Thiên Đồng

Hội viên
  • Số nội dung

    6.278
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    75

Everything posted by Thiên Đồng

  1. Gửi Tự Quốc Huy, Từ bao lâu người ta vẫn biết theo sách vở là có nhiều "trường phải" trong phong thủy, và người ta cũng biết rằng các "trường phài" đều chỏi nhau. Kêu ông bát trạch thì xoay bếp thế này, kêu ông Huyền Không thì xoay bếp thế kia, kêu ông tam yếu thì xoay...xoay chóng mặt. Vậy là Ông nào cũng..."đúng". Hic Sao lạ vậy? Thiên Đồng
  2. Lễ Giỗ Quốc Mẫu Âu Cơ Sáng nay, tại Đền vua Hùng số 98 Nguyễn Thái Sơn P.3, Q. Gò Vấp, lúc 8g30, các anh chị em là học viên các lớp học Phong Thủy Lạc Việt đã cùng đến lễ bái Vua Hùng và Quốc Mẫu Âu Cơ nhân ngày tết Đoan Ngọ và giỗ Quốc Mẫu. Dẫn đầu đại diện cho các anh chị em của diễn đàn có cô Widlavender, Phu nhân của Sư Phụ Thiên Sứ, huynh Công Minh cùng dâng lên những nén nhang cầu cho quốc thái dân an, thiên hạ thái bình, biên cương bình ổn. Cùng đến dự buổi lễ bái có bác Lãn Miên, Khôi Nguyên, Thiên Đồng, Thiên Luân, Thiên Anh, Trung Nhân, , Khánh Hoàng, Văn Lang, Trầnlong, Trần Đăng Khởi, Nhocchantrau, Kitty (học viên Phong Thủy Lạc Việt cơ bản 06). Lễ bái Đức Vua Hùng Đoàn lyhocdongphuong dâng hương Sư Mẫu dâng hương Lễ bái Quốc Mẫu Âu Cơ Sư Cô Widlavander dâng hương Sư mẫu dâng hương kitty dâng hương Trần Đăng Khởi dâng hương Văn Lang dâng hương Hành lễ trước bàn thờ Quốc Mẫu Thiên Đồng ghi
  3. THÔNG BÁO V/v Từ Thiện Phát Thuốc Tại Sóc Trăng Thân mời các thành viên của diễn đàn với lòng thiện nguyện cùng tham gia một chuyến công tác từ thiện tại xã nghèo, mù và khuyết tật, xã An Gia, tỉnh Sóc Trăng. Chương trình Nội dung: Phát thuốc, khám chữa bệnh miễn phí cho người nghèo người mù. Thời gian: 02 ngày 05/6/2011 và 06/6/2011. Địa điểm: xã An Gia, tỉnh Sóc Trăng. Kết hợp: Phòng khám bệnh Tuệ Tâm, số 119 Nguyễn Văn Đậu, P.5, Q. Bình Thạnh, Tp HCM. Phương tiện đi lại: xe auto. Chi phí: chia đều trên số người tham gia. (phí xe và ăn uống) Thành viên nào tham gia, xin viết bài hồi đáp sau thông báo này. T.m Ban Từ Thiện Thiên Đồng
  4. Chuyện Bây Giờ Mới...Lộ Ngày đó, chuyến hành trình tư vấn phong thủy cộng tác với Holcim, trong chương trình "Cùng xây tổ ấm", chúng tôi gồm năm người Hatgaolang,Thiên Đồng, Khôi Nguyên, Trung Nhân và Hoàng Anh (nay là Thiên Anh) nhiệt huyết đem đến cho đồng bào vùng biển những sự tư vấn tốt lành về phong thủy, như một món quà hướng về biển đảo bao la mến yêu. Trước buổi tư vấn một ngày, tức 25/9/2010, cách đại lễ ngàn năm Thăng Long 5 ngày, chúng tôi 5 người cùng dạo chơi miền biển tận hưởng nhưng ngọn gió đôi khi êm ả, đôi khi dồn dập đưa sóng vào bờ, đưa cái mát lạnh của trời biển thắm lòng người dạo bước lãng du. Năm anh em ngồi trước biển, ngắm biển, lắng nghe hải triều dâng, người yên lặng, kẻ say sưa với tầm nhìn phóng qua ống kính hướng về khơi xa, tôi cũng vậy, chợt muốn ngồi lắng lòng nghe biển, thử một ảo vọng dùng tâm thức ngăn cơn gió thổi, đè những đợt sóng trào dâng lớp lớp vào bờ, như những thông tin đang lan truyền, đang PR cho người đọc tin rằng có một "Dị Nhân Thề Đuổi Mưa". Nhưng gió vẫn thổi, biển vẫn ru như những cơn sóng lòng, gió vọng trong tôi đã chưa lắng bao giờ. TrungNhan khi ấy như đánh thức giấc du miên của tôi bằng một câu xem như chân lý: - Ngăn gió đuổi mưa,chặn con sóng biển, người bình thường sao làm được việc của đất trời? Ừ há, chẳng thể như thế. Cứ lãng du theo miền gió biển mà lắng nghe thiên nhiên hát. Hôm nay xem tấm ảnh của Thiên Anh lưu lại chợt vui vui, sóng biển và biển ngày đó vẫn rạt rào, nhưng 10 ngày đại lễ ngàn nam Thăng Long không mưa tại Hà Nội. Có gì đó trùng hợp cho những tin "giựt tít", "câu viu" khi dùng hình ảnh " Dị Nhân Thề Đuổi Mưa" chăng? Hay đó là chuyện của đất trời? Tốt nhất hãy lắng lòng người ơi. Thiên Đồng tự sự
  5. Lược Sử Vũ Trụ - Big Bang và Lý Thuyết Dây Cho đến đầu thế kỷ 20, bằng chứng thực tiễn duy nhất về nguồn gốc vũ trụ là bầu trời ban đêm tối đen. Nghịch lý Olbers (1823) cho rằng nếu vũ trụ vô tận trong không-thời gian thì nó phải có nhiều sao đến mức khi nhìn lên bầu trời, tia mắt ta bao giờ cũng gặp một ngôi sao. Và ta sẽ thấy bầu trời luôn sáng rực như mặt trời, ngay cả vào ban đêm. Nhưng thực tế bầu trời ban đêm lại tối đen. Thật thú vị là trong bài thơ văn xuôi dài Eureka năm 1848, Edgar Poe cho rằng, đó là do các ngôi sao không đủ thời gian để chiếu sáng toàn vũ trụ. Vậy bầu trời đêm tối đen chứng tỏ vũ trụ không tồn tại mãi mãi. Không chỉ đứng vững trước thử thách của thời gian mà giả thuyết còn đóng vài trò quyết định trong việc hình thành lý thuyết Vụ nổ lớn (Big Bang). Lược sử thuyết vụ nổ lớn Cơ sở lý luận của Big Bang là thuyết tương đối tổng quát, cho rằng không thời gian là các đại lượng động lực, phụ thuộc vật chất đồng thời chi phối vật chất (lưu ý quan niệm của Engels, cho rằng không-thời gian là hình thức tồn tại của vật chất). Điều đó dẫn tới việc không-thời gian và do đó vũ trụ có thể có khởi đầu và kết thúc, một ý tưởng mà ban đầu chính Einstein cũng tìm cách chống lại. Để vũ trụ là tĩnh (không tự suy sụp do hấp dẫn), ông đưa ra một hằng số vũ trụ có tác dụng phản hấp dẫn. Năm 1922, Friednam tìm được nghiệm của phương trình Einstein cho một vũ trụ động, gần như đồng thời với giả thuyết nguyên tử nguyên thuỷ của linh mục Lemaitre. Bằng chứng quyết định là phát hiện vũ trụ giãn nở của Hubble những năm 1920. Cho đến lúc đó, dải Ngân hà của chúng ta được xem là toàn bộ vũ trụ. Với viễn kính 100 inch tại núi Wilson, Hubble thấy Tinh vân Tiên nữ, một thiên hà sóng đôi cách 2 triệu năm ánh sáng, đang tiến lại gần chúng ta (theo ngôn ngữ vật lý dựa trên hiệu ứng Dopler, phổ của nó dịch về phía xanh). Khảo sát các thiên hà khác, ông thấy chúng đang tản ra xa (phổ dịch về phía đỏ). Điều đó có nghĩa vũ trụ gồm hàng tỷ thiên hà đang tản xa nhau. Vũ trụ hiện đang giãn nở và các thiên hà ngày càng xa nhau chứng tỏ trong quá khứ chúng gần nhau, khi vũ trụ có kích thước nhỏ hơn. Suy diễn ngược thời gian sẽ đi đến thời điểm khai sinh, khi toàn vũ trụ tập trung tại một điểm, mới có mật độ, nhiệt độ và độ cong không-thời gian vô hạn. Và một vũ trụ bùng nổ 15 tỷ năm trước đã khiến vũ trụ sinh thành. Đó là mô hình Big Bang tiêu chuẩn. Năm 1946, nhà vật lý George Gamow thấy rằng, ngọn lửa sáng thế buổi hồng hoang vẫn để lại “vết lông ngỗng” qua bức xạ tàn dư trải trên toàn vũ trụ, nay lạnh chỉ còn cỡ 3 độ K (trên độ không tuyệt đối). Năm 1965, hai kỹ sư vô tuyến điện Penzias và Wilson tình cờ phát hiện được bức xạ này khi chế tạo một ăng ten có thể bắt sóng từ vệ tinh. Như từng xẩy ra trong lịch sử, giải Nobel danh giá được trao cho phát kiến tình cờ của hai người ngoại đạo! Năm 1991, vệ tinh Cobe đo được phông bức xạ hoá thạch 2,7 độ K này với độ chính xác rất cao. Và Big Bang được thừa nhận rộng rãi. Khá hài hước là cái tên thuyết Big Bang lại do nhà thiên văn Hoyle đặt ra năm 1950 nhằm chế diễu lý thuyết này. Ông là người đề xuất thuyết vũ trụ dừng (steady state) năm 1948, theo đó vũ trụ không có khởi đầu và kết thúc; sau khám phá bức xạ tàn dư, nó đã chết vẻ vang như hầu hết các lý thuyết khoa học khác. Thuyết Big Bang lạm phát Cuối những năm 1970, mô hình Big Bang tiêu chuẩn bị đối mặt với một số thách thức, trong đó có vấn đề tính đồng nhất của vũ trụ. Tại sao vũ trụ lại tương đối đồng nhất, như bức xạ hoá thạch chứng tỏ? Đó là lý do Guth và Linde giả định một sự giãn nở lạm phát từ 10 mũ -35 tới 10 mũ -32 giây sau Big Bang. Trong giai đoạn cực ngắn đó, vũ trụ giãn nở nhanh hơn ánh sáng, với bán kính tăng một ngàn tỷ tỷ tỷ lần. Như quả bong bóng phồng lên rất nhanh thì các nếp nhăn ban đầu giãn ra với độ nóng gần như nhau, sự giãn nở đó khiến vũ trụ trở nên đồng nhất. Đó là thuyết Big Bang lạm phát, một lýthuyết giải quyết được nhiều bài toán vũ trụ học. Big Bang từ đâu xuất hiện? Big Bang sinh ra vũ trụ, vậy cái gì sinh Big Bang? Năm 1951, nhà thờ tuyên bố Big Bang chính là hiện tượng của đấng sáng tạo, nên giới khoa học đưa ra nhiều giả định nhằm tránh quan điểm đó. Một giả thuyết là vũ trụ luân hồi của Wheeler, cho rằng lực hấp dẫn sẽ thắng dần sự giãn nở và vũ trụ co về Vụ co lớn(Big Bang Crunch). Và vụ bùng nổ tiếp theo sẽ khiến vũ trụ hồi sinh từ đống tro tàn. Quá trình cứ lặp lại mãi với các pha co giãn xen kẽ nhau. Đáng tiếc Big Crunch không phải là đối xứng gương hoàn hảo của Big Bang, và các vụ nổ sẽ ngày càng lớn hơn. Vì thế vũ trụ vẫn có thể có điểm khởi đầu tối hậu, một chủ đề thần học ưu thích. Một vấn đề cũng được giới thần học ưu thích là giá trị của các hằng số vật lý (như khối lượng điện tử hay tốc độ ánh sáng). Người ta rất ngạc nhiên là chỉ cần một trong hàng chục hằng số vũ trụ đó thay đổi giá trị một phần trăm, vũ trụ đã diễn biến khác hẳn và con người không thể xuất hiện để nghiên cứu vũ trụ. Nên một số nhà khoa học cho rằng, vũ trụ đã được hiệu chỉnh cực kì chính xác nhằm tạo ra con người. Vì thế nhà thiên văn học Trịnh Xuân Thuận, là một phật tử, đặt niềm tin vào ý chí tối cao. Không đồng ý với niềm tin đó, nhiều nhà khoa học nêu giả thuyết các vũ trụ song song hay đa vũ trụ. Có thể hình dung một cách trực quan qua trò thổi bong bóng xà phòng, mỗi bong bóng là một vũ trụ với hệ qui luật và các giá trị hằng số riêng. Phần lớn các vũ trụ không thích hợp với sự sống. Vũ trụ chúng ta chỉ là một bong bóng may mắn có các hằng số thích hợp để con người xuất hiện. Đây chính là sự tiếp bước Copernicus đến giới hạn tột cùng. Không chỉ tước bỏ vị trí trung tâm của Trái đất hay mặt trời, nó còn cho rằng Ngân hà chỉ là một trong vô vàn các thiên hà vũ trụ; thậm chí vũ trụ chúng ta cũng chỉ là một bong bóng mất hút giữa ngút ngàn các bong bóng đa vũ trụ. Và đa vũ trụ này có thể mất hút giữa vô vàn các đa vũ trụ khác. Tuy nhiên dường như đó chỉ là những suy đoán thuần tuý, vì ta chưa có thuyết hấp dẫn lượng tử để nhìn qua bức tường Planck, hiện được xem là giới hạn của nhận thức (thời gian Planck là 10 mũ -43 giây, độ dài Planck là 10 mũ -33 cm, nhỏ hơn kích thước nguyên tử 10 triệu tỷ tỷ lần. Nếu khuếch đại nguyên tử lớn bằng vũ trụ nhìn thấy, độ dài Planck sẽ bằng một cái gậy!). Toàn bộ lập luận trên dựa trên thuyết tương đối tổng quát (mô tả cấu trúc vĩ mô) và cơ học lượng tử (mô tả cấu trúc vi mô). Đáng tiếc là hai thuyết không tương thích nhau. Ở qui mô vũ trụ, có thể bỏ qua các thăng giáng lượng tử xuất hiện do nguyên lý bất định