Thiên Đồng

Hội viên
  • Số nội dung

    6.278
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    75

Everything posted by Thiên Đồng

  1. Đoạn trên đọc thấy có ý chê ông Quỳnh Liên và cũng chê luôn cây thước của ông ấy. Đại ý là không "pha học" ở chổ cúng bái và số đo 5 tấc 3 chia cung thì không hợp lý. Tạm miễn bàn Nhưng ngay trong đoạn trích sau: vẫn không đưa ra được sự xác đáng là cây thước sau đó "pha học" ở chổ nào, mặc dù đưa ra được sự chia cung, và có vẻ âm dương, nhưng sự quyết định là Thái Tai là Hỏa Hay Kim cục đều mang tính cảm tính chủ quan, không dựa trên một nguyên lý nào, hơn nữa cây 51 cm cũng không phản ánh một thực tại nào. và cũng là một sự ngộ nhận, sai lầm.Tạm xóa phần này nhe Thiên Đồng. Nên tôn trọng người khác chút nhe. Họ đều là bậc tiền bối cả đó. Thân mến Thiên Đồng
  2. @tnt0106 Thiên Đồng nhớ nhầm. Sửa lại là tháng 2 âm Nhâm Thìn 2012. TD
  3. PHONG THỦY LẠC VIỆT THỰC HÀNH TẠI SÀI GÒN Sáng 02/10/2011, như thông báo 9g30 một số học viên Phong thủy Lạc Việt cơ bản, nâng cao đã đến trung tâm Nghiên cứu Lý Học Đông Phương cùng đi thực hành phong thủy cho một tư gia tại đường Lê Văn Sỹ quận 3, dưới sự hướng dẫn của Thiên Đồng. Trên đường xuất phát Longphibaccai: 2 phút nữa tới nha! Baosky, Trần Đăng Khởi Tranlong07, Thiên Đồng, Nòng Nọc, Longphibaccai Soncao, Tranlong07, Baosky, Trần Đăng Khởi Thiên Đồng, Nòng Nọc. Bàn luận sôi nổi Quan sát bếp Toa lét ở đây quá dở! Có vấn đề về cái này! 11g00, cả nhóm lại cùng đi thực địa với Sư Phụ Thiên Sứ: Sư Phụ đang tư vấn Đang rắc rối với gia chủ à? Đi phong thủy thực hành xong về đến nhà là 13g00 cả nhóm đói meo, liền ra quán ngồi ăn bánh tráng! Ăn đỡ chống đói! Tui đang ăn, đừng chụp tui nghen! Thiên Đồng ghi
  4. @Lapxuan19 Chào chú Thiên Đồng ạ, cháu tuổi ÂT Sửu, hỏi vào 15g 14' ngày 1/10/2011 Từ 9g30 - 10g 15 ngày 6/10 tới cháu phải thi để kết thúc thời gian thử việc. Mong bác xem giúp mọi chuyện có suông sẻ không, thành công không, cháu có được kết thúc thời gian thử việc chuyển sang giai đoạn mới không? (Tất nhiên là rất mong thành công ạ, nhưng mà bây giờ cháu cũng quá mệt mỏi với công việc, môi trường ở đây, thấy sức khỏe mình không được đảm bảo, nhiều khi nghĩ "mong" thi hỏng để có động lực, lí do nghỉ việc, làm chỗ khác , chú thấy cháu có nên làm ở chỗ khác không ạ?) Quẻ này thấy xấu. Thôi, cứ cố gắng vậy. Lâu nay nhân định thắng thiên cũng nhiều. Cảm ơn chú rất nhiều! @tnt0106 anh Thiên Đồng ơi, anh cho em hỏi: giờ hỏi 6:13PM ngày 1/10/2011: 1. Công việc của em (1983) có tiến triển tốt hơn bây giờ không? em có thể tìm được công việc mới tốt hơn trong cuối năm nay hoặc năm sau không? Tốt hơn thì chưa. Tạm được thì có. Tháng 2 âm năm tân mẹo có việc tốt hơn. 2. Em có con cái không? Có 2-8 con. 3. Công việc kinh doanh của chồng em (1981) có thuận lợi không a? Đang lúng túng về vốn. Bây giờ đang ở tư thế thủ. Tốt nhất là làm cuốn chiếu. Không mạo hiểm. Chắc thì làm, không thì thôi. Định kiêu gọi hùn vốn hoặc mượn tiền. Nhưng chưa chắc được. Mượn ít cầm chừng thì được. Xin cảm ơn anh Thiên Đồng
  5. Xôn xao quảng cáo tuyển trinh nữ... hái trà (Dân trí) - Gần đây, một công ty tại Hà Nam, Trung Quốc cho đăng tin tuyển dụng cực “ngầu” : Tuyển công nhân nữ hái trà, tiêu chuẩn là trinh nữ, số đo vòng một chuẩn 90. Quảng cáo của công ty Cố Thử. Ngay sau khi thông tin tuyển dụng được lan truyền, dân cư mạng Trung Quốc vô cùng bức xúc và thể hiện sự không đồng tình. Tất nhiên, đại diện của công ty trên phải ra mặt giải thích. Thông tin tuyển dụng lạ đời là của công ty TNHH Cố Thử, thuộc khu khai thác danh thắng Cửu Hoa Sơn, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Tin thông báo tuyển dụng được đăng chính thức từ ngày 14/4 vừa qua, nội dung chính như sau: “ Cần tuyển lao động nữ, sức khỏe tốt, yêu đời, thuần khiết; yêu thích văn hóa trà; vòng một từ chuẩn 90 trở lên; trên cơ thể không có vết sẹo lớn do bị thương… mức lương 500 NDT”. Ngay sau khi thông tin được đăng tải, dân mạng Trung Quốc truyền tay nhau và gây xôn xao dư luận. Một số ý kiến cho rằng, những yêu cầu tuyển dụng trên quá khắt khe, thậm chí mang tính chất soi mói để tuyển vợ hơn là tuyển công nhân làm thuê. “Không thấy nói là có kinh nghiệm trong công việc mà chỉ thấy đụng chạm đến những phần nhạy cảm của người ta. Thật hoang đường. Nó vi phạm quyền lợi cá nhân, chẳng khác nào coi thường người khác”, một ý kiến bình luận trên báo mạng Trung Quốc. Ngay sau đó, đại diện công ty TNHH Cố Thử buộc phải lên tiếng và lý do họ đưa ra là vì văn hóa uống trà. Trà được hái từ những thiếu nữ còn trinh nguyên, không vướng bụi trần sẽ có hương vị đặc biệt và thơm ngon hơn. Công ty nói họ không có ý coi thường quyền lợi cá nhân của người khác, chỉ đơn thuần mong muốn có được sản phẩm trà hảo hạng đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng mà thôi. Phạm Hằng Theo Huanqiu
  6. Dự đoán giá vàng với Lý Học Đông Phương Chủ đề này được mở ra với mục đích nhằm để tạo một sân chơi khảo nghiệm cho việc nghiệm lý phương pháp ứng dụng của mọi phương pháp dự báo của Lý học Đông phương. Bốc dịch, mai hoa dịch số, thái Ất, Lạc Việt độn toán....vv.....thuộc lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành Tuy nhiên mục đích chủ đề chỉ nhằm nghiên cứu phương pháp dự báo cho nên những dự đoán của mọi thành viên tham gia thực hành nghiệm lý sẽ không phải là một sự dự báo chính thức hay chuẩn xác cho vấn đề liên quan là "Dự báo giá vàng". Đơn giản chỉ là những thông tin tham khảo và không mang giá trị bảo chứng nào. Mong các đọc giả, các thành viên tham gia lưu ý và ghi nhận cho điều này. Thiên Đồng ngày mồng 4/8/ tân mẹo, giờ mùi, quẻ Cảnh Tốc Hỷ.
  7. @ Hoàng My Tóm lại là muốn gì thì bây giờ đi khám bệnh lại, thể dục, nghỉ dưỡng...chế độ đàng hoàng rồi tính. Có thể hổ trợ bằng các phương pháp khác như thiền...trong đó có phong thủy hổ trợ. Thiên Đồng
  8. Quả thị và những điều chưa biết 24/08/2011 10:17 Vào những ngày cuối hè đầu thu này, ở khắp các chợ dù là thành thị hay nông thôn xuất hiện mùi hương thoang thoảng của quả thị chín. Người ta còn đan cái giỏ nhỏ vừa để đựng quả thị rồi treo lên trong nhà để thưởng thức hương thị. Quả thị có tên khoa học là Diospyros decandra Lour. Quả tròn, sắc vàng, mọng nước và thường chia thành 6-8 múi. Quả thị chín ăn ngon nếu biết cách ăn (xoay quả và bóp nhẹ cho đến khi thịt quả mềm ra và nứt ra một khe nhỏ thì cho lên miệng hút). Trong một nghiên cứu gần đây, khi so sánh 19 loại trái cây trong đó có nhiều loại trái có mặt ở Việt Nam như: quả thị, trái bầu nâu, quả trứng gà, vú sữa, me keo, bồ quân, cóc rừng, vối rừng, bình bát, ổi, chuối hột, cà na, trứng cá, me rừng - chùm ruột núi thì tác giả nhận thấy hàm lượng fl avonoid tương đối cao. Flavonoid là một trong những hoạt chất tự nhiên có mặt rộng rãi nhất trong thực vật và là phân nhóm quan trọng trong các hợp chất phenol. Flavonoid có nhiều tác dụng được biết đến như chống oxy hóa, kháng viêm, kháng khuẩn, chống dị ứng và chống lão hóa. Nghiên cứu cũng chỉ ra quả thị có tác dụng chống oxy hóa nhẹ, bổ sung vitamin C và đường. Ngoài ra, trong một nghiên cứu khác đã chỉ ra quả thị có tác dụng bổ máu, kháng khuẩn, kháng nấm và kháng sốt rét. Theo Báo SK&ĐS
  9. @Linh Nga Chào Thiên Đồng, nhờ Thiên Đồng dự báo giúp Tôi tuổi Kỷ Hợi,nữ Hỏi lúc 15h45, ngày 30/9/2011 Tôi đi khám mắt 2 ngày trước và bác sĩ kết luận là bị đục thủy tinh thể. Câu 1: Nhờ Thiên Đồng xem giúp khi nào tôi phẫu thuật là tốt đẹp nhất ? Chọn ngày 9/9 âm, 17g20 đến 19g20, phẫu thuật. Câu 2: Tôi đang gặp chút rắc rối về tài chính với 1 công ty bảo hiểm, liệu tôi có nên đơn phương chấm dứt hợp đồng hay vẫn tiếp tục theo? Càng chấm dứt sớm càng tốt, để lâu thì thất thế và lỗ. Câu 3: Chồng tôi từ giờ đến cuối năm sức khỏe có sao không? Cơ bản là không có gì nghiêm trọng, bình thường, nhưng hay ăn chua, gan yếu, bao tử không ổn do gan không ổn. Nên đi khám bệnh. Cảm ơn Thiên Đồng Hong có gì. @ Hoàng My Dạ,mẹ nuôi sinh ngày 29.08.1968 ba nuôi sinh ngày 20.10.1964 dạ,mẹ muốn hỏi là tương lai mẹ còn có em bé nữa không em cám ơn anh ạ! Hỏi lại xem mẹ nuôi có phẩu thuật buồng trứng lần nào không? Theo quẻ thì có đụng chạm dao kéo lúc khoản 34-38 tuổi.Nếu có thì hơi khó đó. Thiên Đồng
  10. @ Moc Phong Linh Cháu chào chú Thiên Đồng ! - Tuổi: Mậu Thìn Hỏi lúc 20h 57phuts ngày 29/9/2011 DL Câu hỏi 1: Bao giờ thì cháu kết hôn? Nhanh thì 01 năm sau, chậm thì 2017. Câu hỏi 2: bạn trai cháu sinh năm Nhâm Tuất đang gặp khó khăn trong công việc, anh ấy sẽ vượt qua khó khăn này vào thời gian nào? nhanh thì tháng 10 âm, chậm thì tháng 3 năm sau. Câu hỏi 3: công việc của cháu sẽ như thế nào ạ? Hơi bị chán, làm nhiều nhưng lôc không bao nhiêu. Không nổ lực cũng vậy mà siêng năng cũng thế. Đôi khi bực mình vì ba chuyện không liên qua. Nhớ cẩn thận người nam cao to da ngâm đen, nói chuyện hay kể khổ, mắt dẹt hay láo liên. Cháu cám ơn chú ạ 1 Hong có chi. @ Hoang My anh Thiên Đồng ơi,em có được phép hỏi dùm cho mẹ nuôi không ạ? Chỉ 1 câu hỏi thôi,có được không anh? Ừ hỏi đi. Hỏi về tiền thì miễn bàn, không được. Hỏi về bệnh thì xem lại gan yếu. Hỏi chuyện hòa hay không thì sẽ hòa trong 3 tuần nữa. Thiên Đồng
  11. @ducthanghp Nhìn sơ qua lá số thấy rằng cung Thê của anh thể hiện là vợ của anh thuộc loại...dữ dằn. Thông minh, linh hoạt, khó trời ơi. Suy ra...anh sẽ có vợ. Tôi đoán là 3-4 năm nữa sẽ có. Lời khuyên thêm nữa là sau này yên bề rồi theo trường thống của ông cha để lại là "Nhất vợ nhì bà". Hà hà. Chúc hạnh phúc. Thiên Đồng
