đem đến một cái nhìn mới về việc thiết kế kiến trúc cổng cửa khẩu. Cùng với hình ảnh hoa văn thổ cẩm toàn bộ thiết kế mặc dù hết sức đơn giãn vẫn truyền tải được nội dung, bản sắc dân tộc. Về mặt hình thức, công năng: + Dòng hàng hóa được đưa vào giữa gồm có 4 làn đường cho ôtô, mỗi làn 3,5m, với 2 chiều lưu thông. + Hai bên là các hành lang đi bộ cho người qua lại, sử dụng vật liệu đặc hoàn toàn, bề mặt bên trong là những hình ảnh lịch sử của quốc gia. Với kích thước hành lang là 2200 x 2200 hoàn toàn đối lập với kích thước rất lớn của cổng -14m chiều cao và gần 7m thông thủy. Ðiều đó tạo ra cho người đi bộ một sự cảm nhận mới khi đến với Việt Nam: gần gũi bởi không có một ranh giới quá cụ thể, không xác định rõ thời điểm bước qua ranh giới; thú vị và ngạc nhiên từ điểm đầu đến điểm kết thúc của lối đi bởi họ được trải qua một tiến trình dài của lịch sử, cô đọng và hào hùng. Chỉ vài bước chân họ đã đến nước ta, và cũng chỉ vài bước chân họ trở về Tổ quốc với những ấn tượng rõ nét về dân tộc Việt Nam. Phương án sử dụng những hình chữ nhật, hình hộp chữ nhật vuông vức và vững chãi. Sự đơn giản hóa chi tiết và công năng tạo cho công trình vẻ hiện đại mà cũng đầy ý nghĩa. GIẢI BA (2 giải): Phương án thiết kế Quốc Môn Việt - Lào MS: VH 268 Nhóm tác giả: Dương Thành Trung Nguyễn Vân Hà Dương Trung Hiếu Ðịa chỉ: Văn phòng Kiến trúc Nhiệt đới, nhà A5, Lương Ngọc Quyến, Hà Nội Ý tưởng kiến trúc công trình Ý tưởng kiến trúc Cổng cửa khẩu Việt - Lào được xuất phát từ ý thức tôn vinh mối quan hệ đoàn kết và hữu nghị hàng trăm năm qua giữa hai dân tộc, tình cảm gắn bó như anh em: Việt - Lào được ví như hình ảnh hoa Sen và hoa Chăm Pa. Cổng cửa khẩu được xây dựng với hình ảnh những cánh hoa Sen trên mặt hồ. Hoa Sen là loài hoa đặc trưng cho dân tộc Việt Nam, loài hoa thể hiện sức mạnh bất khuất vươn lên mạnh mẽ từ trong bùn lầy. Hình ảnh hoa Sen thể hiện truyền thống anh dũng thắng giặc ngoại xâm từ hàng ngàn năm qua. Mặt nước được sử dụng ngoài ý đồ thẩm mỹ, còn là một yếu tố “phong thuỷ” không thể thiếu của người Việt. Mặt nước ở đây còn đóng vai trò điều hoà môi trường không khí quanh khu vực cổng cửa khẩu, làm giảm đáng kể cái oi bức của gió Lào. Giải pháp kiến trúc công trình Giải pháp mặt bằng: Mặt bằng của công trình cửa khẩu có bố cục đơn giản, phân luồng giao thông mạch lạc. Mặt bằng chia làm ba khối: Hai khối hai bên dành cho xuất và nhập cảnh của người đi bộ; khối ở giữa dành để kiểm soát ô tô xuất và nhập cảnh. Tầng hầm có tác dụng làm giao thông liên hệ giữa các khu chức năng và tăng khả năng vững chắc cho công trình khi cắm sâu xuống đất (chỉ dành cho nội bộ). Các tầng trên đều được tận dụng làm các phòng phục vụ nhân viên an ninh làm việc tại cổng cửa khẩu. Nói chung mặt bằng đã thoả mãn các yếu tố sau: Giao thông đi bộ và giao thông cơ giới tách biệt và đều được kiểm soát dễ dàng; Hai luồng giao thông xuất