Thiên Đồng

Hội viên
  • Số nội dung

    6.278
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    75

Everything posted by Thiên Đồng

  1. Cần khẩn trương khôi phục việc dạy chữ Hán trong nhà trường phổ thông Việt Nam Nguyễn Đình Chú 1. Chữ Hán là của Trung Hoa, chữ Hán được du nhập vào Việt Nam cùng với cuộc xâm lăng của nhà Hán đối với Việt Nam ở thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên. Con đường đến với Việt Nam của chữ Hán không quang minh chính đại, nhưng thực tế chữ Hán cũng đã thành một thứ văn tự từng có vai trò tiên phong khai mở, phát triển văn hóa Việt Nam nói chung, văn học Việt Nam nói riêng. Thử nghĩ, trong quá khứ dằng dặc hơn ngàn năm từ đầu Công nguyên cho đến thế kỷ XIII tính đến khi Việt Nam bắt đầu dùng chữ Nôm để sáng tác tác phẩm văn chương, nếu không có chữ Hán vào thì văn hóa Việt Nam, văn học viết Việt Nam có gì để con cháu hôm nay khám phá, biểu dương, tự hào, và không có chữ Hán thì làm gì có chữ Nôm ? Ở đây, cần thấy rằng chữ Hán đã đến với Việt Nam theo hai (chứ không phải một) quan hệ : quan hệ với cuộc xâm lăng nhà Hán và sau đó còn gắn bó với các cuộc xâm lăng tiếp theo của các triều đại phong kiến Trung Hoa trên đất nước ta ; nhưng còn có quan hệ thuộc quy luật tự nhiên của văn hóa, trong đó có sự lan tỏa ảnh hưởng, cũng có thể nói là sức nâng đỡ của một nền văn hóa lớn đối với các nền văn hóa bé trong phạm vi một khu vực – mà quan hệ này là điều tất yếu và cần thiết. Chẳng phải vì thế mà nhiều người đã cho rằng chữ Hán là của Trung Hoa, nhưng chữ Hán cũng là của khu vực trong đó có Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên, Hàn Quốc. 2. Chữ Hán trong nền văn hóa Việt Nam đã tồn tại theo quy luật thăng trầm, thịnh suy. Ở thời Bắc thuộc, nó đã phát triển đủ để lưu lại cho ngày nay một số trước tác, dịch phẩm liên quan đến Phật học, một số thơ văn. Đến thời tự chủ, trải qua các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hồ, Hậu Lê, Nguyễn, chữ Hán đã đóng vai trò công cụ hàng đầu của nền văn hóa văn học bác học của Việt Nam. Nó là văn tự chính trong các lĩnh vực văn hóa Việt Nam : hành chính, giáo dục, thi cử, lễ nghi, văn học. Dù dân tộc ta đã tạo ra chữ Nôm, nhưng chữ Nôm vẫn lệ thuộc vào chữ Hán trên phương diện cấu tạo, và văn hóa chữ Nôm vẫn chưa lấn át được văn hóa chữ Hán dưới triều đại phong kiến. Tuy nhiên, đến cuối thế kỷ XIX sang đầu thế kỷ XX, cùng với sự đổi thay của hoàn cảnh xã hội Việt Nam, chế độ phong kiến bị thay thế bằng chế độ thực dân nửa phong kiến kéo theo tình trạng văn hóa phong kiến Việt Nam vốn mang tính chất khu vực bị thay thế bằng văn hóa tư sản, kế nữa là văn hóa vô sản vốn mang tính chất toàn cầu. Do đó chữ Hán cùng với nền Hán học cổ truyền không kém hào quang đã lâm vào cảnh tàn cuộc. Năm 1915, ở Bắc Kỳ bỏ thi chữ Hán sau lần thi cuối cùng. Năm 1918, ở Trung Kỳ cũng là khoa thi Hương chữ Hán cuối cùng. Khoa thi Hội cuối cùng là năm 1919. Ở Nam Kỳ thì việc bỏ thi chữ Hán đã diễn ra ngay sau ngày bị mất vào tay thực dân Pháp. Sau khi bỏ thi cử chữ Hán, trong các nhà trường Pháp Việt, từ cấp tiểu học bậc hai (lớp nhì đệ nhất, lớp nhì đệ nhị, lớp nhất) đến cấp học cao tiểu (primaire supérieur), vẫn có dạy chữ Hán (caractères Chinois) mỗi tuần 2 tiết, trong cảnh “chơi đồ cổ” mà cả thầy lẫn trò nói chung chẳng ai muốn chơi nữa. Mặc dù không phải không có người sau này có một trình độ Hán học vốn lại nhờ chính những giờ khai tâm chữ Hán từ đó. Cũng cần nói thêm trước năm 1945, trong số các gia đình có truyền thống Hán học, các cụ vẫn dạy chữ Hán cho con cháu. Thậm chí, có nơi còn có trường học chữ Hán được mở trong một số gia đình mà học sinh không chỉ là con em của gia đình đó, mà còn là con em trong làng xã. Sau cách mạng Tháng Tám, trong khu vực kháng chiến, ở bậc trung học cấp II (nay là trung học cơ sở - THCS), tại nhiều trường vẫn học chữ Hán, mỗi tuần 3 tiết, nhưng sau đó thì bỏ. Đặc biệt đến năm 1950, khi có cải cách giáo dục thì chữ Hán ra rìa hoàn toàn. Sau này, ở trung học phổ thông (THPT) có học Trung văn, là chữ Hán nhưng đọc theo âm Trung Quốc hiện đại, không phải là âm Hán cổ nữa; vả chăng Hán cổ và Hán hiện đại, ngữ nghĩa, cú pháp cũng có sự khác nhau không ít. Có người giỏi Trung văn hiện đại mà vẫn hiểu sai văn Hán cổ, chính là vì lẽ đó. 3. Chuyện đã diễn ra trong quá khứ là vậy, nhưng suy nghĩ của con người, nhất là với các bậc thức giả, lại không bao giờ dừng một chỗ. Gần đây, trong dư luận xã hội, kể cả trên sách báo, đã có ý kiến đề xuất là cần dạy lại chữ Hán trong nhà trường phổ thông Việt Nam. Lý do đề xuất này chính bắt đầu từ chỗ biết rằng: trong kho từ vựng tiếng Việt, số lượng từ gốc Hán mà từ đó gọi là từ Hán Việt, chiếm 70%. Cho nên việc bỏ học chữ Hán là dẫn đến tình trạng người Việt Nam hiện nay hiểu sai ngữ nghĩa trong tiếng Việt rất nhiều. Không riêng gì dân chúng, mà cả đến các nhà văn, các vị Tiến sĩ, Viện sĩ cũng không ít người hiểu sai từ Hán Việt. Có nhà thơ đã viết trên báo giải thích “ý tại ngôn ngoại” là “ý ở trong, lời ở ngoài” (trong khi nghĩa của nó là : ý nằm ngoài lời). Có Viện sĩ trong buổi nói chuyện tại Thư viện Quốc gia đụng đến hai chữ “chiết tỏa” đã giải thích là “tỏa rộng ra” (!)… Chúng ta còn có thể kể ra nhiều dẫn chứng cho việc không biết chữ Hán nên đã hiểu sai, nói sai, viết sai tiếng Việt hiện đại. Và đó là lý do để đề xuất vấn đề : cần dạy chữ Hán trong nền giáo dục THCS và THPT Việt Nam hiện nay. Tất nhiên, điều này cách đây mươi mười lăm năm, và gần đây, cũng đã có chút khởi động. Cụ thể, ở chương trình Văn – Tiếng Việt bậc THPT trước cuộc cải cách 1990 đã có 4 tiết học về từ Hán Việt (lớp 12). Riêng với chương trình Ngữ văn THCS hiện nay thì đã có sự quan tâm về việc dạy từ Hán Việt ngay từ lớp 6 với hai hình thức: Thứ nhất, đối với một số bài thơ chữ Hán (ví dụ Nam quốc sơn hà…), cùng với việc phiên âm, dịch nghĩa, có thêm giải thích từng từ Hán Việt; Thứ hai, quy định số lượng từ Hán Việt cần học trong chính khóa là 50 yếu Hán Việt cho mỗi lớp (lớp 6, 7, 8) và 70 yếu tố Hán Việt cho lớp 9. Cuối các sách giáo khoa đều có bảng từ Hán Việt được học chính thức của từng năm. 4. Với ý thức muốn đưa chữ Hán và chút ít khởi động như trên, thiết tưởng đã đến lúc cần đặt vấn đề học chữ Hán trong nền giáo dục phổ thông nước ta hiện nay một cách thấu đáo, có bài bản, có chủ trương kế hoạch hẳn hoi. Nhưng, muốn làm được điều đó, lại trước hết cần nâng cao nhận thức về ý nghĩa của việc học chữ Hán là thế nào trong việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam hiện đại và tương lai. 4.1 Hãy trở lại vấn đề bỏ chữ Hán để dùng chữ Quốc ngữ. Đúng là từ lâu rồi, hình như người Việt Nam ta đã thống nhất với quan niệm rằng: dù chữ Quốc ngữ không phải do người Việt Nam sáng tạo ra, mà đó là sản phẩm của các cố đạo phương Tây nhằm tạo công cụ truyền giáo, nhưng sau đó, dưới chế độ thực dân, người Việt Nam ta đã vượt qua thời kì không chấp nhận và coi đó là chữ viết của nước mình (quốc ngữ), bởi nó có lợi ích rất lớn trong việc dân chủ hóa nền văn hóa Việt Nam so với chữ Hán ngày trước. Đó là quan niệm tưởng như không có điều gì phải bàn nữa. Tuy nhiên gần đây, nhà ngôn ngữ học có tên tuổi Cao Xuân Hạo lại có quan niệm gần như trái ngược, khi ông cho rằng việc nước ta bỏ chữ Hán để dùng chữ Quốc ngữ là một điều mất mát lớn. Quan điểm này đã bị nhà báo Nguyễn Hoàng Sơn công kích khá quyết liệt trên tạp chí Văn nghệ quân đội (2003). Vậy chúng ta nên hiểu thế nào cho thỏa đáng trước sự kiện bỏ chữ Hán thay bằng chữ Quốc ngữ? Trước hết, phải thấy rằng: việc bỏ chữ Hán để dùng chữ Quốc ngữ là hiện tượng xảy ra trong cuộc đụng độ giữa hai khu vực Đông – Tây. Trong cuộc đụng độ này, có vấn đề liên quan đến chữ viết của khu vực phương Đông, trong đó có chuyện la-tinh hóa hay không? Thực tế tại phương Đông, ở nước này nước khác, ít nhiều có chuyện la-tinh hóa chữ viết, nhưng rút cục cho đến ngày nay, không một nước nào đi theo con đường la-tinh hóa chữ viết truyền thống nước mình. Nhật Bản trước sau vẫn dùng chữ Hán để viết cả văn Hán lẫn quốc văn với hai cách đọc: Hán âm (Kan-on) và Quốc âm (Go-on). Ví dụ: với chữ “sơn” 山, cách đọc Kan-on là “san” còn Go-on là “yama”. Triều Tiên, Hàn Quốc trước sau vẫn dùng chữ viết của nước mình là Hangeul do vua Sejong phát minh vào thế kỷ XV, mà trước đó họ cũng dùng chữ Hán như người Việt Nam (Hán Hàn). Trung Quốc cũng có lúc muốn la-tinh hóa nhưng rút cục cũng thôi hẳn. Các nước khác trong khu vực từng dùng chữ Hán không đâu la-tinh hóa. Chỉ một Việt Nam ta làm thế, để rồi được cái gì và không được cái gì? Ý kiến của ông Cao Xuân Hạo không phải là không có lý, mà điều này ngay từ năm 1918, ông chủ bút Nam Phong – Phạm Quỳnh – trong bài Chữ Nho với văn quốc ngữ có nói: “Chắc ngày nay Nho học đã nhiều phần quá cũ rồi, không hợp thời nữa. Nhưng cũ là về phần hình thức mà thôi, còn phần cốt cách tinh thần, còn cái gốc đạo đức của Nho học thì cùng với núi sông mà sống mãi muôn đời. Ta nên bỏ là bỏ phần hình thức phiền toái, còn phần cốt cách tinh túy phải giữ lấy, vì nước ta còn có mặt trên địa cầu là còn phải nhờ cái tinh thần cố hữu ấy mới sống được. Nhưng muốn giữ tinh thần ấy mà bỏ hẳn chữ Hán là biểu hiện của tinh thần ấy thì sao được” (1). Ngược thời gian lên cuối thế kỷ XIX, chúng ta còn thấy nhà duy tân tiên phong và lỗi lạc Nguyễn Trường Tộ trong Tế cấp bát điều, trong khi chủ trương xây dựng chữ Quốc ngữ mới cho đất nước, đã không lấy chữ Quốc ngữ do các người cố đạo phương Tây sáng tạo mà sau này cả nước dùng. Ông chủ trương lấy ngay chữ Hán để đọc âm theo nghĩa Việt. Ví dụ 飲 食 (ẩm thực) nhưng đọc là “ăn uống”. Đúng là chúng ta cần suy nghĩ trước hiện tượng Nguyễn Trường Tộ vốn là người theo đạo Thiên chúa lại đã được trực tiếp tiếp xúc với phương Tây, có tư tưởng duy tân rất mực cấp tiến, mà vẫn không chấp nhận chữ Quốc ngữ la-tinh hóa, kể cả chữ Nôm mà ông cha ta đã xây dựng từ các thành tố của chữ Hán. Đúng là chuyện bỏ chữ Hán để dùng chữ Quốc ngữ la-tinh hóa là chuyện không đơn giản khi nghĩ đến cái được cái mất trong sự phát triển của văn học Việt Nam từ thế kỷ XX trở đi. Điều đã có thế nói và cần nói là : việc bỏ chữ Hán quả là ít nhiều cắt đứt với văn hóa truyền thống ngàn năm trước đó. Có điều kiện so sánh Việt Nam ta với Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên, Hàn Quốc, trên phương diện truyền thống xưa, liên quan đến yêu cầu giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc cho muôn đời, hẳn là sẽ rõ vấn đề hơn. 4.2 Để rõ vấn đề hơn, thử so sánh chữ Hán và chữ Quốc ngữ la-tinh hóa xem sao. Từ lâu, hình như tuyệt đại đa số người Việt Nam ta đều thấy chữ Quốc ngữ la-tinh hóa tiện lợi hơn hẳn chữ Hán. Với chữ Hán, chỉ một thiểu số người Việt Nam chiếm lĩnh được. Học chữ Hán phải “thập niên đăng hỏa” (mười năm đèn sách”. Trong khi với chữ Quốc ngữ, người sáng dạ chỉ dăm bữa là xong, người tối dạ cũng chỉ ba bốn tháng là được. Chữ Quốc ngữ đã giúp đất nước ta dân chủ hóa được nền văn hóa văn học. Mấy điều đó quả thật không thể chối cãi. Tuy nhiên, đã đến lúc phải so sánh chữ Quốc ngữ với chữ Hán một cách khoa học hơn, cặn kẽ hơn. Cũng lại nhà ngôn ngữ học Cao Xuân Hạo trong bài biết Chữ Tây và chữ Hán thứ chữ nào hơn? (Kiến thức ngày nay, 1989) đã cho ta biết: trên thế giới từ những thập niên đầu thế kỷ XX, người châu Âu thường yên trí rằng mình dùng chữ viết ABC – thứ chữ ghi âm – là hợp lý nhất, khoa học nhất. Nhưng từ những năm 30 của thế kỷ XX, sau những công trình của trường ngữ học Prague nêu rõ những chức năng và yêu cầu của ngôn ngữ viết khiến cho nó khác với ngôn ngữ nói thì quan điểm cho chữ viết ghi âm là “khoa học nhất” đã phải nhường chỗ cho quan điểm “tổ hợp âm” của chữ viết, nhất là từ thập niên 70 trở lại đây. Để chứng minh tính ưu việt của lối chữ viết “tổ hợp âm”, năm 1978, một nhóm ngữ học ở Mỹ đã làm thí nghiệm, mở một số lớp gồm trẻ em khuyết tật bị chứng Alexia (chứng bệnh không học chữ được) bằng cách dạy cho chúng học tiếng Anh nhưng đều được viết bằng chữ Hán. Ví dụ: câu “He came to a high mountain” được viết bằng chữ Hán là 他 到 及 一 高 山 (tha đáo cập nhất cao sơn), thì 1 năm sau, các em đọc và viết được 1600 từ đơn và về khả năng hấp thụ tri thức tỏ ra không đần độn chút nào. Thậm chí, kết quả học tập của chúng lại có phần trội hơn các em học tiểu học bằng chữ ABC. Điều này có liên quan đến bộ não, trong đó với loại trẻ khuyết tật, công năng của bán cầu bên phải (tri giác tổng hợp) trội hơn công năng của bán cầu bên trái (tri giác phân tích). Để chứng minh tính ưu việt của hiện tượng này, người ta còn xét đến cơ chế của việc đọc chữ, và thấy rằng khi đọc, người biết chữ thành thục không hề đánh vần. Họ nhận ra các từ qua diện mạo chung của chúng không khác gì khi nhận ra một vật, một người quen không phải bằng cách lần lượt nhận ra từng chi tiết (mắt rồi mũi, rồi miệng, rồi tai…) mà nhận ra ngay tức khắc toàn thể diện mạo của vật hay người đó. Tâm lý học hiện đại đã từ hiện tượng đó mà đưa ra khái niệm “diện mạo tổng quát”, được gọi là “Gestalt”. Cái gestalt càng gọn ghẽ (pregrant) thì việc nhận dạng “tức khắc” càng dễ dàng và tự nhiên. Về phương diện này, chữ Hán hơn hẳn lối chữ ABC. Chính từ quan điểm trên mà năm 1985, trong cuốn sách nổi tiếng Le mouveau monde Chinoisé (Thế giới Hán hóa ngày nay), Léon Vandermeersch đã khẳng định sở dĩ các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Đại Hàn, Singapore phát triển thành những “con rồng” được chính là vì họ vẫn dùng chữ Hán. Riêng Cao Xuân Hạo lại còn từ kết quả nghiên cứu cấu trúc ngữ âm mà đi đến những kết luận khoa học có liên quan tới vấn đề đang nói ở đây. Theo Cao Xuân Hạo: “Tiếng Việt có một cấu trúc ngữ âm khác hẳn các thứ tiếng châu Âu” nên “âm vị học của phương Tây (vốn là nền tảng lý thuyết của cách viết ABC) không thể đem ứng dụng để nghiên cứu và phân tích những thứ tiếng đơn lập như tiếng Hán, tiếng Việt, hay những thứ tiếng chắp dính như tiếng Nhật, hay những thứ tiếng “có sườn phụ âm” như tiếng Ả rập, tiếng Do Thái… Nó chỉ có giá trị và hiệu lực đối với các ngôn ngữ biến hình”. “Chữ viết ABC vốn phản ánh cái cấu trúc ấy, khó lòng thích hợp với tiếng Việt và cách tri giác của người Việt đối với tiếng mẹ đẻ của họ” vốn thuộc loại hình “ngôn ngữ âm tiết tính, trong đó âm tiết là một đơn vị có cương vị ngôn ngữ học minh xác, lại không thể phân tích ra thành những “âm tố” có cương vị tương đương, trong khi các thứ tiếng châu Âu, chính âm tố mới có cương vị của những đơn vị ngôn ngữ (âm vị) còn âm tiết lại không có cương vị ngôn ngữ học gì ?”