Heisenberg. Còn ở các cấu trúc nhỏ cỡ kích thước Planck, các thăng giáng đó rất mạnh nên giả thuyết không-thời gian biến đổi liên tục và nhẵn của thuyết tương đối bị phá vỡ. Người ta nói các quy luật khoa học bị phá vỡ tại các kì dị (là vùng nhỏ hơn độ dài Planck nên mật độ vật chất lớn vô hạn). Big Bang trong lý thuyết dây Lý thuyết trường lượng tử xem các hạt cơ bản (như điện tử, quark....) là chất điểm không kích thước. Năm 1984, lý thuyếtdây xuất hiện để thống nhất thuyết tương đối và thuyết lượng tử, hai nền tảng của vật lý hiện đại. Theo đó cấu tử cơ bản của vũ trụ là dây một chiều (giống đoạn dây nhìn từ xa nên dường như chỉ có chiều dài), màng hai chiều (giống tờ giấy mỏng vô hạn) hay các thực thể nhiều chiều hơn (đến 10 chiều). Chúng luôn dao động và các kiểu dao động cộng hưởng được xem là các hạt cơ bản mà ta thấy. Khác với không-thời gian bốn chiều trong thuyết tương đối, không-thời gian trong lý thuyết dây có 11 chiều, với bảy chiều cong lại và nhỏ bằng độ dài Planck. Đó là lý do ta sống trong 11 chiều mà chỉ “thấy” bốn chiều đã trải rộng ra nhờ vụ nổ lớn. "Quá đẹp nên chỉ có thể hoặc đúng hoàn toàn hoặc sai hoàn toàn" (phê phán năm 1986 của Sheldon Lee Glashow, nhà vật lý hạt cơ bản đoạt giải Nobel), lý thuyết dây chứng tỏ các qui luật vật lý của thế giới “nhỏ” sau bức tường Planck hoàn toàn đồng nhất thế giới “lớn” trước bức tường. Điều đó cho phép đưa ra kịch bản mới cho Big Bang, theo đó khởi thuỷ không phải là một kì dị, mà là một trạng thái “hấp dẫn lượng tử” kích thước Planck với 11 chiều. Rồi một vụ nổ khiến bốn chiều không-thời gian giãn ra tạo nên vũ trụ (lý thuyết dây giải thích được tại sao bảy chiều khác vẫn cong nhỏ như trước). Và nếu co lại, vũ trụ cũng không co về điểm kì dị chung cục Big Crunch (như mô hình Big Bang tiêu chuẩn), mà chỉ co đến kích thước Planck rồi lại nở ra. Quá trình có thể lặp lại mãi như thế. Theo lý thuyết dây thì vũ trụ chúng ta cũng có thể là một màng bốn chiều, vốn là biên của một hình cầu năm chiều. Nằm cách ta một khoảng cách vi mô trong chiều thứ năm là một màng khác, được gọi là màng bóng (như hình với bóng, nhưng bóng cũng thực như hình). Hai màng hình và bóng chỉ tương tác nhau qua lực hấp dẫn. Khi đó vật chất hay năng lượng tối của màng này chính là vật chất thông thường của màng bên cạnh. Hai màng có thể tự co giãn và va chạm nhau. Đối với chúng ta (đang sống trên một màng), cú và chạm chính là Big Bang. Và có thể có nhiều vụ nổ và co lớn nhỏ nối tiếp hay xen kẽ nhau. Điều đó giúp loại bỏ niềm tin về một ý chí tối cao. Đa vũ trụ từ đâu xuất hiện? Vũ trụ chúng ta là một trong những bong bóng mang tên đa vũ trụ. Vậy đa vũ trụ từ đâu xuất hiện và xuất hiện như thế nào? Câu trả lời là đa vũ trụ xuất hiện từ hư vô do nguyên lý bất định Heisenberg. Nguyên lý bất định của cơ học lượng tử nói rằng, không thể xác định chính xác đồng thời vị trí và tốc độ của một hạt vi mô. Đó là hệ quả của lưỡng tính sóng hạt. Vì thế giá trị của các trường vật lý phải khác không ngay cả trong chân không, tức giá trị (hay vị trí) và sự biến thiên (hay tốc độ) được xác định chính xác đồng thời (đều bằng không). Đó là điều nguyên lý bất định cấm, nên các trường phải khác không và luôn thăng giáng. Trường là tập hợp các hạt, trường biến thiên có nghĩa các hạt luôn xuất hiện rồi biến mất. Năng lượng của hạt càng lớn thì nó biến mất càng nhanh. Tương tự như thế, một bong bóng năng lượng cũng có thể xuất hiện rồi lại biến mất. Đó là cách để đa vũ trụ xuất hiện từ hư vô. Cần lưu ý rằng, năng lượng của vật chất là dương, còn năng lượng hấp dẫn là âm, nên nếu đa vũ trụ là “phẳng” trong không thời gian 11 chiều, hai dạng năng lượng có giá trị bằng nhau. Kết quả là năng lượng toàn vũ trụ bằng không, và nguyên lý bất định cho phép nó tồn tại mãi mãi. Đó là ý tưởng độc đáo đến mức, khi được George Gamow kể cho nghe tại Viện nghiên cứu tiền phong Princeton (Mỹ) cuối những năm 1940, Einstein đứng sững giữa đường khiến hai người suýt bị xe đâm chết. Đôi điều suy ngẫm Chỉ trong vòng một thế kỷ, nhận thức nhân loại về vũ trụ đã trải qua nhiều bước đột phá. Sự thống nhất giữa vi mô và vĩ mô, như thể hiện trong lý thuyết dây, cho phép đưa ra bức tranh tổng thể về nguồn gốc, tiến hoá và kết cục của vũ trụ. Theo đó vũ trụ chúng ta chỉ là một trong vô vàn các bong bóng của một đa vũ trụ mênh mang, huyền bí (theo nghĩa ta không thể giao du). Và đa vũ trụ này có thể xuất hiện một cách tự nhiên từ hư vô với tổng năng lượng bằng không, cho dù năng lượng của từng vũ trụ có thể có giá trị tuỳ ý. Từ không hiện hữu biến thành hiện hữu, đó chính là một bữa tiệc không mất tiền tối hậu (?). Vậy tại sao có nguyên lý bất định để vũ trụ có thể sinh thành từ hư vô? Tại sao bộ máy không-thời gian lại cho phép tổng năng lượng chính xác bằng không để vũ trụ tồn tại mãi mãi? Vẫn có người xem đó là dấu ấn của một đấng tối thượng. Một số người như Stephen Hawking lừng danh qua tác phẩm Lược sử thời gian, 1988, với hơn 10 triệu bản bán trên thế giới – thì dùng nguyên lý vị nhân (một giả thuyết mang tính hậu nghiệm, xem vũ trụ phải diễn biến thích hợp để con người xuất hiện) để cho rằng, nếu vũ trụ không như vậy thì làm sao có con người để băn khoăn về vũ trụ. Số khác thì đồng ý với Brian Greene trong cuốn Vũ trụ duyên dáng (đấu giá được hai triệu đô la từ NXB, tái bản ba lần sau một tháng ấn hành năm 1999) rằng, lý thuyết dây có thể là con đường dẫn về xuất phát điểm của một lý thuyết có tính tối hậu cao hơn trong tương lai. Và nhân loại đang từng bước vươn tới các vì sao. Đỗ Kiên Cường nguồn:http://htx.dongtak.net/
  6. PHỆ-ĐÀ, BÀ-LA-MÔN VÀ NỀN TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ Surendranath Dasgupta Ngay cả ngày nay, mọi nghi thức quy định của người Hindu như sinh con, cưới hỏi, lễ tang v.v... đều phải tuân theo nghi thức từ Phệ-đà thời cổ xưa. Lời kinh mà người Bà-la-môn tụng niệm hằng ngày bây giờ cũng giống như các bài kệ tụng cách đây 2000, 3000 năm. Nhìn sâu bên trong sinh hoạt của một người theo đạo Hindu bình thường ngày nay, sẽ thấy hệ thống hình tượng được tôn sùng đối với họ là duy nhất, như đã được ghép vào trong cuộc đời của họ, là bổn phận thông thường vốn được sắp đặt trật tự trong thánh điển Phệ-đà từ thời cổ xưa. Kinh Veda (Sanskrit) Tình trạng cổ xưa của Phệ-đà Phệ-đà (Veda), thánh điển của Ấn Độ, thường được xem là nền văn học viết có sớm nhất của chủng tộc Ấn Âu (Indo-European). Thật khó xác định thời gian khi những chương đầu tiên của thánh điển này xuất hiện. Đã có nhiều dự đoán sâu sắc được đưa ra, nhưng không có ý nào được công nhận hoàn toàn chân xác. Max Müller cho là năm 1200 TCN, Haug cho là năm 2400 TCN và Bāl Gaṅgādhar Tilak cho là năm 4000 TCN. Người Hindu thời xưa thường ít khi lưu lại những ghi chép lịch sử về văn học, tôn giáo và thành quả chính trị của họ. Thánh điển Phệ-đà (Veda) được truyền miệng từ một thời cổ xưa không được biết đến; và người Hindu thường tin rằng thánh điển này không phải do con người soạn ra. Nó thường được cho là hoặc do Thần thánh (God) dạy cho các bậc hiền triết, hoặc chính nó được khải thị cho các bậc hiền triết, là những người thông hiểu thể tán ca này.[1] Như vậy, chúng ta nhận ra rằng bởi thời gian bị khỏa lấp sau khi Phệ-đà được biên soạn, người ta đã xem nó không chỉ là quá cổ xưa, mà còn quá lâu đời hơn thế nữa, ít nhất về mặt lý thuyết, là không có điểm khởi đầu, dù nó tự tiết lộ cho biết là ra đời vào một thời kỳ xa xăm nào đó vào đầu kỷ nguyên tạo lập vũ trụ. Vị trí của Thánh điển Phệ-đà trong tâm người Hindu Khi Phệ-đà ra đời, có lẽ hệ thống chữ viết chưa phổ biến ở Ấn Độ. Nhưng với lòng nhiệt tâm đầy cẩn trọng của giới Bà-la-môn,[2] những người đã thuộc nằm lòng Phệ-đà nhờ được truyền dạy từ tổ tiên, nên thánh điển ấy đã được truyền lại một cách trung thực cho chúng ta theo tiến trình chừng 3000 năm hoặc hơn, với rất ít hoặc không có sự tự ý thêm thắt nào. Lịch sử tôn giáo Ấn Độ đã chịu sự thay đổi đáng kể vào thời kỳ sau đó, kể từ thời đại của nền văn minh Phệ-đà. Nhưng với lòng sùng kính dành cho Phệ-đà nên họ đã duy trì như một tôn giáo uy tín nhất cho mọi thành phần của người Hindu trong suốt mọi thời đại. Ngay cả ngày nay, mọi nghi thức quy định của người Hindu như sinh con, cưới hỏi, lễ tang v.v... đều phải tuân theo nghi thức từ Phệ-đà thời cổ xưa. Lời kinh mà người Bà-la-môn tụng niệm hằng ngày bây giờ cũng giống như các bài kệ tụng cách đây 2000, 3000 năm. Nhìn sâu bên trong sinh hoạt của một người theo đạo Hindu bình thường ngày nay, sẽ thấy hệ thống hình tượng được tôn sùng đối với họ là duy nhất, như đã được ghép vào trong cuộc đời của họ, là bổn phận thông thường vốn được sắp đặt trật tự trong thánh điển Phệ-đà từ thời cổ xưa. Thế nên một người Bà-la-môn chính thống có thể miễn trừ sự tôn sùng hình tượng (image-worship) trong tâm nếu họ thích, nhưng không được làm như vậy đối với các nghi thức tụng niệm kinh điển Phệ-đà hằng ngày hoặc các nghi lễ tôn giáo khác. Ngay cả thời đại ngày nay, vẫn còn có người cúng dường số tiền rất lớn để tổ chức thực hành và truyền dạy nghi lễ cũng như thánh điển Phệ-đà. Phần lớn nền văn học Sanskrit phát khởi sau Phệ-đà đều đặt nền tảng trên giá trị vững chắc của chính nó, và hấp thụ Phệ-đà thành như một cứ điểm đáng tin cậy. Hệ thống triết học Ấn Độ không chỉ trung thành riêng với Phệ-đà, mà môn đệ của mỗi trường phái thường tranh luận nhau để duy trì ưu thế của mình bằng cách nỗ lực chứng minh rằng họ hoặc chỉ riêng họ mới là môn đệ trung thành của Phệ-đà, và chỉ có mình mới là đại biểu cho quan niệm đúng đắn. Luật tắc để điều hành xã hội, luật pháp, tập quán gia đình và tôn giáo, nghi thức cúng tế của người theo đạo Hindu đến ngày hôm nay, được biết đó chỉ là hệ thống lại từ ký ức của giáo lý cổ Phệ-đà, và được lưu truyền thành bổn phận trong quyền năng tôn giáo của họ. Ngay cả dưới thời kiểm soát của chính phủ Anh, trong luật thừa kế tài sản, nhận con nuôi, và pháp tắc về thương mại, luật Hindu vẫn được tuân thủ, và điều này cho biết đã lấy quyền lực từ Phệ-đà. Không cần thiết phải đi sâu vào chi tiết. Chỉ cần nói rằng, mãi từ khi nó được xem như là nền văn học chết trong quá khứ, thì Phệ-đà vẫn được xem như là nguồn gốc của hầu hết mọi nền văn học, ngoại trừ thi ca và kịch nghệ đượm màu thế gian. Vắn tắt, có thể nói rằng dù trải qua nhiều đổi thay do thời gian, sinh mệnh của đạo Hindu chính thống vẫn được xem là chính trong phác hoạ về dòng sống của Phệ-đà, vốn không bao giờ ngừng toả sáng suốt từ quá khứ đến nay. Phân loại nền văn học Phệ-đà Người mới nhập môn khi mới được giới thiệu lần đầu nghiên cứu văn học Phệ-đà bằng tiếng Sanskrit sau này dường như có chút lúng túng khi tiếp xúc với các bản văn có căn cứ đích xác với nội dung và chủ đề đa dạng, khi gặp hai tên gọi có đặc điểm tương tự nhau, ‘Veda’ hoặc ‘Śruti (do động từ căn śru, có nghĩa là nghe); do Veda trong nghĩa rộng không có nghĩa là tên một tác phẩm riêng biệt nào, mà là một kỷ nguyên đặc biệt, trải qua một thời gian khá dài, chừng 2000 năm hoặc hơn thế. Vì nền văn học này đại biểu cho toàn bộ những thành tựu của người dân Ấn Độ từ mọi khuynh hướng khác nhau trong một thời kỳ dài, nên bắt buộc nó phải có những đặc điểm đa dạng. Nếu chúng ta tạm thời phân loại tổng quát nền văn học đồ sộ này từ quan điểm niên đại, ngôn ngữ, và chủ đề, thì chúng ta có thể nêu lên bốn thể loại khác nhau, gọi là: 1. Phệ-đà bổn tập (Saṃhitā) [3] (Saṃ: cùng nhau; hitā: đặt) 2. Phạm thư (Brāhmanas), 3. Sâm lâm thư (Āraṇyakas)[4] và 4. Áo nghĩa thư (Upaniṣad). Các tác phẩm này, bằng cả văn xuôi lẫn thi kệ, đều được coi trọng đến mức trong thời cổ đại, được cho là phạm thượng nếu viết ra; thế nên nó được học thuộc lòng bởi giới Bà-la-môn do sự truyền miệng từ tổ tiên, do vậy, nó được gọi là Śruti (có nghĩa là những điều được nghe).