cảnh và nhập cảnh cũng được phân cách tốt. Các hoạt động của người dân và các hoạt động của nhân viên an ninh cũng tách biệt rõ ràng nhờ việc tổ chức hầm đi bộ. Giải pháp mặt đứng: Mặt đứng công trình được bố cục bởi các miếng đặc rỗng xen kẽ nhờ các khoảng trống để phục vụ giao thông và các mảng đặc của công trình tạo nên. Toàn bộ mặt đứng được che phủ một lớp cánh bằng thép có các chớp chắn nắng có thể điều chỉnh được góc xoay. Lớp cánh cổng vươn cao này vừa có tác dụng biểu hiện vừa có tác dụng chắn nắng cho các không gian chức năng bên trong, nhằm chống lại cái nắng nóng của miền đất chịu tác động của gió Lào. Giải pháp kết cấu công trình: Với yêu cầu về một công trình bề thế, vững chắc, bền vững với thời gian nên việc sử dụng kết hợp kết cấu bê tông cốt thép kết hợp với kết cấu thép sẽ vừa đảm bảo được tính chắc khoẻ mà vẫn đảm bảo tính biểu hiện kiến trúc. Thay vì sử dụng hệ thống cột thì ở đây dùng toàn bộ là hệ thống vách bê tông cốt thép cắm sâu xuống lòng đất thông qua tầng hầm, điều này sẽ đảm bảo cho một công trình có thể chịu được mọi tác động của thiên nhiên. Các giải pháp kỹ thuật khác: Ðể tận dụng tối đa nguồn năng lượng tại vùng đất có nhiều ánh nắng nên công trình được trang bị hệ thống pin mặt trời trên mái và toàn bộ hệ thống bảo vệ, chiếu sáng công cộng đảm bảo cho việc tự cung cấp nguồn năng lượng cho các hoạt động tại khu vực cửa khẩu. Công trình có thể lấy ánh sáng tự nhiên rất tốt, hệ thống vách kính bên trong rộng lấy sáng dễ dàng, bên trong tất cả các vách kính đều có hệ thống cửa cuốn thép bảo vệ an ninh khi cần, phía mặt ngoài được che phủ bằng một lớp cánh bằng thép vừa là kết cấu công trình vừa là khung để gắn hệ thống chớp che nắng bằng hợp kim có thể thay đổi góc xoay. Công trình được sử dụng kết hợp các loại vật liệu truyền thống và hiện đại, từ kết cấu bê tông cho đến kết cấu thép, tiếp đến là các chi tiết như tấm chắn nắng và bộ colson (sử dụng thức gỗ cổ) đều được làm bằng các vật liệu mới. Phương án thiết kế Quốc Môn Việt - Lào MS: VIE 02 Nhóm tác giả: CTy Cổ phần Tư vấn đầu tư và Phát triển đô thị VIEALIFE Ðịa chỉ: 43 Pháo Ðài Láng, Ðống Ða, Hà Nội Ý tưởng: Trống Ðồng được coi là biểu tượng văn hóa của người Việt, vì qua đó thể hiện cảm nhận về quy luật của thiên nhiên cũng như cuộc sống thường ngày của người Việt cổ. Trên những họa tiết trên trống đồng có nhiều hình ảnh của những kiến trúc cổ của người Việt. Những hình ảnh đó rất gần gũi và thể hiện đậm chất văn hóa Việt. Cách điệu hình ảnh đó với những vật liệu hiện đại, công trình muốn hướng đến một hình ảnh gần gũi với người Việt Nam, thân thiện với bạn bè quốc tế thông qua những đường nét, vật liệu của kiến trúc hiện đại. Bên cạnh đó còn thể hiện được: nét văn hoá riêng đặc sắc của Việt Nam; tinh thần hữu nghị với bạn bè quốc tế; tư thế dân tộc, chủ quyền quốc gia Việt Nam. Ðịa điểm thiết kế: Cửa khẩu quốc tế Cầu