  12. KHÁI QUÁT NHÀ VIỆT Tiến sĩ Nguyễn Khắc Tụng (theo báo Văn nghệ trẻ) Là một dân tộc có lịch sử lâu đời và địa bàn cư trú khá rộng rãi, ngay từ thiên kỷ II trước công nguyên, tổ tiên người Việt (Lạc Việt) đã đi vào thời đại đồng và trở thành xã hội có giai cấp, có Nhà nước với nhiều ngành nghề khá phát triển đặc biệt là nghề nông và nghề đánh cá. Ngoài ra, các nghề thủ công khác cũng đạt được nhiều thành tựu. Tất cả những điều đó phần nào biểu hiện thông qua ngôi nhà, đơn vị sinh hoạt nhỏ nhất, và sau đó là xóm làng cùng các đơn vị hành chính cao hơn nữa. Làng xóm của người Việt xưa được gây dựng ở những vị trí tiện nước sinh hoạt và sản xuất, đồng thời phải là nơi cao ráo có khả năng chống thú dữ, giặc giã. Về sau này, tiêu chí đó còn được mở rộng thêm, đó là tiện lợi về giao thông, khi phương thức sản xuất đã vượt qua khỏi phương thức tự cung tự cấp hai loại nhà chủ yếu là nhà sàn và nhà đất, tùy thuộc vào địa hình cũng như nhu cầu sử dụng về mặt không gian. Về sau này, khái niệm khuôn viên xuất hiện làm hoàn chỉnh thêm quy mô của mỗi ngôi nhà. Bao gồm trong mỗi khuôn viên là một tổ hợp nhà gồm có nhà chính, nhà phụ và các công trình phục vụ sinh hoạt khác như vườn, ao, nhà bếp, nhà kho... Cách bố trí trong khuôn viên gia đình không chỉ khác nhau bởi mức độ giàu nghèo, mà còn khác nhau ở mỗi địa phương. ở miền bắc thường có các loại tổ hợp nhà như nhà chữ môn; nhà chữ công; nhà chữ nhị; nhà thước thợ... ở miền nam lại có các loại tổ hợp nhà như: nhà chữ đinh; nhà nối đọi (còn gọi là xếp đọi, sắp đọi hay sóc đọi) cùng một số biến thể trên cơ sở của các loại nhà này. Cũng như nhiều dân tộc khác, nhà ở của người Việt thường sử dụng các loại thảo mộc kết hợp với đất đá. Càng về sau này, tỷ lệ đất đá càng nhiều hơn thay thế cho chất liệu thảo mộc. Ngôi nhà nhờ đó mà cũng vững chãi, ổn định hơn. Tuy nhiên, một số quy cách trong việc xây dựng thì vẫn được bảo đảm. Các quy cách này được ghi trên một chiếc sào tre gọi là thước tầm. Tùy theo từng địa phương cũng như quy ước của từng nhóm thợ, các ký hiệu trên thước tầm có thể khác nhau, song đây thực sự là một "bản vẽ" vô cùng chính xác mà cũng vô cùng bí ẩn của những ngôi nhà Việt. Nói đến một ngôi nhà, điều cơ bản nhất vẫn là mặt bằng sinh hoạt được tạo ra từ những kết cấu của ngôi nhà đó. Khái niệm xây dựng nhà không chỉ là dựng lên những bức tường, mà chính là không gian được tạo ra bởi những bức tường đó là hoàn toàn chính xác. Tùy theo điều kiện và tập quán ở mỗi nơi, mặt bằng sinh hoạt của mỗi ngôi nhà cũng có nhiều điểm khác nhau. Cùng trên một diện tích, nhưng mặt bằng sinh hoạt của một ngôi nhà sàn có thể gấp từ 2 đến 2,5 lần một ngôi nhà gỗ hoặc nhà gạch khác. Nhà ở của cư dân ven biển khác nhiều so với nhà ở của cư dân vùng đồng bằng; nhà đô thị khác với nhà nông thôn, ở miền bắc, miền trung và miền nam, cách bố trí tạo ra mặt bằng sinh hoạt của mỗi ngôi nhà đều khác nhau. Đây chính là nét phong phú, đa dạng của những ngôi nhà Việt, gắn với tập quán và tín ngưỡng của từng vùng. Ngôi nhà với tín ngưỡng dân gian Tuy chỉ là một tế bào rất nhỏ trong đời sống cộng đồng, nhưng với mỗi cá nhân, ngôi nhà lại là cả một vấn đề lớn. Nó không chỉ đơn thuần là nơi cư trú, sinh hoạt của gia đình mà hướng nhà, thế đất còn ảnh hưởng đến cả tương lai con cháu sau này theo quan điểm của người xưa. Chính vì thế mà dựng nhà được coi là một trong những việc lớn của đời người, phải được chọn lựa rất kỹ càng với nhiều thủ tục không hề đơn giản. Muốn có được địa điểm "đắc địa" chủ nhà phải nhờ đến thầy "địa lý" hay các vị khoa bảng hiểu biết thuyết phong thủy và khoa phối hợp âm dương, ngũ hành để xem giúp. Người ta phải quan sát hình thế các mạch đất, hướng di chuyển của nước trong mạch đất để tìm ra nơi có chứa tụ khí của mảnh đất ấy. Chỗ đó gọi là đất "kết dương cơ" và sẽ được chọn để dựng nhà. Thế đất đẹp nhất phải là: "Minh đường thủy tụ" tức là trước nhà có nước tụ trong sáng như gương để nuôi dưỡng khí mạch của đất. Trước nhà mà có mặt nước rộng như thế thì gia chủ sẽ làm ăn phát tài, gặp nhiều may mắn. Còn trái lại, nếu thủy tụ bất thường, khi có, khi không, nước lại đục là không tốt. Cũng vì lý do này mà nếu trường hợp không có "thủy tụ" tự nhiên, người ta thường đào ao trước nhà hoặc xây hòn non bộ để tượng trưng cho yếu tố đó. Ngoài ra còn cần đến thế đất hai bên tả, hữu. Thế đất bên trái được gọi là "Thanh long", bên phải là "Bạch hổ". Nếu nhà có thế đất hai bên là thanh long và bạch hổ, như vậy là cân xứng "Tả phù hữu bật" làm ăn sẽ phát tài, nhiều lộc, con trai, con gái đầy nhà. Người Nam Bộ có câu: Không "long" như người không chân Không "hổ" như đứa ở trận không tay. Như vậy là bên trái phải có sông nước (thanh long: âm). Bên phải có đất cao (bạch hổ: dương). Nếu không có đất cao thì thay bằng vườn cây. Không những thế, mảnh đất để cất nhà còn phải phù hợp với hướng tuổi của gia chủ, nhà phải xa đình chùa, miếu mạo, cây cổ thụ. Nếu bắt buộc phải làm nhà gần đình chùa mà cùng trên một đường thẳng thì phải làm thụt lùi về phía sau một chút. Nhà không được làm trên mộ vì nhà là dương, mộ là âm. Tối kỵ là con đường, con nước (sông, ngòi, khe, suối hoặc đòn dông nhà người khác đâm thẳng vào mặt nhà mình. Hướng nhà cũng là điều rất quan trọng nên phải lựa chọn vô cùng cẩn thận. Trước hết phải là "hướng thuận tuổi" với tuổi chủ nhân. Nếu muốn có hướng nhà "đại lợi" thi căn cứ vào bát quái. Tỷ như: gia chủ tuổi Tuất, Hợi, thì không được làm nhà theo hướng tây - bắc. Hướng nhà còn được ấn định của năm làm nhà. Năm Giáp Tuất thì nhà không được quay về hướng bắc. Năm Giáp Tý, nhà không nên nhìn về hướng nam hoặc bắc... Ngoài ra còn phải để ý đến hướng nước chảy của các dòng nước gọi là "cuộc". Nước chảy về hướng tây là "kim cuộc", hướng đông là "mộc cuộc", hướng bắc là "thủy cuộc" và hướng nam là "hỏa cuộc". Nếu tuổi của gia chủ hợp với "mộc" thì nhà phải hợp với "mộc cuộc" tức hướng đông. Nếu nhà ở vị trí có dòng nước chảy quanh thì đó là địa điểm tốt vì được nhiều cuộc đất hợp lại. Xem thế đất và hướng nhà theo thuyết phong thủy thì rất phức tạp và không phải nơi nào cũng có người am hiểu thuyết này, cho nên hướng nhà thường được thực hiện theo kinh nghiệm của cha ông để lại: "Nam phương quý đường Bắc phương quý án Tứ thời bất hạn" Hay: "Ăn quả cành lạ, làm nhà hướng nam " Hoặc: - "Cất nhà quay cửa vô nam Quay lưng về chướng không làm mà cũng có ăn " - "Cất nhà quay mặt hướng đông Con gái không chồng mà lại chửa hoang" Nhà hướng nam phổ biến ở miền bắc vì đối với miền bắc hướng nam là hướng mát mẻ nhất. Còn ở nhiều vùng khác, nhất là miền trung trở vào Nam Bộ lại tùy thuộc vào hướng gió thịnh hành trong năm mà có hướng nhà khác nhau. Tuy vậy phổ biến nhất vẫn là hướng nam, đông, đông-nam hay tây-nam. Sau khi đã chọn được thế đất và hướng nhà rồi, tiếp đến là công việc tạo tác ngôi nhà. Từ khi bắt tay vào làm nhà cho đến khi ngôi nhà được hoàn tất, người ta còn phải thực hiện khá nhiều nghi lễ. Song tùy từng nơi từng vùng những nghi lễ này có gia giảm khác nhau: - Lễ bình cơ (Phú Yên) gia chủ mua sắm lễ vật đặt ngay trên miếng đất định chọn để cúng gia tiên, thổ thần rồi mới định hướng nhà. Sau đó gia chủ đi mời thợ bàn việc làm nhà. - Lễ phạt mộc, kiểu cách của ngôi nhà đã được thống nhất giữa chủ và thợ, người ta làm lễ khởi công gọi là lễ phạt mộc. Gia chủ làm hai mâm cỗ, một để cúng gia tiên, thổ thần, một để cúng tổ sư thợ mộc. Cúng xong người thợ cả cầm rìu chặt ba nhát vào một cây gỗ định làm cột cái để làm phép. Có nơi gia chủ nhặt lấy ba miếng gỗ do người thợ vừa chặt văng ra giữ lấy để đề phòng thợ làm phản thì đem ba miếng gỗ ấy ra ếm lại. Sau lễ này có thể bắt tay ngay vào công việc. Nhưng cũng có thể để lùi vài ngày sau cũng được. Nhưng nhất thiết người thợ cả phải lên rui mực định kích thước ngôi nhà vào lòng của nửa thân cây tre hay hóp. Rui mực còn gọi là thước tầm, sào nhà... tùy theo từng địa phương. - Lễ lập tục hay lễ cắt nóc, lễ này được coi là quan trọng nhất không thể bỏ qua. Chọn được ngày tốt gia chủ nhờ một người nào đó trong họ phải là vợ chồng song toàn, nhiều con lắm cháu, làm ăn phát đạt để làm lễ đặt cái nóc (đòn dông) lên gian chính giữa. Nếu nhà làm chưa xong mà chọn được ngày tốt người ta cũng có thể tổ chức lễ này. Nếu vậy người ta làm hai cái nạng để nâng đoạn cái nóc của gian chính giữa lên. Đoạn gỗ này phải để nguyên đó cho đến khi dựng nhà thì đặt vào vị trí của nó trong bộ khung. Trong khi làm lễ, đoạn đòn nóc đó được buộc hai cành lá thiên tuế, một vài vuông vải đỏ hay vóc đại hồng có vẽ hình bát quái (bùa), trừ yểm để ma khỏi vào nhà quấy nhiễu. Ngoài ra người ta còn treo một cuốn lịch tàu hay một cuốn sách chữ Hán, cầu mong cho con cháu học hành tấn tới. - Lễ an thổ, lễ này để báo thổ thần biết nhà đã làm xong. Trong số lễ vật có gạo rang trộn với nước để rắc vào bốn góc nhà. - Lễ động sàng, cúng báo gia tiên để dọn về nhà mới và được kê gia cụ vào nhà. - Lễ hoàn thành hay còn gọi là lễ lạc thành, lễ cài sào (gác thước tầm lên hai đầu cột cái của gian chính giữa). Lễ mừng nhà mới, chủ nhà tổ chức cúng gia tiên, thổ thần rồi liên hoan. Những người được mời tới dự thường tặng chủ nhà tiền, câu đối, pháo... - Lễ trả công thợ, lễ này do thợ tổ chức cúng tiên sư để nhận tiền công. - Lễ an cư, lễ tạ tổ tiên, thổ thần để báo cho biết là chủ nhân đã làm ăn yên ổn trong nhà mới. Ngoài hàng loạt những nghi lễ, thủ tục kể trên, việc chọn kích thước cho mỗi ngôi nhà cũng là điều khá đặc biệt. "Nhà nào sào nấy". Cái sào ở đây chính là cái thước tầm của mỗi ngôi nhà. Nó quyết định quy mô của mỗi ngôi nhà theo yêu cầu của chủ nhân. Còn việc chọn đơn vị đo lường dùng vào việc làm nhà thì chỉ mấy thập kỷ gần đây người thợ làm nhà mới dùng thước mét, còn xưa kia họ sử dụng một loại thước đo khá đặc biệt. Cái thước này biểu hiện mối tương quan giữa tầm vóc của chủ nhân với ngôi nhà của mình. Làm nhà cho ai, người thợ cả lấy chiều dài đốt gốc ngón tay út của chủ nhân làm đơn vị cơ bản cho cái thước đo. Mỗi thước dài bằng 10 đơn vị cơ bản đó. Như vậy mỗi thước này cũng vào khoảng trên dưới 40 cm. Riêng diều này cũng đủ thấy ngôi nhà gắn bó với con người ta đến thế nào. Nhìn lại một khoảng thời gian Từ sau Cách mạng Tháng Tám tới nay, nhất là vào những năm cuối thập kỷ hai mươi, nhà cửa ở nông thôn người Việt đã có rất nhiều thay đổi. Nhà mới mọc lên san sát khắp nơi làm cho bộ mặt nông thôn thay đổi hẳn. Tuy vậy sự phát triển nhà cửa ở nông thôn của từng địa phương cũng có sự khác biệt: về tốc độ xây dựng, về vật liệu xây dựng, về kiểu dáng và thị hiếu... Ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ có những kiểu nhà giống nhau tùy từng thời điểm và hình như những cư dân vùng này có thị hiếu gần nhau. Riêng những nơi gần đô thị lại có khuynh hướng làm nhà theo kiểu thành phố. Còn ở nông thôn miền trung và miền nam, nhà cửa mới được xây dựng lại có sắc thái khác. Tuy rằng nhà cửa mới được xây dựng ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ ngày một nhiều, nhưng về kiểu cách (mẫu nhà) còn nghèo nàn và đơn điệu. Giống nhau vẫn là cơ bản, chỉ khác nhau về chi tiết mà chủ yếu lại là mặt trang trí "mỹ thuật" trong kiến trúc. Từ sau cách mạng cho đến những năm 60, người ta vẫn làm nhà theo kiểu cũ. Bộ sườn hoàn toàn bằng gỗ với các kiểu vì kèo phức tạp. Hãy còn chạm trổ nhưng đã khác xưa là đường nét không những thô vụng mà còn bôi thêm sơn xanh đỏ lòe loẹt... Tất nhiên cách tổ chức trên mặt bằng sinh hoạt vẫn ít có sự thay đổi so với trước cách mạng. Nhưng rồi kiểu nhà này đã được coi là cổ lỗ, ngày càng ít người ưa thích. Một dạng nhà khác được thay thế, nhưng chẳng bao lâu nó lại bị phủ định để dẫn đến một kiểu nhà được coi là "mốt nhất". Dạng nhà sớm bị phủ định đã có chiều hướng tiến bộ: tuy không khác nhà xưa bao nhiêu, nhưng người ta đã sử dụng những kiểu vì kèo đơn giản, thay một số cột bằng tường chịu lực, số gian nhà không nhất thiết phải là lẻ. Nhà cao ráo thông thoáng, nhiều cửa. Gian dành cho phụ nữ không còn bịt bùng như xưa.Trong nhà hầu như không có chạm trổ, tô vẽ mà chỉ có một vài mô típ đơn giản nơi diềm dưới mái ở hàng cột hiên. Còn kiểu nhà được coi là "mốt" ấy, đó là kiểu nhà "tường hoa quá mái" nhà "hiên tây". Thật ra không có gì mới. Vào những năm 30 người ta đã thấy nó xuất hiện ở các đô thị và một vài nơi ở nông thôn của những quan lại về hưu hoặc của một vài thương gia có gốc gác ở quê... tất nhiên là của những người giàu có. Họ tiếp thu một vài bộ phận, vài chi tiết của kiến trúc Pháp rồi cấy vào ngôi nhà cổ truyền. Do vậy mà người dân quê gọi là "nhà lai Tây". Vẫn là nhà ba gian hai chái hay năm gian đứng (không có chái), vẫn những kiểu vì kèo phức tạp. Riêng hiên không có mái dốc mà đổ mái bằng được đỡ bằng một hàng cột phảng phất kiểu cột inônic hay corantơ. Hàng cột nay còn phải đỡ một mảng tường dài suốt mặt nhà và được xây cao quá mái cho nên mới có tên là "hiên tây" hay "tường hoa quá mái". Mọi mô-típ trang trí người ta đều phô ra ở cái mặt tường này. Còn cách bố trí trên mặt bằng sinh hoạt hầu như không khác xưa là mấy. Gần đây, bước vào thập kỷ 20 này, nông thôn miền bắc đã có nhiều nhà tầng, một khuynh hướng tốt là tiết kiệm được diện tích nền mà diện tích sử dụng lại nhiều hơn. Tất nhiên là cần đến xi-măng, sắt thép thay cho gỗ, tre. Điều đáng quan tâm ở đây là nhiều kiểu nhà mới chỉ là sự sao chép, chắp vá lai căng. Người ta đã lạm dụng quá nhiều trang trí, hoàn toàn mang tính hình thức phô trương, lãng phí vật liệu, tiền của mà không mấy mỹ thuật. Dù vậy, phải thừa nhận rằng nhà cửa ở nông khôn miền bắc đã có nhiều thay đổi. Hầu như khó tìm ra những túp lều lụp sụp siêu vẹo như dưới chế độ cũ. Nhà mới khang trang, sáng sủa, hợp vệ sinh, nhiều nhà gạch ngói hơn, nhiều tiện nghi hơn. Tuy nhiên, lối sống ở trong nhà hãy còn thay đổi chậm. Cái tâm lý phô trương, hình thức, ưa lòe loẹt... hình như ngày càng có cơ hội để phát triển. Còn với nông thôn miền trung và miền nam, nhà cửa mới được xây dựng cũng ngày một nhiều và với tốc độ ngày càng tăng. Ở miền trung kiểu nhà cổ truyền đã có sự thay đổi từ khá lâu do nhiều lần tu sửa, thêm bớt hoặc xây dựng mới. Chủ yếu là dùng những vì kèo đơn giản và nhiều nhà đã dùng tường thay cột. Nhà được xây dựng với phong cách giản dị, thanh nhã, ít phô trương bề ngoài mà chú ý nhiều đến thiết bị bên trong. Song cũng còn nhiều nhà quá thừa thãi bàn ghế, giường phản... làm cho không gian trong nhà thêm chật chội, vướng mắc kém phần thoải mái. Cho dù từ khía cạnh nào đi nữa, một điều không thể phủ nhận là mỗi ngôi nhà với từng gia đình và cả cộng đồng bao giờ cũng mang trong sự tồn tại của nó cả một ý nghĩa vô cùng to lớn. Thời gian, sự vận động xã hội và tốc độ đô thị hóa ngày một tăng đã làm mai một dần đi dáng dấp của những ngôi nhà cổ kính, chứng nhân của cả một hành trình lịch sử, đồng thời cũng là một mảng lớn bản sắc của văn hóa dân tộc. Đây thực sự là một thách thức lớn đòi hỏi phải có một cách đặt vấn đề nghiêm túc và những biện pháp tích cực, kịp thời, của nhiều cơ quan chức năng trong giai đoạn hiện nay, để quá trình phát triển đô thị của chúng ta không đi quá xa những gì thiêng liêng vốn có, bởi lẽ bên trong mỗi ngôi nhà là những con người. Tiến sĩ Nguyễn Khắc Tụng (theo báo Văn nghệ trẻ) Kiến trúc Việt Nam GS-TS Trần Ngọc Thêm Cơ sở văn hóa Việt Nam, TP.HCM, 1996 Đối với người nông nghiệp, Ngôi Nhà - cái tổ ấm để đối phó với nóng, lạnh, nắng, mưa, gió, bão - là một trong những yếu tố quan trọng nhất đảm bảo cho họ có một cuộc sống định cư ổn định, có an cư thì mới lạc nghiệp ! Tục ngữ có câu: thứ nhất dương cơ, thứ nhì âm phần, "dương cơ" và "âm phần" đều là chỗ ở cả: chỗ ở khi còn sống và khi đã chết. Do ngôi nhà chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong cuộc sống của người việt Nam cho nên, trong tiếng Việt nhà (chỗ ở) được đồng nhất với gia đình (gồm mọi người sống trong nhà), với vợ chồng (chủ nhân của ngôi nhà thành viên chính của gia đình), được mở rộng nghĩa ra để chỉ một cơ quan (nhà máy), nhà bảo tàng, nhà văn hóa), chỉ quốc gia ( nhà nước) và những người có chuyên môn cao sống trong quốc gia (nhà văn, nhà chính trị, nhà khoa học...). * Ngôi nhà của người Việt Nam có những đặc điểm gì ? Trước hết do đặc điểm khu vực cư trú của người Việt Nam là vùng sông nước cho nên ngôi nhà của người Việt Nam gắn liền với môi trường sông nước. Những người sống bằng nghề sông nước (chài lưới, chở đò,...) thường lấy ngay thuyền, bè làm nhà ở : đó là các nhà thuyền, nhà bè; nhiều gia đình quần tụ lập nên các xóm chài, làng chài. Đây là lời của JB Tavernier viết năm 1909 : "Họ (người Việt Nam) rất thích ở nước, thích ở trên nước hơn là trên cạn. Cho nên phần nhiều sông ngòi thì đầy thuyền. Những thuyền đó thay cho nhà cửa của họ. Thuyền rất sạch sẽ ngay cả khi họ nuôi gia súc ở trong đó" Nhiều người tuy không sinh kế trực tiếp bằng nghề sông nước nhưng cũng thích làm nhà sàn trên mặt nước để đối phó với ngập lụt quanh năm. Dưới con mất của Finlayson, một nhà ngoại giao người Anh thì Sài Gòn đầu tk. XIX có "nhiều nhà cao cẳng, sàn bằng ván, xếp hàng dọc theo bờ kênh, bờ sông hay dọc theo đường cái rộng thoáng đãng. Phố xá ngang hàng thẳng lối hơn ở nhiều kinh thành châu Âu". Nhà sàn chính là kiểu nhà rất phổ biến ở Việt Nam từ thời Đông Sơn, nó thích hợp cho cả miền sông nước lẫn miền núi. Nó không chỉ có tác dụng đối phó với (a) môi trường sông nước ngập lụt quanh năm mà còn có tác dụng đối phó với (B) thời tiết mưa nhiều gây lũ rừng ở miền núi và ngập lụt định kỳ ở vùng thấp, © khí hậu nhiệt đới có độ ẩm cao, và (d) hạn chế và ngăn cản côn trùng, thú dữ (ruồi muỗi, sâu bọ, rắn rết, cá sấu, hổ báo....) Ngày nay, nhà ở những vùng hay ngập nước (như đồng bằng sông Cửu Long) và các nhà kho (nơi phải đối phó với độ ẩm) vẫn duy trì kiến trúc nhà sàn. Vào tk. XVII, nhiều ngôi đình như đình Đình Bảng (Hà Bắc), đình Chu Quyến (Hà Tây), v.v. vẫn làm theo lối nhà sàn. Kỉ niệm về cuộc sống gắn bó với thiên nhiên sông nước mạnh đến mức những ngôi nhà của người Việt Nam đã được làm với chiếc mái cong mô phỏng theo hình thuyền. Người ta quen cho rằng đặc điểm này là vay mượn của kiến trúc Trung Hoa trong khi thực ra là ngược lại. Nhà sàn Việt Nam từ thời Đông Sơn (chưa hề giao lưu với Trung Hoa) đã có mái cong rồi. Các dấu tích còn lưu lại qua hình khắc trên trống đồng và trong lòng đất cho thấy rõ điều này. Nhà rông Tây Nguyên đến giờ vẫn làm theo kiểu mái cong tuy rằng cũng không hề có giao lưu với Trung Hoa. Tháp Chàm cũng có loại mái cong trong khi đó, nhà Trung Hoa thời Hán mái vẫn thằng đến cuối đời Đường, lối làm nhà mái cong mới thâm nhập dần từ Nam lên Bắc. Thậm chí Cố Cung ở Bắc Kinh được xây dựng vào thời Minh mà mái mới chỉ hơi cong nhẹ. Chiếc mái cong bắt nguồn từ phương Nam, ngoài ý nghĩa là hình ảnh của con thuyền, không có tác dụng thực tế gì. Chính vì vậy mà vào thời Đông Sơn, khi mà một chiếc cán dao, một chiếc môi (vá) múc canh cũng có thể được trang trí một cách cầu kì, thì nhà nhà đều làm mái cong; còn về sau này thì mái nhà bình dân thường làm duỗi thẳng cho giản tiện. Chỉ còn những công trình kiến trúc lớn (như đình chùa, miếu mạo, dinh thự, cung điện) mới được làm mái cong cầu kì. Ngoài ra các đầu dao ở bốn góc nhà, đặc biệt là đình chùa cung điện, cũng được làm cong vút lên tạo nên một dáng vẻ thanh thoát đặc biệt cho ngôi nhà vốn được trải rộng trên mặt bằng để hòa mình vào thiên nhiên. Ở trên vừa nói rằng nhà sàn có tác dụng đối phó với môi trường tự nhiên. Nó nằm trong một biện pháp rộng hơn được người Việt Nam đúc kết là nhà cao cửa rộng. Đó cũng là tiêu chuẩn ngôi nhà Việt Nam Về mặt cấu trúc; nó khác hẳn ngôi nhà ở phương Tây xứ lạnh phải làm nhỏ, trần thấp, tường dầy, cửa ít và nhỏ để giữ hơi ấm. Cái cao của ngôi nhà Việt Nam bao gồm hai yêu cầu : nơi con người đặt chân cao so với mặt đất, và mái cao so với nơi con người đặt chân. Nhà sàn đáp ứng yêu cầu "cao" thứ nhất (nơi con người đặt chân cao so với mặt đất) và có tác dụng đối phó với lụt lội, ẩm ướt, côn trùng... Ngày nay, nhà Việt Nam phần nhiều đã chuyển sang dạng nhà đất. Nhưng nhà đất lý tưởng vẫn là nhà phải có nền cao: nhà những người có của. nhà địa chủ, dinh thự quan lại.... đều làm nền cao; nhiều nơi hay ngập lụt, nền nhà cứ phải nâng cao dần. Còn yêu cầu "cao" thứ hai - mái cao so với nơi con người đặt chân (sàn hoặc nền) - là nhằm tạo ra một khoảng không gian rộng, thoáng mát trong nhà để đối phó với nắng nóng. Mái cao còn tạo ra một độ dốc lớn để đối phó với lượng mưa nhiều, khiến cho nước thoát nhanh, tránh dột, tránh hư mục mái. Hình nhà Đông Sơn cho ta thấy mái đều được làm khá cao so với sàn nhà. Tuy nhiên cái cao của mái nói đến ở đây không phải là cao tùy ý mà là cao vừa phải (tỉ lệ hợp lí giữa chiều ngang và chiều đứng đảm bảo độ dốc cần thiết là nằm ba ngồi hai). Ở vùng ven biển mái nhà lại phải làm thấp để tránh bão (do nhiều gió nên thấp ở đây cũng đủ mát rồi). Một câu hỏi tất yếu đặt ra là tại sao cùng với nhà cao, ngời ta không làm cửa cao mà lại làm cửa rộng? Cửa không làm cao là để tránh cái nắng xiên khoai và tránh bị ma hắt. Để tránh nắng, ngơi ta còn đan những tấm dại lớn bằng tre nứa để cản bức xạ nhiệt từ mặt trời và bức xạ nhiệt thứ cấp từ sân hắt vào. Cũng để tránh nắng, tạo ra một vành đai bóng mát quanh nhà và hắt ma ra xa chân các cột gỗ, đầu dói mái nhà Việt Nam (giọt gianh) thường được đưa ra khá xa so với hàng hiên; mái nhà sàn ở vùng núi thậm chí có giọt gianh gần ngang với mặt sàn. Còn phải làm cửa rộng là để đón gió cho thoáng mát, tránh nóng. Đầu hồi nhà trường để trống một khoảng hình tam giác để cho hơi nóng và khói đun bếp trong nhà bốc lên có chỗ thoát ra, đây cũng là một thứ cửa - cửa sổ trên cao - nó cùng với các cửa ở dưới tạo thành một hệ thống thông gió hoàn chỉnh. Cửa rộng để đón gió mát, nhưng đồng thời mặt khác lại phải tránh gió độc, gió mạnh; bởi vậy. dân gian có kinh nghiệm không làm cổng và cửa thẳng hàng (cửa chính thường ở giữa nhà, còn cổng thường lệch về bên trái), tuyệt đối tránh không để con đường trước mặt đâm thẳng vào nhà. Trường hợp bất khả kháng, phải làm một tấm bình phong bằng cây xanh hoặc bằng gạch để ngăn bớt gió và phân tán chúng sang hai bên. Biện pháp quan trọng thứ hai để đối phó với môi trường tự nhiên là chọn hướng nhà, chọn đất. Đó là cách tận dụng tối đa thế mạnh của môi trường tự nhiên để đối phó với nó. Đơn giản hơn cả là chọn hướng nhà. Hướng nhà tiêu biểu là hướng Nam : lấy vợ đàn bà, làm nhà hướng nam. Câu tục ngữ tưởng chừng vô lí đó thực ra rất dễ hiểu : Đối với người Việt Nam đã làm nhà thì phải là nhà hướng Nam - điều đó cũng hiển nhiên như việc lấy vợ phải là đàn bà vậy! Sở dĩ như thế là vì Việt Nam ở gần biển, trong khu vực gió mùa. Trong bốn hướng thì duy nhất chỉ có hướng Nam (hoặc đông Nam) là hướng tối ưu: Buổi sáng và buổi chiều không bị nắng chiều xiên khoai; và tránh được cái nóng từ phương Tây, cái bão từ phương Đông, và gió lạnh từ phương Bắc (gió bấc) thổi về vào mùa rét, lại vừa tận dụng được gió mát từ phương Nam (gió nồm) thổi đến vào mùa nóng. Muốn mát thì không gì cho bằng gió tự nhiên, gió Nam; tục ngữ có câu: Một trăm người hầu không bằng ở đầu ngọn gió và Gió Nam chưa nằm đã ngáy. Quan sát thực địa cho thấy rằng, từ thời nguyên thủy, người xưa đã biết tận dụng hướng Nam này để chống nóng và chống rét : phần lớn hang động Hòa Bình có người ở đều quay về hướng Nam hoặc Đông Nam. Không một hang có người ở nào lại có cửa quay về hướng bắc. Các tòa thành có nhiều cửa mở ra bốn phía thì cửa chính bao giờ cũng là cửa phía Nam (Ngọ Môn của kinh thành Huế có nghĩa là cửa phía Nam, "ngọ" là phương Nam theo trục tư ngọ trên la bàn của thầy địa lý). Nhà nhìn về hướng Nam cho nên cây đòn nóc nằm theo hướng đông-tây. Theo truyền thống văn hóa nông nghiệp trọng bên trái, người ta quy ước đặt gốc cây đòn nóc ở phía Đông (phía Đông bên trái ) cho nên đòn nóc còn có tên gọi là đòn đông, nhiều nơi dọc chệch thành đòn dông. Cũng do truyền thống trọng bên trái, bàn thờ Thổ công (ông Táo) - vị thần quan trọng nhất, cai quản cái bếp, cái nhà - được đặt ở gian bên trái; bài vị của ông vì thế được ghi là Trù tư mệnh Táo phủ thần quân. Cả cái bếp cũng được đặt bên trái (phía Đông), biệt lập và vuông góc với nhà chính, nhìn về hướng lây. Tại sao bếp lại nhìn về hướng Tây? Kinh nghiệm dân gian cho rằng nếu bếp làm không đúng hướng thì gia đình sẽ lục đục và hay sinh hỏa hoạn. Đó là do chức năng đặc biệt của bếp là nấu nướng: bếp nhìn về hướng Tây sẽ tránh được ngọn gió thường xuyên thổi từ phía biển (hướng Nam và Đông); trong trường hợp ngược lại. ngọn lửa sẽ bị gió tạt về phía vách gây cháy nhà, chí ít là cơm chẳng lành canh chẳng ngọt (như thế thì làm gì mà gia đình không sinh lục đục!). Nhưng nếu chỉ chọn hướng một cách giản đơn thì nhiều khi không giải quyết được vấn đề. Bởi lẽ tùy thuộc vào địa hình địa vật xung quanh, vào sự có mặt của núi, của sông, của con đường.v.v. mà ảnh hưởng của gió, nắng.... sẽ khác nhau. (cho nên ngoài việc chọn hướng, còn phải chọn nơi, chọn chỗ: (chọn bạn mà chơi, chọn nơi mà ở). Để giải quyết vấn đề một cách triệt để hơn, ở một mức độ cao hơn, truyền thông văn hóa phương Nam đã hình thành nên cả một nghề Chọn đất để làm nhà, đặt mộ, gọi là nghề phong thủy. Nghề phong thuỷ bắt nguồn từ những nhu cầu tinh tế trong quá trình sống định cư và những kinh nghiệm lao động phong phú của người nông nghiệp. Đất làm nhà gọi là dương cơ, đất đặt mộ gọi là âm phần; dương cơ được coi trọng hơn âm phần (nhất dương thắng thập âm), song trên thực tế thì người ta chỉ chú trọng đến đất dương cơ khi lập đình chùa, đặt đô thị, còn nhà thường dân thì chủ yếu chỉ chọn hướng mà thôi; nhưng âm phần thì thường nhờ thầy địa lí đi tìm đất rất cẩn thận. Trong "Vân Đài loại ngữ", Lê Quý Đôn kể rằng Hoành Cừ vốn không tin phong thủy, nhưng đã nói : "Người phương Nam... thử đất huyệt táng tốt hay xấu, họ dùng chỉ ngũ sắc đem chôn xuống đất độ mấy năm. rồi đào lên xem. Hễ đất tốt thì sắc chỉ không phai, đất xấu thì sắc chỉ biến màu hết. Họ lại lấy đồ đựng nước đem thả con cá vào nuôi.rồi chôn xuống đất vài năm, hễ cá sống là đất tốt, cá chết là đất xấu. Vì vậy, xem cây cỏ tươi hay hay héo cũng biết được đất tốt hay xấu". Thuật phong thủy hình thành ở nền văn hóa nông nghiệp Nam-á nên khởi đầu hoàn toàn được xây dựng trên căn bản âm dương Ngũ hành. "Phong" và "thủy" là hai yếu tố quan trọng nhất, tạo thành vi khí hậu cho một ngôi nhà. Nhà xứ nóng rất cần có gió và nước. phong là gió, động hơn thuộc dương; không có gió thì hỏng, nhưng gió nhiều quá cũng không tốt; gió có thể bị núi đồi, mô đất hay cây to lái di, do vậy nhà phong thủy cần nắm vững hướng gió, biết sử dụng các bình phong để lái gió theo ý mình. Thuỷ là nước. tĩnh hơn. thuộc âm; mặt nước trước nhà sẽ tạo nên sự cân bằng sinh thái trong khuôn khổ của một vi khí hậu; dòng nước ngoằn ngoèo, càng dài thì càng tụ, nếu phình ra thành hồ ao thì càng tụ thêm; nước đọng (bất cập) thì tù, không tốt, nhưng nước chảy mạnh (thái quá) cũng hỏng, chỉ có nước chảy từ từ (âm dương điều hòa) là tốt nhất. Theo Ngũ hành, các thế đất được phân thành hình thủy (ngoằn ngoèo như dòng nước), hình hỏa (nhọn như ngọn lửa). Hình mộc (dài như cái cây), hình kim (tròn), hình thổ (vuông). Đúng theo mối tương quan giữa các phương đông- tây của Ngũ hành với hai loại hình văn hóa, thế đất hình Kim (ứng với phương Tây du mục) được coi là sẽ phù trợ cho con cháu phát theo đường võ, còn thế đất hình Mộc (ứng với phương Đông nông nghiệp) sẽ phù trợ cho con cháu phát theo đường văn, nếu một thế đất có đủ cả Ngũ hành thì được coi là sẽ phát đế vương. Người nổi tiếng hơn cả về nghề phong thủy trong lịch sử việt Nam là ông Nguyễn Đức Huyên đời Lê, người làng Tả Ao (Nghi Xuân, Nghệ An), tục gọi là cụ Tả Ao, để lại nhiều sách dạy nghề này. Lực âm dương vận động trong lòng đất, chạy thành mạch. Truyền thống văn hóa nông nghiệp Nam-á coi trọng bên trái (phương Đông) hơn bên phải (phương Tây), nên mạch đất được gọi là long mạch (long = Rồng = phương Đông theo Ngũ hành), việc tìm đất gọi là tầm long, công cụ để tìm đất là cái tróc long và la bàn (la bàn lớn hơn cái tróc long, đầy đủ thông tin hơn, dùng để phân kim điểm huyệt). Phép tầm long, trước hết phải tìm tổ sơn, rồi dò theo long mạch mà tìm đến huyệt. Huyệt trường là thế đất có án che phía trước (gọi là tiền án. có khi là một quả đồi), chẩm làm chỗ dựa phía sau (gọi là hậu Chẩm, có khi là một trái núi), bên trái có tay Long và bên phải là tay Hổ (gọi là tảThanh Long, hữu Bạch Hồ). Tay Long và tay Hổ có thể là đồi núi. bờ ruộng,. dưới dạng hai vành móng ngựa ***g vào nhau : tay Long (= bên trái, phương Đông) phải ***g ra ngoài tay Hổ (= bên phải, phương Tây). Huyệt còn phải có chỗ trũng nước tụ lại ở phía trước (Minh đường) và chỗ trũng ở phía sau (Não đường). Long mạch có thể lớn hoặc nhỏ: lớn nó có thề gồm cả một vùng lãnh thổ, với những dãy nhiều ngọn núi trên một tay Long có thể có nhiều điểm kết, điểm kết nhất gọi là Hàm Rồng. Các kinh đô khi xưa đều là những địa điểm được chọn theo con mắt phong thủy. Trong Chiếu dời đô, Lí Công Uẩn miêu tả vị trí thành Đại La - mà rồi sẽ được đổi tên là Thăng Long như sau "Thành Đại La ở vào nơi trung tâm Trời Đất, được cái thế rồng cuộn hổ ngồi; đã đúng ngôi Nam Bắc Đông Tây, lại tiện hướng nhìn sông dựa núi. Địa thế rộng mà bằng, đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt, muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi. Xem