Thiên Đồng

Hội viên
  • Số nội dung

    6.278
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    75

Everything posted by Thiên Đồng

  1. PHONG THỦY LẠC VIỆT VỚI KIẾN TRÚC ĐƯƠNG ĐẠI Thiên Đồng - Bùi Anh Tuấn Trung tâm Nghiên cứu Lý học Đông Phương. Kiến trúc đương đại trên thế giới đã đi từ Kiến trúc Hiện đại sang phong cách Hậu hiện đại và nhờ vào kỷ thuật khoa học tiến bộ thì Phong cách Kỹ thuật công nghệ cao (Hitech) như một xu hướng mới nhưng chưa thật sự phổ biến. Dù thế nào đi nữa thì việc ứng dụng trong xây dựng đa phần hiện nay đều theo nếu không là phong cách Hậu hiện đại thì cũng là phong cách Hiện đại. Dựa trên những cơ sở hay điểm chung của các phong cách mà Phong thủy Lạc Việt nhận định và đánh giá sự tốt xấu hay thành bại của các công trình cụ thể theo phương pháp luận của phong thủy và trên cơ sở khoa học. Bài này chỉ xét trên vài nét đặc trưng của Kiến trúc Hậu hiện đại và Kiến trúc Hiện đại trên quan điểm của Phong thủy Lạc Việt. I KIẾN TRÚC HẬU HIỆN ĐẠI VÀ CÁI NHÌN HÌNH LÝ KHÍ 1.Từ Triết Lý Đến Kiến trúc Hậu Hiện Đại: Trong bối cảnh đầy biến động của thế giới vào giữa đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa Hậu hiện đại (postmodernisme) xuất hiện như một mảnh lực của một cá nhân bị bó buột và rào chắn bởi những quy cách, định chế, nội quy…vực dậy nói lên tiến nói phá bỏ luật lệ. Những Heiddegger, Derrida, Foucault, Nietzsche .v.v. gióng lên hồi chuông khai tử cho sự ảnh hưởng của chủ nghĩa Hiện đại và văn hóa Tây phương, đó là hồi chuông chống lại sự đồng nhất về văn hóa, tôn trọng sự khác biệt về văn hóa, ủng hộ bảo nguyên tính đa dạng của từng nền văn hóa khác nhau, phản ứng lại uy quyền của lý tính, chống lại nền tảng, phê phán sự thống trị của lý tính, đẩy mạnh sự cách tân, phá cách và vượt qua chuẩn mực, vượt qua truyền thống. Từ lý tưởng triết học, chủ nghĩa hậu hiện đại đi vào thơ ca văn chương, hội họa, kiến trúc…như một phương thức hành động, sự bày tỏ thái độ rỏ ràng đối với thời cuộc. Và, nếu coi kiến trúc là một phương tiện thể hiện duy nhất và hữu hiệu cho sự thể hiện của mọi chủ nghĩa trong thời đại của sự phát triển vũ bão của kỷ thuật thế giới thì Kiến trúc Hậu hiện đại là một phương tiện phổ biến và đầy đủ sự đa dạng. Bắt đầu những thập niên 1950 cho đến thời hiện tại, tiếp nối trào lưu Kiến trúc hiện đại, Kiến trúc Hậu hiện đại hình thành thành một trào lưu mạnh mẽ và tầm ảnh hưởng lớn trong mọi thời đại kiến trúc. Để mở đầu cho thời kỳ Kiến trúc Hậu hiện đại, tác giả Charkes Jencks đã “khai tử” cho nền Kiến trúc Hiện đại bằng câu nói nổi tiếng như cắm một cây thập tự cáo chung: "Kiến trúc Hiện đại đã chết ở Saint Louis, Missouri ngày 15 tháng 7 năm 1972 vào hồi 15h32". Đó cũng là lời mở đầu cuốn sách "Ngôn ngữ của kiến trúc Hậu hiện đại" của chính ông. Cuốn sách này đã gây tiếng vang lớn trong giới kiến trúc và được tái bản nhiều lần, được dịch ra nhiều thứ tiếng. Nó báo hiệu một trào lưu kiến trúc mới ra đời: Kiến trúc Hậu hiện đại. Nếu Kiến trúc Hiện đại chối bỏ những chi tiết trong kiến trúc được cho là rườm rà, phủ nhận truyền thống, không xem xét đến bối cảnh mà có thể đặt công trình ở bất kỳ môi trường nào, bất kỳ nước nào thì Kiến trúc Hậu hiện đại cho xuất hiện lại các chi tiết trang trí, phát triển thêm tính đa nghĩa của biểu tượng trong kiến trúc, chú ý đến mối quan hệ của kiến trúc đến môi trường, phát huy và hài hòa với tính bản địa của kiến trúc để tạo thành phong cách. Kiến trúc Hậu hiện đại đề cao tính biểu trưng lịch sử khi hòa trộn những nét thảm mỹ cổ điển với nét thẩm mỹ chủ đạo mang tính quốc tế nhằm đưa đến một cái nhìn chấp nhận và đầy cảm tưởng. Kiến trúc Hậu hiện đại mang tính linh hoạt, thích hợp với mọi môi trường văn hóa, sẳn sàng hòa nhập với tính bản địa để tạo sự hài hòa. Đặt biệt, kiến trúc hậu hiện đại vận dụng tối đa tính ẩn dụ và trừu tượng, đẩy mạnh tính biểu trưng dẫn đến sự tự do thể hiện trong hình thể kiến trúc và nhấn mạnh cách bố trí không gian kiến trúc, đề cao đến trật tự trong kiến trúc, đôi khi đưa đến sự dàn trải không gian, tạo cảm giác một không gian vô hạn, không rõ ràng, thậm chí nhập nhằng với nhau hay chú trọng thể hiện cấu trúc theo hình học sơ cấp và đơn giản nhất mà ở đó người ta dể tìm thấy những khái niệm cổ điển như trục chính hay tâm nhà. Và kiến trúc Hậu hiện đại, luôn khuếch đại tính biểu tượng, biểu trưng, thể hiện chủ nghĩa chiết trung mạnh mẽ và đa dạng một cách triệt để. 2.Những Kiến Trúc Hậu Hiện Đại Tiêu Biểu: 2.1 Tòa nhà Royal College of Physicians thiết kế bởi Denys Lasdun ở Regent Park được cho là công trình Kiến trúc Hậu hiện đại đầu tiên. 2.2 Được xem như là dấu son tiêu biểu cho Kiến trúc Hậu hiện đại, Học viện Nghệ thuật Châu Á Lasalle Sia - College of the Arts, được chọn thay mặt cho phong cách kiến trúc Hậu hiện đại, đề án này đã được giới thiệu tại triển lãm kiến trúc danh tiếng Biennale tại Venice (Ý) năm 2004 và hiện nay công trình được coi là niềm tự hào của Singapure. Lasalle tọa lạc trên con đường Joseph Menally chỉ có số 1 duy nhất tòa nhà Lasalle để bày tỏ lòng kính trọng vị hiệu trưởng đầu tiên Joseph Menally. Nhóm thiết kế học viện Lasalle là sự kết hợp giữa RSP Architects và Huger Dutton Associates (HDA). Tập đoàn Nhật Bản Takenaka phụ trách xây dựng - HDA từng tham gia cố vấn, thiết kế và xây dựng nhiều công trình nổi tiếng thế giới như Kim tự tháp tại Bảo tàng mỹ thuật Louvre - Paris. Với 6 block chính từ ý tưởng “tan vỡ” của một tảng băng trôi khổng lồ - Lasalle chỉ toàn bằng kính kết hợp với màu đen của nham thạch, xiêu vẹo, quặn vỡ nhưng được nối kết tuyệt vời bởi những cầu nối giữa 6 khối nhà. Khái niệm “Kiến trúc thân thiện” cũng được thể hiện bằng sự rộng mở của không gian, không có cổng trường, khách bộ hành có thể băng qua học xá để qua con đường sau lưng hay trước mặt Lasalle. 2.3 Bảo tàng Milwaukee - “Đôi cánh hải âu quyền năng”, nằm kề bên hồ Michigan, Bảo tàng nghệ thuật Milwaukee với kiến trúc đặc trưng đã trở thành biểu tượng cho thành phố lớn nhất của tiểu bang Wisconsin. Đây là công trình hoàn chỉnh đầu tiên ở Mỹ và cũng là viện bảo tàng “đầu tay” của kiến trúc sư nổi tiếng người Tây Ban Nha Santiago Calatrava. Với công trình này, Calatrava đã chứng tỏ được “quyền năng” của kiến trúc, tạo một bước đột phá trong thiết kế kiểu dáng và công năng. Với tổng diện tích toàn bộ là 341.000m2, đây có thể được xem là tác phẩm đỉnh cao của loại hình kiến trúc động ảo, một phong cách Kiến trúc Hậu hiện đại do chính Calatrava khởi xướng từ cuối thế kỷ 20. Bảo tàng từng được tạp chí Condé Nast Traveler đánh giá là một trong những "kỳ quan mới của thế giới Chính thức mở cửa vào tháng 10-2001, trung bình mỗi ngày bảo tàng chào đón hơn 5.000 lượt du khách đến tham quan, cá biệt có những buổi triển lãm lớn, con số này có thể nhảy vọt lên đến 32.000 người ". Hàng loạt công trình qui mô lớn mang tính Hậu hiện đại được dựng lên tại thủ đô Bắc Kinh của Trung Quốc thể hiện sự dứt khoát hướng về cái mới của ngày mai. Những công trình này mang một thông điệp của ý chí vượt xa hơn phương Tây, do đó các công trình thường gắn liền với tên tuổi của các nhà thiết kế hàng đầu thế giới hiện nay. 2.5 Công trình mang dáng dấp của một chiếc tổ chim và thiết kế dựa trên ý tưởng bảo vệ môi trường sinh thái. Sân vận động do hãng Herzog & DeMeuron (Thuỵ Sĩ) từng giành giải thưởng Kiến trúc Pritzker danh tiếng, cộng tác với Arup Sport và nhóm kiến trúc Trung Quốc, thiết kế và thi công. Với kinh phí đầu tư 430 triệu USD, sân vận động có chiều dài 330, rộng 220m, cao 69,2m và được xây dựng trên tổng diện tích là 250.000 m2. 2.6 Nhà hát lớn quốc gia tại Bắc Kinh của kiến trúc sư (KTS) Paul Andrieu, chuyên gia hàng đầu người Pháp, được chọn trong một cuộc thi quốc tế, công trình Kiến trúc Hậu hiện đại này xuất hiện giữa một Bắc Kinh cổ kính đã từng gây nhiều tranh luận sôi nổi. Được thể hiện là khối bán cầu bằng kính vĩ đại đặt trên một mặt nước vuông nằm ở vị trí trung tâm quảng trường Thiên An Môn. Hình tượng “bầu trời” (thiên) thể hiện qua vòm kính và nền vuông “mặt đất” (địa) là một diện tích mặt nước vuông rộng lớn muốn bật ý niệm “Trời tròn đất vuông” kinh điển. Cái độc đáo của công trình này là lối vào nằm dưới hồ nước, tạo cảm giác toàn khu phức hợp trình diễn nghệ thuật nằm dưới mặt đất. Ba cơ sở chính là nhà hát Kinh kịch trung tâm, phòng hòa nhạc và nhà hát kịch nói được bố trí nằm gọn trong khối “vỏ trứng”, không gian còn lại là nơi giao lưu nghệ thuật.
  2. (tiếp theo) Bên trong các toà nhà có kết cấu bằng kính và thép ở Đức, các kiến trúc sư luôn chú ý đến các khoảng cây xanh, nhằm tạo cảm giác thư thái và cố gắng giảm bớt tính “lạnh” của chất liệu kính. Ảnh chụp bên trong tổ hợp Sony Center ở Berlin: Toà nhà bằng kính mang tên Pei-Bau là phần mở rộng của Bảo tàng Lịch sử Đức, được thực hiện theo ý tưởng của kiến trúc sư mang hai dòng máu Mỹ-Trung I.M.Pei, tác giả toà kim tự tháp bằng kính ở bảo tàng Louvre Paris. Công trình có phần cầu thang cuốn trong suốt này là nơi diễn ra các triển lãm đương đại của bảo tàng: Nhà ga chính của Berlin được đưa vào sử dụng toàn bộ hai ngày trước lễ khai mạc World Cup năm 2006. Công trình có dáng vẻ hiện đại với kết cấu kính và thép này cũng là nhà ga đường sắt lớn nhất châu Âu, mỗi ngày đón 1.800 lượt tàu và khoảng 350.000 hành khách. Đây là đồ án đoạt giải nhất trong cuộc thi tìm thiết kế nhà ga của nhóm kiến trúc sư Gerkan, Marg và Partners đến từ Hamburg: Trụ sở của Bộ Nội vụ Liên bang Đức soi bóng xuống dòng sông Spree ở thủ đô Berlin. Công trình có dáng vẻ vững trãi như một pháo đài, nhưng vẫn tạo được sự thanh thoát nhẹ nhàng nhờ ứng dụng chất liệu kính ở bề mặt: Hai toà nhà văn phòng của quốc hội Đức cách nhau bằng dòng Spree. Tòa bên trái mang tên Paul Löbe House dành cho các uỷ ban và Marie Elisabeth Lüders House (bên phải) dành cho thư viện và các hoạt động nghiên cứu. Cả hai đều nằm sát trụ sở quốc hội Reichstag và được nối với nhau bằng những cây cầu mảnh mai để người đi bộ và xe đạp qua lại: Toà nhà Victoria Haus cao 108 m ở thành phố Duesseldorf. Toà nhà văn phòng hình tròn có kết cấu bên ngoài bằng kính và thép này gồm 29 tầng được hoàn thành vào năm 1998 và là toà nhà cao thứ ba tại thành phố công nghiệp Duesseldorf: Khách sạn Park Inn trên quảng trường Alexanderplatz. Công trình cao 125 m này khi khánh thành vào năm 1970 đã trở thành toà nhà cao nhất ở cả hai phần đông và tây Berlin thời điểm đó. Sau khi nước Đức thống nhất, toà nhà này đã được thay đổi chủ và được thiết kế thêm phần ngoại thất bằng kính hiện đại: Phòng đọc của thư viện Anna Amalia ở Weimar, nơi lưu giữ nhiều tài liệu quý của nền văn học và lịch sử Đức với hơn một triệu đầu sách. Sau vụ hoả hoạn nghiêm trọng năm 2004, thư viện được xây dựng lại, trong đó nổi bật là phòng đọc có mái vòm bằng kính, giúp độc giả có thể đọc bằng ánh sáng tự nhiên ngay cả khi ngồi dưới tầng hầm: Tổ hợp World Trade Center ở Dresden rộng 80.000 m2, bao gồm các văn phòng, phòng hội nghị, khu vực triển lãm và cả khách sạn. Đây là một trong những nơi thường diễn ra các hoạt động quan trọng của thành phố cổ Dresden: Hai mảng đối lập về kiến trúc tại thành phố tài chính Frankfurt am Main. Các cao ốc bằng kính và thép của những ngân hàng lớn nhất thế giới nhìn từ phía một con phố tương đối cổ nằm gần nhà ga chính của thành phố (Hauptbahnhof): Tổ hợp văn phòng, trung tâm thương mại và giải trí Neues Kranzlereck ở Berlin do kiến trúc sư Helmut Jahn thiết kế. Công trình có phần ngoài bằng kính này được xây dựng trong hai năm từ 1998 đến 2000: Kính được ứng dụng làm cả tường ngăn (hàng rào) rất ấn tượng. Đây là ý tưởng thiết kế độc đáo thuộc tổ hợp văn phòng của quốc hội Đức Jakob Kaiser Haus, nằm cạnh sông Spree: 3. Nhận Xét Của Phong Thủy Lạc Việt Đối Với Những Kiến trúc Bằng Kính. Bằng cái nhìn của Lý học Đông Phương và trên quan điểm của Phong Thủy Lạc Việt thừa hưởng những tri thức của Văn hiến 5000 năm của tổ tiên Lạc Việt, dù kiến trúc xây dựng thay đổi đa dạng về hình thức hay phong cách kiến trúc cũng không nằm ngoài phạm vi quán xét của Phong Thủy. Dựa trên hệ thống lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành, Phong thủy Lạc Việt có thể nhận xét những mặt tích cực và tiêu cực của các công trình kiến trúc từ truyền thống đến hiện đại, miễn sao đó là kiến trúc. Trong một phạm vi nhỏ hẹp, người viết chỉ dùng một phần nhỏ của tri thức Phong Thủy Lạc Việt để nhận xét mô hình Kiến trúc hiện đại bằng kính tại Đức, một trào lưu tiêu biểu của nghệ thuật kiến trúc đương đại. Theo học thuyết Âm Dương Ngũ Hành, cho rằng do sự vận động và tương tác từ khởi nguyên của vũ trụ, tự nhiên phân ra thành hai loại khí Âm và Dương. Hai loại khí này tương tác lẫn nhau tạo nên sự phát triển của vạn vật. Vạn vật lại tương tác và trùng trùng khởi sinh. Phong Thủy Lạc Việt khẳng định rằng sự tương tác của vật chất tạo là Âm động tạo ra Dương khí và sự vận động nội tại của vật chất là Dương tịnh tạo ra Âm khí. Mỗi loại khí đều có mặt tích cực và tiêu cực trong từng trường hợp và trong mục đích cụ thể. Quán xét trên cơ sở học thuyết Âm Dương Ngũ Hành, ánh sáng mặt trời được gọi là Dương quang, thuộc về khí Dương. Kính do tính chất trong suốt và thấu thị, tạo điều kiện cho ánh sáng đi qua, xuyên qua, nghĩa là ánh sáng đi qua một môi trường trong suốt và ít nhiều bị gãy khúc hoặc biến tính tạo một trường năng lượng dương. Cơ sở thực nghiệm khoa học cũng xác nhận rằng ánh tác động lên thấu kính sẽ tạo nên năng lượng dương. Đó là tương tác. Học thuyết thuyết âm dương Ngũ hành xác định sự tương tác của vật chất tạo nên khí Dương. Từ đây có thể nhận thấy rằng các kiến trúc hiện đại bằng kính tại Đức được kiến trúc và xây dựng trên phương tiện vật liệu chủ yếu là kính với khung sường kết cấu bằng sắt thép là những mô hình kiến trúc mang khí dương rất dồi dào và cường thịnh, điển hình cho các kiến trúc cần có khí Dương vượng. Mặt khác, cũng theo học thuyết âm dương Ngũ Hành, những khái niệm thuộc về tinh thần là Dương. Do vậy tư duy, ý thức, khả năng sáng tạo, tuy duy logic, ý chí phấn đấu, nhiệt huyết năng động, nói năng diễn thuyết, tư tưởng bay bổng, tinh thần hướng thượng, chủ nghĩa sáng tạo…thuộc Dương. Theo như Nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh, khái niệm rằng Phong Thủy là sự tương tác, đó là sự tương giữa con người và môi trường, mà sự tương tác trực tiếp nhất, tế vi nhất là Khí, Dương khí và Âm khí. Vì thế với những công trình kiến trúc làm bằng kính, như kiến trúc tại Đức thì đó là môi trường mà khi con người hoạt động và làm việc tại đó, sẽ chịu sự tác động chủ yếu và hầu hết cúa khí Dương. Cũng như đã nói ở trên, do sự tác động của Dương khí lên đối tượng là con người nên con người ở đây trở nên luôn tích cực, năng động, nhạy bén, sáng tạo, hoạt động, hành động, suy tư, tư duy…tóm lại luôn trong trạng thái hoạt động của cả thể chất lẫn tinh thần. Do đó, những công trình kiến trúc làm bằng kính luôn là mô hình lý tưởng cho một môi trường cần sự hoạt động về tinh thần và năng động về thể chất, một môi trường hữu ích cho việc đầu tư, trau dồi khai thác trí tuệ, tìm năng của con người đưa vào phục vụ lợi ích xã hội. Vì thế, mô hình kiến trúc làm bằng kính luôn thích hợp cho làm nơi hoạt động trí tuệ như công nghệ thông tin, văn phòng kinh doanh, văn phòng dịch vụ, những nơi diễn thuyết họp hành, bảo tàng nghệ thuật mỹ thuật, thư viện, triễn lãm…bởi những nơi đây cần có sự hoạt động chủ yếu của tinh thần và cũng bởi do tính chất dương khí của công trình nên nó cũng thích hợp với công năng sử dụng để làm nơi trụ sở công quyền hay là cơ quan hành chánh quốc gia, cho nên, kiến trúc làm bằng kính, có thể nói là mô hình kiến trúc hữu ích trong việc khai thác năng lực và năng lượng của con người , đáng là những kiểu trúc tiêu biểu. Tuy vậy, cũng theo học thuyết Âm Dương Ngũ Hành, khi Dương khí hay Âm khí quá vượng thì bao giờ cũng sinh bất cập. Sự vượng phát thái quá của khí Âm hay khí Dương đều dẫn đến hiện tượng mất cần bằng Âm Dương, lại trở nên tiêu cực. Trong trường hợp cụ thể đối với kiến trúc làm bằng kính này thì do chính bởi cấu trúc vật liệu làm cho công trình tạo nên nhiều dương khí và Dương khí quá dồi dào, do vậy dể dàng đưa đến những thái quá trong hoạt động. Điều này thật dể dàng nhận thấy qua những con người hoạt động và làm việc lâu dài trong những công trình kiến trúc bằng kính này là thường dể bị căng thẳng, mỏi mệt, cáu gắt, uể oải, suy nhược về tinh thần và thể chất. Cũng do tính chất Dương khí thái quá nên môi trường ở những khu kiến trúc làm bằng kính thường có bầu không khí khí làm việc dưới những áp lực căng thẳng vô hình, những áp lực luôn tạo sự năng động cho con người hoạt động và làm việc nơi đây nhưng thường thì thời gian gắn bó của các cá nhân ở nơi đây không được lâu dài và bền vững. Sự thái quá của Dương khí thể hiện sự mất cân bằng cơ bản, xét trên quan điểm Lý học, do đó thông qua những hoạt động sống của con người thì từ cơ sớ lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành có thể đưa đến một nhận xét, cũng như một sự tiên tri rằng đây là một mội trường mà trong đó mọi hoạt động luôn biến đổi trong sự mất cân đối và sự biến đổi đó là do sự tác động trực tiếp bởi Dương khí, cho nên tính bất an hay đột biến được biểu hiện cụ thể qua thực tế hoạt động hay hiệu quả của sự hoạt động là hiển nhiên, phản ánh đúng tính quy luật khách quan của cơ sở Lý Thuyết Âm Dương. Mặt khác, do vật liệu chủ yếu là chính nên thường vật liệu kết cấu chính là sắt thép tạo khung sường, vì vậy các kiến trúc làm bằng kính thường có hình thể mà trong phong thủy gọi là “lộ cốt”, có thể là lộ cốt trong hoặc cũng có thể là lộ cốt ngoài. Thêm nữa, các kiến trúc đôi khi có hình thù tổng thể lạ mắt hay kỳ dị, cho nên theo quan điểm xấu – tốt của Hình Lý Khí thì cũng góp phần vào làm tăng thêm tính chất xấu của công trình. Tính tự do sáng tạo trong kiến trúc hiện đại và việc vận dụng đầy sáng tạo vật liệu làm bằng kính để tạo một phong cách đặc thù kiến trúc dể đưa đẩy các mô trình kiến trúc đến những hình thể xấu theo quan điểm Phong thủy Lạc Việt. Hơn nữa, bởi kính là vật liệu chủ yếu thay tường vách bằng bê tông nên ít nhiều cũng tạo những ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe của con người hoạt động trong đó, do tính phản quan một phần hay tính thấu thị của kính. Do vậy, chính hiệu ứng giữa ánh sáng và kính dể làm cho con người bị bệnh mất ngủ, căng thẳng, tress, dẫn đến những bệnh về tiêu hóa, bao tử hay tim mạch. Có thể nói rằng kiến trúc làm bằng kính là một trong những phong cách kiến trúc đặc thù của trường phái kiến trúc hiện đại (modernisme) với chất liệu chủ yếu là kính và sắt thép tạo nên một phong cách tiêu biểu đặc biệt và ấn tượng. Tuy nhiên, khi quán xét trên quan điểm Phong thủy Lạc Việt thì do chính yếu tố thiết kế kiến trúc bằng kính đã tạo nên những hiệu ứng tốt xấu lên đối tượng là con người hoạt động trong các công trình kiến trúc này. Dù cho sự phát triển, biến đổi về mặt kiến trúc, cũng như kết cấu trong xây dựng thì kiến trúc xây dựng cũng vẫn là đối tượng quán xét của phong thủy và cũng chỉ là một phần trong nhiều yến tố của phong thủy. Kiến trúc xây dựng phát chuyển theo từng thời kỳ cũng chỉ thực hiện và đáp ứng bốn (4) tiêu chí chính là Bền Bỉ - Kinh Tế - Tiện Ích – Thẩm Mỹ, nhưng không thể đáp ứng một tiêu chí có tính tiên quyết là Tốt và chỉ có Phong thủy và chỉ với Phong Thủy Lạc Việt mới đáp ứng thỏa mãn tiêu chí này. Như đã nói trên, phong thủy không phải yếu tố riêng phần đối lập với kiến trúc mà ngược lại kiến trúc là một bộ phận của phong thủy. Vì vậy phong thủy là sự tổng hòa của các yếu tố nhằm mang lại Chân - Thiện - Mỹ phục cho mong muốn an lạc và phát triển của con người, của cộng đồng và xã hội. III. Kết Luận: Tóm lại, việc xây dựng các công trình trong trào lưu kiến trúc đượng đại thì đa phần hoặc chọn phong cách kiến trúc Hiện Đại hoặc theo phong cách kiến trúc Hậu hiện đại hoặc đôi khi Hitech (Kỹ thuật công nghệ cao) đều lấy tính hình tượng hay chú trọng việc vận dụng vật liệu kết cấu là phương tiện thể hiện ý tưởng hay phong cách, đều không những không ngoài sự quán xét của Phong thủy Lạc Việt mà còn là cơ sở cần xét đến để xác định chiều tương tác tích cực tốt xấu đi đến sự nhận định thành bại hay thịnh suy của một công trình. Xét cho cùng, khi một công trình kiến trúc được dựng nên không chỉ đơn thuần hướng đến sự tồn tại bền bỉ, công năng sử dụng tiện lợi tiện nghi, yếu tố thẩm mỹ thu hút và giá trị hiện kim đáng quan tâm của công trình mà tất cả đều nhắm đến sự phát triển thành hay bại, thịnh hay suy, cho dù đó là sự tâm huyết hay đầu tư hướng đến lợi nhuận hay phi lợi nhuận thì sự phát triển hay không phát triển của một thực thể kiến trúc là mối quan tâm trong tâm khảm và hàng đầu. Phong thủy Lạc Việt với ý nghĩa là sự tổng hòa các mối tương tác, bao hàm yếu tố kiến trúc thì mọi cơ sở quán xét đều đi đến nhận định tốt xấu bảm bảo tính định hướng của sự phát triển của công trình đem lại lợi ích phục vụ xã hội. Viết xong, ngày 16 tháng 11 năm 2009 Thiên Đồng =========================================== Tham Khảo: -Phong thủy trong Bất động sản, tg Jo Incheol, NXB Tổng Hợp Tp HCM. -Hà đồ trong văn minh Lạc Việt, tg Nguyễn Vũ Tuấn Anh, NXB Tổng Hợp TpHCM 2007 -Phong thủy Lạc việt, tg Nguyễn Vũ Tuấn Anh, lưu hành nội bộ. -Kiến trúc hiện đại, tg Tôn Thừa Nguyên, NXB Xây Dựng. -Nguyên lý thiết kế nhà dân dụng: Nhà ở và nhà công cộng, tg Gs, Ts, Kts, Nguyễn Đức Thiềm, NXB Khoa học kỹ thuật. -www.dothi.net -www.google.com
  3. (tiếp theo) II. CÁI NHÌN PHONG THỦY LẠC VIỆT VỀ KÍNH TRONG KIẾN TRÚC HIỆN ĐẠI CỦA ĐỨC 1.Trào Lưu Phát Triển và Phong Cách Kiến Trúc Bằng Kính. Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trào lưu kiến trúc hiện đại ở các nước Châu Âu được khai sinh và bùng nổ, mở ra một “kỷ nguyên mới” đoạn tuyệt với kiến trúc truyền thống cổ điển với nhiều chi tiết rườm rà với những quy định chặt chẽ về không gian kiến trúc, đưa kiến trúc nhân loại tiến đến một bước phát triển mới. Trào lưu kiến trúc hiện đại có thể được xem là luồng sinh khí mới tạo điệu kiện cho tư duy sáng tạo kiến trúc được bay bổng và tự do hơn về khả năng sáng tạo những giải pháp hữu hiệu về mặt không gian kiến trúc, khai thác tối đa về phương pháp sử dụng vật liệu, biện pháp thi công, đa dạng trong quan điểm thẩm mỹ, khởi sướng một một kỷ nguyên rực rở của kiến trúc hiện đại vào những thập niên đầu của thế kỷ XX. Giữa những sự đa dạng về loại hình kiến trúc của trào lưu Kiến trúc hiện đại thì vật liệu kiến trúc cũng được đưa lên thành đối tượng chính quyết định cả về cấu trúc, xây dựng, thẩm mỹ và biểu tượng. Đó là những công trình như Tháp Eiffel do hai kiến trúc sư Koechlin và Nouguier thiết kế, Biệt Thư Gạch Đỏ (The Red House) của Phillip Wedd thiết kế, Cung Thủy Tinh (Crystal Palace) ở Hyde Park, (London, Anh) năm 1851 do Joseph Paxton thiết kế, Trường Bauhaus, Đức do KTS Walter Gropius thiết kế, Biệt thự Savoye ở Poissy, Pháp- Le Corbusier thiết kế, Toà nhà Quốc hội của Brasil do Oscar Niemayer thiết kế…đã tạo nên những ấn tượng đậm nét, đầy tính cách và tạo ảnh hưởng mạnh mẽ trong trào lưu kiến trúc thế giới. Tháp Eiffel xây dựng năm 1889 Biệt thự Gạch đỏ (The Red House) Cung Thuỷ Tinh (Crystal Palace) Biệt thự Savoye ở Poissy, Pháp- Le Corbusier Trường Bauhaus, Đức do KTS Walter Gropius thiết kế Toà nhà Quốc hội của Brasil do Oscar Niemayer thiết kế Và sự ảnh hưởng lang tỏa đó tạo hứng khởi sáng tạo kiến trúc cho việc vận dụng vật liệu bằng kính trong kiến trúc hiện đại, một phong cách kiến trúc mới tại Đức. Kính được dùng làm vật liệu phổ biến trong phong cách kiến trúc hiện đại tại một quốc gia công nghiệp với những nét vừa lạ lẫm vừa hoàng tráng, xuất hiện rất nhiều cao ốc văn phòng với kết cấu thép và kính gần như trong suốt. Nhìn từ bên ngoài, có thể thấy rõ sự đi lại, hoạt động, của các nhân viên của từng con người trong tòa nhà. 2. Những kiến trúc tiêu biểu: Mái vòm bằng kính của toà nhà quốc hội Đức (Reichstag). Đây là tác phẩm của kiến trúc sư Anh, Norman Foster, có chiều cao 23,5 m, làm từ 800 tấn thép và 3.000 m2 kính. Bên trong mái vòm còn có 360 tấm gương để phản chiếu ánh sáng tự nhiên vào phòng họp chính. Người dân có thể tự do leo lên thăm mái vòm và theo dõi các nghị sĩ họp bên dưới: Reduced: 98% of original size [ 583 x 843 ] - Click to view full image Bahn Tower, trụ sở hiện đại của hãng đường sắt Đức Deutsche Bahn trên Quảng trường Potsdamerplatz ở Berlin. Toà nhà có kết cấu bằng thép và kính cao 94 m với 26 tầng được khánh thành vào năm 2000. Cao ốc văn phòng có hình tam giác trong suốt này là một trong những biểu tượng của Berlin hiện đại: Một góc của quần thể hiện đại Sony Center bao gồm cả tháp Bahn Tower. Tổ hợp do kiến trúc sư Helmut Jahn thiết kế có trị giá xây dựng 800 triệu USD gồm nhiều cửa hiệu, nhà hàng, văn phòng, trung tâm hội nghị, khách sạn, rạp chiếu phim và cả bảo tàng về điện ảnh. Toàn bộ phần bên trong tổ hợp này được hỗ trợ Wi-Fi miễn phí.