Treo nằm trên biên giới giữa Việt Nam và Lào. Khu kinh tế cửa khẩu Cầu Treo là một trong những được ưu tiên phát triển. Khu kinh tế này gắn với cửa khẩu quốc tế Cầu Treo, nhằm mục đích đẩy mạnh thông thương giữa Việt Nam với Lào, thúc đẩy phát triển kinh tế Hà Tĩnh nói riêng, Việt Nam nói chung. Giải pháp kiến trúc, quy hoạch: - Tổ chức quy hoạch: Công trình cổng cửa khẩu Cầu Treo nằm giữa đường biên và trạm kiểm soát. Giao thông: Nằm ở hai bên là 4 làn xe ô tô, chiều rộng mỗi làn là 3,5m, chiều cao thông thuỷ đảm bảo cao 7m. Ngoài ra còn tổ chức thêm hành lang đi bộ cho cả 2 lối xuất nhập trên vỉa hè hai bên. Cảnh quan: Hai bên vỉa hè là bãi cỏ rộng - tạo vị thế của công trình và sự hòa hợp với thiên nhiên. Phía trước công trình có bố trí hồ nước là một giải pháp hay được sử dụng trong các công trình dân gian của người Việt. Hệ thống trụ biểu ngoài chức năng dẫn hướng, còn được lắp đặt đèn tạo thêm những hiệu quả bổ trợ cho công trình chính. - Tổ chức mặt bằng: Trung tâm của công trình là nhà lưu niệm, nơi có thể đặt một số tư liệu về tình hữu nghị của hai dân tộc Việt -Lào ... Hai bên là trạm đứng gác của bộ đội biên phòng. Công trình có bố trí bậc tam cấp cũng như đường dốc để cả người khuyết tật có thể tiếp cận sử dụng. - Hình thức kiến trúc công trình: Xuất phát từ các họa tiết trên trống đồng, công trình có cấu trúc của một công trình dân gian mạch lạc đơn giản. Hai diện mái dốc khiến người ta liên tưởng đến ngôi Ðình của người Việt. Phần chéo của mái cùng các chi tiết đầu đao khiến công trình như đang vươn lên thể hiện sức mạnh vươn lên của Việt Nam. Giải pháp kỹ thuật: Công trình sử dụng kết cấu bê tông cốt thép. Các vật liệu được sử dụng là những vật liệu công nghệ cao và những vật liệu địa phương gạch, đá, gỗ để trang trí và ốplát. Giải pháp chiếu sáng: Công trình được chiếu sáng vào ban đêm và những khi thời tiết nhiều sương mù bởi hệ thống đèn rọi ngoài công trình và đặt ngay trên công trình. Bên trong công trình hệ thống kết cấu được lắp đặt đèn để chiếu sáng và tăng hiệu quả nội thất bên trong. Hệ thống trụ biểu được lắp đèn để dẫn hướng kết hợp với hệ thống đèn sân vườn và an ninh sẽ tạo nên sự hấp dẫn của cả tổng thể công trình. còn tiếp nguồn: http://kientrucvietnam.org.vn/Web/Content.aspx?distid=9246&lang=vi-VN
  19. Sự lựa chọn chuẩn xác và đầy nét văn hóa Việt. Chỉ có Cụ Khiết mới đáng làm thầy thiên hạ, vì Cóc sinh ra nòng nọc mà chữ Khoa Đẩu là chữ Nòng Nọc. Thầy đồ Cóc Câu thơ được thầy Xuyền viết bằng chữ Việt cổ , chữ Nòng Nọc.