khắp đất Việt ta, chỉ nơi này là thắng địa". Thành Huế ở trung tâm đất nước, nhìn rộng thì có biển đằng tờớc, núi đằng sau; nhìn hẹp thì có núi Ngự Bình ở phía trước làm án, sông Hương chảy lững lờ bao quanh, trên sông ở hai đầu có hai cồn đất như hai hòn đảo chầu vào - cồn Dã Viên ở bên phải là Bạch Hổ. Cồn Hến ở bên trái lớn hơn là Thanh Long, đoạn sông nằm giữa hai cồn đất ấy chính là Minh Đường. Con mắt phong thủy đã giúp tìm cho các đó thị những địa thế có núi có sông, có âm dương hòa hợp, tạo nên một môi trường thiên nhiên trong sạch và lành mạnh : Thăng Long có sông Nhị núi Nùng; Huế có sông Hương núi Ngự; Vinh có sông Lam núi Hồng Lĩnh; Đà Nẵng có sông Hàn núi Sơn Trà... Ngoài ra, trong việc "chọn nơi mà ở", người Việt, với tính cộng đồng nông nghiệp của mình, rất quan tâm đến việc chọn hàng xóm láng giềng xung quanh. Đến thời kì kinh tế hàng hóa đã phát triển, người Việt còn rất coi trọng việc chọn vị trí giao thông thuận tiện : nhất cận thị, nhị cận giang. Những đô thị có tốc độ phát triển nhanh đều là đô thị gần biển, sông, có giao thông thuận tiện. Các thôn ấp miền Nam và các khu dân cư mới hình thành đã từ bỏ cách tổ chức theo xóm làng với lũy tre khép kín cổ truyền mà chuyển sang quy tụ theo trục đường sông, đường bộ. Trong đô thị, vị trí nhà mặt tiền được đánh giá cao. Tuy nhiên các yếu tố phong thủy và cộng đồng vẫn không bị lãng quên; khi xét đến nhiều tiêu chuẩn thì yếu tố hàng xóm (lân) vẫn được xếp vào thứ hai : nhất cận thị. nhị cận lân, tam cận giang, tứ cận lộ. ngũ cận điền. Biện pháp thứ ba để đối phó với môi trường tự nhiên là tận dụng tối đa thế mạnh của môi trường tự nhiên trong việc chọn và sử dụng vật liệu xây dựng. Vật liệu xây dựng tự nhiên sẵn có nhất là tre. Cây tre có mặt ở khắp nơi. Tre có tác dụng cải thiện môi sinh, làm cho không khí mát mẻ, che chắn gió bão, được dùng làm vật liệu quan trọng cho việc làm nhà. Họ hàng nhà tre theo đặc tính của mình mà được phân công mỗi loại một việc: bương, vầu thân to dầy, đốt ngắn chịu sức nén khỏe có thể làm cột nhà; tre đằng ngà thân gần như đặc lại dẻo nên chịu sức kéo tốt có thể dùng làm đòn tay; mai thẳng và dày đều được bổ ra thành lá làm sàn nhà cho bà con miền núi; nứa mỏng có thể đập dập lợp mái hoặc đan vách; rồi còn hóp, luồng, trúc, giang, mây, song.... Để chống mối mọt, lạt mây tre phải luộc trước khi chẻ, chẻ rồi phải gác bếp cho khói xông; tre ngâm khoảng một năm dưới bùn ao khi vừa vớt lên mềm như sợi bún rất dễ uốn. còn khi để khô thì có khả năng chống mối mọt rất hiệu nghiệm. Tổng hợp và linh hoạt như thế, tre xứng đáng là hình ảnh biểu trưng cho tính cách Việt Nam, cho cái đẹp Việt Nam: Trúc xinh trúc mọc đầu dình, em xinh em đứng một mình cũng xinh. Sau tre thì đến gỗ. Gỗ quý và lí tưởng để làm nhà, để xây dựng đình chùa, cung điện là gỗ tứ thiết: đinh, lim, sến, táu. Còn để làm nhà dân gian thì phổ thông hơn cả là xoan, mít. Người nông thôn khi lập gia đình và làm nhà thường bao giờ cũng trồng một bụi tre ở góc vườn, một hàng xoan, vài gốc mít - đó là do tinh thần cộng đồng, thói quen lo xa : lối sống vì tương lai của người Việt Nam: tre, xoan, mít, đó là chuẩn bị cho 20 năm sau con mình có vật liệu làm nhà. Thân xoan cao, thẳng, phần gốc dể tròn làm cột, phần trên đẽo gọt làm xà, kèo....; gỗ xoan đắng (do chất nhựa) có tác dụng chống mối mọt lí tưởng: Nhà gỗ xoan, quan ông nghè. Lợp mái thì phổ biến là các vật liệu thực vật : rơm rạ, lá cọ (lá gồi), lá dừa nước cỏ tranh, nứa đan thành tấm. Ở một số địa phương miền Nam trên rui mè người ta đổ một lớp đất sét rồi mới lợp lá gồi lá dừa nước lên trên - đất sét có tác dụng cách nhiệt (chống nóng) và chống cháy rất tốt. Nung đất làm gạch xây tường và ngói lợp mái là một nghề thủ công rất phổ thông và cổ truyền có từ ngàn xưa. Ngói có nhiều loại với các chức năng khác nhau : ngói ống, ngói chiếu, ngói âm dương, ngói vảy rồng, ngói mũi hài, ngói lưu li (tráng men),... Gạch thì ngoài gạch chữ nhật, gạch vuông thông thường còn có các loại gạch chuyên dụng như gạch hộp (có kích thước lớn), gạch múi bưởi (xây cửa vòm), gạch có mộng, gạch thước thợ, gạch tròn, gạch đa giác.... Để xây tường thì hỗn hợp vỏ ốc vặn đốt thành than, vôi vỏ sò nghiền nát, trộn với cát giấy hàn hay rơm nếp vò nát luyện với vỏ xây dè đặt (hoặc các loại cây khác tùy địa phương) và mật mía tạo nên một chất kết dính lí tưởng; nó được dùng để đắp những con rồng, phượng, nghê. sấu.... trên nóc đình đắp những đầu đao cong vút rất bền vững với thời gian. Về cách thức kiến trúc thì đặc điểm của ngôi nhà Việt Nam truyền thống là rất động và linh hoạt. Toàn bộ ngôi nhà được hình thành trên cơ sở một bộ khung chịu lực hình hộp với sự liên kết chặt chẽ giữa các bộ phận trong một không gian ba chiều : theo chiều đứng, trọng lực của ngôi nhà phân bố đều vào các cột (cột cái, cột con, cột hiên) và dồn xuống các viên đá tảng kê chân cột; theo chiều ngang. các cột được liên kết bằng các kẻ (bẩy, câu dầu....) tạo nên các vì kèo; theo chiều dọc ngôi nhà, các vì kèo được liên kết lại với nhau bằng các (xà nóc, xà thượng, xà trung, xà hạ, xà chân). Để tăng thêm sự vững chắc cho ngôi nhà. các cột phải được đẽo theo hình đầu cán cân, chân quân cờ (ngọn cột nhỏ, gần gốc phình to và chân cột thắt lại theo tỉ lệ 6-10-8), khi dựng vì kèo thì các cột phải đứng theo thế choãi chân gọi là thượng thu hạ thách (thách 2 phân cho mỗi thước cao của cột). Không cần đến móng, tường. Tường đất vách nứa, hoặc ván bưng xung quanh chỉ có tác dụng che nắng mưa chứ không chịu lực. Tất cả các bộ phận của ngôi nhà được lắp ghép lại bằng dây buộc, néo con xỏ (đối với nhà tre) hoặc mộng (đối với nhà gỗ). Mộng là phần gờ lồi ra của một bộ phận này lắp khít vào chỗ lõm có hình dáng và kích thước tương ứng ở một bộ phận khác (theo nguyên lí âm dương). Kĩ thuật ghép mộng áp dụng cho toàn bộ đồ mộc truyền thống, từ nhà đến giường tủ, bàn ghế.... tạo nên sự liên kết chắc chắn nhưng lại rất động và linh hoạt. Khi di chuyển chỉ cần làm ngược lại là có thế tháo dỡ ra rất dễ dàng. Vì vậy, không có gì đáng ngạc nhiên khi biết rằng vua Gia Long đã cho dỡ một số cung điện của thành Hà Nội chở theo đường thủy vào dựng ở Huế; ngược lại, một nhà thờ họ ở Huế đã được chở ra Hà Nội dựng ở làng Vẽ; đền Hai Bà Trưng và chùa Trấn Quốc ở Hà Nội đã được di chuyển từ ngoài bờ sông vào trong đồng để tránh lụt; cũng để tránh lụt, vào năm 1903, đình Chèm ở bờ sông phía bắc Hà Nội đã được nâng cao hơn so với mặt nền cũ là 6 thước ta. Với kiều nhà này, việc mua bán nhà và đất là hai việc khác hẳn nhau. Để thống nhất kích thước, trong khi phương Tây dùng bản vẽ kĩ thuật phức tạp, chi li và cứng nhắc thì người Việt Nam dùng cái thước tầm (còn gọi là rui mực sào mực). Đó là một thân tre bổ đôi dài hơn chiều cao của cột cái, trong lòng máng vạch những kí hiệu cho phép xác định các khoảng ngang, khoảng đứng và khoảng chảy, từ đó mà ấn định được kích thước của các bộ phận như chiều cao của cột hiên, cột con, cột cái...Cấu tạo của thước tầm là chung cho mọi nhà, nhưng mỗi thước lại được tính theo một đơn vị gốc mang tính rất cá biệt là dốt gốc ngón tay út hoặc gang tay của người chủ nhà (truyền thống coi con người là trung tâm, lấy kích cỡ con người làm chuẩn để đo đạc tự nhiên và vũ trụ). Thành ra nhà nào thước ấy, không thể mượn thước người khác mà làm nhà cho mình được. Thước tầm trở thành vật xác định quyền sở hữu ngôi nhà của chủ nhân. Khi hoàn thành nhà, phải làm lễ cài sào để báo cáo với thần linh thổ địa và long trọng đưa cây thước tầm lên gác ở vị trí cao nhất dưới nóc giữa hai vì kèo. chỉ khi nào cần sửa chữa thì thợ cả mới lấy xuống để đo cắt các chi tiết thay thế. Về hình thức kiến trúc thì ngôi nhà Việt Nam là tấm gương phản ánh đặc điểm của truyền thống văn hóa dân tộc. Hình thức kiến trúc của ngôi nhà Việt Nam phản ánh truyền thống coi trọng bên Trái (phía Đông) của văn hóa nông nghiệp. Ngoài những điều đã nói về chiếc đòn đông có đầu gốc ở phía trái (phía Đông), về cái bếp luôn đặt phía trái (phía Đông),... ta còn có thể gặp hàng loạt sự kiện thú vị khác. Một tòa thành có nhiều cửa thì cửa chính nằm phía Nam; còn nếu có hai cửa nhìn về phía Nam thì cửa chính là cửa tả (bên trái, phía Đông). ở Nam Bộ, nếu trong nhà có thờ tổ tiên của cả hai họ thì bàn thờ họ nội đặt bên trái (phía gốc của cây đòn dông, phía đông) và họ ngoại đặt bên phải; cha mẹ đã qua đời thì bàn thờ cha mẹ đặt bên trái (vì gần gũi hơn), bàn thờ ông bà đặt bên phải. Hình thức kiến trúc ngôi nhà Việt Nam còn tuân thủ nguyên tắc coi trọng các con số ước lệ, nhất là số lẻ theo truyền thống văn hóa nông nghiệp. Bước vào cổng là cổng tam quan; bước lên bậc là bậc tam cấp; các kiến trúc lớn đều dựng theo lối nhà tam tòa. Các tòa thành như thành Cổ Loa, thành Huế đều có kiến trúc 3 lớp vòng thành. Ngọ Môn ở Huế nhìn chính diện có ba cửa (số 3) dành cho Vua và quan lại, thêm hai cửa phụ hai bên cho lính và súc vật (số 5), trên nóc có 9 nhóm mái (ca dao Huế : Ngọ Môn 5 cửa 9 lầu - Cột cờ 3 cấp, Phú Văn Lâu 2 tầng). Số gian của một ngôi nhà, số bậc của cầu thang trong nhà bao giờ cũng lẻ. Nói chung, khi có khả năng lựa chọn thì kiến trúc nhà cửa cho người sống đều chọn các sô lẻ vì số lẻ là dương (dương = động; động là sự sống và động còn phù hợp với tư duy linh hoạt của văn hóa nông nghiệp). Trong khi đó thì nhà cho người chết- nhà mồ - của các dân tộc (ở Việt Bắc, Tây Nguyên) lại chọn các số chẵn (ví dụ, số bậc cầu thang), vì số chẵn là số âm (âm = tĩnh, chết). Nhà mái lá Theo: Thư Viện Bình Ðịnh Anh về dỡ gỗ đa đa Cất nhà lá mái tháng ba em về (Ca dao Bình Định) 1. Dù quy mô thế nào, một nhà lá mái hoàn chỉnh thường có ba gian: nhà chính, nhà cầu và nhà lẫm. Nhà lầm chồi ra phía trước bên trái, tạo