. Từ quan điểm trên đây, nhà ngôn ngữ học Cao Xuân Hạo cho rằng : “việc học chữ Hán không thể không đưa vào chương trình trung học”. Ông còn cho biết thêm : “Hiện nay, nhiều người trong đó có cả những nhà ngôn ngữ học phương Tây đã thấy rõ những ưu điểm lớn lao của chữ Hán. Có người còn tiên đoán chỉ vài ba mươi năm nữa, cả thế giới sẽ nhất loạt dùng chữ Hán để viết tiếng mẹ đẻ của từng dân tộc. Theo họ, đến lúc ấy, cái hàng rào ngôn ngữ (barrières linguistiques) xưa nay vẫn ngăn cách các dân tộc sẽ bị vô hiệu hóa và đến lúc ấy nhân loại sẽ giao tiếp với nhau dễ dàng gấp trăm lần so với hiện nay”. Điều dự báo này có thành hiện thực hay không? Xin chờ thời gian. Chỉ biết rằng người ta xem ra rất đề cao chức năng của chữ Hán. Vậy người Việt Nam ta nghĩ gì trước dự báo đó? 4.3 Chung quanh vấn đề giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt và chủ trương coi trọng từ thuần Việt, hạn chế từ Hán Việt. Đây cũng là vấn đề có liên quan tới thái độ đối xử với chữ Hán mà tưởng như đã được giải quyết xong xuôi đâu vào đấy, không còn gì phải bàn thêm. Nhưng thực ra, ở đây vẫn có những điều cần được tường minh hơn, nếu không sẽ bất lợi cho việc xây dựng phát triển tiếng Việt nói riêng, văn hóa Việt nói chung. Có hai vấn đề đáng nói : 4.3.1. Thế nào là từ thuần Việt? và từ Hán Việt? Từ thuần Việt theo quan niệm thông thường là những từ do chính người Việt (dân tộc Việt) sáng tạo ra từ đầu, chứ không bắt nguồn từ tiếng nói của một dân tộc hay một tộc người khác. Nếu thế thì cũng khó nói đến từ thuần Việt theo định nghĩa đó. Bởi lẽ tiền thân của tiếng Việt hiện đại là tiếng Việt Mường, mà tiếng Việt Mường lại là một chi của tiếng Môn – Khmer. Tất nhiên ở đây cần phân biệt hai hiện trạng ngôn ngữ (état de langue) : tiếng Việt – Mường khi còn là một chi của tiếng Môn – Khmer và tiếng Việt - Mường một khi đã tách khỏi tiếng Môn – Khmer. Hiện trạng sau là “thuần Việt Mường”. Với từ gốc Hán thì phức tạp hơn, vì ở đây có liên quan tới cuộc xâm lăng của nhà Hán và giữa Việt Nam với Trung Hoa luôn luôn vẫn là hai quốc gia khác nhau (trong đó chủ nghĩa Đại Hán lại thường xuyên lấn át, bắt nạt Việt Nam) do đó mà trong tâm lý người Việt Nam dễ có mặc cảm xa cách thậm chí đối lập với tiếng Hán. Nhưng về khách quan, theo quy luật giao lưu ngôn ngữ, thực tế tiếng Hán và cũng là chữ Hán đã gia nhập kho tàng ngôn ngữ tiếng Việt với cái tên là Hán Việt. Hán Việt chứ không phải là Hán hoàn toàn, Hán Việt là của Việt. Nó chiếm hơn 70% vốn từ tiếng Việt như ta đã biết. Sao lại cứ phải kỳ thị với nó, thậm chí là muốn bài trừ nó để sinh ra cái chuyện “phi công” thì nói “người lái”, “không phận” thì nói là “vùng trời”, “hải phận” thì nói là “vùng biển”, “nữ du kích” thì gọi là “du kích gái”…, mà thực ra là có thể dùng cả hai, thậm chí có trường hợp muốn thay nhưng thay không được, hoặc thay thì chỉ dở hơn thôi. 4.3.2 Vị trí, giá trị của từ Hán Việt trong ngôn ngữ tiếng Việt : Tâm lý kì thị từ Hán Việt ít nhiều đã bỏ quên, không nhận rõ hết tính năng, tính trội của từ Hán Việt trên hai phương diện ngữ pháp và tu từ : - Về ngữ pháp : cũng theo Cao Xuân Hạo, cách kết cấu từ Hán Việt theo kiểu “trật tự ngược” (phụ chính) hơn hẳn kiểu “trật tự xuôi” (chính phụ) trong từ thuần Việt. Ví dụ: “xạ thủ nam” thì chỉ có thể hiểu một nghĩa người bắn là đàn ông, còn “người bắn nam” thì có thể hiểu 2 hay 3 cách: người bắn là đàn ông ; người bắn tên Nam ; người bắn anh Nam. Mối quan hệ cú pháp giữa các từ Hán Việt chặt chẽ này rất cần cho việc xây dựng thuật ngữ chuyên môn. Trong vốn thuật ngữ khoa học, kỹ thuật hiện nay ở nước ta, số lượng thuật ngữ Hán Việt chiếm phần chủ yếu chính là nhờ tính chặt chẽ đó trong cú pháp từ Hán Việt. - Về tu từ : các từ Hán Việt thực tế đã tạo ra phong cách, sắc thái ngữ nghĩa trang trọng, cổ kính, bác học, mà nếu thiếu chúng thì quả thật vẻ đẹp ngôn ngữ tiếng Việt, văn chương tiếng Việt sẽ sút kém đi một phần đáng kể. Thử tưởng tượng : “Hội phụ nữ Việt Nam” mà chuyển thành “Hội đàn bà Việt Nam”, “Hội con gái Việt Nam” ; “nữ Thủ tướng Ấn Độ” mà chuyển thành “Thủ tướng gái Ấn Độ” ; “nữ đồng chí” mà chuyển thành “đồng chí gái” ; “nữ giáo sư” mà chuyển thành “giáo sư gái” thì buồn cười biết bao ! 5. Tất cả những gì được trình bày trên đây là nhằm đi đến kiến nghị “cần khẩn trương khôi phục việc dạy chữ Hán trong nhà trường phổ thông Việt Nam”. Nhưng khôi phục như thế nào? Có mấy vấn đề cần bàn : 5.1. Học chữ Hán là chỉ học từ Hán Việt đã phiên âm, hay học bằng chính văn tự Hán ? Rõ ràng là học bằng chính văn tự Hán thì có lợi hơn vì tận dụng được chức năng “tổ hợp âm” như trên đã nói. Nhưng thực tế, với thực trạng giáo dục Việt Nam vốn đã bỏ học chữ Hán từ lâu mà nay đặt ra yêu cầu đó thì khó thực hiện, nhất là liên quan đến vấn đề đào tạo giáo viên dạy chữ Hán lại không đơn giản tí nào. Nên chăng là thế này: sắp tới nếu phân ban làm 2: A (gồm các ngành khoa học tự nhiên) và B (gồm các ngành khoa học xã hội) thì ở ban A sẽ học từ Hán Việt đã được phiên âm bằng chữ Quốc ngữ, ở ban B sẽ học từ Hán Việt bằng chữ Hán hẳn hoi, mà có thể buổi đầu chưa thể làm đại trà, nhưng phải có kế hoạch từng bước tiến tới đại trà trong ban B này. Nếu tôi không lầm thì trước 1950, tại một số trường chuyên khoa (như chuyên khoa Huỳnh Thúc Kháng lúc còn ở Hà Tĩnh), với ban cổ điển (tương đương với ban B này) vẫn có giờ cổ văn, trong đó có học chữ Hán. Và ở miền Nam trước 1975, với một loại trường phổ thông nào đó, vẫn có giờ chữ Hán. Xin các vị có trách nhiệm và hiểu hết lịch sử giáo dục kiểm tra, bổ chính cho. 5.2. Học chữ Hán từ bậc học nào? Từ THCS lên THPT hay chỉ đến THPT mới học ? Theo tôi nên từ bậc THCS, mỗi tuần 1 tiết, cứ thế cho hết bậc THPT. Thời gian của tiết học này sẽ lấy ở quỹ thời gian của phần tiếng Việt trong chương trình Ngữ văn đã đi theo hướng tích hợp. Chẳng những thế mà còn phải lợi dụng tính năng của việc tích hợp này, ngay ở phần Văn cũng phải coi trọng việc dạy nghĩa từ Hán Việt trong các giờ giảng văn, chẳng riêng gì với văn học cổ mà cả ở văn học hiện đại. Mà việc này cũng cần được chương trình hóa, có định mức, định lượng hẳn hoi như sách giáo khoa Ngữ văn THCS hiện nay. 5.3 Vừa qua, được cơ quan truyền thông đại chúng cho biết trong luật sửa đổi về giáo dục mà Quốc hội sẽ thông qua có đặt vấn đề đưa việc học chữ Hán vào lại nhà trường phổ thông (Nhật Bản, Hàn Quốc đều có dạy chữ Hán ở trường phổ thông). Tôi cũng mong rằng cả xã hội, đặc biệt là các bậc thức giả của đất nước cần lên tiếng ủng hộ quan điểm tích cực, giàu ý nghĩa đó để dự kiến trên đây trở thành chính thức trong luật sửa đổi về giáo dục. Và nếu đã thành luật thì phải gấp rút xây dựng chương trình và vạch kế hoạch đào tạo giáo viên một cách khẩn trương, trong đó việc tăng cường bộ môn chữ Hán tại các trường Đại học Sư phạm và xây dựng bộ môn chữ Hán tại các trường Cao đẳng Sư phạm trong cả nước. GS. NGND. Nguyễn Đình Chú, Khoa Ngữ văn, Trường ĐHSP Hà Nội. =============================VIỆC DẠY LẠI CHỮ NHO KHÔNG LÀ KỲ VỌNG HAY ẢO VỌNG MÀ LÀ SỰ SỐNG CÒN CỦA TIẾNG VIỆT. Nhân đọc bài " Khôi phục việc dạy chữ hán trong nhà trường, kì vọng hay ảo vọng ? " của tác giả Khải Nguyên đăng trên mạng "anviettoancau" trong tháng này, sau khi nhận định và phân tích một bài báoTuổi Trẻ cuối tuần số 25/2010 (ra ngày 27-6-2010) “Cần khôi phục việc dạy chữ Hán trong nhà trường” ; tôi nghĩ tác giả KN đã hiểu thiển cận về ý nghĩa của hai chữ "Truyền Thống" nên mới đi viết : "Ồ! Rõ là không biết nhìn và không có tầm nhìn! Hãy nhìn riêng điều này: hằng năm, nước ta có biết bao nhiêu là lễ hội, từ cấp dòng họ, cấp xóm thôn đến cấp quốc gia, có cả cấp quốc tế nữa nhá! Rõ là đất nước, xã hội tràn ngập không khí “truyền thống”. Hễ ai có công đức là thấm nhuần tinh thần truyền thống. […] Những người chủ trương, những người điều hành quan tâm đến việc bảo tồn và phát huy những mặt tích cực của tinh thần truyền thống hay quan tâm đến “hòm công đức”, đến những “thu hoạch” từ các loại dich vụ là chính? Sau lễ hội, dân trí về tín ngưỡng truyền thống được nâng lên hay mụ mị đi theo hướng mê tín, dị đoan? Ở hầu hết các nơi lễ hội có nhiều chữ Hán trên các hoành phi, câu đối, các tấm bia, ... ; mấy ai dự lễ hội có ý tìm hiểu và hiểu được? Những người chịu trách nhiệm, đã có ai nghĩ tới việc dịch ra quốc ngữ và ghi hoặc khắc vào bảng rồi đặt nghiêm chỉnh, trang trọng vào nơi thích hợp bên cạnh; khi cần thì có diễn giảng thêm. Ngay cả những người đọc được chữ Hán, chẳng phải ai cũng thấu hiểu những ý sâu sắc mà cha ông chúng ta để lại. " "Điều cần nhận xét trước hết là sự sai biệt về nội dung mà người ta thường hiểu về hai chữ Truyền Thống. Thường thì người ta hiểu Truyền Thống là tập tục, là những cái gì lưu truyền từ đời này qua đời khác. Có thứ truyền thống quân đội, truyền thống gia tộc, truyền thống hương thôn, truyền thống tôn giáo v.v… sự thực ra đó chỉ là những tập tục lưu truyền, những thể chế cũ kỹ, và đó là những bia rất đích đáng cho những lời công kích trưng lại trên kia. Lại còn có những lối học từ chương nhai lại chữ nghĩa bề bộn kềnh cơi, để cho văn tự cướp mất tinh thần mà cũng gọi là Truyền Thống. Sự thực đó chỉ là truyền chữ, truyền nghĩa, truyền sách, truyền vở chứ đâu có đáng gọi là Truyền Thống. Vì Thống là cái Thống Kỷ, Thống Quan, tức cái nguyên lý thống nhất thâm sâu, nó liên tục và hiện diện cách u linh trong mọi câu nói, bề ngoài coi như rời rạc nhưng thực ra đều nhịp theo một tiết điệu. Chỉ đáng gọi là hiểu được một hiền triết là khi nào đã có thể tham dự vào được cái quá trình sinh động của làn sống tâm linh ngầm chảy đó, nó luôn luôn sống và đủ khả năng để tỏa thêm những tia sáng mới có sức soi rọi và gợi dậy biết bao tiềm lực đang nằm chết giấc trong cái xó tối do chữ nghĩa gây nên, và phát động một lối suy tư mới, cảm nghĩ khác trước cho hợp với những hoàn cảnh mới xuất hiện. Muốn được như thế thì không phải nhai sách vở cũ mà được, chữ nghĩa hay tới đâu cũng là đồ chết và chỉ có người sống mới làm cho chúng sống. Khổng viết: “Đạo thính nhi đồ thuyết, đức chi khí dã”. Cái đạo mới nghe qua tai ở đầu đường này vội đem ra thuyết với giảng ở đầu kia, chưa kịp suy tư un đúc lại, thì đấy là làm việc của người gánh rông đường (colportage) xê dịch sách vở có chút hồn sống nào đánh rơi đi hết. Như vậy có đạo có đức cũng chẳng bằng không có còn hơn. “Chấp đức bất hoằng, tín đạo bất đốc, yên năng vi hữu yên năng vi vô. ” (L.N. XIX. 2). Giữ đức mà không hoằng đại ra. Tín đạo mà không đốc thật chân thành, thì dẫu có đọc trơn thập tam kinh đi nữa phải kể là có Truyền Thống hay là không có Truyền Thống? Vậy thì Truyền Thống chúng ta bàn ở đây là có ý nó đến mối Quán Thông Thiên Địa, nó là linh hồn của cái học Truyền Thống cũng gọi là Nhân Bản Tâm Linh. Bao lâu chưa đặt lại được nền Nhân Bản và bao lâu chưa khơi được suối mạch tâm linh thì bấy lâu chưa có Truyền Thống, mà chỉ có lưu truyền, truyền tụng chi đó là những cái chỉ cần đọc đi cho biết, chứ không đòi đọc lại, nghĩa là từ những điều tiền nhân truyền lại không chịu tìm hiểu đến chỗ tinh vi để có thể nhập thần, để mà hoằng hóa thích nghi không những cho hợp với thời đại mà còn hướng dẫn đến những chân trời mỗi lúc mỗi mới mẻ mỗi bao la. Đấy mới là Thống. Thống không là ngồi mà ôm mà ủ, nhưng là đi lên mãi trên con đường đạo tiến xoáy ốc vào Vô biên. Như vậy là một con đường đầy hứng khởi." (trích Triết lý Giáo Dục / Kim-Định) Nên Truyền Thống đúng nghĩa không là phong tục tâp quán cổ, truyền lại với lễ hội, kèm theo "hòm công đức" như tác giả đã chỉ trích mỉa mai, để rồi từ đó dẫn đến trả lời tiêu cực qua thắc mắc : "Khôi phục việc dạy chữ hán trong nhà trường, kì vọng hay ảo vọng ?", vì đã không có được cái nhìn nhất quán để thấu triệt được tầm quan trọng của vấn đề chữ Nho. Do đó qua bài viết này, tôi mạo muội nêu lên vài thiển ý nhưng không thiển cận, để phản biện với tác giả Khải Nguyên bằng cái tuyệt học của tiền nhân thánh hiền (vị vãng thánh kế tuyệt học) mà chúng ta có bổn phận phải nối tiếp, chứ chỉ ngồi mà ôm ủ rồi đặt vấn đề như : "Tinh thần truyền thống” qua chữ Hán là sao? Là tinh thần dạy và học như của các nhà nho xưa chăng? Tinh thần ấy ở ta, nhiều nhà nho như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh đã nói đến rồi, cùng một dòng suy nghĩ với nhiều người Trung Quốc duy tân, như Lỗ Tấn, Lương Khải Siêu từng lên án là nguyên nhân khiến nước Tàu yếu hèn. […] Mà nắm được chữ Hán một cách uyên thâm chỉ mới là một điều kiện, dù là điều kiện cốt yếu. Vậy học chữ Hán trong trường phổ thông có thể “hiểu được chữ Hán” đến đâu? đủ để cho “tinh thần truyền thống” ấy phát huy tác dụng chưa? " thì chứng tỏ là mình chưa có cái nhìn nhất quán ! Tôi hiểu từ ‘chữ Hán’ ở đây với nghĩa ‘chữ Nho’, nên tôi sẽ lập luận và bàn về vấn đề chữ Nho mà không đề cập đến chữ Hán, vì ngày nay người ta cũng đã khám phá chữ Hán phát xuất từ chữ Nôm, chữ Nho, tức là từ tiếng Việt. (xem bài Chữ Nôm cổ xưa và ý nghĩa của Việt của tác giả Đỗ Thành). Do đó mà cần tìm hiểu lại là Cái học nhà Nho đã hỏng chưa (?) hay là chúng ta đã xuyên tạc cái ý của tác giả Trần Tế Xương (1870-1907), qua bài thơ "Cái học nhà Nho" muốn châm biếm hạng người Việt gian xu thời lúc bấy giờ, chạy theo Tây với cái học ngoại bang để kiếm ‘bơ thừa sữa cặn’, rồi từ đó đi khinh chê cái học của tổ tiên thánh hiền ? Nên để trả lời cho câu hỏi này thiết thưởng chúng ta nên tìm hiểu lại ý nghĩa của cái câu thơ đó trong bối cảnh lịch sử của Việt Nam dưới thời thực dân Tây, mà ở địa vị thất thế và hoàn cảnh nghèo khó của tác giả Trần Tế Xương không làm gì hơn được, đành chỉ biết than : Than Cùng Lúc túng toan lên bán cả trời, Trời cười thằng bé nó hay chơi Cho hay công nợ là như thế Mà vẫn phong lưu suốt cả đời Tiền bạc phó cho con mụ kiếm Ngựa xe chẳng thấy lúc nào ngơi Còn dăm ba chữ nhồi trong ruột Khéo khéo không mà nữa lại rơi ... và châm biếm : Chữ Nho Nào có ra gì cái chữ nho ! Ông Nghè, ông Cống cũng nằm co. Chi bằng đi học làm ông Phán Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò ! ... rồi mỉa mai : Cái Học Nhà Nho Cái học nhà nho đã hỏng rồi, Mười người đi học, chín người thôi Cô hàng bán sách lim dim ngủ Thầy khóa tư lương nhấp nhỏm ngồi Sĩ khí rụt rè gà phải cáo, Văn chương liều lĩnh đấm ăn xôi Tôi đâu dám mỉa làng tôi nhỉ Trình có quan tiên thứ chỉ tôi.