  20. Lạ kỳ tục "họp chợ" mua con Chủ nhật, ngày 29/08/2010, 09:02 (Tin tuc) - Mấy đời nay, người Dao ở Nậm Mười, huyện Văn Chấn - Yên Bái có lệ đi tìm mua con người Thái về nuôi, có gia đình mua đến 8 đứa con. Mua con nuôi đang trở thành lệ khó bỏ ở Nậm Mười Để tới được những ngọn núi ở xã Nậm Mười, huyện Văn Chấn – Yên Bái, nơi có đông người Dao sinh sống, chúng tôi phải cuốc bộ qua nhiều đèo, suối quanh co. Giữa trưa mà vùng này bị sương mù phủ kín. Bởi thế, nhiều người đã ví Nậm Mười như Sapa thứ hai ở phía Bắc. Không mua người cùng dân tộc Cuộc sống ở Nậm Mười gần như tách biệt với thế giới bên ngoài. Muốn xuống núi đến thị xã Nghĩa Lộ cách đó vài chục cây số, người dân phải đi bộ cả ngày trời. Qua bao nhiêu đời, tập tục của người Dao ở đây không có gì thay đổi so với những gì tổ tiên họ để lại.Con nuôi được người Dao ưu tiên mua chủ yếu là người Thái, còn người Mông dù cũng khỏe mạnh nhưng chẳng hiểu sao họ không chuộng. Đặc biệt, người Dao không khi nào mua con nuôi là người Dao, bởi họ quan niệm nếu là người cùng dân tộc thì đến lễ “cấp sắc” (công nhận một người đàn ông đã trưởng thành), các “ma” sẽ tranh nhau. “Tao mua 8 đứa con, 7 trai, 1 gái, đứa nào cũng còn đỏ hỏn. Vậy mà thằng chồng hơn tao 15 tuổi cứ bảo mua thêm vài đứa nữa về nuôi. Vì thiếu sữa, thiếu tiền, 4 đứa chết mất rồi. Tao khóc mãi nhưng chúng nó cũng không sống lại được”. Nghe chúng tôi hỏi chuyện con nuôi, bà Đặng Thị Pham, ngụ tại thôn Bó Sưu, xã Nậm Mười, sụt sùi kể lại như thế. Gia đình bà Pham được xem là đã lập kỷ lục mua con nuôi ở Nậm Mười. Trong căn nhà bằng gỗ thông thấp lè tè, lợp bằng những mảnh gỗ chẻ mỏng mà nằm ngửa giữa sàn có thể nhìn lên trời rõ mồn một, bà Đặng Thị Còi - thôn Háo Pành, xã Nậm Mười - ngậm ngùi kể về đứa con nuôi của mình: “Vợ chồng mình không có con trai nên mới mua đứa con của người Thái. Lúc mua, nó mới được mấy tháng, trông chẳng ra hình người, cứ ốm đau liên tục. Mình phải lên rừng lấy lá thuốc về tắm mãi, nó mới khỏe ra. Nuôi nó vất vả, tốn kém lắm. Mỗi lần bố mẹ nó đến chơi là mình phải có cái gì cho họ mang về, lần thì gạo, ngô; lần thì đôi gà...”. Người con được bà Còi mua về nuôi và đặt tên là Bàn Tân Thanh nay đã có 2 con nhưng cái đói, cái nghèo vẫn đeo đuổi mãi. Bà Còi thở dài: “Nó không biết làm ăn nên khổ lắm”.Nhắc đến chuyện mua con nuôi, bà Bàn Thị Gến ở thôn Háo Pành ngượng ngùng: “Mình mua 2 đứa cơ, một trai, một gái. Đứa lớn đi lấy vợ rồi, đứa con gái cũng lấy chồng xa tận Lào Cai, thỉnh thoảng mới về thăm mình. Trước kia, mình tưởng không sinh được con nên mới mua chúng nó. Mua chúng về ít lâu thì mình sinh được 2 đứa nữa. Mình không phân biệt con nuôi với con đẻ đâu, cũng chia đất, chia rừng, cho mỗi đứa con trâu, con gà như nhau hết”.Hôm chúng tôi đến, vợ chồng anh Bàn Kim Định ở thôn Háo Pành bồng ra khoe 2 đứa con nuôi mới hơn 3 tháng tuổi. Anh Định cho biết: “Vợ chồng mình lấy nhau thật lâu mà vợ không chịu sinh cho mình đứa con cho bằng bạn, bằng bè. Sau lần thấy vợ kêu mệt và đau bụng, mình đưa đi khám mới biết vợ bị bệnh không sinh con được. Thấy người trong xã “họp chợ” mua con về nuôi, vợ chồng mình cũng đi theo và may mắn mua được 2 đứa”. Vợ anh, chị Bàn Thị Mụi, thổ lộ: “Mình muốn sinh lắm chứ nhưng mà không sinh được. Bây giờ thì mình chỉ trông chờ vào 2 đứa con nuôi này thôi”. Một buổi họp phụ nữ về kế hoạch hóa gia đình, tránh mua bán con nuôi tràn lan “Họp chợ”, như người Dao thường gọi, là cách thức tìm mua con nuôi nhanh nhất. Theo đó, một số người có nhu cầu mua con nuôi tập hợp lại rồi đi xuống núi suốt nhiều ngày. Hễ thấy gia đình người Thái nào đông con, họ liền vào nhà xin ngủ nhờ và hỏi thăm xem có ý bán con hoặc trao đổi thứ gì đó không. Nếu gia đình người Thái đồng ý bán con, người Dao sẽ hẹn một “ngày tốt” rồi dắt theo một con trâu 3-4 tuổi, một đôi gà và ít tiền đến trao đổi, làm thủ tục mang con về nuôi.Trước khi con nuôi được mang vào nhà, người Dao cũng phải xem và chọn giờ tốt. Sau đó, họ mổ gà cúng xin tổ tiên. Khi con nuôi lớn lên, cha mẹ nuôi phải nói rõ thân phận cho chúng nghe. Theo tục lệ của người Dao, mọi người con nuôi khi mới mang về đều phải đặt cùng một tên là Páo. Khi con nuôi được 12-13 tuổi, cha mẹ nuôi cúng “ma nhập” rồi đặt tên chính thức. Tên con nuôi không được trùng tên với người trong nhà bố mẹ đẻ. Bán con, mua thuốc phiện Con đường độc đạo từ Quốc lộ 32 vào Nậm Mười hoang vu, lạnh lẽo đến ghê người. Sau trận mưa, hơn 20 km đường đèo dẫn vào xã này trở nên lầy lội. Nậm Mười nằm trên khu vực núi cao đến mức từ trung tâm xã, chỉ cần ngồi lên xe, tắt máy, cho xe tự chạy cũng đến được Quốc lộ 32. Người dân Nậm Mười sống chủ yếu dựa vào cây quế hoặc nuôi vài con heo, dăm đàn gà thả rông. Tình trạng mua con, trao đổi con giữa người Dao và người Thái ở Nậm Mười nói riêng cũng như Yên Bái nói chung ở mức độ nào đó đã và đang dẫn tới sự đói nghèo luẩn quẩn. Người Thái vì không chú trọng kế hoạch hóa gia đình nên mỗi nhà luôn có từ 5 đến 7 con. Nương lúa, rẫy ngô chưa kịp thu hoạch thì thực phẩm dự trữ trong bồ đã hết veo. Trẻ con cả năm chẳng có chiếc áo mới. Cố gắng lắm, bọn trẻ cũng chỉ học hết lớp 5 rồi theo gia đình lên nương rẫy. Sinh nhiều nhưng không đủ sức nuôi con, người Thái đành bán con cho người Dao lấy ít vốn làm ăn. Họ bán con lấy tiền nhưng cũng có thể đổi một con trâu, hai con lợn hay đàn gà. Cũng có nhiều trường hợp người Thái bán con chỉ vì nghiện thuốc phiện. Họ nằng nặc lấy tiền cho bằng được để mua thuốc. “Mình mua con rồi trả bố nó một con trâu và cái vòng bạc ở cổ tay nhưng bố nó nhất định không chịu, chỉ đòi lấy tiền về để hút thuốc phiện. Vợ chồng ấy bỏ nhau, chia mỗi người một đứa con. Ông bố thèm thuốc quá nên đem con bán cho mình lấy tiền hút” - chị Bàn Thị Mụi chỉ tay về đứa con nuôi kể. Trong khi đó, người Dao thích mua con về nuôi nhưng gia đình cũng chẳng khá giả gì hơn người Thái. Bi kịch nhất là họ mua con nhưng lại không thể nuôi chúng đủ ăn, không có tiền thuốc thang khi chúng đau ốm... Đơn cử như trường hợp bà Đặng Thị Pham đã mất 4 đứa con nuôi. Hiện 4 người con nuôi còn lại của gia đình người phụ nữ này đã trưởng thành nhưng rất khổ cực, thường xuyên thiếu ăn.
