Thiên Đồng

Hội viên
  • Số nội dung

    6.278
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    75

Everything posted by Thiên Đồng

  1. Tai nạn tăng nặng... ================== Tàu chìm trên sông Moscow, lại mất tích và tử nạn 31/07/2011 10:57:22 Một chiếc tàu tư nhân chở ít nhất 15 người đã bị chìm trên sông Moscow của Nga lúc nửa đêm 30/7 sau khi va chạm với một sà lan vận chuyển hàng. Hãng tin RIA dẫn nguồn từ cảnh sát địa phương cho biết, ít nhất 2 người thiệt mạng và 6 người đang mất tích. Sáu người khác đã được cứu thoát sau khi cố gắng bơi đến bến. Nguồn tin từ Bộ Tình trạng khẩn cấp Nga cho hay, trong số các hành khách được cứu sống, có hai công dân Thổ Nhĩ Kỳ. Hiện một đội thuyền cứu hộ đã được triển khai đi dọc bờ sông để tìm tung tích những người đang bị mất tích. Trong khi đó, một cần cẩu nổi sẽ được đưa đến khu vực con thuyền bị chìm đang bị kẹt dưới sà lan chở hàng. (Theo Dân Việt/ RIA)
  2. Bảng Thống Kê Theo Dõi Động Đất Thế Giới 28/7/2011, Alaska, 8 cuộc động đất trong 8 giờ, 5.3 richther. 31/7/2011, Nhật Bản, 6.4 ricther. Thiên Đồng
  3. Động đất 6,4 độ Richter tại Nhật Bản TTO - Một trận động đất 6,4 độ Richter tại khu vực phía Đông ngoài khơi đảo Honshu, Nhật Bản vào sáng sớm hôm nay 31-7, Cơ quan khảo sát Địa lý Nhật Bản cho biết. Vị trí nơi động đất - Ảnh: CNN Tâm chấn ở độ sâu khoảng 43,5 km, cách Tokyo khoảng 184 km về phía Đông Bắc. Hiện chưa có báo cáo về thương vong và thiệt hại. Cơ quan an toàn Hạt nhân Nhật Bản cho biết không có báo cáo gì nghiêm trọng về ảnh hưởng của trận động đất này đối với nhà máy điện hạt nhân Fukushima Daiichi - một nhà máy liên tục gặp sự cố nghiêm trọng do ảnh hưởng của trận động đất kinh hoàng ngày 11-3. Nước Nhật liên tục bị tấn công bởi hàng trăm dư chấn ngoài khơi đảo Honshu kể từ sau trận động đất hồi tháng 3. T.MAI (Theo CNN)
  4. Như vậy tiên quá rồi, bạn cứ đến. Thiên Đồng
  5. Thiên tai tăng nặng... ---------------------------------------------------- Hạn hán nặng ở Trung Quốc VnExpress: Một đợt hạn hán kéo dài tại một số tỉnh ở Trung Quốc, trong đó có Quý Châu, khiến việc sinh hoạt và sản xuất của người dân khó khăn. Hạn hán nghiêm trọng đang bao trùm 9 huyện và thành phố của tỉnh Quý Châu do thời tiết nóng và khô kéo dài. Nguồn nước sinh hoạt và sản xuất thiếu thốn khiến cuộc sống của 880.000 người dân trong tỉnh bị ảnh hưởng. Hạn hán kéo dài khiến các đồng ruộng nứt nẻ nghiêm trọng, thiệt hại lớn cho mùa màng của người dân tỉnh Quý Châu. Trong khi đó, các giếng nước phục vụ tưới tiêu ở các cánh đồng của hầu như đều trong tình trạng trơ đáy. Nguồn nước thiếu thốn khiến việc sản xuất nông nghiệp gặp khó khăn. Một cụ bà đang cố gắng đào đất làm giếng nhằm tìm kiếm nguồn nước tưới tiêu cho đồng ruộng. Một quả dưa hấu bị vỡ ra và trơ ruột khô do ảnh hưởng của hạn hán. Chính quyền địa phương đang nỗ lực tiến hành một số biện pháp nhằm đối phó với hạn hán và trợ giúp sản xuất nông nghiệp cho người dân. Tạm thời, lính cứu hỏa đang được triển khai vận chuyển nước đến cho người dân. Anh Ngọc
  6. Đà Lạt: Xây "Vạn Lý Trường Thành" trong khu du lịch? Tác giả: Trần Trung Sơn Bài đã được xuất bản.: 7 giờ trước Liệu có phải đây là "hội chứng" do xem qúa nhiều phim ảnh Trung Quốc, nên người ta "a dua" một cách mù quáng không... Nhưng những nhà quản lý chính quyền, quản lý văn hóa du lịch ở Đà Lạt, chả lẽ cũng lại ngây thơ đến nỗi cũng "nhiễm bệnh" như thế? "Vạn Lý Trường Thành Đà Lạt"? Một người bạn của tôi khi đến Khu du lịch Đồi Mộng Mơ (Thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng) đã vội vàng gọi điện thông báo cho tôi một tin thật sửng sốt: Trong khu du lịch Đồi Mộng Mơ người ta xây hẳn một đoạn Vạn Lý Trường Thành dài mấy trăm mét làm "điểm nhấn"(?). Có cả một đội quân tượng về lính của Tần Thủy Hoàng ở đó nữa. Nghe xong, tôi thấy bàng hoàng, bán tín bán nghi và quyết trực tiếp đến "hiện trường" để xác minh sự thật. Đến khu du lịch Đồi Mộng Mơ nổi tiếng của Đà Lạt, tôi thật sự bất ngờ với khung cảnh và những gì người ta xây dựng nơi đây. Điều đầu tiền đập vào mắt khiến tôi bắt đầu tin lời anh bạn thông báo: Tấm bảng ngay cổng vào liệt kê các hạng mục tham quan trong khu du lịch, trong đó dòng thứ ba từ trên xuống ghi rõ ràng: Vạn Lý Trường Thành. Đi sâu vào phía sau khu du lịch, tham quan qua một vài hạng mục đại loại như cây Vĩnh hằng, nhà cổ, bàn xoay, vườn thú lạ... thì đến một lối đi được xây dựng chắc chắn bằng bậc tam cấp, hai bên được xây thành cao theo đúng "bản sao" Vạn Lý Trường Thành. Tường thành này là công trình xây dựng đồ sộ nhất. Nhìn sơ cũng có thể thấy ý đồ của những nhà quản lý khu du lịch là muốn xây dựng "tường thành" này làm "điểm nhấn" cho toàn bộ khu du lịch. "Vạn Lý Trường Thành Đà Lạt" được xây dựng khá dài, khoảng 300m, uốn lượn, vắt vẻo từ ngọn đồi bên này, sang đến ngọn đồi bên kia của toàn khu. Ở hai đầu "trường thành" cũng được xây dựng cổng thành hẳn hoi, có hình vuông, mỗi bề khoảng 3m, cao hơn tường thành. Bên trên cổng thành còn có hai tượng lính kiểu cổ xưa của Trung Quốc đứng canh thành với giáo mác trong tay. Đi từ phía thành bên trái khu du lịch xuống dưới hẻm núi, nơi có lối dẫn tới làng văn hóa dân tộc, nơi trưng bày các lọai công cụ, đồ gốm, rượu cần, nhạc cụ của người dân tộc ở vùng cao nguyên xung quanh đỉnh Langbiang, thì tấm bảng ghi "làng văn hóa dân tộc" lại được gắn trên cổng của "Vạn Lý Trường Thành". Bất ngờ hơn, bởi nơi một cái cổng cạnh đó nữa, người ta khắc dòng chữ nổi tiếng khắp thế giới: "Bất đáo Trường Thành phi hảo hán". Đây đích thị là ý muốn "dựng" Vạn Lý Trường Thành giữa cao nguyên Đà Lạt chứ không phải là nhầm lẫn nữa. Cách cái cổng có dòng chữ "Bất đáo..." ấy vài bước chân, giữa một đám cỏ bên cạnh Trường Thành là một nhóm quân tượng được dựng nên, với hình hài, áo mão, vũ khí trong tay. Đặc biệt là "cái thần" trên khuôn mặt của những quân tượng này như đang trong tư thế sẵn sàng chiến đấu để "giữ" thành vậy. Dẫn đầu đội quân ấy có hẳn một tay tướng chỉ huy đàng hoàng. Tất cả có bề ngoài như đội quân của Tần Thủy Hoàng từng được dựng trong phim ảnh Trung Quốc. Điều đáng nói là tất cả "Trường Thành, "toán lính" này nằm sát bên 1 nhà trưng bày và 1 sân khẩu biểu diễn cồng chiêng. Nơi mà khu du lịch vẫn thường tổ chức cho du khách khi có yêu cầu. Khi bếp lửa bập bùng với tiềng cồng chiêng của núi rừng vang lên ở đây, thì những "tượng lính" nằm bên cạnh có thể "canh giữ" cho cuộc vui ấy? Thật là lạ. 1 công trình văn hóa nằm trong 1 khu du lịch nổi tiếng, được xây dựng đã nhiều năm, được các cơ quan chức năng tỉnh Lâm Đồng phê duyệt hẳn hoi, lại "ngoại lai" đến mức... đáng kinh ngạc như thế? Hội chứng bắt chước hay tâm lý "vong bản"? Ai cũng biết, 1 công trình văn hóa du lịch cho cộng đồng, điều trên hết nó phải mang tính giáo dục- giáo dục thẩm mỹ, giáo dục về cội nguồn lịch sử, văn hóa dân tộc... cho bất cứ ai đến thăm, vui chơi, nhất là với thế hệ con cháu chúng ta. Cái điều quá đỗi đơn giản ấy lại được những người "giàu trí tuệ" dựng lên đây một công trình "Trường Thành" hoàn toàn của Trung Quốc. Thử hỏi những ai là "tác giả" của công trình ngoại lai này, và muốn giáo dục điều gì cho mọi người? Liệu có phải đây là "hội chứng" do xem qua nhiều phim ảnh Trung Quốc, nên người ta "a dua" một cách mù quáng không? Hội chứng a dua kiểu ấy chỉ có thể chấp nhận được nếu đó là trẻ con. Hay như các chị em phụ nữ ta thường "hâm mộ" các tài tử điển trai trêm phim ảnh xứ Hàn. Nhưng những nhà quản lý chính quyền, quản lý văn hóa du lịch ở Đà Lạt, chả lẽ cũng lại ngây thơ đến nỗi cũng "nhiễm bệnh" như thế? Thật đau lòng và xấu hổ. Đứng xem đoạn "Vạn Lý Trường Thành Đà Lạt" 1 lúc, tôi đã chứng kiến hàng trăm người, từ già trẻ, lớn bé thi nhau đứng ở mọi góc độ của "trường thành" này để chụp hình lưu niệm. Có người còn cho trẻ con khoác lên mình những bộ đồng phục, mũ mão của "Hoàng Châu Cách Cách" ngay tại quầy phục vụ của khu du lịch bên cạnh, để đứng lên "cổng thành" chụp hình lưu niệm nữa. Thật tội nghiệp cho khách du lịch. Họ chỉ biết những đọan tường thành, cổng thành, quân tượng, những bộ đồng phục đỏ đỏ, vàng vàng ấy "đẹp" thì chụp thôi. Họ đâu có tội gì? Tội là của những người đã "dựng" lên cái công trình "ngoại lai" này, trong khi thành, lũy của bao nhiều triều đại kiêu hùng của ông cha ta thì họ không xây nổi một mét. Hay đó chính là 1 công trình văn hóa du lịch, một sáng kiến mang tâm lý "vong bản" đáng xấu hổ? http://tuanvietnam.v...ong-khu-du-lich- --------------------------------------------------------------------------------------- Tại sao lại như thế được nhỉ? Đây là một sự vong bản hẳn hồi. Xin trả lời là sự a dua này cực độ đến nỗi phụ nhận những giá trị văn hóa cha ông, văn hóa Việt hào hùng. Đau đớn thay cho sự "trùng tu" mà thật ra là đập phá vô tội vạ những di tích cỗ làm tiêu biến đi những giá trị lịch sử văn hóa nước nhà. Và sau đó là mù quá với những cái hào nhoáng ngoại ban. Cần lắm một sự tổ chức và quản lý văn hóa thật chặt chẽ, thông tin và giáo dục sâu rộng hơn về lịch sử văn hóa dân tộc Việt. Thiên Đồng