  4. (tiếp theo) 5. Nhận xét theo quan niệm Hình Lý Khí đối với một số kiểu kiến trúc hay công trình: 5.1 Tòa nhà Royal College of Physicians Tòa nhà Royal College of Physicians thiết kế bởi Denys Lasdun ở Regent Park được cho là công trình Kiến trúc Hậu hiện đại đầu tiên, nếu xét trên cái nhìn Hình Lý Khí thì sẽ được miêu tả như hình tượng miệng một con cá sấu đang hả miệng nhưng lại bị chống bởi ba cây gậy và nếu xét sự vững chãi của tòa nhà theo cảm quan thì công trình tỏ ra bị mất cân đối ngay phần đầu, hai khối kiến trúc trắng phía trên như hai miếng phô mai để chênh venh trên một nền và được chống chỏi bằng ba que tăm bé tí. Một hình tượng đầy khó khăn hay trở ngại. 5.2 Học viện Nghệ thuật Châu Á Lasalle Học viện Nghệ thuật Châu Á Lasalle Sia - College of the Arts tại Singapore, được chọn thay mặt cho phong cách kiến trúc Hậu hiện đại. Ý tưởng xây dựng một cộng trình từ hình tượng của sự “tan vỡ” của một tảng băng trôi khổng lồ đã là một hình tượng mang ý nghĩa không tốt trong phong thủy. Nếu theo chiều cảm quan khác trên tổng thể mô hình thì kiến trúc như một khung cảnh của một góc chiến địa với 3 tường chắn và những lổ châu mai, những khe núi để luồn lách ẩn mình và những đường chiến hào dọc ngang phía sau. Hoặc cũng có thể hình dung kiến trúc như một con hổ bị nhốt trong tường đá và bị căng ra tư phía để lột da và cuối cùng là mảnh da căng dưới đất. đi vào phần bên trong của công trình thì kết cấu toàn bằng kính với những khu đà một màu đen của nham thạch, kết cấu xiêu vẹo tạo cảm quan thiếu sự vững chắc, tuy vạm vỡ và được nối kết bởi những cầu nối giữa 6 khối nhà, nhưng cũng thấy vẽ trống trãi và hình tượng “lộ xương” bên trong, hơn nữa cũng vì việc thể hiện bằng sự rộng mở của không gian, không có cổng trường, các lối đi thông suốt tạo nên những cách của sự thoái khí. Xét tổng thể hình tượng và kết cấu thì học viện Lasalle thì công trình này mang hình tượng âm khí nặng nề và dương khí suy thoái. Ý nghĩa và cũng như hình tượng cấu trúc đều dẫn đến nhưng ý nghĩa không tích cực và như vậy xét theo quan niệm Hinh lý Khí trong Phong Thủy lạc Việt thì tất nhiên cũng không thuộc cách tốt. 5.3Công trình Bảo tàng Milwaukee Công trình Bảo tàng Milwaukee - “Đôi cánh hải âu quyền năng”, nằm kề bên hồ Michigan, được cho rằng đã tạo một bước đột phá trong thiết kế kiểu dáng và công năng và được xem là tác phẩm đỉnh cao của loại hình kiến trúc động ảo, một phong cách Kiến trúc Hậu hiện đại do chính Calatrava khởi xướng từ cuối thế kỷ 20, đem lại thành công lớn và là biểu tương cho tiểu bang Wisconsin. Công trình bằng kiến trúc động ảo với đôi cánh bay lên là một hình tương đẹp mang ý nghĩa đẹp và cũng do sự vận động của đôi cánh nên đây là một công trình duy nhất tự tạo được dương khí chế ngự được phần âm khí và sát khí nặng nề của tổng thể kiến trúc lộ cốt bên trong và hình tượng lối vào như hàm cá mập hả họng nuốt chửng mọi thứ. 5.4 Sân Vận Động Bắc Kinh. Đây là một công trình điển hình cho hình tượng “lộ cốt” (trơ xương) mà Phong thủy Lạc Việt thường đề cập. Một hình tượng hoàn toàn xấu về mặt hình thể kiến trúc theo quan niêm phong thủy. Có lẽ vì thế báo chí thường đề cập đến sân động tổ chim này thường gọi nôm na là “cái bát trống rỗng”. Nếu nhìn với một cảm quan khác thì công trình như chiếc nón chẳng những thủng ở đỉnh đầu mà còn bị rách bươn hay có đường chỉ vá chằn vá đụp. Công trình này lúc đầu gây được sự chú ý của dư luận và công chúng cả nước, thu hút khách tham quan, nhưng sau đó và cho đến nay lượng khách tham đã không được như mong muốn của nước chủ nhà tưởng tượng và hy vọng như ban đầu. “Sân vận động Tổ chim - với chi phí xây dựng 450 triệu USD - giờ cần đến 15 triệu USD bảo trì hàng năm. Tuy nhiên, nguồn thu duy nhất là từ khách du lịch, với 9 USD/người cho mỗi lần vào chụp ảnh chiếc "bát" trống rỗng. Số du khách tới đây đã giảm từ 80.000 người/ngày trong tháng 10/2008 xuống chỉ còn 10.000 vào tuần cuối tháng 3. Với tình trạng này, các nhà chức trách ở Bắc Kinh khó có thể đạt được doanh thu 30 triệu USD/năm như mục tiêu đã đề ra đối với sân vận động này.” Trích báo điện tử baomoi.com (11/4/2009) 5.5 Nhà hát lớn quốc gia tại Bắc Kinh Nhà hát lớn quốc gia tại Bắc Kinh của kiến trúc sư (KTS) Paul Andrieu, chuyên gia hàng đầu người Pháp, được chọn trong một cuộc thi quốc tế, công trình Kiến trúc Hậu hiện đại được thể hiện là khối bán cầu bằng kính vĩ đại đặt trên một mặt nước vuông nằm ở vị trí trung tâm quảng trường Thiên An Môn. Công trình muốn thể hiện ý tưởng “trời tròn đất vuông”, nhưng trên thực tế mô hình kiến trúc lại dẫn đến một cảm quam khác. Toàn bộ phần vuông thể hiện là đất lại được thiết kế thành thủy, phần công trình tròn ở giữa dẫn đến hình tượng như một đĩa bay bị nạn ngập dần trong nước hay bị mắc cạn và người phương Tây thì gọi công trình này tên là “The Egg”, tức là quả trứng chim, nhưng tiếc thay quả trứng này lại bị úng ngập trong nước hay cũng có thể liên tưởng như một trứng trứng khủng long bị úng trong vũng nước tù. Do thiết kế mái vòm trong suốt và nước xung quanh, nên công trình mang nét vượng của dương khí phù hợp với những nơi mang tính chất cộng đồng hay hoạt động văn hóa nghệ thuật, nhưng tổng thể hình tượng lại không thể hiện được ý nghĩa tích cực nên sự phát triển cũng hay mong muốn hiệu quả cho nhiều lợi ích khác chắc hẳn cũng hạn chế hay trì trệ, bởi hình tượng một quả trứng trong nước không dẫn đến sự hình thành một sự sống hay sự phát triển. 5.6 Sân bay quốc tế Bắc Kinh “Một biểu tượng mới của Bắc Kinh-Sân bay quốc tế thủ đô với hệ mái vòm không gian lớn được lấy ý tưởng từ hình ảnh Rồng bay…”. Đó là miêu tả của báo giới cho một hình tượng. Phong thủy Hình Lý Khí cũng có cái nhìn tương đồng và sâu sắc hơn, nghĩa là một con rồng với thân bị đoạn thành ba khúc. Nhìn dưới góc độ khác, tổng thể công trình như một bộ xương cá bị đứt đoạn hay một ngọn “thiết hỏa trường thương” bị đứt khúc. Bản thân công trình như thể một cách vô tình tạo ra sát khí cho môi trương xung quanh và chính tính hình tượng của công trình đã tạo nên một trường khí xấu có tác động đến vận mệnh của công trình và sự tồn tại và phát triển của công trình sẽ như thế nào thì còn dựa trên nhiều tiêu chí quán xét khác của Phong thủy Lạc Việt. Tuy vậy theo website của tạp chí Forbes cho rằng sân bay quốc tế Bắc Kinh là tồi tệ thứ nhì thế giới, xét về chuyện muộn chuyến. Sân bay Bắc Kinh cay mũi vì bị dán nhãn 'dở ẹc' Thành phố chủ nhà của Olympic 2008 bực bội phản bác thông tin trên website của tạp chí Forbes cho rằng sân bay quốc tế Bắc Kinh là tồi tệ thứ nhì thế giới, xét về chuyện muộn chuyến. Tổng giám đốc sân bay Dong Zhiyi cho biết các số liệu chính thức của họ cho thấy 86,28% số chuyến cất cánh từ đây đúng giờ, cao hơn nhiều so với mức mà Forbes nêu ra là 33%. Trên trang web của mình, tạp chí Mỹ viết: "Tại sân bay quốc tế ở thủ đô Bắc Kinh - nơi đang mở rộng để đón Olympic mùa hè tới, chỉ 33% số chuyến bay cất cánh đúng giờ năm 2007. Sân bay này chỉ kém Brasilia một bậc xét về mức độ tồi về chuyện muộn chuyến". Forbes đã khảo sát hơn 100 sân bay, lấy số liệu từ FlightStats - một cơ quan chuyên theo dõi thông tin về các chuyến bay. Các sân bay được khảo sát đều thuộc loại có thể phục vụ ít nhất 10 triệu hành khách trong năm 2006 trở lên. Ông Dong nói sân bay Bắc Kinh không đáng bị xếp hạng xấu thế. Theo con số mà ông đưa ra, thì sân bay của thành phố này tốt hơn nhiều so với ga hàng không tệ nhất châu Âu - Charles de Gaulle - với 50% số chuyến đúng giờ. Tuy thế, nó vẫn phải ngượng ngùng trước sân bay Osaka Itami của Nhật, với 97% đúng giờ. Trung Quốc đang nỗ lực cải thiện hạ tầng các sân bay để chuẩn bị đón lượng khách dự kiến sẽ tăng vọt trong hè này. Tuy thế hành khách vẫn thường phải chờ hàng giờ ở nhà chờ và chỗ lấy hành lý. Nhà chức trách cũng ra một loạt quy định nhằm buộc các hãng hàng không và nhà ga phục vụ hành khách tốt hơn. Sân bay Bắc Kinh đã phục vụ hơn 50 triệu khách trong năm ngoái, sẽ mở thêm cổng thứ ba vào cuối tháng hai này. T. Huyền (theo Reuters) 5.7 Trụ sở truyền hình Bắc Kinh, Trung Quốc (CCTV) Ảnh chụp trụ sở mới của CCTV (trái) và tòa nhà khách sạn Mandarin Oriental sau khi bị cháy - Ảnh: AFP Công trình được xây dựng theo hình thế hai chữ V ngược nhau. Toàn bộ công trình đều phạm cách “lộ cốt” (trơ xương), nếu liên tưởng đến một cái rọ thì đây là cái rọ bắt cá hình ống vuông. Khối kiến trúc tạo ra cảm giác mất cân bằng như có xu hướng đổ ập về phía trước. Thông thường hình dạng lộ cốt thể hện cho một kết cuộc không mấy tốt đẹp, báo trước sự thất bại và những khó khăn bất ngờ, những biến cố têu cực hay có hại cho công trình đó, nghĩa là những ai tồn tại trong công trình trình đó đều phải chịu sự tương tác có trường khí tiêu cực. Và đây là thông tin liên quan đến TTCV: Trích từ nguồn: www.baomoi.com Một cán bộ đài CCTV bị bắt trong vụ cháy KS Mandarin Oriental TTO - Cảnh sát Bắc Kinh ngày 12-2 cho biết đã bắt giữ một nhân viên cấp cao của Đài truyền hình trung ương Trung Quốc (CCTV) và 11 người khác do có liên quan đến vụ đốt pháo hoa bất hợp pháp làm cháy khách sạn Mandarin Oriental. Trong số những người bị bắt, còn có Xu Wei, 50 tuổi, phụ trách xây dựng trụ sở mới cho CCTV, nằm cách khách sạn Mandarin Oriental khoảng 200m. Trong khi đó, dẫn nguồn tin cảnh sát, Tân hoa xã cho hay ba nhân viên khác của CCTV và 8 người nữa cũng đã bị tạm giữ, tuy nhiên không cung cấp thêm thông tin chi tiết. Vụ cháy lớn tối 9-2 đã thiêu hủy gần như toàn bộ tòa nhà khách sạn Mandarin Oriental, dự kiến sẽ là một trong những khách sạn hạng sang bậc nhất Bắc Kinh, khiến một nhân viên cứu hỏa thiệt mạng và bảy người khác bị thương. Tranh Cãi Về Logo của CCTV Nguồn: www.xaluan.com Một cuộc tranh cãi đang nổi lên khắp Trung Quốc sau khi một quan chức cấp cao yêu cầu Đài truyền hình Trung ương Trung Quốc (CCTV) phải thay đổi logo đã được CCTV sử dụng từ 30 năm qua vì nó phá vỡ nhiều nguyên tắc trong bộ luật của nước này. Wang Dengfeng, Vụ trưởng Vụ ứng dụng và Quản lý Ngôn ngữ tiếng Trung, cho rằng những logo mà 20 đài truyền hình, trong đó có 12 kênh của CCTV, “đang vi phạm nhiều quy tắc, do đó cần phải được thay đổi”. Các logo này hoặc là dùng tiếng Anh viết tắt hoặc là sự hòa trộn của tiếng Anh và tiếng Trung. Luật về Ngôn ngữ viết và nói tiếng Trung được ban hành hồi tháng 1/2001 quy định rõ các logo điện ảnh và truyền hình nhất thiết phải mang ngôn ngữ cơ bản của Trung Quốc, tức là tiếng Quan thoại. "Ngôn ngữ được sử dụng trên các logo truyền hình nên tuân theo luật để quảng bá văn hóa quốc gia", tờ Beijing Times trích đăng lời ông Wang. Nhưng một quan chức của CCTV cho rằng, đài truyền hình đang sử dụng logo rất dễ nhận biết và biểu tượng đó đã quen thuộc với khán giả từ hàng chục năm qua, thế nên “sẽ khó khăn nếu thay đổi” và “logo này sẽ chỉ được thay đổi nếu như các nhà chức trách cấp cao hơn thấy cần thiết phải làm như vậy”. Ông Jiang Zhipei, nguyên Chánh án của Tòa án Nhân dân Tối cao, cũng nhận thấy logo của CCTV không cần phải thay đổi. “Đài truyền hình Trung ương đã sử dụng nó trong 30 năm và bộ luật được ban hành sau đó rất lâu. Nhiều logo truyền hình, trong đó có cùa CCTV, có những giá trị thị trường nhất định. Nếu không được phép sử dụng thì các logo đó sẽ bị mất đi giá trị mà chúng đã tạo nên”. Tuy nhiên, có nhiều người lại ủng hộ việc thay đổi logo. Một cư dân mạng có nickname là Minshanxue viết rằng: “Là một đài truyền hình Quốc gia thì logo nên dùng hoàn toàn tiếng Trung vì nó ảnh hưởng tới hình ảnh quốc gia”. Đài truyền hình Trung ương Trung Quốc được thành lập vào năm 1958 và tên viết tắt tiếng Anh là CCTV được sử dụng từ năm 1978. 5.8 Tòa nhà REN: Tòa nhà REN được đề xuất làm khách sạn, trung tâm hội nghị và giải trí vào dịp Triển lãm thế giới World Expo tổ chức năm 2010 tại thành phố Thượng Hải. Đây là một công trình tầm cỡ của Trung Quốc. Công trình này cũng được nhà thiết kế cố giải thích theo hình tượng Ngũ Hành trong nguyên lý học thuật cổ đông phương ở mọi góc độ nhìn. Tuy vậy những giải thích hay gợi ý đó không thật sự phù hợp với cai nhìn Hình Lý Khí. Tổng thể công trình như một nửa dưới con người bị dựng thành bia đỡ đạn với hậu quả là trên thân hằng lên những vết lổ chổ của vết tích bị đạn băm và thân thể bị kiệt lực với đôi chân không đứng nỗi, chuẩn bị ngập sâu và chìm dần trong biển nước. Có thể nhìn ở một cảm quan khác thì công trình như một mảnh vải bị xé toạc ra làm đôi. Một mảnh vải cũ rách loan lỗ. vì vậy đậy cũng là một hình tượng mang khí vận không mấy khả quan cho một công trình được trù tính là nơi vui chơi giải trí, trung tâm hội nghị hay khách sạn cao cấp trong tương lai. 5.9 Khách sạn 5 sao Lotus – Hoa sen của Tập đoàn Riviera (Nhật Bản), tại Mễ Trì. Công trình khách sạn 5 sao Lotus tại Mễ Trì là sự hoài vọng của các chủ đầu tư. Nhưng với một Hình Lý Khí tiêu cực, ngay từ đầu tiến độ đầu tư và hiện quả kinh doanh đã có nhiều trắc trở. Tổng thể công trình được thể hiện theo phong cách Hậu hiện đại, nhưng bằng cái nhìn cảm quan Hình Lý Khí trong Phong thủy Lạc Việt thì đây như hình tượng của một đoàn xa lửa với những toa tàu bị chìm trong biển cả hay có thể liên tưởng đến một hình tượng rỏ hơn, như một cổ quan tài bị chìm trong biển nước. Và dù cho nhìn ở cảm quan nào hay dù là hình tượng đơn giản nhất với mái nhà lượn sóng hình tượng của thủy và khối công trình bên trong vuông dài tượng hình Mộc thì mộc này bị chìm ngập trong nước cũng đã thể hiện tính xấu trong ý nghĩa của Ngũ Hành. Và hiệu quả của nó được kiểm chứng qua các thông tin liên quan sau: Công ty CP phát triển Đô thị Kinh Bắc sẽ là chủ đầu tư dự án khách sạn Hoa Sen Theo Kinh tế đô thị - 23/10/2009 KTĐT - Chiều ngày 21/10, tại Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội, Tổng công ty CP XNK Xây dựng VN (Vinaconex) và Công ty Sản xuất thương mại và xây dựng Thiên Thanh đã xin rút lui khỏi dự án khách sạn 5 sao Lotus (Hoa Sen). Như vậy, chỉ còn lại Công ty CP phát triển Đô thị Kinh Bắc (KBC) là nhà đầu tư duy nhất được Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội lựa chọn để trình UBND Thành phố Hà Nội quyết định. Dự án khách sạn Hoa Sen (cạnh Trung tâm Hội nghị Quốc gia, xã Mễ Trì, huyện Từ Liêm, Hà Nội) có diện tích khoảng 4,3 ha với thiết kế gồm 550 phòng sang trọng. Vốn đầu tư dự kiến khoảng 500 triệu USD. Đây là dự án khách sạn lớn nhất tại Hà Nội. Theo yêu cầu của thành phố Hà Nội, nhà đầu tư cần phải chứng minh được tài chính. Cụ thể, phải nộp bảo lãnh thực hiện dự án bằng 10% tổng mức đầu tư (25 triệu USD) trong vòng 15 ngày kể từ khi nhận được quyết định lựa chọn chủ đầu tư; 30 ngày sau khi nhận giấy chứng nhận đầu tư - chủ đầu tư nộp 5,5 triệu USD tiền ủng hộ không hoàn lại cho ngân sách TP Hà Nội. Trước đó, Tổng công ty CP Kinh Bắc đã làm việc với nhà đầu tư Nhật Bản để nhận lại tài liệu thiết kế và các tài liệu liên quan và có nhiều cam kết trong đó có cam kết về nộp ngay tiền bảo lãnh và tiền thuê đất. Đây là dự án qui mô đầu tư lớn, thuộc lĩnh vực Thành phố chủ trương khuyến khích kêu gọi đầu tư, thuộc danh mục đăng ký khuyến khích hoàn thành đúng dịp kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội, có vị trí thuận lợi, giá trị thương mại cao vào bậc nhất hiện nay tại khu vực cửa ngõ phía Tây vào trung tâm Thủ đô - nếu trì hoãn lâu không triển khai sẽ lãng phí tài nguyên đất đai. V.B 5.10 Tòa nhà Thuận Kiều Plaza. Tọa lạc ngay trung tâm quận 5 Tp HCM, nơi hoạt động kinh tế nặng động và sầm uất nhất Sài Gòn. Vậy mà cho đến hiện nay, các hoạt động nơi đây đều kém hiệu quả. Riêng đa phần các căn hộ của ba tòa nhà đều như bỏ hoang. Tổng thể công trình như hình ảnh con tàu Titanic nổi tiếng với 3 cột khối tàu quá khổ cao vút và con tàu bị cắt đôi bởi con đường băng ngang ngay đoạn giữa thân tàu. Ba ống khói lớn hơn tổng thể thân tàu thể hiện sự mất cân đối, lại thêm con đường cắt ngang thân thể hiện một hình tượng không mấy tốt đẹp. Nếu nhìn bằng một cảm quan khác, ba tòa nhà như ba nén nhang to tướng cắm trên mộ bia. Mặt khác nếu chỉ xét riêng ba tòa nhà thì hình thể cả ba đều thuộc cách xấu, vì không những khuyết góc mà còn bị phạm vẻ góc cạnh xương xẩu. Ba khối công trình lớn ở giữa cân đối với khối công trình nằm ngang có hai đầu nhô tạo cách “ Nhị quỷ đài kiện” (hai con quỷ chửi nhau). Và khi nhìn bên trong tòa nhà thì một lối chi chính ở giữa giao với các lối đi ngang tạo thế “Bại hổ phân thây” ( như con hổ bị căn ra lột da xẻo thịt). Hoặc có thể tưởng tượng được hình ảnh của ba mũi khoan khoan vào một khối bê tông giữa chừng bị đứt đoạn và dính chặt. Tóm lại, đây là một công trình còn có khá nhiều yếu tố khác và nhiều điểm khác thất bại về mặt phong thủy. 5.11 Dự án cao ốc văn phòng - trung tâm thương mại - căn hộ cao cấp tại 289 Trần Hưng Đạo, Quận 1. Đây là một công trình dân dụng tư nhân, theo dự án sẽ khởi công vào ngày 1/11/2009. hình thể công trình mang phong cách Hậu hiện đại thể hiện một ý tưởng táo bạo và lạ lẫm trong hình tượng kiến trúc. Hai khối kiến trúc hình tam giác chồng lên nhau thuộc hỏa hình thể hiện một ý chí mạnh mẽ muốn đạt được mọi thành quả trong kinh doanh khi công trình này hoàn tất. Hai khối tam giác chồng lên nhau thành hình ảnh như một cây búa hay lưỡi rìu với đầu rìu bên trên chém về một hướng hể hiện ý chí san bằng mọi thử thách và cản trở trên bước đường kinh doanh, vô hình trung tạo một luồng sát khí đủ lớn và đủ mạnh làm phương hại cho môi trường phong thủy mà hướng lưỡi rìu này chém tới, chứng tỏ một tinh thần độc đoán và ít khi tạo được sự thân thiện với môi trường xung quanh hay những đối tác xung quanh. Hơn nữa, tổng thể khối kiến trúc tạo một cảm quan mất thăng bằng khi phần dưới, tầng trệt, không thể hiện được sự vững chãi với cấu trúc chênh vênh. Và nhìn như thế nào đi chăng nữa thì khối kiến trúc cũng phạm phải cách “lộ cốt” giơ xương trên toàn diện công trình thể hiện những gian truân có thể đưa đến một thất bại nặng nề khi khí vận xấu phát tác. Nếu xét với một cảm quan nhẹ nhàn hơn thì khối công trình như hai phần bánh bông lan hay hai phần phô mai bị chuột gậm được xếp chồng lênh nhau rất chênh vênh. Đây là sự phân tích các yếu tố xấu đối với bản thân công trình, nhưng đều nguy hại không kém là chính hình tượng công trình tạo một trường sát khí lớn ảnh hưởng đến môi trường xung quanh mà khí sát của công trình này hướng tới. 6. Tạm kết Qua những nhận định và phân tích trên theo quan niệm Hình Lý Khí trong Phong Thủy Lạc Việt, cho thấy rằng sự thể hiện bằng hình tượng của công trình kiến trúc mang yếu tố của tính dự báo cho xu hướng tồn tại của thực thể đó trong không thời gian và sự đo lường về mức độ nhanh chậm nặng nhẹ của tương tác còn phải dựa trên những yếu tố khác của phong thủy. Cho dù có sự nghi ngờ về tính xác thực cũng như phương pháp luận của Hình Lý Khí so với các trường phái khoa học thực nghiệm hay thí nghiệm thì tính vận mệnh được quán xét trên đối tượng tương tác theo lý “hình nào khí đó” vẫn tồn tại theo quy luật khách quan. Trong khi kiến trúc Hậu hiện đại xem tính hình tượng chỉ như sự thể hiện ý tưởng trong thiết kế kiến trúc để thỏa mãn tính sáng tạo, thỏa mãn tiêu chí gọi là phong cách và dừng lại ở mục đích này thì quan niệm Hình Lý Khí luôn xét đến ý nghĩa đó có mang lại ý nghĩa tích cực hay không và hình tượng đó có tạo ra khí vận xấu hay không đó là tiêu chí hàng đầu cũng như mục đích cuối cùng khi tư duy hình tượng. Bởi vậy hình khí mang ý nghĩa quan trọng trong kiến trúc, vì đây là một trong những yếu tố tạo nên tiêu chí gọi là Tốt, cát tường trong phong thủy.