thành chữ L, trên cao làm kho chứa lúa, dưới là nơi ở của con cái. Nối sau nhà lẫm là phòng ở và bếp. Mỗi gian có hai mái trước sau, 2 chái phía còn lại nên nhìn tổng thể nhà có nhiều mái đá nhau. Có nhiều người gọi là nhà đá mái với lập luận nếu bảo lá mái vì lợp tranh thì nhà lợp lá dừa, lá cọ cũng có thẻ gọi như thế. Tuy nhiên tên gọi phổ biến vẫn là nhà lá mái và điều cơ bản khiến trúc này nổi tiếng vì chính cấu tạo của nó: mái, vách đều 2 lớp. Nhiều nhà có cả 2 lớp cửa. Nhà chính có 4 vì kèo, mỗi vì kèo có 4 cột trụ tròn, 2 cột sát vách trước sau, 2 cột giữa nhà. Có thể nhìn thấy tổng cộng 16 cột nhưng hàng cột trong tạo thành 3 gian thờ, chỉ còn 2 cột hàng ngoài có vẻ thảnh thơi vì hàng cột ở kèo biên được lắp vách ván tạo thành 2 phòng là chái đông và chái tây. Chái tây gọi là chái tàu dành cho khách. Chái đông là buồng vợ chồng gia chủ. Tại sao lại “đông chủ”? Theo chúng tôi, từ chái đông (luôn là phía trái nhà từ bàn thờ nhìn ra) phát triển tiếp nhà cầu, nhà lẫm, bếp… cho tiện sinh hoạt - chữ L tổng thể sẽ che khoảng sân trước tránh gió bấc vì hướng nhà ở dao động từ đông tới nam. Các cụm từ “3 gian, 2 chái”, “đông chủ tây khách” rất phổ biến từ nhà lá mái mà có. Riêng “đông tây chủ khách” còn được người Bình Định vận dụng vào vị trí tiếp khách dịp lễ, tiệc đến tận ngày nay. Ở nhà lá mái, giàn cột, kèo, xiên, trính… đều sử dụng gỗ tốt: lim, sơn, sầm, ná, xay, mít… Trừ cột tròn bào nhẵn, tất cả đều được xoi, tiện, chạm rất công phu. Các hình chạm chủ yếu là hoa lá, chim, nai, sóc, dơi, cây đàn… Một số nhà đầu kèo mái trước còn tạc nhái đầu rồng (nhà dân không được phép tạc rồng như cung vua phủ chúa). Các đường diềm 3 khám trên cao, các hàng bạo xổ hai bên cột được chạm thủng khiến 3 gian thờ cùng với cả tủ thờ, án thờ (án giò nai hoặc cò điếu) tạo nên vẻ đẹp vừa trang nghiêm vừa nhẹ nhàng thanh thoát. Hai vách ván tạo thành chái đông chái tây gọi là phên lụa giàn khép, trên cao trang trí ô hộc rất tinh tế. Phần lớn nhà lá mái làm kèo ghép cho từng đoạn trụ. Ở đầu trụ, để cho lưng kèo phẳng, nơi ghép phải “uốn cong” âm dương bẩy tiếp nhau. Chỗ “uốn” này là cơ hội cho các nghệ nhân chạm khắc và bộc lộ tài năng. Chống từ trính lên giao nguyên - nơi 2 đầu kèo giao nhau trên đỉnh - là bộ phận trụ lỏng khá độc đáo và có màu sắc bí ẩn, người dân gọi nôm na là cối, chày. Cối là bộ đỡ tròn đặt từ trính, nhiều tầng nở dần lên ôm lấy chân chày, đầu chày thuôn nhỏ khớp với giao nguyên thành hoa thị 6 cạnh. Ni tấc của 2 chi tiết này, theo lưu truyền trong dân, hoàn toàn không thuộc tính toán của người thợ cả mà do quyết định của thầy tử vi, bói toán. Áp ngay lưng kèo là lớp mái thứ nhất: trần sìa. Đó là những cây tre già ngâm nước hơn một năm để khỏi mối mọt, tẩy mắt, chẻ trái trả rồi ép phẳng thành tấm, bên trên đắp đất bùn trộn nhuyễn với rơm. Lớp cật tre sạch sẽ tinh tươm khá tương xứng với dàn gỗ bóng lộn. Lớp mái thứ 2 được chống cao phần đỉnh tạo độ dốc lớn có tác dụng che mưa nắng cho lớp trần sìa và dàn gỗ. Tre cũng ngâm nước kỹ, nguyên cây làm rui, chẻ ra làm mè, cột bằng dây mây neo giữ khoảng cách 10cm rất chắc chắn. Mái tranh được lợp dày 20, 30cm, chân mái xén bằng, thắt con rít bằng tre cặp vòng rất đẹp. Độ dốc lớn, khi lợp người thợ phải buộc dây lưng níu vào mè sau nếu không dễ cắm đầu xuống đất. Tranh dày, mái dốc, tới hơn 30 năm mới lợp lại! Vách nhà là mầm trỉ trét đất. Mầm là những cây tre được dựng dọc, trỉ cũng bằng các thanh tre buộc ngang hai bên mầm. Đất ruộng nhào nhuyễn với rơm trét hai phía trong ngoài xong dùng đất gò mối trộn nước dây tơ hồng hồ lại lớp mặt cho phẳng. Gặp vách đất hai lớp kiểu này khi phá bỏ còn khó hơn tường xây. Toàn bộ vách dựng trên hàng liệt địa lá rộng 20cm theo tường. Lớp này đặt trên những tắc kê 3cm cách liệt địa bàn 20.30cm bằng gỗ xay chống mối. Khe hở vách tạo độ thông thoáng. Dàn cửa chính theo kiểu thượng phong song hạ bản (còn gọi là bàn khoa, buồng khoa, bàn pha), trên là những song tiện, dưới panô, được xoi chỉ rãnh, chạm khắc công phu. Mái nhà kéo dài ra chỉ còn cách đất 1m6, nhiều nhà làm tiếp lớp cửa thứ 2 gọi là cửa thông hành. Vùng nhiều trộm cướp, cửa thông hành được làm bằng gỗ sung, thứ gỗ có đặc tính rìu chặt không tách, búa đánh không vỡ. Yếu điểm của nó là dùng lửa thổi sẽ tự ngún dần nhưng thời gian phá được sẽ lâu. Mái sau và chái làm vách thứ 2 tạo thành các luồng chứa chum, vại đựng các loại lương thực, các nông cụ… Nền nhà dùng đất thịt trộn muối đằm kỹ, làm đất khong nứt nẻ khô rốc, vừa mát vừa không bụi khi quét. Do cấu tạo 2 lớp, đặc biệt là lớp mái đất, nhà lá mái rất mát mùa hè ấm áp mùa đông. 2. Tuy vật liệu chỉ là gỗ, tre, tranh, đất nhưng độ bền vững của nhà lá mái rất cao. Qua hàng trăm cơn bão, trận lụt nhà vẫn an nhiên đứng đó làm nơi che chở và hạnh ngộ, nới ươm mầm yêu thương của bao thế hệ, cuộc đời. Độ bền vững có yếu tố quyết định của những người thợ, những nghệ nhân dân gian. Long rong về những nếp nhà xưa, tôi gặp câu: “làm thầy nuôi vợ, làm thợ nuôi miệng” thật thú vị. Các vị thầy (cúng, bói,… cả thầy đồ) có xôi oản, gạo nếp, tiền bạc đem về cho gia đình; người thợ quanh năm suốt tháng ăn ở nhà chủ, làm bao giờ xong mới thôi. Theo cụ Trần Bá Tuyến, một người thợ từng làm rất nhiều nhà mái lá (hiện cư ngụ ở phường Đống Đa., T.P Quy Nhơn); và theo hồi ức nhiều cụ già, cái “bao giờ” nêu trên không dưới 3 năm, với một bạn thợ hơn 10 người gồm thợ cả, thợ chính, thợ học việc. Khi làm nhà xong, người thợ thành như thân quyến của gia chủ, lễ lộc cúng giỗ hàng năm đều về. Bạn thợ được chủ cấp nồi niêu, gạo thóc tự nấu ăn, nước gạo cơm thừa họ dùng nuôi heo, heo con thành heo nái, để nhiều lứa mới xong nhà. Nhà ở đây bao gồm cả các vật dụng bên trong: giường, tủ, án thờ, tràng kỷ, phản gỗ… Dàn gỗ và vật dụng trong nhà có nhiều đường cong, chạm khắc, đòi hỏi sự khéo tay, khổ công. Cây trính chẳng hạn, không phải để thẳng mà đẽo cong 2 đầu kiểu giá chiêng, đầu chạm hoa cuộn. Tác phẩm này phải cần súc gỗ lớn gấp đôi làm nguyên liệu… Nét chạm khắc, bào, nạo đã hoàn chỉnh thì còn công đoạn cuối cùng là đánh bóng. Người thợ xưa không có giấy nhám. Công cụ để đánh bóng là chuối khô, dùng nùi lá đánh đến lên nước sáng bóng mới thôi. Công phu nhất, tinh xảo nhất chứng tỏ tay thợ nghề rõ nhất là hệ thống ngàm miệng. Vì không hề sử dụng định, chốt gỗ (con sẻ) nên ngàm miệng phải thật khít, vừa đẹp, vừa chắc. Những đường cong, những chi tiết chạm khắc, vừa đẹp, vừa chắc. Những đường cong, những chi tiết chạm khắc rắc rối khi lắp vào ôm kín đến mức chủ nhà thử bằng cách đổ nước vào tháo ra bên trong vẫn khô là được thừa nhận. Người thợ vừa khéo tay, vừa học đức kiên trì, nghiêm cẩn khi làm việc. Mất 3 năm miệt mài, người học việc mới được thầy cho ra nghề. Chữ “nuôi miệng” trong câu trên có 2 ý: miệng người và miệng gỗ! 3. Nhà lá mái Bình Định có tự bao giờ? Với gần 20 ngôi nhà tôi tìm tới ở Tuy Phước, An Nhơn, Phù Cát, Phù Mỹ các chủ nhân bây giờ đều khẳng định nôm na: của ông cố, ông nội để lại. Với các cụ ngoài 80, 90 như Trần Sánh, Hồ Ngọc Anh (Lộc Ngãi, Phước Quang), cụ giáo Hiệp (Luật Lễ, Phước Long – Tuy Phước), bằng phép tính đơn giản cũng biết cách đây 120-150 năm. Hiếm hoi có nhà ghi năm xây dựng như nhà thờ Nguyễn An ở Cát Hưng, Phù Cát: người thợ đã tỉ mỉ khắc lên vì kèo thông tin chính xác cho ta bây giờ, niên đại thế kỷ rưỡi! Ngay cả nhà thờ danh thần triều Tây Sơn Lê Công Miễn (Phước Hòa) được xếp hạng di tích văn hóa cũng 200 năm trở lại. Mấy chục năm chiến tranh ác liệt đã triệt hạ hàng trăm ngôi nhà ở Hoài Ân, Phù Mỹ… Nhà nổi tiếng cột to vùng Ân Nghĩa, Ân Đức không còn; An Nhơn trù phú và cổ kính của đất vua cũng chẳng còn bao nhiêu. Nhà lá mái tồn tại đến giờ nhiều nhất là ở Tuy Phước, xã nào cũng có. Trên thực tế có thể xác nhận nhà lá mái Bình Định thuộc thế kỷ XIX. Yếu tố độc đáo nhất của nhà lá mái là phần mái đất. Nhà ở đắp đất nhiều nước trên thế giới cũng có. Riêng Việt Nam các ngôi cổ tháp của người Chăm chất liệu cơ bản là đất. Trụ lỏng từ trính lên giao nguyên cấu tạo cối, chày rất giống yoni-linga, những hình thờ sinh thực khí của người Chăm. Nhà lá mái Bình Định có thể kế thừa kiến trúc ở Chăm cổ? 4. Phó giáo sư Chu Quang Trứ, tác giả cuốn “kiến trúc dân gian truyền thống Việt Nam” đã nghiên cứu khá công phu ở các dân tộc 3 miền. Đầu năm 2000 ông đến Bình Định được anh Từ Như Huyền Trân, cán bộ Bảo tàng đưa ra một số nhà lá mái, ông thừa nhận cuốn sách của mình còn thiếu sót đáng kể! Nói tới văn hóa truyền thống Bình Định, không thể thiếu nhà lá mái! Dĩ nhiên thời bấy giờ ít ai nghĩ chuyện làm nhà lá mái để ở. Chiến tranh đã lùi xa. Những ngôi nhà còn lại đang gánh nặng của thời gian sự quên lãng. Lớp con cháu thành đạt hướng về đô thị; còn lại những ông bà già bất lực nhìn mái dột cho mối xông dần hoa lá, sóc nho. Nhà lá mái bây giờ chỉ còn khung gỗ, trần sìa; vách đã được xây gạch, mái ngói , nền xi măng. Bằng khả năng của mình, từng gia đình cố gắng gìn giữ gia sản của ông cha. Nhà ông Ba Nghĩa (Nhơn Hòa, An Nhơn), anh Sáu Quảng, ông Trần Đình Trương (Tri Thiện, Phước Quang, Tuy Phước)… vẫn được bảo quản tốt bằng cách giữ nguyên vì kèo áp vách trang trí; tầng trên cũng vậy. Thực tế trong dân là thế. Các nhà quản lý, các nhà chức năng thì sao? Ở Bảo tàng chỉ có một ảnh chụp nhà thật và một mô hình thu nhỏ chưa đạt yêu cầu. Ông Đặng Hữu Thọ giám đốc Bảo tàng cho biết mua lại và phục chế một ngôi nhà lá mái như thật thì điều kiện ở ta chưa làm được. Ở ngành Văn hóa cũng chưa thấy có kế hoạch gì cụ thể! Theo chúng tôi, trong phạm vi có thể, bên cạnh tấm ảnh ngôi nhà, BTTH nên chụp nhiều tấm ảnh mô tả các chi tiết đặc sắc bên trong, phần nào đáp ứng nhu cầu tìm hiểu của các em học sinh và khách tham quan, và