  7. Tai nạn tăng nặng.... ------------------------------------------ Cháy xưởng giày da, 13 người chết, 25 người bị thương TTO - Khởi tố vụ án, bắt giam 5 người liên quan * Nguyên nhân cháy là do xỉ hàn rơi xuống tấm xốp của xưởng may * Hải Phòng rà soát khẩn cấp toàn bộ các xưởng "chui" trong dân. Vụ cháy kinh hoàng đã xảy ra chiều nay 29-7 tại một xưởng gia công giày da ở thôn Đại Hoàng, xã Tân Dân, huyện An Lão, Hải Phòng. Vụ cháy xảy ra lúc 16g. Chủ sở hữu của ngôi nhà có xưởng may này là ông Bùi Đức Lạng và bà Bùi Thị Sự. Xưởng chỉ mới đi vào hoạt động 27 ngày. Theo người dân địa phương, xưởng may được một người Trung Quốc tên là A Phong (40 tuổi) và vợ là Bùi Thị Hiên thuê. Thời điểm xảy ra hỏa hoạn, trong xưởng may có 44 công nhân đang làm việc. Khoảng 16g, công nhân phát hiện một đám khói lớn đùn ra từ cửa ra vào của xưởng may. Do xưởng may là một ngôi nhà hình ống và chỉ duy nhất một cửa ra vào nên khi lửa bùng lên thì toàn bộ 44 công nhân đang có mặt đều sợ hãi lui về phía cuối nhà và kêu cứu. Người dân có mặt có mặt tại hiện trường đã tập trung dập lửa bằng mọi cách nhưng không thể cứu số công nhân thoát ra bởi sau lưng họ là bức tường sau cùng. Đám cháy ngày càng bùng phát sâu vào phía cuối xưởng may. Chỉ có 6 công nhân thoát ra được khỏi khu xưởng bị cháy. Sau khoảng 15 phút, bức tường kiên cố được phá vỡ. Lúc này đã có nhiều công nhân bị bỏng, ngạt. Người dân đã đưa ngay những người bị ngạt, bỏng nặng đi cấp cứu. Lực lượng cứu hỏa Hải Phòng nhanh chóng có mặt tại hiện trường. Đến 17g, đám cháy được dập tắt. Toàn bộ thi thể những người thiệt mạng nằm trong xưởng may được đưa ra. Thống kê ban đầu cho thấy có ít nhất 13 người đã bị chết cháy (10 người là nữ, 3 người là nam). Thi thể các nạn nhân được đưa về nghĩa trang Ninh Hải để khám nghiệm tử thi, xác định danh tính nạn nhân trước khi trao trả cho các gia đình làm thủ tục mai táng. Cho đếm 23g cùng ngày, cơ quan chức năng xác định được danh tính 6 nạn nhân gồm Nguyễn Thị Tuyến (1988); Vũ Thị Phương Linh (1995); Nguyễn Chí Đạt (1993); Phạm Thị Nhật (1979), Vũ Thị Huệ (1989) và Vương Văn Nhật (1993). 15 nạn nhân bị thương được đưa đến Bệnh viện Việt - Tiệp, 9 nạn nhân đến Bệnh viện Kiến An và 1 người khác được đưa đến Bệnh viện An Lão. Xưởng gia công bị cháy rộng 70m2 nhưng chỉ có một cửa chính, không có cửa phụ. 22g30, UBND thành phố Hải Phòng họp khẩn với các ngành liên quan để làm rõ nguyên nhân. Nguyên nhân được xác định là do ngày 29-7, Bùi Thị Sự thuê Lê Văn Bẩy (26 tuổi), là người làm toàn bộ xưởng - hàn cột thu lôi. Bẩy cùng em rể tên Linh, trú tại xã Tự Cường, huyện Tiên Lãng đang hàn thì làm rơi xỉ hàn xuống một tấm xốp của xưởng may gây ra hỏa hoạn. Do trong xưởng nhiều vật liệu dễ cháy nên bắt lửa và dẫn đến hậu quả trên. Cơ quan công an đã khởi tố vụ án “vi phạm các quy định về an toàn lao động”, bắt khẩn cấp 5 nghi phạm để điều tra gồm bà Bùi Thị Sự, Bùi Thị Liên, A Phong, Lê Văn Bẩy và Linh. Chủ tịch UBND thành phố Hải Phòng Dương Anh Điền đã giao Sở Công thương rà soát khẩn cấp toàn bộ các xưởng "chui" trong dân. Thành phố cũng quyết định hỗ trợ mỗi gia đình có người thiệt mạng 10 triệu đồng, gia đình có người bị thương là 3 triệu đồng. HẢI PHONG - PHAN THƯƠNG - BÙI CƯỜNG Đụng tàu ở CHDC Congo, 100 người mất tích 29/07/2011 23:14 Hơn 100 người bị cho là đã thiệt mạng trong vụ 2 tàu khách đụng nhau ở vùng tây bắc CHDC Congo hôm 28.7 (giờ địa phương). Tân Hoa xã dẫn lời giới chức cho hay một tàu đang chở hơn 220 người đụng phải một tàu khác trên sông Tshuapa ở tỉnh Equateur. Lực lượng cứu hộ chỉ đưa được khoảng 100 người vào bờ trong khi những người còn lại mất tích. Dù vẫn đang tích cực tìm kiếm nhưng nhà chức trách thừa nhận các nạn nhân hầu như không có khả năng sống sót. Thời tiết xấu, tàu kém chất lượng và chở quá tải là những nguyên nhân chính của các vụ chìm tàu ở CHDC Congo trong những năm gần đây. Văn Khoa Hơn 200 người trúng độc ở Quảng Tây Đài phát thanh Trung Quốc ngày 29.7 đưa tin hơn 200 người phải nhập viện do trúng phải khí độc rò rỉ từ đường ống dẫn khí đốt của một nhà máy thép ở thành phố Quý Quảng, Khu tự trị Choang Quảng Tây. Vụ việc xảy ra ngày 28.7 lúc 20 giờ (giờ địa phương), do nhiều người đang ở nhà nên số người trúng độc rất cao. Đài phát thanh Trung Quốc ngày 29.7 đưa tin hơn 200 người phải nhập viện do trúng phải khí độc rò rỉ từ đường ống dẫn khí đốt của một nhà máy thép ở thành phố Quý Quảng, Khu tự trị Choang Quảng Tây. Vụ việc xảy ra ngày 28.7 lúc 20 giờ (giờ địa phương), do nhiều người đang ở nhà nên số người trúng độc rất cao. Hơn 200 nạn nhân, trong đó có 14 người đang trong tình trạng đặc biệt nghiêm trọng, đều là cư dân sống quanh khu vực nhà máy chừng 40-50m. Chính quyền đã huy động 58 nhân viên cứu hộ và mất hơn 3 giờ đồng hồ để bịt kín vết rò, đồng thời đi kiểm tra từng hộ dân quanh nhà máy để kịp thời cứu những người bị nạn. Hồi tháng 12.2009 cũng từng xảy ra một vụ rò rỉ đường ống dẫn dầu dưới lòng đất ở huyện Hoa tỉnh Thiểm Tây, làm ô nhiễm nặng nước Hoàng Hà, rồi từ đó lại chảy qua tám thành phố lớn khác như Trịnh Châu và Khai Phong. Ngọc Bi
  8. Dự báo chứng nghiệm về động đất. Quẻ nghiệm: Thiên Đồng
  9. Ngỡ ngàng với cổ ngọc Việt TT - Lần đầu tiên tại Việt Nam, một cuộc trưng bày cổ ngọc được tổ chức. Triển lãm mang tên Cổ ngọc Việt Nam sẽ mở cửa vào ngày 2-8 tại sảnh chính của Bảo tàng Lịch sử Việt Nam ở số 1 phố Tràng Tiền, Hà Nội. Tượng ngựa, ngọc trắng xanh, thời Nguyễn Bộ sưu tập cổ ngọc Việt Nam có số lượng lớn (theo ước tính có đến hàng nghìn món hiện vật), phong phú về chủng loại, màu sắc, có niên đại từ thời tiền - sơ sử cho đến đầu thế kỷ 20. Do khuôn khổ cho phép của không gian trưng bày, bộ sưu tập cổ ngọc triển lãm lần này chỉ giới thiệu với công chúng trên 140 món hiện vật mang tính tiêu biểu... Lọ/ống bút, ngọc xanh ngả vàng, thời Nguyễn Ống bút ngọc xanh ngã vàng thời Nguyễn.Ngoài nhóm cổ ngọc thời tiền - sơ sử và nhóm cổ ngọc mười thế kỷ đầu Công nguyên, cổ ngọc thời Lê - Nguyễn chiếm số lượng lớn nhất, chủ yếu có nguồn gốc từ cung đình Huế. Đây là số bảo ngọc nằm trong kho báu vật triều Nguyễn được Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tiếp nhận sau Cách mạng Tháng Tám 1945. Những chiếc ấn ngọc các triều vua, những thanh bảo kiếm dát vàng nạm ngọc, những đồ dùng của vua chúa bằng ngọc... tất cả còn long lanh sáng đẹp. Đặc biệt là những nghiên mực mà các hoàng đế mài mực để viết sắc chỉ, làm thơ... Không biết đã có bao nhiêu bài thơ, bài văn của vua chúa Nguyễn ra đời từ những chiếc mặc nghiễn, châu nghiễn (nghiên mực, nghiên son - TG) quý báu này? Rồi những cái ống tiêu (sáo); đồ trà, đồ ăn... bằng ngọc; tất cả đều tinh xảo và hoàn hảo đến ngỡ ngàng. Phần đặc sắc khác trong bộ sưu tập là những bức tranh và pho tượng ngọc. Các bức tranh ngọc trắng xám hình chữ nhật chạm khắc trên cả hai mặt với đề tài là phong cảnh sơn thủy hoặc các nhân vật trong tích cổ. So với các bức tranh ngọc Trung Quốc, có thể thấy sự giống nhau về đề tài nhưng cách thể hiện của nghệ nhân thời Nguyễn rất khác khi thể hiện cây tùng, con chim hạc, lá tùng không có tán tròn... Tương tự, bộ tượng bát tiên của đạo Lão có nguồn gốc từ Trung Quốc song nghệ nhân thời Nguyễn đã sáng tạo theo cách riêng. Đỉnh có nắp, ngọc xanh xám sẫm, thời Nguyễn Bộ tượng bát tiên được tạo bằng ngọc trắng xám trong khi các pho tượng Phật lại được tạo tác bằng ngọc xanh trắng, đỏ nâu, trắng xanh và đen... ở nhiều tư thế khác nhau. Các pho