  5. (tiếp theo) 2.7 Sân bay quốc tế thủ đô Bắc Kinh sắp hoàn tất do KTS hàng đầu về công nghệ cao thế giới người Anh là Norman Foster thiết kế, mang dáng dấp “rồng bay” (phi long). Ông là người mới đoạt giải kiến trúc Pritzker cao quí (tương đương giải Nobel ngành kiến trúc). Nó trông giống hai chữ Y ghép lại, thể hiện hình tượng hai chữ “nhân” (người). Một đầu là nơi đón đưa của các phương tiện vận chuyển trên mặt đất (xe lửa và xe hơi), còn đầu kia là để đón nhận máy bay đến từ các vùng trời khác nhau trên thế giới. 2.8 Trụ sở Truyền hình trung ương Trung Quốc CCTV, do KTS thời danh người Hà Lan Rem Koolhaas, từng đoạt giải kiến trúc Pritzker năm 2000, thiết kế. Tháp truyền hình cao 230m gồm hai tháp gắn kết nhau ở phần đế dưới cũng như phần trên đỉnh bằng hai cánh hình chữ V sắp ngược nhau. Ông đã chọn giải pháp thực hiện một lớp vỏ bọc bằng kính bên ngoài, sử dụng vừa làm kệ sách vừa che chắn ánh nắng, đồng thời trang trí màu sắc vui tươi. 2.9 Và một công trình mang tầm tham vọng cao hơn: tòa nhà REN. Với thiết kế hình chữ "Nhân" (người) đặc biệt, toà nhà REN bao gồm hai toà nhà trong một. Tòa nhà thứ nhất, nhô lên từ mặt nước dành để vận động thân thể và làm một trung tâm văn hóa dưới nước. Tòa nhà thứ hai, mọc lên từ đất liền dành cho hoạt động tinh thần, khai sáng và dùng làm trung tâm hội nghị và bố trí các chỗ họp hành. Lên trên, hai toà nhà gộp lại thành một khách sạn có tới 1.000 phòng và tạo thành hình chữ "nhân" (tiếng Trung Quốc). Được biết REN sẽ có một mái vòm, nơi đó tạo ra một quảng trường để công chúng tụ tập và đây sẽ là khu vực chính của cuộc triển lãm trông ra sông HuangPu. Các kiến trúc sư đã thiết kế quảng trường này không bị mưa ướt nhưng ánh sáng mặt trời vẫn chiếu qua được từ phương Đông vào buổi sáng và từ phương Tây vào buổi chiều. Tóm lượt: REN - Peoples Building Địa điểm:Khu vực tổ chức triển lãm thế giới, Thượng Hải, Trung Quốc Thời điểm hoàn thành:2010 Giá trị đầu tư ước tính: €1,100m (một tỷ một trăm triệu euro) Quy mô: Tòa nhà REN : 50.000m² Các tòa nhà phụ: 500.000m² Tòa nhà REN được đề xuất làm khách sạn, trung tâm hội nghị và giải trí vào dịp Triển lãm thế giới World Expo tổ chức năm 2010 tại thành phố Thượng Hải. 2.10 Vài công trình kiến trúc tại Việt Nam: khách sạn 5 sao Lotus – Hoa sen của Tập đoàn Riviera (Nhật Bản). Với diện tích xây dựng khoảng 4,3 ha, ngay cạnh Trung tâm hội nghị Quốc gia ở xã Mễ Trì, dự án khách sạn Lotus có vốn đầu tư khoảng 500 triệu USD, với thiết kế gồm 550 phòng sang trọng và dự tính khi hoàn thành sẽ trở thành khách sạn lớn nhất Hà Nội. 2.11 Cao ốc Thuân Kiều Plaza. Một trong những cao ốc được hình thành sớm nhất của TP HCM, ở một nơi thuộc vị trí thuận lợi và năng động với sức đầu tư lớn. 2.12 Và những công trình Kiến trúc Hậu hiện đại khác… đi vào kiến trúc dân dụng một cách tự nhiên và vui nhộn. 3. Cái Nhìn Của Phong thủy Lạc Việt Hình Lý Khí: Mọi trào lưu nghệ thuật, trào lưu kiến trúc đều dựa trên một lý thuyết, một chủ nghĩa để làm mục đích thể hiện và cái này phủ định cái kia, cái sau phủ nhận cái trước. Riêng Phong thủy Lạc Việt, chỉ dựa trên một lý thuyết duy nhất là Âm Dương Ngũ Hành, lý thuyết thống nhất và bao trùm của người Việt, trường tồn với thời gian, làm kim chỉ Nam đánh giá tính tốt xấu của kiến trúc, xác định sự tương tác tích cực hay tiêu cực của kiến trúc cũng như môi trường lên đối tượng quán xét chủ yếu là con người. Lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành nếu được xem là một triết học định hướng tính sáng tạo và thẩm mỹ cho kiến trúc thì vẫn là một cơ sở lý thuyết định hướng thẩm mỹ có tính bao hàm cao, dĩ nhiên nó không phải là một lý thuyết triết lý nhằm làm phương thức thể hiện tư tưởng phản kháng lại thời cuộc hay môi trường mà nó là một phương thức triệt để nhằm một mục đích duy nhất suy xét sự thịnh suy của công trình kiến trúc, sự thành bại của đối tượng tồn tại và chịu sự tác động trực tiếp của kiến trúc đó, đối tượng đó là nhân sinh. Như vậy lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành mà phương thức ứng dụng của nó là Phong thủy mang một mục đích duy nhất rỏ ràng là phục vụ cho sự tồn tại và phát triển của nhân sinh, nhắm thẳng đến tính chất duy nhất, quyết định lên nhân sinh là sự tốt xấu và thịnh suy như một tôn chỉ cho sự thể hiện. Nếu Kiến trúc Hiện đại phủ nhận sự gắn bó với môi trường, sẳn sàng tồn tại độc lập với môi trường thì Kiến trúc Hậu hiện đại đi ngược lại chiều hướng ấy, nó mang tính linh hoạt, thích hợp với mọi môi trường sẳn sàng hòa nhập và hài hòa với môi trường chịu sự tương tác của môi trường, đó là môi trường giới hạn địa lý cụ thể và môi trường văn minh văn hóa của một địa lý cụ thể. Phong thủy có phần như vậy, nhưng cũng khác, không khu biệt trong một môi trường mà thể hiện sự bao trùm của tính tương tác của vũ trụ lên vạn vật, vận dụng tính tương tác đó để xác định xu hướng tồn tại của kiến trúc tạo nên tính vững bền cho kiến trúc, vì vậy nó không phân biệt địa lý hay văn hóa, tiếng nói hay màu da và cũng không thể nói là nó hòa nhập hay thích hợp với môi trường trong khi mà chính bản thân Phong thủy đã thể hiện quy luật tương tác. Một cách rỏ ràng hơn rằng Phong Thủy không khu biệt do tính đặc trưng về văn hóa hay quan niệm kiến trúc của một cộng đồng hay một quốc gia, ngược lại chính bởi tính đặc trưng về kiến trúc của từng khu vực cộng đồng lại chứng minh cho sự tương tác trong phong thủy. Ví dụ, so sánh giữa 2 vùng, một ở cao nguyên Hoàng Thổ ở Trung Quốc, sống trong nhà hầm, đào trong lòng đất và một ở Hồ Nam sống trên nhà sàn thì sẽ thấy rỏ sự tương tác của con người với môi trường thiên nhiên rỏ ràng khác nhau. Phương pháp phong thủy chỉ quan tâm mối quan hệ tương tác giữa nhân sinh với kiến trúc và với môi trường xung quanh trải dài đến xa thẩm của vũ trụ để đi đến một hiệu quả của sự quán xét được gọi là vận mệnh. Điều nổi bật ở Kiến trúc Hậu hiện đại là tính biểu trưng, biểu tượng trong kiến trúc. Có thể chính bởi tính chất này mà Kiến trúc Hậu hiện đại mang lại sự tự do trong sáng tạo và là nguồn khơi gợi cho sự thể hiện các ý tượng sáng tạo vượt qua mọi rào chắn của những tiêu chuẩn, quy định của Kiến trúc truyền thống hay cổ điển và vượt qua mọi sự khác biệt về quan niệm kiến trúc theo từng văn hóa vùng miền để đi đến sự tự do thể hiện sức mạnh tư duy thông qua những hình tượng kiến trúc. Bởi vậy sự đa dạng đến nỗi phức tạp hay kỳ dị về hình thức trong các mô hình Kiến trú Hậu hiện đại là vô vàng. Chính bởi đặc điểm này mà sự quán xét của Phong thủy Lạc Việt lên các mô hình Kiến trúc Hậu hiện đại được thể hiện một cách linh hoạt, phong phú, ưu việt và giầu tính tưởng tượng phóng khoán để đi đến sự nhận định tốt xấu của công trình kiến trúc. Mỗi một kiểu mô hình kiến trúc được tạo ra đều mang tính hình tượng và ý nghĩa biểu trưng nhằm diễn tả ý tưởng chủ đạo, nội dung nhắm đến theo một hệ tư tưởng sẳn có, được gọi là phong cách và dừng lại ở đó với ý nghĩa biểu trưng được thỏa mãn, công năng sử dụng được giải quyết, yếu tố thẩm mỹ được công nhận theo một phạm trù, thì hơn nữa, chính tính mình tượng và biểu trưng đó lại là cơ sở cho sự suy xét tốt xấu thành bại cho mỗi kiến trúc cụ thể dựa trên một hệ thống lý thuyết Âm Dương Ngủ Hành mà phương pháp vận dụng của nó là Hình Lý Khí. Có thể nói Hình Lý Khí là phương pháp quán xét hay đánh giá hoàn toàn phù hợp đối với kiến trúc Hậu hiện đại thông qua tính biểu trưng, tính hình tượng của mô hình kiến trúc nhằm tiên lượng sự tốt xấu của công trình trong sự tương quan đa chiều. 4. Vậy Hình Lý Khí là gì? Giả thích cho phạm trù này, nhất thiết phải quay về sự giải thích Khởi nguyên vũ trụ bằng lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành, lý thuyết thống nhất vũ trụ mà chủ nhân đích thực là giống nòi Rồng Tiên Bách Việt với nền văn hiến 5000 năm, một thời rực rỡ dãy phía Nam sông Dương Tử. Con người đang tồn tại trong thực tại Hậu Thiên so với thể bản nguyên của vũ trụ gọi là Thái Cực. Một trạng thái vô định của không không gian, không thời gian, không cực lớn cũng không cực nhỏ, nói nhanh cũng không nhanh nói chậm cũng không chậm, không có cái không để nói tới cái có, không sáng không tối, không có sự phân biệt nên không thể dùng mọi danh từ để nói về nó, chẳng có đối đãi, viên mãn trong giây 0 tuyệt đối. Và nếu trạng thái này vẫn giữ nguyên như thế thì không có con người và vạn vật tồn tại trong thế giới như ngày nay, vì vậy Thái Cực viên mãn trong trạng thái tuyệt đối đến một lúc nào đó đã xuất hiện một trạng thái đối đãi tương đối có sau so với nó. Cái đối đãi có sau gọi là Âm – ngay từ khởi nguyên vũ trụ và như vậy cái tuyệt đối – Thái Cực có trước sinh ra cái tương đối có sau thì Thái Cực trở thành Dương. Vậy là hai khí Âm Dương xuất hiện, khí Dương nhẹ trong thì bay lên, khí Âm nặng đục thì rớt xuống tụ lại thành hình. Vạn vật cứ tiếp nối trùng trùng duyên khởi. Phong thủy Lạc Việt Hình Lý Khí vận dụng nguyên lý cho rằng khí tụ thành hình, hình nào khí đó, có hình là có khí để xác định sự thịnh suy, thành bại của vạn vật. “Hình nào khí đó” được xác định như một định đề. Khi vật chất tụ thành hình với muôn ngàn hình tượng thì bản thân nó đã có khí. Theo như định nghĩa về Khí trong Phong thủy Lạc Việt của nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh thì “Khí” là một dạng tồn tại của vật chất, được hình thành bởi sự tương tác của các vật thể và chịu sự chi phối bởi sự tồn tại của các vật thể, đồng thời tác động lên các vật thể ấy. Như vậy "khí" ở đây không phải là không khí, ánh sáng, gió, nước…và mọi vật khi có hình thì đã có khí. Cũng như trong Đông Y, khái niệm “khí” không chỉ đến huyết, dịch, hiệu điện thế nhân thể hay năng lượng tỏa ra thành nhiệt lượng cơ thể mà đó là phản ánh một thực tại tương tác tế vi, nếu là Tiểu vũ trụ con người thì ngay trong chính nó, nếu là Đại vũ trụ vô cùng tận thì trong chính sự tương tác của vũ trụ này. Có hình là có khí, không thể tách rời và “Lý” được xem như phát ngôn của chiều tương tác “Hình Khí” đưa đến một sự nhận định tốt xấu. Vì vậy Hình Lý Khí nếu được xem là tiêu chí duy nhất để đi đến sự nhận định mang tính vận mệnh thì chính tiêu chí đó tự phản ánh một quy luật khách quan vượt lên trên những tiêu chí mang tính duy thức hay chủ nghĩa nhất thời mà giá trị nhận định tính nghệ thuật hay tính hình tượng dựa trên kinh nghiệm luôn thay đổi theo chiều vận động của xã hội.
  6. TP Lào Cai: Cưỡng bức dân treo cao đèn lồng đỏ? Nhân dịp 20 năm tái lập tỉnh Lào Cai, TP Lào Cai khởi động chương trình "đèn lồng đỏ treo cao" tại hàng loạt tuyến phố... Nhân dịp kỷ niệm 20 năm tái lập tỉnh Lào Cai (1/10/1991 - 1/10/2011), thành phố Lào Cai đã bắt đầu khởi động chương trình chỉnh trang đô thị, trong đó có việc thắp đèn lồng tại các công sở và nhà dân trên một số tuyến phố. Năm phường nội thị là Cốc Lếu, Lào Cai, Phố Mới, Kim Tân, Duyên Hải được chọn làm điểm, mỗi phường có ít nhất 1 tuyến phố thắp đèn lồng từ dịp Quốc khánh 2/9/2011. Tại phường Kim Tân, phố Trần Nhật Duật (từ quảng trường cũ tới đầu đường Trần Hưng Đạo), từ dịp Quốc khánh trở lại đây, vào mỗi tối, người dân lại đồng loạt thắp đèn lồng đỏ trước hiên nhà đã gây sự tò mò của nhiều người. Đèn lồng trên phố Trần Nhật Duật (phường Kim Tân). Ngoài đèn lồng, đèn trang trí cũng được thắp trên các rặng cây cảnh quan tại khu vực quảng trường cũ và một số công sở, khiến cảnh quan về đêm thêm lộng lẫy. Tại phường Lào Cai, trên phố Nguyễn Huệ từ đầu cầu Cốc Lếu qua khu vực Cửa khẩu Quốc tế đến Đền Thượng, các công sở đồng loạt treo đèn nháy trên cây phía trước trụ sở. Hơn 10 hộ dân giáp chùa Tân Bảo cũng đã thắp đèn lồng đỏ từ dịp Quốc khánh 2/9. Đèn treo trên phố Hoàng Liên (khu vực phường Cốc Lếu) có kích cỡ quá nhỏ Theo bà Lưu Thị Nụ, Chủ tịch UBND phường Kim Tân thì từ tối 25/9, tuyến phố Trần Nhật Duật (đoạn từ đầu đường Trần Hưng Đạo đến đường Quy Hoá), các hộ dân sẽ đồng loạt thắp đèn lồng. Bà Nụ cho biết, việc thắp đèn trang trí trên 3 tuyến phố chính thuộc địa bàn phường là việc nên làm trong dịp kỷ niệm 20 năm tái lập tỉnh để nâng cao mỹ quan đô thị, làm đẹp thêm hình ảnh thành phố biên cương trong mắt người dân và du khách. Không được người dân đồng thuận Vừa qua, thành phố Lào Cai đã có công văn triển khai tới các phường, từ đó các tổ dân phố, chi bộ tổ chức họp lấy ý kiến nhân dân về việc treo đèn lồng. Tuy vậy, chương trình treo đèn lồng đã không hoàn toàn nhận được sự đồng thuận của người dân. Dù sao, thành phố Lào Cai vẫn quyết tâm để chủ trương này được triển khai trong dịp kỷ niệm 20 năm tái lập tỉnh và từ 25/9/2011 sẽ triển khai đồng loạt trên những tuyến phố chính. Anh Phạm Đình Sơn, tổ 14 phường Kim Tân nói: "Treo đèn lồng trông không phù hợp. Chiếc đèn lồng này có giá gần 200.000 đồng. Ông Trần Ngọc Dân, tổ trưởng tổ 14, phường Kim Tân khẳng định: "Hầu hết các hộ dân trong tổ không đồng tình với chủ trương treo đèn lồng.Tổ 14 có 65 hộ dân nằm dọc tuyến đường Lý Công Uẩn. Trong buổi họp tổ (16/9/2011) để lấy ý kiến nhân dân về thực hiện chủ trương của thành phố treo đèn lồng nhân kỷ niệm 20 năm ngày tái lập tỉnh Lào Cai thì hầu hết các hộ dân không đồng tình vì cho rằng treo đèn lồng là không phù với văn hóa người Việt Nam cũng như cảnh quan, không gian, kiến trúc ở tổ dân phố nên dễ gây phản cảm. Với trách nhiệm, tổ cũng chỉ tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia, đối với cán bộ, đảng viên thì phải gương mẫu thực hiện chủ trương của thành phố". Theo chị Huệ, số nhà 411, đường Nguyễn Huệ, phường Phố Mới: Tổ dân phố bắt buộc các hộ dân trên địa bàn mua đèn lồng Thông báo về chủ trương treo đèn lồng tại các hộ dân "Tổ dân phố không tổ chức họp dân lấy ý kiến về chủ trương treo đèn lồng mà chỉ gửi giấy thông báo và cho người mang đèn lồng đến yêu cầu các hộ dân phải mua để treo, nên người dân bất bình. Nếu ngày lễ, ngày kỷ niệm lớn thì treo cờ Tổ quốc là phù hợp nhất, chứ nhà cửa như thế này treo đèn lồng sẽ gây phản cảm và lãng phí. Mỗi vỏ chiếc đèn lồng có giá 125 nghìn đồng, nhưng để treo và thắp sáng được, mỗi chiếc phải đầu tư thêm gần 100 nghìn đồng để mua bóng điện, dây, phích cắm, mà không phải gia đình nào cũng có điều kiện cả". Chúng tôi sẽ tiếp tục đăng tải các thông tin tiếp theo về việc này. Theo B.T GDVN Lào Cai: Dừng ngay việc treo đèn lồng trên các tuyến phố (Dân trí) - Tiếp thu ý kiến của nhân dân và một số cơ quan báo chí, Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch tỉnh Lào Cai vừa có văn bản đề nghị UBND thành phố Lào Cai chỉ đạo dừng ngay việc treo đèn lồng trên các tuyến phố. Việc treo đèn lồng không được lòng dư luận. Lý do đưa ra là việc treo đèn lồng như của Trung Quốc là không phù hợp với bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam bởi thành phố tỉnh lỵ Lào Cai nằm ở sát biên giới Việt - Trung, có rất nhiều du khách trong và ngoài nước thường xuyên tới tham quan, du lịch. Mới đây, Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch tỉnh Lào Cai đã có công văn số 608/SVHTTDL-NVVH gửi UBND thành phố về việc phối hợp triển khai thực hiện chỉnh trang đô thị trên địa bàn nhân kỷ niệm 20 năm tái lập tỉnh và đề nghị UBND thành phố chỉ đạo nhân dân không trang trí, treo đèn lồng Trung Quốc trên các tuyến phố. Thanh tra Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch tỉnh Lào Cai đã kiểm tra thực tế một số tuyến phố treo đèn lồng và nhận thấy đèn đều có chữ Trung Quốc; không đề cao được bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Phạm Ngọc Triển http://dantri.com.vn...c-tuyen-pho.htm
  7. TP Lào Cai bắt dân treo đèn lồng: Nô dịch văn hóa hay để làm vui lòng quan khách TQ *** TP Lào Cai: Một số tuyến phố khởi động việc thắp đèn lồng Nhân dịp kỷ niệm 20 năm tái lập tỉnh Lào Cai (1/10/1991 – 1/10/2011), thành phố Lào Cai đã bắt đầu khởi động chương trình chỉnh trang đô thị, trong đó có việc thắp đèn lồng tại các công sở và nhà dân trên một số tuyến phố. Đèn lồng trên phố Trần Nhật Duật (phường Kim Tân). Năm phường nội thị là Cốc Lếu, Lào Cai, Phố Mới, Kim Tân, Duyên Hải được chọn làm điểm, mỗi phường có ít nhất 1 tuyến phố thắp đèn lồng từ dịp Quốc khánh 2/9/2011. Tại phường Kim Tân, phố Trần Nhật Duật (từ quảng trường cũ tới đầu đường Trần Hưng Đạo), từ dịp Quốc khánh trở lại đây, vào mỗi tối, người dân lại đồng loạt thắp đèn lồng đỏ trước hiên nhà đã gây sự tò mò của nhiều người. Ngoài đèn lồng, đèn trang trí cũng được thắp trên các rặng cây cảnh quan tại khu vực quảng trường cũ và một số công sở, khiến cảnh quan về đêm thêm lộng lẫy. Tại phường Lào Cai, trên phố Nguyễn Huệ từ đầu cầu Cốc Lếu qua khu vực Cửa khẩu Quốc tế đến Đền Thượng, các công sở đồng loạt treo đèn nháy trên cây cảnh quan phía trước trụ sở. Hơn 10 hộ dân giáp chùa Tân Bảo cũng đã thắp đèn lồng đỏ từ dịp Quốc khánh 2/9. Đèn treo trên phố Hoàng Liên (khu vực phường Cốc Lếu) có kích cỡ quá nhỏ. Theo bà Lưu Thị Nụ, Chủ tịch UBND phường Kim Tân thì từ tối 25/9, tuyến phố Trần Nhật Duật (đoạn từ đầu đường Trần Hưng Đạo đến đường Quy Hoá), các hộ dân sẽ đồng loạt thắp đèn lồng. Bà Nụ cho biết, việc thắp đèn trang trí trên 3 tuyến phố chính thuộc địa bàn phường là việc nên làm trong dịp kỷ niệm 20 năm tái lập tỉnh để nâng cao mỹ quan đô thị, làm đẹp thêm hình ảnh thành phố biên cương trong mắt người dân và du khách. Vừa qua, thành phố Lào Cai đã có công văn triển khai tới các phường, từ đó các tổ dân phố, chi bộ tổ chức họp lấy ý kiến nhân dân về việc treo đèn lồng. Tuy vậy, chương trình treo đèn lồng đã không hoàn toàn nhận được sự đồng thuận của người dân. Chiếc đèn lồng này có giá gần 200.000 đồng. Dù sao, thành phố Lào Cai vẫn quyết tâm để chủ trương này được triển khai trong dịp kỷ niệm 20 năm tái lập tỉnh và từ 25/9/2011 sẽ triển khai đồng loạt trên những tuyến phố chính. * Anh Phạm Đình Sơn, tổ 14 phường Kim Tân: Treo đèn lồng là không phù với kiến trúc và văn hóa Việt Nam Là hộ tham gia hoạt động kinh doanh dịch vụ giải trí trên địa bàn nên gia đình rất ủng hộ chủ trương làm đẹp của thành phố. Tuy nhiên, tôi không đồng tình với chủ trương đưa đèn lồng vào treo ở một số tuyến đường trên địa bàn, bởi treo đèn lồng không phù hợp với điều kiện kiến trúc của thành phố, phong tục, tập quán, văn hóa của người Việt. Đơn cử, trên tuyến đường Trần Nhật Duật, hầu hều các hộ dân đã treo đèn lồng, nhưng nhiều gia đình do xây dựng không có sự thống nhất về thiết kế (nhà thò ra, nhà thụt vào, nhà cao, nhà thấp…), nên treo đèn lồng trông không phù hợp. Hơn nữa, nhiều nhà không thiết kế hệ thống điện, nên chỉ treo làm vì, trong khi đó đèn lồng phải được thắp sáng mới đẹp. Cũng với giá thành ấy, nên chăng thành phố tiến hành làm một biểu tượng hoặc hình thức khác phù hợp hơn… * Ông Trần Ngọc Dân, tổ trưởng tổ 14, phường Kim Tân: Hầu hết các hộ dân trong tổ không đồng tình với chủ trương treo đèn lồng Tổ 14 có 65 hộ dân nằm dọc tuyến đường Lý Công Uẩn. Trong buổi họp tổ (16/9/2011) để lấy ý kiến nhân dân về thực hiện chủ trương của thành phố treo đèn lồng nhân kỷ niệm 20 năm ngày tái lập tỉnh Lào Cai thì hầu hết các hộ dân không đồng tình vì cho rằng treo đèn lồng là không phù với văn hóa người Việt Nam cũng như cảnh quan, không gian, kiến trúc ở tổ dân phố nên dễ gây phản cảm. Với trách nhiệm, tổ cũng chỉ phố tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia, đối với cán bộ, đảng viên thì phải gương mẫu thực hiện chủ trương của thành phố. * Chị Huệ, số nhà 411, đường Nguyễn Huệ, phường Phố Mới: Tổ dân phố bắt buộc các hộ dân trên địa bàn mua đèn lồng Tổ dân phố không tổ chức họp dân lấy ý kiến về chủ trương treo đèn lồng mà chỉ gửi giấy thông báo và cho người mang đèn lồng đến yêu cầu các hộ dân phải mua để treo, nên người dân bất bình. Nếu ngày lễ, ngày kỷ niệm lớn thì treo cờ Tổ quốc là phù hợp nhất, chứ nhà cửa như thế này treo đèn lồng sẽ gây phản cảm và lãng phí. Mỗi vỏ chiếc đèn lồng có giá 125 nghìn đồng, nhưng để treo và thắp sáng được, mỗi chiếc phải đầu tư thêm gần 100 nghìn đồng để mua bóng điện, dây, phích cắm, mà không phải gia đình nào cũng có điều kiện cả. Thông báo về chủ trương treo đèn lồng tại các hộ dân. * Ông Hà Văn Hòa, Tổ trưởng tổ 23, phường Phố Mới: Đây là chủ trương của thành phố, người dân phải chấp hành Cho dù một số hộ không đồng ý, nhưng đây là chủ trương của thành phố nên bắt buộc các hộ dân trong tổ dân phố phải nghiêm túc chấp hành. Do điều kiện về thời gian nên thay vì phải tổ chức họp dân, tổ dân phố đã gửi thông báo xuống các hộ dân về việc treo đèn lồng, đồng thời hướng dẫn người dân cách thức, quy cách treo đèn. Đến nay, tổ đã phát đèn cho 60/65 hộ dân trong tổ để sẵn sàng treo đồng loạt vào tối ngày 29/9. Nhóm PV Thời sự http://www.hennhausaigon2015.com
  8. quy_co99 nếu giấy chứng nhận đã đóng học phí mà lớp PTLV cơ bản vừa qua đã không được vào lớp thì sẽ vào học tiếp học kỳ II với lớp đang học, lơp này cũng sẽ học tới học kỳ II. Thiên Đồng