[5] Bản tập Phệ-đà (Saṃhitā) Bản tập Phệ-đà (Saṃhitā) gồm 4 bộ: 1. Lê-câu Phệ-đà (Ṛg-Veda), 2. Sa-ma Phệ-đà (Sāma-Veda), 3. Dạ-nhu Phệ-đà (Yajur-Veda ) và 4. A-thát-bà Phệ-đà (Atharva-Veda). Trong 4 bộ này, Lê-câu Phệ-đà (Ṛg-Veda) là cổ nhất. Sa-ma Phệ-đà (Sāma-Veda) có một giá trị thực hành tương quan với nhau, vì nó bao gồm toàn bộ các bài tán ca có trong Lê-câu Phệ-đà (ngoại trừ 75 bài),[6] dành cho việc tán tụng theo một nghi thức nhất định, có thể được gọi là sách dành cho lễ tế tự. Dạ-nhu Phệ-đà (Yajur-Veda) gồm những bài kệ được thêm vào lấy từ Lê-câu Phệ-đà với nhiều thể thức văn xuôi từ nguyên bản chính. Sự sắp những bài tán ca trong Sa-ma Phệ-đà là chỉ dành riêng để tham khảo và sử dụng cho lễ hiến tế thần lửa Soma.[7] Nội dung của Dạ-nhu Phệ-đà được sắp đặt theo thứ tự trong có các bài tán ca thực sự được áp dùng trong những buổi lễ tế khác nhau. Do vậy nó được gọi là Phệ-đà của Tế tự.[8] Những điều này có lẽ trái ngược với sự sắp xếp trong Ṛg-Veda, trong đó những bài tán ca này thường được sắp xếp tuỳ thuộc theo thần thánh, chính là các vị được tôn vinh. Thế nên, chẳng hạn, trước hết ta có được những bài tán ca dành cho Thần Agni hay là Thần lửa (Fire-god), rồi đến bài tán ca dành cho thần Indra[9] và tiếp theo. Bộ thứ tư là A-thát-bà Phệ-đà (Atharva-Veda), có lẽ đạt được hình thức như hiện nay phải là khá muộn so với Ṛg-Veda. Tuy nhiên, trong ý nghĩ riêng mình, Giáo sư Macdonell cho rằng, “Nó không chỉ hoàn toàn khác với Ṛg-Veda mà nó cọn biểu tượng cho rất nhiều tư tưởng trong thời kỳ sơ khai. Trong khi Ṛg-Veda dành riêng cho hầu như những vị thần cao hơn khi được nhận thức bởi một nỗ lực thăng hoa tương đối và do được đào luyện bởi tầng lớp tăng lữ, thì A-thát-bà Phệ-đà (Atharva-Veda), phần nội dung chính là những thần chú và bùa phép để cầu khẩn đến thế giới thần linh, và tràn ngập những ý niệm yêu thuật trong tầng lớp bình dân, và nó vốn có xuất xứ từ thời thượng cổ xa xưa. Hai bộ Phệ-đà sau này, như được bổ sung cùng nhau trong nội dung, vốn là quan trọng nhất trong 4 bộ Phệ-đà.”[10] Phạm thư (Brāhmaṇa) [11] Sau Bản tập Phệ-đà (Saṃhitā), có Phạm thư (Brāhmaṇa), vốn là một dạng văn học đặc biệt khác lạ, nhằm phát triển các lý giải mang tính thần luận (theological treatises). Phạm thư được viết băng văn xuôi, giải thích các ý nghĩa linh thiêng trong các nghi lễ khác nhau cho những ai chưa quen thuộc với nội dung. Giáo sư Macdonell nói rằng, “Linh hồn của một thời đại trong đó mọi hoạt động tri thức đều được tập trung trong lễ hiến tế, trình bày các lễ nghi, bàn luận về các giá trị , rồi chiêm nghiệm về căn nguyên và ý nghĩa của nó.” Những tác phẩm này đầy những quyết đoán về giáo điều, những biểu tượng kỳ lạ và suy đoán về một sự tưởng tượng không giới hạn trong lĩnh vực hiến tế rất chi li. Những nghi tiết thiêng liêng có lẽ chưa bao giờ tỉ mỉ như thế vào thời gian khi các điệu tán ca cổ điển được soạn ra. Nhưng khi các bộ sưu tập tán ca được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thì nghi lễ càng trở nên phức tạp hơn. Thế nên cần phải có sự sắp xếp các chức năng cúng tế khác nhau trong các tầng lớp khác nhau của tăng lữ. Chúng ta có thể cho rằng đây là thời kỳ khi hệ thống giai cấp được thành hình, và khi chỉ một điều có thể thu hút trí tuệ và lòng sùng tín đó là cúng tế và nghi thức trang nghiêm. Những tư tưởng phóng khoáng như vậy được xem là thứ yếu đối với việc tế tự, và kết quả là sự sản sinh những nghi lễ cầu phước và những hệ thống biểu tượng kỳ quái, chưa từng có nơi đâu riêng chỉ có trong Khải huyền thư (Gnostics).[12] Ngày nay người thường tin rằng sát với thời kỳ Phạm thư (Brāhmaṇa) là không lâu sau năm 500 TCN. Sâm lâm thư (Āraṇyakas) Sâm lâm thư là phát triển từ Phạm thư (Brāhmaṇa), tuy nhiên, còn có tên Sâm lâm thư (Āraṇyakas) hay là sách dạy trong rừng. Tác phẩm đó chắc là biên soạn cho những người già cả đã vào an dưỡng trong rừng, những người không thể thực hành những nghi lễ hiến tế công phu tỉ mỉ đòi hỏi nhiều nghi tiết phụ trợ vốn không cách nào kiếm được trong rừng. Trong những tác phẩm này, thiền định tập trung vào những biểu tượng được xem là công đức lớn nhất, và bắt đầu dần dần thay thế cho lễ hiến tế vốn là trật tự ưu việt. Chính điều này được tìm thấy trong số những người trí thức, nghi thức rườm rà bắt đầu bị khước từ, tư duy triết học về bản chất của sự thật dần dần thế chỗ. Lấy minh hoạ từ thời khởi đầu của Bṛhadāraṇyaka chúng ta thấy rằng thay vì thực hành lễ hiến tế ngựa,[13] thì có khuynh hướng thiền quán lúc bình minh (Uṣas) như là đầu của con ngựa, mặt trời là mắt của con ngựa, không khí là mạng sống của con ngựa và tiếp tục như thế. Đây quả thực là một tiến bộ đáng kể từ yêu cầu suy nghiệm hay thiền định hơn là thực hành hiến tế với những hình thức lễ nghi phức tạp chi li. Sự phát triển của đối tượng suy nghiệm, nhờ có khả năng mang đến cái thiện tối cao, dần dần tạo nên kết quả trong sự thay thế chủ trương lễ nghi hiến tế của Phệ-đà và tạo nên yêu cầu thiền định mang tính triết học và tự tri (self-knowledge) như là mục tiêu cao nhất của cuộc sống. Thế nên chúng ta thấy thời đại Sâm lâm thư (Āraṇyakas), giai đoạn mà tư tưởng tự do đã nỗ lực từ từ để thoát ra khỏi vòng tế tự vốn đã trói cứng suốt một thời gian dài. Như vậy Sâm lâm thư có thể đã lót đường cho Áo nghĩa thư (Upaniṣad), làm sống động nền triết học suy nghiệm của Phệ-đà mới phôi thai, và phát triển nó theo cách khiến cho Áo nghĩa thư thành cội nguồn của mọi triết học phát sinh từ thế giới quan tư tưởng của đạo Hindu. Lê-câu Phệ-đà (Ṛg-Veda) và nền văn minh Những bài tán ca trong Lê-câu Phệ-đà (Ṛg-Veda) chẳng phải là sản phẩm của một người, cũng chẳng phải là thuộc về riêng một thời đại. Có lẽ nó được biên soạn vào nhiều thời kỳ khác nhau do nhiều bậc thánh khác nhau, và không chắc chắc rằng một số trong đó được soạn ra trước khi người Aryan tràn tới vùng bình nguyên Ấn Độ. Lê-câu Phệ-đà được truyền miệng và dần dần phình lớn ra nhờ những thêm thắt vào được thực hiện bởi các nhà thơ thuộc các thế hệ hậu duệ. Bộ này đã tăng trưởng đến mức đáng kể để có thể được sắp xếp như hình thức ngày hôm nay, hoặc như vài hình thức trước đây mà ngày hôm nay đã kế thừa từ nguồn gốc. Thế nên nó đã phản ánh nền văn minh của dân Aryan tại mỗi thời kỳ cổ xưa khác nhau trước và sau khi họ đến Ấn Độ. Dấu ấn độc đáo của một thời đại lâu đời đã biến mất là thuộc về giá trị thẩm mỹ to lớn, và bao gồm phần nhiều là thi ca chân xác. Nó giúp cho chúng ta có một đánh giá về xã hội nguyên thuỷ đã sản sinh ra nó–là cuốn sách cổ xưa nhất của chủng tộc Aryan. Phương tiện chính để sinh sống là chăn nuôi gia súc và canh tác trồng trọt bằng cày bừa, cuốc chim, tưới nước khi khô hạn bằng kênh mương tự đào. “Thực phẩm chính gồm,” như Kaegi trình bày, “cùng với bánh mì, và những thứ chế biến từ sữa, bánh bằng bột mì và bơ, nhiều loại rau trái; thịt được nướng trên xiên hoặc nấu trong nồi, ít khi được dùng đến, có lẽ chỉ được dùng trong những ngày hội lớn và trong những dịp hội họp gia đình. Thức uống đóng vai trò quan trọng suốt từ đầu đến cuối hơn là ăn.”[14] Thợ mộc làm những cỗ chiến xa và toa xe, còn có nhiều tác phẩm điêu khắc thanh nhã và ly tách có nét nghệ thuật. Thợ kim hoàn, thợ rèn đảm nhiệm việc trao đổi hàng hoá của mình. Phụ nữ biết đan chiếu, biết thêu thùa may vá; họ chế tạo len từ lông cừu, làm thành y phục cho đàn ông và giữ ấm cho súc vật. Từng nhóm riêng lẻ lập thành bộ tộc là đơn vị hành chánh cao nhất; mỗi gia đình khác nhau thành lập bộ tộc dưới sự thống lãnh của người cha hay của người thủ lãnh của dòng họ. Vương quyền có lẽ là do cha truyền con nối và trong vài trường hợp thì do bầu cử. Vương quyền không nơi nào là tuyệt đối, mà được hạn định bởi nguyện vọng của người dân. Những ý tưởng tiến bộ về công lý, quyền lợi và luật pháp, đều có trong trong quốc gia. Như Kaegi cho biết, “Các tán ca phát huy mạnh mẽ làm sao thật sâu thẳm để tâm tư siêu tuyệt trong con người tin tưởng rằng những quy định tồn tại do các nhà thống trị trên thế gian như là điều bất khả xâm phạm về tinh thần và đạo đức cũng như trong tự nhiên giới, và đối với mỗi hành vi sai trái, dù vô ý, đều bị xử phạt và chịu tội.”[15] Như thế, hoàn toàn đúng khi cho rằng người Aryan đã đạt đến tầm văn minh khá cao, nhưng không có chỗ nào tâm tư chân thành của người Aryan được thể hiện rõ nét như trong tôn giáo, vốn là khía cạnh chủ yếu và trội vượt nhất trong hầu hết các bài tán ca, ngoại trừ vài khía cạnh thế tục. Như Kaegi cho biết, “Toàn thể ý nghĩa của Lê-câu Phệ-đà (Ṛg-Veda) liên quan đến lịch sử tổng quát của tôn giáo, như đã được nhấn mạnh nhiều lần trong thời hiện đại, dựa trên điều này, nó đã trình bày cho chúng ta biết sự phát triển của các khái niệm tôn giáo từ thời cổ xưa cho sự lĩnh hội sâu thẳm nhất về thần thánh và sự liên hệ của họ với loài người.”