trong tương lai nên xây dựng một ngôi nhà lá mái hoàn chỉnh, tiêu biểu từ rào giậu cổng ngõ vào, vừa để bảo tồn vừa làm phương tiện trực quan giáo dục truyền thống. Và các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, lẽ ra đã có những công trình khoa học nghiên cứu một cách nghiêm túc về nhà lá mái. Trong bài viết “Bình Định đất mẹ của thơ tôi” nhà thơ Chế Lan Viên thể hiện sự hàm ơn đất nước con người Bình Định, có trân trọng nhắc đến ngôi nhà lá mái như một phần máu thịt thơ ông. Hy vọng một ngày nào đó chúng ta còn có cơ hội tự hào nhiều hơn về kiến trúc đặc sắc này của quê hương Bình Định khi nó được nghiên cứu đánh giá chính xác và làm tốt hơn về các vấn đề bảo tồn. Hết... Nhà ở dân gian miền Trung Vietsciences-Trần Quang Minh Nhà do một nhóm thợ xây, gọi là "hiệp thợ", đứng đầu là thợ cả . Có thể coi đây là đội xây cất bây giờ . Để chúng ta hiểu rõ hơn về nhà dân gian, tôi liệt kê những từ vựng trong ngôi nhà: I/ Từ vựng: VÌ : Dãy cột từ trước ra sau . Nhà nhỏ , mỗi dãy cũng phải có 2 hoặc 3 cột , vừa vừa thì 4 hoặc 5 cột , khá giả mỗi dãy được 6 hay 7 cột KÈO : Hệ thống gỗ kết nối các đầu cột của VÌ Tùy theo số cột và hình dạng của KÈO , ta có nhà RỌI hay nhà RƯỜNG Các KÈO và CỘT liên kết nhau thành khung nhà , dân gian gọi là BỘ GIÀN TRÒ . Tùy theo vị trí , cột có nhiều tên khác nhau CỘT HIÊN : Cột ngòai cùng ,trước khi vào nhà CỘT QUÂN : Dãy cột kế tiếp , chỗ cửa ra vào CỘT CÁI : Dãy cột giữa nhà CỘT QUYẾT TIỀN : Hai cột góc nhà phía trước CỘT QUYẾT HẬU : Hai cột góc nhà , phía sau CỘT ĐẤM TIỀN : Hai cột Quân , bìa nhà , phía trước CỘT ĐẤM HẬU : Hai cột Quân , bìa nhà , phía sau CỘT CỬA ĐÔNG PHÒNG : Cột kế đấm hậu , cùng với đấm hậu làm thành cửa vào phòng ở hướng Đông CỘT CỬA TÂY PHÒNG : Cột kế đấm hậu , cùng với cột này , lam thành cửa vào phòng ở hướng Tây Nhà dân gian đa số quay hướng về hướng Nam , đây là hướng mà theo thuật Phong Thủy ngày xưa , là tốt nhứt Cột Quân có nơi gọi là CỘT CON Cột Cái , có nơi gọi là cột hàng 1, cột Con là cột hàng 2 , cột Hiên là cột hàng 3 . Do đó ông bà ta thường ra HÀNG HIÊN hay HÀNG BA để hứng gió . KÈO cũng tùy theo vị trí , mà có nhiều tên khác nhau KÈO QUYẾT TIỀN : Liên kết cột Cái bìa phía trước với cột Quyết Tiền KÈO QUYẾT HẬU : Liên kết cột Cái bìa phía sau với cột Quyết Hậu KÈO ĐẤM TIỀN : Liên kết cột Cái bìa phía trước với cột Đấm Tiền KÈO ĐẤM HẬU : Liên kết cột Cái bìa phía sau với cột Đấm Hậu XÀ : Nối các bộ Vì Kèo , cũng tùy vị trí , mà có tên khác nhau XÀ THƯỢNG : 2 thanh , nối đầu cột Cái XÀ HẠ TIỀN : Nối đầu cột con phía trước XÀ HẠ HẬU : Nối đầu cột Con phía sau XÀ HIÊN : Nối đầu cột Hiên XÀ NGẠCH : Nối chân cột Con , nơi ngạch cửa ra vào Bộ Vì Kèo của nhà 3 gian 2 chái , cũng tùy vị trí , mà có tên như sau VÌ NHẤT TÂY : Bìa gian giữa hướng Tây VÌ NHÌ TÂY : Bìa gian bên , hướng Tây VÌ NHẤT ĐÔNG : Bìa gian giữa hướng Đông VÌ NHÌ ĐÔNG : Bìa gian bên , hướng Đông Ở Bình Trị Thiên , lọai nhà Rường rất được ưa thích . Nhà thường làm theo 3 lọai kích thước , căn cứ theo a / Chiều dài của TRẾNG , tính bằng thước mộc , là khỏang cách của 2 tim cột cái b / Chiều cao cột CÁI , từ mặt TẢNG ( mặt kê đá chân cột ) đến TRỐC ( đầu cột ) 1/ NHÀ BA HAI , có Trếng dài 3 thước 2 và cột cao 8 thước 6 nên còn gọi là nhà TÁM SÁU 2/ NHÀ BA BẢY , có Trếng dài 3 thước 7 và cột cao 9 thước 1 nên còn gọi là nhà CHÍN MỐT 3/ NHÀ BỐN HAI , có Trếng dài 4 thước 2 và cột cao 10 thước 5 nên còn gọi là nhà MƯỜI NĂM Thước mộc là thước riêng của chủ nhà . Đo chiều dài của đốt chân ngón tay út , bàn tay trái ,( nếu chủ nhà là nam ) Nếu chủ nhà là nữ , thì đo chân ngón tay út ,bàn tay phải ( nam tả , nữ hữu ) Chiều dài này nhân cho 10 , ta có 1 thước dài trên dưới 40 cm , tùy theo chủ nhà cao hay thấp , ngón tay dài hay ngắn . Kích thước này phù hợp với thước LỖ BAN , phải chăng , đây là thước Lỗ Ban của riêng từng người ? DÁNG CỘT :Cột được kê trên đá tảng , ( Đá xanh vuông , mỗi cạnh 45 cm dày 10 cm Có hình dạng và tỷ lệ như hình vẽ CỬA RA VÀO : Giữa xà hạ tiền và xà ngạch , ta có cửa ra vào Đố trên của cửa gọi là Cầu Quảng có then cài Đố đứng của cửa gọi là CON ĐỨNG, liên kết ngạch cửa , cầu Quảng với cột con Trên ngạch cửa có khóet lỗ gọi là LỖ CẬU , để tra CHÂN CÔ của cánh cửa Cánh cửa , người dân thích lọai THƯỢNG SONG HẠ BẢN , Đó là cánh cửa , phía trên có song gỗ thẳng , hoặc con tiện , phía dưới là ván , vừa kín đáo , vừa mát nguồn: diendankientruc
  13. @MyMy Một năm trở lại vẫn y nguyên Phiêu bạt muôn trời vẫn còn duyên Sao cứ đơn côi ôm giấc mộng Hỏi ai chia sẻ nỗi niềm riêng? Đông Thiền
  14. Vài Hình Ảnh Nhà Rường Huế Toàn cảnh nhà Phòng khách Cửa thương song hạ bảng Bàn thờ Bàn trà Giường ngủ Tò he Sư tầm
  15. NHÀ RƯỜNG HUẾ Rường ở Huế hiện nay không còn nhiều nhưng mỗi ngôi nhà được coi như một tác phẩm nghệ thuật độc đáo của chủ nhân, luôn bền bỉ chống chọi với nắng nóng, mưa dầm khắc nghiệt miền Trung. Về Kim Long, Phú Hiệp, Thủy Biều, Bằng Lãng hay những vùng ngoại ô của Huế như Phú Thanh, Phước Tích… dấu ấn thời gian dường như vẫn còn in đậm trong những ngôi nhà rường cổ rêu phong. Nói đến nhà rường, người ta nghĩ ngay đến Huế. Là vì, trên mảnh đất Thần Kinh xưa, vua chúa ở nhà rường, hoàng thân quốc thích ở nhà rường, quan lại, người giàu có ở nhà rường, ông bà tổ tiên, con cháu ở nhà rường thậm chí, trong cõi tâm linh người Huế, ma quỷ cũng ở nhà rường. Có nghĩa rằng, nhà rường là một phần quan trọng không tách rời làm nên nét riêng của văn hóa Huế. Nhà rường là một loại kiến trúc cổ, ra đời vào khoảng thế kỷ XVII, dưới triều đại phong kiến Việt Nam. Mặc dù chịu ảnh hưởng của lối kiến trúc Trung Hoa nhưng nhà rường Huế vẫn mang nét riêng biệt của người Việt. Gọi là rường bởi vì có nhiều rường cột, rường kèo, mè với lối kiến trúc theo chữ Đinh, Khẩu hoặc chữ Công. Gian trong nhà rường được tính bằng các hàng cột trong nhà, không có vách ngăn. Dưới thời phong kiến, việc làm nhà không nằm ngoài luật lệ vua ban. Năm Minh Mạng thứ ba (1822), vua ấn định rằng tất cả các nhà xây dựng bên ngoài Đại Nội, dù phủ của hoàng thân quốc thích hay trưởng công chúa đều không vượt quá ba gian, hai chái. Do vậy, nhà rường Huế xưa chỉ có một gian hoặc ba gian hai chái, có diện tích nhỏ, nhưng về sau bỏ quy định này mà chỉ quy định nhà dựng lên không vượt quá chiều cao cung điện của vua chúa. Do đó, nhà rường Huế thường thấp, mái nhà có độ dốc lớn. Khi làm nhà, gia chủ xem phong thuỷ lựa chọn khu đất tốt, phù hợp với tuổi của chủ nhân để có được “thế nhà” tốt, thuận lợi cho việc sinh hoạt của gia chủ. Hướng thường thấy ở các ngôi nhà rường là hướng nam, nắng xiên vách. Bếp được dựng ở bên trái và vuông góc với nhà chính. Ngôi nhà được dựng trong không gian có vườn cây trái, hoặc có hàng cau trước sân, có cổng lớn và có lối đi dẫn từ cổng vào nhà, nhưng muốn vào nhà, khách phải đi rẽ sang hai bên lối dẫn vào chứ không đi thẳng trực tiếp vào. Nhà rường Huế thường có 5 gian, gồm 3 gian chính và 2 gian phụ (thường gọi là chái), cá biệt cũng có nhà đến 7 gian (5 gian chính và 2 gian phụ). Giữa nhà có hàng cột cái (cột chính) cao to, với các tên gọi khác nhau: hai cột trong phía Đông gọi là “nhứt đông hậu”, hai cột trong phía Tây gọi là “nhứt tây hậu”, hai cột ngoài phía Đông gọi là “nhứt đông tiền”, hai cột ngoài phía Tây gọi là “nhứt tây tiền”. Các cột cái liên kết với kèo để đỡ khung nhà và mái. Cột thường được làm bằng gỗ mít, trau chuốt, dáng thượng thu hạ thách, các cột cái được nâng cao hơn bởi các bệ đá. Các cột quân (cột phụ) thì nhỏ hơn. Dãy cột quân lùi bên trong hàng cột cái gọi là dãy cột hàng nhì hậu, dãy cột quân tiến phía trước hàng cột cái gọi là cột hàng nhì tiền. Hai dãy cột này để đỡ kèo nhì gác qua. Bốn góc nhà có bốn cột quyết để đỡ kèo quyết và chúng được phân chia thành đông hậu, tây hậu, đông tiền, tây tiền. Bốn cột đấm ở vách đông, tây đỡ các kèo đấm thả xuôi từ cột cái. Các cột cái và cột quân chia không gian nhà ra làm ba phần: gian chính giữa lẫn hai gian bên thờ phụng, tiếp khách và cũng là nơi ngủ của người đàn ông. Hai chái hai bên là hai buồng gọi là đông phòng và tây phòng, là buồng ngủ dành cho phụ nữ và con cái. Đặc biệt, sự độc đáo và tinh túy nhất của những ngôi nhà rường Huế chính là những nét chạm trổ trên các cột gỗ, bao lam chạm khắc công phu, cầu kỳ… Tuỳ theo ý thích của gia chủ mà trên các hàng cột người ta chạm cách điệu hoa văn: tứ quý, bát bửu, hoa lá, chữ nho... với mong muốn sống lâu, thịnh vượng… Dù nhà rường Huế lớn đến mức nào thì vẫn thường theo quy tắc hội đủ ba tiêu chuẩn: vững chắc, tiện nghi và dung hòa với kết cấu chặt chẽ, bao quanh nhau hợp lý. Ngoài những nét đẹp kiến trúc, cổ kính xưa cũ thì nhà rường Huế lưu giữ nhiều hiện vật quý giá như sách, câu đối, sách cổ... đặc biệt là “mộc bản” là kho di sản văn hóa truyền thống đặc biệt của người dân Huế. Nhà rường ngày nay không chỉ là của riêng đất Cố đô, song vẫn được coi là di sản đặc trưng của Huế. Sự biến đổi nhanh chóng của nền kinh tế - xã hội đất nước đã và đang dần làm nhà rường mai một đi, nhưng sự phát triển mạnh của du lịch Huế đã tiếp thêm nguồn sinh lực cho việc phục hồi mạnh mẽ hàng loạt loại hình văn hóa dân gian ở Huế, phục hồi những ngôi nhà rường đặc trưng lối sống, phong cách Huế, tâm hồn Huế. Việc bảo tồn, trùng tu, xây dựng mới những ngôi nhà rường dưới sự hỗ trợ của một số tổ chức phi chính phủ trong nhiều năm gần đây chính là giúp Huế gìn giữ được tài sản văn hóa quý báu của dân tộc, gìn giữ được nét đẹp của Huế xưa. DiaOcOnline.vn - Theo Báo Thừa Thiên Huế Ảnh: Internet