tượng Phật này có chung một số nét như chỏm tóc búi cao, khuôn mặt trái xoan, nếp áo dài mềm mại... khác hẳn với các pho tượng của nước ngoài.Còn bộ tượng thập nhị chi (12 con giáp) được thể hiện bằng ngọc trắng xám, mô tả 12 con vật biểu trưng của lịch phương Đông, nhưng bộ tượng còn lưu giữ lại thiếu Mão (mèo, con vật đứng hàng thứ tư). Các tượng con giáp đều ở tư thế ngồi, chân phải gập lại, chân trái chống, tay cầm một vật gì đó. Cách thể hiện này mang rõ tính “nhân cách hóa” khá độc đáo, ít gặp trong nghệ thuật cổ. Đây cũng là bộ tượng ngọc do nghệ nhân thời Nguyễn chế tạo vào thế kỷ 19. Nghiên mực, ngọc trắng và xanh, thời Nguyễn, đồ cung đình Huế Để làm nổi bật sự hiện diện của những bảo vật Việt Nam bằng ngọc được gìn giữ qua nhiều thời đại, một phòng trưng bày cầu kỳ và công phu đã được thiết kế với chất liệu bằng gỗ đá và các vật liệu đặc biệt khác. Theo ông Nguyễn Văn Cường - giám đốc Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, sau đợt trưng bày này, bảo tàng sẽ giới thiệu cho công chúng thưởng lãm lần lượt các bộ sưu tập quý, trong số đó có nhiều hiện vật được xem là bảo vật quốc gia... Được chiêm ngưỡng các cổ ngọc Việt Nam, chúng ta sẽ không khỏi sửng sốt trước tài hoa người Việt, trước khả năng sáng tạo của nghệ nhân Việt, của cha ông ta từ xa xưa..., thật đúng như nhận xét của vua Thiệu Trị thuở trước, rằng: “Văn minh ở nước ta không thua kém Trung Quốc”... TÂN LINH
  10. KHÔNG CẤP PHÉP CHO "HOA HẬU THẬT THÀ" (TT&VH) - Thật là oan cho anh giám đốc Venus và nữ hoàng đồ lót Ngọc Trinh nếu ai đặt câu hỏi nghi ngờ rằng “Vũ Khắc Tiệp gây sốc dọn đường cho Ngọc Trinh thi hoa hậu?” (Dân Việt, 27/7). Bởi chắc chắn rằng, cách trả lời “hồn nhiên như cô tiên” của Ngọc Trinh trong bài báo "Yêu tôi tốn kém lắm" (Mốt và Cuộc sống), hoàn toàn chẳng có lợi gì cho cô trong việc xin cấp phép tham dự cuộc thi Hoa hậu quốc tế Việt Nam 2011 diễn ra từ 5/8 đến 13/8 tới tại Mỹ. Thậm chí còn gây hiệu ứng ngược. Lẽ ra, sau bài báo này, Venus không nên đề cử và Cục NTBD nên từ chối cấp phép cho cô đem chuông đi đánh xứ người, trừ phi mọi người chỉ muốn người đẹp của chúng ta nhắm tới danh hiệu “Hoa hậu... thật thà”. Sau sóng gió của dư luận xung quanh các câu trả lời của Ngọc Trinh trong bài báo Yêu tôi tốn kém lắm, giờ đọc lại một cách bình tĩnh, mới thấy việc chỉ trích cô vô cảm với mẹ đẻ và hám tiền là hơi oan, và dư luận rất không nên dùng những lời lẽ nặng nề xúc phạm đến danh dự của cô. "Nữ hoàng đồ lót" tự phong Ngọc Trinh Một cô bé chào đời thì mẹ mất, 6 tuổi đã ở với mẹ kế rồi thì khi được hỏi: Có nhớ mẹ, thương mẹ (đẻ) không? Cô có nói “không” cũng là sự vô tâm có thể hiểu được của cô bé đang tuổi ăn tuổi lớn. Ngay cả giờ đây khi cô thực thà nói rằng “không có ấn tượng gì về mẹ đẻ, tôi chỉ biết thương người mẹ sau thôi” thì cũng không hề chứng tỏ là cô bất hiếu. Có những người tình cảm hình thành một cách lý tính, nhưng cũng có những người sống bản năng, hồn nhiên, chỉ biết yêu biết quý những gì gần gũi, Ngọc Trinh có lẽ là trường hợp thứ hai... Song nói gì thì nói, một cô chân dài “hồn nhiên” như thế hoàn toàn không có khả năng để có thể thi thố tài năng ở một đấu trường sắc đẹp quốc tế. Một bản lĩnh như thế, một tâm hồn như thế, có lẽ chỉ số IQ hay EQ còn dưới mức trung bình của một cô gái thành niên Việt Nam thì làm sao có thể đại diện cho tâm hồn, trí tuệ Việt Nam được? Với trình độ ấy, với “vẻ đẹp tâm hồn” ấy thì chân có dài bao nhiêu, vòng 1, 3 có “khủng” cỡ nào thì cũng tối đa là đạt được “Hoa hậu... thật thà” như đã nói. Tôi cho rằng, với cách phát ngôn như Ngọc Trinh, cô ra ngoài không bị vạ miệng là may, nói gì đến việc đáp ứng những tiêu chí to tát của cuộc thi mà cô tham gia. Đông Kinh ---------------------------------------------------------------------------------- Tại sao lại như thế? Hóa ra từ lâu nay những người mẫu hay hoa hậu trên đấu trường hoa quốc gia và hoa quốc tế đều "không thật thà", nghĩa họ giao tiếp giữa công chúng hoàn toàn giả dối! Buồn thay cho một hệ thống tư duy muốn cái gì cũng đẹp và hoàn thiện nhưng tấn bi kịch là đều chỉ là lớp sơn ngoài hào nhoáng, giả tạo. Sao không đặt mình trong tâm thế của cô người mẫu Ngọc Trinh (NT) rằng vì sao NT không có tình cảm gì mẹ ruột? Lẽ đương nhiên là sự dưỡng dục trở thành tình thâm hơn là mẹ đẻ không bao giờ bên cạnh mà bắt người khác nhận có tình cảm thương yêu, hóa ra là hướng cho người khác sự giả dối trong giao tiếp? Tôi cho rằng NT đã nói thật và có ai dám thật như cô ta? Cô ta nếu có khẳng định "yêu tôi (NT) tốn kém lắm" thì là một sự giao tiếp bình thường chưa thể chứng minh rằng "có lẽ chỉ số IQ hay EQ còn dưới mức trung bình của một cô gái thành niên Việt Nam". Một sự võ đoán, xem nhẹ và sức phạm đến nhân cách người khác. Chẳng lẽ tân hồn và trí tuệ Việt Nam là không được nói thật? Xin lỗi, nhà báo đã đo được chỉ số IQ va EQ của Ngọc Trinh chưa mà khẳng định dưới trung bình? Nếu có thì bằng chứng nào? IG va EQ là bằng chứng cuối cùng cho sự thông minh trí tuệ chăng? Rỏ chán! Thiên Đồng
  11. Lại phát hiện thực phẩm có độc ở Trung Quốc Tân Hoa xã ngày 28.7 cho hay, Sở Công thương TP Bắc Kinh vừa công bố thu hồi 5 loại thực phẩm bị phát hiện có độc, đang được bày bán rộng rãi trong hệ thống siêu thị ở nước này. Đó là các sản phẩm: phù trúc hiệu Thiên Tường Hằng Sinh (Công ty Thiên Tường Hằng Sinh Bắc Kinh), mơ và ô mai đóng bao hiệu Thế Kỷ Hoa Thái (Công ty TNHH thực phẩm Thế Kỷ Hoa Thái Thiên Tân), khô bò tẩm ớt hiệu Hảo Chính Điểm (Công ty TNHH thực phẩm phụ nữ giỏi Trùng Khánh), thịt bò xào sẵn hiệu Kim Bác (Công ty TNHH thực phẩm Kim Bác Trịnh Châu). Qua kiểm tra cho thấy trong sản phẩm phù trúc trên có chứa formaldehyde với nồng độ 1.700 mg/kg. Đây là một loại hóa chất rất độc hại cho sức khỏe đã bị cấm sử dụng trong thực phẩm, chủ yếu được dùng trong công nghiệp in ấn, nhuộm để giữ được màu sắc nguyên bản. Nguyễn Lệ Chi
  12. Vậy là lọt sổ một kể tình nghi.
  13. Bão số 3 gây mưa vừa, mưa to ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ 29/07/2011 08:22 (HNMO) - Theo TT Dự báo KTTVTƯ, do ảnh hưởng của bão số 3 vùng ven biển các tỉnh từ Quảng Ninh đến Hà Tĩnh từ chiều và đêm 30/7, gió sẽ mạnh dần lên cấp 6, sau tăng lên cấp 7, cấp 8, vùng gần tâm bão cấp 9, cấp 10, giật cấp 11, cấp 12. Từ chiều tối ngày 30/7 ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ có mưa vừa, mưa to, có nơi mưa rất to và rải rác có dông. Khu vực Bắc biển Đông (bao gồm cả vùng biển phía Bắc quần đảo Hoàng Sa) có gió mạnh cấp 8, cấp 9, vùng gần tâm bão đi qua cấp 10, cấp 11, giật cấp 12, cấp 13. Biển động dữ dội. Ở vịnh Bắc Bộ từ chiều tối và đêm nay (29/7), gió sẽ mạnh dần lên cấp 6, cấp 7, sau tăng lên cấp 8, cấp 9, vùng gần tâm bão cấp 10, cấp 11, giật cấp 12, cấp 13 và có mưa rào và dông mạnh. Biển động dữ dội. Đường đi và vị trí của bão số 3. Vào hồi 04 giờ sáng nay (29/7), vị trí tâm bão ở vào khoảng 18,3 độ Vĩ Bắc; 112,9 độ Kinh Đông, cách quần đảo Hoàng Sa khoảng 180km về phía Bắc Đông Bắc. Sức gió mạnh nhất vùng gần tâm bão mạnh cấp 10, cấp 11 (tức là từ 89 đến 117 km một giờ), giật cấp 12, cấp 13. Trong 24 giờ tới, bão di chuyển theo hướng giữa Tây và Tây Tây Bắc, mỗi giờ đi được khoảng 15-20km và có khả năng mạnh thêm. Đến 04 giờ ngày 30/7, vị trí tâm bão ở vào khoảng 19,7 độ Vĩ Bắc; 109,1 độ Kinh Đông, trên vùng bờ biển phía Tây Bắc đảo Hải Nam (Trung Quốc). Sức gió mạnh nhất vùng gần tâm bão mạnh cấp 10, cấp 11 (tức là từ 89 đến 117 km một giờ), giật cấp 12, cấp 13. Trong khoảng 24 đến 48 giờ tiếp theo, bão di chuyển chủ yếu theo hướng Tây, mỗi giờ đi được khoảng 15km. Đến 04 giờ ngày 31/7, vị trí tâm bão ở vào khoảng 19,7 độ Vĩ Bắc; 105,9 độ Kinh Đông, trên vùng bờ biển Thái Bình - Nghệ An. Sức gió mạnh nhất vùng gần tâm bão mạnh cấp 10 (tức là từ 89 đến 102 km một giờ), giật cấp 11, cấp 12. Trong khoảng 48 đến 72 giờ tiếp theo, bão di chuyển chủ yếu theo hướng giữa Tây và Tây Tây Bắc, mỗi giờ đi được khoảng 15km. Ngoài ra, do ảnh hưởng kết hợp với gió mùa tây nam hoạt động mạnh, ở khu vực giữa và Nam biển Đông (bao gồm cả vùng biển quần đảo Trường Sa), vùng biển từ Bình Thuận đến Cà Mau có gió mạnh cấp 6, giật cấp 7, cấp 8 và có mưa rào và dông mạnh. Biển động. Trong cơn dông cần đề phòng có lốc xoáy.