[1] =============== [1]=tiên thứ chỉ: tức tiên chỉ và thứ chỉ-người có địa vị một hai trong làng. Nên nếu chúng ta nói là Trần Tế Xương đã chê cái học chữ Nho thì tại sao ông ta lại bảo : Còn dăm ba chữ nhồi trong ruột Khéo khéo không mà nữa lại rơi và nếu "dăm ba chữ" đó không là chữ Nho thì là chữ gì ? Vậy thì "cái học nhà Nho đã hỏng rồi" là do ai, có phải là do chúng ta ham "sâm banh với sữa bò" cho tới mãi bây giờ, để đừng nói là lo "vinh thân phì gia", như tác giả đã mỉa mai : Chi bằng đi học làm ông Phán Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò ! Do đó, nếu chúng ta cứ tiếp tục chê bai một cách u mê là "cái học nhà Nho đã hỏng rồi", thì lấy "chữ" gì để mà đối đáp tuyệt vời như tiền nhân, để đừng nói là lấy gì để mà bảo vệ tiền đồ văn hóa dân tộc ? Thì đó có phải là "lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng" vì tôi đã không thấu hiểu chữ Nho ? Cho đến nay đã có ai giỏi hơn tổ tiên như Bạch Vân cư sĩ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm chưa, và nếu cái "học nhà Nho đã hỏng" như chúng ta đã in trí, thì tại sao thánh hiền lại đề cao Đạo Nho như tôi đã dẫn chứng qua hai câu thơ cuối trong bài thơ Ngu Hứng của Trạng Trình : Mừng thấy đạo Nho chưa héo lụi, Mà vẫn đang phơi giữa nắng vàng. Vậy thì chúng ta có lý với cái học làm ông Phán như thẩm phán, hay bác sĩ, kỹ sư... với ngoại ngữ theo thời đại và đề cao "khoa học kỹ thuật" để có "sâm banh sữa bò" như TTX đã nói, hay là tiền nhân đã chí lý với cái "Đại Học chi Đạo" để thành Nhân, để sống Đạo làm Người ?! Triết gia Kim-Định trong tác phẩm Hiến Chương Giáo Dục (xuất bản 1972) đã đặt vấn đề và đã đưa ra giải pháp, nhưng dưới thời đất nước đang lúc chiến tranh, nên không mấy người đã lưu tâm, hay nếu có thì cũng rất ít, thành thử coi như chỉ là tiếng kêu trong sa mạc. Nhưng hôm nay, nếu có người đặt lại vấn đề vì như tác giả Khải Nguyên đã nêu lên như : "Tác giả bài báo cho rằng: “Những sai lầm yếu kém trên sẽ không có nếu học sinh được học chữ Hán, có thói quen tra từ điển Hán-Việt và tiếng Việt” và “bây giờ nói đến sự gìn giữ sự trong sáng của tiếng Việt chính lại là phải học chữ Hán” (KN nhấn mạnh)." Do đó, tôi thiết nghĩ ai chưa thấu hiểu vấn đề như KN, nên cần đọc lại phần trích dẫn sau đây để không còn nói : "Khôi phục việc dạy chữ hán trong nhà trường, kì vọng hay ảo vọng ?", mà sẽ bảo là tối quan trọng, không những cho sự trong sáng của tiếng Việt mà là cho sự bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc ! "Có nên học chữ Nho nữa chăng ? Đó là vấn đề đã được đặt ra và chưa được giải quyết dứt khoát. Nhưng nếu đã nhận một số sách Nho làm kinh điển thì nhất định phải học chữ Nho. Tuy nhiên chúng ta cũng nên tìm hiểu xem đó chỉ là cái ách nặng cần phải chấp nhận hay có ơn ích gì chăng và phải học Nho cách nào ? Từ ngày có quốc ngữ mà tôi sẽ gọi là chuyển tự thì chữ Nho bị phế bỏ đi như một thứ văn tự lỗi thời chứ không thể so đo với chuyển tự trong các lợi ích của nó : học mau hơn chữ Nho ít ra gấp 10 lần, lại dễ đi sang chữ quốc tế… Vì tiện lợi như thế nên chuyển tự không để Nho giữ được địa vị xưa. Sau này vì một số người hoài cổ, tranh đấu cho chữ Nho một hai giờ, nhưng cũng không mấy ai chú ý, nên nay bỏ hẳn. Mà bỏ là phải vì lối dạy cũng như lý do bảo trợ chữ Nho đều mất gốc. Tại sao cần duy trì chữ Nho ? Câu thưa hơi kém là vì chữ Nho có liên hệ với nước ta. Thiếu chữ Nho không thể hiểu trọn vẹn tiếng Việt. Đó là những lý lẽ đúng nhưng lại tuỳ phụ. Bởi vì có biết bao người không học chữ Nho mà vẫn hiểu được tiếng Việt, và viết văn Việt còn hay hơn những người biết Nho là khác. Ngoài ra còn phải ghi nhận tính chất bật rễ của lý lẽ trên tức là nhấn mạnh đến văn chương ngôn ngữ, đó là theo Tây đặt ngôn từ trên hết, ngược hẳn với Đông phương đặt ngôn từ xuống hàng ba sau thành công và thành nhân. Thực ra nếu chỉ nhằm có mục đích hạn hẹp về ngôn từ thì bỏ Nho là phải. Vì không có chữ Nho tiếng Việt vẫn có thể phong phú cách này hoặc cách khác và công nghệ kỹ nghệ cũng vẫn tiến như thường, nên đứng về hai mặt này thì tiếng Anh giúp ta nhiều hơn chữ Nho. Vậy lý do đưa chữ Nho vào phải lấy từ đợt nhất là “lập đức” tức là thành nhân, và ở đây thì tiêu chuẩn phải đổi. Ở thành công cũng như học viết học đọc thì sự mau lẹ là nhất, nhưng ở thành nhân lại phải chú trọng đến sự xâu xa, thâm trầm giàu chất rung cảm lay động tới nền móng vô thức con người Việt Nam chúng ta, và lúc ấy thì chữ Nho trở thành cần thiết, không thể lấy chuyển tự thay thế, và dù khó nhọc đến đâu cũng phải học và còn nên coi đó như một cái may mắn lớn lao cho nền văn hóa nước nhà. Bởi vì một tác phẩm càng khó thì càng có sức giáo hóa mạnh, vì nó đòi phải có nhiều tập trung tinh thần và nhờ đó dễ có tư tưởng. Và đấy là chỗ lợi hại của tử ngữ hơn sinh ngữ. Sinh ngữ học đến đâu hiểu đến đó liền ; tử ngữ bắt người học phải tìm ý tưởng qua gốc tiếng, hay mối liên hệ với toàn bích và đấy là dịp cho các học giả trở nên sâu xa trong khi tìm ý nghĩa ám hợp nhất trong rất nhiều ý tưởng gợi lên do một tiếng. Chính vì thế một nền văn hóa sâu xa bó buộc phải có hai loại ngôn ngữ : một thứ thông dụng hàng ngày trong công việc làm ăn, cũng như trong việc truyền thông mọi ý tưởng từ công nghệ kỹ nghệ lên tới đạo lý và đó là chữ quốc ngữ hoặc chuyển tự, và chuyển tự đã chơi vai trò đó một cách tuyệt vời. Xét trong thế giới đố ai tìm ra chữ dễ đọc hơn thông ngữ Việt. Ta ghi ơn những người có công thiết lập ra lối văn tự này. Tuy nhiên ta phải nhận thức rằng thông ngữ mới chỉ nắm vai tròn vòng ngoài gắn liền với lý trí, giác quan rõ rệt và dễ dàng. Thế nhưng nếu nền giáo dục chỉ có những cái dễ dàng minh bạch, khúc chiết thì nền giáo dục đó làm cho người học chóng trở thành bì phu thiển cận, hời hợt bởi “dễ học thì cũng dễ quên”, “easy come, easy go”. Vì thế mà cần một lối văn tự khác, một ngôn ngữ khác để chuyên chở những cái sâu xa, những di sản sơ nguyên của dân tộc. Vì là sơ nguyên (primitif) nên cũng là tối hậu (irréductible) vì nối liền với nền minh triết tiềm thức (subconscient Wisdom) tức là cái u linh, cảm nhiều mà nói ra rất khó vì nó gắn liền với niềm vô thức, cần một ngôn ngữ thiếu đường viền, với những bờ cõi nhập nhằng trồi sụt giữa các loại từ, với một ngữ pháp lỏng lẻo… và với ta đó là chữ Nho. Nho là thứ chữ của Minh triết, của tiềm thức hơn bất cứ cổ ngữ nào trong nhân loại, nên bất cứ cổ ngữ nào cũng đều đã trở thành tử ngữ, chỉ riêng chữ Nho là trở thành linh ngữ linh tự, tức là vẫn sống mạnh và đầy uy lực đầy cảm xúc như bất cứ nhà nghiên cứu nào cũng nhận ra (xem chẳng hạn Granet, Pensée Chinoise tr.36, 39, 62). Vì thế ta phải coi chữ Nho là một đặc ân mà ít dân tộc nào có được. Mà cũng vì không có, nên văn hóa của họ chỉ có sinh ngữ và tử ngữ. Tử là chết nghĩa là không gây ảnh hưởng vào việc định hướng đời sống văn hóa hiện tại là bao nhiêu. Và vì thế mà văn hóa thiếu mất chiều sâu. Cho nên văn hóa nước nhà nằm trong miền ảnh hưởng của chữ Nho là một ơn huệ, và ta cần khai thác triệt để ân huệ đó. Vì thế ta sẽ coi chữ Nho là cơ sở vòng trong căn để minh triết, còn thông ngữ ở vòng ngoài thuộc thành công, văn nghệ, văn học văn chương. Nhờ có hai ngôn từ như thế nền văn hóa nước nhà có khả năng trở thành phong phú sâu xa với một cơ sở tinh thần rất mạnh mẽ. Và lúc đó văn hóa nước ta mới có linh tự (hiéroglyphe) làm căn để cho linh ngữ, mà linh ngữ là chìa khóa mở vào kho tàng tiềm thức bao la, thiếu nó thì một nền văn hóa có sáng lạn đến mấy cuối cùng cũng không đủ sức quyến rũ được con người muôn thưở. Vì nếu chỉ có sức quyến rũ hay đúng hơn chỉ có ơn ích cho con người phải sống trong xã hội, phải ăn làm nói năng, phải thành công, phải giải trí… thì chưa đủ ; vì phần sâu xa nhất là tính bản nhiên con người chưa có chi đáp ứng. Cái đó là việc của linh tự linh ngữ. Chính vì thiếu linh ngữ mà văn hóa Tây Âu tuy rất phong phú dồi dào nhưng không vượt qua nổi trình độ du hí (tuồng kịch, tiểu thuyết…) không sao vươn tới nổi triết lý… để đến nỗi “vất cho chó ăn nó cũng chưa no”. Đó là câu nói tàn nhẫn nhưng rất thật, vì chúng ta chưa hề thấy có những chiến sĩ hy sinh hết thân tâm cho nền văn hóa đó, vì là nền văn hóa duy trí, duy chí (volonté) nên quá hời hợt không thể lôi cuốn được con người có cả vòng trong là tiềm thức mênh mông vô biên. Cũng vì thiếu vòng trong nên giáo dục Tây Âu đặt trọn vẹn trên lý trí và ý chí mà thôi, thiếu hẳn một dụng cụ đào sâu vào cõi vô thức (xem Vocation Sociale, Gurvitch I.148). Nền giáo dục nước ta nay gọi là vong bản, chính vì cũng chỉ có thành công, và du hí : văn chương, tiểu thuyết, văn học, triết học… Muốn có phần tâm linh thì với Tây phương hầu như bất lực, không phải vì họ kém ai, chỉ vì họ đã không may không còn linh ngữ nữa. Ngược lại với Việt Nam, muốn cho nền giáo dục bớt bì phu, thì chỉ có việc đưa Nho trở lại chương trình. Một khi đưa Nho vào là ta đã có một lợi khí thống nhất. Thống nhất với tiên tổ xa xưa đã cùng học chữ Nho trong những sách đó, thống nhất với các thế hệ một hai ba ngàn năm sau sẽ có một chuyển ngữ khác, và khó lòng hiểu được tiếng nói Việt Nam hiện đại. Nhưng về linh tự lại cũng học một thứ chữ Nho như tiền nhân và cũng như ta nay, thành ra trong cái biến thiên là chuyển ngữ của mỗi đời lại có một linh ngữ đời đời giống nhau để làm mối liên hệ văn hóa ràng buộc các thế hệ với nhau theo hàng dọc đặng làm xương sống bơm sinh khí là hàng ngang là văn hóa mỗi thời. Cái bí quyết làm cho nền văn hóa Viễn Đông mạnh mẽ sâu xa là ở đó : ở chỗ không những có tiếng nói cho cá nhân mỗi thời mà còn có tiếng nói cho dân tộc trải qua mọi đời. Muốn cho được những ơn ích trên chúng ta cần phải bàn xem nên dạy chữ Nho như thế nào. DẠY NHO CÁCH NÀO? Điều này tối quan trọng vì có những cách dạy chữ Nho mà vẫn bật rễ như thường. Để nhận định chúng ta hãy kiểm điểm lại xem có mấy lối học Nho. Thưa có ít gì ba lối. Một là học như sinh tự Hai là học như sinh tự sinh ngữ Ba là học như linh tự linh ngữ. Học như sinh tự là kiểu của người Tàu, họ đã biết sinh ngữ rồi không cần học lắm nữa nay chỉ học thêm mặt chữ vậy gọi là sinh tự. Người ngoại quốc muốn học chữ Tàu phải học cả sinh tự lẫn sinh ngữ, tức phải học cả chữ lẫn tiếng Tàu. Thí dụ sách Tân quốc văn dạy: “điểu hữu lưỡng dực cố năng phi. Thú hữu tứ túc, cố thiện tẩu”, với người ngoại quốc thì đó là lối học sinh ngữ, và sinh tự. Họ phải biết điểu là con chim, đó là sinh ngữ, và phải biết đọc và biết viết chữ điểu vậy là sinh tự. Đó là cái học hoàn toàn hợp lý cho người ngoại quốc khi muốn giao thiệp với người Tàu. Và đó là cái học hữu lý một phần cho người Tàu, tức phần nhận mặt chữ, nhưng còn phần nội dung thì người Tàu cũng đã bật rễ như chúng tôi sẽ bàn sau về tiếng Việt. Còn đối với Việt Nam mà cũng học như thế thì phải kể là cái học chuyên môn nghĩa là chỉ cần cho những ai giao thiệp với người Tàu, tức là cái học không cần cho hết mọi người Việt. Cho nên dạy như thế là đặt mình vào hướng sinh ngữ, hướng chuyên môn, nghĩa là với tình trạng hiện nay là tiếng Anh rồi sau là tiếng Pháp, chỉ cần có bấy nhiêu, còn chữ Nho hiện không mấy giúp vào việc anh làm giao thiệp hay khoa học chi lắm. Cho nên dạy chữ Nho theo lối sinh tự sinh ngữ chỉ là chuyên môn nghĩa là tạm để dành cho thế hệ chúng ta nay đã không được học từ lúc nhỏ, còn khi nói đến đưa Nho vào chương trình giáo dục, là phải nhằm vào việc giáo dục làm cốt yếu như thế phải dạy theo lối linh tự linh ngữ, nói khác học Nho là cốt học đạo làm người mà tiên tổ đã bao đời kinh nghiệm tích lũy lại. Nói cụ thể là lấy ngay những sách đã được tuyển chọn làm sách dân tộc, làm kinh điển để dạy. Dạy như thế là trước hết nhằm vào nội dung, rồi mới đến mặt chữ. Mặt chữ phải giúp vào việc duy trì nội dung. Thí dụ trong khi đọc câu “nhơn chi sơ tính bản thiện” là học được nội dung triết lý rất sâu xa, mà một trật cũng học được mặt chữ. Còn trong khi đọc câu “điểu hữu lưỡng đực cố năng phi…” thì chỉ học được có mặt chữ và ý nghĩa một câu, còn nội dung câu nói thuộc thường thức không cần học rồi cũng biết, và điều đó hầu không giúp chi vào việc truyền đạt di sản thiêng liêng của dân tộc chi cả. Vì thế dùng những bài kinh Thi vắn tắt bốn chữ một dễ học. Cũng có thể dùng Tam tự kinh hay Sơ học vấn tân hoặc 14 truyện đầu Lĩnh Nam trích quái học bằng chữ Nho. Ngoài ra những sách Tam thiên tự hay Ngũ thiên tự tuyệt đối bỏ vì chỉ là học chữ rời, không có nội dung, càng không nên đặt ra sách mới vì không phải là kinh nữa. Để chống lại lối dạy cổ hủ xưa chúng ta đã đi theo lối khoa học, là tiến từ đơn sơ đến phức tạp, tức từ chữ ít nét đến nhiều nét, rồi theo đó đặt ra một câu nói xuôi cốt để tránh lối học ê a chẳng hiểu chi ý nghĩa. Đấy là một bước tiến, nhưng bước tiến đó phải thực thi với những sách kinh điển. Nếu để thực hiện được bước tiến kia mà phải chạy ra ngoài để làm bất cứ một câu nào thì tiến một mà lùi mười, tiến được trong phương diện dạy mặt chữ, nhưng bỏ mất nội dung của đạo lý. Học xong đọc được chữ Nho, nhưng không biết chi tới đạo lý của nhà Nho. Thành thử cả hai người dạy lẫn người học không nhận ra vai trò của chữ Nho đâu cả. Cái hại học chữ Nho theo lối sinh tự, sinh ngữ là ở đấy. Học như thế không giúp chút nào vào việc tránh cái thông bệnh thời đại là tán loạn trong tâm hồn. Dù có biết chữ biết nghĩa, nhưng học xong rồi cũng quên hết vì nó nằm trong cảnh rời rạc kiểu Tân quốc văn. Ngược lại khi học Nho theo lối linh tự linh ngữ thì khi học xong người học đã được truyền thụ lại cho một nền đạo lý của tiên tổ có thể dùng làm mối dây để xỏ thêm các sự hiểu biết mới, thành ra phong phú tới đâu cũng có một tiêu điểm để hướng tới, rồi có thể làm cho thêm phong phú, hay chỉ hướng tới để đả phá, nhưng tất cả đều có chỗ hướng tới và như thế là còn tiêu điểm để ý cứ, để khỏi vật vờ và nhờ đó dễ trở nên mạnh mẽ, và đó là mục tiêu tối hậu của giáo dục. Dạy như thế là người dạy đã đóng góp phần lớn nhất, quan trọng hơn hết vào việc “giáo dục” con người vậy. Nói khác khi dạy Nho giáo theo linh tự linh ngữ là người dạy đã làm tôn hẳn giá trị của chữ Nho lẫn giá trị người dạy, ngược lại khi dạy theo lối sinh tự sinh ngữ thì chỉ là việc của nhà chuyên môn, hiện nay không mấy thiết yếu. Cần thêm rằng lối dạy bằng kinh điển không có hại chi cho việc phân tích từng chữ cũng như trong việc đi từ chữ đơn đến chữ kép. Nhất là chúng ta biết khả năng đi từ đơn đến kép không có nhiều trong chữ Nho khi muốn dùng các chữ đó làm ra một câu có ý nghĩa, nên dẫu có vứt bỏ kinh điển để đi ra ngoài tự ý lựa chọn, thì chỉ sau mấy chữ đã phải đi đến chữ nhiều nét (Tân quốc văn bài 1 gồm chữ nhơn hai nét. Bài hai gồm hai chữ thủ và túc thì chữ túc tới bảy nét!). Vậy không nên vì tiện lợi thuộc phương pháp mà bỏ mất nội dung. Làm thế là dạy ăn sò mà chỉ nhai có cái vỏ, không biết chi đến cái ruột đầy sinh tố. Vậy thì chỉ nên dạy theo lối linh tự linh ngữ nghĩa là dạy kinh điển, và lấy bản văn đó làm cơ sở phân tích. Thí dụ: “đại học chi đạo, tại minh minh đức” thì nên phân tích chữ đại, chữ chi… và khi lên mấy lớp trên thì trở lại phân tích ngữ luật. Cũng như sau này lên mấy lớp trên nữa (đệ ngũ đệ tứ) thì trở lại trên kinh điển để làm phê bình nội ngoại và triết lý… Thành ra cùng một bản văn mà trong thời kỳ đi học được trở đi trở lại thì tức là chôn vững được cơ sở tinh thần dân tộc vào tâm hồn người học. Cũng xin ghi rằng lối dạy này là đi từ tổng quát tới phân tích là lôi được nền giáo dục mới đang khám phá (Méthode globale idéovisuelle của Decroly), bắt đầu dạy thuộc lòng câu sách, rồi sau đến nhận mặt chữ, rồi viết chữ, ít năm sau đến ngữ luật, rồi ít năm sau lại đến ý tứ sâu xa… thì đó là lối đi từ tổng quát thị giác đến ý nghĩa: rất hợp tâm lý vậy." (trích Hiến Chương Giáo Dục của triết gia Kim-Định) Viết xong, ngày 6 tháng 8 năm 2010 (tức 25 tháng 6 năm Canh Dần) Nguyễn Sơn Hà từ http://www.vietlandnews.ne
  2. Cứ theo như ông Nguyễn Đình Chú thì chữ Trung Quốc là siêu việt nhất, hơn hẳn vượt trội từ Tây sang Đông. Buồn thay chính tư duy này mới thật sự chính là trực tiếp tự hạ thấp bản sắc văn hóa dân tộc Việt, tiếp tay cho tư tưởng bành trướng. Những dẫn chứng hay luận cứ dẫn giải nhằm chứng minh cho chữ Hán là siêu việt nghe có vẻ khoa học, nhưng dể dàng nhận thấy việc tỏ rỏ một lối suy nghĩ chủ quan cứng nhắt và đầy khiêm cưỡng. Cứ theo Léon Vandermeersch thì sự phát triển thành rồng của các nước này chỉ là do dùng chữ Hán chăng? Ông Léon Vandermeersch quả là con ếch nổi tiếng với câu này và những người theo tư tưởng câu này cũng thật là con ếch mù! Lại nữa ông Cao Xuân Hạo: Xin lỗi ông Cao Xuân Hạo, ông giải thích như thế nào khi trong thế kỷ XX trước, trong chiến tranh, miền Bắc chỉ trong thời gian ngắn từ 90 đến 99% người dân được xóa mù chữ bằng chữ La Tinh gọi là chữ Quốc Ngữ và biết bao văn chương thi ca, nhạc kịch ra đời lưu danh bất hũ? Thiên Đồng tôi dốt thiệt, nhưng ít ra cũng không có tư tưởng tự ty như các vị đầy chữ, đầy tri thức. Thiên Đồng
  3. Cá nhân Thiên Đồng không cho rằng " “nhận thức dị thường” hay là “trực giác tiên tri”là khả năng thiên phú trên trời rơi xuống. Nếu chấp nhận nó là một khả năng thiên phú mang vẽ huyền bí thì phong thủy chẳng còn là khoa học. Chỉ có cái chưa chịu hiểu nó dưới cách nhìn khoa học, phương pháp luận Lý học.