  9. Tỳ Sa Môn Thiên Vương,Sóc Thiên Vương & Phù Đổng Thiên Vương trong tôn giáo Việt Nam thời Trung cổ Ví dụ, Phật được xem là một trong mười hóa thân (avatara) chính của thần Vishnu. Về phía Phật giáo, các thần Ấn giáo như Brahma (Phạm Thiên), Shakra (Đế Thích) cũng được kết nhập vào thần hệ (pantheon) Phật giáo và được gọi là các Hộ pháp (Dharmapala). Thánh Giống - Phù Đổng Thiên Vương Khi Phật giáo truyền sang Trung Hoa, thần hệ này cũng được du nhập theo. Dĩ nhiên trong đó có các thần Ấn giáo đã bị "Phật hóa". Khi qua đến Trung Hoa, những thần linh này được kết nhập vào thần hệ tôn giáo Trung Hoa, và lại biến dạng thêm một lần nữa. Khi Phật giáo được truyền từ Ấn Độ và Trung Hoa sang Việt Nam, những thần linh gốc Ấn giáo đã bị Phật và Hoa hóa này, lại một lần nữa bị biến đổi và đồng hóa với những thần linh địa phương, cũng như được giao cho những trách vụ khác, phù hợp với nguyện vọng chính trị và xã hội của người bản xứ. Trong bài viết ngắn này, tôi xin đưa ra vài nhận xét sơ lược về vai trò và sự biến dạng của Vaisravana (Pi Sha Men, Tỳ Sa Môn Thiên Vương) trong tôn giáo Việt Nam thời Trung cổ. Giấc mơ của Khuông Việt Theo sách Thiền uyển tập anh (TUTA), Khuông Việt (933-1011), tên tục Ngô Chân Lưu, là người truyền thừa đời thứ IV của dòng Thiền Vô Ngôn Thông. Khuông Việt học và đắc đạo với Vân Phong. Năm ngoài bốn mươi tuổi, Khuông Việt được Đinh Tiên Hoàng (trị vì 968-979) mời vào triều hội kiến. Nhà vua kính trọng ông và phong cho ông chức Tăng thống. Sau đó còn ban cho danh hiệu Khuông Việt Thái sư. Nhà Đinh suy tàn, nhà (Tiền) Lê nối tiếp. Dưới thời Lê Đại Hành (trị vì 980-1005), Khuông Việt vẫn tiếp tục giữ những chức vụ cũ, hơn nữa ông còn được Lê Đại Hành mời tham dự vào tất cả các vấn đề quân sự và triều chính(1). TUTA chép(2): "Khuông Việt thường ngao du núi Vệ Linh, quận Bình Lỗ và yêu thích phong cảnh u thắng. Sư định xây am và trụ trì ở đó. Một đêm sư nằm mơ thấy có một thần nhân mặc áo giáp vàng, tay phải cầm thương vàng, tay trái cầm bảo tháp. Đi theo là hơn mười tùy tùng trạng mạo dữ tợn. Thần nhân bước tới nói: "Ta là Tỳ Sa Môn Thiên Vương, các tùy tùng của ta đều là dạ xoa (yaksa). Thiên đế ra lệnh cho ta đến nước này để bảo vệ biên cương, khiến cho Phật pháp được hưng thịnh. Ta có duyên với ông, cho nên ta đến đây để ủy thác cho ông". Khuông Việt kinh hoàng tỉnh giấc, nghe thấy có tiếng gào thét trong núi, trong lòng lấy làm lạ lắm. Sáng ra, Sư đi vào trong núi, thấy có một cội cây lớn cao hơn mười trượng với cành lá xum xuê, lại có một đám mây lành che phủ bên trên. Sư sai thợ đốn cây và tạc thành tượng thần đã thấy trong mơ và lập đền thờ. Vào năm Thiên Phúc thứ nhất (981) quân Tống xâm nhập đánh phá. (Lê Đại Hành) Hoàng đế có nghe câu chuyện kia, sai Khuông Việt đến đền thờ cầu đảo. Quân Tống sợ hãi và bỏ chạy đến Ninh Giang ở Bảo Hựu. Lại thấy gió cuộn, sóng lớn nổi lên, giao long lồng lộn chồm tới. Quân Tống hoàn toàn tan rã". Câu chuyện trên đây, nếu đọc trong khuôn khổ thuyên thích (hermeneutic) đúng đắn, khai mở cho chúng ta những dữ kiện quan trọng liên quan tới một số đề tài trong văn hóa sử Việt Nam. Bài viết này, như đã đề cập, chỉ tập trung vào ý nghĩa và sự biến dạng của Tỳ Sa Môn Thiên Vương trong tôn giáo Việt Nam. Tỳ Sa Môn Thiên Vương là ai? Tại sao Khuông Việt lại nằm mơ thấy vị thần này? Giấc mơ của Khuông Việt có thể cho chúng ta biết được những gì về tầm quan trọng của vị thần này trong tôn giáo Việt Nam? Một cách khái quát, Tỳ Sa Môn nguyên thủy là một vị thần Ấn Độ nhưng sau đó tục thờ cúng vị thần này được lan truyền sang Khotan, Trung Hoa, Nhật Bản và dần dà cả Việt Nam. Ở những khu vực mới này, Tỳ Sa Môn lại được giao phó cho những vai trò khác nhau(3). Tỳ Sa Môn hay Vaisravana là một tên họ (patronymic) khác của Kubera, một vị thần đại chúng, đại diện của Ấn giáo. Kubera được đề cập đến trong các kinh điển Ấn giáo từ Vệ đà cho đến anh hùng ca (epics) qua những mô tả và trong các vai trò khác nhau. Trong các kinh Vệ đà, Kubera được đề cập đến như là vua của các quỷ thần sống trong bóng tối(4). Trong Satapatha Brahmana, Kubera được xem là lãnh chúa của kẻ trộm và tội phạm(5). Trong những lãnh vực khác, Kubera được xem là thần bảo hộ của các thương gia và một trong bốn thần bảo vệ thế gian (lokapala), và một trong tám thần canh giữ các phương hướng (dikpala)(6). Kubera cũng còn được xem là vua của dạ xoa(7). Sau thời kỳ Vệ đà, vai trò chính yếu của Kubera là thần bảo hộ của tiền tài và sự phong phú. Trong Phật giáo, Kubera được biết đến bằng danh xưng Vaisravana và là một trong Tứ Thiên vương nguyện bảo vệ Phật pháp(8). Nói tóm, Kubera có liên hệ chính yếu với sự phì nhiêu thịnh vượng và vương quyền (kingship). Hai đặc tính này, Kubera hay Vaisravana, vẫn nắm giữ trong vai trò của thần như là đối tượng thờ phượng trong tôn giáo bình dân ở các khu vực Á châu ngoài Ấn Độ. Tỳ Sa Môn Thiên vương Ở Khotan, Kubera được thờ dưới danh xưng Vaisravana như là vị thần bảo hộ hoàng tộc và quốc gia. Vaisravana (Pi Sha Men) đến Trung Hoa từ Khotan và trở thành đối tượng của một nền thờ phượng riêng biệt vào khoảng thế kỷ thứ VII(9). Ở Trung Hoa, hình tượng của Vaisravana được thờ trên tường và cổng của thành phố và tự viện. Vaisravana do đó trở thành thần bảo vệ thành phố và tự viện(10). Vào khoảng cuối đời nhà Tống thì tục thờ phượng Vaisravana đã lan truyền khắp Trung Hoa. Nếu như chúng ta hoàn toàn dựa vào đoạn về giấc mơ của Khuông Việt trong tiểu sử của ông thì tục thờ Vaisravana (hay Tỳ Sa Môn Thiên Vương trong tiếng Việt) bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam vào khoảng cuối thế kỷ thứ X. Tuy nhiên, sự kiện Khuông Việt nằm mơ thấy Tỳ Sa Môn khiến chúng ta có thể dự đoán rằng Tỳ Sa Môn hẳn phải là một vị thần đã được biết đến và thờ phượng trong Phật giáo và tôn giáo Việt Nam nói chung rồi. Từ viễn cảnh lịch sử, chúng ta khó mà tin rằng tự dưng Khuông Việt lại nằm mơ thấy Tỳ Sa Môn được. Chúng ta biết rằng, Phật giáo được truyền vào Việt Nam qua cả hai ngả Ấn Độ và Trung Hoa. Do đó, Tỳ Sa Môn đã du nhập qua ngả nào không phải là một vấn đề đơn giản. Ví dụ rằng Tỳ Sa Môn nguyên thủy là một thần linh Ấn giáo được Phật hóa trong Phật giáo Ấn Độ, nhưng vào đời nhà Đường, khi Phật giáo đã du nhập Việt Nam qua ngả Trung Hoa từ vài thế kỷ rồi, rất có thể là Tỳ Sa Môn đã qua Việt Nam theo lối này. Tuy nhiên, như đã nhận định: Tỳ Sa Môn đảm nhận những vai trò khác nhau ở các quốc gia mà thần được thờ. Không những thế, về mặt hình tượng (iconography), Tỳ Sa Môn cũng thay đổi từ Ấn Độ sang Trung Hoa. Ở đoạn trên, trong tiểu sử Khuông Việt chúng ta đọc thấy rằng Tỳ Sa Môn mặc giáp vàng, tay trái cầm thương, tay phải cầm bảo tháp và có các dạ xoa tùy tùng. Ở Ấn Độ thì Tỳ Sa Môn (dưới danh xưng Kubera) lại được mô tả là cầm một cây thương, một túi tiền và một con chồn(11). Có thể nói là ở Việt Nam, Tỳ Sa Môn tổng hợp các thành tố Ấn Độ và Trung Hoa cũng như Phật giáo và bình dân. Tỳ Sa Môn trở thành thần bảo vệ Phật pháp và quốc gia Việt Nam. Thần còn đáp lại lời cầu đảo của Khuông Việt và giúp Lê Đại Hành đánh tan quân Tống(12)"? Tỳ Sa Môn không phải là vị thần Ấn giáo Phật hóa duy nhất được thờ phượng trong Phật giáo Việt Nam. Chúng ta biết rằng, Lý Thánh Tông (trị vì 1054-1072) đã từng cho xây một số chùa để thờ Brahma và Shakra(13). Trường hợp này chúng ta cũng khó khẳng định rằng đây là do ảnh hưởng trực tiếp từ Ấn Độ, từ văn hóa Chàm hay từ Phật giáo Trung Hoa. Cho đến nay, tục thờ phượng các thần linh Ấn giáo trong Phật giáo và tôn giáo bình dân Việt Nam vẫn chưa được thẩm xét kỹ càng. Chúng ta vẫn còn phải chờ đợi các nghiên cứu sâu xa hơn trong tương lai. Từ Tỳ Sa Môn Thiên Vương đến Sóc Thiên Vương và Phù Đổng Thiên Vương Sách Đại Nam Nhất Thống Chí (ĐNNTC), bộ bách khoa (encyclopedia) về địa lý Việt Nam, một tác phẩm được biên soạn đời Nguyễn, ghi rằng có đền thờ Tỳ Sa Môn Thiên Vương ở làng Ninh Tảo, huyện Từ Liêm (Bắc Việt). Theo sách này thì tên của vị thần là Sóc Thiên Vương và hiệu là Tỳ Sa Môn Thiên Vương. Chúng ta ghi nhận ở đây là trong một số tác phẩm soạn sau TUTA, Tỳ Sa Môn Thiên Vương cũng được đề cập đến dưới danh xưng Sóc Thiên Vương, ĐNNTC thuật lại rằng, Lê Đại Hành sau khi chứng kiến sự hiển linh của Tỳ Sa Môn đã cho xây thêm nhiều đền thờ thần. Cho đến nhà Lý, để thuận tiện việc thờ phượng, lại thêm một đền thờ Tỳ Sa Môn nữa được dựng ở làng Ninh Tảo, gần Tây Hồ. Các vua nhà Lý cũng ban cho thần tước hiệu "Thần tối cao". Các triều đại kế tiếp tiếp tục ban tước hiệu cho thần(14). Tỳ Sa Môn Thiên vương trong văn hóa Tây Tạng Câu chuyện kể về giấc mơ của Khuông Việt được chép lại trong các dị bản của hai bộ sách quan trọng trong văn hóa sử Việt Nam là Việt điện u linh tập (VĐUL) và Lĩnh Nam chích quái (LNCQ)(15). So sánh những bản này với TUTA, chúng ta thấy có những dị biệt nhỏ. Tuy nhiên, những dị biệt ấy nói lên những biến chuyển rất quan trọng. Hơn nữa, chúng còn hàm chứa một số vấn đề mà chúng ta cần tìm hiểu. Trước hết, chúng ta thử đọc lại những ghi chép về giấc mơ của Khuông Việt trong VĐUL và LNCQ. 1. Việt điện u linh tập tục trong truyện "Sóc Thiên Vương" chép(16): "Theo Thiền uyển tập anh, vào đời Lê Đại Hành có Khuông Việt Thái Sư, không làm quan, thường nhàn du Vệ Linh Sơn ở quận Bình Lỗ, yêu thích cảnh trí u nhã nên muốn dựng am ở đó. Một hôm sau khi du lãm sơn am, về ngủ (mơ) thấy một thần nhân mặc áo giáp vàng, tay cầm thương vàng, có vài ngàn tùy tùng. Thần nhân tự xưng là Sóc Thiên Vương, (nói rằng: Ta) quán lãnh dạ xoa thần binh, phụng mệnh Thượng đế, đến bảo vệ đất này và gia hộ phương dân. Ta có duyên với ông nên đến gặp! Thái sư giật mình tỉnh giấc, nghe trong núi có tiếng la hét. Cho nên Thái sư đi sâu vào núi, thấy một cội cây lớn xum xuê, khí lành dễ thương. Thái sư mới lập miếu ở chỗ đó, dùng cây lớn kia làm tượng thần giống như đã thấy trong mơ. Vào năm Thiên Phúc, quân Tống xâm nhập đánh phá. Đại Hành hoàng đế có nghe thấy câu chuyện kia, mới ủy thác cho Thái sư ngầm đến miếu cầu đảo. Lúc ấy, quân Tống đang đóng ở thôn Tây Kết, quân hai bên chưa đụng trận, bỗng nhiên thấy một người thân cao hơn một trượng, tóc xõa mắt trợn, từ lòng sông hiện lên, sóng lớn cuồn cuộn. Quân Tống sợ quá thối lui. Tướng Tống là Quách Quỳ đem quân về nước. Để tạ ơn, Đại Hành ra lệnh sửa sang miếu cho rộng rãi hơn". Bản này hầu như giống với bản chép trong TUTA, ngoại trừ vài dị biệt như sau: thần nhân có vài ngàn dạ xoa tùy tùng và tự xưng là Sóc Thiên Vương thay vì Tỳ Sa Môn Thiên Vương, tuy thần nhân cũng nói là phụng mệnh Thượng đế đến bảo vệ bờ cõi và dân chúng xứ này. Lưu ý là người biên tập mặc nhiên xem Tỳ Sa Môn là một với Sóc Thiên Vương (vì ông nhận là dựa vào TUTA) song không hề giải thích Sóc Thiên Vương là ai. Phải chăng là một danh xưng khác của Tỳ Sa Môn? Điều đáng chú ý là Sóc Thiên Vương ở đây không cầm bảo tháp (stupa), và chỉ nói là bảo vệ xứ sở và phương dân chứ không hề đề cập đến Phật pháp. Bảo tháp là một biểu tượng quan trọng trong Phật giáo(17). Nói tóm lại, ở đây chúng ta thấy Tỳ Sa Môn Thiên Vương và một số yếu tố Phật giáo rõ ràng đã bị loại bỏ. 2. Việt điện u linh tập lục toàn biên trong truyện "Sóc Thiên Vương" chép(18): "Theo sách Thiền uyển tập anh, vào đời Lê Đại Hành có Khuông Việt Thái sư họ Ngô, thường nhàn du Vệ Linh Sơn ở quận Bình Lỗ vui ngắm sơn thủy, yêu thích cảnh trí u nhã nên muốn dựng am tự ở đó. Đêm nằm mơ thấy một thần nhân mặc áo giáp vàng, tay trái cầm thương vàng, tay phải nâng bảo tháp, có hơn chục người tùy tùng, trạng mạo cổ quái dễ sợ, bước tới nói, "Ta là Tỳ Sa Môn, tùy tùng của ta đều là dạ xoa. Thiên đế có lệnh đến quốc độ này bảo hộ dân chúng. Ta có duyên với ông, cho nên đến ủy thác! Sư giật mình kinh hoàng, nghe trong núi có tiếng la hét, trong lòng sợ hãi lắm. Sáng ra, Sư vào núi thấy một cội cây lớn cành lá xum xuê, lại có mây lành che phủ ở trên. Sư mới sai thợ đốn cây, quả nhiên phù hợp với những gì đã thấy trong mơ, khắc tượng lập đền. Năm Thiên Phúc thứ nhất, quân Tống xâm nhập đánh phá. ([Đại Hành]) Hoàng đế có nghe thấy câu chuyện kia, mới ủy thác cho Sư đến cầu đảo. Lúc ấy, quân Tống đang đóng ở thôn Tây Kết, quân hai bên chưa đụng trận, quân Tống tự nhiên sợ hãi, lui về trấn giữ Chi Giang, lại gặp sóng lớn nổi lên, giao long lồng lộn, quân Tống tan vỡ. Tướng Tống là Quách Quỳ đem quân về nước. ([Đại Hành]) Hoàng đế xây đền rộng thêm để thờ phụng". Bản này tương đối gần với TUTA hơn. Ở đây thần nhân tự xưng là Tỳ Sa Môn Thiên Vương và trên tay trái cũng có cầm bảo tháp. Tuy nhiên không thấy đề cập đến việc bảo vệ Phật pháp. Tiếp theo lại có một đoạn kể thêm một sự tích Phù Đổng Thiên Vương. Lời "tiếm bình" lại xác quyết rằng Sóc Thiên Vương chính là Tỳ Sa Môn Thiên Vương và cũng là một với Phù Đổng Thiên Vương(19). Lời "tiếm bình" ở đây rõ ràng viết sau LNCQ, vì người viết có đề cập đến sách này. 3. Lĩnh Nam chích quái liệt truyện trong truyện "Sóc Thiên Vương" chép(20): "Theo sách Thiền uyển tập anh, xưa vào đời Lê Đại Hành có Cự Việt đại sư họ Ngô, thường nhàn du Vệ Linh Sơn ở quận Bình Lỗ, yêu thích cảnh trí u thắng, bèn dựng am ở đó. Đêm canh ba nằm mơ thấy một thần nhân mặc áo giáp vàng, tay trái cầm thương, tay phải cầm bảo tháp, có hơn chục người tùy tùng, trạng mạo dễ sợ, đến nói với Cự Việt đại sư: "Ta là Quỷ Sa Môn Thiên Vương, tùy tùng của ta đều là dạ xoa. Thượng đế có truyền lệnh sai ta đến thăm chứng đất Đại Nam quốc, bảo vệ dân chúng. Ta có duyên với ông, cho nên đến ủy thác, và báo cho ông biết". Sư giật mình tỉnh giấc, lát sau nghe trên núi có tiếng la hét, trong lòng sợ hãi lắm. Sáng ra, Sư vào núi thấy một cội cây lớn cành lá xum xuê, lại có khí lành che phủ ở trên. Sư mới sai thợ đốn cây, khắc gỗ làm tượng thần như đã thấy trong mơ, rồi xây đền miếu để thờ thần. Năm Thiên Phúc thứ nhất, quân Tống xâm nhập đánh phá. (Đại Hành) Hoàng đế có nghe thấy câu chuyện kia, mới sai Sư đến đền khẩn cầu. Lúc ấy quân Tống đang đóng ở thôn Tây Kết, quân hai bên chưa đụng trận, quân Tống hốt nhiên thấy một người hiện lên giữa sóng lớn, thân cao hơn mười trượng, tóc dựng ngược, trợn mắt giận dữ nhìn, hiển thánh thần quang! Quân Tống trông thấy kinh hãi, lui về giữ trấn Kỹ Giang, lại gặp sóng lớn nổi lên, giao long rùa ba ra lồng lộn quái đản. Quân Tống thấy thế kinh hoàng tan vỡ. Tướng Tống là Quách Tiến đem quân về nước. (Đại Hành) Hoàng đế khen ngợi anh linh của thần, xây đền rộng thêm để thờ phụng". Bản này tựa như phối hợp cả (1) và (2) cộng thêm nhiều chi tiết thêm thắt. Tên Khuông Việt bị viết lầm thành Cự Việt. Điều này cũng không có gì lạ lắm vì chữ "Khuông" và chữ "Cự" hơi tương tự nhau. Tỳ Sa Môn Thiên Vương được chép thành Quỷ Sa Môn Thiên Vương. Tiếp theo cũng có một đoạn ghi nhận rằng có người cho rằng Sóc Thiên Vương hay Quỷ Sa Môn Thiên Vương (sic) là một với Phù Đổng Thiên Vương. 4. Thiên Nam vân lục trong "Sóc Thiên Vương truyện" chép(21): "Theo sách Thiền Uyển tập lục, xưa vào đời Đinh Tiên Hoàng có người Cự Việt họ Ngô, thường nhàn du Vệ Linh Sơn, yêu thích cảnh trí u thắng, bèn dựng am ở đó. Đêm nằm mơ thấy một thần nhân mặc áo giáp vàng, tay phải cầm bảo tháp, trạng mạo dễ sợ, có hơn ngàn tùy tùng, đến nói với Ngô: ‘Ta là Tỳ Sa Minh Vương, tùy tùng của ta đều là dạ xoa. Thượng đế có lệnh đến, sai ta đến thăm chừng đất đai Bắc quốc, bảo vệ dân chúng. Ta có duyên với ông, cho nên đến báo cho ông biết’. Ngô giật mình tỉnh giấc, lát sau nghe giữa đá núi có tiếng la hét, Ngô vừa nghi vừa sợ. Sáng ra, Ngô vào núi thấy một cội cây lớn cành lá xum xuê lại có mây lành che phủ ở trên. Ngô mới sai thợ đốn cây, khắc gỗ làm tượng thần như đã thấy trong mơ, rồi xây đền để thờ thần. Vào thời Đinh Thiếu Đế, quân Tống xâm nhập phương Nam. (Thiếu) Đế có nghe thấy câu chuyện kia, mới sai Ngô đến đền cầu đảo. Lúc ấy quân Tống hốt nhiên thấy một người hiện lên giữa sóng lớn, duỗi thân cao mấy trượng, tóc dựng ngược, trợn mắt giận dữ nhìn, thần quang long lanh. Quân Tống kinh hãi quá, lui về trấn giữ Giáp Giang, lại gặp sóng gió dạt dào mênh mông, giao long lồng lộn tung hoành. Quân Tống người nào cũng sợ, Quách Quỳ mới nhổ trại lui binh. (Thiếu) Đế tán thán sự anh linh của thần, xây đền rộng thêm để thờ phụng". Bản này rõ ràng dựa trên (3). Nhưng ở đây Khuông Việt chỉ được đề cập đến là "ông Ngô", và người biên tập hầu như không biết rằng Khuông Việt là nhà sư, Tỳ Sa Môn Thiên Vương được gọi là Tỳ Sa Minh Vương. Biến cố quân Tống xâm nhập nước ta xảy ra vào đời Đinh chứ không phải đời (Tiền) Lê như những bản trên. Tỳ Sa Minh Vương hay Sóc Thiên Vương cũng được xem là một với Phù Đổng Thiên Vương. Chúng ta lưu ý được rằng tất cả những bản này đều mở đầu với câu: "Theo sách Thiền uyển tập anh". Rõ ràng là những tác gia này đã dựa vào những bản đi trước, và bản đầu tiên lại dựa vào TUTA. Điều này cũng không có gì lạ bởi vì TUTA được soạn sớm hơn cả VĐUL lẫn LNCQ. Ngoài những khác biệt liên quan đến các tên riêng, cả người và địa danh, có thể là do lỗi của người ghi chép hay sự mù mờ của những tác giả này đối với huyền thoại Phật giáo Ấn Độ. Đáng chú ý là tất cả các dị bản này đều giống nhau ở chỗ, câu "để cho Phật pháp phát triển", trong lời Tỳ Sa Môn Thiên Vương nói với Khuông Việt theo như bản trong TUTA đều bị loại bỏ. Trong phần dưới đây, chúng ta thử giải thích ý nghĩa giấc mơ của Khuông Việt từ viễn cảnh vai trò của Phật giáo trong việc tạo dựng tinh thần quốc gia (nationalism) cũng như sự biến dạng từ Tỳ Sa Môn Thiên Vương sang Sóc Thiên Vương và Phù Đổng Thiên Vương. Hy vọng những nhận định sơ khởi này sẽ là nền tảng cho những thẩm xét sâu xa hơn về vấn đề nguồn gốc của sự tạo dựng tinh thần quốc gia trong lịch sử Việt Nam. Vấn đề nguồn gốc của tinh thần quốc gia là một vấn đề mới và sôi nổi trong ngành xã hội, văn hóa và chính trị học hiện thời. Ở các xứ Á châu, tôn giáo đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong vấn đề này. (Còn tiếp) Như Hạnh (*) * Giáo sư, phân khoa Triết học và Tôn giáo, Đại học George Mason, Virginia, USA. (1) Về tiểu sử Khuông Việt xem TUTA, microfilm #1267, 8a6-9b4 (2) Ibid, 8b1-9a1. (3) Xem Fredrick W.Bunce, An Encyclopedia of Buddhist Deities, Demigods, Godlings, Saints & Demons, (New Delhi: D.K.Printworld, Ltd, 1994), I:574, Jan Knappert, Indian Mythology (London: The Aquarian press, 1991), 146; Sylvain Lévi, J.Takakusu, Paul Deniéville, eds., Hobogirin (Tokyo: Maison Franco-Japonaise, 1929-1930), I &II: 79-83. (4) Xem Eva Rudy Jansen, The Book of Hindu Imagery: The Gods and Their Symbols (Diever, Holland: Binkey Kok Publications, 1993), 70. (5) Xem Gail Hinich Sutherland, The Disguisese of the Demon: The Development of the Yaksa in Hinduism and Buddhism (Albany: State University of New York Press, 1991), 63. (6) Ibid, 65. (7) Ibid, 61. (8) Về Tứ Thiên Vương trong Phật giáo xem, inter alia, R.E.Emmerick, The Sutra of Golden Light (London: Routledge & Kegan Paul, Ltd.1979), 23-43. Trong vũ trụ luận Phật giáo Tứ Thiên Vương, bốn Thiên Vương cai trị bốn phương: Dhritarashtra - phương Đông, Virudhaka - phương Nam, Virupaksha - phương Tây và Vaisravana - phương Bắc. Xem Jan Knappert, Indian Mythology, 103. Theo Valerie Hansen thì gốc tích phương Bắc của Vaisravana có lẽ xuất phát từ Khotan, bởi vì Khotan Vaisravana là thần bảo vệ quốc gia và Khotan lại ở phương Bắc. Xem Valerie Hansen, "Gods on the Wall: A Case of Indian Influence on Chinese Lay Religion" trong Patricia Buckley Ebrey & Ebrey & Pater N. Gregory, eds., Religion and Society in T’ang and Sung China (Honoluu: University of Hawaii Press 1993), 81. (9) Xem Valerie Hansen, Gods on the Wall, 84. (10) Ibid., 80. (11) Ibid., 87. (12) Điều đáng lưu ý ở đây là Trung Hoa Vaisravana cũng đã từng đóng vai trò tương tự. Trong Tỳ Sa Môn Nghi Quỹ có thuật lại rằng vào năm 742 tỉnh An Tây bị quân của năm nước bao vây Đại Thạch Khang gửi người về kinh đô xin giải cứu. Vua Đường hỏi ý kiến Hồ tăng Đại Quảng Trí (Amoghavajra). Amoghavajra khuyên vua cầu đảo với Bắc phương Thiên Vương gửi thần binh đi cứu. Kết quả là Tỳ Sa Môn gửi thần binh đến giải vây An Tây một cách nhanh chóng. Xem T21.228b6-c1. Xem cả Valerie Hansen, Gods on the Wall, 82-83. (13) Chẳng hạn, năm 1057 Lý Thánh Tông cho xây hai chùa Thiên Phúc và Thiên Thọ rồi cho đúc tượng Brahma và Shakra bằng vàng để thờ ở đó. Xem Đại Việt Sử Ký toàn thư, bản kỷ, III:242. (14) Xem ĐNNTC, tập 27, mục tỉnh Hà Nội, phần Tự Miếu. Đại cương về sách này, xem số mục 855 trong Trần Nghĩa và Francois Gros, eds., Di sản Hán Nôm Việt Nam thư mục đề yếu - Catalogue des livres en Han Nom [dshn] (Hà Nội: NXB KHXH, 1993), I: 490-491. (15) Đây là hai bộ sách rất quan trọng trong văn hóa sử Việt Nam. Song cho tới nay vẫn chưa có nghiên cứu đúng đắn nào về hai bộ sách này cả. Trước 1975 đã có bản dịch ra quốc ngữ, đáng tiếc là bản dịch này đầy những lỗi lầm, không thể sử dụng được. Về sách VĐUL xem E’mile Gaspardone, "Bibligraphie annamite" 126-128; Keith Weller Taylor, Authority and Legitimacy in 11th Century Viet Nam, trong David G.Marr & A.C Milne, eds., Southeast Asia in the 9th to 14th Centuries (Singapore: Institute of Southeast Asia Studies, 1986), 156-169; Notes on the Việt điện u linh tập, Việt Nam Forum 8 (1968): 26-59; The Birth of Việt Nam (Berkeley: University of California Press, 1983), 352-359; DSHN.#4276, 586-588. Về sách LNCQ xem "Bibliographie annamite", 128-130; DSHN, #2012, 206-207. (16) Xem Việt điện u linh tạp lục toàn biên trong Chang Hing-ho, ed., Việt Nam Hán Văn Tiểu Thuyết Tùng San, tập 1 (Paris - Taipei: Publications de l’Eùcolé francaise d’Extrême - Orent & Editions Universitaires de Taipei, 1992), 39. (17) Về ý nghĩa của Tháp (Stupa) trong Phật giáo, xem Giusepe Tucci, Stupa: Art, Architectonies and Symbolism of the Buddhist Stupa (Emeryville: Dharma Publishing, 1976). (18) Xem Việt điện u linh tạp lục toàn biên trong Chang Hing-Ho, 214-215. (19) Ibid.,215. (20) Xem Lĩnh Nam chích quái liệt truyện trong Chan Hing-Ho, II: 115. (21) Xem Thiên Nam vân lục trong Chan Hing-Ho, II:222. nguồn: http://giacngo.vn
  10. Hay tuyệt! Một than thuốc từ ngoài vào trong bánh.
  11. Hên là cây này ở nước Ê Ly gia bét Không lo. Hehe
  12. Cái nào cũng đẹp. Cái nào cũng mê. Hehe
  13. À ôi! Mơ 15% của con số 400 tỷ đồng để xây cầu làm đường cho một huyện ở Quảng Nam. Ôi giấc mơ nhỏ bé của tui ơi!