  14. ----------------------------------------- Bất ổn lớn ở Quý Châu 28/07/2011 0:16 Báo Tin tức Vân Nam ngày 27.7 đưa tin vừa xảy ra một vụ bất ổn lớn tại thành phố An Thuận, thuộc tỉnh Quý Châu của Trung Quốc. Theo đó, hàng trăm người phẫn nộ tụ tập phản đối chính quyền vào chiều ngày 26.7. Nguyên do xuất phát từ việc hai nhân viên trật tự an ninh đô thị đánh đập một người bán hàng rong tàn tật và khi xe cứu thương đến nơi thì người này đã chết. Tờ Minh báo của Hồng Kông dẫn lời nhân chứng cho hay đám đông đập phá xe cộ và ném gạch đá, chai lọ về phía cảnh sát. Lực lượng an ninh xịt vòi rồng và bắn lựu đạn cay để giải tán, làm nhiều người bị thương. Theo Tân Hoa xã, chính quyền khẳng định sẽ điều tra nguyên nhân cái chết của người bán hàng nói trên. Hồi đầu tháng 6 đã xảy ra một vụ bất ổn ở Quảng Châu cũng bắt nguồn từ xô xát giữa cảnh sát và người bán hàng rong. Ngọc Bi
  15. Trên mạng thì không phân biệt ngày hay đêm. Vào mạng có bài thì đọc và trao đổi. Miễn sao lên mạng được là học được. Nhớ là đừng để lộ mật khẩu để người khác sử dụng.
  16. Một góc nhìn về: Văn minh vật chất của người Việt Thứ Bảy, 25/06/2011 11:42 (TT&VH) - Sau khi ra mắt tại Hà Nội, hôm nay, 25/6, tại Bảo tàng cổ vật Champa, Đà Nẵng cuốn Văn minh vật chất của người Việt của họa sĩ, nhà phê bình Phan Cẩm Thượng tiếp tục được giới thiệu tới công chúng. Đồng thời 50 bức tranh minh họa tiêu biểu trong cuốn sách này sẽ được đem ra trưng bày như những họa phẩm độc đáo về đời sống người Việt. “Tôi bắt đầu cuốn sách Văn minh vật chất của người Việt từ năm 1992, với những nghiên cứu lẻ tẻ” - ông chia sẻ - “cho đến năm 2007 - 2008, mới bắt tay vào viết lại từ đầu một mạch thành cuốn sách. Sách gồm 5 chương, 39 phần nói về đời sống vật chất sinh hoạt thường ngày của người Việt Nam trong xã hội tiền Công nghiệp. Ngày nay, các vật dụng cổ như cày, bừa, rổ rá, ang vại... những gì là hình ảnh của một nền nông nghiệp cổ xưa đang dần chìm vào quá khứ. Lưu luyến với quá khứ và muốn cho những bạn trẻ tìm hiểu về cha ông không phải bằng các lý thuyết Nho Lão Phật mà bằng đời sống rất cụ thể, đó là hy vọng của cuốn sách với gần 1.500 minh họa này Nhân dịp này, TT&VH xin giới thiệu một số trích đoạn về cuốn sách của ông do chính ông tóm lược. 1. Một đất nước có lịch sử lâu dài với nhiều mức độ phát triển ắt có những lớp văn minh vật chất phong phú. Trái lại, nhiều dân tộc đã trường tồn, nhưng rất ít thay đổi so với trạng thái ban đầu, bất chấp thời gian và thời đại, văn minh vật chất không phong phú, (như các dân tộc ít người Tây Nguyên) trong đó mỗi đồ vật đều là tích tụ sâu sắc của tâm hồn và văn hóa. Người Việt có lịch sử lâu dài, nếu kể cả văn minh Đông Sơn là 4.000 năm, ở mặt này vẫn là dân tộc khá nghèo về vật chất, khi phần lớn chủng loại đồ vật đều chịu ảnh hưởng của người Trung Quốc, ở mặt khác lại là dân tộc có đời sống vật chất phong phú, không thua kém bất cứ dân tộc giàu có nào, khi có một nền sản xuất tự cung tự cấp có chiều sâu. Phụ nữ thời Pháp thuộc. Ảnh: NXB Thế giới Nếu ta nhìn một phụ nữ Dao chẳng hạn, với tất cả y phục trang trí sặc sỡ và đồ dùng của mình, cô ta giống như một bảo tàng sống động. Phần lớn những con người của sắc tộc là như vậy, từng người một mang đủ đặc điểm văn minh của sắc tộc đó. So với một số sắc tộc, người Kinh (người Việt) không như vậy, họ đã tạm tách cái bản thân họ ra khỏi đời sống vật chất cụ thể. Văn minh vật chất của họ được thể hiện bằng cả lối sống, quá trình canh tác, chợ búa. Và điều này cũng giống như một con người thời hiện đại, anh ta đi người không ra đường, nhưng có rất nhiều “thẻ” và “các” trong ví để có thể huy động rất nhiều phương tiện vật chất hỗ trợ cho cuộc sống cá nhân và công việc của anh ta. Cái đó nói lên vai trò của cá nhân trong xã hội hiện đại và khả năng phục vụ lại cá nhân của xã hội rộng lớn, mặt ngược lại của nó, vật chất sẽ mất đi tính đặc thù dân tộc, chỉ còn thuần túy là phương tiện. 2. Khi bà tôi đi chợ, bà bận chiếc áo cánh, quấn quanh cạp váy cái ruột tượng xanh trong đó có bao tiền, đầu đội nón thúng rộng vành, hông cắp cái rổ, chân đi guốc gỗ cao. Hình ảnh này là một đời sống vật chất đặc trưng cho người đàn bà Việt khi đi ra đường, mà mỗi đồ vật người ấy mang trên mình có tác dụng nhất định trong sinh hoạt, cũng như có ý nghĩa nào đó của một dân tộc. Tại sao như vậy, có lẽ vì rất nhiều người đàn bà khác đi chợ cũng ăn vận như vậy, cũng ngần ấy đồ dùng có cùng chức năng, và hình dáng đồ dùng cũng cùng một khoa tạo dáng được đúc kết thành khuôn mẫu trong văn hóa dân gian. Đấy chỉ là nói về một người bình dân, mà người bình dân thì không có quá nhiều vật chất có tính chất sang trọng hay tượng trưng lớn cho đời sống tinh thần. Nếu xem xét hình ảnh một ông quan, hay ông vua thì vấn đề khác hẳn, mọi đồ dùng của họ đều vượt lên cái thông thường, mang ý nghĩa lớn lao của đấng bề trên, hay tượng trưng cho quyền lực và sức mạnh của một vương triều, số lượng vật chất bám theo họ cũng nhiều hơn, chế tác tinh tế hơn, đến mức có cả một công xưởng thủ công của triều đình chế tạo và một đội ngũ thị tòng mang vác đồ cho vua khi vi hành. Nhưng sự nghèo nàn của vật chất bình dân mang tính muôn thuở, thì sự giàu sang của một ông vua lại mang tính nhất thời. Ý nghĩa vật chất của giai tầng hoàn toàn khác nhau, cái muôn thuở nhìn chung lại ít giá trị nghệ thuật, cái nhất thời thì tinh túy và diêm dúa vô cùng. Xâu chuỗi chúng lại có thể nhìn thấy cả quá trình phân chia giàu nghèo xã hội hay quy trình thống nhất từ giản đơn đến tinh túy của sản xuất công nghệ. Xưa kia khi làng Bát Tràng làm gốm, mỗi năm nhặt ra vài mươi món đồ tiến cống dâng vua. Như vậy phần lớn bát đĩa được làm đại trà, một số cũng hình thù như vậy được chế tác cẩn thận tinh tế đưa vào triều đình, gọi là đồ ngự dụng. Đồ ngự dụng không chỉ là dành những cái tốt đẹp nhất cho vua chúa, mà vì còn đấy là nơi lưu trữ những sản vật tiêu biểu của làng nghề, nên làng nghề cũng muốn giới thiệu những gì tốt nhất. Chiều không gian và chiều thời gian của đời sống vật chất là cái gì đó rất thú vị. Không gian là sự tương đồng về hoàn cảnh của tất cả các đồ vật mà ta đồng thời sử dụng. Thời gian là lớp vật chất của thời nọ, thời kia, mang phong cách của thời đại sinh ra nó, và trong những trường hợp nhất định, con người thời này dùng đồ của thời kia, như những cổ vật hoặc như đồ cũ còn hữu dụng. Kỳ sau: Sống và chết trên con thuyền Phan Cẩm Thượng
  17. Văn minh vật chất của người Việt: Kỳ 2: Sống và chết theo con thuyền (TT&VH) - LTS: Tiếp theo “một nét phác” về Văn minh vật chất của người Việt bắt đầu từ kỳ này, họa sĩ, nhà phê bình Phan Cẩm Thượng sẽ đi vào từng khía cạnh một của đời sống vật chất người Việt, mà như ông nói là “phong phú, không thua kém bất cứ dân tộc giàu có nào”. 