  4. Người thường không biết thì nhiều nên tìm đến hay khai thác chiêu hồn áp vong, vì vậy mà âm dương lộn tùng phèo. Tạo nghiệp. Nhưng làm sao ngăn được. Coi như là chuyện thường ngày ở xóm. Vậy thôi.
  5. Phương pháp giải quyết vấn đề và Tứ Diệu Đế (phần 1) Nguyễn Cung Thông Loạt bài này tóm tắt các suy nghĩ về phương pháp giải quyết vấn đề (viết tắt là ppgq, problem solving) và Tứ Diệu Đề (viết tắt là tdđ, the Four Noble Truths) - nói cách khác hơn là suy nghĩ về tư duy (think of thinking). Nội dung các phần sau dựa nhiều vào kinh nghiệm kỹ thuật, ngôn ngữ, giáo dục (sư phạm) và nhất là từ sự quan sát và suy nghĩ cá nhân qua những hoạt động hàng ngày. Một số từ có tiếng Anh/Pháp kèm theo để người đọc dễ tham khảo thêm. Người viết sẽ cố tránh các thuật ngữ Tâm Lí Học, Toán Học cũng như Phật Học cho bài đọc dễ hiểu hơn. Trong quá trình tìm hiểu về con người cũng như tìm tòi những phương cách giải toả nỗi lo âu, các vấn đề con người phải đối phó hàng ngày cho đến hàng năm - ngay cả hết cuộc đời - ppgq luôn luôn hiện diện và là cốt lõi của rất nhiều hoạt động, từ quảng đại quần chúng (bình dân) cho đến chuyên ngành (bác học). Nhiều khi ta cũng áp dụng các cách giải quyết vấn đề/gqvd mà không ý thức được, như một thói quen (nhắm hướng khi tìm đường đi, 5 nhân 20 bằng 100 ...) chẳng hạn. Thật ra có rất nhiều ppgq trong kinh điển: từ Nhị Thập Ngũ Đế (Đề, 25 Diệu Đề) tới Cửu Đề (9 Diệu Đế/Đề) đều hàm chứa tdđ phần nào. Phần 1 chỉ chú trọng vào tdđ và tương quan với phương pháp khoa học khách quan và luôn kiểm chứng được, ngoài ra các dữ kiện ngôn ngữ sẽ làm rõ thêm ý nghĩa và áp dụng của tdđ trong tiếng nói và sinh hoạt hàng ngày của chúng ta. Cứ mỗi lần giải quyết xong một vấn đề, hay trải qua một kinh nghiệm đó, cũng chính là thêm vào bộ nhớ của ta một kiến thức và thêm một chìa khoá giúp ta thoát (giải thoát 解脱 - tiếng Phạn moksha मोक्ष) cõi u mê tăm tối (vô minh 無明 - tiếng Phạn avidya dअविद्य). Đây là một mục tiêu lớn hơn của tdđ và ppgq cùng đóng góp vào nền tảng và phát triển trí tuệ con người. Khả năng quản lý dữ kiện và gqvd rất cần thiết khi nền văn minh càng ngày càng tiến bộ cùng với kiến thức gia tăng tột bực. Nhiều ngành chuyên môn xuất hiện là kết quả của nhiều năm học hỏi và nghiên cứu. Cũng nên nhắc lại ở đây định nghĩa của một chuyên gia (chuyên viên, expert) là người trong bộ nhớ có nhiều phương pháp giải quyết (schemas) về một lãnh vực nào đó. Các khái niệm giải thoát, vô minh, vô thường, niết bàn ... đều cần ít nhất cả cuốn sách để tìm hiểu cho cặn kẽ thêm và không nằm trong phạm trù bài viết này. Tứ Diệu Đế 四聖諦 là các từ Hán Việt/HV còn gọi là Tứ Diệu Đề, Tứ Đế, Tứ Thánh Đế, Tứ Chân Đế ... Cụm từ này dịch nghĩa của tiếng Phạn चत्वारि आर्यसत्यानि (catvāri āryasatyāni, bốn chân lí/sự thật cao cả/mầu nhiệm) thường gặp trong kinh Phật1 và cũng là một lý thuyết căn bản của đạo Phật. Tdđ gồm có bốn phần: Khổ Đế 苦諦, Tập Đế 集諦, Diệt Đế 滅諦 và Đạo Đế 道諦; Với bốn giai đoạn rất đơn giản như vây, tdđ là một ppgq có khả năng ứng dụng rất cao so với những ppgq khác phức tạp hơn mà mức áp dụng lại rất thấp (hạn chế). Đức Phật Tổ đã giảng về tdđ đầu tiên tại vườn Lộc Uyển1 (Sarnath) cách đây hơn hai thiên niên kỷ; Tuy nhiên tdđ vẫn còn được nhiều người nhắc đến ở khắp nơi trên hành tinh này: ngày nào chúng ta còn bị hấp lực của trái đất chi phối, thì ngày đó con người vẫn phải đối phó với mọi hình thức giam hãm của các dây nhợ ràng buộc3 đó. 1. Khổ Đế 1.1 Khổ 苦 là từ HV, giọng Bắc Kinh/BK bây giờ là kǔ kù so với giọng Quảng Đông fu2 gu2, Hẹ k'u3 fu3 và Mân Nam khou2. Khổ là âm Hán Trung Cổ và có các biến âm là khó rất thường gặp trong tiếng Việt. Đây chính là một định nghĩa cô đọng của vấn đề hay điều gì khó hiểu, một bài toán (problem, problème, проблема) mà đáp số không dễ dàng tìm ra. Có điều gì khó2 hiểu hay không thấy cách giải quyết rõ ràng phải là giai đoạn đầu tiên của ppgq, nếu không thì chẳng có gì đáng quan tâm. Nghĩa nguyên thuỷ của khổ là rau đắng (đồ), sau mở rộng nghĩa với ý vị đắng, vất vả, khốn khổ, khó khăn, hoạn nạn ...Theo Thuyết Văn Giải Tự/TVGT (thời Đông Hán) thì khổ là loài rau đắng: <說文> 大苦,苓也 đại khổ, linh dã Liên hệ trực tiếp (ngữ âm) giữa khổ và khó chính là dây nối giữa tdđ và ppgq mà rất ít người biết đến. Tiếng Trung (Quốc) bây giờ không xài chữ khó (khổ) như tiếng Việt cho thấy sự gần gũi lâu đời giữa văn hoá xã hội VN với Phật giáo, cũng như các dạng cởi gỡ giải, Bụt buộc Phật. Phạm trù nghĩa của khó-khổ-hủ (khổ /hủ qua, trái mướp đắng) Khổ qua là môt cây thuốc thiên nhiên được Liên Hiệp Quốc đề bạt (in tem năm 1980). Tục ngữ ‘thuốc đắng giã tật’ nói lên phần nào một tính chất của ppgq, thường ngược lại (đắng) với sự ưa thích bình thường (ngọt). Tiếng Anh dùng tính từ hard (cứng) để chỉ khó khăn: nghĩa gốc là sức mạnh, cứng (cụ thể) và mở rộng nghĩa thành khó khăn (cần sức mạnh của ý chí, tăng mức độ trừu tượng). Khổ là từ HV dịch nghĩa của tiếng Phạn दुःख duhkha (dukkha: khó chịu, đau khổ, đau đớn, khốn khổ, khó khăn ...). Để ý phạm trù nghĩa (rất rộng) của các tiếng Phạn dùng trong kinh Phật3, và quá trình dịch nghĩa từ tiếng Phạn ra tiếng Trung (Hoa) hay tiếng Việt (hay Cổ Việt) qua kinh điển và lời giảng (địa phương) mà có tác giả cho là được bản địa hoá. Tiếng Phạn du nghĩa là xấu, tồi bại hợp với kha là trống/rỗng (không/emptiness) cho thấy nghĩa nguyên thuỷ của duhkha là cái gì trống rỗng (không có thật) và đáng chê trách. Thành ra cách dịch theo ý duhkha là ‘Khổ’ không được chính xác cho lắm. 1.2 Đế hay đề 諦 là từ HV: nghĩa nguyên thuỷ là thẩm xét/tra xét - TVGT ghi đế là thẩm dã 審也; Nhưng theo nhà Phật thì là chân ngôn 真 言 và cũng là cách dịch nghĩa của tiếng Phạn सत्य satya (chân thật, thành thật, đáng tin, thật sự, thành công ...). 1.3 Từ sự quan sát cuộc đời con người, ta có thể nhận ra là mọi dạng hiện hữu đều mang tính chất khốn khổ (khó) - rõ nét nhất là khi mục tiêu (ước muốn) chưa đạt được - cái khoảng cách càng xa mục tiêu bao nhiêu thì mức độ sầu não càng cao bấy nhiêu. Điều này còn thấy trong bốn giai đoạn sinh lão bệnh tử (tứ khổ) hay nhìn hẹp hơn ở trong ngũ uẩn (ngũ ấm: sắc thụ tưởng hành thức). Không ý thức được ‘sự thay đổi mới là căn bản của mọi sự vật’ hay vô thường 無常 - अनित्य anitya, và ‘cái tôi’ (ngã) làm cho dễ lầm đường (vô ngã 無我- अनात्मन्) anatman): đây là những yếu tố làm cho khoảng cách của ‘cái có’ và ‘cái muốn có’ trở nên lớn hơn, tạo ra bao nhiêu vấn đề cần phải giải quyết. Tóm lại, từ lòng mong ước (muốn) một trạng thái (hoàn cảnh, tình trạng) A thay đổi hay trở thành trạng thái B thì ta đã có ít nhất một vấn đề cần phải giải quyết. Khoảng cách4 giữa A (trạng thái đầu/Initial state) và B (trạng thái cuối/Final state) càng lớn thì vấn đề càng khó giải quyết, nói cách khác giữa A và B có chướng ngại vật (vật chắn hay cản, obstacle), thí dụ như (a) tìm đường đi đến nhà người bạn (ở gần, ở xa, ở nước ngoài ...): trạng thái đầu (A) mình đang ở nhà - trạng thái cuối (B) mình ở nhà bạn (B) giải bài toán "tổng số các chân của một đàn bò kể cả người chăn bò là 34, tìm ra số con bò ...": trạng thái đầu (A) đếm hết số chân cẳng là 34 - trạng thái cuối (B) số con bò là bao nhiêu? © giải phương trình bật nhất 4x+2=34 : trạng thái đầu (A) được cho một phương trình bậc nhất là 4x + 2 = 34 mà x thường đại diện cho một con số nào đó (pronumeral), trạng thái cuối (B) phải tìm ra giá trị đặc biệt của x trong hoàn cảnh này (d) trở thành triệu phú (trong 3 năm ...): trạng thái đầu (A) mình là một người bình thường (không có trong tay cả bạc triệu), trạng thái cuối (B) mình nắm trong tay bạc triệu (e) muốn lập gia đình với anh/chị X: trạng thái đầu (A) chưa có gia đình (còn độc thân, hay đã từng có gia đình ...), trạng thái cuối (B) mình thành lập gia đình với anh/chị X (f) buổi sáng xe không khởi động (nổ máy, đề máy) được: trạng thái đầu (A) xe không nổ, trạng thái cuối (B) xe chạy bình thường trở lại ...v.v... Một số vấn đề khá rõ ràng (well-defined) như a, b, c và f so với một số vấn đề không rõ ràng cho lắm (ill-defined) như d và e mà ta phải cần thêm dữ kiện để hiểu rõ hơn; Còn một số vấn đề chưa ai giải được (vấn đề mở, còn bỏ ngõ, open problem) như khả năng tiên đoán cấu trúc của phân tử prôtein từ chuỗi axit aminô (amino acid sequence), bài toán bốn màu5 để tô bản đồ (four-colour map problem) ... Lại có những vấn đề rất thực tế (real-world problems) như muốn lập gia đình, tìm phương pháp kiếm tiền nhiều hơn ... So với một số vấn đề hầu như chỉ thấy trong lớp học (khi đi đến trường học). Thực hành nhiều lần tdđ sẽ trở thành thói quen (trí nhớ dài hạn) Sau khi đã nhận ra vấn đề cần giải quyết, ta không nên nhảy ngay vào ‘vòng quyết định’ hay hành động. Có thể là phải quan sát thêm, học hỏi hay tìm thêm các dữ kiện cho thông suốt vấn đề - có khi phải làm ra mô hình (cụ thể, physical model) của vấn đề - đem tất cả các giác quan và đầu óc liên hệ trực tiếp với vấn đề (sống với vấn đề/bài toán). Các hoạt động này dẫn đến giai đoạn thứ nhì trong chu kỳ tdđ hay truy ngược lại từ trường hợp đã có (tình trạng A) và tìm ra các nguyên nhân, yếu tố đã tạo ra vấn đề trên (tình trạng A). 2. Tập Đế 2.1 Tập 集 là từ HV với nhiều nghĩa: hội họp (tụ tập, tập hợp), làm nên, đều ... Cùng một gốc với tạp 雜 (phức tạp, tạp nhạp) - đều thuộc bộ chuy 隹chỉ loài chim đuôi ngắn. Nghĩa nguyên thuỷ của tập là đàn chim tụ lại trên cây: 【說文】羣鳥在木上也 [Thuyết Văn] quần điểu tại mộc thượng dã Tập, tạp HV có những biến âm trong tiếng Việt như tóp, tốp, chập (nối lại), chắp, chập chùng (chập chồng), đắp, xấp ... Tạp hoá (hàng hoá lặt vặt) còn để lại vết tích là tiệm ‘chạp phô’ theo giọng Quảng Đông ... Các dạng biến âm trên nói lên phần nào bản chất phức tạp hay tập hợp của nhiều thành phần đã tạo thành vấn đề (Duyên Khởi/Thập Nhị Nhân Duyên). Tập Đế là cách dịch nghĩa của tiếng Phạn समुदय samudaya: kết hợp, nối lại ... Tiền tố tiếng Phạn sam- (cùng, chung) hợp với từ gốc udaya (mọc, lên - như mặt trời mặt trăng, mây tụ lại). Đi sâu vào cấu trúc tiếng Phạn, u hàm ý trở nên (tạo thành) và aya có nghĩa là lý do (reason), cho nên udaya उदय có nghĩa nguyên thuỷ là các nguyên nhân tạo ra đau khổ khi có một số điều kiện kết hợp nào đó. 2.2 Sau khi nhận thức được cái khó (khổ) thì ta hãy lần ra các nguyên nhân gây ra sự khó khăn (khổ não): nói cách khác, hãy tìm ra nhân của các quả này (nhân quả). Tam độc hay tam phọc3 (tam căn) là ba cội rễ của phiền não: tham (tham lam), sân (hận, giận hờn), si (mê). Ba cái mầm này luôn luôn hiện hữu trong mỗi con người chúng ta. Chính những mầm mống này tụ lại (tập, tạp) làm cho con người chìm đắm trong bể khổ vô minh/ngu đần; Các loại ham muốn này cũng làm con người không thể thoát khỏi vòng luân hồi (輪迴 - tiếng Phạn संसार sam-sāra). Giai đoạn 2 (Tạp Đế) không phải là độc lập với giai đoạn 1 (Khổ Đế) mà thực ra còn làm vấn đề (cái khó/ khổ) trở nên sáng tỏ hơn nữa vì các mối tương quan đã được tìm ra: các hiện tượng (vật lí hay tâm lí) đều có mối liên hệ với nhau, phản ánh qua Thập Nhị Nhân Duyên (十二因縁 - tiếng Phạn dvādaśanidāna). 2.3 Khi phân tách vấn đề cho hiểu thêm tại sao lại có trường hợp khó khăn như vậy, có khi ta cũng cảm nhận phần nào cách giải qua các mối dây tương tác đang theo đuổi: (a) tìm các con đường dẫn đến nhà bạn hay từ A đến B - xem bản đồ từ A đến B hay B đến A, tra ngược lại từ vị trí nhà bạn đến nhà mình - nhận ra các địa điểm đã từng biết, hỏi người đi đường ... (B) tìm hiểu số chân (con) bò khi biết số bò - như 5 con bò thì có 20 cái chân, cộng với hai cái chân của người chăn bò là 22 ... Tổng quát hơn, nếu số con bò là x thì số chân bò là 4 nhân với x ... © tìm hiểu trạng thái đầu A tại sao phương trình lại có dạng 4x + 2 = 34: đầu tiên là lấy 4 nhân với x, sau đó cộng với 2, và kết quả là 34 ... Nói cách khác, tìm hiểu cơ cấu của từng bộ phận tạo nên toàn thể vấn đề (phương trình 4x + 2 = 34) (d) trạng thái đầu A là hiện tại, muốn thêm 200000 đồng, thêm 300000, và 400000 ... để có trong tay cả triệu - hay có thể nhảy vọt (như trúng số) đến trạng thái cuối là triệu phú ... (e) tìm hiểu tình trạng đầu A - mối liên hệ với anh/chị X ra sao, các cách làm thêm gần gũi hơn hay đậm đà hơn để dẫn tới hôn nhân hay chung sống lâu dài ... (f) trạng thái đầu A, sáng nay xe ‘trở chứng’ không chạy - tìm hiểu lý do như xem lại các dây nối bình, động cơ đề, xăng còn hay hết, tình trạng đèn báo hiệu (tuỳ loại xe) ... Giai đoạn tìm hiểu vấn đề từ các khía cạnh khác nhau - ngay cả rời bỏ vấn đề để làm chuyện khác như đi bộ hay đi nằm nghỉ (nhưng không phải là đi xem TV, video), xong rồi quay lại để có thể nhìn vấn đề (còn gọi là incubation) - đều cho ta những cách nhìn mới lạ, gia tăng khả năng giải quyết hơn là dính líu quá nhiều theo chiều sâu mà mất đi chiều rộng (đi một đàng học một sàng khôn); Thái độ khách quan này rất cần thiết trong giai đoạn đầu của ppgq, vì ta rất dễ không nhận ra những dữ kiện hay tín hiệu khác để giải quyết vấn đề cho hoàn hảo hơn. (còn tiếp)
  6. Phương pháp giải quyết vấn đề và Tứ Diệu Đế (phần 2) Nguyễn Cung Thông 3. Diệt Đế 3.1 Diệt nghĩa là mất, hết (tiêu diệt), tắt (lửa); Diệt dịch nghĩa tiếng Phạn निरोध nirodha: sự cầm giữ, đè nén, tiêu huỷ, thất vọng ... Giọng BK bây giờ là miè so với giọng Quảng Đông mit6, Mân Nam biat8, tiếng Hàn myel, Nhật là metsu/betsu - chỉ có tiếng Việt mới ngạc cứng hoá cho ra các dạng diệt, dút, dứt. Các dạng biến âm trong tiếng Việt là dụt (lửa), dứt . Theo TVGT thì diệt (biên hiệu 7402) là 滅,[亡列切 ],盡也。從水��聲 Diệt ,[ vong liệt thiết ] , tận dã . Tòng thủy diệt thanh Nghĩa gốc của diệt có thể thấy trong cấu tạo của chữ Phạn và chữ Hán. Nirodha gồm có tiền tố ni- nghĩa là thoát khỏi, không còn ... và từ gốc rodha là giới hạn, giam hãm (lao tù) ... Do đó, nghĩa đầu tiên từ cách chiết tự trên của Diệt Đế là thoát khỏi sự kềm kẹp (diệt, dứt bỏ - cessation): đây là nghĩa nhiều người biết nhất. Tuy nhiên, tiền tố ni- trong tiếng Phạn còn có nghĩa là trở nên (into), thành ra nirodha có thể hiểu một cách khác là trở thành giam hãm (bị giới hạn): ít người biết nghĩa này hơn. Cách dịch nghĩa qua tiếng Hán (diệt) cũng hỗ trợ cho nghĩa đầu tiên (dứt bỏ) với bộ thuỷ (nước) và chữ hoả (lửa) là một thành phần của chữ diệt滅. 