[16] Thần thánh trong tư tưởng Phệ-đà Các tán ca trong Lê-câu Phệ-đà hầu như được soạn để ca tụng thần thánh. Xã hội và các thứ khác là điều quan trọng thứ yếu, vì những mối liên hệ này chỉ được đề cập ngẫu nhiên khi cho họ sự cảm thông qua lòng thành tâm với thần thánh. Thần thánh ở đây, tuy vậy, chủ trì một nhân cách qua năng lực đa dạng của tự nhiên hoặc lập thành thể tính riêng của họ. Do vậy, họ không nhất định, không có hệ thống hoặc không có đặc tính riêng biệt như những vị thần Hy-lạp hoặc các thần trong các tác phẩm thần thoại Ấn Độ sau này như Purāṇas. Những năng lực tự nhiên như bão, mưa, sấm sét liên hệ với nhau rất mật thiết, và các thần liên kết với nhau đều có đặc tính rất giống nhau. Danh hiệu chung được gán cho các vị thần khác nhau và có rất ít phẩm tính đặc biệt để phân biệt vị này với vị kia. Trong tác phẩm thần thoại của Purāṇas sau này, các vị thần đánh mất cá tính của mình như năng lực siêu nhiên (hypostatic), thế nên họ trở thành những nhân cách và cá tính thực tế, cũng có những chuyện vui buồn giống như những con người ở dưới trần gian. Thần thánh trong Phệ-đà có lẽ khác với điều này, họ thuộc về phần thể tánh không liên quan đến điều gì, vì những đặc tính mà họ thể hiện hầu như chỉ là biểu hiện của năng lực tự nhiên. Thần lửa hay thần Agni, như Kaegi đã mô tả, là nhân vật “ẩn giấu trong gỗ mềm, như trong phòng ngủ, đến khi được gọi ra bởi sự cọ xát trong giờ giấc sáng tinh mơ, ngài bỗng nhiên phóng vọt ra trong ánh sáng rực rỡ. Người hiến tế đón nhận và đặt ngài trên gỗ. Khi các thầy tế rót bơ lên trên ngài, ngài nhảy múa, kêu tanh tách và hí vang như loài ngựa–ngài là kẻ mà loài người thích, càng muốn chiêm ngưỡng như sự thịnh vượng của riêng mình. Họ kinh ngạc về ngài, khi ngài trang điểm cho mình bằng sự thay đổi màu sắc như người cầu hôn, vẻ đẹp hoàn hảo từ mọi phía, ngài thể hiện mọi nét của chân dung mình. Điều tinh tế là chùm ánh sáng rực rỡ của ngài, Ngài, sự toàn mỹ, từ tia nhìn và gương mặt mỹ miều. Ẩn hiện lung linh như trôi bồng bềnh trên dòng suối, Tia sáng thần Agni rực chiếu không bao giờ ngừng. (R. V.1. 143,3,) Họ mô tả thần gió (Vāta), tôn sùng ngài và tán thán: Nơi nào ngài sinh ra, từ đâu mà ngài đến? Hơi thở sống động của thần linh, đứa con vĩ đại của thế giới. Thần hiện diện bất kỳ nơi đâu mà ngài thích đến; Ta nghe âm thanh cuốn đi của ngài – không ai khác, đó là hình trạng của ngài.[17] (R. V. x. 168. 3,4) Đó là sức mạnh của thiên nhiên và sự biểu hiện của thần, ở trên mặt đất, trong không khí bao quanh và trên đầu chúng ta, hoặc trên cõi trời, vượt qua khỏi bầu thiên không...đã kích thích lòng dâng hiến và trí tưởng tượng của thi ca Phệ-đà. Thế nên chỉ ngoài các vị thần trừu tượng mà chúng ta sẽ trình bày ngay và một vài vị thần mang tính nhị nguyên (dual divinities), các thần có thể được sắp xếp đại lược theo quốc độ, không gian và thiên giới. Đa thần (Polytheism) và Nhất thần (Henotheism/ Monotheism) Số lượng phong phú các thần trong Phệ-đà có thể dẫn đến sự tìm hiểu nông cạn để thoả mãn niềm tin của những người theo đa thần giáo thuộc Phệ-đà. Nhưng độc giả trí thức có thể tìm thấy ở đây chẳng có thuyết đa thần cũng như chẳng phải thuyết nhất thần mà chỉ là giai vị ban sơ của đức tin mà cả hai thuyết này có thể được cho là lấy đức tin ấy làm nguồn gốc. Các thần ở đây không duy trì vị trí riêng của mình như là trong niềm tin của đa thần giáo, những mỗi vị thu lại thành đơn giản hoặc toả chiếu như là đấng tối cao tuỳ theo đối tượng của sự tôn kính. Thi ca Phệ-đà là đứa con của thiên nhiên. Mọi hiện tượng tự nhiên đều kích thích sự ngạc nhiên, niềm thán phục và lòng tôn kính. Trong thơ đầy những ngạc nhiên như “con bò đỏ hung dữ lại cho dòng sữa trắng ngọt ngào.” Sự xuất hiện hay vận hành của mặt trời đem đến một sự chấn động trong tâm các bậc hiền triết Phệ-đà và với cái nhìn sâu thẳm, họ tán thán: Không rơi đến cõi dưới, không trói buộc nhất định, Làm sao mà sự xuống thấp (của mặt trời), là ẩn tàng chứ không biến mất?” Kẻ dẫn dắt con đường thăng hoa–ai thấy được? (R. V. IV. 13.5.) Các bậc hiền triết tự hỏi “Tại sao dòng nước từ mọi con sông đều chảy vào đại dương mà không bao giờ làm đầy nó?” Tâm tư của tín đồ Phệ-đà như chúng ta thấy trong tán ca, là rất nhạy cảm và tinh khôi. Ở tầng bực này, thời gian không đủ chín muồi để thể nhập vào sự hiện hữu duy nhất và rõ ràng với vô số các thần, cũng chẳng phổ biến các thần theo tín ngưỡng nhất thần (monotheistic). Trong vô thức, họ giả định mọi sức mạnh tự nhiên đã trùm sự sợ hãi lên họ và cho họ nhiều ân huệ cùng niềm vui bởi từ tâm hay tính thẩm mỹ nên họ sùng kính điều ấy. Các vị thần đã lay động lòng sùng kính hoặc tán thán trong tâm con người là những bậc tối thượng trong thời kỳ đó. Điểm tiêu biểu độc đáo của tán ca Phệ-đà ấy, Max Muller gọi là Henotheism hoặc là Kathenotheism: “Niềm tin vào một vị thần duy nhất, mỗi thứ lần lượt biểu tượng như cái tuyệt đối. Và vì các thần được tưởng tượng như là sự chi phối riêng biệt trong cõi giới của các ngài. Nhà thơ, trong mối quan tâm và ước nguyện đặc biệt của mình, gợi lên hầu hết các vị thần mà họ quy cho các ngài có năng lực cao nhất. Riêng vị thần này hiện diện trong tâm của người cầu xin; đối với anh ta, thời gian khi được thể nhập với mọi điều có thể gọi đó là thần thánh; thần ấy là tối cao, là vị thần duy nhất, trước đó mọi thứ đều tiêu mất, nay đều hiện hữu trong vị thần này, tuy thế, không có sự xung đột hoặc bài xích trong các thần.” [18] Như Macdonell phát biểu rất chính xác trong tác phẩm Vedic Mytholog: “Đã có sự thôi thúc đi ngược lại lý thuyết này, các thần Phệ-đà ấy không biểu tượng cho ‘tính độc lập tự chủ của toàn thể cái còn lại,’ vì không có tín ngưỡng nào đem vị thần của mình kết hợp lại, đặt cạnh nhau và cho xuất hiện thường xuyên, ngay cả các vị thần vĩ đại nhất trong Phệ-đà cũng được tạo nên trong mối tương quan với các vị khác. Như thần Varuṇa[19] và Sūrya[20] là tuỳ tùng của thần Indra (I. 101), thần Varuṇa và thần Aśvin phục tùng quyền lực của thần Viṣṇu (I. 156)... Ngay cả vị thần tương truyền là độc nhất hoặc thống lãnh (Eka), như là tự nhiên có đủ sự tán dương, những lời như vậy đã làm mất năng lực nhất thời của thuyết nhất thần, thông qua sự bổ sung hoặc điều chỉnh được cung cấp bởi ngữ cảnh hoặc nhờ các bài tán ca tương tự.” Macdonell phát biểu tiếp, “Do vậy, Henotheism là sự trình hiện đúng hơn là một thực tại, một trình hiện phát sinh bởi tính không hạn định nhờ vào thuyết hình nhân luận (anthro-pomorphism)[21] chưa phát triển hoàn chỉnh, bởi sự vắng bóng vài vị thần Phệ-đà thế chỗ cho thần Zeus[22] như là thủ lĩnh trung thành của điện thờ đa thần (pantheon), bời khuynh hướng tự nhiên của các thầy tế hoặc các nhà thơ khi tán dương một vị thần đặc biệt vào đó để cường điệu tính cách vĩ đại của ngài rồi lờ đi các vị thần khác, và bởi đức tin về sự hợp nhất các thần mà mỗi vị trong đó được xem như là một loại thần.”[23] Nhưng dù chúng ta có gọi đó là Henotheism hay chỉ là sự phóng đại năng lực của các thần, thì điều hiển nhiên là ở phạm trù này không thể nào chính thức gọi là đa thần (polytheistic) hoặc nhất thần (monotheistic), nhưng ngài có khuynh hướng về cả hai, dù chưa được phát triển đầy đủ thành đồng nhất với cả hai. Khuynh hướng thiên về sự phóng đại được gọi là có mầm mống thiên về nhất thần, trong khi sự tương quan của các thần khác như là độc lập với nhau, thế nên họ cùng nhau tồn tại, thì có khuynh hướng thiên về đa thần. Sự phát triển của khuynh hướng Nhất thần (Monotheistic); Prajāpati, Viśvakarma Khuynh hướng hướng này thiên về tán dương một vị thần như là vĩ đại nhất và tối cao, dần dần đề xuất quan niệm một Đấng chủ tể của tạo vật (s: Prajāpati; e: Lord of all beings),[24] chứ không do tiến trình khái quát hoá nhận thức mà như là một giai đoạn thiết yếu của sự phát triển tâm thức, có thể tưởng tượng một vị thần như là kho tàng chứa đựng các công hạnh cao tột và sức mạnh tự nhiên vô song, cho dù sự biểu hiện trực tiếp không thể nào nhận ra được. Thế nên danh hiệu Đấng chủ tể của tạo vật (s: Prajāpati; e: Lord of all beings), vốn khởi nguyên là danh hiệu của các thần khác, trở nện được nhận thức như một vị thần riêng biệt, cao nhất và vĩ đại nhất. Như được truyền tụng qua R. V. x. 121.[25] Từ khởi nguyên của Hiraṇyagarbha,[26] Sinh ra như chủ tể duy nhất của mọi hiện hữu. Ngài ổn định thế gian này và tạo dựng cõi trời; Còn vị thần nào để chúng ta tôn sùng và hiến cúng? Ai cho chúng ta hơi thở, sức mạnh Nỗ lực của ai khiến mọi loài phải vâng theo, ngang hàng với các vị thần sáng láng. Cái bóng của ai chính là sự chết, Cái bóng của ai chính là sự sống bất tử Còn vị thần nào để chúng ta tôn sùng và hiến cúng? Ai bằng với năng lực của chính mình để trở thành quốc vương Của tất cả mọi hơi thở, của sự thức tỉnh hay mê ngủ. Của tất cả, người và thú, chủ tể hằng vĩnh Còn vị thần nào để chúng ta tôn sùng và hiến cúng? Sức mạnh và oai nghi của ai phủ tuyết trắng núi này Phô bày đại dương và những dòng suối tận xa xăm Cánh tay ai ôm trọn hết mọi miền Còn vị thần nào để chúng ta tôn sùng và hiến cúng? Ai làn cho trời toả sáng, đất kiên trì chịu đựng Ai sắp đặt bầu trời, thiên đường của những thiên đường. Ai đo được khoảng không gian vô cùng Còn vị thần nào để chúng ta tôn sùng và hiến cúng?[27] Thuộc tính tương tự được gán cho Viśvakarma (All-creator). Vị này được xem là cha đẻ và là tổ phụ của tất cả mọi loài, dù chính thần ấy chẳng tạo tác. Thần này tạo ra nước từ thuở hồng hoang. Các bậc hiền triết tán thán về ngài: Ai là là cha chúng ta, đấng chủ tể, đấng tạo tác, Ai ở khắp mọi nơi tạo ra cái biết và mọi sinh thể Bởi riêng ai mà thần thánh được đặt tên Với các ngài, mọi sinh vật đều đến thỉnh cầu. ( R. V. x. 8z. 3.) Brahma Ý niệm về Brahman vốn đã có sự tôn xưng cao nhất trong triết học Phệ-đàn-đa (Vedānta) sau này, vốn hầu như đã phát khởi từ Lê-câu Phệ-đà với sự kết hợp của tâm thành kính. Ý nghĩa mà Sayana, nhà luận giải Phệ-đà nổi tiếng đã phát biểu, được Haug sưu tập lại, đó là: a. Thực phẩm, sự dâng cúng thực phẩm, b. Tán ca của thầy tế Sa-ma Phệ-đà (Sāma-Veda), c. Nghi thức tế lễ. d. Bổn phận hoàn thành các nghi lễ. e. Tán ca và dâng cúng lễ vật cùng lúc. f. Sự tụng đọc thuộc lòng của các thầy tế (hotr priest). g. Hoàn mãn. Roth cho rằng nó còn có nghĩa “sự dâng hiến tự nó biểu hiện như là lòng ước nguyện và thoả mãn của tâm hồn và phóng vọt tới các thần.” Nhưng chỉ trong Phạm thư Śatapatha, ý niệm Brahman mới có được ý nghĩa vĩ đại như một nguyên lý tối thượng, làm dịch chuyển sức mạnh phiá sau các vị thần. Thế nên Phạm thư Śatapatha nói rằng: “Đúng vào lúc khởi thủy, (vũ trụ này) là Brahman (trung tính). Brahman tạo ra các thần. Khi ra các thần rồi, Brahman khiến họ đến với thế gian này: Agni là thần của thế gian (đất), Vāyu là thần gió (không khí), Sūrya là thần hư không... Rồi Brahman tự thăng hoa vào cõi giới siêu việt. Khi đã đến cõi giới cao siêu đó rồi, ngài nghĩ rằng, ‘Làm sao ta có thể trở lại trần gian này?’ Rồi ngài bước xuống lại trần gian với hai phương tiện, Hình thể (Sắc) và Tên gọi (Danh). Bất luận cái gì có danh xưng liền thành tên gọi cho cái ấy; lại nữa cái gì không có danh xưng mà người ta biết nó qua hình dáng ‘cái này (có) hình dạng này, cái kia (có) hình dạng kia’; miễn có tên gọi và hình thể là được, cứ như vậy mà trải khắp vũ trụ này. Đây quả thực là hai năng lực vĩ đại của Brahmaṇ. Ở một nơi khác, Brahmaṇ được xem là sự tuyệt đối trong Toàn thể (Universe), và được đồng nhất với Prajāpati, Thần ngã (Puruṣa) và Nguyên khí (Prāṇa).[28] Ở nơi khác Brahman được mô tả như là Tự sinh (Svayambhū),[29] hiện bày sự khổ hạnh, dâng hiến mình cho tạo vật và tạo vật ở ngay chính trong mình. Thế nên Brahman nắm được uy thế tối cao, quyền lực khắp tạo vật. Ý niệm về Thần ngã (Puruṣa) trong Lê-câu Phệ-đà (Ṛg-Veda) cũng là giả định một nhân cách siêu việt trùm khắp thế giới chỉ bằng với bốn chi phần của chính ngài, trong khi đó vẫn duy trì ba phần để vượt lên cõi thăng hoa. Một lúc ngài là hiện tại, quá khứ và tương lai. Hiến tế; Nguyên lý sơ đẳng nhất của Luật nghiệp quả (Law of karma) Sẽ không bao giờ sai lầm khi cho rằng những khuynh hướng nhất thần (monotheistic) này dần dần thay thể cho lễ hiến tế của đa thần giáo (polytheistic). Mặt khác, tính phức tạp của chủ nghĩa nghi thức dần dần phát triển thành chi tiết tinh vi. Song kết quả trực tiếp của sự phát triển này góp phần vào sự xếp loại các thần thành một vị trí tương đối thứ yếu, và phát sinh những giá trị của những yếu tố hấp dẫn trong lễ hiến tế như là một thể chế mà có thể ban tặng kết quả hằng ao ước của chính họ. Phẩm vật dâng cúng trong lễ hiến tế được người thành tâm dâng cúng một cách tự nguyện không bắt buộc giống như lễ nghi chịu ảnh hưởng của Cơ-đốc giáo hoặc Vaiṣṇava.[30] Lễ hiến tế chiếm toàn thể mọi ý niệm như Haug ghi lại “như là một cỗ máy trong đó mọi bộ phận phải ăn khớp với nhau,” chỉ một chút thiếu nhất quán trong khi thực hiện dù một nghi tiết rất nhỏ, như khi tưới bơ lỏng trên lửa, hoặc vị trí chính xác của các dụng cụ dùng trong lễ hiến tế, hoặc ngay cả việc để sai chỗ cái nón rơm ngước với lời chỉ dạy là đủ để làm hỏng toàn bộ lễ tế với bất kỳ lòng tha thiết để thực hiện. Chỉ một lời phát âm sai thì kết quả xấu nhất sẽ theo sau. Thế nên khi Tvaṣṭṛ tổ chức lễ hiến tế cho vị thần mà sẽ giúp giết hại kẻ địch của mình là thần Indra, do vì đọc sai dấu nhấn một âm tiết mà mục tiêu bị đảo ngược, vị thần bị giết bởi Indra. Nhưng nếu sự hiến tế được thực hiện đúng đắn đến từng chi tiết, thì sẽ không có sức mạnh nào bị cầm giữ hay trì hoãn việc đem đến mục đích kết quả. Thế nên mục đích hiến tế được thành tựu không phải do ân huệ của các thần, mà là kết quả tự nhiên của lòng thành. Sự thể hiện các nghi thức phát sinh vô số kết quả mầu nhiệm do đức hạnh mà mục tiêu mong cầu của người dâng cúng tựu thành theo đúng khoá lễ như sự thành tựu của luật tắc tự nhiên trong thế giới phàm trần. Sự hiến tế được tin là tồn tại từ hằng vĩnh như chính tư tưởng Phệ-đà. Sự tạo dựng thế giới chính nó còn được xem như kết quả của hiến tế được thực hiện bởi Đấng tối cao (supreme Being). Nó hiện hữu như Haug phát biểu “như một vật vô hình trong mọi thời gian và giống như sức mạnh tiềm tàng của dòng điện trong máy phát, chỉ cần sự vận hành của những cơ phận thích hợp là có tác dụng.” Lễ hiến tế không phải là dâng lên cho thần một cái nhìn để làm lành với ngài hoặc để nhận từ ngài sự thịnh vượng trên cõi trần hay sự lạc phúc trên cõi trời; những phần thưởng này trực tiếp phát sinh bởi chính sự hiến tế thông qua sự thể hiện đúng đắn các lễ nghi phức tạp và liên kết với nhau đã cấu thành lễ tế. Dù mỗi lễ hiến tế đều có mỗi vị thần nhất định được cầu khẩn đến và để nhận vật phẩm dâng cúng, chính các thần không chỉ là công cụ dẫn đến lễ hiến tế hoặc cho sự hoàn thành các khoá lễ huyền bí. Hiến tế do vậy được xem như có một tiềm năng mầu nhiệm siêu tuyệt ngay cả đối với các thần, là người có khi tuyên bố là đã đạt được giai vị thần thánh qua phương tiện hiến tế. Hiến tế được xem hầu như chỉ là một loại bổn phận, và còn được gọi là hành nghiệp (karma hay kriyā) và luật tắc không thể thay đổi được là, những nghi lễ mầu nhiệm này dành cho cái thiện hay cái ác, đạo đức hay phi đạo đức (vì đã có rất nhiều loại nghi lễ được thực hiện để triệt hạ kẻ thù của mình hay giành lấy của cải hoặc quyền lực thế gian từ sự mất mác của người khác) đều được trù định từ trước để đưa đến kết quả. Rất hay khi lưu ý ở đây rằng sự thừa nhận ban sơ về trật tự vũ trụ hay luật tắc phổ biến trong tự nhiên dưới sự bảo hộ của các vị thần tối cao đã được tìm thấy trong cách dùng của từ Ṛta.[31] Từ này như Macdonell đã khảo sát, là vẫn được dùng, để chỉ rõ “ ‘trật tự’ trong lĩnh vực đạo đức như là chân lý và ‘thiện’; trong lĩnh vực tôn giáo như là hiến tế hoặc ‘lễ nghi’”[32] cùng với luật tắc không thể thay thế dẫn đến kết quả. Rất đáng lưu ý rằng trong mối liên hệ này là chính ở nơi đây mà chúng ta tìm thấy mầm mống đầu tiên của luật nghiệp quả, vốn áp dụng như một quyền lợi trùm lên tư tưởng người Ấn Độ mãi cho đến ngày nay. Thế nên chúng ta nhận ra niềm tin đơn giản và sự thành kính trong tán ca Phệ-đà từ một mặt, đã thay thế qua sự phát triển của một hệ thống phức tạp của nghi thức hiến tế; và mặt khác, hướng tiến trình của họ về phía thuyết nhất thần (monotheistic) hoặc nhận thức triết học về thực tại tuyệt đối của vũ trụ. Nguồn gốc vũ trụ – huyền thoại và triết học Nguồn gốc vũ trụ trong Lê-câu Phệ-đà (Ṛg-Veda) có thể được nhìn từ hai phương diện, huyền thoại và triết học. Phương diện huyền thoại thường có hai chiều hướng, như Giáo sư Macdonell cho biết, “Một chiều hướng xem vũ trụ như là kết quả của tiến trình sản xuất một cách máy móc, như tài nghệ tinh xảo của người thợ mộc và thợ lắp ráp; chiều hướng kia cho rằng điều ấy như là kết quả của sự phát triển tự nhiên.”[33] Thế nên trong Lê-câu Phệ-đà (Ṛg-Veda) chúng ta thấy trong một đoạn tán ca nói rằng, “Ngoài gỗ và cây rừng, các ngài lấy gì để tạo nên thiên đường và mặt đất?” Câu trả lời cho vấn đề này là trong Phạm thư Taittirīya (Taittirīya-Brāhmaṇa), “Brahman là gỗ, và Brahman là cây rừng, từ đó thiên đường và mặt đất được tạo nên.” [34] Thiên đường và Mặt đất có khi được mô tả là được chống đỡ bởi các cột trụ.[35] Có khi nó được truyền đạt như là cha mẹ của vũ trụ, và nguồn gốc tổ tiên có khi được gán cho Aditi[36] và Dakṣa.[37] Từ phương diện triết học này, bán phiếm thần Manhymn thu hút sự chú ý nhiều nhất. Thần ngã (s: prakti; e: supreme man) như chúng ta đã lưu ý ở trên thì ở đây cho là toàn thể vũ trụ, bất luận cái gì đã hiện hữu và cái gì sẽ thành. Thần ngã là chủ tể của bất tử đã trở nên phổ biến khắp mọi nơi trong loài hữu tình và vô tình, và tất cả mọi loài sinh ra từ ngài; từ rốn của ngài sinh ra không khí; từ đầu của ngài phát sinh bầu trời, từ chân ngài sinh ra đất, từ tai ngài sinh ra bốn phương hướng. Lại có những tán ca trong đó Mặt trời được gọi là linh hồn (ātman) [38] của tất cả các loài di động và bất động.[39] Còn có những phát biểu với ý nghĩa là Hiện hữu (Being) là duy nhất, dù nó được gọi bằng nhiều tên của nhiều vị hiền triết.[40] Sự hiện hữu tối thượng có khi được tán dương như là chủ tể tối cao của thế giới được gọi là Trứng vàng (s: hiranyagarbha; e: golden egg).[41] Trong vài đoạn có nội dung: “Brahmaṇaspati thổi sự sống vào những hài nhi này như là thợ rèn. Trong thời đại sớm nhất của các thần, sự hiện hữu (hữu thể) xuất phát từ cái không hiện hữu (vô thể), sau đó các tầng lớp khí quyển xuất hiện, về sau, từ Uttānapada.”[42] Tán ca nổi bật và tuyệt vời nhất trong đó mầm mống đầu tiên của triết học suy nghiệm quan tâm đến sự mầu nhiệm của nguồn gốc vũ trụ được tìm thấy trong bài tán ca thứ 129, chương X của Lê-câu Phệ-đà (Ṛg-Veda): 1. Thuở ấy chưa có hữu thể, cũng chẳng có vô thể. Chẳng có không khí và bầu trời trên cao Cái gì bao trùm tất cả? Ở đâu? Do cái gì chống đỡ? Phải chăng đó là nước từ vực sâu thăm thẳm? 2. Thuở ấy chưa có cái chết, cũng chẳng có sự bất tử . Chưa có sự phân biệt ngày và đêm Chỉ riêng thở bằng sự yên lặng và tự hộ trì Ngoài Ngài ra chẳng còn ai, chẳng có gì trên Ngài. 3. Thuở ban sơ bóng tối ẩn mình trong bóng tối; Vũ trụ chỉ là nước mênh mông Trong đó ẩn chứa cái trống không rỗng lặng Riêng bằng sức mạnh của nhiệt tình mà Ngài sinh ra. 4. Rồi lần đầu tiên ham muốn nổi lên, Mầm mống ban sơ đã nàm trong đó. Các hiền triết nhận ra nó từ trong tâm mình. Trong Vô thể đã kết thắt Hữu thể. 5. ... 6. Ai là người biết được? Ai truyền đạt chân thực cho chúng ta? Từ đâu mà vũ trụ này sinh khởi? Và không biết cái gì sinh ra sau khi các thần hiện hữu? Rồi ai biết vũ trụ có từ đâu? 7. Cội nguồn nào mà vũ trụ sinh ra? Ngài tác thành hay tạo dựng nó chăng? Từ trời cao, chỉ riêng Ngài biết được Đấng quyền năng, thấy khắp–hay không. Ngài có biết?[43] Lời dẫn giải về đoạn văn này có lẽ là một đoạn trong Phạm thư Śatapatha Brāhmaṇa (x. 5.3. 1), nói rằng “Từ khởi thuỷ (vũ trụ) như là chẳng có Hữu cũng chẳng có Vô: lúc ấy chỉ có Tâm (Mind). Do đó điều ấy được tuyên bố bởi Rishi trong Lê-câu Phệ-đà (Ṛg-Veda x. 129. 1), ‘Lúc ấy chẳng có Vô cũng chẳng có Hữu’ vì Tâm đang hiện hữu như nó vốn là vậy, nó chẳng hiện hữu chẳng phải không hiện hữu. Tâm này khi được tạo ra, có ý hướng mong mọi loài đều hiện hữu –, rõ nét hơn, có thực hơn: nó được tìm thấy trong bản ngã (một thân thể); nó có được tính kiên định trước sau như một.”[44] Trong A-thát-bà Phệ-đà (Atharva-Veda), chúng ta còn tìm thấy được lời tuyển bố rằng mọi hình tướng của vũ trụ đều được lĩnh hội qua thần Skambha.