1. Hiện người Việt Nam sống chủ yếu định cư trong các làng mạc và thành phố, nhưng có lẽ vào một thời rất xa họ sống phần nhiều trên mặt nước, do vậy khác hẳn với các dân tộc khác, gọi quốc gia của mình là nước. Thuyền đi biển ở Thanh Hóa (hiện vật của Bảo tàng Dân tộc học VN Con thuyền gia đình này làm tôi nhớ đến con thuyền Việt Khê, một di chỉ khảo cổ thời Đông Sơn đào được ở Hải Phòng. Đó là một mộ thuyền dài hơn 5m, giữa thuyền có bộ xương của người đàn ông khá tầm vóc, còn xung quanh chất hơn một trăm món đồ tùy táng: trống minh khí, vạc, nồi, thố, dao găm, kiếm, mũi giáo, rìu các loại và đồ trang sức. Con thuyền được làm nguyên từ một cây gỗ lớn đốt lòng, có thể vượt biển, và những đồ tùy táng nói lên chủ nhân của nó có lẽ là một tù trưởng giàu có, một chiến binh chuyên nghiệp, khi chết người ta chôn theo những tài sản riêng của ông. So với những nhà thuyền mà tôi đã từng bước chân lên trong vài mươi năm qua không có cái nào giàu có như vậy. Người Việt hiện tại những ai còn phải sống bằng thuyền đều là những người rất nghèo, nói theo cách nói của người xưa là họ không một mảnh đất cắm dùi. Đồ đạc và thiết bị gia đình đều ở mức tối thiểu, trẻ em không đi học, người lớn không giấy tờ tùy thân, và gần như không có gì để mất. Chòm xóm vạn chài mà họ sống cũng khá thanh bình, không có trộm cắp, rất hiếm khi cãi cọ, xô xát và cũng khá tự do khi lênh đênh trên mặt nước qua tỉnh này, tỉnh kia. Có lẽ chủ nhân của những con thuyền Đông Sơn là một diện mạo khác, những người có con thuyền lớn có khả năng vượt biển, chiến đấu và ngang dọc giang hồ, cũng có thể họ có cả một đội quân giống như hạm đội, hàng trăm chiến thuyền cho một bộ lạc lớn, cư trú trên mặt đất bằng những nhà sàn và di chuyển trên sông nước bằng thuyền độc mộc có trang bị nhiều vũ khí đánh xa và đánh gần. Qua thời Đông Sơn những đội quân thuyền chiến như vậy tan rã dần, người Việt định cư trong các công xã nông thôn và sinh hoạt trên mặt đất nhiều hơn, nhưng đường thủy vẫn đóng vai trò quan trọng trong giao thông, ngay cả thời phong kiến. 2. Thực ra cho đến nay không ít ngư dân sông trên thuyền ở nhiều vùng ven biển và trên sông, cũng như cư dân sông bán thủy bán địa đồng bằng ngập nước sông Cửu Long, mà con thuyền chẳng khác nào ngôi nhà. Người ta canh tác thu lượm bằng thuyền, đi chợ búa bằng thuyền và có chợ nổi do nhiều thuyền họp lại, có cả những thuyền lớn như một cửa hàng di động và biểu diễn văn nghệ. Kỹ thuật đóng thuyền cũng hoàn hảo, lòng thuyền rộng, mũi và thân nổi cao, nội thất được bố trí tiện nghi như một ngôi nhà. Sinh hoạt trên mặt sông biển đã hình thành nhiều làng chài bố trí thành các bè nổi, đặc biệt khu vực vịnh Hạ Long. Tình trạng lấn chiếm biển bằng các nhà bè ảnh hưởng không ít đến môi truờng biển. Còn con cái ngư dân do sống dưới nước thường không được học hành và tiêm chủng, khiến nhiều địa phương cũng phải lập các trường học trên nhà bè. Con thuyền hiện tại do đóng ghép bằng gỗ rời nên tạo chiều ngang lòng thuyền rộng hơn, có thể cơ giới hóa phần nào, nhưng rõ ràng nó chỉ đạt mức sinh hoạt tối thiểu, còn lâu mới đạt được tính văn hóa và văn minh như con thuyền độc mộc Đông Sơn. Cuộc trưng bày các tranh minh họa về “Văn minh vật chất người Việt” khai mạc chiều qua tại Đà Nẵng. 3. Nếu nhìn những hình ảnh con thuyền khắc trên thạp đồng Đào Thịnh và những trống đồng Đông Sơn, tuy khác nhau đôi chút qua từng đồ vật cụ thể, nhưng chúng cũng gần gũi với những con thuyền khảo cổ được chôn như những lăng mộ. Đó là những thuyền dài và cong lên ở hai đầu, lòng thuyền sâu có thể chở mười lăm hai mười người mà đa phần là chiến binh, có cả lâu thuyền, động vật mang theo như chó và chim lạc, thậm chí người ta còn tổ chức giết tù binh làm tế lễ trên thuyền. Chiến đấu trên thuyền thoạt tiên là đánh tầm xa, nên cung tên để bắn, mác để quăng, và dáo dài để lao là những vũ khí hàng đầu. Sau khi áp sát thuyền đối phương, thì dao găm, kiếm ngắn và đặc biệt là rìu với lực bổ rất khỏe vô cùng tác dụng. Khi có người chết, con thuyền lại trở thành chiếc quan tài hay ngôi mộ cho người chiến binh như lúc anh ta còn sống, nay sống ở cõi vĩnh hằng cũng cần có một con thuyền đưa rước linh hồn qua chín suối. Con thuyền chính là ngôi nhà của người Việt cổ, ngôi nhà cho cả lúc sống lẫn lúc chết. Kỳ 3: Thuyền bè và xe cộ Phan Cẩm Thượng
  18. TIẾNG VIỆT, DỄ MÀ KHÓ Tiếng Việt vừa dễ vừa khó, đúng hơn, dễ mà lại khó. Dễ đến độ rất hiếm người Việt Nam nào cảm thấy có nhu cầu phải sắm một cuốn Từ Ðiển Tiếng Việt trong nhà. Dễ đến độ bất cứ người nào trưởng thành ở Việt Nam cũng đều có thể tưởng là mình... thông thái, và nếu muốn, đều có thể trở thành... nhà văn được. Thế nhưng, chỉ cần, một lúc thảnh thơi nào đó, ngẫm nghĩ một chút về tiếng Việt, chúng ta bỗng thấy hình như không phải cái gì chúng ta cũng hiểu và có thể giải thích được. Trước đây, có lần, đọc cuốn Trong Cõi của Trần Quốc Vượng, một nhà nghiên cứu sử học, khảo cổ học và văn hoá dân gian nổi tiếng ở trong nước, tới đoạn ông bàn về hai chữ "làm thinh", tôi ngỡ đã tìm thấy một phát hiện quan trọng. Theo Trần Quốc Vượng, "thinh" là thanh, âm thanh, hay là tiếng ồn. "Nín thinh" là kiềm giữ tiếng động lại, là im lặng. Thế nhưng "làm thinh" lại không có nghĩa là gây nên tiếng động mà lại có nghĩa là... im lặng. Cũng giống như chữ "nín thinh". Trần Quốc Vượng xem đó như là một trong những biểu hiện của Phật tính trong ngôn ngữ và văn hoá Việt Nam: "nín" và "làm" y như nhau; có và không y như nhau; ấm và lạnh cũng y như nhau (áo ấm và áo lạnh là một!); "đánh bại" và "đánh thắng" y như nhau. Quả là một thứ tiếng "sắc sắc không không", nói theo ngôn ngữ Phật giáo, hay "huyền đồng", nói theo ngôn ngữ của Trang Tử. (1) Thú thực, đọc những đoạn phân tích như thế, tôi cảm thấy mừng rỡ và thích thú vô hạn. Thế nhưng, chẳng bao lâu sau, đọc bài viết "Tìm nguồn gốc một số từ ngữ tiếng Việt qua các hiện tượng biến đổi ngữ âm" của Lê Trung Hoa, tôi lại bàng hoàng khám phá ra là chữ "làm thinh" thực chất chỉ là biến âm của chữ "hàm thinh" trong chữ Hán. "Hàm" có nghĩa là ngậm (như trong các từ: hàm ân, hàm oan, hàm tiếu, hàm huyết phún nhân...). "Hàm thinh" là ngậm âm thanh lại, không cho chúng phát ra, tức là không nói, tức là... im lặng. (2) Y như chữ "nín thinh". Nhưng sự giống nhau ở đây chỉ là sự giống nhau của hai từ đồng nghĩa, chứ chả có chút Phật tính hay Trang Tử tính gì trong đó cả. Tôi mới biết là mình mừng hụt. Một ví dụ khác: về hai chữ "vợ chồng". Trước đây, đã lâu lắm, đọc cuốn Ngôn Ngữ và Thân Xác của Nguyễn Văn Trung, tôi thấy tác giả giải thích hai chữ "vợ chồng" đại khái như sau: "Chồng" là chồng lên nhau, nằm lên nhau. Còn chữ "vợ"? Nguyễn Văn Trung chỉ viết bâng quơ, trong câu chú thích in cuối trang: "chữ vợ phải chăng là vơ, vớ, đọc trại đi, theo giọng nặng; nếu thế, chữ vợ chỉ thị việc quơ lấy quàng lên, vơ vào, phù hợp với việc chồng lên trong hành động luyến ái?" (tr. 40) Ðọc đoạn ấy, tôi hơi ngờ ngờ, nhưng rồi cũng bỏ qua, không chú ý mấy. Gần đây, tôi sực nhớ lại vấn đề ấy khi đọc cuốn Phương Ngữ Bình Trị Thiên của Võ Xuân Trang. Tôi được biết là ở Bình Trị Thiên, thay vì nói cái "vai", người ta lại nói cái "bai"; thay vì nói đôi "vú", người ta lại nói đôi "bụ"; thay vì nói "vải", người ta lại nói "bải"; thay vì nói "vá" áo, người ta nói "bá" áo; thay vì nói "vả" (vào miệng), người ta lại nói "bả" (vào miệng), v.v... Qua những sự hoán chuyển giữa hai phụ âm V và B như thế, tự dưng tôi nảy ra ý nghĩ: phải chăng nguyên thuỷ của chữ "vợ" là... bợ? "Vợ chồng" thực ra là "bợ chồng"? Tôi càng tin vào giả thuyết trên khi nhớ lại, trong tiếng Việt hiện nay, có cả hàng trăm từ nguyên thuỷ khởi đầu bằng phụ âm B đã biến thành V như thế. Nhiều nhất là từ âm Hán Việt chuyển sang âm Việt. Ví dụ: trong chữ Hán, chữ "bái" sang tiếng Việt thành "vái"; chữ "bản" sang tiếng Việt thành "vốn" và "ván"; chữ "bích" sang tiếng Việt thành "vách"; chữ "biên" sang tiếng Việt thành "viền"; chữ "bố" sang tiếng Việt thành "vải"; chữ "bút" sang tiếng Việt thành "viết"; chữ "bà phạn" sang tiếng Việt thành "và cơm", v.v... Theo Nguyễn Tài Cẩn, trong cuốn Giáo Trình Lịch Sử Ngữ Âm Tiếng Việt (sơ thảo), quá trình hoán chuyển từ B đến V kéo dài khá lâu cho nên hiện nay thỉnh thoảng cả hai biến thể B/V vẫn còn tồn tại song song với nhau, như: băm và vằm (thịt); be và ve (rượu hay thuốc); béo và véo; bíu và víu, v.v... Chúng ta biết là hiện tượng tồn tại song song của hai biến thể như thế không phải chỉ giới hạn trong hai phụ âm B và V. Theo nhiều nhà ngôn ngữ học, ngày xưa, từ khoảng thế kỷ 17 trở về trước, trong tiếng Việt có một số phụ âm đôi như BL (blăng, blời...), ML (mlầm) hay TL (tlánh). Ðến khoảng thế kỷ 18, các phụ âm đôi ấy dần dần rụng mất. Ðiều đáng chú ý là khi những phụ âm đôi ấy rụng đi thì chúng lại tái sinh thành một số phụ âm khác nhau. Ví dụ phụ âm đôi TL sẽ biến thành TR hoặc L, do đó, hiện nay, chúng ta có một số chữ có hai cách phát âm và hai cách viết khác hẳn nhau, cùng tồn tại song song bên nhau, đó là các chữ tránh và lánh; trộ và lộ, trồi và lồi, trêu và lêu, trũng và lũng, trộn và lộn, trọn và lọn, trệch và lệch, trèo và leo, tràn và lan, v.v... Trong khi đó phụ âm đôi ML sẽ biến thành L hoặc NH, bởi vậy, chúng ta cũng có một số từ tương tự, như lầm và nhầm, lời và nhời, lẽ và nhẽ, lát và nhát, lạt và nhạt, lớn và nhớn.