3.2 Sau khi đã tìm ra được nguyên nhân gây ra khổ não (khó khăn) thì phải diệt bỏ chúng từ các cội rễ này, nếu các ham muốn bị tận diệt thì kết quả là các đau khổ cũng mất theo. Giai đoạn này gồm có những hoạt động cụ thể từ dập tắt lửa (nghĩa nguyên thuỷ) cho đến loại bỏ lòng ham muốn, diệt trừ các nguyên nhân đã tạo nên khó khăn (nỗi khổ, vấn đề) và đạt được trạng thái niết bàn (涅槃 - tiếng Phạn nirvana निर्वाण); Tính chất đặc thù (local) này tương phản với tính chất bao quát (global) của giai đoạn 2 (Tạp Đế) và cho thấy bản chất tích cực (positive) của tdđ, chứ không phải tiêu cực như một số người lầm tưởng. Mục đích của giai đoạn này là biến đổi trạng thái ban đầu A đến trạng thái cuối B, san bằng khoảng cách giữa A và B. Trở lại và áp dụng giai đoạn Diệt Đế cho các trường hợp đặt ra bên trên: 3.3 Thực hành hay áp dụng một phương án chọn ra từ kết quả của hai giai đoạn trước (Khổ Đế và Tạp Đế) - tóm tắt giai đoạn 3 cho các trường hợp đã nêu ra bên trên: (a) bắt đầu đi bộ hay lái xe theo con đường đã chọn trên bản đồ (có thể dựa vào khoảng cách ngắn nhất, đi đường cái mà thôi, đi theo những đường mà mình đã đi qua nhiều lần ... Nếu chẳng cần tham khảo bản đồ hay suy nghĩ đến các đường đi mà cứ đến nhà bạn đại (lần mò theo hướng và hỏi đường nếu lạc ...) cũng là một ppgq (thử-và-sai-thử-tiếp). Nếu liên tục kiểm lại (bằng cách hỏi thăm đường) còn cách nhà bạn bao xa trên đường đi, hay là một cách thẩm định khoảng cách đến mục tiêu còn bao xa: đây là phương pháp Phương-Tiện-Mục-Tiêu (Means-End Analysis) - xem thêm mục (e) bên dưới (B) thử xem số chân của trường hợp 10 con bò ra sao: 4x10 + 2 = 42, quá nhiều chân so với kết quả đã cho là 34 ... Nên phải giảm số con bò xuống ... Thử số con bò là 5 thì số chân là 4x5 + 2 = 22, quá ít so với kết quả đã cho là 34 ... Khi thử số con bò là 8 (giữa hai số 10 và 5) thì thấy số chân là 4x8 + 2 = 34 đúng với kết quả đã cho. Cách giải kiểu này là phương pháp ‘thử-và-sai-thử-tiếp’ (trial-and-error method, còn gọi là cách giải ‘máy móc’/Mechanical solution) cho đến lúc đạt được đáp số, phép giải trên rất thường gặp. © dựa vào quá trình cấu tạo nên phương trình 4x + 2 = 34, một cách giải là đi ngược lại các quá trình đã nhận ra: trừ 2 từ 34 (vì quá trình nguyên thuỷ là +2, ngược lại là -2), kết quả được 32 - xong rồi chia kết quả này cho 4 (vì quá trình nguyên thuỷ là nhân với 4, ngược lại là chia cho 4) thì được 8. Đây là đáp số cho bài toán dùng phương pháp ‘đi ngược lại’ (back-tracking). Phương pháp ‘đi ngược lại’ và ‘thử-và-sai-thử-tiếp’ trên là những cách rất thông thường khi con người phải đối phó với một vấn đề khó khăn (còn gọi là heuristics). Có nhà lại dựa vào cách giải các phương trình bậc nhất đã biết trước đây để giải bài này như sau 4x + 2 = 34 (ghi lại phương trình) 4x + 2 -2 = 34 - 2 (trừ hai vế cùng một số 2) 4x = 32 Vì muốn x bằng bao nhiêu nên chia hai vế cho cùng một số 4 để cho x đứng một mình 4x/4 = 32/4 x = 8 (đây cũng là kết quả đã tìm thấy bằng cách ‘đi ngược lại’ bên trên) Dựa vào kinh nghiêm từ trước để giải các vấn đề giống nhau hay cùng loại là bản chất tự nhiên của con người (ngựa quen đường cũ), và cũng cho thấy bộ nhớ hoạt động một cách bình thường. Tuy nhiên phải xem kỹ các điều kiện của các vấn đề hay bài toán có thật sự giống nhau hay không (trông gà hoá quốc), vì nếu không có thể dẫn đến kết quả sai lệch. Đây là cách giải dùng loại suy (analogy). Các phương pháp giải phương trình bậc nhất như trên - theo từng giai đoạn rõ ràng và chính xác - còn gọi là algorít (algorithm) phổ thông trong Toán và Khoa Học; Khác với heuristics, algorít thường cho ra đáp số một cách chắc chắn: thí dụ như phép tính diện tích hình tam giác bằng cách lấy chiều cao nhân với đáy rồi chia cho 2 ... (d) dựa vào những quá trình để trở thành triệu phú, ta có thể lập nên những mục tiêu phụ (subgoals) từ trạng thái đầu tiên A: xây dựng gia tài lên 200000 đồng (mục tiêu phụ số 1), xây dựng gia tài thành 500000 đồng (mục tiêu phụ số 2) ...v.v... Cho đến khi đạt được mục tiêu cuối cùng (trạng thái cuối B - triệu phú). (e) cũng như (d), thành lập các mục tiêu phụ để chinh phục quả tim X - sau đó tới mục tiêu cuối cùng là thành lập gia đình với X (trạng thái cuối B). Mỗi khi thực hiện xong một giai đoạn thì khoảng cách đến trạng thái cuối B càng ngắn lại (càng ngày càng thân với X) cho đến khi hoàn thành công việc là tới đích. Đây cũng gọi là phương pháp Phương-Tiện-Mục-Tiêu (Means-End Analysis/MEA). (f) dựa vào kết quả của các hoạt động tìm hiểu tình trạng của động cơ đề, dây nối, bình điện ... Nếu thấy một trục trặc nào đó thì chỉnh lại (nối dây lại, thay bình điện, đổi máy đề ...). Xong rồi thì đề máy xem ra sao: các hoạt động này biểu thị phương pháp ‘thử-và-sai-thử-tiếp’ rất rõ nét. 4. Đạo Đế Đạo Đế là từ HV dịch nghĩa của tiếng Phạn मार्ग marga: con đường, phương pháp, kiểu cách, tập tục (xưa); Marga lại có gốc Phạn là động từ marg- với nghĩa tìm kiếm ... Điều quan trọng nên nhắc ở đây là không phải chỉ có một con đường để giải quyết vấn đề; Như có ít nhất bốn "Đạo" (marga) trong phái Yoga (Du Già 瑜 伽- tiếng Phạn योग) tuỳ vào tính khí mỗi người: Jnana Yoga chuyên về thiền định và phân biệt để tìm ra chân lý tuyệt đối, Raja Yoga chuyên về thiền định để có thể kiểm soát tư tưởng của mình ...v.v... 4.1 Đạo Nghĩa nguyên thuỷ của đạo là đường đi (bộ sước trong cách viết chữ Hán), sau mở rộng nghĩa bao gồm các nghĩa đạo lý, thông suốt, cách thức.... Theo TVGT 道,[徒皓切 ],所行道也。從辵從��。一達謂之道 Đạo ,[ đồ hạo thiết ] , sở hàng đạo dã . Tòng sước tòng thủ . Nhất đạt vị chi đạo Giai đoạn sau cùng trong chu kỳ tdđ là nhìn xem các con đường (đạo) diệt bỏ các khó khăn (khổ đau): như Bát Chính Đạo (八正道 - āryāṣṭāṅgamārga: chính kiến, chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp, chính mệnh, chính tinh tiến, chính niệm, chính định). Đây là thời kỳ ngừa bệnh (preventative, phòng ngừa) hơn là chữa bệnh (reactive, phản ứng) như ba giai đoạn trước đó, hay là ppgq lâu dài thay vì ngắn hạn. Tam Thập Thất Đạo Phẩm (三十七道品 - bodhipakṣ a dharma, Giác Phần hay Bồ Đề Phần trong đó có Bát Chính Đạo) là 37 cách hỗ trợ cho ta đạt bồ đề (ngộ), đều là những con đường dẫn đến giải thoát và niết bàn. Ngoài ra, kinh Phật còn nói đến 28000 pháp môn hay đạo để thoát khỏi tính tham, 28000 pháp môn để ra khỏi lòng sân và 28000 pháp môn để thực hành và là thuốc giải (antidote) cho lòng si: hay tổng quát hơn là 84000 cánh cửa mở ra để cho mọi người có thể đạt được quả bồ đề. Điều này cho thấy khả năng chi tiết hoá của tdđ cho từng cá nhân trong xã hội (customised) và mức độ áp dụng rất cao của ppgq này. Vì từ kinh nghiệm bản thân và khả năng quan sát, tư duy đặc biệt của đức Phật Tổ nên tdđ tuy rất đơn giản và dễ hiểu nhưng không thiếu mức độ sâu sắc. Các giải pháp cực đoan và quá khích (cực lạc, cực khổ) đều không thể cho ra kết quả tối ưu bằng con đường Trung Đạo (Majjhima Patipada). Tdđ được quảng đại quần chúng hưởng ứng không kể ngành nghề, ngôn ngữ, địa lý, tuổi tác, màu da ... đến nỗi một học giả Tây phương đã phải phê bình rằng 'He is a cool head with a warm heart' (tạm dịch: Ông ta/đức Thế Tôn có đầu óc lạnh lùng nhưng một con tim nóng bỏng/bao dung). 4.2 Những con đường dẫn đến đáp số Nhà Toán học Pháp René Descartes (1590-1950) đã từng bỏ nhiều thời gian suy nghĩ về tư duy để tìm ra ppgq tuy có thiên về ngành Hình Học và Đại Số. Ông được coi là cha đẻ của triết học hiện đại, cũng như trường phái duy lý (Rationalism). Cuốn Phương Pháp Luận (Discours de la Méthode, 1637) đặt nền tảng cho khoa học cận đại cũng như câu viết bất hủ của ông thường được trích (từ Chương 4, sđd) Cogito, ergo sum (tiếng La Tinh) Je pense, dons je suis (Pháp) I think, therefore I am (Anh) Я думаю, поэтому я (Nga) Tạm dịch: Tôi tư duy, vậy tôi tồn tại (tôi suy nghĩ, vậy có tôi) Phương pháp gqvd của Descartes gọi là Phương-Pháp-Nghi-Ngờ6 (Method of Doubt) vì đầu tiên là ta không tin những gì mà mình không biết (hay chỉ chấp nhận cái mình biết chắc), sau đó là - chia vấn đề cần giải (lớn) ra thành những thành phần (nhỏ) hơn - giải quyết các thành phần nhỏ này theo hệ thống/thứ tự (từ nhỏ đến lớn) - hệ thống hoá, lập bảng tổng kết (dùng hình vẽ, đồ thị, bảng tóm tắt...) để chắc là không sót một điều gì trong bài giải - trích từ trang http://en.wikipedia.org/wiki/Discourse_on_the_Method (để ý Phương-Pháp-Nghi-Ngờ của Descartes có 4 giai đoạn chính) Từ thời Descartes về sau có nhiều tác giả đề ra rất nhiều ppgq, người viết tạm tóm tắt vài phương pháp như sau - Tám-Giai-Đoạn (Eight Disciplines Problem Solving, thường viết tắt là 8D) bắt đầu bằng giai đoạn 1 là thành lập một nhóm để giải quyết một trục trặc (vấn đề) nào đó đến giai đoạn 7 là thay đổi hệ thống (hành chánh, cách lắp ráp xe ...) để không còn trục trặc, giai đoạn 8 là chúc mừng nhóm đã hoạt động thành công (công nhận và ban thưởng cho những nỗ lực có kết quả). Kinh nghiệm của chính người viết khi còn làm Kỹ Sư hãng Ford vào đầu thập niên 1980 cho thấy vài kết quả khả quan từ ppgq Tám-Giai-Đoạn, xem thêm chi tiết trong cuốn "Phương Pháp Giải Quyết Vấn Đề" (cùng tác giả). - Chu kỳ PDCA (Plan Do Check Act, ‘kế hoạch-thực hiện-kiểm tra-hành động’ để kết quả tốt hơn) được TS Edwards Deming quảng bá và kỹ nghệ Nhật áp dụng rất thành công từ thập niên 1950; Còn gọi là chu kỳ PDSA (Check/kiểm tra thay bằng Study/phân tích), chu kỳ Deming, chu kỳ Shewhart - xem thêm trang http://en.wikipedia.org/wiki/PDCA - Phương pháp IDEAL (Identify Define problem: tìm hiểu/xác định vấn đề cho rõ ràng, Explore possible solutions: thử/thăm dò các cách giải xem sao, Act: thực hành/làm thử một phương pháp giải, Look: xem kết quả và nếu cần lặp lại chu kỳ IDEAL để cho ra kết quả tốt hơn). Các nhà Tâm Lí John D. Bransford và B. S. Stein đề nghị ppgq IDEAL trong cuốn "The IDEAL problem solver" - NXB Freeman tái bản (New York, 1993). - Phương pháp dùng Bản-Đồ-Tư-Duy (Mind map) để ghi nhận các dữ kiện liên hệ trực tiếp hay gián tiếp đến vấn đề, kích thích khả năng hình dung (visualisation) và trí tưởng tượng (imagination) của não bộ; Tác giả Tony Buzan trong cuốn "The Mind map book" (NXB Penguin Books, 2000) đã phát triển ppgq Bản-Đồ-Tư-Duy thành nhiều ứng dụng khác nhau: tóm tắt bài giảng, sách đọc, phỏng vấn, mua bán cho đến gqvd. - Phương pháp HOCĐANB hay 'HỌC ĐÀN Bầu': H-Hiểu vấn đề; Hình dung ra/cụ thể hoá vấn đề càng nhiều càng tốt, O-Ôn lại các vấn đề tương tự đã trải qua (từ bộ nhớ); C-Coi lại các dữ kiện cấu tạo nên vấn đề - CHÍNH MÌNH tìm hiểu tích cực qua ngũ quan; Đ-Đọc thêm, Đọc tới Đọc lui để kiểm lại các dữ kiện, tín hiệu (dù nhỏ đến đâu) từ vấn đề/bài toán; A-Áp dụng, thực hành - đây là giai đoạn giải quyết theo 'thói thường' - chọn một cách và ÁP DỤNG xem kết quả ra sao, nếu còn xa mục tiêu thì lặp lại chu kỳ HOCĐANB; N-Nghiệm lại, kiểm lại kết quả (mức độ chính xác); B-Bàn về vấn đề và kinh nghiệm đã trải qua (gia tăng trí nhớ về cách giải từ các nơi). Phương pháp HOCĐANB là một cách mã hoá ppgq dựa nhiều vào những hoạt động cá nhân, hướng về cùng mục đích và chủ động (Nguyễn Cung Thông, sđd - 1980, 1996). …v.v… 4.3 Phương pháp giải quyết vấn đề như tdđ đôi khi được gọi là chu kỳ (cycle) vì không phải lúc nào cho ra kết quả cuối cùng và ta phải đi ngược hay lặp lại nhiều lần để tìm hiểu vấn đề thêm khi bị bế tắt (tìm các yếu tố tạo ra khoảng cách giữa A và B). Lại có những trường hợp mà cách giải được tìm thấy trong khoảnh khắc, có tính chất bất ngờ, thật ra là thể hiện của quá trình suy nghĩ (ấp ủ đã lâu) của người giải. Trường hợp tìm ra đáp số rất nhanh này gọi là Ngộ-Ra (Insight), như giai thoại về Acsimét (Archimedes) tìm ra cách kiểm tra vương miện vua làm bằng vàng thật hay giả. Vào một buổi sáng, khi đang ngâm mình trong bồn tắm và QUAN SÁT nước tràn ra ngoài, Acsimét chợt nghĩ ra cách tính trọng lượng của vật nổi so với lực đẩy của nước (sau này gọi là lực Acsimét), do đó có thể kiểm tra vương miện làm bằng vàng thật hay giả (vàng giả có khối lượng riêng khác với vàng thật). Nhà toán học Poincaré khi bước lên xe buýt chợt Ngộ-Ra là phép áp (transformation) định nghĩa hàm Fuchsian cũng giống như trong Hình Học phi-Euclid. Các giai thoại về Acsimét trong bồn tắm, Poincaré lên xe buýt, Newton với trái táo rơi, Kekulé nằm mộng thấy hình con rắn ngậm đuôi (sau đó tìm ra cấu trúc phân tử vòng của benzene) ...v.v… đều cho thấy kinh nghiệm Ngộ-Ra trong quá trình giải quyết vấn đề. Phương pháp Ngộ-Ra là một trong nhiều con đường (đạo) dẫn đến mục tiêu cuối cùng (đáp số) và là đề tài cho nhiều nghiên cứu7 về não bộ. 5. Tại sao phương pháp giải quyết vấn đề lại trở thành vấn đề (khó)? Một yếu tố quan trọng làm con người không nhìn thấy ppgq là cái ta/tôi, cái ngã 我 (tiếng Phạn अनात्मन् atman là hơi thở, linh hồn, đời sống, bản chất, thân xác, trí tuệ, hiểu biết ... tiếng Phạn Nam/Pali là anatta). Suy nghĩ dựa vào cái ta và phân biệt với cái người làm cho ta luẩn quẩn trong vòng si mê (vô minh) vì chúng không có thực (vô ngã 無我 - अनात्मन् anatman): cứ cố chấp theo ý riêng của mình (khuynh hướng tự nhiên) như vậy là ngã chấp 我執 hay tạo những vật cản (nội hàm) cho quá trình tìm kiếm ppgq. Các điều cản trở ta suy nghĩ chính xác và giải quyết thoả đáng một vấn đề do đó có thể là 5.1 Chỉ tìm hay nhận các điều phù hợp với thành kiến của mình (Confirmation Bias) Các cảm nhận cá nhân đầu tiên cùng với kinh nghiệm riêng (cái ngã) làm cho ta giới hạn cách giải quyết vấn đề và chọn các con đường thiên lệch, dẫn đến kết quả sai lầm. Quán tính của kinh nghiệm cá nhân và cảm nhận chủ quan có khi rất cao khiến ta làm ngơ trước các dữ kiện ngược lại, làm lu mờ quá trình giải quyết vấn đề một cách khoa học. Thí dụ như trường hợp (e) khi muốn lập gia đình với X mà không nhận biết rằng X chẳng thương yêu gì mình! Cái tôi ‘si tình’ đã làm ngơ trước các dấu hiệu lạnh nhạt từ X, và cố chấp nhận các dấu hiệu tình cảm từ X dầu chỉ là xã giao bề ngoài ... Nhiều khi trạng thái quá tự tin (overconfidence) làm cho con người không nhìn thấy các dữ kiện khác trong vấn đề cần giải quyết, do đó kết quả sẽ không thoả đáng; Các tình trạng trên đều cho thấy sự ràng buộc quá mức của cái tôi (ngã). Đức Phật Tổ có thuyết về câu chuyện 6 người mù rờ voi8 để nhận ra hình dạng con voi: người thì rờ chân voi nên tưởng voi có hình cái cột/ống, người rờ tai voi thì tưởng voi giống như cái rổ, người rờ lưng voi thì tưởng voi giống hình cái cối, người rờ đuôi thì tưởng voi giống hình cái chầy ... Vì không nhìn thấy được toàn thể con voi nên người nào cũng đúng và cuối cùng đều sai. Sự gắn bó tự nhiên với cái tôi (thành kiến) làm cho con người dễ đi lạc đường và là một vật cản luôn luôn có mặt trong quá trình gqvd. 5.2 Định kiến (Mental set) và Chức-Năng-Cũ (Functional fixedness) Con người thường dùng phương pháp cũ (đã biết, đã quen) để đối phó với một vấn đề mới: đây là một kết quả của định kiến; Khi phải mở cửa bước vào phòng, ta thường đẩy cửa ra (xô ra) chứ ít khi nào phải kéo cửa ra, phản ánh định kiến từ các hoạt động hàng ngày, chưa kể đến yếu tố thuận tay phải hay trái. Khi nhìn cái búa, ta nghĩ ngay đến chức năng của nó là đập, đóng, gõ ... chứ ít khi nào dùng làm đòn bẩy (lever) hay đậy nắp (thùng): đây là một kết quả của kinh nghiệm dùng búa theo ‘thói thường’ hay theo Chức-Năng-Cũ. Dựa vào kiến thức và phương pháp cũ có thể giải quyết vấn đề hay giải toán thành công, nhưng cũng có thể giới hạn các cách mới (sáng tạo/creative) hơn và giải quyết thành công hơn nữa ... Tư duy cũ có khả năng tạo ra các giả thiết sai lầm (false assumptions) về vấn đề cần giải, giới hạn vấn đề trong tầm nhìn cá nhân và dẫn đến những phương pháp khiếm khuyết cùng kết quả không chính xác. Thí dụ sau rất phổ thông trong các sách giáo khoa viết về ppgq. Trường hợp 9 điểm (9-dot problem): nối 9 điểm cho sẵn (xem hình bên dưới) chỉ bằng bốn đường thẳng. Lời bàn: nếu vẽ bốn đường thẳng qua bốn cạnh ngoài cúa hình vuông thì không qua được điểm ở trung tâm! Phương pháp giải là không chỉ giới hạn (định kiến/Mental set) trong ô vuông chứa 9 điểm, mà vẽ đường thẳng ra ngoài như hình bên trên. Trường hợp tên gọi 12 con giáp: Tý Sửu Dần Mão/Mẹo Thìn/Thần Tỵ Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi/Hãi: từ xưa đến nay - từ Đông sang Tây - không ai đặt vấn đề về nguồn gốc phi-Hán (nguồn Cổ Việt) của chúng. Thật ra, khi phân tích kỹ các dạng âm cổ của 12 con giáp, các dữ kiện ngữ âm lịch sử cho thấy chúng rất gần với cách gọi tên các con thú của tiếng Việt Cổ như : Hợi Gỏi *Cúi (heo/lợn), trâu tru *tlu/klu, Mùi Vị *Mwie (dê), Mão Mẹo *meo (mèo), Ngọ (ngựa) ...v.v... Ta cần phải thoát ra khỏi định kiến 'gốc Hán' mới thấy rõ và phân tích chính xác vấn đề hơn (dầu rằng có rất nhiều tài liệu, thư tịch liên hệ đến 12 con giáp viết bằng chữ Hán đóng góp không nhỏ vào định kiến 'gốc Hán') Giai đoạn 2 (Tạp Đế) gợi ý cho ta cố thoát khỏi ‘cái tôi’ mà nhìn vấn đề từ các góc độ khác nhau, các tương quan khác hơn (tạp) đã tạo ra vấn đề cần giải quyết. 