  14. chuluongtri học qua lớp Phong thủy Lạc Việt thì sẽ hiểu rỏ hơn vấn đề. Phong thủy như Y học, tùy theo cơ địa mà cho thuốc, nghe thì biết vậy thôi chứ chưa chắc đã đúng vậy. Cứ nghe thôi, hay có sách để đọc rồi mà làm theo thì...bệnh ai nấy mang, phúc ai nấy hưởng! Vài lời chia sẻ. Thiên Đồng
  15. 400 tỷ đồng! Số tiền này đem xây nhà tình thương cho các mẹ còn sống, cho con của các mẹ còn sống, bệnh viện cho các mẹ, trường học cho các cháu của mẹ, thay cầu tre bằng cầu bê tông, tráng đường đất bằng đường nhựa, đưa vào quỹ hổ trợ tiền thuốc, tiền ăn trầu cho các mẹ anh hùng...thì công đức rất lớn, nguyên khí quốc gia tăng cao. Đó là phù hợp với lý thuyết âm dương ngũ hành, cũng phù hợp với đạo lý dân tộc "ăn quả nhớ kẻ trồng cây", "uống nước nhớ nguồn", "ăn cây nào rào cây đó", "một miếng ở đình hơn một mâm ở nhà". Ôi! Mơ 400 tỷ đồng làm được chuyện nhỏ nhoi như vậy. Thiên Đồng
  16. THIÊN 15: NGŨ THẬP DOANH Hoàng Đế hỏi: “Ta mong được nghe thế nào là ngũ thập doanh”[1]. Kỳ Bá đáp: “Thiên xoay hết 1 chu thì hết nhị thập bát tú, mỗi tú vận hành 36 phân, khí của con người vận hành 1 chu[2]. Trong 1008 phân, nhật hành nhị thập bát tú, kinh mạch của con người vận hành trên dưới, trái phải, trước sau, thế là 28 mạch vận hành chu thân dài 16 trượng 2 xích nhằm ứng với nhị thập bát tú, lậu thủy chảy xuống trăm khắc nhằm phân ra ngày và đêm[3]. Cho nên con người 1 lần hô thì mạch tái động, khí vận hành 3 thốn[4]. Hô hấp định 1 tức, khí vận hành 6 thốn[5]. Khí vận hành trong trong 10 tức được 6 xích, nhật hành nhị phân, 270 tức khí hành 16 trượng 2 xích, khí vận hành giao thông với bên trong 1 chu toàn thân, nước chảy xuống 2 khắc, nhật hành 25 phân, 540 tức khí hành 1 lần nữa chu toàn thân, nước chảy xuống 4 khắc, nhật hành 40 phân, 2700 tức khí vận hành 10 chu toàn thân, nước chảy xuống 20 khắc, nhật hành 5 tú 20 phân, 13.500 tức khí vận hành 50 doanh ở toàn thân nước chảy xuống 100 khắc, nhật hành nhị thập bát tú, nước chảy xuống đã hết, mạch cũng dứt vậy[6]. Cái gọi là giao thông ý nói cùng vận hành với nhau theo đúng với con số. Vì thế con số 50 doanh đã đáp ứng đầy đủ tuổi thọ của Thiên Địa... nghĩa là sự vận hành được 810 trượng vậy[7]. 五十营第十五 黄帝曰:余愿闻五十营奈何?岐伯答曰:天周二十八宿,宿三十六分,人气行一周,千八分。日行二十八宿,人经脉上下、左右、前后二十八脉,周身十六丈二尺, 以应二十八宿。漏水下百刻,以分昼夜,故人一呼,脉再动,气行三寸,一吸,脉亦再动,气行三寸,呼吸定息,气行六寸。十息,气行六尺,日行二分。二百七十 息,气行十六丈二尺,气行交通于中,一周于身,下水二刻,日行二十五分。五百四十息,气行再周子身,下水四刻,日行四十分。二千七百息,气行十周子身,下 水二十刻,日行五宿二十分O一万三千五百息,气行五十营于身,水下百刻,日行二十八宿,漏水皆尽,脉终矣。所谓交通者,并行一数也,故五十营备,得尽天地 之寿矣,凡行八百一十丈也。 THIÊN 16: DOANH KHÍ Hoàng Đế nói: “Con đường của doanh khí qúy nhất là ở chỗ nạp cốc khí nhập vào Vị, sau đó mới truyền lên cho Phế, tràn ngập ở trong và bố tán ra ngoài, phần tinh chuyên vận hành trong kinh toại, nó doanh hành 1 cách thường không bao giờ ngừng lại, chung rồi lại thỉ, đây chính là kỷ của Thiên Địa[1]. Cho nên, khí bắt đầu xuất ra từ Thái âm rồi chú rót vào kinh thủ Dương minh, vận hành lên trên rót vào kinh túc Dương minh, xuống dưới vận hành cho đến mu bàn chân rồi rót vào trong khoảng ngón cái để hợp với kinh Thái âm, đi lên trên áp vào Tỳ, từ Tỳ rót vào giữa Tâm, lại tuần hành theo kinh Thủ Thiếu âm, xuất ra khỏi nách, xuống dưới theo cẳng tay để rót vào ngón tay út, hợp với kinh Thủ Thái dương, lại vận hành lên trên, cưỡi lên nách, xuất ra ở xương má (dưới mắt) rót vào khoé mắt trong, lên đỉnh đầu, xuống đến cổ gáy để hợp với kinh túc Thái dương, tuần hành theo cột sống xuống dưới xương cùng, rồi lại đi xuống để rót vào đầu ngón út, tuần hành theo giữa lòng bàn chân để rót vào kinh túc Thiếu âm, tuần hành lên trên rót vào Thận, từ Thận lại rót vào ngoài Tâm để rồi tán ra ở giữa lồng ngực, tuần hành theo mạch của kinh Tâm chủ, xuất ra dưới nách, đi xuống cẳng tay, xuất ra ở giữa 2 đường gân, nhập vào lòng bàn tay, xuất ra ở đầu ngón giữa, trở lại rót vào đầu ngón áp út phía ngón út hợp với kinh Thủ Thiếu dương, đi lên trên rót vào Chiên Trung, tán ra ở Tam tiêu, từ Tam tiêu rót vào Đởm, xuất ra ở hông sườn, rót vào kinh túc Thiếu dương, lại đi xuống mu bàn chân, rồi lại từ mu bàn chân rót vào trong chỗ khoảng ngón chân cái để hợp với kinh Túc Quyết âm, vận hành lên trên đến Can, từ Can lên trên rót vào Phế, lên trên đến cổ họng, nhập vào khiếu trong mũi (kháng tảng) dứt ở khiếu cổ họng (súc môn)[2]. Chi biệt của nó lên trên trán, tuần hành ở đỉnh đầu, xuống dưới cổ gáy, tuần hành theo cột sống nhập vào xương cùng, đó là nơi của Đốc mạch để lạc với Âm khí (bộ sinh dục), lên trên đi qua giữa chòm lông mu, nhập vào giữa rốn, lên trên tuần hành theo bên trong bụng, nhập vào Khuyết bồn, xuống dưới rót vào giữa Phế, rồi lại xuất ra ở kinh Thái âm[3]. Đây chính là con đường vận hành của doanh khí, tạo thành lẽ thường của sự nghịch thuận vậy[4]. 营气第十六 黄帝曰:营气之道,内谷为宝,谷人于胃,乃传之肺,流溢于中,布散于外,精专者行于经隧,常营无已,终而复始,是谓天地之纪。故气从太阳出,注手阳明,上 行注足阳明,下行至路上,注大指间,与太阳合,上行抵碑,从脾注心中;循手少阴,出腋下臂,注小指,合手太阳,上行乘腋出硕内,注目内毗,上巅下项,合足 太阳,循脊下届,下行注小指之端,循足心注足少阴,上行注肾,从肾注心,外散于胸中;循心主脉出腋下臂,出两筋之间,人掌中,出中指之端,还注小指次指之 端,合手少阳,上行注膻中,散于三焦,从三焦注胆,出胁注足少阳,下行至跑上,复从附注大指间,会足厥阴,上行至肝,从肝上注肺,上循喉咙,八项领之窍, 究于畜门;其支别者,上额循巅下项中,循脊人脱是督脉也,络阴器,上过毛中,入脐中,上循腹里,人缺盆,下注肺中,复出太阴。此营气之所行也,逆顺之常 也。 THIÊN 17: MẠCH ĐỘ Hoàng Đế nói: “Ta mong được nghe về vấn đề mạch độ”[1]. Kỳ Bá đáp : “Lục dương kinh của Thủ đi từ tay đến đầu, dài 5 xích, 5 lần 6 là 3 trượng[2]. Lục âm kinh của Thủ đi từ tay đến giữa ngực dài 3 xích 5 thốn. 3 lần 6 là 1 trượng 8 xích, 5 lần 6 là 3 xích, hợp lại là 2 trượng 1 xích[3]. Lục dương kinh của Túc đi từ chân lên trên đến đầu dài 8 xích, 6 lần 8 là 4 trượng 8 xích[4]. Lục Âm kinh của Túc đi từ chân lên đến giữa ngực dài 6 xích 5 thốn, 6 lần 6 là 3 trượng 6 xích, 5 lần 6 là 3 xích, hợp lại là 3 trượng 9 xích[5]. Kiểu mạch đi từ chân lên đến mắt dài 7 xích 5 thốn, 2 lần 7 là 1 trượng 4 xích, 2 lần 5 là 1 xích, hợp lại là 1 trượng 5 xích[6]. Đốc mạch, Nhậm mạch mỗi mạch dài 4 xích 5 thốn, 2 lần 4 là 8 xích, 2 lần 5 là 1 xích, hợp lại là 9 xích, hợp lại là 9 xích, tất cả hợp lại là 16 trượng 2 xích[7]. Đây là đại kinh toại của khí[8]. Kinh mạch thuộc về lý, phần nhánh và lạc ngang là thuộc về lạc[9]. Biệt của lạc là tôn (lạc, tôn lạc) nếu thịnh thì thành huyết, nên mau mau châm trừ bỏ nó đi[10]. Nếu khí thịnh thì dùng phép châm tả, nếu khí hư thì nên cho uống thuốc để bổ nó[11]. Ngũ tạng thường thông với thất khiếu ở trên[12]. Cho nên Phế khí thông với mũi, nếu Phế lợi thì mũi có thể biết được mùi thối hoặc thơm[13]. Tâm khí thông với lưỡi, nếu Tâm hòa thì lưỡi có thể biết được ngũ vị[14]. Can khí thông với mắt, nếu Can hòa thì mắt có thể phân biệt được ngũ sắc[15]. Tỳ khí thông với miệng, nếu Tỳ hòa thì miệng có thể biết được ngũ cốc[16]. Thận khí thông với tai, nếu thận hòa thì thì tai có thể nghe được ngũ âm[17]. Ngũ tạng bất hòa thì thất khiếu bất thông, lục phủ bất hòa thì khí sẽ bị giữ lại và thành chứng ung[18]. Cho nên, nếu tà khí ở tại phủ thì Dương mạch bất hòa, Dương mạch bất hòa thì khí bị giữ lại, khí bị giữ lại thì Dương khí bị thịnh[19]. Nếu Dương khí quá thịnh thì âm bị bất lợi, Âm mạch bất lợi thì huyết bị giữ lại, huyết bị giữ lại thì Âm khí bị thịnh[20]. Nếu Âm khí quá thịnh thì Dương khí không thể tươi, gọi là quan[21]. Nếu Dương khí quá thịnh thì Âm khí không thể tươi, gọi là cách[22]. Nếu cả Âm Dương đều thịnh không cùng làm vinh cho nhau, gọi là Quan Cách[23]. Khi bị Quan Cách thì sẽ không sống được trọn đời mình mà đã chết rồi vậy[24]. Hoàng Đế hỏi: “Kiểu mạch khởi lên như thế nào và chấm dứt như thế nào ? Khí nào đã làm vinh nhau ?”[25]. Kỳ Bá đáp : “Kiểu mạch là 1 biệt mạch của kinh Thiếu Âm, khởi lên ở sau xương Nhiên cốt, lên trên khỏi mắt cá trong lên thẳng tuần hành theo phía trong đùi, nhập vào Âm khí, lên trên tuần hành theo trong ngực, nhập vào Khuyết bồn, lên trên, xuất ra ở trước huyệt Nhân Nghênh, nhập vào phía dưới mắt rồi thuộc vào khoé mắt trong, hợp với kinh Thái dương và mạch Dương kiểu rồi lên trên nữa; (Âm kiểu và Dương kiểu) cùng giao khí với nhau thì sẽ làm trơn ướt cho mắt; Nếu khí này không làm thông (tươi) cho nhau thì mắt sẽ không nhắm lại được”[26]. Hoàng Đế hỏi:“Khí chỉ độc hành ở ngũ tạng mà không làm vinh ở lục phủ, tại sao thế?”[27]. Kỳ Bá đáp : “Khí không thể không vận hành, nó ví như nước phải chảy, nhật nguyệt phải vận hành không ngừng[28]. Cho nên Âm mạch làm vinh cho tạng, Dương mạch làm vinh cho phủ, như chiếc vòng ngọc không đầu mối, không biết cái kỷ ở chỗ nào, chung rồi lại thỉ[29]. Khí tràn ngập của nó, bên trong nó tưới ướt tạng phủ, bên ngoài nó làm trơn ướt tấu lý”[30]. Hoàng Đế hỏi: “Kiểu mạch có Âm, có Dương, vậy mạch nào tính theo con số nào ?”[31]. Kỳ Bá đáp: “Người con trai phải tính vào số Dương, người con gái phải tính vào số Âm, tính tới con số nào thì đó là kinh, con số không tính gọi là lạc”[32]. 脉度第十七   黄帝曰:愿闻脉度。岐伯答日:手之六阳,从手至头,长五尺,五六三丈。手之六阴,从手至胸中,三尺五寸,三六一文八尺,五六三尺,合二立一尺。足之六阳, 从足上至头,八尺,六八四文八尺。足之六阴,从足至胸中,六尺五寸,六六三丈六尺,五六三尺,合三丈九尺。跌脉从足至目,七尺五寸,二七一丈四尺,二五一 尺,合一立五尺。督脉任脉各四尺五寸,二四八尺,二五一尺,合九尺。凡都合一十六文。尺,此气之大经隧也。经脉为里,支而横者为络,络之别者为孙,盛而血 者疾诛之,盛者泻之,虚者饮药以补之。五藏常内阅于上七窍也,故肺气通于鼻,肺和则易能知臭香矣;心气通于舌,心和则舌能知五味矣;肝气通于目,肝和则目 能辨五色矣;脾气通于口,脾和则口能知五谷矣;肾气通于耳,肾和则耳能闻五音矣。五藏不利则七窍不通,六府不和则留为痈。故邪在府则阳脉不和,阳脉不和则 气留之,气留之则阳气盛矣。阳气太盛则阴不利,明脉不利则血留之,血留之则阴气盛矣。阴气太盛,则阳气不能荣也,故日关。阳气太盛,则明气弗能荣也,故日 格。阴阳俱盛,不得相荣,放日关格。关格者,不得尽期而死也。黄帝曰:颁脉安起安止?何气荣水?岐伯答曰:缺脉者,少明之别,起于然骨之后,上内踝之上, 直上循阴股入阴,上循胸里入缺盆,上出人迎之前,入颀,属目内附,合于太阳、阳跃而上行,气并相还则为孺目,气不荣则目不合。.黄帝日:气独行五藏,不荣 六府,何也?岐伯答曰:气之不得无行也,如水之流,如日月之行不休,故阴脉荣其藏,阳脉荣其府,如环之无端,莫知其纪,终而复始。其流溢之气,内溉藏府, 外德胜理。黄帝日:颜脉有阴阳,何脉当其数?岐伯答曰:男子数其阳,女子数其阴,当数者为经,其不当数者为络也。 THIÊN 18: DOANH VỆ SINH HỘI Hoàng Đế hỏi Kỳ Bá: “Con người thọ khí từ đâu ? Âm Dương hội nhau ở đâu ? Khí gì gọi là Doanh ? Khí gì gọi là Vệ ? Doanh khí sinh ra từ đâu ? Vệ khí hội nhau ở đâu ? Khí của người già và người trai tráng không đồng nhau, Âm Dương ở những chỗ khác nhau, Ta mong được nghe về chỗ hội của chúng”[1]. Kỳ Bá đáp : “Con người thọ khí ở cốc khí, cốc khí nhập vào Vị để rồi truyền lên đến Phế, ngũ tạng lục phủ đều nhờ vậy mà thọ được khí ấy[2]. Phần thanh của khí ấy thành doanh, phần trọc của nó thành vệ[2]. Doanh ở trong mạch, vệ ở ngoài mạch, doanh hành thành những vòng không ngừng nghỉ, vận hành đủ 50 chu rồi trở lại họp đại hội với nhau[3]. Âm dương cùng quán thông nhau như chiếc vòng ngọc không đầu mối[4]. Vệ khí vận hành ở Âm 25 độ, vận hành ở Dương 25 độ, phân làm ngày và đêm, cho nên khi khí vận hành đến Dương phận thì thức, vận hành đến Âm thì ngủ[5]. Cho nên mới nói: lúc mặt trời giữa trưa là lúc Dương nở rộng ra gọi là trùng Dương, lúc nửa đêm là lúc Âm nở rộng ra, gọi là trùng âm[6]. Cho nên Thái âm chủ bên trong, Thái dương chủ bên ngoài, mỗi bên vận hành 25 độ, phân làm ngày và đêm[7]. Giữa đêm là lúc âm nở rộng rất, sau giữa đêm là lúc Âm bị suy, sáng sớm (bình đán) là lúc Âm tận và cũng là lúc Dương thọ (nhận lấy) khí[8]. Giữa trưa là lúc Dương nở rộng ra, lúc mặt trời về hướng tây là lúc Dương bị suy, mặt trời lặn là lúc Dương tận và cũng là lúc mà Âm nhận lấy khí[9]. Lúc giữa đêm (khí) họp đại hội, lúc đó vạn dân đều nằm (ngủ) gọi là lúc hợp âm[10]. Lúc sáng mai Âm tận và Dương nhận lấy khí[11]. Cứ như thế không bao giờ ngừng, cùng đồng với (cương) kỷ của Thiên Địa vậy[12]. Hoàng Đế hỏi: “Người già thì ban đêm không nhắm mắt (để ngủ), khí gì đã khiến nên như thế ? Những người thiếu niên, tráng niên thì ban ngày không nhắm mắt (để ngủ), khí gì đã khiến nên như thế ?”[13]. Kỳ Bá đáp : “Khí huyết của người tráng thịnh, cơ nhục của họ hoạt, đường khí đạo thông, sự vận hành của khí doanh vệ chưa mất đi lẽ thường của nó, cho nên ban ngày khí được sảng khoái và ban đêm thì mắt nhắm lại được[14]. Người lão thì khí huyết suy, cơ nhục của họ bị khô, đường khí đạo không còn trơn tru, khí của ngũ tạng đánh nhau, doanh khí của họ bị suy thiếu còn vệ khí thì cũng đánh nhau bên trong, cho nên khí của họ ban ngày không sảng khoái còn ban đêm thì mắt không nhắm lại (để ngủ) được”[15]. Hoàng Đế hỏi: “Ta mong được nghe con đường vận hành của khí doanh vệ, nó từ con đường nào đến ?”[16]. Kỳ Bá đáp : “Doanh khí xuất ra từ trung tiêu, vệ khí xuất ra từ hạ tiêu”[17]. Hoàng Đế nói: “Ta mong được nghe chỗ xuất ra của Tam tiêu”[18]. Kỳ Bá đáp : “Thượng tiêu xuất ra ở Thượng khẩu của Vị, cùng đi dọc theo yết để đi lên, xuyên qua hoành cách để bố tán ở giữa ngực, đi qua nách, tuần hành theo vùng của kinh để đi, quay trở lại đến kinh Dương minh, lên trên đến lưỡi, xuống đến kinh túc Dương minh, thường cùng doanh khí đồng hành ở 25 độ dương, ở 25 độ âm, gọi là 1 chu, cho nên, sau 50 độ, chúng trở lại họp đại hội ở kinh thủ thái âm”[19]. Hoàng Đế hỏi: “Có người ăn hoặc uống những thức nóng, vừa xuống đến Vị, khí hãy còn chưa định thì mồ hôi đã ra, hoặc ra ở mặt , hoặc ra ở lưng, hoặc ra ở phân nửa thân người, nó không đi theo con đường của vệ khí để đi ra, tại sao thế ?”[20]. Kỳ Bá đáp : “Đó là vì (người này) bên ngoài bị thương bởi phong, bên trong làm cho tấu lý khai, lông bị chưng, tấu lý bị tiết (mồ hôi), vệ khí theo đó mà chạy ra, cho nên nó không đi theo con đường của mình[21]. Khí này rất hung hãn, nhanh nhẹn, khi thấy có chỗ khai thì chạy theo ra, do đó mà nó không còn đi đúng theo con đường của mình nữa, vì thế nên mới gọi đây là lậu tiết”[22]. Hoàng Đế nói: “Ta mong được nghe chỗ xuất ra của Trung tiêu”[23]. Kỳ Bá đáp : “Trung tiêu cũng cùng đi từ vùng Trung hoãn của Vị, xuất ra ở dưới Thượng tiêu[24]. Đây là nơi thọ nhận cốc khí, nó thải ra chất cặn bã, chưng cất tân dịch, hóa cái tinh vi, lên trên rót vào Phế mạch để rồi hóa thành huyết nhằm phục vụ cho sự sống thân thể, thật không có gì qúy hơn nơi đây[25]. Cho nên chỉ có nó là có thể vận hành trong kinh toại, mệnh danh là doanh khí”[26]. Hoàng Đế hỏi: “Ôi ! Huyết và khí , tuy tên khác nhau, nhưng cùng loại với nhau, nói thế có nghĩa là gì ?”[26]. Kỳ Bá đáp : “Doanh vệ là tinh khí, Huyết là thần khí, cho nên huyết và khí tuy tên gọi khác nhau, nhưng cùng loại nhau[27]. Cho nên, nếu đoạt huyết thì không nên đoạt hoạt, nếu đoạt hoạt thì không nên đoạt huyết[28]. Cho nên khi con người bị (đoạt) cả hai thì chết, nếu không bị đoạt cả hai (còn có hy vọng) sống”[29]. Hoàng Đế nói: “Ta mong được nghe về nơi xuất ra của hạ tiêu” [30]. Kỳ Bá đáp : “Hạ tiêu, sau khi biệt hồi trường, rót vào bàng quang bằng cách thấm dần vào, cho nên thủy cốc thường cùng ở trong Vị, khi thành chất bã thì đều xuống ở Đại trường và thành Hạ tiêu, nó thấm dần xuống, phân biệt thanh trọc, tuần hành theo Hạ tiêu để thấm vào Bàng quang”[31]. Hoàng Đế hỏi: “Con người khi uống rượu vào, rượu cũng nhập vào Vị, cốc của nó chưa kịp nát ra thì tiểu tiện đã riêng chảy xuống dưới rồi, tại sao thế ?”[32]. Kỳ Bá đáp: “Rượu là chất dịch của thực cốc, khí của nó hung hãn mà nhanh nhẹn, cho nên mặc dù nó vào sau thủy cốc mà nó lại thành chất dịch để ra trước thủy cốc”[33]. 营卫生会第十八 黄帝问于岐伯曰:人焉受气?阴阳焉会?何气为营?何气为卫?营安从生?卫于焉会?老壮不同气,阴阳异位,愿闻其会。岐伯答曰:人受气于谷,谷人于胃,以传 与脑,五成六府,皆以受气,其清者为营,浊者为卫,营在脉中,卫在脉外,营周不休,五十而复大会,阴阳相贯,如环无端。卫气行于明二十五度,行于阳二十五 度,分为昼夜,放气至阳而起,至阴而止。放日:日中而阳陇为重阳,夜半而阻陇为重阴。故太阳主内,太阳主外,各行二十五度,分为昼夜。夜半为阴陇,夜半后 而为阴衰,平旦阴尽而阳受气矣。日中为阳陇,日西而阳衰,日入阳尽而阴受气矣。夜142半而大会,万民皆卧,命回合阻,平旦阴尽而阳受气,如是无已,与天 地同纪。黄帝日:老人之不夜瞑者,何气使然?少壮之人不昼瞑①者,何气使然?岐伯答曰:壮者之气血盛,其肌肉滑,气道通,荣卫之行,不失其常,故昼精而夜 瞑。老者之气血衰,其肌肉枯,气道渡,五藏之气相搏,其营气衰少而卫气内代,故昼不精,夜不瞑。黄帝曰:愿闻营卫之所行,皆何道从来?妨伯答曰:营出于中 焦,卫出于下焦。黄帝日:愿闻三焦之所出。岐伯答曰:上焦出于胃上口,并咽以上贵嗝而布胸中,走腋,循太阴之分而行,还至阳明,上至舌,不足阳明,常与营 惧行于阳二十五度,行于_阴亦二十五度一周也,故五十度而复大会于手太阳矣。黄帝曰:人有热,饮食了胃,其气未定,汗则出,或出于面,或出于背,或出于身 半,其不循卫气之道而出何也?岐伯曰:此外伤于风,内开膀理,毛蒸理泄,卫气走之,固不得循其道,此气除悍滑疾,见开而出,故不得从其道,故命回漏泄。。 黄帝曰:愿闻中焦之所出。岐伯答曰:中焦亦并胃中,出上焦之后,此所受气者,泌糟粕,蒸津液,化其精微,上注于肺脉,乃化而为血,以奉生身,英贵于此,故 独得行于经隧,命日营气。黄帝曰:夫血之与气,异名同类,何谓也?岐伯答曰:营卫者精气也,血者神气也,故血之与气,异名同类焉。故夺血者无汗,夺汗者无 血,故人生有两死而无两生。黄帝曰:愿闻下焦之所出。妨伯答曰:下焦者,别回肠,注于膀忧而渗入焉。放水谷者,常并居于胃中,成糟粕,而俱下于大肠,而成 下焦,渗而俱下,济泌别对,循下焦而渗入膀优焉。黄帝曰:人饮酒,酒办入胃,谷末熟而小便独先下何也?岐伯答曰:酒者熟谷之液也,其气悍以清,故后谷而 入,先谷而液出焉。黄帝日:善。余闻上焦如雾,中焦如沤,下焦如读,此之谓也。
  17. Truyện Rùa Vàng Vua An Dương Vương nước Âu Lạc là người Ba Thục, họ Thục tên Phán. Tổ tiên ngày trước cầu hôn lấy Mỵ Nương là con gái vua Hùng Vương, nhưng Hùng Vương không gả, nên đem lòng oán giận. Phán muốn hoàn thành chí người trước, cử binh đi đánh Hùng Vương, diệt nước Văn Lang, đổi tên nước thành Âu Lạc, rồi lên làm vua. Di tích thành Cổ Loa Xây thành ở đất Việt Thường, nhưng hễ đắp tới đâu lại lở tới đấy, vua bèn lập đàn trai giới, cầu đảo. Ngày mồng 7 tháng 3, bỗng thấy một cụ già từ phương tây tới trước cửa thành, than rằng: “Xây dựng thành này biết bao giờ mới xong được!”. Vua đón vào trong điện, vái và hỏi rằng: “Ta đắp thành này đã nhiều lần nhưng cứ bị sập đổ, tốn nhiều công sức mà không thành, thế là cớ làm sao?”. Cụ già đáp: “Sẽ có sứ Thanh Giang tới, cùng nhà vua xây dựng mới thành công”, nói xong từ biệt ra về (1). Hôm sau vua ra cửa đông chờ đợi, chợt thấy một con rùa vàng từ phương đông lại, nổi trên mặt nước, nói được tiếng người, tự xưng là sứ Thanh Giang, thông tỏ việc trời đất, âm dương, quỷ thần. Vua mừng rỡ nói: “Điều đó chính cụ già đã báo cho ta biết trước”. Bèn rước vào trong thành, mời ngồi trên điện, hỏi việc vì sao xây thành không được. Rùa vàng đáp: “Cái tinh khí ở núi này là con vua đời trước, muốn báo thù cho nước. Lại có con gà trắng sống lâu ngàn năm, hóa thành yêu tinh ẩn ở núi Thất Diệu. Trong núi có ma, đó là hồn người nhạc công triều trước chôn ở đây. Ở bên cạnh, có một quán trọ cho khách vãng lai, chủ quán tên là Ngộ Không, có một người con gái và một con gà trắng, vốn là dư khí của quỉ tinh, phàm có khách qua đường nghỉ đêm ở quán, thì quỉ tinh lại biến hóa muôn hình vạn trạng, làm hại người chết rất nhiều. Nay giết được con gà trống trắng và con gái chủ quán ấy thì trấn áp được quỉ tinh. Quỉ tinh sẽ hóa ra lá thư yêu tinh, cho con chim cú ngậm bay đậu lên trên cây chiên đàn, tâu cùng thượng đế để xin phá thành. Thần sẽ cắn rơi lá thư, nhà vua tức tốc nhặt lấy, thì thành sẽ xây được”. Rùa vàng bảo vua giả làm kẻ đi đường, nghỉ ở quán trọ này, và để rùa vàng ở phía trên khung cửa. Ngộ Không nói: “Quán này có yêu tinh, đêm thường giết người. Hôm nay trời chưa tối, xin ngài mau đi chỗ khác, chớ nghỉ lại kẻo rước hoạ vào thân”. Vua cười, nói: “Người sống chết có mạng, ma quỷ làm gì được, ta không sợ”. Bèn cứ nghỉ lại. Đến đêm, quỉ ở ngoài vào, thét lớn: “Kẻ nào ở đây, sao chẳng mau mở cửa?” Rùa vàng hét lớn: “Cứ đóng cửa thì mày làm gì?”. Quỉ phóng hỏa, biến hóa thiên hình vạn trạng, quỷ quái trăm đường để hòng dọa nạt, sau cùng cũng chẳng nổi. Đến lúc gà gáy sáng, quỷ tinh bỏ chạy. Rùa vàng cùng vua đuổi theo, tới núi Thất Diệu, quỉ tinh thu hình biến mất. Vua bèn quay về quán trọ. Sáng hôm sau, chủ quán sai người đến định lượm xác khách trọ để chôn, thấy vua vẫn ngồi cười nói như thường (2), bèn chạy tới lạy mà nói rằng: “Ngài vẫn được bình an được như thế này, tất là thánh nhân, vậy xin ban thuốc thần để cứu sinh dân”. Vua nói: “Nhà ngươi giết con gà trắng mà tế thần, quỉ tinh sẽ tan hết”. Ngộ Không y lời, đem gà trắng ra giết, người con gái lập tức quay ra chết. Vua liền sai đào núi Thất Diệu, lấy được nhiều nhạc khí cổ và xương cốt, đốt tan thành tro đem đổ xuống dòng sông. Trời gần tối, vua và rùa vàng leo lên núi Việt Thường thấy quỉ tinh đã biến thành con chim cú, ngậm lá thư bay lên cây chiên đàn. Rùa vàng liền biến thành con chuột theo sau, cắn vào chân cú, lá thư rơi xuống đất, vua vội nhặt lấy, lá thư đã bị nhấm rách quá nửa. Từ đó quỉ tinh bị diệt, không thể tác quái được nữa. Thành xây nửa tháng thì xong. Thành đó rộng hơn ngàn trượng, xoắn như hình trôn ốc, cho nên gọi là Loa Thành, còn gọi là Quỉ Long thành, người đời Đường gọi là Sát Quỉ Côn Lôn thành, vì cho rằng thành ấy cao lắm. Rùa vàng ở lại ba năm, rồi từ biệt ra về (3). Vua cảm tạ nói: “Nhờ ơn của thần, thành đã xây được. Nay nếu có giặc đến quấy rối thì lấy gì mà chống?”