[45] Như vậy chúng ta nhận thấy rằng ngay trong thời kỳ Phệ-đà đã phát sinh một khuynh hướng triết học, ít nhất là trong số những người đặt vấn đề vũ trụ rốt ráo có phải do sự tạo dựng hay không, những người nghĩ về căn nguyên thế giới như là bị bao phủ trong huyền thoại của tính bất biến ban sơ của hiện hữu và phi hiện hữu, và nghĩ rằng chính là cái Nhất thể uyên nguyên (primal One), bằng sự thừa hưởng nhiệt tâm (s: tapas; e: fervour) khiến phát ra lòng ham muốn sáng tạo như là sự thể hiện ban đầu hạt giống tâm thức, từ đó vũ trụ phóng xuất ra qua một loạt từng bước một những tiến trình huyền nhiệm. Trong Phạm thư, do vậy, chúng ta thấy rằng quan niệm nguồn gốc vũ trụ thường đòi hỏi một chủ thể tạo tác, tuy đó chẳng phải là vị luôn luôn có vị trí khởi đầu, và chúng ta thấy rằng thuyết tiến hoá (theory of evolution) được kết hợp với thuyết (chủ thể) tạo tác, thế nên prajāpati có khi được truyền đạt như là chủ thể tạo tác, trong khi ở nơi khác thì chủ thể tạo tác được trình bày như là trôi bồng bềnh trong biển nước nguyên sinh (primeval water) vốn là Kim thai tạng (Cosmic golden egg) của vũ trụ. Thuyết mạt thế (Eschatology), học thuyết về Ngã (Ātman) Dường như có niềm tin trong tư tưởng Phệ-đà rằng linh hồn có thể tách lìa khỏi thân xác trong trạng thái bất tỉnh, và linh hồn ấy vẫn tồn tại sau khi chết, dù chúng ta không thể tìm thấy dấu tích nào của học thuyết luân hồi sinh tử trong dạng đã được phát triển. Phạm thư Śatapatha nói rằng những ai không thực hiện nghi thức hiến tế với sự hiểu biết đúng đắn thì sẽ tái sinh trở lại sau khi chết và chết trong đau khổ một lần nữa. Trong một tán ca của Lê-câu Phệ-đà (x. 58), thần thức (manas) của một người dường như là vô thức, được mời trở lại với người ấy từ cây rừng, thảo mộc, hư không, mặt trời, v.v... Trong nhiều tán ca, còn có niềm tin về sự hiện hữu của các thế giới khác, nơi mà niềm vui vật chất cao nhất có được như là kết quả của sự thực hiện hiến tế, còn trong ngục tối thì người ác chịu hình phạt. Trong Phạm thư Śatapatha, chúng ta thấy người chết qua lại giữa hai hoả ngục trừng phạt kẻ ác, nhưng lại để cho người thiện đi qua;[46] trong đó cũng nói rằng mọi người đều phải sinh lại sau khi chết, được đo bằng cái cân, và nhận phần thưởng hay hình phạt tuỳ theo những việc làm tốt hay xấu của mình. Dễ dàng nhận ra rằng những ý tưởng rải rác như thế này qua cách nhìn vận mệnh linh hồn của con người tuỳ theo họ có thực hành lễ hiến tế hoặc những việc làm tốt xấu hay không? Đó là nguyên lý sơ đẳng của thuyết luân hồi[47] sau này. Ý tưởng con người sung sướng hay đau khổ, trong thế giới khác hoặc ở trong cõi giới này là tuỳ thuộc vào việc làm tốt hay xấu của họ, là khởi nguyên của tư tưởng đạo đức, dù trong thời đại của Phạm thư, việc thiện thường thuộc về bản chất cuả bổn phận hiến tế hơn là những việc tốt thông thường. Những ý tưởng có liên quan tất yếu đến vui buồn của con người với việc thiện ác của họ khi kết hợp với ý niệm trật tự hoặc luật tắc bất khả xâm phạm, mà chúng ta đã thấy qua sự phát triển dần dần với ý niệm Ṛta, và luật tắc không thể thay thế làm phát sinh kết quả của việc hiến tế, đã dẫn đến Luật Nghiệp quả (Law of Karma) và học thuyết luân hồi. Thuật ngữ biểu thị cho linh hồn (soul) trong Lê-câu Phệ-đà là manas, ātman và asu. Tuy nhiên, chữ ātman về sau trở nên thông dụng trong tư tưởng Ấn Độ khi được dùng với nghĩa ‘hơi thở sinh động–vital breath.’ Manas được xem như là cứ điểm của tư tưởng và tình cảm, và Manas được xem là, như Macdonell nói, cư ngụ trong trái tim.[48] Tuy nhiên, khó để hiểu ra tại sao ātman là ‘hơi thở sinh động–vital breath,’ hay là phần tách biệt ra khỏi người chết lại được xem là phân tinh tuý hoặc thực nhất trong con người và trong vũ trụ. Song có ít nhất một đoạn trong Lê-câu Phệ-đà, trong đó thi ca đã xuyên thật sâu từ hơi thở sinh động–asu, đến máu huyết, từ đó xuyên qua ātman như là cái ngã sâu cùng nhất của thế giới: Ai biết làm sao loài có xương[49] (hình dáng của vũ trụ) lần đầu tiên được sinh ra, Là từ loài không có xương[50] ( vũ trụ vô hình)? Đâu là hơi thở sinh động, máu, tự ngã (ātman) của thế giới? Ai hỏi ngài có biết được chăng?[51] Trong Sâm lâm thư Taittirīya Aranyaka I, 23, tuy vậy, nói rằng sau khi Thế chủ (Prajāpati) tạo lập chính mình xong (như là thế giới) bằng chính cái ngã của mình nhập vào trong đó. Trong Phạm thư Taittirīya, ātman được gọi là có mặt khắp mọi nơi (omnipresent), và được cho là ai biết được ngài sẽ không còn bị nhiễm bởi ác nghiệp. Thế nên chúng ta thấy rằng trong văn học Phệ-đà thời tiền Áo nghĩa thư, có lẽ lần đầu tiên ngã (ātman) được dùng để chỉ cho “hơi thở sinh động” trong con người, rồi chỉ cho cái ngã của vũ trụ, và rồi chỉ cho cái ngã của con người. Từ giai đoạn sau cùng này, chúng ta tìm ra được dấu tích khuynh hướng phát triển để quán sát tự ngã con người như là nguyên lý tối cao phổ biến của vũ trụ, sự hiểu biết về điều ấy khiến cho con người không bao giờ phạm tội và trở nên thanh tịnh. Kết luận Nhìn vào sự phát triển của tư tưởng trong Lê-câu Phệ-đà (Ṛg-Veda), đầu tiên chúng ta thấy rằng cấu trúc tư tưởng dần dần phát triển không chỉ xem vũ trụ như là phần tương quan của cấu trúc đã hình thành ra nó, nhưng tìm kiếm cách giải thích nó như đã toát ta từ một nhân cách vĩ đại đôi khi được mô tả như đồng nhất với vũ trụ và trội vượt trên nó, và vào lúc khác thì như là thực thể tách rời ngoài nó. Thuyết tinh thần bất khả tri (agnostic) là mẹ của tư tưởng triết học, lúc ấy được xem là rất táo bạo khi diễn tả sự hoài nghi ngay trong vấn đề nền tảng nhất của sự tạo lập – “Ai biết thế giới này có được tạo dựng hay không?” Thứ đến, sự phát triển của hiến tế đã giúp cho chúng ta thiết định tính chất không thể thay đổi của luật tắc mà nhờ đó, hành vi hiến tế tự phát sinh ra kết quả. Nó cũng giảm trừ tính quan trọng của các thần như là chủ tể tối cao của thế giới và số phận chúng ta, cùng khuynh hướng Độc thần (Henotheism)[52] dần dần giảm trừ đặc tính phức tạp của nó và tiến lên khuynh hướng Nhất thần (Monotheistic) trong một vài địa phương. Thứ ba, linh hồn con người được mô tả như là thực thể tách rời khỏi thân xác và chủ thể để hưởng sự vui và khổ nơi thế giới khác tuỳ theo nghiệp thiện hay ác của nó; học thuyết linh hồn con người có thể tái sinh thành thực vật, v.v... hoặc có thể đầu thai lại trên thế gian, cũng được gợi ý trong các doạn văn khác; và điều này được xem như gieo hạt giống đầu tiên cho thuyết luân hồi sau này. Ngã (ātman) được xem là một vị trí quan trọng của thế giới, và khi chúng ta truy tìm ý tưởng này trong Phạm thư (Brāhmaṇa) và Sâm lâm thư (Āranyaka), chúng ta sẽ thấy rằng Ngã (ātman) ấy bắt đầu có nghĩa là thể tính tối thượng (supreme essence) trong con người cũng như trong vũ trụ, thế nên có sự tiếp cận với thuyết Đại ngã trong Áo nghĩa thư (Upaniṣad). Thích Nhuận Châu (Dịch từ A History of INDIAN PHILOSOPHY) CHÚ THÍCH [1] the seers (mandradraṣṭā): Hán dịch: thánh điển chi kiến giả, thánh điển chi tác giả. [2]* Brahmin: Phạm chí, học giả. [3] Hán dịch: Bao quát Phệ-đà bổn tập 包括四吠陀本集. [4] Nguyên văn Anh ngữ Forest treatises: Sách dạy trong rừng. [5] Hán dịch 天啓文學 Thiên khải văn học. Văn học Thánh truyền. [6] Theo Phật Quang Từ Điển, ghi nhận là có 78 bài tụng mới ngoài nội dung vốn có trong Ṛg-Veda. [7] Soma tế. [8] Hán dịch: Tế tự Minh luận, Tế tự Trí luận, Tác minh Cúng thí. E: Veda of Yajus; sacrificial prayers. [9] Indra: Thần mặt trời [10] A. A. Macdonell’s History of Sanskrit Literature, p. 31. [11] Weber (Hist. Ind. Lit., p. 11, note) cho rằng thuật ngữ Brāhmaṇa có nghĩa là “có liên quan đến kinh điển Bà-la-môn (Brāhmaṇ).” Max Muller (S. B. E. 1. p. Ixvi) cho rằng Brāhmaṇa có nghĩa “xuất phát từ lời nói của các vị Bà-la-môn, hoặc trong ý nghĩa chung là tăng lữ, hoặc trong ý nghĩa đặc biệt hơn là tăng lữ Bà-la-môn.” Eggeling (S. B E. xii. Introd. p. xxii) cho rằng Brāhmaṇa được gọi như thế hoặc là do họ chịu sự giáo huấn và hướng dẫn của giới Bà-la-môn (Brāhmaṇa) nói chung, hoặc là vì, phần lớn những lời tán tụng có quyền năng thông qua các bài tán ca trong thánh điển Phệ-đà và đấng Tối cao thiêng liêng, họ hành xử thông thạo như những vị Bà-la-môn hay những tăng sĩ siêu xuất.” Nhưng theo quan điểm thực tế, Brāhmaṇa cũng xem như là được khải thị từ Phệ-đà, nên những tác giả thời nay đều cho rằng quan điểm của Veber là đúng đắn. [12] Nguyên nghĩa là tri, nhận thức. [13] S: aśvamedha; E: horse sacrifice: Tế ngựa. [14] Ṛig-Veda, by Kaegi, 1886 edition, tr. 13. [15] Ṛig-Veda, Kaegi, ấn bản 1886 edition, tr. 18. [16] Ṛig-Veda, Kaegi, ấn bản 1886 edition, tr. 26. [17] Ṛig-Veda, Kaegi, ấn bản 1886, p. 35. [18] Ṛig-Veda, Kaegi, ấn bản 1886, tr. 27. [19] Varuṇa. [20] Sūrya. [21] Còn gọi là Vũ trụ Nhân hình luận. [22] Zeus: Thần Mặt trời của thần thoại Hy Lạp. [23] A. Macdonell’s Vedic Mythology, p.17. [24] Prajāpati: Thời Phệ-đà, chỉ cho chủ tể các thần. Về sau được chỉ cho Đấng tạo vật, thần chủ đạo. Trong kinh Phật được dùng với nghĩa: Sinh chủ, chúng sinh chủ, thế chủ, thế gian chủ, thời gian chủ, Phạm thiên, Cửu loại., Hữu tín thiên... [25] Ṛig-Veda, Kaegi, ấn bản 1886, tr. 88, 89. [26] Hán dịch: vũ trụ khai sáng căn bản chi nguyên lý. Kim thai, Kim tạng. [27] Ṛig-Veda, Kaegi, ấn bản 1886, tr. 88, 89. [28] Prāṇa; E: vital air. Xem S. B. E. XLIII. pp. g, 60. 400 và XL.IV.p. 409. [29] Svayambhū; E: self-born. [30] Vaiṣṇava: Tín ngưỡng thờ thần Viṣṇu. [31] Định luật, luật nghi, nghi thức, thánh pháp, chân lý, thánh huấn. (Phạn-Hán Đại Từ Điển). E: the course of things. [32] Macdonell’s Vedic Mythology, p. 11 [33] Macdonell’s Vedic Mythology, p. 11 [34] Taitt. Br. 11. 8. 9. 6. [35] Macdonell’s Vedic Mythology, p. 11 ; also R. V. ii. 15 snd iv. 6 [36] Aditi: có nghĩa là Vô hạn. Danh hiệu của các Thần mẫu. [37] Dakṣa: Danh xưng của Prajāpati. [38] E: soul. [39] R.V.1. 115. [40] R. V. 1. 164. 46 [41] R. V. x. 121. [42] Bản dịch của Muir, R. V. X. 72; Muir’s Sanskrit Texts, vol. v.p. 48. Hán dịch: Kim thai, Kim tạng. [43] Ṛig-Veda, Kaegi, ấn bản 1886 p. 90. [44] Xem bản dịch của Eggeling, S. B., S. B. E. vol. XLIII. p. 374, 375. [45] A. V. x. 7.10. [46] Xem S. B. 1.9. , và Vedic Mythology của Macdonell pp. 166, 167. [47] E: metempsychosis: tái sinh, chuyển sinh. [48] Xem Vedic Mythology của Macdonell p. 166 ; và R. V. viii. 89. [49] E: Bone-possessing [50] E: Boneless [51] ‘R. V. 1. 164. [52] Henotheism: đạo một thần tối cao (không phủ nhận sự tồn tại của các vị thần khác. nguồn :http://htx.dongtak.n...php?article2620