(3) Trong những cặp từ tương tự vừa kể, có một số chữ dần dần bị xem là phương ngữ hoặc là cách nói cổ, càng ngày càng ít nghe, như các chữ Nhớn, Nhời, và Nhẽ. Thay vào đó, chúng ta sẽ nói là lớn, lời và lẽ. Tuy nhiên, những chữ khác thì cho đến nay cũng vẫn còn tồn tại khá phổ biến, ví dụ chúng ta có thể nói là rượu lạt hoặc rượu nhạt; nói lầm lẫn hoặc nhầm lẫn; nói một lát dao hay một nhát dao đều được cả. Ðặt trong toàn cảnh mối quan hệ giữa hai phụ âm B và V cũng như quá trình biến đổi phụ âm đầu như thế, chúng ta sẽ thấy ngay giả thuyết cho nguồn gốc của chữ "vợ" trong "vợ chồng" là "bợ" rất có khả năng gần với sự thật. "Vợ chồng" như thế, thực chất là "bợ chồng". "Bợ": từ dưới nâng lên; "chồng": từ trên úp xuống. Danh từ "bợ chồng" diễn tả tư thế thân mật giữa hai người nam nữ khi ăn ở với nhau. Cách gọi tên khá thật thà như thế kể cũng thú vị đấy chứ? Qua các trường hợp biến đổi từ "hàm thinh" thành "làm thinh" và từ "bợ chồng" thành "vợ chồng", chúng ta tiếp cận được một hiện tượng rất phổ biến trong tiếng Việt: hiện tượng biến âm. Biến âm không phải chỉ vì nói ngọng, kiểu "long lanh" thành "nong nanh" hay "nôn nao" thành "lôn lao" như một số người ở một số địa phương nào đó. Biến âm cũng không phải chỉ vì phương ngữ, kiểu "về" thành "dề" như ở miền Nam, hay "nhà" thành "dà" như ở một số làng huyện ở miền Trung, "trung trinh" thành "chung chinh" như ở miền Bắc. Ðiều đáng nói hơn là những hiện tượng biến âm xuất phát từ những quy luật nội tại của ngôn ngữ, những sự biến âm có mặt ở mọi vùng đất nước và nếu không tự giác và tốn công truy lục, chúng ta sẽ không thể nào tái hiện được nguyên dạng của nó. Chúng ta dễ ngỡ biến âm là chính âm. Dễ ngỡ nó tự nhiên là thế. Ví dụ, để diễn tả tâm sự buồn nào đó dần dần giảm nhẹ đi, chúng ta hay dùng chữ "nguôi ngoai". Ðúng ra là "nguôi hoai". Trong các từ điển cổ, "hoai" có nghĩa là phai nhạt. Nghĩa ấy, cho đến bây giờ chúng ta vẫn dùng trong chữ "phân đã hoai". "Nguôi hoai" là từ ghép chỉ sự phai dần của một nỗi buồn, một niềm đau. Tương tự như vậy, chữ "yếu ớt" chúng ta hay dùng ngày nay là do chữ "yếu nớt". "Ớt" thì không có nghĩa gì cả. Trong khi "nớt" có nghĩa là sinh thiếu tháng, vẫn còn dùng trong từ "non nớt". "Yếu nớt", do đó, có nghĩa là yếu đuối, là non nớt. Chữ "nói mớ" thật ra là biến âm của chữ "nói mơ", nói trong giấc mơ. "Nước miếng" thật ra là biến âm của "nước miệng", nước chảy ra từ miệng, cùng cách kết cấu với các chữ nước mắt hay nước mũi. Chữ "to tát" hiện nay tất cả các từ điển đều viết với chữ T ở cuối, TÁT; nhưng trong Ðại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của thì lại viết chữ TÁC kết thúc bằng C: "to tác", kèm theo lời định nghĩa là: thô kệch, lớn tác. Mà chúng ta đều biết chữ TÁC có nghĩa là tuổi hay vóc dáng, như trong các từ tuổi tác, tuổi cao tác lớn, hay ngày xưa người ta nói bạn tác, tức bạn hữu; trang tác, tức cùng lứa, cùng tuổi với nhau. (4) Các con số đếm, nơi rất cần sự chính xác, cũng không thoát khỏi luật biến âm. Như số 1, chẳng hạn. Ðứng một mình là một. Ðứng trước các con số khác cũng là một. Nhưng khi đứng sau các con số khác, trừ số 10, nó lại biến thành "mốt": hai mươi mốt; ba mươi mốt, bốn mươi mốt. Những chữ "mốt" ấy chính là biến âm của "một". Nhưng không phải lúc nào "mốt" cũng có nghĩa là một: "Mốt" trong một trăm mốt hay trong một ngàn mốt, một triệu mốt... không phải là một. Con số 5 cũng vậy. Ðứng một mình là năm. Ðứng trước các số khác cũng là năm. Nhưng khi đứng sau các số, từ 1 đến 9, nó lại biến thành "lăm": mười lăm, hai mươi lăm... Con số hai mươi lăm ấy lại được biến âm thêm một lần nữa, thành hăm nhăm. Số ba mươi lăm cũng thường được biến âm thành băm nhăm. Từ số bốn mươi lăm trở lên thì chỉ có một cách rút gọn là bốn lăm; năm lăm, sáu lăm, bảy lăm, tám lăm, và chín lăm chứ không có kiểu biến âm như hăm nhăm và băm nhăm. Con số 10, cũng vậy. 10 là mười. Nhưng từ 20 trở lên thì "mười" biến thành "mươi”: hai mươi, ba mươi, bốn mươi... Dấu huyền bị biến mất. Có điều, "mươi" không phải lúc nào cũng có nghĩa là mười. Trong nhóm từ "mươi cái áo", chẳng hạn, "mươi" lớn hơn hoặc nhỏ hơn mười: một con số phỏng định, ước chừng, bâng quơ. Con số còn thay đổi được, huống gì những từ khác. Như từ "không", chẳng hạn. Phủ định điều gì, người ta có thể nói "không", mà cũng có thể nói "hông", nói "khổng", nói "hổng". Xuất hiện trong câu nghi vấn, chữ "không" ấy có thể có thêm một biến âm khác là "hôn": "nghe hôn?" Chưa hết. Một số âm vị trong cụm "nghe hôn" ấy bị nuốt đi; "nghe hôn" biến thành "nghen", rồi đến lượt nó, "nghen" lại biến thành "nghén" hay bị rút gọn lần nữa, thành "nhen", rồi "hen", rồi "hén", rồi "nhe", v.v... Như vậy, biện pháp biến âm trở thành một biện pháp tạo từ. Ðã có từ "vậy", chỉ cần thay dấu nặng bằng dấu huyền, chúng ta có từ mới: "vầy" (như vầy này!). Ðã có từ "lui hui", người ta tạo thêm các chữ "lúi húi" rồi "lụi hụi". Ðã có từ "chừ bự", người ta tạo thêm các từ mới: chư bư, chừ bư, chừ bử, chử bử, chứ bứ, chự bự. Ðã có "trật lất", người ta tạo thêm: trết lết, trét lét, trớt lớt, trớt huớt... (5) Ðã có từ "ngoại" vay mượn từ chữ Hán, chúng ta tạo thêm hay từ khác: "ngoài" để các quan hệ không gian cũng như thời gian và "ngoái" để chỉ quan hệ về thời gian: "năm ngoái". Biện pháp biến âm như vậy đã dẫn đến một hiện tượng khá thú vị trong tiếng Việt: hiện tượng từ tương tự, tức những từ hao hao gần nhau về cả ngữ âm lẫn ngữ nghĩa, chẳng hạn: các chữ bớt và ngớt; đớp, tợp, hớp và đợp; bẹp, xẹp, lép, khép, nép và nẹp; khan, khàn và khản; xẻ, chẻ, bẻ và xé; xoăn, xoắn, quăn và quắn; tụt, rụt và thụt; véo, nhéo, và béo; v.v... Các từ tương tự ấy có khi khác nhau về từ loại nhưng lại tương thông tương ứng với nhau về ý nghĩa, chẳng hạn: chúng ta có cái nẹp để kẹp, cái nêm để chêm, cái nan để đan, cái mõ để gõ, cái nệm để đệm, cái vú để bú; hoặc chúng ta cưa thì thành khứa, rung thì rụng, phân thì có từng phần, dựng thì đứng, thắt thì chặt, đập thì giập, dìm thì chìm, ép thì ẹp, dứt thì đứt, chia thì lìa, gạn thì cạn, v.v.... Mới đây, đọc báo, không hiểu tại sao, tình cờ tôi lại chú ý đến chữ "đút" trong một câu văn không có gì đặc biệt: "Chị ấy đút vội lá thư vào túi quần..." Từ chữ "đút" ấy, tôi chợt liên tưởng đến chữ "rút": cả hai từ làm thành một cặp phản nghĩa: đút (vào) / rút (ra). Ðiều làm tôi ngạc nhiên là cả hai từ đều có phần vần giống nhau: "-ÚT". Chúng chỉ khác nhau ở phụ âm đầu mà thôi: một chữ bắt đầu bằng phụ âm "đ-" (đút) và một chữ bằng phụ âm "r-" (rút). Hơn nữa, cả từ "đút" lẫn từ "rút", tuy phản nghĩa, nhưng lại có một điểm giống nhau: cả hai đều ám chỉ sự di chuyển từ không gian này sang không gian khác. "Ðút" cái gì vào túi hay "rút" cái gì từ túi ra cũng đều là sự chuyển động từ không gian trong túi đến không gian ngoài túi hoặc ngược lại. Tôi nghĩ ngay đến những động từ có vần "-ÚT" khác trong tiếng Việt và thấy có khá nhiều từ cũng có nghĩa tương tự. "Sút" là động tác đưa bóng vào lưới. "Hút" là động tác đưa nước hoặc không khí vào miệng. "Mút" cũng là động tác đưa cái gì vào miệng, nhưng khác "hút" ở chỗ vật thể được "mút" thường là cái gì đặc. "Trút" là đổ cái gì xuống. "Vút" là