. Rùa vàng đáp: “Vận nước suy thịnh, xã tắc an nguy đều do mệnh trời, vua có thể tu đức mà kéo dài thời vận, nhà vua có lòng mong muốn thì ta có tiếc chi”. Bèn tháo vuốt đưa cho nhà vua nói rằng: “Đem vật này làm nỏ, nhắm quân giặc mà bắn thì sẽ không lo gì nữa”. Dứt lời thì quay trở về biển đông, nhà vua đích thân đưa tiễn. Vua liền sai bề tôi là Cao Lỗ làm nỏ, lấy vuốt rùa làm lẫy nỏ, gọi là nỏ thần Linh Quang Kim Quá (Vuốt vàng linh thiêng sáng rực). Về sau Triệu Đà cử binh xâm đánh phương Nam, giao chiến với vua. Vua lấy nỏ thần ra bắn, quân Đà thua lớn, chạy về núi Trâu (Trâu Sơn) cầm cự. Đà biết nhà vua có nỏ thần không dám đối chiến, bèn xin hòa. Vua cả mừng, chia phía bắc sông Tiểu Giang cho Triệu Đà cai trị, phía nam thì thuộc nhà vua (nay thuộc sông Nguyệt Đức). Không bao lâu Đà cho con trai là Trọng Thuỷ sang làm quan Túc Vệ và cầu hôn với Mỵ Châu, là con gái của nhà vua. Vua không rõ kế lược gian manh của cha con Triệu Đà nên gả Mị Châu cho Trọng Thủy. Trọng Thủy dụ dỗ Mỵ Châu cho xem trộm nỏ thần rồi ngầm làm cái lẫy nỏ khác thay vuốt rùa vàng thay vào. Xong rồi Thủy nói dối với Mỵ Châu xin về phương bắc thăm cha. Trước khi đi, Thủy nói rằng: “Tình vợ chồng không thể quên được, nghĩa mẹ cha không thể dứt bỏ. Tôi nay trở về thăm cha, nếu như đến lúc hai nước bất hòa, bắc nam cách biệt, lấy gì làm dấu để tôi tìm được nàng?”. Mỵ Châu nói rằng: “Thiếp phận nữ nhi, nếu gặp cảnh biệt ly, chắc là khổ đau khôn xiết, thiếp có áo gấm lông ngỗng thường mặc trên mình, đi đến đâu sẽ nhổ lông ngỗng trên áo rắc xuống ở ngã ba đường để làm dấu, như vậy sẽ có thể cứu được nhau”. Trọng Thủy mang lẫy nỏ thần về nước (4). Đà được lẫy nỏ cả mừng, liền đem quân sang đánh. Vua cậy có nỏ thần, không phòng ngừa, vẫn điềm nhiên đánh cờ, cười mà nói rằng: “Đà không sợ nỏ thần hay sao?”. Quân Đà tiến sát, vua cầm lấy nỏ, thấy lẫy thần đã hư, thua chạy. Vua đặt Mỵ Châu ngồi sau ngựa rồi chạy về phương Nam. Trọng Thủy nhận dấu đuổi theo dấu lông ngỗng. Vua chạy tới bờ bể, đường cùng, không có thuyền qua sông, bèn than rằng: “Trời hại ta ư, sứ Thanh Giang đâu, mau mau lại cứu ta”. Rùa vàng hiện lên mặt nước, hét lớn: “Kẻ ngồi sau ngựa chính là giặc đó!, giết đi thì ta mới cứu nhà ngươi”. Vua bèn tuốt kiếm chém chết Mỵ Châu. Mỵ Châu trước khi chết, ngưỡng mặt khấn rằng: “Thiếp là phận gái, nếu có lòng phản nghịch mưu hại cha, chết đi sẽ biến thành hạt bụi. Nếu một lòng trung hiếu, bị người lừa dối thì chết đi biến thành châu ngọc để tẩy sạch mối nhục thù”. Đền thờ An Dương Vương Mỵ Châu chết ở bên bờ biển, máu chảy xuống nước, trai sò ăn phải đều biến thành hạt châu. Vua cầm sừng tê bảy tấc, Rùa vàng rẽ nước dẫn vua đi xuống biển. Đời truyền rằng nơi đó là đất huyện Dạ Sơn, xã Cao Xá, phủ Diễn Châu. Quân Đà kéo tới đấy không thấy bóng vết gì, chỉ còn lại xác Mỵ Châu. Trọng Thủy ôm xác vợ đem về Loa Thành, xác biến thành ngọc thạch. Trọng Thủy thương tiếc khôn cùng, khi đi tắm tưởng như thấy bóng dáng Mỵ Châu, bèn lao đầu xuống giếng mà chết. Người đời sau mò ngọc ở biển đông lấy nước giếng này mà rửa thì thấy càng trong sáng. Người đời kiêng tên Mỵ Châu nên gọi ngọc minh châu là đại cữu và tiểu cữu (4). Chú thích: 1) Bản A 2914 chép rằng: “Cụ già bỗng bay lên trời”. 2) Bản A 2914 chép thêm rằng : “Vua nói với chủ quán rằng: Ta là An Dương Vương đến đây để diệt yêu tinh cứu giúp sinh linh” 3) Bản A 2914 chép: “Rồi trở về hồ Động Đình” 4) Cữu 玖 là tên 1 loại ngọc . Bình: • Truyện này có hai phần rõ ràng: Phần đầu là thuật bình định một quốc gia vừa chiếm đóng. Phần sau là câu truyện Mỵ Châu – Trọng Thủy. • Ông già đến từ phương Tây vào ngày 7 tháng 3. Ông già là biểu tượng của khôn ngoan thông thái. Phương Tây là phương Phật; đất Phật,Tây Trúc (Ấn Độ), ở phía tây Việt Nam. Số 3 là số thiếu dương, mầm sống bắt đầu lên. Số 3 được yêu chuộng trong mọi nền văn minh của con người. Số 7 là số khá thông dụng trong kinh sách Phật. (Xin xem Nguồn gốc của Phật thất, của Thích Chân Tinh.) • Thần Rùa Vàng (Kim Quy) đóng vai quan trọng trong văn hóa Việt Nam, từ truyện rùa Vàng này đến truyện Hồ Hoàn Hiếm với Lê Lợi. Rùa thường là biểu tượng của kiên nhẫn và chắc chắn trong nhiều nền văn hóa trên thế giới. Trong cả văn hóa Việt lẫn văn hóa Trung quốc, rùa là một trong tứ linh: Long, Ly, Quy, Phụng. Nhưng trong nền văn hóa Việt thì Rùa và Rồng là có vẻ trội nhất—Rồng: Long Nữ, Lạc Long Quân, Thăng Long; Rùa: Kim Quy. Đây là hai linh vật có liên hệ đến “nước.” Đây cũng là một nét của “văn hóa nước” mà ta đã nói đến trong truyện Hồng Bàng. Rùa Vàng lại có tên là Thanh Giang, tức Dòng Sông Xanh. Tức là đây không phải là rùa từ biển vào. Có vẻ đây là một liên hệ tế nhị đến gốc “nước ngọt” quê cha—Động Đình Hồ, và rùa ở Hồ Hoàn Kiếm sau này. Rùa Vàng đến từ phương Đông. Đông là hướng mặt trời mọc, là phương khởi động—một bắt đầu mới. Trong phẩm mở đầu của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa , Phật Thích Ca phóng hào quang từ giữa lông mày đến các cõi ở phương Đông trước khi giảng Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. • Hùng vương đời thứ 18 là vị vua bị Thục Phán chinh phạt. 18 là 2 lần 9, hai lần con số đơn lớn nhất—số thái dương. Đây là ý nói thời đại Hùng Vương đã phát triển đến hết mức của nó. Bây giờ phải nhường chỗ cho một triều đại mới. Tức là việc xâm lăng của Thục Phán hợp luật trời. Đó là lý‎ do tại sao thần Kim Quy ủng hộ Thục Phán. • Thục Phán mới xâm chiếm Văn Lang, lòng dân chưa thuận, còn nhiều chống đối nên xây thành không được. • Con vua đời trước (Hùng Vương 18) thành tinh khí trong núi Thất Diệu, muốn báo thù. Giếng Trọng Thủy (Giếng Ngọc) Núi Thất Diệu có thể là biểu tượng của Bắc Đẩu Thất Tinh, là chùm sao Đại Hùng Tinh gồm 7 sao tất cả, trong đó sao Bắc Đẩu là sao chính. Đây có lẽ là ‎ý nói Hùng Vương 18 đặt lòng tin vào các vì tinh tú, trong lúc Thục Phán hợp với nhà Phật (Ngộ Không) hơn. • Ngộ Không là từ của nhà Phật, có nghĩa là đã ngộ được tánh Không của mọi sự, tức là đã giác ngộ. Đây là biểu tượng cho những người hiểu biết—chủ quán là người đã lớn tuổi (là cha của cô gái), làm ăn thành đạt. Đây là loại người ủng hộ chế độ mới mạnh nhất—có kinh nghiệm đời, có kiến thức, hiểu thời thế, có tài sản và thương mãi. • Gà trắng sống lâu ngàn năm là biểu tượng của tầng lớp trí thức sĩ phu chống đối, luôn lên tiếng “gáy” thường xuyên đế hô hào mọi người. • Người con gái là thành phần dân chúng đi theo tiếng gọi của đám sĩ phu chống đối này. Con gái là biểu tượng của những người nhiều cảm tính, còn “trẻ người non dạ.” Con gà trắng chết là cô con gái chết theo, nghĩa là đám sĩ phu chống đối mà mất thì đám dân nhẹ dạ nghe theo cũng mất. • Nhạc khí cổ và hồn nhạc công là biểu tượng cho nền văn học nghệ thuật cũ. Phải diệt văn học nghệ thuật cũ thì mới bình định được đất mới. • Chim cú ngậm lá thư bay lên cây chiên đàn để tâu cùng thượng đế xin phá thành là biểu tượng của các nhóm chống đối tìm trợ lực ở nước ngoài. Phải chặn đường tiếp xúc với bên ngoài của họ. Một câu hỏi đặt ra ở đây là nếu thượng đế có thể nghe theo lời của chim cú để phá thành Thục Phán đang xây, như vậy không phải là lo sợ Thượng đế không ủng hộ Thục Phán sao? Nếu Thục Phán có chính nghĩa, thì việc gì phải sợ thượng đế nghe lời dèm pha? • Xem ra có vẻ như Hùng Vương 18 không tốt, mất chính nghĩa, và lúc đầu Thục Phán có vẻ như được lòng trời và lòng dân để xâm chiếm Văn Lang. Nhưng chiếm xong rồi vẫn gặp chống đối. Và thần Rùa Vàng cố vấn cho một kế sách bình định rất sắt máu. Thành công được một tí. Nhưng có phải chính vì cai trị sắt máu thế mà Thục Phán mất chính nghĩa, chỉ làm vua được một thời gian ngắn là mất nước? Xem ra thần Rùa Vàng cũng có cái nhìn không được xa? • Về móng Rùa Vang làm lẫy nỏ, không biết đây có phải là một ký‎ ức về nỏ liên hoàn không. Nỏ đã được sử dụng ở Trung quốc và các bộ tộc ở Đông Nam Á khoảng thế kỷ thứ 5, thứ 6 trước công nguyên. Khảo cổ cho thấy nỏ liên hoàn , bắn một loạt các mũi tên rất nhanh, xuất hiện tại Hồ Bắc (phía bắc Động Đình Hồ) khoảng thế kỷ thứ 4 trước công nguyên. Thục Phán sống vào thế kỹ thứ 2 trước công nguyên, cho nên rất có thể là Thục Phán có kiến thức về nỏ liên hoàn, và đây là bí quyết chiến thắng của Thục Phán. • Mỵ Châu xem ra là người con duy nhất có mặt trong truyện. Chẳng lẽ Thục Phán chỉ có một người con gái vào thời đại vua có biết bao là cung tần mỹ nữ. Hay đây là ký‎ ức của sức mạnh mẫu hệ–chỉ có một cô công chúa nắm giữ bí mật quốc phòng? • Trọng Thủy xem ra rất gian manh, giả làm đám cưới chỉ để hại người. Tội lỗi tầy đình. Thế tại sao dân Việt chẳng bao giờ lên án, lại yêu quý Trọng Thuỷ đến thế? Thưa, tại vì Trọng Thủy làm tròn bổn phận làm con, làm dân—trung với quốc gia, hiếu với bố. Gian manh cũng chỉ vì quốc gia của chàng và bố của chàng. Nếu vì bố và tổ quốc mà chống vợ thì cũng là chuyện có thể thông cảm được. Hơn nữa, Trọng Thủy đã trả tội phản bội vợ bằng cách chết chung với vợ–vừa đền tội, vừa trọn tình nghĩa. Rất đúng với tên “Trọng Thủy.” Toàn vẹn mọi bề. • Mỵ Châu thực ra là nạn nhân, bị lừa lọc. Nhưng không được thương xót, lại bị chém đầu. Tội không giữ kín bí mật quốc phòng, hại cha, hại nước, không thể dung tha. Ngu và cả tin không phải là lý do để được tha tội. Ở đây ta lại thấy một lần nữa, Rùa Vàng có chính sách rất sắt máu, chẳng vị tình. Phải chăng chính quân sư như thế làm Thục Phán mất nước? • Lông ngỗng đưa đường. Ngỗng là chim, và chim là vật tổ của dân Việt (như hình khắc trên trông đồng Ngọc Lữ). Chim còn là biểu tượng cho mẹ–Âu Cơ là tiên. Tiên và chim rất gần gũi. Lông ngỗng đưa đường là lối đi của mẹ, lối đi của tình cảm và yêu ái, gạt ra ngoài mọi quy luật và phân cách chính trị. Trong cơn bão loạn, thì tìm nhau bằng “đường mẹ,” đường của tình yêu, vượt trên mọi chia cách. • Rùa Vàng rất khắt khe với Mỵ Châu, nhưng xem ra trời không đồng ý với Rùa Vàng—cho Mỵ Châu trở thành những viên ngọc trai lóng lánh nghìn đời. Và dân Việt đồng ‎ý với trời, xem Trọng Thủy Mỹ Châu như là thiên tình sử bất tử về tình yêu, đạo vợ chồng, đạo hiếu nghĩa, trung quân, và ái quốc. (Trần Đình Hoành bình)
  18. NGHỊCH LÝ TRỤC QUỶ MÔN, BÍ ẨN THIÊN MÔN ĐỊA HỘ VÀ SỰ HOÀN CHỈNH CỦA HẬU THIÊN LẠC VIỆT PHỐI HÀ ĐỒ Thiên Đồng - Bùi Anh Tuấn Trung tâm Nghiên cứu Lý học Đông Phương. Tiêu chí khoa học hiện đại quyết định rằng “Một giả thuyết khoa học được coi là đúng, nếu nó giải thích hợp lý hầu hết những vấn đề liên quan đến nó một cách nhât quán, hoàn chỉnh, có tính khách quan, tính quy luật và có khả năng tiên tri.” Trong những tri thức liên quan đến phương pháp của học thuật cổ Đông phương, cụ thể là phương pháp Bát trạch trong phong thủy, tồn tại những khái niệm bất biến như Thiên Môn, Địa Hộ, Quỷ Môn, Nhân Môn, Nam Quỷ Môn, Nữ Quỷ Môn…nhưng đi kèm với những định danh này thì không có sự tương hợp, tương xứng cho từng định vị hay sự tương thích trong cùng mối liên hệ để tạo nên sự nhất quán cho một hệ thống lý thuyết mang tính hoàn chỉnh. Do vậy, điều nghịch lý tồn tại hằng ngàn năm được mặc khải như một chân lý cần được giải linh, khơi sáng nỗi tồn nghi. 1. NGHỊCH LÝ TRỤC QUỶ MÔN VÀ BÍ ẨN THIÊN MÔN - ĐỊA HỘ: Sách Phong Thủy Toàn Thư, tác giả Thiệu Vĩ Hoa, nhà xuất bản Thời Đại ấn hành năm 2009, trang 128, hướng dẫn về cách xem tướng nhà và phương vị nhà cửa, có tái hiện phương vị la bàn bằng đồ hình như sau: Trang 176, sách cùng tựa, có đoạn như sau: Cuốn Phong Thủy Toàn thư của Thiệu Vĩ Hoa. Nxb Thời Đại 2009. Đây là lời giải thích trong sách của tác giả Thiệu Vĩ Hoa cho việc xác định đường Tứ ngung, đường Trung tâm, đường Quỷ môn. Người viết một lần nữa ghi nhận rõ hơn rằng: Đường trung tâm, có hai đường, được xác định trên la bàn, là đường kéo dài từ 0 độ qua tâm đến 180 độ và đường kéo dài từ 90 độ qua tâm đến 270 độ. Người viết gọi là Trục trung tâm. Đường tứ ngung, nghĩa là đường bốn góc, có hai đường, được xác định trên la bàn, là đường kéo dài từ 45 độ qua tâm đến 225 độ và đường kéo dài từ 315 độ qua tâm đến 135 độ. Người viết gọi là Trục tứ ngung. Trong đó, đường Quỷ môn là đường kéo dài từ 45 độ qua tâm đến 225 độ, người viết gọi là Trục Quỷ môn. Xin xem hình sau: Cũng sách Phong Thủy Toàn Thư, tác giả Thiệu Vĩ Hoa, trang 33, 34 có đoạn giải nghĩa như sau: Từ những chú giải trên, trích từ sách, một tư liệu còn ghi lại từ cổ thư chữ Hán mà chính tác giả Thiệu Vĩ Hoa đã trưng ra và dẫn giải, người viết vẽ lại đồ hình tổng hợp sau: Dễ dàng nhận thấy rằng hai đường trung tâm (Trục trung tâm) vuông góc của bốn phương vuông góc là Nam – Bắc và Đông – Tây, còn lại là hai đường tứ ngung (Trục tứ ngung), nghĩa là đường bốn góc, như cái tên của nó, vuông góc nhau ở bốn phương góc Tây Bắc – Đông Nam và Đông Bắc – Tây Nam. Từ đây, đều nghịch lý và những bí ẩn được trưng như từng được chấp nhận như một lẽ đương nhiên trên bát quái Hậu Thiên cổ thư, thường gọi là bát quái Hậu thiên Văn Vương. Phương Cấn – Đông Bắc gọi là Quỷ môn với danh cụ thể là Nam quỷ môn chứng tỏ được sự đồng nhất giữa danh và quái khí là Nam quỷ môn với quái Cấn là tượng thứ nam trong nghĩa về tượng quái của 8 quái dịch. Nhưng ngược lại, phương Tây Nam có chủ quái là Khôn lại không đồng danh vị với danh Nữ quỷ môn. Bởi lẽ, hai định danh Nam quỷ môn và Nữ quỷ môn đã thể hiện sự đối lập, đối xứng cân bằng trong mối tương quan đối xứng trên bát quái, nhưng về quái khí thì hoàn toàn không có tính đối xứng, cân bằng âm dương và không mang tính đối lập đồng đẳng. Quái Cấn tượng là thiếu nam, trai út hợp với định danh Nam quỷ môn, nhưng không đồng đẳng hay đối xứng âm dương với quái khí Khôn tượng là mẹ, đàn bà, bà lão, là lão âm và chính quái Khôn cũng không thể tương hợp với định danh Nữ quỷ môn. Lẽ ra phải gọi là Lão quỷ môn thì mới hợp với danh và quái. Nhưng như thế cũng không đồng đẳng với mối tương quan so sánh giữa hai phương Đông Bắc và Tây Nam, tức giữa Cấn và Khôn, tức giữa lão bà và con trai út (con nít!). CẤN - Thiếu Nam KHÔN - Lão Bà Vì thế, dĩ nhiên là không có sự đối xứng âm dương, cân bằng âm dương thể hiện qua từng hào của quái, nghĩa là đối lập âm dương giữa các hào sơ, hào trung, hào thượng giữa hai quái Cấn - Khôn hoàn toàn không có thể hiện để tạo sự đối lập, đối xứng nào. Xin xem hình. Cũng như vậy, phương Càn – Tây Bắc gọi là Thiên môn có sự đồng nhất giữa danh và quái khí là Càn, tượng là trời là cha là lão ông trong nghĩa về tượng quái của 8 quái dịch. Nhưng ngược lại, phương Đông Nam có chủ quái là Tốn lại không đồng danh vị với danh Địa hộ. Hai định danh Thiên môn và Địa hộ trong mối quan hệ đồng trục, thể hiện sự đối lập, đối xứng cân bằng trong mối tương quan đối xứng trên bát quái, nhưng về quái khí thì hoàn toàn không có tính đối xứng, cân bằng âm dương và không mang tính đối lập đồng đẳng. Bởi, quái Càn tượng là trời với định danh Thiên môn (cửa trời), nhưng không đồng đẳng hay đối xứng âm dương với quái khí Tốn tượng trưởng nữ, người con gái cả và ngay cả chính quái Tốn cũng không thể tương hợp với định danh Địa hộ.Như thế, có việc không đồng đẳng với mối tương quan so sánh giữa hai phương Tây Bắc và Đông Nam, tức giữa Càn và Tốn, tức giữa lão ông và con gái cả, giữa trời và gió! CÀN - Lão Ông TỐN - Trưởng Nữ Do vậy mà cũng không có sự đối xứng âm dương, cân bằng âm dương thể hiện qua từng hào của quái, nghĩa là đối lập âm dương giữa các hào sơ, hào trung, hào thượng giữa hai quái Càn – Tốn hoàn toàn không có thể hiện để tạo sự đối lập, đối xứng nào. Xin xem hình. Tuy vậy, ở hai trục trung tâm thì sự đối lập đối xứng âm dương giữa tượng quái Khảm – Ly, Chấn – Đoài thể hiện một mối tương quan hài hòa cân đối giữa 2 phương đối lập, cùng trục, thể hiện một quy luật rỏ ràng. Tuy nhiên, xét trên tổng thể 8 quái, mối tương quan của từng cặp về quái khí và danh tính của phương vị thì tổng thể bát quái Hậu thiên cổ thư không thể hiện được tính nhất quán trong quy luật, do vậy mà sự bất hợp lý cũng như bí ẩn về hai cặp phạm trù đối lập Thiên môn và Địa hộ, Nam quỷ môn và Nữ quỷ môn vẫn tồn tại một cách khó hiểu. Tính thiếu nhất quán còn thể hiện ngay trong quy luật tương phối quái khí thể hiện trong phương pháp Bát trạch và Dương trạch tam yếu về phần Phiên tinh phối quái. Phương pháp Bát trạch cổ thư, một phần ứng dụng của khoa Phong thủy, xác định phi cung mệnh chủ của con người được chia thành hai phe, phe Đông trạch và phe Tây trạch. Đông trạch gồm bốn phương tốt là Bắc, Nam, Đông và Đông Nam tương ứng quái khí Khảm, Ly, Chấn, Tốn, ngược lại Tây Bắc, Tây Nam, Đông Bắc và Tây tương ứng với quái khí Càn, Khôn, Cấn, Đoài thuộc Tây trạch. Theo đó người mệnh cung Ly nhà hướng Khảm hay ngược lại người cung mệnh là Khảm nhà hướng Ly thì đều phương Phúc đức. Cũng tương tự như vậy, theo phương pháp Phiên tinh phối quái thì nhà hướng Ly, sơn hậu là Khảm hay ngược nhà hướng Khảm mà sơn hậu là Ly thì theo nguyên tắc lấy sơn phối hướng đều được Phúc Đức, gọi là Phúc Đức trạch. Như vậy, đều đương nhiên trên bát quái 8 phương tồn tại một trục tốt nhất của phe Đông trạch gọi là trục Phúc Đức. Điều này dễ nhận biết ngay trên bát quái với trục Bắc - Nam, chính trục từ 0 độ đến 180 độ, gọi là trục trung tâm, tức trục Khảm – Ly, tức là Phúc Đức trạch hay gọi là trục Phúc đức, bởi Phúc đức là phương vị tốt nhất đứng đầu trong các phương còn lại là Thiên Y, Sinh Khí, Phục Vị, Ngũ Quỷ, Lục Sát và Tuyệt Mạng, cho nên một trục chính với hai quái tượng đối xứng, đối lập âm dương, tương quan đồng đẳng về hình tượng Trung nam đối Trung nữ, tạo một trục đồng khí Đông trạch, đương nhiên gọi là trục Phúc Đức. Bát quái cổ thư do vậy vẫn thể hiện được một trục Phúc Đức với đường trung tâm, của phe Đông trạch. Tuy vậy, ở phe Tây trạch, chính ở tương quan Tây trạch xuất hiện sự bất nhất, bất hợp lý được hiển hiện ngay trên đồ hình tám cung quái. Trục Đông Bắc – Tây Nam với hai quái Cấn – Khôn là trục Quỷ môn với định danh nam quỷ môn và Nữ quỷ môn, tuy vậy theo phương pháp Bát trạch của cổ thư, mệnh cung Khôn nhà hướng Cấn hay mệnh cung Cấn mà nhà hướng Khôn thì đều được Sinh Khí. Vẫn như vậy, nếu hướng nhà là Cấn, sơn hậu là Khôn hoặc là nếu hướng nhà là Khôn mà sơn hậu là Cấn thì theo nguyên tắc lấy sơn phối hướng thì đều đước Sinh Khí, gọi là Sinh Khí trạch hay là trục Sinh Khí. Rỏ ràng, có sự không đồng nhất giữa định danh phương trục và tính chất của phương vị, cung quái của hai phương Cấn – Tốn này, bởi gọi là trục Quỷ môn nhưng khi xét tính chất phối quái hai phương đồng trục thì lại được trục Sinh Khí, tính bất nhất là ngay ở điểm này. Đồng một lý như vậy với trục tứ ngung, trục Thiên – Địa, Càn – Tốn; nếu nhà hướng Càn, mệnh cung Tốn hoặc dã, nhà hướng Tốn mà mệnh cung Càn thì đều được phương Họa Hại; cũng như vậy với phối quái phiên tinh, nếu hướng là Càn, sơn hậu là Tốn hay hướng là Tốn mà sơn hậu Càn thì đều được Họa Hại, gọi là trục Họa Hại hay Họa Hại trạch. Từ những điểm trên, xét một cách tổng quát về phân bố trạch quái của bát quái Hậu thiên cổ thư dễ thấy rằng: Với hai trục trung tâm, hay gọi là đường trung tâm thì tương quan quan ngũ hành giữa hai phương đối xứng đồng trục là tương khắc Thủy (Khảm) – Hỏa (Ly) và Kim (Đoài) – Mộc (Chấn) theo tính chất hành quái, nghĩa là theo lý tương khắc của ngũ hành thuộc hành quái. Với trục tứ ngung là Thiên – Địa, Càn – Tốn thì với tính chất hành quái của Càn là kim đới thủy đối xứng với Tốn thuộc hành quái Mộc, theo cổ thư, thì tính chất tương quan đồng trục giữa hai phương Càn – Tốn là tương sinh về ngũ hành. Trong khi đó, với trục Quỷ môn Đông Bắc và Tây Nam, Cấn đối Khôn thì tương quan của ngũ hành là tương hòa với Cấn và Khôn đều thuộc hành thổ theo cổ thư. Như vậy, ở bốn trục cho tám phương thì quan hệ ngũ hành đồng trục về tương khắc biểu hiện hai lần, về ngũ hành tương sinh đồng trục biểu hiện một lần và tương hòa thì biểu hiện một lần, xét một cách tổng thể thì ngay ở điểm này, các trục quái của Hậu thiên cổ thư không thể hiện một tính quy luật và nhất quán trong cách bố trí cung quái và phương trục, bởi tính chất ngũ hành tạp loạn. Hơn nữa, với cái nhìn tổng quan, trạch Phục Đức là trạch tốt nhất trong điều kiện Bát trạch và Dương trạch thì theo đồ hình tổng thể trên thấy rằng chỉ có phe Đông trạch mới có Phúc đức trạch hay trục Phúc Đức, ngược lại phe Tây trạch chỉ có Sinh Khí trạch hay trục Sinh Khí. Do vậy đây cũng chính là sự biểu hiện tính không đồng đẳng, tính mất cân xứng và tính bất cân bằng trong quy luật Âm Dương. Từ những phân tích trên về hai cặp khái niệm Thiên - Địa, Nam quỷ môn và Nữ quỷ môn với tính chất bất tương hợp và không nhất quán của nó về định danh và quái khí cho thấy một sự nghịch lý hay một bí ẩn trong quy luật sắp xếp của tám quái cần phải được chỉnh lý hay hiệu chỉnh để trở về với một trật tự hoàn hảo và nhất quán của bát quái. Bởi vậy, bát quái Hậu thiên cổ thư không thể là một nguyên lý hoàn chỉnh mà ngược bộc lộ những căn cứ mơ hồ, bất nhất đầy tồn nghi.