  7. Vài câu chuyện vặt Hình trên, vây quanh Thiên Đồng và Thiên Anh là 4 nhà báo. Bốn khách hàng này đều có bạn là nhân viên quản lý trong Holcim. Họ đến để nhờ tư vấn thật sự hay dò xét hay thử tay nghề phong thủy của các chuyên gia hay không? Hay do "mê tín thông thường" mà đến, khi nghe đến những vấn đề phong thủy, điều này Thiên Đồng không biết, tuy nhiên họ tự nhiên và thoải mái khi tham vấn. Sau khi yêu cầu cô nhà báo ngồi quay lưng mặc áo trắng phát thảo sơ sơ đồ mặt bằng nhà, Thiên Đồng nhận định: - Nhà này, nếu hai vợ chồng anh người anh của cô ở đó thì khả năng 1 là vợ ông chồng này có triệu chứng thần kinh nặng, 2 hoặc là ông chồng cực kỳ nóng tính. - Anh nói đúng, anh tôi cực kỳ nóng tính. -Cô nhà báo áo trắng phản ứng ngay- Một nhận định, tức khả năng dự báo, trên một cơ sở có thật, cụ thể là sơ đồ nhà, đã cho thấy tính khách quan của vấn đề, điều này phù hợp với tiêu chí khoa học, không đợi đến khi thực hiện một ca sửa nhà theo phong thủy mới chờ hiệu quả của nó mà khẳng định tính đáng tin hay không đáng tin của phong thủy. Quan niệm rằng phong thủy là tương tác, là thường thức, khi con người tồn tại trong một không gian như thế, chịu tác động như thế, hậu quả là như thế như thế thì đó là phong thủy. Chuyên viên tư vấn tại bàn, như một người thầy thuốc bắt mạch, tham vấn để phát hiện đúng bệnh, điều đó đã chứng tỏ phương pháp ứng dụng y thuật có họ đã có một phương pháp đúng mà không cần đợi đến kê toa bốc thuốc có hiệu quả lành bệnh rồi mới khẳng định ông thầy thuốc đó, lúc đó mới được gọi là y thuật. Quan niện lấy hiệu quả để nhận định cho toàn thể một phương pháp ứng dụng là sai hay đúng thì chưa chắc là đúng. Rủi ăn may thì sao? Hehe Thiên Đồng
  8. @ damthuy213 Chào Bác Thiên Đồng, Cháu tên Đàm Thùy, Bác xem hộ cháu Tuổi cháu Đnh Mão -1987 Hỏi vào ngày 02 tháng 06năm 2011 lúc 9:09 sáng dương lịch. Đỗ vô vong Câu hỏi 01: Chú cho cháu hỏi hiện cháu đang đợi công việc nhà nước, 1 công viẹc làm hợp đồng rồi sau mới vào chính thức, 1 công việc vào chính thức luôn. Cháu nên chọn công việc nào?? tháng mấy đi làm?? -Nên chọn cái chính thức luôn, nhanh thì đầu tháng 7 âm, chậm thì tháng 10 âm. Câu hỏi 02: Khi cháu làm công việc đó có phù hợp và phát triển đựoc không??? (Về công danh, kiến thức, kĩ năng, tiền bạc, mối quan hệ, ) - Chịu áp lực tốt, khóe léo tốt thì cơ hội pháp triển tốt. Câu hỏi 03: Năm nay tình duyên của cháu trong những tháng còn lại thế nào ạ??? - Có đổi mới, nếu không thì không an. @ nang moi Chào chú Thiên Đồng! -Cháu tuổi Giáp Tý -Hỏi vào ngày 2/6/211 (dương lịch) lúc 10h29' PM thương đại an Câu 1: Cháu có kỳ thi vào giữa tháng 9 dương lịch tới,cháu có đỗ không ạ. Chưa đỗ. Câu 2: Cuối tháng 4 đầu tháng 5 vừa rồi cháu có quen 1 anh, nhưng mấy tuần nay không thấy anh ấy liên lạc gì. Vậy cháu có nên hy vọng vào anh chàng này không ạ? -Không nên. Người này có vẻ mờ ám. Câu 3: Đến tháng mấy năm nay thì cháu xin được việc ạ? - Tháng 7 hoặc 8 âm có việc. Mong chú giúp cháu! @NDThu Cháu chào chú Thiên Đồng, Chú ơi, Chú giúp cháu 3 câu hỏi với ạ: Tuổi: Ất Sửu 1985 Hỏi vào ngày 03 tháng 6 năm 2011 lúc 01h 20 AM - giờ Việt Nam ( cháu đang ở nước ngoài- giờ bên cháu thì là 20h20 ngày 02/ 06/2011 - Cháu không biết lấy giờ nào nên ghi cả hai ạ ^^) Câu hỏi 1: Cháu tháng 9 về Việt Nam có thuận lợi khi tìm việc không ạ? - Không thuận lợi Câu hỏi 2: Nếu cháu tự làm kinh doanh thì có phát triển thuận lợi không ạ? - Sẽ rất thuận lợi phát triển. Câu hỏi 3: Chuyện tình cảm của cháu khi về Việt Nam vẫn tốt đẹp không ạ? - Có vài chuyện buồn tình, nhưng vẫn tốt đẹp. Cháu chân thành cảm ơn Chú , Cháu chúc Chú sức khỏe ạ. @ Séo chỉa Em đang thất nghiệp, thất tình, thất vọng, thất đủ thứ (cả chuyến đi ST cũng bị thất)... nên lại mò vào đây mần phiền anh Đông Thiền tiếp. Em sinh cùng tuổi với Tôn hầu, vào năm bị phán là số canh cô mồ quả. Hỏi vào ngày 2 tháng 5 năm Tân Mão tức ngày Kỷ Sửu tháng Giáp Ngọ Câu hỏi 1: em có nên xin thêm một đứa con gái vào năm tới ko? vì hiện tại thấy con của em hơi cô độc. - Nên sinh đứa 2012 Nhâm Thìn hay Quý Tị. Câu hỏi 2: trường hợp chia chưng chòng thì có nên để him bắt con không? (vì him tin con em sẽ là người nuôi dưỡng him lúc tuổi về già chứ ko phải đứa con ruột 12 tuổi của him hiện đang sống với mẹ ở nước ngoài? vả lại nếu sống với gia đình him thì con em sẽ được lo đầy đủ về vật chất hơn là phải luôn bôn ba đây đó với em). - theo quẻ thì nên theo cha sẽ tốt hơn. Câu hỏi 3: em chưa nghĩ ra - Tức là tìm cách giữ con ở lại bên mình. Nặng gánh à! Quẻ độn đầu tiên là Tử Lưu niên (ặc ặc...): có thể suy là âm mưu tìm con không thành ko ạ? @ Vi Tiểu Bảo Em sinh năm: 26/06/1985 lúc 22h đêm dương lịch Hỏi vào lúc 23h10 phút ngày 03/06/2011 dương lịch, đỗ lưu niên Câu hỏi 1: là gia đình em từ tết đến giờ bao nhiêu chuyện sảy ra, cứ rối tung hết lên, đầu tiên là bà nội ốm nằm liệt giường, giờ thì đi lại được chút rồi, sau khi bà vừa đỡ thì đến lượt bố em lại phải đi mổ u tiền liệt tuyến, sau khi bố em ra viện thì thằng em nhà chú lại đi xe tông chết 2 người, đang giải quyết thì mấy ngày sau thằng em nhà chú khác lại bị tai bạn xe, cũng mới khỏi, thì bố em đỡ hơn thì lại phát thêm 1 khối u bên hông và mới đi mổ được 2 hôm chắc mấy ngày nữa là xuất viện vì đó là u bã đậu, gia đình ông anh trai cả thì rối tinh lên vì vợ chồng con cái, anh cho em hỏi là tới đây gia đình em có thêm nhiều sóng gió nữa không ạ, và đến bao giờ thì mọi việc bắt đầu dịu lại và ổn định hơn - Dịu thì vẫn dịu nhưng cơ bản vẫn chưa hòa hảo được. Cái này nên coi lại phong thủy nhà. Câu hỏi 2: Trong việc làm ăn của em cũng đang có bước tiến triển, nhưng càng tiến triển thì càng đặt em vào sự lựa chọn giữa 2 con đường, đều là kinh doanh, anh cho em hỏi từ nay đến cuối năm cũng như sang năm, công việc của em có thuận lợi nhiều không, hoặc có gặp nhiều khó khăn không ạ, em xin cám ơn anh rất nhiều - Có mệt mỏi, có khó khăn, nhưng vẫn có nhiều cơ hội cho kinh doanh. Tháng 2 sang năm ổn, tháng 7 âm năm này đỡ đỡ một tí. Thiên Đồng
  9. @chú gà trống Em cảm ơn anh Thiên Đồng, nhờ anh xem cho em. Đặt câu hỏi như sau: Tuổi gì: 23h30 phút ngày 24 tháng 10 năm 1987 (dương lịch) Hỏi vào ngày 27 tháng 5 năm 2011 lúc 18h14 phút dương lịch. Khai Xich khẩu, Hưu tiểu cát. Câu hỏi 01: Nay em có đầu tư làm ăn, Nó có mang lại lợi nhuận cho em không ạ ? Hòa vốn là may mắn nhất. Câu hỏi 02: Em có hợp với việc đầu tư vào kinh doanh không ạ? năm nay thì chưa được. Câu hỏi 03: Em làm nghề gì thì tốt? Chủ nhà hàng, thầy giáo, kỹ thuật công nghệ tin học... Chúc bác có nhiều khác. @nhkndc Cháu chào Chú Thiên Đồng. - Tuổi: Mậu Thìn (20/10/1988 dương lịch) - Hỏi vào 28-5-2011(dương lịch) lúc 12:19PM, tử lưu niên Câu 1: Cháu sắp phải đối đầu với kỳ thi tốt nghiệp vào tháng 6, vậy chú Thiên đồng xem giúp cháu có thể vượt qua và đạt kết quả tốt không ạ? - Thị đợt 2 hoặc thi lại. Câu 2: Nếu tốt nghiệp xong, khoảng bao lâu cháu có được việc làm ạ? Việc có tốt không ạ? - tốt nghiệp xong 2 tháng sau có việc. Công việc dể va chạm, không tốt lắm. Câu 3: Cháu đang có yêu một người sinh năm đinh mão, cháu và người này hay cãi nhau lắm. cháu xin hỏi chú cháu và người này có thể tiến xa hơn nữa không ạ? -Nên cũng cố, vun vén từ nay. Cháu cảm ơn chú Thiên đồng. @ Duy Đạt Cháu chào chú ạ, Tuổi: Nhâm Thân Hỏi vào ngày 28/05/2011 (dương lịch) lúc 13h25PMkinh tốc hỷ Câu 1: Cháu sắp thi đại học vào tháng 7 tới, cháu muốn hỏi chú xem cháu thi cử có tốt đẹp không. - khá vất vả, nhưng cũng qua một cách tốt đẹp. Câu 2: Nếu cháu đỗ thì cháu có cảm thấy thích thú với việc học ở trường mới không. - Rất hợp. Câu 3: Bác xem giúp cháu xem gia đình cháu có hạn gì trong tháng 6,7 tới không. - Không có. Cháu xin hết và cảm ơn chú ạ.:) @ chuottaki Anh Thiên Đồng ! em cũng có 1 vấn đề nhờ anh tư vấn giúp: Tuổi gì: Giáp Tý Hỏi vào ngày 29 tháng 5 năm 2011 lúc 18h49 phút dương lịch. Câu hỏi 01: Mai em dự tính mua máy tính liệu có mua được máy như ý không. từ ngày hỏi là 1 tính tới đến 3, sau 3 ngày mới mua được như ý. Cám ơn anh @Blue Cloud Nhờ Thiên Đông Luận quẻ dùm cho Blue Cloud Tuổi .Đinh mùi ngày 29 tháng 5 năm 2011 .vào lúc 20h 10 phút, thuong đại an 1 -Nhờ Thiên Đông xem dùm cho BC có xin được việc trong thời gian tói không.? tháng 10 âm hoặc tháng 2 âm năm sau có việc. Có thể là tháng 10 âm. 2-Công việc hiện tại có tiến triển được không? - Ì ạch rồi cũng xong. 3-dự định đi xa có tốt không? Nên đi xa sẽ tiến triển hơn nhiều .chúc Thiên đồng được vạn sự như ý ,vui vẻ và hạnh phúc . @lidasg Nhờ THIÊN ĐỒNG tư vấn giúp. Tôi đang tiến hành xin việc cho chú em sinh năm nhâm tý. 1/ Tôi xin có thành công không ? - Nhất là lần thứ 2 mới thành công. 2/ Chú ấy và g/đ có chịu đi không (nếu xin được) sẽ do dự một lúc rồi cũng chịu đi. 3/ Công việc của chú ấy sắp tới như thế nào , có thuận lợi hay khó khăn gì không ? Nhiều đố kị, lắm cạnh tranh, lại có kẻ tọc mạch nên giữ ý tứ lời lẽ. Cảm ơn THIÊN ĐỒNG nhiều nhiều @datvietnam Gửi anh Thiên Đồng. Em có một số câu hỏi cho năm sau. Tuổi: Ất Sửu. Hỏi vào ngày 30 tháng 5 năm 2011 vào lúc 18h 5 phút dương lịch. sinh vo vong Câu hỏi 1: Em dự định năm sau đi thi để nâng cao kiến thức, nếu em đi thi có thành công không? Chưa thành công Câu hỏi 2: Năm sau em có gặp được "nửa còn lại" không? Cũng chưa luôn. hic @pepsi - Tuổi: Giáp Tý - 1984 - Hỏi vào: 30-05-2011 - lúc 20h04 phút, thương đại an - Câu hỏi 1: Pepsi đang yêu đơn phương 1 người( có thể là tay 3 luôn, vì có cô khác nhảy dzô giành iu dzí pepsi nữa ), không biết người này có tình cảm gì với Pepsi hok hay là đã yêu cô kia rồi (để Pepsi còn biết đường mà rút lui )? Chuyện tình này sẽ tan rả, vì người kia hong có tình cảm, chỉ quen cho đỡ buồn thôi - Câu hỏi 2: Năm nay Pepsi có thể có người yêu không? Có thể có, khoản tháng 8 âm. - Câu hỏi 3: Năm nay tình hình công việc của pepsi thế nào? Có vẻ sáng sủa hơn một tí, nhưng còn nhiều điều lo. Chưa đâu ra đâu, những cũng không đáng nguy. @silvia chào anh Thiên Đồng,mong anh xem giúp em!!! _Em là nữ năm Canh Thân Hỏi vào ngày 2-6-2011 vào lúc 3h21 hưu tốc hỷ _Muốn hỏi năm nay 2 vợ chồng có đoàn tụ được không,vào khoảng tháng nào,( hiện đang xa nhau) Chưa được, khoản tháng 10 âm thì đoàn tụ. _Công việc hiện tại có tốt không,liệu có gì thay đổi không? Công việc hiện tại có thuận lợi, mặc dù hơi cực hay phiền. sẽ có sự thay đổi, tháng 9 âm. Cảm ơn anh rất nhiều :) Thiên Đồng
  10. Chuyện cô Lượm ra sao vậy Séo chỉa ơi? Ở diễn đàn mình cũng gặp những vụ tréo nghoe, dở hơi như vậy đó. Không tin hỏi thử cô Wild.
  11. Thoải mái à. Trà hay cà phê thì cũng dậy à! Cái nào cũng đắng! Hehe
  12. chùi! nhào zô đi rùi biết. Cô nàng này kinh lém. Dám ..."nựng" cả Chiên gia tư vấn Thiên Đồng! "Nựng" sao thì hỏi em í! Cà fơ đi i i...