  21. @ one_newbia, Người bộc trực, nóng tính, lo chuyện bao đồng. Tuổi trẻ nông nỗi, gặp nhiều bất trắc. Đổi lại, không vòng vèo, không chữ thập cắt nét. Thiên Đồng
  22. TD chỉ lấy ngay trên lý thuyết của Rubi mà phản biện chứ không cần xây dựng một hệ thống lý thuyết nào khác. Ngay bản thân khái niệm từ những thư tịch cổ còn lưu lại như Thái cực, Lưỡng nghi, hành...là rỏ ràng với khái niệm diễn đạt của nó, mang tính độc lập. Nói nôm na là mỗi khái niệm cho mỗi thực tại vũ trụ. Nhưng trong khi đó ngay trong lý thuyết của Rubi thì có mâu thuẩn, nhập nhằn và gán ghép lắm. Rubi có thể xây dựng một lý thuyết cho riêng mình, nhưng đòi hỏi phải phản ánh và lý giải được thực tại vũ trụ. Thiên Đồng
  23. Thái Cực là một khái niệm diễn tả cái không giới hạn, vô biên và cái duy nhất một. Hành là khái niệm phân loại vật chất trong vũ trụ và hữu hạn. Rubi đồng nhất Thái cực với hành Thổ thì hóa ra là có...5 Thái cực. Như vậy thì rỏ ràng phi lý. Hơn nữa lấy cái hữu hạn đồng nhất với cái vô hạn thì hóa ra là "lông rù sừng thỏ" sao? Thiên Đồng trong lý thuyết của Rubi có mâu thuẩn đấy. Thiên Đồng
  24. @ Angela, Thử xem qua lời giải thích sau: Tại sao mẹ cô dâu không đi đưa dâu? Trong chế độ phong kiến cũ, hôn nhân cưỡng ép, thường là cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy. Thực ra, trong nhiều gia đình, người cha quyết định mọi việc, người mẹ chỉ biết tuân theo. Vì thế đã xảy ra một số trường hợp oái oăm: Ngày con gái vu quy đáng lẽ là ngày vui nhất trong đời nhưng người thì khóc lóc buồn tủi vì bị ép buộc, người thì lo sợ cảnh làm dâu, làm vợ, từ tấm bé chưa rời mẹ, nay tự nhiên mẹ con xa nhau; mẹ thương con còn thơ dại, cũng mủi lòng sụt sùi khóc. Thế là, trong khi hai họ đang vui mừng yến ẩm ở nhà ngoài thì hai mẹ con lủi thủi, cắp nón ra về. Tan tiệc, nhà trai chẳng tìm thấy cô dâu đâu nữa. Qua một vài đám đại loại như vậy người ta rút kinh nghiệm không nên để mẹ cô dâu đi đưa dâu, dần dần bắt chước nhau, trở thành tục lệ. Một vài địa phương, cả bố cô dâu cũng không đi đưa dâu với lý do con mình đã gả bán cho người. Tuy rằng trong văn sách có ghi "Giá thú bất luận tài" nghĩa là không bàn đến tiền tài trong việc cưới hỏi, nhưng không hiểu vì sao trong ngôn ngữ Việt Nam lại kết hợp "Gả bán" liền nhau. Thời nay hôn nhân tự do, trai gái tìm hiểu, yêu nhau kết hôn trên cơ sở tình yêu đôi lứa, cha mẹ chỉ tham gia góp ý, hướng dẫn, vậy thì cha mẹ có nên đến dự lễ vui của hai con không? Đã có nhiều đám cưới ngày nay bỏ tục kiêng này. ----------------- Lời biện giải trên có phần chỉ giải thích về mặt hiện tượng xã hội mà không lột tả được nội tình bên trong. Ai cũng dễ dàng hiểu một nghĩa đương nhiên rằng con của mẹ thì đích thực là con của mẹ, dù trai hay gái (còn con của cha thì chưa chắc à!). Sự cưu mang nuôi nuôi nấn đứa đứa con là sự gắn bó huyết mạch tình thâm không dể gì chia cắt. Với phong tục "làm dâu nhà chồng", người con gái phải lìa xa người mẹ, cắt đứt mối dây tình thâm ấy thì hủ tục đó như một con dao hợp pháp cắt đứt mối tình thâm khắng khít giữa người con và người mẹ. Do vậy, người mẹ không bao giờ chịu chìa lìa mối ruột rà ấy, không thể tự tay cắt đứt mối thâm tình ấy, vì như thế còn đâu là tình mẫu tử. Vì vậy người mẹ trong phong tụ xưa không bao giờ đưa con gái về nhà chồng. Đất có lề, quê có thói, nhưng "sông có lúc, người có khúc", quan niệm vùng miền khác nhau, xã hội tiến hóa, thời buổi đổi thay thì việc mẹ (cha) đưa con gái về nhà chồng hay không cũng chỉ trở thành một chi tiết thứ yếu. Vài lời lạm bàn. Thiên Đồng
  25. Một quẻ cho thế giới 2012 ngày 27/ tân mão/ tâm mão, giờ dâu, khai xích khẩu. Chuyện dựa vào lịch Maya nói rằng ngày tận thế chỉ là chuyện đồn thổi, có giá trị cho việc trà dư tửu hậu bàn cho vui. Khi sự thật được chứng minh, tức qua 2012, thì người ta vẫn nghiên cứu, khám phá về Maya, về mặt văn minh, văn hóa và lịch sử. Hong có chuyện tận thế. Chắc chắn là vậy! Thiên Đồng