bay từ dưới lên trên. "Cút" là đi từ nơi này đến nơi khác do bị xua đuổi. "Nút" hay "gút" là cái gì chặn lại, phân làm hai không gian khác nhau. Thay dấu sắc (ÚT) bằng dấu nặng (ỤT), ý nghĩa chung ở trên vẫn không thay đổi. "Trụt" hay "tụt" là di chuyển từ trên xuống dưới. "Vụt" là di chuyển thật nhanh, thường là theo chiều ngang. "Lụt" là nước dâng lên quá một giới hạn không gian nào đó. "Cụt" là bị cắt ngang, không cho phát triển trong không gian. "Ðụt" (mưa) là núp ở một không gian nào đó, nhỏ hơn, để tránh mưa ngoài trời. Vân vân. Nếu những động từ có vần "-ÚT" thường ám chỉ việc di chuyển (hoặc việc ngăn chận quá trình di chuyển ấy) giữa hai không gian thì những động từ có vần "-UN" lại ám chỉ việc dồn ứ lại thành cục trong một không gian nhất định nào đó, thường là có giới hạn. "Ùn", "chùn", "dùn", hay "đùn" đều có nghĩa như thế. "Thun" hay "chun" cũng như thế, đều chỉ cái gì bị rút, bị co. "Cùn" là bẹt ra. "Hùn" là góp lại. "Vun" là gom vào. "Lún" hay "lụn" là bẹp xuống. Cả những chữ như "lùn" hay (cụt) "lủn", (ngắn) "ngủn", "lũn cũn"... cũng đều ám chỉ cái gì bị dồn nhỏ hay thu ngắn lại. Với cách phân tích như vậy, nếu đọc thật kỹ và thật chậm các cuốn từ điển tiếng Việt, chúng ta sẽ dễ thấy có khá nhiều khuôn vần hình như có một ý nghĩa chung. Chẳng hạn, phần lớn các động từ hay tính từ kết thúc bằng âm ÉT hay ẸT đều chỉ những động tác hay những vật thể hẹp, thấp, phẳng. "Kẹt" là mắc vào giữa hai vật gì; "chẹt" là bị cái gì ép lại. "Dẹt" là mỏng và phẳng; "tẹt" là dẹp xuống (kiểu mũi tẹt); "bét" là nát, dí sát xuống đất; "đét" là gầy, mỏng và lép. Những dộng từ kết thúc bằng âm EN thường chỉ các động tác đi qua một chỗ hẹp, một cách khó khăn, như: "chen", "chẹn", "chèn", "len", "men", "nghẽn", "nghẹn", "nén". Những từ láy có khuôn vần ỨC – ÔI thì chỉ những trạng thái khó chịu, như "tức tối", "bức bối", "bực bội", "nực nội", "nhức nhối", v.v... Những ví dụ vừa nêu cho thấy hai điều quan trọng: Thứ nhất, nếu chịu khó quan sát, chúng ta sẽ phát hiện trong những chữ quen thuộc chúng ta thường sử dụng hàng ngày ẩn giấu những quy luật bí ẩn lạ lùng. Tính chất bí ẩn ấy có thể nói là vô cùng vô tận, dẫu tìm kiếm cả đời cũng không hết được. Ðiều này khiến cho không ai có thể an tâm là mình am tường tiếng Việt. Ngay cả những nhà văn hay nhà thơ thuộc loại lừng lẫy nhất vẫn luôn luôn có cảm tưởng ngôn ngữ là một cái gì lạ lùng vô hạn. Thứ hai, vì có những quy luật, những điểm chung tiềm tàng giữa các chữ như vậy cho nên việc học tiếng Việt không quá khó khăn. Nói chung, người Việt Nam đều có khả năng đoán được ý nghĩa của phần lớn các chữ mới lạ họ gặp lần đầu. Lần đầu gặp chữ "thun lủn", chúng ta cũng hiểu ngay nó ám chỉ cái gì rất ngắn. Lý do là vì chúng ta liên tưởng ngay đến những chữ có vần "UN" vừa kể ở trên: cụt ngủn, ngắn ngủn, v.v... Lần đầu gặp chữ "dập dềnh", chúng ta cũng có thể đoán là nó ám chỉ một cái gì trồi lên trụt xuống do sự liên tưởng đến những chữ có khuôn vần tương tự: bấp bênh, gập ghềnh, khấp khểnh, tập tễnh, v.v... Nói tiếng Việt vừa dễ vừa khó là vì thế. ****************** Chú thích : 1. Trần Quốc Vượng (1993), Trong Cõi, Garden Grove: Trăm Hoa, tr. 169. 2. Lê Trung Hoa, “Tìm nguồn gốc một số từ ngữ tiếng Việt qua các hiện tượng biến đổi ngữ âm”, in trong cuốn Những vấn đề văn hoá, văn học và ngôn ngữ học (nhiều tác giả), nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1999: 211-225. 3. Xem bài "Vài chuyển biến trong phụ âm đầu tiếng Việt và các hiện tượng láy từ liên hệ" của Nguyễn Phú Phong trên Tập san Khoa Học Xã Hội (Paris) số 3 năm 1977, tr. 73-80. 4. Một số ví dụ trong đoạn này lấy từ bài viết của Lê Trung Hoa theo sách dẫn trên. 5. Biện pháp biến âm này đặc biệt thông dụng trong phương ngữ miền Nam. Có thể xem thêm cuốn Từ Ðiển Phương Ngữ Nam Bộ của Nguyễn Văn Ái, Lê Văn Ðức và Nguyễn Công Khai, nxb Thành Phố ****, 1994. Nguyễn Hưng Quốc nguồn: http://cuocsongviet.com.vn
  19. Sự biến âm từ khó tới dể đều có ở các ngôn ngữ. Ví dụ trong tiếng Pháp và tiếng Anh Người Pháp có từ Sécurité đọc là xê - kuya - ry - tê. Người anh có từ Security đọc là xe - kiu - ry -ti: và quy luật là tiếng Pháp có từ nào tận cùng "té" thì tiếng Anh sẽ tận cùng là "ty", vd Pháp là Nationalité thì Anh là Nationality. Âm "té" lên giọng đưa thanh, ngược lại "ty" thì xuống giọng hạ thanh. Pháp và Anh có cái nôi Latin, vậy cái anh Pháp huyết thống gần với Latin nhất và Anh là hơi xa. Hoặc chí ít tiếng Anh là con đẻ của tiếng Pháp vì ...nói ngọng tiếng Pháp. Ai học tiếng Anh và tiếng Pháp mà có nghiên cứu Vocabulaire và văn phạm thì sẽ thấy điều này. Nói như vậy để thấy rằng ngôn ngữ Việt với ngũ thanh, đơn âm và đa dạng, lắc léo trong cấu trúc thanh điệu thì không thể là xuất phát từ tiếng Hán nói ngọng được. Hồi con sinh viên, tôi dạy vài người nước ngoài phát âm 3 từ hay 1 trong 3 từ sau: NƯỚC MẮM NGON Thì họ phát âm sau: NHƯỚC MAÁM NHOON Họ nói sao mà khó quá. Tôi nói với họ: Người Việt Nam có thể phát âm đúng mọi ngôn ngữ trên thế giới, còn nếu bạn muốn phát âm chuẩn tiếng Việt như người Việt thì...hãy ăn nước mắm ngon của người Việt Nam. Họ cười. Thiên Đồng
  20. Mỹ, Indonesia kêu gọi hành động khẩn trương về Biển Đông VnExpress – Thứ hai, ngày 25 tháng bảy năm 2011 Mỹ và Indonesia hôm qua kêu gọi các bên trong tranh chấp Biển Đông có biện pháp nhanh chóng nhằm chấm dứt tình trạng bất ổn. Lời kêu gọi này được đưa ra sau khi ASEAN và Trung Quốc thông qua hướng dẫn thực thi Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC). Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton và Ngoại trưởng Indonesia Marti Natalegawa ca ngợi việc thông qua bộ quy tắc hướng dẫn nói trên,VOA đưa tin. Tuy nhiên, hai nhà ngoại giao hàng đầu của hai nước cho rằng đây mới chỉ là bước đầu và các bên nên nhanh chóng đưa ra những quy định cụ thể nhằm chấm dứt tình trạng đối đầu gây bất ổn ở Biển Đông. Cuộc hội đàm giữa hai nhà ngoại giao diễn ra sau Diễn đàn an ninh ASEAN (ARF) ở Bali tuần trước. Trong cuộc họp báo chung với đồng nhiệm Marti, bà Clinton kêu gọi ASEAN và Trung Quốc hành động nhanh chóng, thậm chí là khẩn cấp, về một bộ quy tắc ứng xử cụ thể (COC) để tránh xung đột tại tuyến đường giao thương trên biển quan trọng ở Biển Đông. "Chúng tôi ủng hộ tiến trình ngoại giao hợp tác giữa các bên tranh chấp để dàn xếp tất cả các bất đồng", Clinton nói. "Chúng tôi phản đối bất cứ bên nào sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực nhằm áp đặt tuyên bố của mình". Biển Đông là nơi Việt Nam, Trung Quốc, Philippines, Malaysia, Brunei cùng tuyên bố chủ quyền và có những nơi chồng lấn nhau. Clinton cho rằng các bên nên bắt đầu giải quyết tranh chấp bằng việc công khai rõ phần chủ quyền mà họ tuyên bố sở hữu. Bà nói điều này nên được thực hiện theo khuôn khổ Công ước Liên Hợp Quốc về luật biển. Trung Quốc và ASEAN đã thông qua quy tắc hướng dẫn thực thi DOC tại hội nghị ngoại trưởng ASEAN-Trung Quốc hôm 21/7. Hai bên thông qua DOC năm 2002 và ASEAN muốn thúc đẩy việc ra một bộ nguyên tắc về ứng xử giữa các bên ở Biển Đông mang tính ràng buộc hơn. Mai Trang
  21. Theo Thiên Đồng nghĩ nên giới hạn lại thời gian dư đoán, bởi các trận động đất dường như là dầy hơn. Do vậy, có thể chăng giới hạn 1 quẻ bói trong 3 ngày và phương vị rỏ ràng, khu vực cụ thể. Vài dòng góp ý. Thiên Đồng
  22. Không biết nói gì hơn là đau lòng quá!!! Lời Bác sáng lòng ta. Nguyễn Huệ là kẻ phi thường Mấy lần đánh đuổi giặc Xiêm, giặc Tàu Ông đà chí cả mưu cao Dân ta lại biết cùng nhau một lòng Cho nên Tàu dẫu làm hung Dân ta vẫn giữ non sông nước nhà Hồ Chí Minh
  23. 23/7/2011,Nhật Bản, 6,5 richter. 25/7/2011,Nhật Bản, 6,2 richter,5g21. 25/7/2011, Papua New Guine, 6,3richter, 7g50. Trích của Trucgiac Truc giác chưa đúng...