  13. @biken Chú Thiên Đồng giúp cháu nữa nha.. Chồng : Nguyễn Trọng Tuyên.ngày sinh 16-09-1982(dương lịch).giờ sinh 11h-12h đó ah.. Câu hỏi 1 : Công việc làm ăn của chồng cháu phù hợp với nghề gì?sắp tới có gì mới trong công việc ko ah Hợp nghề cảnh sát, chủ nhà hàng, xây dựng...không có gì đột biến. hơi mệt mỏi tí nhưng gần đến cuối năm sẽ ổn. Câu hỏi 2: từ đây cho đến năm 40 tuổi chồng cháu có gì thay đổi lớn ko? Đến năm 42 tuổi có thay đổi lớn bất ngờ có thể là tiếng tâm Xin cám ơn chú Thiên Đồng ah..Nếu được chú rảnh rỗi chú lấy giờ sinh giúp cháu được ko ah?Vì mấy năm gần đây công việc,gia đạo cháu bấp bênh qua.. Ví không có cảnh đông tàn Thì đâu có cảnh huy hoàng ngày xuân Nếu chẳng một phen xương thắm lạnh Hoa mai đâu dể tỏa mùi hương (quên tác giả) Chúc bình an và hạnh phúc Thiên Đồng
  14. Còn nợ đời sau chưa trả dứt Sao nỡ chạy về với viễn vong?
  15. biken mến, Con người sống trong tình cảm yêu thương như cây cần nước để vun bồi lớn dậy. Điều ấy cần thiết và huyền diệu biết bao cho cuộc sống. Tình thân như dòng suối tưới mát và dưỡng dục cây lớn mạnh. Quý lắm chứ! Yêu lắm chứ! Nhưng không vì thế mà khi dòng suối mát khô kiệt thì cây bị chết đi. Ánh sáng bao la soi sáng toàn mặt đất này để bao mầm xanh len từng khe đá, vươn từng hốc sâu, băng từng khe cạn để vươn tới mặt trời khát vọng, thọc từng rể sâu đến tận mạch ngầm tiềm lực mà vươn to lớn mạnh. Cái duy nhất mất đi không có nghĩa là tất tất cả. Nếu một cây vì dòng nước khô kiệt theo dể dàng thì nó chẳng tặng được cho đời những bài học quý giá về sự sống. Cây có thể cằn cõi, lá có thể gai góc, nhưng nó cho cuộc sống biết được cái quý báu và mạnh mẽ nhất mà nó có được, đó là TRÍ TUỆ. Trí tuệ giúp muôn loài thoát khỏi trầm luân cảm xúc, tình cảm nặng đè như một sự ám ảnh, như khổ chướng nặng mang. Tình cảm không phải nghiệp nặng mà bi lụy đến nỗi chôn vùi chìm đắm vào ngõ cụt của sự tâm tối tuyệt vọng. Đó là vô minh. Đó là bỏ quên trí tuệ, như ngọn cây từ bỏ ánh mặt trời. Hãy quay về với trí tuệ thì ánh sáng Hạnh Phúc mới hiện ra, người Mẹ đích thực mới có được và tình yêu thương lại tràn đầy vô bờ bến. Hãy nhìn thẳng vào chính mình sẽ thấy người Mẹ của chính mình. Hãy là cái cây biết thọc rể sâu thủng các tầng vô minh bên trong. Hãy là cái cây biết vươn tới ánh sáng mặt trời trí tuệ của hạnh phúc. Có Trí Tuệ thì có Hạnh Phúc Đông Thiền
  16. @phamhung Tuổi gì: Giáp Dần Hỏi vào ngày 27 tháng 5 năm 2011 lúc 14h18 phút dương lịch. kinh tốc hỷ Câu hỏi 01: Năm nay phamhung có chuyển công tác về đơn vị ứng ý được không? Việc này trước tiên phải chịu khó lằng nhằng ở lại, nhanh thì trong tháng 5 âm, châm thì tháng 11, khả năng là tháng 11. Câu hỏi 02: Thi cao học có Đỗ không? Đậu không cao. Câu hỏi 03: Có được bổ nhiệm làm phó phòng ở dơn vị đang công tác không? Chưa, nhanh thì cũng mùa xuân năm sau, tháng 2 âm. @ tâm Tuổi gì: mậu thìn.( nam) Hỏi vào ngày 27thang05nam2011giờ 14h45 phút (dương lịch). khai xích khẩu Câu hỏi 01: năm sau cháu có dấu hiệu tốt nghiệp không ạ ? Có dấu hiệu, nhưng tháng 10 âm năm sau mới tốt nghiệp Câu hỏi 02: bao giờ cháu kết hôn ạ ? có kết hôn với người yêu hiện tại không ạ ? đã đánh tiếng hỏi, nhưng lùi lại một năm nữa sẽ cưới. Câu hỏi 03: tài chính của cháu trong nay này có được tốt không chú ? Hao tiền tốn của chả được lợi gì. cảm ơn chú thiên đồng nhiều ạ !!! @ nắng xuân Tuổi gì: ?: Em tuổi Ất Sửu Hỏi vào ngày 27 tháng 05 năm 2011 giờ (bao nhiêu phút) dương lịch.; 15 giờ 12 phút, hưu tiểu cát. Câu hỏi 01: Em có qua kì thi cao học vào tháng 9 tới không ạ? Chưa qua, chờ đợt sau. Câu hỏi 02: Chuyện tình cảm của em năm nay thế nào ạ? Có tiến tới hôn nhân không? Chưa có gì mới mẻ. Nên cũng cố và vun bồi tình cảm nhiều thêm. Câu hỏi 03: Gia đình em sau này có hạnh phúc không ạ? Nhiều chuyện buồn. Gia đình bất an. Có thể lại chuyển đổi chổ ở hay tính chuyện xây sửa gì chăng? @ kim loan Anh Thiendong cho Loan hỏi vài câu nhé. Loan tuổi Nhâm dần, hỏi ngày 27 tháng 5 năm 2011, lúc 15h20, sinh vô vong Câu 1: Chuyện vợ chồng Loan lục đục từ cuối năm trước cho đến những tháng đầu năm nay vẫn thế, anh cho hỏi khi nao gia đình mới hết sóng gió? Cái này hơi lâu. Nhanh 8 tháng nữa, chậm thì đế giữa năm sau. Nhưng gần đây có xây sửa mộ chí gì không? Câu 2: Khi nào ông xã nhà Loan có việc làm trở lại (vì nhà cũng không có việc làm từ đầu năm đến giờ)? tháng 7, 8 âm năm nay không có thì tháng 3 năm sau. híc Câu 3: Năm nay nhà Loan có tài lộc to gì không? Có lộc thì lo, không lộc nên mừng. @dongphuong215 Chú Thiên Đồng ơi, chú xem giúp cháu với nhé! Tuổi gì: Đinh Mão Hỏi vào ngày 27 tháng 5 năm 2011 giờ 16h 1 phút dương lịch.kinh tốc hỷ - Câu hỏi 01: Cháu đã làm qua 2 công ty, được sếp tin cậy, nhưng cả 2 công ty sau một thời gian cháu vào làm đều phát sinh nhiều rắc rối nội bộ, nên cháu đã xin nghĩ. Cháu rất mong kiếm được việc làm tốt để ổn định cuộc sống riêng và giúp đỡ gia đình. Chú có thể xem giúp cháu khi nào cháu có công việc mới, và cháu có thể ổn định và phát triển được không? tháng 8 âm năm nay chuyển việc bất ngờ, tốt, thuận lợi tiến tới. - Câu hỏi 02: Hậu vận của cháu như thế nào? Nhiều cơ hội, lắm dèm pha. - Câu hỏi 03: Khi nào thì cháu sẽ kết hôn, vợ chồng cháu sau này sẽ như thế nào? Nhanh thì tháng 11 năm nay, châm thì đến xuân năm sau. Cháu xin cảm ơn chú Thiên Đồng! Kính chúc chú nhiều sức khỏe! @ Phúc Trước hết cháu xin cảm ơn sâu sắc tới bác Thiên Đồng, chúc bác vạn điều tốt lành ạ ! Cháu tuổi quý dậu ( 1993 ) Những câu hỏi được hỏi vào lúc 17h 15 ngày 27/5/2011 1. Cháu chuẩn bị thi ĐH tuy rằng cháu đăng ký thi kinh tế nhưng sau cháu sẽ học nghanh' gì ạ? Tài chính hoặc ngoại thương. 2. Tuổi trẻ của cháu tức là từ 22 - 30 có gì sáng láng không ạ? Không. Nổi bật chỉ có tình cảm nhì nhằng 3. Tình duyên của cháu thế nào ạ? Chẳng ra làm sao, lận đận 2, 3 mối. Chúc may mắn Thiên Đồng
  17. Lâu lâu Séo Chỉa chỉa một bài, thấy tê tê. Thì ra Séo Chỉa cũng nằm trong làng văn chương nghệ thuật. Hèn chi tài Sỉa Chéo của Séo Chỉa ngay từ đầu làm Thiên Đồng séo mắt. Ôi thôi, ngòi bút cong hay méo, xiêng hay xéo thì chỉ có ngồi vổ mông hút thuốc uống trà xem chuyện đi qua xong xuôi thành bại ra sao, chứ có làm được chi. Mạnh vì gạo, bạo vì tiền. Bà Vệ cứ kiện, thất bại cũng được. Miễn sao đánh động được nhận thức công chúng là thành công. Không chừng qua vụ này, Bà Vệ còn nổi danh hơn. Đông Thiền
  18. Nếu như tôi, tôi sẽ ủng hộ Người đàn bà bán cá ấy kiện, kiện tới cùng! Nếu đích thực tác phẩm là của người đàn bà này. Chẳng phải kiện để vì danh tiếng hay lợi lộc mà vì phải đánh tan đi thói giả dối, gian lận và tham lam trong những con người mang danh là làm nghệ thuật văn chương ấy. Nhan nhãn vẫn là thói chôm của người.
  19. @ Hoanggiaphong, - Cháu tuổi : Kỷ Tỵ - Hỏi vào ngày 27 tháng 5 năm 2011 ( duơng lịch ) vào 12 giờ 50 phút. - Câu 1 : Cháu xin hỏi năm nay gia đạo nhà cháu có chuyện gì không ạ? 'nếu biết được cả trong họ' ( vui và buồn có gì nổi bật không ạ ) Không chuyện gì nghiêm trọng. Chỉ có chuyện lo lắng vì buồn phiền bị mất cắp hay lừa đảo. - Câu 2 : Tới đây cháu có được đi làm ngay không ạ, và năm nay cháu thi liên thông đại học có đỗ không ạ, cháu sau này có chút công danh sự nghiệp gì với đời không ạ ? Đi làm ngay. Đỗ liên thông đại học. Một sự nghiệp vừa đủ tự hào. Cháu xin cám ơn bác ! @ Mihanhna Phải cố găng nhiều. Đừng gay áp lực cho bé. Câu hỏi 2: Sắp tới chồng tôi có thay đổi vị trí công việc không? Sẽ thay đổi, sau 4 hay 6 tháng nữa. Câu hỏi 3: Tài chính của tôi có khả quan gì không? Không khả quan. Đủ sài thiếu chi, không khéo thì chi nhiều mà không có sài. Chúc anh sức khỏe và quán đắt hàng. Thiên Đồng Mihanhna
  20. @ kitty- Tuổi Đinh Mão - Hỏi vào 27-5-2011(dương lịch) lúc 12:11PM, Cảnh Đại An Câu 1: Kitty sắp phải đối đầu với kỳ phản biện tốt nghiệp ùi, vậy chú Thiên đồng xem giúp cháu có thể vượt qua và đạt kết quả tốt không ạ? Vượt qua một cách xuất sắc, kết quả xếp loại khoản 7-10 phẩy. Câu 2: Nếu tốt nghiệp xong, khoảng bao lâu cháu có được việc làm ạ? Việc có tốt không ạ? Nhanh thì 9 tháng, chậm thì 1 năm sau mới được. Công việc đầu tiên không mấy thích thú, khó khăn. Câu 3: Cháu đang có hẹn gặp gỡ "1 người", vậy cháu và người đó có gặp nhau không và có thể phát triển xa hơn ranh giới bạn được không ạ? Sẽ gặp, sẽ có một tình cảm lãng mạn, său sắc. Yêu là cái chắc! Cháu cảm ơn chú Thiên đồng và chúc quán của chú luôn luôn đông khách. Khuyếm thêm một quẻ cho người khách đầu tiên: Chuyện tình cảm sẽ đi xa hơn nhiều, yên chí mà giăng bẫy. hehe Thiên Đồng
  21. Blue cloud đi mấy người? Có thê cho biết số điện thoại không?
  22. Quá đã! Đọc thấy tự hào từ Việt.
  23. Ông Trời Cải Cách Một ngày nọ, khi cả thiên hà bỗng mờ dần ánh sáng trong phút chốc, Trời bổng giật mình dạo mắt liếc nhìn xuống trần gian, như chợt nhận ra điều gì, Ngài liền gọi Thiên Lôi đến: - Chư khanh hãy gửi tin email, luôn cả Chát, Chat FaceBook...tất cả các cách cho tất cả các Bà Mụ trên đất Việt Nam, nhắn cho biết tin Ta triệu tập khẩn cấp các cấp Mụ Bà trong 5 giây nữa. Tin tức được truyền đi tức tốc theo đường truyền thiên hà. Phút chốc sau, toàn thể các Bà Mụ đều hiện thân có mặt trước Trời. - Xin nhận lãnh chỉ thị của Trời. -các Bà Mụ đồng thanh mở lời- Trời từ tốn bảo: - Này các Bà Mụ, từ đây về sau những đứa trẻ trên đất Việt Nam, khi vừa chào đời sẽ phải khóc ra tiếng E, E, E; khi bập bẹ nói sẽ phải bập bẹ E, E, E và khi bị đau, sẽ phải kêu lên E, E, E thay cho âm thanh A, A, A từ khởi thủy đến giờ. Các Bà Mụ nhớ dạy cho trẻ như thế. Các Bà Mụ đều một lượt phùng má, trợn ngược mắt, sút té xỉu khi nghe lệnh truyền như vậy. Các Bà Mụ đều đồng thanh: - Trời ơi! Sao có thay đồi mới lạ kỳ vậy, Trời ời...ời.....!!! Trời hơi buồn bảo: - Thì ta có biết đâu! Ta nhìn thiên thượng, thấy có thay đổi lạ, bèn nhìn xuống trần gian, chợt nhận ra trên đất Việt Nam, tất cả trẻ con bị học theo chương trình cải cách mới, học chữ cái đầu tiên là chữ E. Cái này có sự tư vấn của nước ngoài nghen! Các Bà Mụ lúc bấy giờ mới tường minh, yểu xìu, rút lui biến mất. Thiên Đồng ngẫu bút
  24. Bảng Thống Kê Diễn Biến Động Đất Thế Giới 15-5-2011, Tứ Xuyên. 16-5-2011, Papua New Guinee 20-5-2011, Thổ Nhĩ Kỳ. 22-5-2011, 01g00, Nhật Bản 22-5-2011, 3g31 Vân Nam 22-5-2011, 9g34 Đài Loan 22-5-2011, New Zealand 22-5-2011, 23g40, Phillipine. 24-5-2011, Lào Cai, Việt Nam Dự Đoán Của Sư Phụ Thiên Sứ
  25. Sư Phụ Thiên Sứ đã viết và phân tích âm dương ngũ hành, Bát Quái, Hà Đồ...trong cuốn Tính Minh Triết Trong Tranh Dân Gian Việt Nam, đã xuất bản năm 2003. Có thể bài viết này cảm hứng từ tác phẩm của Sư Phụ Thiên Sứ, bởi bài này xuất hiện năm 2011. Vài dòng lạm bàn Thiên Đồng