5.3 Không đủ dữ kiện để giải quyết cho đúng đắn (availability of information/dữ kiện hiện diện khi giải quyết) Các ppgq có thể trở thành lệch lạc vì yếu tố thời gian (cần phải giải quyết gấp) hay không suy xét cho kỹ các ảnh hưởng tiêu cực về sau; Phần lớn là do thiếu dữ kiện chính xác, hay khi đối phó với vấn đề ta có không đầy đủ dữ kiện trong tay. Các giai đoạn Khổ, Tập, Diệt, Đạo nhắc nhở ta nên thu thập và phân tích các nguyên nhân, hoàn cảnh đã tạo ra vấn đề chứ đừng ‘hùng hục’ nhảy vào vòng quyết định mà nhiều khi dẫn đến sai lầm. Trường hợp (d) cho thấy ta có thể trở thành triệu phú bằng nhiều cách, ăn trộm/lương lẹo hay ăn cướp rất ít mất thời gian, nhưng hậu quả lại hoàn toàn không tốt (nghiệp xấu) cho chính mình và xã hội. 6. Phụ Chú và phê bình thêm Bản thảo bài này (original version) viết xong vào đầu thập niên 2000, tuy nhiên chưa quảng bá vì nhiều lý do: đầu tiên là những tiến bộ khoa học như trong ngành CNTT (Công Nghệ Thông Tin) và điện tử khiến một số vấn đề, trước tưởng là lớn, nhưng sau này trở nên dễ dàng hơn. Người viết còn nhớ khi thi tốt nghiệp lớp 12 (Tú Tài II, khoảng 4 thập niên trước) cần cả 5 phút để vẽ đồ thị, tìm các điểm cực đại hay cực tiểu, điểm uốn, những đường tiệm cận, giới hạn ... Nhưng bây giờ thì chỉ mất 5 giây để làm xong các phần này (bằng máy tính TI89, Casio ClassPad 300 ...). Ngoài ra, ppgq là một chủ đề rất lớn, gồm các hoạt động bình thường hàng ngày, sinh hoạt tín ngưỡng cho đến những nghiên cứu chuyên ngành và hậu đại học - làm sao mà một bài viết nhỏ có thể bao hết tất cả các lãnh vực đa dạng như vậy? Do đó trong phần 1 này, người viết chỉ tóm tắt các suy nghĩ để gợi ý cũng như người đọc nên tham khảo nhiều tài liệu liên hệ để cho dễ thông cảm hơn, thí dụ như đọc thêm cuốn "Phương Pháp Giải Quyết Vấn Đề - Giải Toán Lí Hoá, giúp trí nhớ, phương pháp khám phá" cùng tác giả (Nguyễn Cung Thông) - NXB Thống Kê (1996) ISBN 0 646 28025 2. Các bài viết sau (phần 2,3 ...) sẽ đi sâu hơn vào từng giai đoạn tdđ. Các bài viết bằng tiếng Việt liên hệ đến phương pháp khoa học và Phật giáo nên được tra cứu thêm (khá dễ tìm đọc từ trên mạng) về cùng đề tài - tác giả Trần Chung Ngọc "Phật giáo trong thời đại khoa học", "Vài nét về Phật Giáo và Khoa Học" ... xem thêm http://sachhiem.net/TCN/TCNkh/TCNkh16.php , http://thuvien.maivoo.com/Khoa-hoc-c9/Phat-giao-trong-thoi-dai-khoa-hoc-d239 ... - tác giả Trịnh Nguyên Phước "Khoa học thần kinh (Neuroscience) và đạo Phật" ... Xem thêm http://daitangkinhvietnam.org/tin-tuc-phat-giao/phat-giao-vn-quoc-noi/2575-bac-si-trinh-nguyen-phuoc-song-hai-hoa-voi-tat-ca.html - tác giả Peter D. Santini, bản dịch tiếng Việt Thích Tâm Quang - xem thêm http://chutluulai.net/forums/showthread.php?t=5151 - tác giả Hà Vĩnh Tân "Tứ Diệu Đế - từ góc độ phương pháp luận khoa học" - xem thêm http://daitangkinhvietnam.net/nghien-cuu-phat-hoc/phat-hoc-tong-quat/4341-tu-dieu-de-tu-goc-do-phuong-phap-luan-khoa-hoc.html - tác giả Thích Nhất Hạnh - xem thêm http://www.thuvienhoasen.org/tudieude-thichnhathanh.htm - tác giả Trịnh Xuân Thuận và Phật giáo: xem các trang http://my.opera.com/sanyasins/blog/khoa-hoc-vs-phat-giao-theo-giao-su-trinh-xuan-thuan , http://nguoivienxu.vn/news.aspx?id=1194&sub=2 , hay http://www.trinhxuanthuan.com/sben.htm ...v.v... Chu kỳ tdđ còn rất tương ứng với cách chữa bệnh một cách khoa học (nhận diện các triệu chứng, tìm căn nguyên, dứt bỏ/chữa nguyên nhân gốc, phòng bệnh) - xem chi tiết trang http://www.buddhanet.net/fundbud4.htm ...v.v... Các học giả Tây phương viết nhiều về Tứ Diệu Đế từ các góc độ như Khoa Học, Tâm Lí Học, Tôn giáo ... Các bạn nếu muốn tra cứu thêm thì cứ lên google và đánh Four Noble Truths and Science để tìm ...v.v... sẽ có nhiều bài viết, tài liệu sách vở tha hồ mà đọc. Thí dụ như cuốn "How to solve our human problems - the Four Noble Truths" của tác giả Ketsang Gyotso (NXB Tharpa, 2005, 2007). Tháng 4 năm 2003, người viết tìm các thông tin về ppgq qua mạng (Internet, bằng cách tra cụm từ problem solving) và thấy có 87 trang (bằng tiếng Anh), so với tháng 6 năm 2010 thì có 93 trang tất cả; Các tài liệu trên cho thấy cần một thời gian lớn để đọc cũng như sự quan tâm ở khắp nơi về phương pháp giải quyết (từ rất nhiều ngành chuyên môn). 1) Tứ Diệu Đế có mặt trong kinh Chuyển Pháp Luân - xem thêm chi tiết trang http://www.thuvienhoasen.org/tudieude-kinhchuyenphapluan.htm và Tâm Kinh 心經 (Bát Nhã Tâm Kinh) với các câu khác như "...sắc tức thị không, không tức thị sắc..." hay câu niệm (mantra) tiếng Phạn (qua âm Hán Việt): "...Yết đế, yết đế Ba la yết đế Ba la tăng yết đế Bồ đề Tát bà ha..." Rất thường gặp khi đi chùa đọc kinh mà ít người biết là ppgq. Bài thuyết pháp đầu tiên của đức Phật ở vườn Lộc Uyển (vườn nai/deer park hay Lộc Dã Viên 鹿野園 - tiếng Phạn Mrgadava), còn gọi là Tiên Nhân Đoạn Xứ, Tiên Nhân Lộc Viên, Tiên Nhân Luận Xứ, Tiên Nhân Trụ Xứ ... Lộc Uyển là một trong bốn nơi thiêng liêng của đạo Phật (Tứ thánh địa Phật giáo) gồm Lâm Tì Ni (nơi Phật đản sinh), Bồ Đề Đạo Tràng (nơi Phật giác ngộ) và Câu Thi Na (nơi Phật nhập niết bàn). 2) Khổ 苦 : theo Quảng Vận đọc là <廣韻> 康杜切 khang đỗ thiết hay 苦故切 khổ cố thiết. Khó tiếng Việt là một dạng biến âm của khổ, các dạng chữ Nôm của khó là khổ苦hay khố (kho)庫. Tương quan khổ-khó với khuynh hướng gia tăng độ mở của miệng (nguyên âm ô > o) còn thấy trong các cặp Thố thỏ Khố kho Khốc khóc Độc đọc Lộ ló, lò Lộ (hối lộ) lo (lót) Hô hò Độ đo Đồ trò Thô to Mô mò, mó (sờ) Bộ pho ... … Khổ khó … v.v… Một biến âm khá khó nhận ra của khổ là hủ (nhược hoá/lenition kh > h) như trong cách dùng (trái) hủ qua - khổ qua (quả mướp đắng). Giọng Bắc Kinh cũng có một dạng đọc kǔ (khổ) thành hù (theo cách ghi âm pinyin/bính âm). 3) Phọc HV 縛 là buộc tiếng Việt, so với bok3 (giọng Quảng Đông), puôc (Mường Bi) ... So với cách dùng Bụt (âm cổ của Phật): tiếng Khme pút - kêu trời như 'Phật ơi' là 'pút thô' (so với trời ơi, chúa ơi, mẹ ơi ... tiếng Việt); Tiếng Kờho Phợk - tượng Phật rùp Phợk; Tiếng Thái พุทธ póot - tượng Phật พระพุทธรูป prá-póot-tá-tá-rôop .... Cho thấy chữ Phật 佛có khả năng là nguồn gốc phương Nam và cổ nhân đã dùng âm và nghĩa buộc (một cách thật thâm thuý) để ký âm tiếng Phạn Budh- (biết, ngộ); Xem thêm chi tiết trong các bài viết ‘Bụt hay Phật’ http://www.khoahoc.net/baivo/nguyencungthong/270809-buthayphat-1.htm cùng tác giả. Cũng nên nhắc lại ở đây là giải 解 có âm cổ hơn là cởi, cổi, gỡ ... Các dạng âm cổ này vẫn còn duy trì trong tiếng Việt với nghĩa cụ thể hơn là trừu tượng: thí dụ như giải một vấn đề/bài toán so với cởi dây trói, gỡ rối tơ lòng; Tiếng Trung (Quốc) hiện nay vẫn dùng một chữ解 jiě cho cả hai trường hợp cụ thể và trừu tượng. Người viết đã bàn về vấn đề này trên diễn đàn Viện Việt Học, xem chi tiết trên trang http://www.viethoc.org/phorum/read.php?20,37118 4) giải quyết vấn đề (problem solving) là biến đổi một tình trạng thành một tình trạng khác hơn để đạt được mục tiêu (transforming one situation into another to meet a goal); Đây là định nghĩa của các nhà Tâm Lí K. J. Kilhooly (1989), J. G. Greeno (1978) ... Mục tiêu cuối sẽ đạt được qua các quá trình tư duy hay hành động. Các tác giả A. Newell và H. A. Simon trong cuốn sách nổi tiếng "Human Problem Solving" (NXB Prentice-Hall, 1972) còn đi sâu vào các quá trình tìm đến mục tiêu, nhiều khi phải lặp đi lặp lại (iterative) để tới đích. Xem thêm những chi tiết liên hệ trong các sách giáo khoa Tâm Lí Học như - "Psychology - Brain, Behaviour & Culture" tác giả Drew Westen - NXB John Wiley & Sons (New York, tái bản lần thứ ba, 2002) - "Psychology" tác giả Saundra K. Ciccarelli và Glenn E. Meyer - NXB Pearson Prentice Hall (New Jersey, 2006) - "Psychology" tác giả David G. Myers - NXB Worth Publishers Inc. (tái bản nhiều lần, New York, 1995 ...) - "Psychology" tác giả Peter Gray - NXB Worth Publishers (tái bản nhiều lần, New York, 2002) …v.v… Các tài liệu về ppgq rất đa dạng, cuốn từng gối đầu giường của người viết là "How to solve problems" tác giả G. Polya xuất bản từ năm 1945, tái bản đợt nhì (NXB Anchor Books, 1957) thiên nhiều về Toán (Hình Học); Cuốn "How to solve problems" tác giả Wayne A. Wilkengren - NXB W. H. Freeman, San Francisco, 1974) hay "The Complete Problem Solver" tác giả John R. Hayes - NXB Routledge (1989, tái bản) có rất nhiều thí dụ và cách giải khác nhau. Tư-Duy-Chiều-Ngang (Lateral Thinking) là cụm từ do học giả Edward de Bono đề nghị để tăng khả năng sáng tạo khi gqvd: ông xuất bản rất nhiều sách, cẩm nang và bài viết về óc sáng tạo như "Serious creativity: using the power of lateral thinking to create new ideas" NXB HarperBusiness (1992) ...v.v… Hầu như cuốn sách về Tâm Lí Học nào cũng có một phần viết về ppgq, thường là một phần trong chương "Tư Duy" (Thinking) và "Ngôn Ngữ" (Language). 5) trong Toán Học, có bài toán đố mà chỉ cần nhiều nhất là bốn màu khác nhau để tô lên các quốc gia trên một bản đồ (hai nước kế nhau phải khác màu): còn gọi là bài toán ‘bốn màu vẽ bản đồ’. Tuy có vài cách giải bằng chương trình vi tính (computer software) nhưng cách giải tổng quát và thuần lý thuyết thì chưa hoàn hảo – xem thêm chi tiết trên mạng http://en.wikipedia.org/wiki/Four_color_theorem . Đây là những vấn đề còn bỏ ngõ. Có những vấn đề mà người viết đã và đang theo đuổi, sau gần bốn thập niên, mà vẫn chưa tìm ra lời giải thích thoả đáng: thí dụ như hiện tượng m - tại sao các từ chỉ những bộ phân trên mặt người có khuynh hướng dùng phụ âm môi môi m (bilabial consonant) như mắt mặt môi mép má mũi miệng mồm mụn ... Xem thêm các trao đổi về hiện tượng m trên diễn đàn Viện Việt Học http://www.viethoc.org/phorum/read.php?20,34297 . 6) Phương-Pháp-Nghi-Ngờ của Descartes rất giống với hàm ý của Đức Phật Tổ khi trả lời dân Kalama - trích từ Kalama Sutta/tiếng Pali (tiếng Phạn Nam): 'Ma anussavena : không nên tin những gì dù đã truyền đạt qua bao nhiêu đời (tạm dịch). ... Ma Pitakasampadanena : không nên tin những gì dù đã được ghi nhận trong sách vở trước đây (tạm dịch). ...v.v… Lời đức Phật trích từ Madhyamaka (Trung Luận) qua tiếng Pali (Malayasian) - Taapaac chedaac ca nikasat svarnam iva panditaih; Pariiksya bhiksavo graahyam madvaco na tu gauravaat : người khôn thử vàng (thật hay giả) bằng cách đốt, cắt hay chà (mài) - Này tỳ kheo - chỉ nên tin những lời này sau khi đã thử chúng chứ không vì lòng tôn trọng (tạm dịch)' 7) nghiên cứu dùng các phương pháp khác nhau từ phỏng vấn đến dùng tín hiệu EEG (điện não đồ) để tìm hiểu hoạt động gqvd (Ngộ-Ra) như bài báo cáo của Simone Sandkühler và Joydeep Bhattacharya (2008) - xem chi tiết cùng các phê bình trên mạng http://www.plosone.org/article/info:doi/10.1371/journal.pone.0001459 8) câu chuyện này cũng hiện diện trong kinh sách Ấn Độ giáo (Hindu), đạo Jain (Kì Na giáo). Điểm đáng chú ý ở đây là bản chất lưỡng tính sóng-hạt (wave-particle duality) của toàn bộ vật chất hiện diện trong vũ trụ, như ánh sáng chẳng hạn ... Thuộc tính này là hệ quả của cách nhìn và giới hạn của từng người khi quan sát: tính chất căn bản này của Cơ Học Lượng Tử (Quantum Mechanics, Vật Lí hiện đại) lại rất phù hợp với cách nhìn của những người mù trong câu chuyện trên (cách đây hơn hai ngàn năm). Xem chi tiết trên các trang http://www.buddhanet.net/budsas/ebud/whatbudbeliev/34.htm , hay http://www.himandus.net/elefunteria/library/culture+religion/six_blind_men.html ...v.v.
  7. Lòng chẳng nhẹ tênh như áng mây Tình đến chợt đi như gió bay Quyến luyến vấn vươn như tơ nhện Ai biết ngày sau có vui vầy? Thiên Đồng
  8. @lapxuan, chú Thiên Đồng cho lapxuan hỏi 2 câu còn lại nha, hihi, chắc chú cũng biết rồi (hỏi vào 11g44 am, ngày 06/08/2011) - Khi nào vợ chồng lapxuan khi nào sinh được bé khỏe mạnh đáng yêu ạ? Con gái khấu khỉnh đầu lòng. Lúc nào thì chưa biết. - Vợ chồng cháu có sống với nhau hạnh phúc lâu bền (để có đám cưới vàng, kim cương ^ _ ^) không? (cái này có khó đoán không hả chú Chắc chắn là đám cưới Kim Cương. Chúc hạnh phúc Thiên Đồng
  9. @Thanh vo, Chu Thien Dong xem giup chau nhe Lúc hỏi: thứ 7, 23-7-2011, 6 giờ 20 tối Cháu tuổi Nhâm Tuất, 1982, sinh vào 23-02. Cháu có quen 1 bạn gái sinh năm 1987. Bạn này sau đó chia tay cháu nhưng vẫn rủ cháu đi chơi thường xuyên. Cháu hỏi thì bạn này nói là đi như vậy để cháu khỏi cô đơn. Gần đây thì bạn này nói với cháu là có người theo đuổi bạn này. Cá nhân cháu nghĩ đây có thể là trò giỡn chơi của phụ nữ. Tuy nhiên, cháu vốn sống ở Mỹ một thời gian nên tính tình cũng không phức tạp để hiểu phụ nữ Việt Nam. Chú có thể xem mối quan hệ cháu và bạn này sẽ như thế nào không? Theo quẻ thì tuy bên ngoài thể hiện vậy thôi, chứ bên trong là lòng đang chờ đợi. Tấn công thì thành công. Chúc may mắn. @ Quân Hải, Chào anh Thiên Đồng. Hôm nay lại làm phiền anh lần nữa rồi. Tối qua em có giấc mơ lạ quá, thấy mình nắm tay ông ngoại và hai ông cháu cùng khóc. Điện về nhà nghe bảo bà ngoại ốm nặng hơn đợt trước và đưa lên viện rồi. Hai ông bà cũng hơn 90 tuổi nhưng sống với nhau tình cảm lắm. Vậy xin mạo muội nhờ anh giúp một câu thôi. Em tuổi Giáp Tý ( 10/11/1984 ) Lúc này là 18h52 ngày 24/7/2011 ( Dương lịch ). Câu hỏi duy nhất: Bà ngoại em có qua được căn bệnh không ? Theo quẻ thì qua khỏi. Chúc vạn an. @ Lapxuan19 Cháu tuổi Át Sửu Hỏi ngày 28/07/2011 DL, 10g42 sáng chiều thứ 7 (30.07) này tụi cháu tổ chức tiệc cưới, mong chú xem giúp mọi việc có suôn sẻ,thuận lợi không ạ? hik, cháu lo trời mưa khách khứa không đi chẳng hạn (nghe có áp thấp nhiệt đới) hoặc ai quậy phá làm mất vui ạ. Bây giờ thì đã qua ngày cưới rồi, nhưng hôm đó tuy có cập rập nhưng cũng đông đủ vui vẽ. Chúc hạnh phúc. @ Ngongeo Cháu chào chú Thiên đồng, cháu muốn nhờ chú tư vấn giúp Cháu tuổi Canh Ngọ, nữ Hỏi vào lúc 13h50 PM ngày 29/07/2011 DL - Cháu định đăng ký học marketing tại arti, nhưng cháu tìm được khá ít thông tin về chất lượng trung tâm, chỉ thấy vỏn vẹn có 1 bài phản hồi không tốt. Vậy cháu có nên tham gia khoá học tại trung tâm này không? Không nên vì chất lượng đào tạo nơi đây còn chưa rỏ ràng, có khi người học chịu thiệt. - Điểm thi của cháu cuối kì vừa rồi trên trường, môn có điểm rồi có kết quả không tốt, cháu nghi là do nhầm lẫn, cháu định khi vào học rồi sẽ khiếu nại/ phúc tra, không biết có tác dụng gì không? còn môn chưa biết điểm của cháu, liệu có tốt không ạ? Nên phúc tra lại. Môn chưa biết thì điểm cũng tạm được. - Cháu đang tính học marketing, công việc này liệu có phù hợp và hữu ích cho tương lai sau này không? Phù hợp. Ngongeo cũng thuộc dạng có tư duy quản lý tốt. Cháu cảm ơn chú nhiều. Thiên Đồng
  10. Thôi thôi mấy ông ơi, thạc sĩ, tiến sĩ nhiều như rác, cần gì phải mua! Có mua mua cái bằng Bác Học, Học Giả mới oách!! Có cá bằng xong tha hồ...phát biểu...tha hồ...đập phá như đập thành nhà Mạc đó mà, để chứng tỏ là "pha học", "nghiêng kíu".