  19. (tiếp theo) 2. SỰ HOÀN CHỈNH CỦA HẬU THIÊN LẠC VIỆT PHỐI HÀ ĐỒ Trên cơ sở phân tích những bất hợp lý về hai trục Thiên Địa và Quỷ Môn từ đồ hình và tư liệu ghi lại từ cổ thư chữ hán, được dịch ra chữ Quốc ngữ ngày nay, người viết đi tìm một sự hợp lý cho những vấn đề tồn nghi. Và, người viết nhận thấy rằng những bí ấn, nghịch lý và tồn nghi được giải trừ, thay vào đó bằng sự lý giải hoàn toàn hoàn chỉnh trên cơ sở Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ, một nguyên lý được hiệu chỉnh dựa trên các cơ văn hóa phi vật thể thuộc nền văn hiến Việt có bề dày lịch sử 5000 năm huyền vĩ, nguyên lý ấy được giải thích và công bố trong các tác phẩm “ Tìm về cội nguồn Kinh Dịch”, “Hà Đồ trong văn minh Lạc Việt”, “Tính minh triết trong tranh dân gian Việt Nam”(*)…tác giả công trình nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh. Với sự phục hồi hệ thống lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành, nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh đã công bố một nguyên lý lý thuyết được hiệu chỉnh và phục hồi, từ những mật ngữ tồn tại trong văn hóa phi vật thể của Việt tộc, đó là nguyên lý căn để Hậu thiên Lạc Việt phối Hà đồ. Theo tiêu chí khoa học hiện đại quyết định rằng: “Một giả thuyết khoa học được coi là đúng, nếu nó giải thích hợp lý hầu hết những vấn đề liên quan đến nó một cách nhât quán, hoàn chỉnh, có tính hệ thống, tính khách quan, tính quy luật và có khả năng tiên tri.”. Nguyên lý lý thuyết căn để Hậu thiên Lạc Việt phối Hà đồ chứng tỏ tính nhất quán và hợp lý của nó trong việc giải mã những bí ấn và nghịch lý của khái niệm trục Thiên – Địa và trục Quỷ Môn. Đầu tiên, hãy xem qua đồ hình Hậu thiên Lạc Việt với sự hoán vị hai vị trí Tốn – Khôn, đã được luận giải và chứng minh trong các tác phẩm đã nêu (*), xin miễn chứng minh, cùng với đồ hình Hậu thiên Lạc Việt phối Hà đồ như sau: Hậu thiên Lạc Việt với hoán vị Tốn - Khôn. Hậu thiên Lạc Việt phối Hà đồ. Từ đồ hình Hậu thiên Lạc Việt do nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh phục hồi, người viết họa lại đồ hình với hai trục khái niệm Thiên – Địa và Quỷ Môn như sau: Một sự phân hơp lý có thể nhân ra rằng phương Cấn – Đông Bắc vẫn là Quỷ môn với định danh là Nam quỷ môn có được sự đồng nhất giữa danh và quái khí là Nam quỷ môn với quái Cấn là tượng thứ nam trong nghĩa về tượng quái của 8 quái dịch, đồng thời đối lập, đối xứng cân bằng trong mối tương quan cân đối Âm dương với phương Tây Nam là quái Tốn, đăng đối với danh vị Nữ quỷ môn, bởi quái Cấn tượng là thiếu nam hợp, con trai út với định danh Nam quỷ môn lại đồng đẳng và đối xứng âm dương với quái khí Tốn tượng là trưởng nữ, con gái cả. CẤN - Nam Quỷ Môn TỐN - Nữ Quỷ Môn Tiếp theo, xét cặp khái niệm Thiên Môn - Đại Hộ với căp quái Càn - Khôn trong Hậu thiên Lạc Việt. CÀN - Thiên Môn KHÔN - Địa Hộ Giống như thế, phương Càn – Tây Bắc gọi là Thiên Môn nghĩa là cổng trời đồng nhất giữa danh và quái khí là Càn, tượng là trời là cha là lão ông trong nghĩa về tượng quái của 8 quái dịch môn đăng hậu đối với phương Đông Nam chủ quái là Khôn, được hoán vị hoàn toàn tương hợp với danh vị là Địa Hộ. Hai định danh Thiên Môn và Địa Hộ trong mối quan hệ đồng trục với ngôi nhà mới là Hậu thiên Lạc Việt đã cho thấy rỏ ràng tính đối lập, đối xứng, cân bằng âm dương trong mối tương quan trên bát quái thể hiện chặt chẻ tính đồng đẳng tương quan, bởi quái tượng Càn là trời, là cha, là lão ông với định danh Thiên môn đăng đối với quái khí Khôn tượng là đất, là mẹ, là lão bà hoàn toàn xứng hợp với định danh Địa hộ. Vì vậy tính đồng đẳng, tương quan so sánh được thể hiện ngay và hoàn chỉnh hợp lý với phương trục Thiên Địa mà cổ thư chữ không thể hiện được điều này! Ở phần chi tiết hơn, tính đối xứng, cân bằng âm dương thể hiện rỏ ràng qua từng hào của quái, ở các hào sơ, hào trung, hào thượng giữa hai quái Càn – Khôn. Bản thân ngay tượng quái Càn và Khôn cũng đã thể hiện đối lập âm dương và cũng hiển nhiên cũng là một cặp phạm trù thể hiện tính âm dương. Còn lại, ở hai trục Khảm – Ly, Chấn – Đoài thì không cần phải bàn đến, bởi đã thể hiện đầy đủ tính tương quan cân đối âm dương. Với nguyên lý lý thuyết Hậu thiên Lạc Việt phối Hà đồ, tính nhất quán còn thể hiện ngay trong quy luật tương phối quái khí thể hiện trong phương pháp Bát trạch Lạc Việt và Phiên tinh Lạc Việt. Theo phương pháp Bát trạch Lạc Việt, một phần ứng dụng của khoa Phong thủy Lạc Việt, cũng xác định phi cung mệnh chủ của con người được chia thành hai phe, phe Đông trạch và phe Tây trạch. Nhưng do sự hoán vị Tốn – Khôn nên Đông trạch sẽ gồm bốn phương tốt là Bắc, Nam, Đông và Tây Nam và quái khí không đổi là Khảm, Ly, Chấn, Tốn, ngược lại Tây Bắc, Đông Nam, Đông Bắc và Tây tương ứng với quái khí không đổi là Càn, Khôn, Cấn, Đoài thuộc Tây trạch. Từ đồ hình, vẫn nhận thấy trục Phúc Đức của phe Đông trạch vẫn là trục Khảm – Ly, Bắc – Nam theo phương pháp Bát trạch Lạc Việt và sơn hướng phối quái của phiên tinh Lạc Việt. Chính do sự chuyển đổi Tốn – Khôn, Hậu thiên Lạc Việt cho thấy sự xuất hiện trục Phúc Đức của người Tây trạch, ngay ở trục Thiên – Địa, trục Càn – Khôn, thể hiện một trục đồng tính chất quái khí tốt nhất của người Tây trạch mà Bát quái cổ thư không thể hiện được điều này. Một sự hoàn chỉnh hơp lý khác được mở ra khi quán xét hai trục còn lại trên đồ hình Hậu thiên Lạc Việt. Trục Đông Bắc – Tây Nam với hai quái Cấn – Tốn là trục Quỷ môn với định danh Nam quỷ môn và Nữ quỷ môn, khi được xét theo phương pháp Bát trạch Lạc Việt thì mệnh cung Tốn nhà hướng Cấn hay mệnh cung Cấn mà nhà hướng Tốn thì đều được Tuyệt Mạng và theo phương pháp Phiên tinh Lạc Việt, sơn hướng phối quái sơn hậu Cấn phối Tốn hướng hoặc sơn hậu Tốn phối Cấn hướng đều là Tuyệt Mạng, gọi là Tuyệt Mạng trạch và rỏ ràng đây là trục Tuyệt Mạng. Khái niệm trục Quỷ Môn đến lúc này trở nên thật tương xứng với tính chất nội tại của nó là trục Tuyệt Mạng và như vậy giữa danh và tính đã có sự hợp lý hoàn hảo mà Bát quái cổ thư cho đến thời điểm này vẫn không có thể nào tỏ rỏ tính hợp lý như vậy. Cùng một cách như vậy, trục Đông – Tây , Chấn – Đoài vẫn thể hiện là trục Tuyệt Mạng trên Bát quái Hậu thiên Lạc Việt. Một cách tổng thể nhận xét Hậu thiên Lạc Việt, lúc này phối với Hà đồ về việc phân bố trạch quái sẽ thấy rằng: Với hai trục trung tâm, hay gọi là đường trung tâm thì trục Thủy (Khảm) – Hỏa (Ly) hợp thành trục Phúc Đức vuông góc trục trung tâm Đông – Tây, Chấn – Đoài là trục Tuyệt Mạng thể hiện tính đối lập âm dương giữa một trạch – trục mang tính chất tốt nhất với một trach – trục mang tính chất xấu nhất. Cũng như vậy với trục tứ ngung Thiên – Địa là trục Phúc Đức vuông góc, đối lập với trục trục tứ ngung, là trục Quỷ môn với nội tính là trục Tuyệt Mạng thể hiện sự đối lập âm dương trên tổng thể đồ hình. Mặt khác, xét về tương quan quan ngũ hành giữa từng cặp phương đối xứng đồng trục thì tất cả đều tuân thủ theo nguyên lý ngũ hành tương khắc, như Thủy ( Khảm) – Hỏa (Ly), Kim (Đoài) – Mộc (Chấn), Cấn thuộc Mộc tương khắc với Tốn thuộc Kim, theo quan niệm Phong thủy Lạc Việt và Càn là âm kim đới thủy tương khắc với Khôn là âm hỏa đới thổ vẫn thể hiện lý tương khắc cho một căp hành quái trên nguyên lý bát quái Hậu thiên Lạc Việt phối Hà đồ. Và chính ngay khi phối các các quái lên cung vị của Hà đồ thì tính chất tương khác về ngũ hành cung vị Hà đồ vẫn thể hiện được tính đồng nhất và tương hợp với bát quái, một cách tổng quát các quái khí đồng trục đều theo một lý tương khắc hoàn toàn nhất quán và hoàn chỉnh. Tính quy luật cân đối âm dương còn thể hiện trên Hậu thiên Lạc Việt phối Hà đồ khi cho thấy hai trục, âm Phúc Đức với độ số Hà đồ là 6-2 và dương Phúc Đức với độ số là 1-7 cho phe Đông trạch và Tây trạch, cùng với hai trục âm Tuyệt Mạng với độ số 8-4 và dương Tuyệt Mạng với độ số 3-9 cho hai phe Đông – Tây trạch. Đây là thể hiện tính cân đối âm dương, có cặp có đôi trong nội hàm Phúc Đức và Tuyệt Mạng và cũng thể hiện lý âm dương trong ngay trên cặp phạm trù Phúc Đức và Tuyệt Mạng. Như vậy sự hoàn chỉnh tuyệt vời cho việc giải mã bí ẩn, nghịch lý trục Quỷ Môn và trục Thiên Môn – Địa Hộ tồn tại từ trong cổ thư và sư phân bố tổ chức hợp lý các phương quái thì không nguyên lý nào bằng nguyên lý Hậu thiên Lạc Việt phối Hà đồ thuộc nền văn hiến Việt 5000 năm huyền vĩ. Hơn nữa, xét theo trục từ trường Trái Đất, trục Khảm - Ly trùng với trục từ trường Bắc - Nam của quả đất dành riêng cho phe Đông trạch. Trục Tây Bắc - Đông Nam tương hợp với trục nghiêng của Trái đất cũng thể hiện là một trục chính với chiều tương tác quan trọng đồng chất dành riêng cho phe Tây trạch. Một lần Hậu thiên Lạc Việt phối Hà đồ thể hiện tính ưu việt của nó. 3. LỜI KẾT Để hiệu chỉnh một nguyên lý đã có sẳn thì cần phải đi từ một lý thuyết hoàn chỉnh và nếu như thế thì chỉ có chủ nhân đích thực của hệ thống lý thuyết đó mới thực hiện được điều này, với sự phục hồi học thuyết Âm Dương Ngũ Hành thuộc nền văn hiến Việt 5000 năm rực rỡ thì việc giải quyết tính bất hợp lý của những khái niệm như trục Thiên – Địa, trục Quỷ Môn cho thấy tính hoàn chỉnh của nguyên lý lý thuyết Hậu thiên Lạc Việc phối Hà đồ, được công bố bởi nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh, thể hiện tính nhất quán, tính quy luật và có thể giải thích được nhưng hiện tượng hiên quan đã cho thấy sự hoàn chính và phù hợp với tiêu chí khoa học của nguyên lý lý thuyết ấy. 19 tháng Dậu năm Tân Mẹo (2011) Thiên Đồng ================================= Tham khảo: - Hà Đồ trong văn minh Lạc Việt, tg Nguyễn Vũ Tuấn Anh, NXB Tổng Hợp TpHCM 2007 - Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại, tg Nguyễn Vũ Tuấn Anh, NXB Tổng Hợp TpHCM 2003 - Tính minh triết trong tranh dân gian Việt Nam. - Phong thủy Lạc Việt, tg Nguyễn Vũ Tuấn Anh, lưu hành nội bộ. - Dịch học ngũ linh, tg Cao Từ Linh, NXB Văn Hóa Thông Tin, 2006. - Nhập môn chu dịch dư đoán học, tg Thiệu Vĩ Hoa, NXB Văn Hóa Thông Tin, 1996. - Phong thủy toàn thư, tg Thiệu Vĩ Hoa, NXB Thời Đại, 2009
  20. Truyện Giếng Việt Giếng Việt ở miền Trâu Sơn huyện Vũ Ninh. Đời vua Hùng Vương thứ ba, nhà Ân cử binh sang xâm chiếm nước Nam, đóng quân ở dưới chân núi Trâu (Trâu Sơn). Hùng Vương cầu cứu với Long Quân, Long Quân hóa thành Đổng Thiên Vương cưỡi ngựa sắt đi đánh giặc, quân nhà Ân đều thua chạy. Vua nhà Ân chết trận dưới chân núi, biến thành vua ở địa phủ, dân phải lập miếu thờ, bốn mùa đều phải hương khói. Lâu ngày miếu thành hoang phế. Có người nước ta tên là Thôi Lượng làm quan nhà Tần đến chức Ngự Sử Đại Phu, thường qua lại vùng này, thấy cảnh suy tàn, chạnh lòng thương cảm, bèn sửa sang lại đền miếu. Có thơ đề rằng (1): Người xưa kể lại chuyện Ân vương Tuần Thú năm nao đến bên đường Núi biếc sông dài quanh miếu vắng Hồn đi mồ để vết còn hương Một phen thắng bại Ân đức hết Vạn thế Uy linh ở Việt Thường Trăm họ rồi đây dâng hương cúng Phò trì vận nước vững không lường (Nguyễn Hữu Vinh dịch) Sau các tướng Nhâm Ngao, Triệu Đà đem quân xâm chiếm phương Nam, đóng quân ở núi này, sai tu sửa lại đền miếu, nghiêm cẩn phụng thờ. Ân Vương cảm cái đức của Lượng xưa, muốn đền ơn, bèn sai tiên nữ Ma Cô đi tìm Lượng. Khi ấy Lượng đã chết, chỉ có đứaq con là Thôi Vỹ hãu còn sống. Khoảng tiết Nguyên Tiêu tháng giêng, dân chúng tới thăm đền này, có người cúng một cặp bình pha lê, tiên nữ Ma Cô cầm lên tay ngắm nghía, lỡ rơi xuống đất đánh vỡ, bị người ta bắt phạt đền. Ma Cô mặc áo rách, mọi người không biết là tiên, nên đánh đập tàn nhẫn. Thôi Vỹ thấy vậy động lòng thương, bèn cởi áo đền, Ma Cô được tha. Ma Cô hỏi Vỹ ở đâu, Vỹ kể lại lai lịch của cha. Ma Cô lúc ấy mới biết là con quan Thôi Ngự sử, mừng rỡ nói với Vỹ rằng: “Nay tôi không có gì báo đáp, sau này tất sẽ tạ ơn”. Rồi đưa cho Vỹ một bó lá ngải mà nói: “Giữ cẩn thận vật này, đừng để rời khỏi mình, sau này thấy ai có bướu , đem cứu cho lành, tất sẽ được phú quý”. Vỹ nhận lấy, chưa biết đó là thuốc tiên. Ngày kia, đi đến nhà người bạn thân là đạo sĩ Ứng Huyền, Huyền có cái bướu trên đầu. Vỹ nói: “Tôi có bó lá ngải, có thể trị được bịnh này”. Huyền nhờ chữa cho. Vỹ bèn dùng lá ngải ra dùng, bướu lập tức tiêu tan, Huyền nói: “Đây là thuốc tiên, ta nay không có vật gì báo đáp, xin lấy ơn khác đền lại. Ta quen một vị quí nhân cũng mắc bệnh này, thường nói rằng ai chữa được thì sẽ chia cho hết cả gia tài mà không tiếc, ông hãy tới đó chữa”. Huyền đưa Vỹ tới nhà Nhâm Ngao chữa bệnh, bướu liền tiêu tan. Ngao cả mừng, nuôi Vỹ làm con nuôi, mở trường cho Vỹ học. Vỹ là người thông minh, thích gảy đàn. Con gái Ngao là Phương Dung thấy Vỹ thì phải lòng, bèn cùng tư thông. Con trai Ngao là Nhâm Phu biết chuyện, muốn giết Vỹ, đem Vỹ tế thần Xương Cuồng, bèn dỗ rằng: “Cuối năm phải lễ thần Xương Cuồng mà chưa có người làm đồ lễ cúng. Hôm nay không nên đi ra ngoài, nên ẩn vào phòng để tránh”. Vỹ vô tình nghe theo, Nhâm Phu bèn khóa cửa buồng. Phương Dung biết ý, ngầm lấy dao đưa cho Vỹ, Vỹ đào ngạch mà ra. Ban đêm, Vỹ lẻn đi, muốn tới nương tựa nhà Ứng Huyền. Đi gấp lên trên núi, Vỹ lỡ chân rơi xuống hang sâu, chung quanh đều là vách đá, không có bậc lên. Ở trên có một hòn đá, thạch nhũ rủ xuống bàn đá, có một con rắn trắng mình dài trăm trượng, mào vàng, miệng đỏ, râu đỏ, vảy trắng, dưới cổ có cái bướu, trên trán có dòng chữ vàng đề “Ngọc Kinh Tử Xà”. Rắn ra ăn thạch nhũ, để lại bàn đá trống không, thấy Vỹ ở trong hang thì định nuốt. Vỹ kinh sợ, sụp lạy mà nói: “Tôi đi tránh nạn, rơi xuống dưới hang này, không có gì ăn, đói dạ nên phải ăn vụng, thực là đắc tội. Nay thấy dưới cổ ngài có cái bướu thịt, tôi có lá ngải để trị bệnh này, xin khoan tha cho tôi để tôi thi thố tài mọn”. Rắn ngẩng đầu xin cứu. Bỗng thấy ánh lửa sáng, một mảnh than rơi xuống hang. Vỹ lấy lửa mà cứu, bướu lập tức tiêu tan. Rắn quẫy mình tới trước mặt Vỹ như có ý bảo Vỹ cưỡi lên lưng. Vỹ cưỡi lên, rắn bèn tức thì đưa Vỹ ra khỏi hang. Đúng canh một thì lên tới cửa hang, nhìn không thấy ai qua lại, rắn bèn vẫy đuôi bảo Vỹ xuống, sau đó rắn lại trở vào trong hang. Vỹ đi lạc đường, chợt thấy trước mặt có một cửa thành, trên cổng thành có lầu cao lợp ngói đỏ lộng lẫy, ánh sáng mờ mờ chiếu tỏa. Trên cổng treo biển đỏ viết chữ vàng “Ân Vưong Thành” (Thành vua nhà Ân). Vỹ ngồi bên cạnh cổng, không thấy có người qua lại. Vỹ bước vào trong thành, nhìn thấy trong sân có ao, giữa ao có sen ngũ sắc, cạnh ao có mấy hàng cây hòe, cây liễu. Đường sá phẳng lỳ, điện ngọc cung châu, lầu cao gác rộng. Trên điện kê đôi giường bằng vàng, trải chiếu hoa bằng bạc, có hai cây đàn cầm, đàn sắt. Vỹ từ từ đi đến, thử đánh vào đàn. Hồi lâu, thấy kim đồng ngọc nữ, hàng trăm người theo hầu hoàng hậu vua Ân, mở cửa mà ra. Vỹ cả kinh, xuống điện quỳ lạy. Ân hậu cười phán rằng: “Thôi quan nhân ở đâu tới đây?”. Rồi lại mời lên điện nói: “Xưa kia điện Ân Vương hoang phế lâu ngày, nhờ có Thôi ngự sử sửa chữa, người đời mới theo gương mà cúng thờ mãi mãi. Vua đã sai tiên nữ Ma Cô đi tìm để báo ơn, không gặp ngự sử mà chỉ gặp công tử. Vẫn chưa có gì báo đáp, nay may được trông thấy mặt công tử, nhưng hiềm vì Thượng đế có sắc gọi cho nên Vua lên chầu trời, chỉ có Ma Cô ở nhà”. Bèn ban tiệc rượu, cho ăn uống no say. Bỗng thấy có một người râu dài, bụng to tiến lên dâng biểu, quỳ xuống mà tâu rằng: “Ngày mồng 3 tháng giêng, người phương Bắc là Nhâm Ngao đã bị thần Xương Cuồng đánh chết”. Tâu xong, Hậu bèn nói: “Dương quan nhân hãy đưa Thôi công tử trở về trần thế”. Ân hậu tiễn khách quay vào. Dương quan nhân bèn bảo Vỹ nhắm mắt, ngồi lên vai mình. Hơn một khắc sau đã đến tới đỉnh núi. Dương quan nhân biến thành một con dê đá đứng ở trong núi, nay con dê ấy còn ở sau chùa Việt Vương (Việt Vương từ) trên núi Trâu (Trâu sơn). Vỹ trở về nhà Ứng Huyền, kể lại đầu đuôi câu chuyện. Đêm mồng 1 tháng 8, Vỹ và Huyền cùng đi dạo bên ngoài, thấy tiên nữ Ma Cô dắt một người con gái tới ban cho Vỹ để kết làm vợ chồng, lại cho cả viên ngọc Long Tụy. Vốn xưa, ngọc đó có hai viên thư, hùng (nam, nữ), suốt từ đời vua Hoàng Đế tới triều nhà Ân vẫn được lưu truyền là vật quí ở đời. Trong trận đánh ở núi Trâu, vua Ân đeo ngọc đó mà chết, ngọc bị vùi xuống đất mà hào quang của nó vẫn chiếu tỏa đến tận trời. Thời binh lửa đời Tần, báu ngọc đều cháy hết, người ta xem linh khí mà biết rằng viên ngọc quí Long Tụy vẫn còn ở nước Nam, mới từ xa tới tìm. Đến nay Vua Ân lấy ngọc quý này báo đáp ơn Vỹ. Người thời ấy đem vàng bạc lụa là, đáng giá trăm mươi ngàn quan tiền tới mua, Vỹ do đó giàu to. Sau, tiên nữ Ma Cô tới đón vợ chồng Vỹ đi đâu không biết. Nay giếng đã cạn, hoang phế thành cái huyệt, còn giấu tích ở núi Trâu. Tục gọi là là Việt Tỉnh Cương (sườn núi giếng Việt). Chú thích: 1. Bài thơ chữ Hán như sau: Cổ nhân truyền đạo thị Ân vương Tuần thú đương niên đáo thử phương Sơn tú thủy lưu không kiến miếu Tinh thăng tích tại thượng văn hương Nhất triều thắng bại vô Ân đức Vạn tải Uy Linh trấn Việt Thường Bách tính tùng tư giai phụng tự Mặc phù quốc tộ vĩnh vô cương (Nguyễn Hữu Vinh dịch) . Bình: • Bài này nói về đạo sống nhân hậu lễ nghĩa của người Việt. Người Việt chính trong này là Thôi Lượng và sau đó là con Thôi Vỹ. “Lượng” là thành thật, trung tín, tha thứ. “Vỹ” là đuôi, tức là ý nói nối tiếp–con nối tiếp lòng thành thật, trung tín, tha thứ của cha. • Chết là xóa hết ân oán. Vua Ân khi còn sống là kẻ thù của người Việt, khi chết được người Việt lễ bái như thần và ngược lại cũng giúp đỡ dân Việt. “Nhất triều thắng bại vô ân đức – Một phen thắng bại ân đức hết”. Ân đức ở đây nên hiểu rộng là ân oán, chết là hết ân oán. Và vì vua Ân là vua nên, theo lẽ thường, là người có nhiều đức trọng, chết thành thần linh hiển, nên người sống thành tâm thờ thần là chuyện phải làm. Thù oán chính trị khi còn sống không còn nghĩa lý gì hết. Người chết vào một thế giới mới với suy nghĩ tâm tư mới hoàn toàn, và người sống cần cư xử với người chết với tâm tư mới tương ứng. • Vỹ có lòng rộng lượng và lễ nghĩa và với vua Ân, cựu thù khi nhà vua còn sống. Và Vỹ nhân hậu với Ma Cô, rách rưới nghèo nàn cơ khổ. Rộng lượng với kẻ thù đã chết, trên thì kính trọng thần thánh, dưới thì nhân hậu với kẻ khốn cùng. Đó là đạo sống. Và đạo sống này sẽ mang đến nhiều may mắn thành công trong đời. • Phần thưởng đầu tiên Vỹ được là bó lá ngải chữa bệnh bướu của Ma Cô. Bệnh bướu đầu và bướu cổ là biểu tượng của chất độc từ trong tâm người tụ lại—như là ba độc tham sân si trong kinh Phật. Người có lòng rộng lượng với người chết, kính trọng thần thánh, nhân hậu với kẻ khốn cùng, sẽ tự nhiên có ảnh hưởng tốt đến những người có tâm tham sân si nặng. Đức hạnh tự nhiên từ người thiện tỏa ra sẽ ảnh hưởng tốt đến người xấu và có thể làm tâm họ trở thành sáng suốt lành mạnh. • Sức mạnh chuyển hóa của người có thiện tâm đi từ gần tới xa—trước hết là bè bạn, như Ứng Huyền, sau đó là kẻ thù từ nước ngoài, như Nhâm Ngao. Và ngay cả khi trong vòng kẻ thù có người muốn hại người thiện–như Nhâm Phu—thì vẫn có người bảo vệ–như Phương Dung. • Người thiện, như Vỹ, khi sa cơ thất thế, như Vỹ rơi xuống giếng sâu, cũng có thể đổi xấu thành lành, có thể làm lành tâm ác của những người đại ác—biểu tượng bằng rắn chúa: Mào vàng là biểu tượng của vua, miệng đỏ râu đỏ là biểu tượng của quyền lực—và người thiện sẽ được cả những kẻ đại ác giúp đỡ. Dùng than đỏ mà chữa bệnh bướu cho rắn thần, tức là dùng ánh sáng của thiện tâm mà cải hóa lòng ác. • Ngược lại người có tâm ác muốn hại người thiện—như Nhâm Phu muốn hại Thôi Vỹ–thì người thiện không những không hề hấn gì mà người ác lại trả giá, như Nhâm Phu rốt cuộc làm cha (Nhâm Ngao) bị Thần Xương Cuồng đánh chết. • Việc Dê thần Dương quan nhân (dương là dê) cho Vỹ ngồi lên vai để đưa về trần thế có vẻ như là nói đến chiếc xe dê trong Phẩm Thí Dụ của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, là biểu tượng của Phật Giáo Tiểu Thừa hay Phật Giáo Nguyên Thủy (Theravada). • Ngay cả việc vợ chồng và giàu sang cũng là phần thưởng đến từ thiện tâm của mình–biểu tượng bằng việc Ma Cô đem giai nhân và ngọc Long Tụy đến tặng Vỹ. • Tóm lại là thiện tâm của con người—rộng lượng, lễ nghĩa, nhân hậu—là chủ cho đời sống của ta. Thiện tâm giúp ta cải hóa mọi người—từ người thân, đến kẻ thù, từ người thường đến người xấu—mang lại may mắn, cứu ta khi sa cơ thất thế, mang lại hanh phúc gia đình và giàu sang vật chất. (Trần Đình Hoành bình)