  24. Theo tôi thì từ âm V bị biến âm thành âm B thì đúng hơn. Âm V cầm hoạt động môi dưới hơi cong vào và răng trên để trên môi, tiếp theo là tống hơi. Còn âm B thì đơn giản hơn là 2 môi khép lại và tống hơi. Sự trại thanh bắt đầu từ khẩu hình. Cũng Như vậy âm L biến âm thành H. L khó hơn H. Do vậy, không có chuyện từ Hán là Hàm thành Làm mà ngược lại chính Tàu đã đọc sai đọc ngọng tiếng Việt Làm thành Hàm thì đúng hơn. Ai đã từng coi phim Tây Du Ký thì cũng nhận thấy rằng phát âm hai từ "Sư Phụ" tiếng Việt rỏ ràng là khó hơn "Xí - Phọ" hay "Xí - phụ" và NGộ Không cũng rất khó hơn "Ngò - Kho" và Sư Đệ khó phát âm hơn là "xư - đẹ". Chính người Hán học tiếng Việt thì đúng hơn. Thiên Đồng
  25. PHONG TỤC NHUỘM RĂNG ĐEN CỦA NGƯỜI VIỆT XƯA Có lẽ đối với các thế hệ ngày nay, hình ảnh những người bà, người mẹ và cả những cô thiếu nữ với hàm răng óng ả hạt huyền chỉ còn là một hình ảnh đẹp trong quá khứ xa xôi. Những người của thế hệ nhuộm răng đen đến nay đã ra đi gần hết! Nét duyên dáng răng đen như ngọn đèn trước gió, và đi vào kỷ niệm! Nhưng những nụ cười đen nhánh nay đã mơ hồ kia, cứ đen mãi trong lòng sâu thẳm của những ai biết nó… mãi đen huyền, đen rực một cách thân thương!... Để nhớ, để lưu giữ lại một phong tục, một nét đẹp văn hoá, mời các bạn cùng tìm hiểu nghệ thuật nhuộm răng đen của người Việt xưa. Nguồn gốc của Tục nhuộm răng Nhuộm răng là tục cổ của dân tộc Việt, có từ thời Hùng Vương cùng với tục ăn trầu đã trở thành nét văn hóa đặc trưng của bộ tộc người Việt để phân biệt với các sắc dân khác.. Đại Việt Sử Ký toàn thư trang 133 chỉ ghi lại lời vua Hùng về tục xăm mình chứ tục nhuộm răng thì không thấy “... rồi vua bảo mọi người lấy mực vẽ hình thủy quái vào mình. Từ đấy không thấy thuồng luồng đến cắn hại nữa”. Sứ thần của nước Văn Lang trả lời vua nhà Chu về tục ăn trầu “Chúng tôi có tục ăn trầu để khử mùi ô uế và nhuộm cho răng đen...”. Không chỉ người Việt mới có tục nhuộm răng mà các dân tộc khác như Mường, Thái, Si La... cũng có tục này nhưng mỗi nơi, mỗi dân tộc đều có cách nhuộm răng khác nhau về ý nghĩa, thời gian, cách nhuộm và chất liệu sử dụng. Phong tục nhuộm răng đen Tục nhuộm răng đen trước hết là do quan điểm thẩm mỹ. Chính tục lệ ăn trầu là lý do trực tiếp của tục nhuộm răng, bởi nhai trầu thường làm ố đen răng, nên phải nhuộm đen, nhuộm thật đen để loại bỏ tác dụng trên, đồng thời tạo được vẻ thẩm mỹ duyên dáng cho hàm răng… “Da trắng, răng đen” tạo sự tương phản cao và đầy nghệ thuật đã thu hút bao hồn vía các chàng trai thời ấy! Các cô gái, cho dù không ăn trầu, vẫn cứ nhuộm răng đen. Thậm chí, việc nhuộm răng đen còn lan sang cả cánh đàn ông nhưng số lượng ít hơn. Việc nhuộm răng đen đã trở thành luật, phổ biến trong dân chúng, trừ những đức trẻ còn răng sữa, ngoài ra đều phải nhuộm đen, không ai có thể cưỡng lại qui luật trên. Và nếu đã sở hữu một hàm răng đen, buộc cứ khoảng gần một năm phải nhuộm lại, vì màu đen đã phai. Đặc biệt vào các dịp lễ tết hay những ngày vui trọng đại như lễ hỏi, lễ cưới, họ phải nhuộm răng lại cho đen mới để tham dự. Tục nhuộm răng đen có từ thuở xa xưa, nhưng chỉ thông dụng ở miền Trung và miền Bắc. Kinh đô Huế được coi là nơi cực thịnh của nghệ thuật nhuộm răng, vì ở đó các ông hoàng bà chúa, các cung tần mỹ nữ, tầng lớp quan lại, nho sĩ, các cô chiêu, cậu ấm rất ưa chuộng việc nhuộm răng. Thuốc nhuộm răng của người Việt xưa phải có một công thức pha chế riêng: Bột nhựa cánh kiến, Nước cốt chanh hay hạnh, Phèn đen, Nhựa của gáo dừa. Việc nhuộm răng phải tuân theo từng giai đoạn làm sao cho răng đạt màu đen bóng. Để khởi đầu cho việc nhuộm răng thì miệng và răng phải được làm vệ sinh, phải chuẩn bị hàm răng cho thật sạch. Không được có bợn, bả răng trong các kẽ và chân răng, phải lấy hết cho đến khi lấy tay sờ vào thân răng phải trơn láng mới được. Trong ba ngày đầu phải đánh răng, xỉa răng bằng vỏ cau khô với than bột trộn với muối sống hầm chín thành bột. Một ngày trước khi nhuộm phải nhai ngậm chanh hoặc hạnh, súc miệng bằng rượu trắng pha nước chanh. Tác dụng của nước cốt làm cho lớp men ngoài răng “mềm” đi, tính acid của chanh sẽ bào mòn tạo thành những vệt lõm sần sùi trên men răng. Thời gian này là thời gian đau đớn nhất cho người nhuộm răng, môi, lưỡi, lợi và niêm mạc trong vòm họng sưng tấy, hai hàm răng lung lay gần như muốn rụng. Thuốc nhuộm răng bằng nhựa cánh kiến được điều chế trước đó từ 7 đến 10 ngày theo đúng công thức với tỷ lệ bột nhựa cánh kiến và nước cốt chanh tùy theo mỗi người, chất sền sệt đó được trét lên một mảnh vải thô trắng hay lụa. Ở thôn quê, người ta trét lên lá dừa, cau hay lá ngái sau đó mới áp lên hai hàm răng. Việc áp thuốc nhuộm răng được thực hiện vào sau buổi ăn chiều, đến giữa đêm sẽ được thay bằng một miếng áp mới. Đến sáng người ta sẽ gỡ ra thật nhẹ nhàng tránh bị bong tróc lớp nhựa sơn mới phủ lên đêm trước. Sau khi lấy thuốc ra phải súc miệng bằng nước mắm, có nơi dùng nước dưa chua để thải hết chất thuốc còn sót lại. Người nhuộm răng gần như phải ngậm miệng suốt đêm, tránh tối đa miếng thuốc nhuộm rơi bong ra, phải làm như vậy mỗi đêm 2 lần trong 7 đêm. Khoảng thời gian đó người nhuộm răng chỉ được nuốt thức ăn chứ không được nhai. Thông thường các người nhuộm răng được cho ăn bún trộn với mỡ heo và nước mắm để dễ nuốt trửng. Khi thấy răng có màu đỏ già, màu của cánh kiến thì việc nhuộm răng sẽ bước qua giai đoạn 2 là giai đoạn nhuộm đen răng bằng cách phết dung dịch bôi đen lên răng. Thuốc bôi đen là hỗn hợp phèn đen trộn với nhựa cánh kiến, dung dịch này được phết trong 2 ngày. Sau đó phải súc miệng bằng một thứ thuốc gọi là thuốc xỉa nước. Giai đoạn cuối cùng là cố định bằng nhựa của gáo dừa, chất nhựa này được làm như sau: Lấy sọ hay gáo dừa già, đem phơi khô nhiều nắng, sau đó đem đốt nó trên than hồng rồi để cái sọ dừa đang cháy này lên trên một cái rựa sắt cùn, từ trong sọ dừa đang cháy un khói đó sẽ chảy ra một thứ nhựa đen sền sệt lấy chất đó bôi lên răng, chất nhựa này tạo thành một lớp men trên thân răng. Người ta gọi giai đoạn này là “giết răng”. Khi hoàn tất giai đoạn này người nhuộm răng sẽ có một hàm răng đen bóng như hột mãng cầu. Xưa ở nông thôn có thầy nhuộm răng, ông ta đi từ làng này sang làng khác để hành nghề như người làm nghề thiến heo, thiến gà chó... Ở Huế lại có các "bà thầy" nhuộm răng thường hành nghề cố định trong các chợ, như chợ Đông Ba có đến 5, 6 người hành nghề này. Họ có một cái sạp ngay giữa lồng chợ, còn như các chợ nhỏ như chợ Bến Ngự, chợ Bao Vinh, chợ An Cựu chỉ có một hai bà thầy nhuộm răng mà thôi. Cách đây 70 năm có một bà thầy nhuộm răng nổi tiếng nhất ở kinh đô Huế không ai là không biết, đó là bà thầy Thại ở làng Sư Lỗ cách cầu Ngói Thanh Toàn một con sông. Bà thầy vừa hành nghề nhuộm răng vừa sản xuất thuốc nhuộm, thuốc xỉa, cao dán mắt, cao no hơi đầy bụng cho trẻ sơ sinh... Muốn nhuộm răng các cô chiêu, cậu ấm phải ghi tên và đặt tiền cọc trước, có khi mất cả hàng tháng trời mới tới phiên mình được nhuộm. Mỗi đợt nhuộm là 15 người ăn ở luôn tại nhà bà thầy trong suốt thời gian nhuộm khoảng từ 12 ngày đến nửa tháng. Chiều chiều bà thầy thường cho các cô chiêu cậu ấm leo lên một đồi nhỏ trong làng quay mặt ra hướng đông, bảo họ há miệng to để gió biển thổi vào cho thuốc nhuộm mau khô (!) và bà cũng kể cho các cô chiêu cậu ấm đó nghe về những chuyện cổ tích, danh nhân lịch sử, lòng yêu nước, hiếu thảo với cha mẹ. Đặc biệt có một ông già mù phụ thêm hát vè Mụ Đội, vè Phạm Công Cúc Hoa, vè Lục Vân Tiên, vè thất thủ Kinh Đô... để mua vui cho các cô các cậu và những người hiếu kỳ đến xem. Thuốc nhuộm răng của bà thầy Thại càng ngày càng nổi tiếng vang khắp cả một vùng Trung kỳ, có mấy cái đại lý của bà ở chợ Đông Ba, Quảng Trị, Đông Hà vô tới Quảng Nam, Quảng Ngãi... Duyên dáng răng đen Còn trong văn chương, ca dao Việt Nam thì tục nhuộm răng và răng đen của người phụ nữ được ca ngợi tôn vinh như một nét đẹp không thể thiếu được. Răng đen là nét đáng yêu được xếp vào hàng thứ tư trong cái duyên của người con gái: Một thương tóc bỏ đuôi gà,Hai thương ăn nói mặn mà có duyên,Ba thương má lúm đồng tiền,Bốn thương răng láng hạt huyền kém thua Để hấp dẫn, để sửa soạn, để trang điểm người con gái bao giờ cũng rất chú trọng đến hàm răng đen gợi cảm của mình: Lấy chồng cho đáng tấm chồng, Bõ công trang điểm má hồng răng đen. Và: Năm quan mua lấy miệng cười Mười quan chẳng tiếc, tiếc người răng đen. Trong bài thơ "Bên kia sông Đuống" nhà thơ Hoàng Cầm cũng đã từng ca ngợi nét duyên dáng, vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam ...Những cô hàng xén răng đen Cười như mùa thu tỏa nắng... Phụ họa thêm cho hàm răng đen mướt một sự sạch sẽ văn minh, phụ nữ thời ấy, lúc ăn trầu thường hay “đánh răng thuốc”, nghĩa là họ dùng một lọn thuốc lá sợi, vê thành cục bằng đầu ngón út mà chà xát vào mặt ngoài của hàm răng. Có “đánh răng thuốc”, khi nhai trầu, răng mới đen mướt và sạch sẽ. Có “đánh răng thuốc” thì miếng trầu mới đậm đà, không lạt lẽo. Có “đánh răng thuốc” thì trò chuyện mới duyên dáng! Cho nên, thao tác “đánh răng thuốc” là một nghệ thuật vô cùng sinh động trong giao tiếp, tăng thêm lịch sự quyến rũ! Mới răng là mới nụ cười Mới cả con người, mới cả thế gian! Tục nhuộm răng đen còn tồn tại mãi đến khi sang thế kỷ 20, chúng ta mới phá bỏ tục lệ này. Cho đến nay, hình ảnh ngưòi phụ nữ với hàm răng đen đã lùi vào dĩ vãng nhưng đó vẫn mãi là một nét đẹp văn hoá của người Việt Nam. nguồn:http://cuocsongviet.com.vn