  11. Bảng Danh Sách Học Vên Lớp Phong Thủy Lạc Vệt Cơ Bản 07 Và Xác Nhận Đóng Học Phí Lớp Phong Thủy Lạc Việt Cơ Bản 07 1. thanhliem đóng 1.800.000đ/03 tháng (Học kỳ I) 2. Dai Thuc đóng 3.600.000đ/ 06 tháng (Học kỳ 1&2) 3. Hoangthienlong đóng 1.800.000đ/03 tháng (Học kỳ I) 4. quangnh đóng 1.800.000đ/03 tháng (Học kỳ I) 5. Avarta đóng 1.800.000đ/03 tháng (Học kỳ I) 6. Lũy Tre đóng 1.800.000đ/03 tháng (Học kỳ I) (Đặng Phúc Nguyên) 7. hqt57968 đóng 1.800.000đ/03 tháng (Học kỳ I)
  12. Bảng Danh Sách Học Vên Lớp Phong Thủy Lạc Vệt Cơ Bản 07 Và Xác Nhận Đóng Học Phí Lớp Phong Thủy Lạc Việt Cơ Bản 07 1. thanhliem đóng 1.800.000đ/03 tháng (Học kỳ I) 2. Dai Thuc đóng 3.600.000đ/ 06 tháng (Học kỳ 1&2) 3. Hoangthienlong đóng 1.800.000đ/03 tháng (Học kỳ I) 4. quangnh đóng 1.800.000đ/03 tháng (Học kỳ I) 5. Avarta đóng 1.800.000đ/03 tháng (Học kỳ I) 6. Luy Tre đóng 1.800.000đ/03 tháng (Học kỳ I) (Đặng Phúc Nguyên) 7. hqt57968 đóng 1.800.000đ/03 tháng (Học kỳ I)
  13. Manila sẽ cho đấu thầu khai thác dầu khí ở Biển Đông, mặc cho căng thẳng với Trung Quốc lên cao về vấn đề chủ quyền biển đảo. Bộ trưởng Năng lượng Jose Layug cho biết một vài công ty nước ngoài, bao gồm tập đoàn dầu khí quốc doanh Trung Quốc CNOOC muốn khai thác ở vùng biển phía tây đảo Palawan. Khu vực dành cho khai thác dầu khí này nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines, AFP dẫn lời bộ trưởng cho biết. "Đấy không phải vùng tranh chấp. Khu vực chúng tôi đấu thầu chắc chắn nằm trong vùng thuộc chủ quyền của Philippines", Layug nói. Ngoài CNOOC, hai công ty Trung Quốc khác cũng quan tâm tới việc khai thác dầu khí ở đây, Layug cho biết. Philippines sẽ công bố tên những nhà đấu thầu thành công năm tới. Biển Đông, nơi Trung Quốc, Philippines, Việt Nam, Brunei và Malaysia cùng tuyên bố chủ quyền chồng lấn, là một khu vực rộng rộng hơn 2 triệu km vuông. Nơi đây được cho là có trữ lượng tài nguyên dồi dào, trong đó dầu mỏ ước tính có đến 17,7 tỷ tấn, đứng thứ tư về trữ lượng trên thế giới. Đây cũng là tuyến đường giao thương bận rộn bậc nhất thế giới. Căng thẳng lên cao ở khu vực này trong nhiều tháng nay khi Việt Nam và Philippines cáo buộc Trung Quốc có hành vi ngày càng quyết liệt về vấn đề chủ quyền biển đảo. Trong khi đó, ASEAN và Trung Quốc vừa thông qua hướng dẫn thực thi Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) sau hội nghị ở Indonesia nhằm duy trì hòa bình và ổn định trên vùng biển tranh chấp này. Mai Trang
  14. Trung tướng Nguyễn Đức Nhanh: Không chủ trương trấn áp người biểu tình yêu nước 03/08/2011 0:14 http://www.thanhnien.com.vn/ Tạm đình chỉ công tác một cán bộ công an Những ngày gần đây, dư luận trong và ngoài nước xôn xao về đoạn video clip “đạp vào mặt người biểu tình”. Ngày 2.8, tại cuộc họp giao ban báo chí của Ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội, trung tướng Nguyễn Đức Nhanh, Phó tổng cục trưởng Tổng cục An ninh II - Bộ Công an, Giám đốc Công an Hà Nội, đã thông báo kết luận điều tra xác minh vụ việc này. Tung tướng Nguyễn Đức Nhanh (giữa) chủ trì cuộc họp báo chiều 2.8 - Ảnh: Việt Chiến Trung tướng Nhanh cho biết ngày 20.7 và 27.7, Công an TP Hà Nội nhận được thư của ông Nguyễn Xuân Diện, ông Lê Dũng và một số ông, bà đồng ký tên, đề nghị “Giám đốc Công an TP trả lời về sự việc một số người tập trung biểu tình tự phát phản đối Trung Quốc gây hấn tại biển Đông ngày 17.7.2011 đã bị lực lượng công an thành phố đàn áp thô bạo”. Giám đốc Công an TP đã giao Cơ quan CSĐT phối hợp Viện KSND TP khẩn trương xác minh, điều tra vấn đề trên theo đúng quy định của pháp luật. Kết quả xác minh cho thấy công dân mà lực lượng làm nhiệm vụ khiêng lên xe buýt là anh Nguyễn Chí Đức, SN 1976, trú ngõ 1 Khâm Thiên, Đống Đa, Hà Nội. Sáng 17.7, anh Đức có tham gia đoàn biểu tình tự phát tại khu vực phố Điện Biên Phủ - Trần Phú. Lực lượng làm nhiệm vụ đã tuyên truyền, vận động, yêu cầu đoàn biểu tình giải tán, không tập trung đông người, gây mất an ninh trật tự thành phố. Anh Nguyễn Chí Đức đã tỏ thái độ chống đối bằng cách ngồi bệt xuống đất, lực lượng làm nhiệm vụ buộc phải khiêng lên xe buýt, đưa về Đồn công an số 1 Mỹ Đình, Từ Liêm, Hà Nội để tuyên truyền giải thích. Thượng tá Đào Thanh Hải, Trưởng phòng CSĐT - Công an Hà Nội, cho biết thêm để làm rõ việc anh Đức có bị đánh hay không, cơ quan chức năng đã gặp và đề nghị anh Đức trình bày rõ sự việc. Trong bản tường trình, anh Đức đã khẳng định không bị ai đánh, chỉ có sự xô đẩy khi đưa anh Đức lên xe buýt. Đồng thời, anh Đức cũng tự nhận, do không bị thương tích, sức khỏe và tinh thần bình thường nên anh Đức từ chối đi khám thương và không có đề nghị gì. Mặc dù vậy, Cơ quan CSĐT vẫn yêu cầu cơ quan chủ quản đưa anh Đức đi khám thương tại Bệnh viện E Hà Nội. Bác sĩ khám và kết luận: không phát hiện thương tích hay tổn thương trên người anh Nguyễn Chí Đức. Cơ quan điều tra cũng yêu cầu đại úy Phạm Hải Minh, Công an quận Hoàn Kiếm tường trình vụ việc này. Đại úy Minh cho biết khi 4 cán bộ công an khiêng anh Đức lên xe buýt thì anh Minh từ trên xe giơ chân bước xuống nhưng không đánh anh Đức. Căn cứ vào các tài liệu điều tra, xác minh thu thập được, Cơ quan CSĐT Công an Hà Nội kết luận không có căn cứ xác định anh Nguyễn Chí Đức bị lực lượng làm nhiệm vụ đảm bảo an ninh trật tự đánh, đạp. Tuy nhiên, sau sự việc trên, Giám đốc Công an TP đã tạm đình chỉ công tác đối với đại úy Phạm Hải Minh để làm kiểm điểm và cũng yêu cầu 4 cán bộ công an khiêng anh Đức lên xe phải làm kiểm điểm, nghiêm khắc phê bình và rút kinh nghiệm chung. Cảnh trong clip được tướng Nhanh cho biết là không xác định được có bị cắt, dán hay không - ảnh từ video clip Đoạn video clip được tung lên từ ngoài nước Trả lời câu hỏi của PV Thanh Niên và một số tờ báo khác, trung tướng Nguyễn Đức Nhanh cho biết đến nay đã diễn ra 8 cuộc biểu tình yêu nước tự phát trên địa bàn TP Hà Nội với sự tham gia của một số sinh viên, giới trí thức, văn nghệ sĩ, doanh nhân và nhiều tầng lớp khác (từ 50-300 người) với các băng-rôn, khẩu hiệu phản đối hành vi gây hấn của Trung Quốc trên biển Đông. Ông Nhanh cũng khẳng định, đây là những cuộc biểu tình yêu nước tự phát, cho nên các cấp và Công an Hà Nội không có chủ trương trấn áp, bắt giữ người biểu tình tự phát. Do phải bảo vệ các đại sứ quán và bảo vệ an ninh trật tự trên địa bàn TP, nên lực lượng Công an Hà Nội kiên trì vận động, giải thích, thuyết phục người biểu tình rời xa khu vực Đại sứ quán Trung Quốc. Lực lượng công an không bắt giữ người biểu tình, chỉ đưa một số người lên xe buýt về đồn công an để giải thích... Về đoạn video clip phát tán trên mạng, trung tướng Nhanh cho rằng: “Đoạn video này được đưa lên mạng từ máy chủ nằm ở nước ngoài, nên không thể xác minh được ai là người đã quay đoạn băng ấy và ai là người tung đoạn video clip ấy lên mạng. Chúng tôi cũng không xác định được đoạn băng ấy có bị cắt, dán hay không. Nhưng tôi cũng không đồng ý với việc cảnh sát khiêng người lên xe buýt, vì đây là người biểu tình yêu nước, không phải là đối tượng hình sự, nên cần phải rút kinh nghiệm, chấn chỉnh ngay”. Việt Chiến Trung tướng Nguyễn Đức Nhanh
  15. Ấn Độ lo ngại Trung Quốc hiện diện ở Ấn Độ Dương TT - Ấn Độ đã lên tiếng quan ngại “Trung Quốc có thể lấy cớ để triển khai tàu chiến trong khu vực”, bất chấp những lời trấn an cho rằng sự hiện diện của Trung Quốc tại Ấn Độ Dương chỉ để phục vụ mục đích thăm dò và khai thác khoáng sản. Theo báo Wall Street Journal, ngày 19-7 Cơ quan Đáy biển quốc tế thuộc Liên Hiệp Quốc (LHQ) đã cho phép Trung Quốc thăm dò và khai thác khoáng sản ở vùng biển thuộc Ấn Độ Dương. Năm ngoái, Trung Quốc đã đệ đơn xin LHQ cấp phép thăm dò khoáng sản tại khu vực tây nam Ấn Độ - vùng lãnh hải nằm giữa châu Phi và châu Nam Cực. “Không thể chỉ dựa vào khai thác khoáng sản trong lòng đất là đủ. Đáy biển còn là nơi ẩn chứa nhiều nguồn tài nguyên phong phú...” - ông Uông Phẩm Tiên, người phụ trách phòng thí nghiệm trọng điểm về địa chất hải dương tại Trường đại học Đồng Tế Thượng Hải, cho biết. Việc phát triển nhanh chóng của ngành hàng hải Trung Quốc đang gây không ít lo ngại cho các nước láng giềng khác trong những vùng biển tranh chấp. Trung Quốc cũng úp mở về khả năng thăm dò ở biển Đông vào cuối năm 2012. Ông Uông Phẩm Tiên cho biết ông đang phụ trách hạng mục nghiên cứu trị giá 150.000 nhân dân tệ về việc cho tàu Giao Long thăm dò ở biển Đông thời gian sắp tới. ĐÔNG PHƯƠNG
  16. Nhật: Động đất 6,1 độ Richter ngoài khơi Honshu Cơ quan khí tượng Nhật Bản cho biết đêm 1/8 đã xảy ra một trận động đất cường độ 6,1 độ Richter làm rung chuyển tỉnh Shizuoka thuộc đảo Honshu, và các vùng lân cận Theo cơ quan trên, trận động đất này xảy ra lúc 23 giờ 58 phút giờ địa phương (14:58 giờ GMT), ở độ sâu 20 km dưới Vịnh Suruga. Dư chấn của trận động đất này có thể nhận thấy ở thủ đô Tôkyô, phía Đông Bắc tỉnh Shizuoka. Trước đó, Cơ quan khí tượng và địa vật lý Indonesia cho biết vào lúc 20 giờ 38 phút giờ địa phương (13:38 giờ GMT) cũng đã xảy ra một trận động đất mạnh 5,2 độ Richter ngoài khơi đảo Bắc Sulawesi, miền Trung Indonesia. Trận động đất này nằm ở độ sâu 10 km dưới đáy biển./. Theo Vietnam+
  17. Thành Kính Phân Ưu Cùng Gia Đình HoangTrieuHai Cầu Chúc Cụ Siêu Sanh Tịnh Độ
  18. Xin Sư Phụ kiểm tra, Thiên Đồng lại thử ra dư đoán về động đất, Ngày 2/7/tân mẹo, giờ thân, Thương Đại An. Đông đất có thể xảy ra ở trung tâm lấy Việt Nam làm tâm, khu vực dự đoán là trong 2 vòng tròn đánh dấu. Cường độ từ 5,7 đến 8,0 độ richther. Có ít nhất 2 trận động đất. Thời gian chứng nghiệm có thể từ 16g30 01/8/2011 đến hết ngày 6/8/2011. Thiên Đồng
  19. Đã sửa lại rồi. Avarta.