  21. Cái quan trọng của bài viết trên là để...bán đá quý! Còn về ý nghĩa phong thủy thì thuộc hàng... dở hơi hết chỗ nói.
  22. Sự Tích Lý Ông Trọng Cuối đời Hùng Vương có người tên Lý Thân, huyện Từ Liêm, đất Giao Chỉ (1). Khi đẻ ra rất to lớn, cao đến 2 trượng 3 thước, tính tình hung hãn, phạm tội giết người, tội ác đáng chết, Hùng Vương tiếc mà không nỡ giết đi. Đình Chèm, thở Lý Ông Trọng ở xã Thụy Phương, huyện Từ Liêm, Hà Nội Đến đời An Dương Vương, Tần Thủy Hoàng muốn đem quân sang đánh nước ta, An Dương Vương bèn đem Lý Thân tiến dâng cho nhà Tần. Thủy Hoàng mừng lắm, phong cho làm chức Tư Lệ Hiệu Úy. Khi Thủy Hoàng đã lấy được thiên hạ, sai Lý Thân đem quân giữ đất Lâm Thao, Hung Nô không dám xâm phạm cửa ải. Thủy Hoàng phong Lý làm Phụ Tín Hầu, cho trở về nước. Về sau, Hung Nô lại sang xâm phạm cửa ải. Thủy Hoàng nhớ tới Lý Thân, sai sứ người sang triệu về. Lý Thân không chịu đi, trốn vào rừng núi. Vua Tần trách quở, An Dương Vương tìm mãi không được, nói dối là Lý đã chết vì bệnh tả. Tần sai sứ sang khám. An Dương Vương bèn nấu cháo đổ xuống đất để làm chứng cứ. Vua Tần đòi mang xác sang, Lý Thân bất đắc dĩ phải tự vẫn. An Dương Vương sai lấy thủy ngân bôi lên xác rồi đem nộp vua Tần. Thủy Hoàng rất thương tiếc, mới đúc tượng đồng, đặt hiệu là Ông Trọng, đem dựng ở ngoài cửa Tư Mã, đất Hàm Dương. Trong bụng tượng chứa mấy chục người để lay cho tượng cử động. Hung Nô trông thấy tưởng là quan Hiệu Úy còn sống, không dám đến gần cửa ải. Tới đời Đường, Triệu Xương sang làm quan Đô Hộ đất Giao Châu, đêm mộng thấy cùng Lý Thân giảng sách Xuân Thu, Tả Truyện. Vì thế nên hỏi thăm nhà cũ, lập đền thờ cúng. Đến lúc Cao Biền dẹp giặc Nam Chiếu, Lý hiển linh cứu trợ, Cao Biền bèn sửa sang lại đền miếu, tạc gỗ làm tượng, gọi là đền Lý Hiệu Úy, nay gần bên sông lớn, thuộc xã Bố Nhi, huyện Từ Liêm (2), cách phía tây kinh thành khoảng 50 dặm, (Bố Nhi nay là xã Thụy Hương). Mỗi năm giữa mùa xuân đều có tế lễ (3). Chú thích: 1) Bản A 2914 chép: có người ở xã Thụy Hương, huyện Từ Liêm, nay là huyện Từ Liêm đất Giao Chỉ, gần bên sông lớn. 2) Bản HV 486 chép: thuộc xã Bố Hiện, bản A 2914 chép: thuộc xã Thuỵ Hương 3) Bản A 2914 còn có đoạn: Đến năm thứ nhất đời Trùng Hưng (Dịch giả: tức năm 1285, đời vua Trần Nhân Tông) được sắc phong làm Uy Mãnh, năm thứ 4 phong thêm làm Anh Liệt. Năm thứ 21 đời Hưng Long (Dịch giả: tức năm 1313 đời vua Trần Anh Tông) sắc phong làm Phụ Tín. Bản A 2914 không có hàng chữ “Mỗi năm giữa mùa xuân đều có tế lễ”. . Bình: • Truyện này nói về trung quân ái quốc và bang giao giữa Âu Lạc và nhà Tần của Trung quốc. “Thân” là thân thể chỉ con người của ta. Trọng là nặng, hay là tôn trọng. Thân đi với Trọng, rất rõ là nới về việc đạo nghĩa sống cho chính mình để mình được tôn trọng, kính trọng. • Vào thời phong kiến và quân chủ, trung quân và ái quốc thường trùng nghĩa với nhau. Trung với vua (trung quân) cũng chính là yêu nước (ái quốc). Khi An Dương Vương mang L‎ý Thân tặng Tần Thủy Hoàng làm của lễ ngoại giao, Lý‎ Thân vâng lời. Sau khi được chức tước của nhà Tần và được cho về quê sinh sống, Lý‎ Thân vẫn trung thành với An Dương Vương, dù đã làm tướng nhà Tần. Điểm này rất rõ trong văn hóa Việt lòng trung đặt ở đâu. Dân Việt thì luôn là dân Việt, luôn trung thành với vua Việt, nước Việt—dù đã có thời làm quan xứ người. • Vào thời chến tranh bằng gươm dáo, sức mạnh của một người luôn luôn là lợi thế trong chiến tranh, nên luôn luôn được tôn trọng. Tặng dũng sĩ là một món quà tặng rất quý giá, thường là chỉ tặng cho bạn đang giao hảo tốt. Không ai tặng dũng sĩ cho kẻ có thể là thù, vì đó là thêm sức mạnh cho địch. Dũng sĩ Lý‎ Thân ở đây còn là biểu tượng của sức mạnh quân sự. An Dương Vươg và Tần Thủy Hoàng lúc đầu có liên hệ tốt để An Dương Vương có thể trợ lực với Tần Thủy Hoàng về quân sự. • Khi không còn tin nhau nữa, tức là lúc nói dối nhau—An Dương Vương nói dối Lý Thân bệnh chết, Tần Thủy Hoàng không tin sai sứ sang xét, An Dương Vương phải mang cháo đổ ra đất để gạt, Tần Thủy Hoàng vẫn không tin đòi mang xác đi. Rốt cuộc Lý‎ Thân phải tự vẫn. Khi hai vua, hai nước, không còn tin nhau nữa, thì các trợ lực hay liên minh quân sự là điều không thể. • Đây có lẽ là truyện dẫn nhập về đoạn Tần Thủy Hoàng sai Triệu Đà xâm chiếm Âu Lạc sau này. (Trần Đình Hoành dịch và bình) Sự Tích Núi Tản Viên Núi Tản Viên ở phía tây kinh thành nước Nam Việt (1). Núi cao ngất, tròn như cái tán cho nên có tên ấy (2). Xưa, Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ, sinh ra 1 bọc trăm trứng, nở ra một trăm người con trai. Long Quân đem 50 người xuống biển, còn lại 50 người con trai theo mẹ Âu Cơ chia trị các xứ, hiệu là Hùng Vương. Thần núi Tản Viên là một trong 50 người con trai theo cha xuống biển. Thần từ thủy quốc về đất liền theo đường cửa bể Thần Phù, tìm chỗ sinh sống ở nơi cao ráo, thanh tịnh, dân chúng chất phác, phong thổ hiền hòa. Thần ven theo sông lớn tới đất Long Đỗ thành Long Biên. Thần muốn định cư ở đó, song lại không vừa ý. Sau thần đi ngược lên sông Lô đến bờ đất Phiên (Phiên Tân) bên bờ sông Phúc Lộc, ngưỡng trông thấy núi Tản Viên, cao lớn đẹp đẽ, các núi khác lớn nhỏ trùng điệp vây quanh, phong cảnh đẹp như tranh vẽ. Dưới núi thì dân chúng chất phác hiền lành. Cho nên thần mới cho mở một con đường từ đất Phiên cho tới phía nam của núi Tản Viên, ngang qua động Vệ (Vệ Động), tới nguồn sông đất Nham Tuyền, qua bờ đá, lên đỉnh núi Vân Mộng mà làm nhà sống ở đó. Thần thường ngao du xem đánh cá ở đất Tích Giang, đi qua đâu thần đều xây nhà cửa để nghỉ ngơi. Người đời sau, nhờ các vết tích ấy mà lập miếu thờ cúng. Gặp lúc hạn hán hay gặp lúc lụt lội đến khấn cầu đều rất là linh nghiệm. Những lúc trời quang mây tạnh, thấy như có bóng cờ xí thấp thoáng dưới chân núi, dân chúng sống trong vùng đều cho là sơn thần hiển hiện. Đời Đường Cao Biền ở An Nam muốn yểm linh mạch bèn mổ bụng con gái chưa chồng mười bảy tuổi, vứt ruột đi, nhồi cỏ hôi nhồi vào bụng, mặc áo quần vào rồi đặt ngồi trên ngai đem tế bằng trâu bò, hễ thấy cử động thì vung kiếm chém đầu. Phàm muốn đánh lừa các thần đều dùng thuật này. Biền đem thuật đó để yểm thần núi Tản Viên, thì thấy thần cưỡi ngựa trắng ở trên mây, nhổ nước bọt xuống rồi bỏ đi. Biền than rằng: “Linh khí ở phương Nam không thể lường được, vượng khí đời nào hết được!”. Sự linh ứng của thần đã hiển hiện ra như vậy đó. Tương truyền rằng thần và Thuỷ Tinh cùng cầu hôn với Mỵ Nương, con gái của vua Hùng. Lễ vật của thần đến trước, vua Hùng bèn gã Mỵ Nương cho, thần rước Mỵ Nương về núi Tản Viên. Thủy tinh đến sau, không kịp, cả giận liền đem loài thủy tộc đến đánh để cướp lại. Thần lấy lưới sắt ngăn ngang sông huyện Từ Liêm. Còn Thủy Tinh thì mở một nhánh sông từ sông Lị Nhân chảy ra sông Hát, đổ vào sông Đà để đánh thần núi Tản Viên. Lại mở ngách sông Tiểu Tích Giang hướng về trước núi Tản Viên, qua các động Cam Giá, Đông Lâu, Cổ Ngạc, Ma Sá, Dục Giang, đều đánh sụt thành các vũng nước lớn để mở lối đi cho quân thủy tộc. Thuỷ Tinh thường làm mưa gió mịt mù, dâng nước lên để đánh thần. Dân ở chân núi thấy thế bèn làm hàng rào thưa bằng tre để đón đỡ, đánh trống, gõ cối, hò reo để cứu viện. Mỗi khi thấy rơm rác trôi bên ngoài hàng rào bèn bắn, thủy tộc chết biến thành thây ba ba thuồng luồng trôi ngập cả khúc sông. Thuỷ Tinh chưa nguôi giận, vẫn thường hay đến quấy rối. Hàng năm vào khoảng tháng tám tháng chín thường có lụt lội, dân trong vùng vẫn phải chịu thiệt hại mùa màng. Cho đến nay cũng vẫn như thế! Người đời tương truyền rằng đó là vì Sơn Tinh và Thủy Tinh tranh nhau lấy Mỵ Nương mà sinh chuyện vậy(3). Chú thích: 1) Bản A 2914 thì chép rằng: “Núi Tản Viên, là kinh đô nước Việt Thường, ở phía tây thành Thăng Long đời Lý. 2) Núi Tản Viên: Chữ Hán Tán 傘, còn có âm Nôm đọc là Tản, Viên: 圓 có nghĩa là Tròn. Tản Viên: tròn như cái tán, như cái dù. 3) Bản VHV 1473 chép thêm rằng: “Năm Trùng Hưng thứ nhất (Dịch giả: tức năm 1285, đời vua Trần Nhân Tông) được sắc phong làm Hữu Thành Vương, năm thứ 4 thêm sắc phong Khuông Quốc Vương. Đến đời Hưng Long thứ 21 (Dịch giả: tức năm 1313 đời vua Trần Anh Tông) lại được sắc phong làm Hiển Ứng Vương”. Bản A 2914 thì chép: “Truyện trích từ chuyện Lỗ Công trong sách Giao Châu Ký”. (Nguyễn Hữu Vinh dịch) Bình: Đền Hạ thờ thần núi Tản Viên trên dãy Ba Vì (xã Minh Quang, Sơn Tây) • Thần núi và thần nước đánh nhau để giải thích lụt lội hàng năm. Đây là thời đại phiếm thần, khi mọi sự đều có thể là thần, đều có thể có thần. • Nhân dân theo thần núi, thờ thần núi và chống thần nước cũng là chuyện đương nhiên. Chẳng người nào trên thế gian lại ủng hộ nước lụt. • Cao Biền, thứ sử của nhà Đường gởi sang cai trị Giao Châu, muốn trấn yểm thần núi. Đây là diễn tả bất tín trong liên hệ giữa Việt Nam và Trung quốc từ xưa đến nay. Đây là vấn đề tâm lý‎ ngàn đời. • Sơn thần, thực ra cũng là thủy thần, vì Sơn Tinh là một trong 50 con của Lạc Long Quân từ dưới biển lên núi làm nhà. Vậy thì, Sơn Tinh và Thủy Tinh thực ra là 2 thủy thần đến từ hai nơi khác nhau. Một là thủy thần của cha ông từ biển về, một là thủy thần đến từ mưa và nước lũ sông rạch. Vậy thì đây phải hiểu là cuộc chiến của hai thủy thần thì đúng hơn—một thủy thần tốt (Sơn Tinh) giúp dân, một thuỷ thần xấu (Thủy tinh) hại dân. • Sơn Tinh đi theo dòng sông Phúc Lộc, đến bờ đất Phiên. Một nghĩa của phiên là hàng rào; đất Phiên là “đất Hàng Rào”, tức vòng bảo vệ đâu tiên, vòng ngoài lãnh địa. Đi theo hướng nam núi Tản Viên: Dân Việt luôn nam tiến trong suốt chiều dài lịch sử. Qua Vệ Động, tức là động phòng vệ, phòng thủ, cũng như là hào phòng thủ ta thấy tại vòng ngoài các thành cổ. Qua đất Nham Tuyền, tức là Suối Đá. Tuyền là suối, nham là đá lởm chởm nguy hiểm. Đây là hàng phòng thủ trong cùng. Suối để lấy nước uống. Đá lởm chởm để phòng thủ cường địch từ bên ngoài. Làm nhà trên đỉnh núi Vân Mộng—trên đỉnh núi đẹp đầy mây (vân) đẹp như mộng. Và đây cũng là chính là cuộc đời “mộng huyển bào ảnh” (mộng ảo bọt bóng) này, theo nhà Phật. Toàn địa thế này nằm trong núi Tản Viên, tròn như cái tán, biểu tượng của viên giác, giác ngộ toàn vẹn của nhà Phật. Đó cũng là Không, là Thiền. Biểu tượng của Thiền thường là một vòng tròn trống rỗng. Nói tóm lại: 1. Đây là sơ đồ quân sự của một thành quách với các điểm trọng yếu về phòng thủ–Hàng rào ngoài cùng, rồi hào rãnh sâu bên trong, rồi hàng phòng thủ bằng đá gai góc (hay chông nhọn) bên trong nữa, nguồn nước để uống, và nhà ở trên đỉnh cao nhất. 2. Và đây cũng là một biểu tượng của đời sống của con người trong thế giới ta bà mộng ảo, cần phải phòng thủ tự bảo vệ mình trước tấn công của tội lỗi tham sân si, và luôn luôn biết rằng tất cả chỉ nằm trong vòng Giác Ngộ của mình. • Sơn Tinh và Thủy Tinh, cùng là gốc thủy thần, thì căn bản của cả hai người là giống nhau, nhưng rốt cuộc một xấu một tốt. Người tốt, vì không làm điều sai, ngược lại còn giúp đỡ bá tánh–Sơn Tinh giúp nhân dân. Người xấu, vì làm điều xấu—Thủy Tinh giành người đẹp trong tay chủ chính danh, và làm muôn dân đau khổ. Thủy Tinh là biểu tượng cho cả 3 độc tham sân si mà ta phải có nhiều lớp phòng thủ như đã nói trên: Tham gái, nỗi giận vì tham, và vì thế ngu si, đánh nhau làm hại lương dân đời đời. Đây là giáo l‎ý căn bản của Phật gia: Căn tánh của tất cả chúng ta đều như nhau, đều tốt. Tốt hay xấu là do ta lựa chọn hành động thế nào mà thôi. (Trần Đình Hoành bình)
  23. Công trạng Cống Quận công Trần Đức Hòa Kỳ 2: Với khởi đầu chữ quốc ngữ 07/09/2011 23:24 Nói đến chữ quốc ngữ, hầu như ai cũng biết công lao của giáo sĩ Alexandre de Rhodes. Tuy nhiên, ông chỉ là người thừa hưởng, hệ thống lại và phát triển thêm từ sự khai mở của các giáo sĩ đi trước, những người vốn được Khám lý Cống Quận công Trần Đức Hòa che chở. >> Kỳ 1: Tiến cử kẻ chăn trâu làm thầy minh chúa Vào thế kỷ thứ 16, đạo Kitô thâm nhập vào Nhật Bản bởi một số nhà truyền giáo Dòng Tên từ Ma Cao đến. Đầu thế kỷ 17, Nhật ban lệnh cấm đạo và trục xuất các nhà truyền giáo. Trong số các giáo sĩ bị trục xuất từ Nhật Bản, có 4 vị thừa sai là hai linh mục Bồ Đào Nha Francesco Buzomi và Diego Carvalho cùng hai trợ sĩ người Nhật là Jose và Paolo được lệnh của của Nhà Dòng, thay vì trở về Ma Cao thì chuyển hướng xuống Hội An của xứ Đàng Trong. Hậu duệ của Cống Quận công Trần Đức Hòa bên tấm biển ghi công trạng của vị đại quan - Ảnh: Hà Đình Nguyên Ngày 18.1.1615, họ cập bến Hải Phố (Hội An). Lúc này ở Hội An, cộng đồng Nhật kiều theo Thiên Chúa giáo đã hình thành và các giáo sĩ này đã dùng tiếng Nhật để chăm sóc họ. Năm 1617, nhóm giáo sĩ ở Hội An được tăng cường thêm linh mục Francesco de Pina và một tu sĩ, tiếp đó lại có thêm các linh mục Cristofono Borri và Pedro Marquez - chứng tỏ, việc truyền giáo ở Hội An có những kết quả khả quan. Chẳng may ít lâu sau, Đàng Trong bị thiên tai hạn hán, dư luận cho rằng do trời đất trừng trị vì có người bỏ thờ cúng tổ tiên, ông bà mà theo đạo mới. Họ quy trách nhiệm cho các thừa sai và giáo dân. Đầu năm 1618, các giáo sĩ lại bị trục xuất khỏi nước Việt. Linh mục Marquez và một tu sĩ được các giáo dân Nhật kiều giúp che chở, trốn tránh ở Hội An. Còn các linh mục Pina, Buzomi, Borri và hai thầy dòng khác thì được quan Khám lý Cống Quận công Trần Đức Hòa, khi đó đang là Trấn thủ Quy Nhơn, ra tận Hội An đón về Quy Nhơn. Trong cuốn Xứ Đàng Trong năm 1621, linh mục Borri đã ghi chép khá đầy đủ quan Khám lý Trần Đức Hòa đã đối xử rất “biệt nhãn” với các giáo sĩ phương Tây, ông ghi: “Các cha Francesco Buzomi, Francesco de Pina và tôi rời Hải Phố đi Pulucambi với quan trấn tỉnh này. Suốt hành trình, quan trấn đối với chúng tôi hết sức lịch sự và nhã nhặn. Ông cho chúng tôi ở cùng đoàn, dành riêng cho chúng tôi và người thông dịch một chiếc thuyền, hành lý chúng tôi để ở một thuyền khác, chứ không ngổn ngang bên chúng tôi. Suốt mười hai ngày, đi trong những điều kiện thoải mái như thế, sớm chiều ghé vào các cửa khẩu hoặc phố xá tỉnh Quảng Nghĩa (Quảng Ngãi - NV), nơi mà quan trấn có quyền như ở Quy Nhơn… Chúng tôi giãi bày mong muốn ở thị trấn để dễ truyền đạo hơn là ở trong dinh nằm giữa cánh đồng, xa thị trấn tới ba dặm. Vì thương mến, quan trấn không muốn xa chúng tôi, nhưng hy sinh quyền lợi cho dân chúng và gạt lòng yêu thích qua một bên. Quan truyền xây cho chúng tôi một ngôi nhà thờ tiện nghi trong thị trấn Nuocman...”. “Nuocman” ở đây chính là Nước Mặn - một phố thị cảng sông nằm bên đầm Thị Nại của phủ Quy Nhơn (thế kỷ thứ 17-18). Nơi đây thuyền buôn phương Tây và các nước Đông Nam Á thường xuyên ra vào buôn bán. Cảng thị Nước Mặn xưa kia nay là các thôn: An Hòa, Lương Quang (xã Phước Quang) và thôn Kim Xuyên (xã Phước Hòa) huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Các vị thừa sai Dòng Tên sang truyền giáo ở Đàng Trong từ năm 1615 chủ yếu tập trung ở ba điểm: Cửa Hàn (Đà Nẵng), Hội An - Thanh Chiêm (Quảng Nam) và Nước Mặn (Bình Định) nhưng ở Nước Mặn là trụ sở chính, có cha bề trên Buzomi. Cũng ở đây, linh mục Francesco de Pina mới có điều kiện học tiếng Việt để thành lập thí điểm truyền giáo tiên khởi (cha Pina là thầy dạy tiếng Việt cho Alexandre de Rhodes sau này). Sau đó, linh mục Pina và các linh mục Buzomi, Borri khởi sự nghiên cứu, phân tích và phiên âm tiếng Việt đều ở Nước Mặn. Ngay trong Lời giới thiệu tác phẩm Xứ Đàng Trong năm 1621 của linh mục C.Borri, hai dịch giả Nguyễn Khắc Xuyên và Nguyễn Nghị có nhắc đến chi tiết ông đã cố gắng học tiếng Việt, tuy không thạo lắm, nhưng ông cũng hiểu biết đủ để giảng giáo lý Kitô. “Có một vài câu chữ quốc ngữ trong bản tường thuật của ông cho chúng ta biết: ngay từ những năm 1618-1620 đã có một khởi đầu hình thành thứ chữ này. Cái đặc biệt ở nơi ông, cái làm cho khác với de Rhodes sau này, đó là ông đã phiên âm tiếng Việt theo chữ viết của người Ý, chứ không phải người Bồ. Rõ ràng ông phiên âm và viết gn chứ không nh như nho (trái nho) ông viết là gnoo, nhỏ (trẻ nhỏ) ông viết là gno. Cũng vậy xin ông viết scin, bởi vì theo tiếng Ý nếu viết cin thì đọc uốn lưỡi còn nếu viết sc thì đọc cũng như x”. Do đó, có thể coi Nước Mặn là nơi phát tích cho buổi đầu phôi thai chữ quốc ngữ. Vì thế, sự bao che của Khám lý Cống Quận công Trần Đức Hòa (nếu không thì các giáo sĩ đã bị trục xuất khỏi Việt Nam) cũng có ý nghĩa nhất định với sự hình thành chữ quốc ngữ trong giai đoạn đầu. Hà Đình Nguyên, http://www.thanhnien.com.vn
  24. Dường như đây mới chỉ là bài đầu tiên nêu ý kiến phân tích đầu tra theo định hướng khác cho vụ tên sát thủ giết người cướp của này. Tôi hoàn toàn ủng hộ theo hướng điều tra này. Bởi chỉ một điều đơn giản rằng không thể nào chỉ một mình tên giết người dã man đó làm tất tần tật mọi thứ từ tắt cầu giao điện, giết 3 mạng người, vận chuyển và tẩu tán vàng bạc...thật là vô lý!
  25. Trò Chơi Dân Gian Tập tầm vông Bài đồng dao này phổ biến khắp Bắc, Trung, Nam nhại theo âm trống tầm vông / tâm vinh (gọi theo Nghệ An) tức trống cơm: Tập tầm vông Chị có chồng Em ở vá Chị ăn cá, Em mút xương. ........................ Chị ăn kẹo, Em ăn cốm Chị ở Lò Gốm, Em ở Bến Thành. Chị trồng hành, Em trồng hẹ. Chi nuôi mẹ Em nuôi cha Cách chơi hiện nay của trò này là hai nguời chơi ngồi đối mặt nhau, vừa hát vừa theo nhịp đập lòng bàn tay vào nhau: hoặc đập thẳng, hoặc đập chéo, hoặc một cao một hạ thấp, hoặc kết hoẹp nhiều cách khác nhau. Nói chung, cách chơi rất giống trò Thìa la thìa lảy đây. Nu na nu nống Nu na nu nống Cái cóng nằm trong Cái ong nằm ngoài Củ khoai chấm mật Bụt ngồi bụt khóc Con cóc nhảy ra Ông già ú ụ Bà mụ thổi xôi Nhà tôi nấu chè Tè he chân rụt Ðám trẻ ngồi thành hàng ngang, duỗi hai chân ra trước. Một đứa ngồi đối diện, lấy tay đập vào từng bàn chan theo nhịp từng từ một của bài hát trên. Dứt bài, từ "rụt" đúng vào chân em nào thì phải rụt nhanh. Nếu bị tay của cái đập vào chân thì em đó thua cuộc: ra làm cái ván chơi kế tiếp, hoặc chịu hình phạt (nhảy lò cò một vòng, trồng chuối...) hay phải đứng ra làm cái cho một trò chơi khác (bịt mắt bắt dê, ú tìm, cá sấu lên bờ...) Tùm nụ, tùm nịu Tùm nụ, tùm nịu Tay tí, tay tiên Ðồng tiền, chiếc đũa Hột lúa ba bông ăn trộm, ăn cắp trứng gà Bù xa, bù xít Con rắn, con rít trên trời Ai mời mày xuống? Bỏ ruộng ai coi? Bỏ voi ai giữ? Bỏ chữ ai đọc ................. Ðánh trống nhà rông Tay nào có? Tay nào không? Hổng ông thì bà Trái mít rụng ................... Căn cứ vào hai câu "Tay nào có? Tay nào không?", đây là một trò đố: nắm một vật vào đó trong một tay và chìa hai nắm tay. Mở tay ra: đúng sai, có không....biết liền Thả đỉa ba ba Trò chơi thể hiện việc qua sông, qua bưng, ruộng...ngập nước. ở dưới nước có đỉa. Cả nhóm làm sao xuống nước mà đỉa không bắt chước. Trước hết vẽ hai đường song song cách nhau độ 2m (hay qui định khoảng trống nào đó) giả định là sông nước. Một em ra giữa vòng vừa hát vừa lấy tay ra đập nhịp vào vai các bạn: Thả đỉa / ba ba Chớ bắt / đàn bà Tha tội / đàn ông Cơm trắng / gạo trắng Gạo thuyền như nước Ðổ mắm / đổ muối Ðổ chuối / hạt tiêu Ðổ niêu / nước chè Ðổ phải nhà nào Nhà ấy.... chịu Từ "chịu" trúng em nào thì em ấy xuống sông làm "đỉa". Bọn trẻ đứa chạy đầu này, đứa băng qua sông góc nọ. "Ðỉa" rượt để bắt. Bọn trẻ lại hát bài hát ghẹo Sang sông / về sông / trồng cây / ăn quả / nhả hạt. "Ðỉa" rượt bên này thì bên kia xuống sông. "Ðỉa" quay lại bên kia thì lũ bên nọ lại réo lên: "ăn quả / nhả hạt" rồi ào xuống. Chẳng may ai bị "đỉa" vớ phải thì trở thành "đỉa". Thìa la thìa lảy Là trò chơi luyện tập sự nhịp nhàng. Giống như trò tập tầm vông, song bài ca lại là bài vè Con gái hư - chê tật xấu của các cô gái lười: Thìa la thìa lảy, Con gái bảy "tài" Ngồi lê là một, Dựa cột là hai. Thày lay là ba ăn quả là bốn Trốn việc là năm Hay nằm là sáu Láu táu là bảy nguồn:http://e-cadao.com/p...ochodangian.htm