  20. Bảng Danh Sách Học Vên Lớp Phong Thủy Lạc Vệt Cơ Bản 07 Và Xác Nhận Đóng Học Phí Lớp Phong Thủy Lạc Việt Cơ Bản 07 1. thanhliem đóng 1.800.000đ/03 tháng (Học kỳ I) 2. Dai Thuc đóng 3.600.000đ/ 06 tháng (Học kỳ 1&2) 3. Hoangthienlong đóng 1.800.000đ/03 tháng (Học kỳ I) 4. quangnh đóng 1.800.000đ/03 tháng (Học kỳ I) 5. Avarta đóng 1.800.000đ/03 tháng (Học kỳ I) Thiên Đồng
  21. CÂN BẰNG HUYẾT ÁP VÀ MÁU CÓ MỠ Bài này có người chỉ cho Sư Phụ Thiên Sứ, Thiên Đồng ghi lại. Bài này dành cho những bệnh nhận cao hay thấp huyết áp, và máu có mỡ. Công thức: 100gr đậu trắng 100gr tỏi 2,5 lít nước Tất cả hầm mềm, không nên dùng nồi áp suất để hầm. Sử dụng: Ăn như ăn chè. Có thể nêm tí muối hoặc đường cho dể ăn. Ăn hết trong ngày Lưu ý: 30 ngày ăn 1 lần. Ăn trong 3 tháng, tức 3 lần ăn. BÓP 10 ĐẦU NGÓN TAY Khi đầu đau thì áp dụng bài bóp 10 đầu ngón tay và chân. Mỗi đầu ngón tay bóp 8 lần từ tay trái qua tay phải, từ ngón út trước lần sang áp út, giữa, trỏ, cái. Thiên Đồng
  22. Địa chỉ đây:
  23. Phạm Công Thiện (1/6/1941 - 8/3/2011), là một nhà văn, triết gia, học giả, thi sĩ và cư sĩ Phật Giáo người Việt Nam với pháp danhThích Nguyên Tánh. Tuy nhận mình là nhà thơ và phủ nhận nghề triết gia, ông vẫn được coi là một triết gia thần đồng, một hiện tượng dị thường của Sài Gòn thập niên 60 [3] và của Việt Nam với những tư tưởng ít người hiểu và được bộc phát từ hồi còn rất trẻ. Ông đã để lại một lời chí tâm như sau: "Không cần phải đọc Platon, Aristote, Kant, Hegel hay Karl Marx, không cần phải đọc Khổng Tử và Lão Tử, không cần phải đọc Upanishads và Bhagavad Gita, chúng ta chỉ cần đọc lại ngôn ngữ Việt Nam và nói lại tiếng Việt Nam và bỗng nhiên nhìn thấy rằng tất cả đạo lý triết lý cao siêu nhất của nhân loại đã nằm sẵn trong vài ba tiếng Việt đơn sơ như CON và CÁI, như CHAY, CHÁY, CHÀY, CHẢY, CHẠY và còn biết bao nhiêu điều đáng suy nghĩ khác mà chúng ta đã bỏ quên một cách ngu xuẩn.” Xin Sư Phụ cùng các Bác, quý vị cùng uống trà đàm đạo, để kẻ hậu bối được hầu trà. Kính bút. Đông Thiền
  24. Điểm nóng Mất cảnh giác khi để Trung Quốc thu gom nông sản Tác giả: Theo GDVN Bài đã được xuất bản.: 5 giờ trước Theo chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan, chúng ta đang mất cảnh giác khi để hiện tượng thương lái Trung Quốc đẩy mạnh tận thu các nguồn nguyên liệu trong dân như hiện nay. Thời gian qua, trên thị trường Việt Nam, mỗi khi thương lái Trung Quốc có biểu hiện tận mua một mặt hàng nào đó, ngay lập tức giá mặt hàng này bị đẩy lên cao, nguồn hàng nhanh chóng trở nên khan hiếm do người dân tích cực thu gom để bán. Điển hình là việc thương lái TQ thu mua gỗ sưa khiến hàng nghìn cây gỗ sưa đã bị đốn không thương tiếc, việc thu mua khoai lang khiến hàng nghìn hộ dân chuyển đổi cơ cấu từ trồng lúa sang trồng khoai lang, việc đẩy giá thu mua sắn lát, chè, thủy sản... khiến nguyên liệu cho các ngành sản xuất, chăn nuôi, thủy sản trong nước trở nên khan hiếm, giá cả đội lên rất cao. Tất cả những sự việc đó tưởng chừng "vô thưởng vô phạt" nhưng lại có những ảnh hưởng lâu dài, âm ỉ bởi những xáo trộn trong đời sống kinh tế, xã hội. Không chỉ xuống tận nhà dân thu mua, người Trung Quốc "núp bóng" nhiều "cò" thuê đất của dân ở Vĩnh Long để trồng khoai lang gây xáo trộn cơ cấu cây trồng Là một chuyên gia kinh tế hàng đầu của Việt Nam, đồng thời cũng từng là Tổng Thư ký và Phó Chủ tịch của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, thành viên của Ban Nghiên cứu của Thủ tướng, bà Phạm Chi Lan đã có những kiến giải về điều này. Chúng tôi xin gửi tới độc giả "đơn thuốc" chẩn đoán "sức khỏe" nền kinh tế Việt Nam của chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan. "Chúng ta đang mất cảnh giác" - Gần đây, mỗi khi thương lái bên Trung Quốc thu mua sản phẩm hàng nào đó thì y rằng mặt hàng đó trở nên khan hiếm, ít nhiều gây ra xáo trộn trong nền kinh tế Việt Nam. Điều đó cho thấy nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc khá nhiều vào Trung Quốc, nhất là tỷ lệ nhập siêu lớn như hiện nay. Bà đánh giá thế nào về hiện tượng này? Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan: "Chúng ta đang mất cảnh giác" Bà Phạm Chi Lan: Thực sự đây là một điều đau. Điều này cũng đã được các chuyên gia cảnh báo từ khá lâu. Nhất là từ khi chúng ta tham gia WTO và nhập siêu vọt lên trở thành vấn đề đáng quan tâm như hiện nay thì càng ngày thấy rõ bóng quá lớn của Trung Quốc trong việc nhập khẩu nói chung của Việt Nam và nhập khẩu từ Trung Quốc nói riêng. Tôi nghĩ rằng, chúng ta đang mất cảnh giác khi để tình hình diễn biến đến như hiện nay. - Theo bà, ngay tức thời, cần làm gì để khắc phục hiện tượng này? Có một cách duy nhất để khắc phục được đó là chấn chỉnh lại toàn bộ nền kinh tế của mình. Nhanh chóng thực hiện chương trình tái cấu trúc kinh tế, thực hiện những cải cách kinh tế đã thực hiện ở trong nước, kể cả cải cách về cơ chế kinh tế cũng như vận hành nền kinh tế của chúng ta. Cải cách khu vực doanh nghiệp nhà nước để tạo ra sức cạnh tranh lớn hơn cho nền kinh tế Việt Nam. Đồng thời, trong tái cấu trúc kinh tế chúng ta còn phải tái cấu trúc về thị trường nữa. Tức là giữa thị trường Việt Nam với các thị trường trên toàn cầu. Chúng ta đã có được quan hệ kinh tế càng ngày càng phát triển khá tốt đẹp với Hoa Kỳ, Nhật Bản, Liên minh châu Âu... Nếu chúng ta tập trung vào làm tốt hơn để cân bằng với họ thì sẽ giảm rất đáng kể sức ép từ Trung Quốc, sự lệ thuộc của nền kinh tế Việt Nam vào Trung Quốc. Tôi cho là chúng ta hoàn toàn có đủ cơ sở để làm như vậy miễn là về chỉ đạo, điều hành của nhà nước phải thực sự thấy được những nguy cơ theo sự lệ thuộc vào Trung Quốc hiện nay, điều hành tốt nhất là khu vực doanh nghiệp nhà nước vì suy cho cùng các dự án to nhất mà đưa vào tay người Trung Quốc cũng là từ các doanh nghiệp nhà nước thôi. Nhà nước cần kiên quyết việc này, các doanh nghiệp nhà nước cũng phải nhìn thấy cả lợi ích của dân tộc, của đất nước chứ không chỉ lợi ích kinh tế của các doanh nghiệp. Tôi tin là Việt Nam hoàn toàn có thể làm được, phát triển một nền kinh tế độc lập tự chủ, vững mạnh trong xu thế này. - Bà đánh giá thế nào về sức mạnh kinh tế Việt Nam hiện nay? Trong thế giới hiện đại ngày nay, nhất là trong điều kiện hòa bình, sức mạnh kinh tế là hàng đầu, là sức mạnh cơ sở để làm chỗ dựa phát triển đất nước cũng như trong sự cạnh tranh, hợp tác với các nước khác liên quan trên toàn thế giới. Nếu nền kinh tế không vững mạnh, nó sẽ không thể đảm bảo vai trò là cơ sở cho an ninh quốc phòng hay là cho độc lập tự chủ cũng như vị thế chính trị của một nước trên trường quốc tế. Về sức mạnh kinh tế Việt Nam hiện nay, tiềm năng rất lớn, những cơ sở khai thác để biến nền kinh tế Việt Nam trở lên mạnh mẽ đều có và vẫn đang còn đó. Nhưng trên thực tế, chúng ta đang trong một thời kỳ hết sức khó khăn. Có thể nói năm nay là năm thứ 4 liên tục, chúng ta trong tình trạng bất ổn vĩ mô cũng như trong các vấn đề lớn về kinh tế. Tuy nhiên, chỉ cần chúng ta thực hiện đúng những điều mà nội bộ mình đã nhìn nhận được rõ, qua phân tích và làm theo những mô hình tăng trưởng, tái cấu trúc nền kinh tế như ở Đại hội XI vừa rồi đã đưa ra. Chỉ cần chúng ta làm được đúng những điều đó thôi là chúng ta đã có thể đưa nền kinh tế ra khỏi tình trạng khó khăn hiện nay và lấy lại cũng như tăng cường sức mạnh kinh tế của mình. Doanh nghiệp nhà nước nên chủ động cân bằng nhập siêu từ TQ - Theo bà, vai trò của các nhà doanh nghiệp trong vấn đề đối ngoại với Trung Quốc thể hiện như thế nào? Tôi cho là các doanh nghiệp đóng vai trò rất quan trọng. Thực ra quyết định mua ở đâu, bán cho ai thì một phần định hướng là của nhà nước, một phần rất quan trọng là của các nhà doanh nghiệp. Các doanh nghiệp của chúng ta chia thành hai khối rất rõ rệt: các doanh nghiệp lớn hầu hết là các doanh nghiệp nhà nước và họ là những đơn vị chiếm thị phần lớn nhất trong cơ cấu nhập khẩu từ bên ngoài vào Việt Nam. DN chế biến trong nước đang phải cạnh tranh gay gắt với thương lái Trung Quốc trong việc thu mua nguyên liệu thủy sản ngay tại ngư trường Hiện nay, các dự án lớn của Việt Nam có đến 90% là do Trung Quốc thực hiện. Các tập đoàn thay đổi đi, các doanh nghiệp thay đổi đi, tính toán kỹ càng lại đi thì thấy có nhiều dự án có thể đưa ra cho các đối tác khác làm và một phần cho chính người Việt Nam mình làm cho trưởng thành lên. Chứ không phải tất cả giao cho Trung Quốc như vậy. Chúng ta sẽ thay đổi được. Tôi nghĩ là riêng phần tổng thầu các dự án lớn thôi thì cũng đủ để thay đổi dần dần, lấy lại cân bằng giảm đáng kể tình trạng nhập siêu từ Trung Quốc. - Hiện nay, dù biển Đông đang là khu vực có tranh chấp nhưng việc giữ vững ổn định tại khu vực này vô cùng quan trọng. Một trong những yếu tố góp phần tạo nên sự ổn định đó là ổn định kinh tế. Theo bà cần phải làm gì để thực hiện điều này? Trong Nghị quyết 11 của chính phủ về ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát của năm nay có bao gồm 6 nhóm giải pháp lớn. Tôi cho rằng điều đầu tiên và quan trọng số 1 là thực hiện đầy đủ cả 6 nhóm giải pháp do Chính phủ đề ra. Tiếc là trong 6 nhóm giải pháp này trong thời gian vừa qua, trong thực hiện tập trung quá nhiều vào các giải pháp về tín dụng về tín dụng hơn là những chính sách về tài khóa: chính sách về đầu tư công... Chúng ta cần phải làm mạnh hơn nhóm giải pháp này. Ngoài ra, còn một vấn đề quan trọng không kém đó là bắt tay thực hiện những đề án của chính phủ đưa ra, tăng trưởng theo tỷ trọng, chuyển dần sang phát triển theo chiều sâu nhấn mạnh về yếu tố chất lượng, năng suất lao động, hiệu quả quản lý, cạnh tranh từ đó phát huy thế mạnh của đất nước. - Xin cảm ơn chuyên gia! Theo GDVN ===================================================== Bình Luận Của Lý Học. Cơ chế quản lý nhà nước là Dương. Hoạt động giao dịch trong thương mại là Âm. Trong hoàn cảnh này, thị trường nông sản trong nước đang bị rối loạn thể hiện Âm thịnh dương suy tắc loạn. Khi thị trường nông sản bị đầu cơ nhũng nhiễu với mọi hình thức nào thì sẽ tạo sự mất cân bằng âm dương. Trong âm có dương, khi gia dịch thưng mại có sự biểu hiện thái quá, cụ thể thông qua sự chiếm hữu nông sản từ một phía thì tạo sự mất cân bằng nội tại, lẽ dĩ nhiên là sự rối loạn dây chuyền. Thiên Đồng tôi không dùng khoai lang làm thực phẩm chính nhưng khi giá cả khoai đột biết chắc cũng có nguy cơ..."khoái ăn sang" để nhín lương. Hic
  25. Tranh luận Online Thu hồi đất: Đừng để ‘giọt nước tràn ly’ Tác giả: Phong Lĩnh Bài đã được xuất bản.: 5 giờ trước (VEF.VN) - Việc ban hành văn bản pháp quy liên quan đến bồi thường, giải phóng mặt bằng, thu hồi đất... cần đảm bảo cân bằng lợi ích giữa chủ đầu tư và người dân. Đừng quá chăm chút đến lợi ích của chủ đầu tư và đổ hết lỗi lên đầu người dân có đất trong dự án. LTS: Sau khi Diễn đàn Kinh tế Việt Nam, báo VietNamNet đăng tải bài viết: "Hành chính hóa thu hồi đất: Đổ thêm dầu vào lửa"; "Hành chính hóa thu hồi đất: Làm lợi cho ai?" chúng tôi nhận được bài viết của tác giả Phong Lĩnh ở TP.HCM. Để đảm bảo thông tin đa chiều, VEF.VN trân trọng giới thiệu bài viết này, trước khi đưa lên tiếng nói chính thức từ nhà quản lý và các chuyên gia. Mời các bạn đón đọc và tiếp tục tham gia tranh luận. Mọi ý kiến xin gửi về: vef@vietnamnet.vn hoặc phần thảo luận phía dưới. Luật chưa nghiêm với chủ dự án Nguyên nhân dự án trì trệ kéo dài, giải phóng mặt bằng chậm tiến độ do người dân có đất trong dự án chỉ là phần rất nhỏ, mà chủ yếu là do: Mức bồi thường không thỏa đáng: Giá bồi thường chỉ bằng 5-40% giá thị trường Chủ đầu tư thiếu năng lực tài chính: Việc chấp thuận dự án đầu tư thường bỏ khâu kiểm tra năng lực tài chính vì những lý do mà ai cũng hiểu. Nhiều dự án được thực hiện theo kiểu "xí phần" rồi sang nhượng dưới chiêu thức liên doanh, hợp tác đầu tư... Khi chưa gọi được đối tác thì tìm cách kéo dài thời gian thực hiện dự án. Thiếu đối thoại giữa chủ đầu tư và người bị thu hồi đất: Hầu hết các chủ đầu tư đều biến các cơ quan chính quyền thành công cụ phục vụ cho họ trước khi họ đối thoại với dân thay vì làm ngược lại (Không một chủ đầu tư nào chịu ra mặt đàm phàn thỏa thuận với dân ngay từ đầu, mà họ chỉ ra mặt thỏa thuận với dân sau khi chính quyền áp đặt các biện pháp hành chính không thành và người dân khiếu nại kiện cáo lên các cấp chính quyền cao hơn). Ban bồi thường giải phóng mặt bằng chỉ là cơ quan trung gian giữa chủ đầu tư và người dân bị thu hồi đất và không phải là chủ thể đền bù (người bỏ tiền đền bù), nhưng lại quyết định mọi giá cả đền bù là bất hợp lý. Cách giải quyết khiếu nại tố cáo của người dân bị thu hồi đất chưa hợp lý: Đơn khiếu nại tố cáo gửi lên cấp trên đều bị chuyển lòng vòng xuống cấp bị khiếu nại tố cáo. Thử hỏi khi nào thì đơn thư được giải quyết, nếu được thì liệu có thỏa đáng hay không? Thực hiện luật pháp chưa nghiêm với các chủ dự án. Luật Đất đai năm 2003 quy định "... dự án được giao đất mà quá 12 tháng chưa triển khai thực hiện hoặc triển khai chậm quá 24 tháng thì bị thu hồi... ", nhưng thực tế có nhiều dự án sau nhiều năm chưa triển khai hoặc triển khai chậm 10-15 năm vẫn không bị thu hồi và cũng không có biện pháp chế tài nào. Việc kéo dài thời gian thực hiện dự án hầu hết chủ đầu tư chẳng thiệt hại gì, mà chỉ có người dân là "chịu trận". Chủ đầu tư luôn kêu ca về chi phí hàng ngày cho dự án tăng: như nguyên vật liệu đầu vào tăng, lãi suất ngân hàng,... nhưng những thứ đó chẳng thấm vào đâu so với giá trị dự án tăng lên. Chẳng thế mà họ (chủ đầu tư) thà kéo dài thời gian thực hiện dự án, chứ đâu chịu bỏ phần chi phí tăng thêm đó để đền bù thỏa đáng cho dân nhằm đẩy nhanh tiến độ dự án. Trình độ hiểu biết của dân về luật pháp còn hạn chế và cũng có những trường hợp người dân đòi hỏi quá đáng, khiếu nại kiến cáo sai thực tế, nhưng đó chỉ là những hạt cát giữa biển khơi mà thôi. Bất cập chính sách Chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ban hành trong những năm gần đây đã có nhiều thay đổi, nhưng vẫn tồn tại một số điều bất cập: Khi một dự án được phê duyệt là gây ảnh hưởng đến hàng trăm hàng ngàn hộ dân, nhưng chỉ cần dự án được phê duyệt là người dân trong dự án gần như mất quyền sử dụng đất: không được xây dựng, sửa chữa, chuyển nhượng... Gần đây, có quy định cho xây nhà tạm, nhưng lại bắt cam kết tự tháo dỡ và không yêu cầu bồi thường khi giải phóng mặt bằng - đây là điều phi lý và đẩy hết thiệt hại lên đầu người dân. Nếu quy định trong thời hạn 1-2 năm kể từ ngày chấp thuận dự án thì người dân còn chịu được, đằng này nhiều dự án treo hoặc thực hiện trì trệ kéo dài 10-15 năm, người dân quá bị thiệt thòi. Khi người dân khiếu nại kiện cáo thì bảo phải thực hiện các quyết định hành chính trước rồi kiện cáo khiếu nại sau. Nhà, đất đã bị mất rồi (cưỡng chế thu hồi bất kể đúng sai) rồi mới đi khiếu nại kiện cáo và cách giải quyết khiếu nại kiện cáo như trên chỉ làm cho dân càng thiệt thòi thêm. Nên có trường hợp khiếu nại kiện cáo kéo dài, sau 10-20 năm được giải quyết thỏa đáng thì cũng bằng không vì nhà mất, đất mất lại mất thêm công sức thời gian tiền bạc cho khiếu nại kiện cáo, đôi khi còn mất luôn cả hạnh phúc gia đình, thậm chí mất mạng. Phần mất mát này còn lớn hơn cả nhưng gì được bồi thường cho dù là thỏa đáng. Đơn thư khiếu nại của dân không được thẩm tra giải quyết rốt ráo mà bị chuyển lòng vòng, cuối cùng lại về với đối tượng bị khiếu nại. Thử hỏi có bao giờ kẻ có tội, làm sai lại tự nhận là mình sai trước kẻ kiện cáo mình. Sự thiếu minh bạch trong kết quả xét xử khi tòa án các cấp quận, huyện, thành phố, thị xã lại trực thuộc UBND các cấp đó. Đừng để giọt nước làm tràn ly Chính sách đền bù giải phóng mặt bằng lâu nay chưa thỏa đáng, khiến người dân bất bình, dẫn tới khiếu kiện chủ yếu liên quan đến đất đai và công tác đền bù giải phòng mặt bằng. Nay với hai phương án mà Tổng cục Quản lý đất đai (Bộ Tài nguyên và Môi trường) đề xuất, nên: Thứ nhất, bỏ việc nhà đầu tư tự thoả thuận việc mua đất để thực hiện dự án phát triển kinh tế, thay vào đó Nhà nước thu hồi đất đối với mọi trường hợp. Thứ hai, vẫn giữ cơ chế nhà đầu tư tự thoả thuận việc mua đất, nhưng bổ sung theo hướng trường hợp nhà đầu tư mua được trên 80% diện tích đất cho dự án, hoặc mua được đất của trên 80% số chủ sử dụng ở trong khu vực dự án, mà phần diện tích đất còn lại, hoặc số chủ sử dụng đất còn lại nhà đầu tư không thoả thuận được, thì Nhà nước ra quyết định thu hồi đất. Với lý do: "... một số dự án đã thỏa thuận được trên 90% diện tích đất nhưng vẫn không hoàn tất được việc thu hồi đất do 10% còn lại... không đồng ý nhưng không có cơ chế xử lý!". "... khi thực hiện cơ chế tự thỏa thuận giữa nhà đầu tư với người sử dụng đất thì giá thỏa thuận thường cao hơn giá bồi thường dẫn tới khó khăn cho việc thu hồi đất của dự án khác trong cùng địa bàn". Rõ ràng những đề xuất này chỉ nhằm mục đích tạo thuận lợi cho chủ đầu tư và càng làm thiệt hai cho người dân bị giải tỏa. Bác Hồ đã dạy "Khó mười lần không dân cũng chịu. Khó trăm lần dân liệu cũng xong", nhưng đề xuất như vậy khác nào chỉ chú trọng lợi ích của chủ đầu tư mà chưa qan tâm đến người dân?. "10% còn lại" không phải không có cơ chế xử lý - chính quyền đã chẳng thi hành cưỡng chế rồi đó sao. Thậm chí không phải còn 10%, 20% chính quyền địa phương mới ban hành quyết định và thi hành cưỡng chế, mà còn 30- 40% đã cưỡng chế dân rồi, như dự án sân golf Rạch Chiếc - An Phú quận 2, TP.HCM chẳng hạn. Vì sao "... giá thỏa thuận cao hơn giá bồi thường", điều đó chứng tỏ giá bồi thường chưa hợp lý. Các dự án khác cũng phải theo đó mà bồi thường mới đúng chứ. Dân giàu nước mạnh là đường lối chủ trương phát triển đất nước của Đảng và Nhà nước. Nhà nước chủ trương: "Phải đảm bảo quyền lợi cho dân, đền bù cho dân thỏa đáng, sát giá thị trường để tránh khiếu nại kiện kéo dài", gây lãng phí tiền bạc, thời gian của dân của nước. Nhưng với đề xuất như thế của Tổng Cục quản lý đất đai, liệu có làm giảm thêm khiếu nại, kiện cáo hay không? Liệu đã đảm bảo quyền lợi của người dân? Để hạn chế, những người dân đòi hỏi quá đáng, sao không ban hành quy định về "giá trần" bồi thường. Chẳng hạn, giá trần được xác định bởi giá thị trường tại thời điểm thỏa thuận (trong thời hạn 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng tối đa là 6 tháng). Nếu người dân không chấp nhận giá trần thì mới tiến hành cưỡng chế. ============================================= Bình luận của Lý Học: Lý Học quan niện rằng: Dương thịnh Âm suy tắc bế. Âm thịnh dương suy tắc loạn. và cũng quan niệm rằng: Trong Dương có Âm, Trong Âm có Dương. Trong văn bản pháp quy mà bài báo trên nói tới là Dương. Trong Dương có Âm đó là tính cân đối và hợp lý của văn bản. Dương ở đây là những quy định thuộc về chủ đầu tư. Âm là những quy định thuộc về người dân bị thu hồi đất. Nếu Âm Dương hài hòa, tức là quyền lợi của chủ đầu tư và người dân bị thu hồi đất cân bằng hợp lý thì tốt. Nếu quyền lợi chủ đầu tư quá có lợi mà trong khi đó quyền lợi người dân bị thiệt thòi thì là Dương thịnh Âm suy. Như vậy là không tốt. Thấy báo có bài thảo luận nên đem về đây bàn luận chơi thôi. May mà Thiên Đồng tôi không có cục đất nào chọi chim nên không bị Âm Dương rối loạn. Hehe Thiên Đồng