  16. @Hiconsultant, Cháu chào chú Thiên sứ! Mong chú xem giúp gia đình cháu với ạ! Chồng cháu SN 1977- Sa Trung Thổ Cháu SN: 1979 - Đại Hải Thuỷ Con gái đầu SN: 2009 - Trường Lưu Thuỷ Cháu định sinh bé trai năm 2014 - Sa Trung Kim có được không ạ? Vợ chồng cháu nên sinh đứa thứ 2 năm nào và mùa nào thì tốt ạ? Tuổi vợ chồng cháu có hợp không? kết hợp với tuổi của con thì thế nào? làm ăn có thuận lợi và may mắn không ạ? Vợ chồng cháu nên ở nhà hướng nào thì tốt ạ? Chú cố gắng xem giúp cháu nhé! Cháu cảm ơn chú nhiều! Theo Luận tuổi lạc Việt thì sinh đứa 2014 Gáp Ngọ thì rất tốt, nên sinh tháng 6, 7, 8, 9. Vợ chồng khá giả. Ở nhà thì chọn hướng Tây, Tây bắc, Đông Nam và Đông Bắc. Thiên Đồng
  17. @ Hoàng My, Chào anh Thiên Đồng! em sinh ngày 02/02/1989 ( 26/12 năm Mậu Thìn) em hỏi vào ngày 29/09/2011, lúc 03:36 PM giờ Diễn đàn em xin hỏi: 1) em và mẹ nuôi (sinh năm 1968) khi nào mới hòa thuận? - 01 tháng nữa thì hòa, nhưng hai tuổi này dể trái ý kiến nhau lắm. 2) bạn trai (sinh năm 1985) em có yêu em thật lòng không ? - Nên thử thách mọi cách, thật giả sẽ rỏ thôi mà. 3) công việc của em trong thời gian sắp tới như thế nào? - Hơi buồn, chẳng đâu ra đâu, nhiều khi có người chơi khó nữa. Cẩn thận. em cám ơn anh!Hong có gì. Thiên Đồng
  18. @mimimi83, Bây giờ là 28 Th09 2011 07:47 PM theo đồng hồ của diễn đàn. Em sinh ngày 23/02/1983 . Chồng sinh ngày 25/09/1981. Xin nhờ anh tư vấn giúp: Câu hỏi 01: Em với chồng em có hạnh phúc trọn đời không ạ? Có. Câu hỏi 02: Khi nào gia đình chúng em mới khá giả ạ ? Nhanh thì 6 năm nữa, chậm thì 10 năm. Câu hỏi 03: Tụi em sẽ có mấy đứa con ạ ? Có 3-4 đứa. Em xin cám ơn anh! Hong có gì. @ Mecoca, Chào chú Thiên Đồng, hôm trước cháu đã nhờ chú luận giúp, hôm nay cháu có việc cảm thấy rất bế tắc, có thể nhờ chú giúp nữa được không ạ? Cháu sinh 23/08 năm Bính Dần Cháu hỏi vào ngày 29/09/2011, lúc 15h 18', các câu hỏi sau ạ: 01. Chồng cháu sinh 1983, chúng cháu đã có bé trai 27/06/2011. Trước đây gia đình chồng cháu rất khá giả, quen được mẹ cưng chiều nên có nhiều tính xấu, đặc biệt là bài bạc, đá banh. Tuy nhiên gia đình làm ăn thất bại, chồng cháu đã thay đổi, nay làm ăn có lại thì vẫn tính như xưa (chỉ không chơi banh bóng thôi ạ). Gia đình vì thế mà lục đục nhiều. Cho cháu hỏi chồng cháu có thể thay đổi được không ạ? Nếu có thì khi nào ạ (vì bây giờ đã có con rồi vẫn vậy, chú giúp cháu xem để cháu suy nghĩ có nên tiếp tục cố gắng). Cái này xem lại phong thủy nhà. Trong vòng 2 năm nay có sửa cửa hay có trồng hay đặt để gì trước cửa nhà không? 02. Mẹ chồng cháu vì kinh doanh nên lơ là con cái, chỉ chiều con nên sinh hư, che giấu để con đi chơi. Vì điều này nên dù cháu với mẹ chồng không có mâu thuẫn vẫn không vui trong lòng. Cháu nội sinh ra ở nhà cháu nhưng cũng chỉ thăm được 2 lần (bé nay đã 3 tháng rồi, mà mẹ cháu theo ông bà xưa bảo 3 tháng 10 ngày mới cho về),gây phiền lòng nơi mẹ cháu rất nhiều. Cho cháu hỏi mối quan hệ của cháu và mẹ chồng có tốt hơn được không? Bà có bảo được con để vợ chồng cháu hòa thuận không ạ? Mối quan hệ về bà mẹ chồng không có gì đáng lo. chồng không quậy, ít ăn chơi lại thì mẹ chồng sẽ khác. Vợ chồng hòa thuận hay không thì một mặt là về cải tạo tâm lý của vợ và chồng, mặt khác phong thủy hổ trợ. 03. Cuối cùng cho cháu hỏi vợ chồng cháu có sống với nhau lâu dài không ạ? (Sống kiểu này cháu cám thấy chán lắm ạ) Trời gầm không nhả. Cháu cám ơn chú nhiều. Vấn đề này nằm ngoài câu hỏi, chú giúp cháu để được các bác xem tử vi về gia đình sau này cháu phải làm thế nào ạ, lần trước cháu có link lá số để xem nhưng không biết lời nói có gì không phải hay không mà không được tư vấn. Cháu cám ơn chú rất nhiều ạ. Thiên Đồng không xem tử vi. Thông cảm nha. Thiên Đồng
  19. @ Cubin184 Nhờ Bác xem hộ em gái tôi được không năm sinh em bé. Vợ sinh năm 1981, chồng sinh năm 1981, con gái đầu lòng sinh năm 2006. Em tôi nên sinh em bé thứ hai vào năm 2012 hay 2013? Cám ơn Bác nhiều Cả hai năm 2012, 2013 đều tốt. Tùy. @ dothanhdungdt, Nhờ bác xem hộ cho nhà cháu Chồng sinh năm 1980 Canh Thân Vợ sinh năm 1983 Quý Hợi Con trai sinh năm 2010 Canh Dần Cháu nên sinh bé thứ 2 vào năm nào thì tốt nhất ạ? Nên sinh đứa 2018. @Nhi512, Bác Thiên Luân ơi, tư vấn dùm em chút là , em sinh 1984 ( mạng Kim ), chồng sinh 1978 ( mạng Hỏa), vậy nếu muốn sinh con đầu năm 2012 ( mạng Hỏa , khắc mẹ, hợp cha ) thì có sao không bác ? và đến 2016 sinh thêm tập 2 để hợp với mẹ ( ko biết có khắc với cha không) thì có được không hả bác ? mong bác tư vấn giúp. Cảm ơn bác nhiều. Cha 1978 mạng Thủy theo Lạc Việt. Nên sinh đứa 2016, 2017. Tùy. Thiên Đồng
  20. SINH NHẬT SƯ PHỤ THIÊN SỨ Chiều qua, 25/9/2011, thành viên lớp Phong thủy Lạc Việt của các lớp đã cùng đến chung vui, nâng ly mừng sinh nhật Sư Phụ Thiên Sứ trong không khí thân mật, ấm áp và sôi nổi.
  21. HOÀNG ĐẾ NỘI KINH LINH KHU TOÀN TẬP THƯỜNG HỶ LÊ NIÊN Biên soạn *** Song ngữ ( Việt – Hán) *** 黄帝内经灵枢 *** MỤC LỤC THIÊN 01: CỬU CHÂM THẬP NHỊ NGUYÊN THIÊN 02: BẢN DU THIÊN 03: TIỂU CHÂM GIẢI THIÊN 04: TÀ KHÍ TẠNG PHỦ BỆNH HÌNH THIÊN 05: CĂN KẾT THIÊN 06: THỌ YẾU CƯƠNG NHU THIÊN 07: QUAN CHÂM THIÊN 08: BẢN THẦN THIÊN 09: CHUNG THỈ THIÊN 10: KINH MẠCH THIÊN 11: KINH BIỆT THIÊN 12: KINH THỦY THIÊN 13: KINH CÂN THIÊN 14: CỐT ĐỘ THIÊN 15: NGŨ THẬP DOANH THIÊN 16: DOANH KHÍ THIÊN 17: MẠCH ĐỘ THIÊN 18: DOANH VỆ SINH HỘI THIÊN 19: TỨ THỜI KHÍ THIÊN 20: NGŨ TÀ THIÊN 21: HÀN NHIỆT BỆNH THIÊN 22: ĐIÊN CUỒNG THIÊN 23: NHIỆT BỆNH THIÊN 24: QUYẾT BỆNH THIÊN 25: BỆNH BẢN THIÊN 26: TẠP BỆNH THIÊN 27: CHU TÝ THIÊN 28: KHẨU VẤN THIÊN 29: SƯ TRUYỀN THIÊN 30: QUYẾT KHÍ THIÊN 31: TRƯỜNG VỊ THIÊN 32: BÌNH NHÂN TUYỆT CỐC THIÊN 33: HẢI LUẬN THIÊN 34: NGŨ LOẠN THIÊN 35: TRƯỚNG LUẬN THIÊN 36: NGŨ LUNG TÂN DỊCH BIỆT LUẬN THIÊN 37: NGŨ DUYỆT NGŨ SỨ THIÊN 39: HUYẾT LẠC LUẬN THIÊN 40: ÂM DƯƠNG THANH TRỌC LUẬN THIÊN 41: ÂM DƯƠNG HỆ NHẬT NGUYỆT LUẬN THIÊN 42: BỆNH TRUYỀN THIÊN 43: DÂM TÀ PHÁT MỘNG THIÊN 44: THUẬN KHÍ NHẤT NHẬT PHÂN VI TỨ THỜI THIÊN 45: NGOẠI SỦY THIÊN 46: NGŨ BIẾN THIÊN 47: BẢN TẠNG THIÊN 48: CẤM PHỤC THIÊN 49: NGŨ SẮC THIÊN 50: LUẬN DŨNG THIÊN 51: BỐI DU THIÊN 52: VỆ KHÍ THIÊN 53: LUẬN THỐNG THIÊN 54: THIÊN NIÊN THIÊN 55: NGHỊCH THUẬN THIÊN 56: NGŨ VỊ THIÊN 57: THỦY TRƯỚNG THIÊN 58: TẶC PHONG THIÊN 59: VỆ KHÍ THẤT THƯỜNG THIÊN 60: NGỌC BẢN THIÊN 61: NGŨ CẤM THIÊN 62: ĐỘNG DU THIÊN 63: NGŨ VỊ LUẬN THIÊN 64: ÂM DƯƠNG NHỊ THẬP NGŨ NHÂN THIÊN 65: NGŨ ÂM NGŨ VỊ THIÊN 66: BÁCH BỆNH THỈ SINH THIÊN 67: HÀNH CHÂM THIÊN 68: THƯỢNG CÁCH THIÊN 69: ƯU KHUỂ VÔ NGÔN THIÊN 70: HÀN NHIỆT THIÊN 71: TÀ KHÁCH THIÊN 72: THÔNG THIÊN THIÊN 73: QUAN NĂNG THIÊN 74: LUẬN TẬT CHẨN XÍCH THIÊN 75: THÍCH TIẾT CHÂN TÀ THIÊN 76: VỆ KHÍ HÀNH THIÊN 77 : CỬU CUNG BÁT PHONG THIÊN 78: CỬU CHÂM LUẬN THIÊN 79: TUẾ LỘ LUẬN THIÊN 80: ĐẠI HOẶC LUẬN THIÊN 81: UNG THƯ *** 目 录 九鍼十二原第一 本輸第二 小鍼解第三 邪氣藏府病形第四 根結第五 壽夭剛柔第六 官鍼第七 本神第八 終始第九 經脈第十 經別第十一 經水第十二 經筋第十三 骨度第十四 五十營第十五 營氣第十六 脈度第十七 營衛生會第十八 四時氣第十九 五邪第二十 寒熱病第二十一 癩狂病第二十二 熱病第二十三 厥病第二十四 病本第二十五 雜病第二十六 周痺第二十七 口問第二十八 師傳第二十九 決氣第三十 腸胃第三十一 平人絕穀第三十二 海論第三十三 五亂第三十四 脹論第三十五 五癃津液別第三十六 五閱五使第三十七 逆順肥瘦第三十八 血絡論第三十九 陰陽清濁第四十 陰陽繫日月第四十一 病傳第四十二 淫邪發夢第四十三 順氣一日分為四時第四十四 外揣第四十五 五變第四十六 本藏第四十七 禁服第四十八 五色第四十九 論勇第五十 背腧第五十一 衛氣第五十二 論痛第五十三 天年第五十四 逆順第五十五 五味第五十六 水脹第五十七 賊風第五十八 衛氣失常第五十九 玉版第六十 五禁第六十一 動輸第六十二 五味論第六十三 陰陽二十五人第六十四 五音五味第六十五 百病始生第六十六 行鍼第六十七 上膈第六十八 憂恚無言第六十九 寒熱第七十 邪客第七十一 通天第七十二 官能第七十三 論疾診尺第七十四 刺節真邪第七十五 衛氣行第七十六 九宮八風第七十七 九鍼論第七十八 歲露論第七十九 大惑論第八十 癰疽第八十一 *** THIÊN 1: CỬU CHÂM THẬP NHỊ NGUYÊN Hoàng đế hỏi Kỳ Bá: “Ta xem vạn dân như con, ta nuôi dưỡng trăm họ, thu tô thuế của họ. Ta chỉ buồn là nuôi họ không đủ để rồi họ bị bệnh tật . Ta không muốn để cho họ bị uống phải độc dược, cũng không muốn dùng đá để biếm. Ta muốn dùng loại kim vi châm để thông kinh mạch cho họ, điều hòa khí huyết cho họ, làm thế nào để cho khí huyết vận hành theo nghịch hay thuận đều có chỗ hội nhau . (Những ước muốn trên) phải có cách nào có thể truyền lại cho hậu thế . Muốn truyền được ắt phải có những phương pháp rõ ràng, ắt phải đạt được kết quả cuối cùng mà không bị hủy diệt, tuy dùng lâu đời mà vẫn không bị tuyệt, dễ làm, khó quên, đáng làm khuôn mẫu có cương kỷ, tách riêng bằng những phạm vi, chương trình, phân biệt biểu và lý, có thỉ có chung . Biết được một cách cụ thể bệnh nào châm kim nào . Vậy trước hết phải viết ra quyển sách CHÂM KINH. Ta mong được nghe thầy trình bày rõ ràng hơn” . Kỳ Bá đáp : “Thần xin được theo thứ tự mà trình bày rộng ra, làm sao cho vấn đề có cương, có kỷ, bắt đầu ở Nhất và chấm dứt ở Cửu . Trước hết, Thần xin nói về (Châm) Đạo . Việc quan trọng trong khi sử dụng tiểu châm là dễ trình bày nhưng rất khó thực hành . Phương pháp vụng về là chỉ lo giữ về mặt hình thái (của bệnh), phương pháp khéo léo là phải lo lưu ý đến thần khí . Thần ư ! Thần và khách đều gặp nhau ở cửa của các kinh. chưa thấy được bệnh ở đâu, làm sao biết được nguyên gốc của bệnh? . Sự vi diệu của phép châm là ở chỗ nhanh hay chậm . Phương pháp vụng về là chỉ lo giữ lấy tứ chi, phương pháp khéo léo là lo giữ cơ . Khi nói đến cái động của cơ là ý nói người châm không được rời sự chú ý của mình đối với huyệt khí . Cơ của huyệt khí vận hành một cách thanh tĩnh, cho nên chúng ta phải chú ý một cách tinh vi . Không nên đón gặp khi nó đến, không nên rượt theo khi nó ra đi . Người biết được con đường vận hành của cơ thì không để sai sót dù là việc nhỏ bằng một sợi tóc . Người không biết con đường vận hành của cơ thì dù có đánh vào nó, nó cũng không phát ra vậy . Biết được con đường vãng lai của khí thì sẽ biết được lúc nào có thể thủ huyệt để châm . Thực là tối tăm thay không những kẻ không biết được (sự vi diệu của cơ)! . Thực là khéo léo thay người nào hiểu rõ châm ý đó . Khí vãng gọi là nghịch, khí lai gọi là thuận . Biết được sự thuận hay nghịch thì sẽ thực hành việc châm bằng con đường chính đạo, không còn thắc mắc gì nữa! . Khí nghịch mà chúng ta dùng phép đoạt, làm sao tránh khỏi sẽ gây cho khí bị hư thêm? . (Khi khí đã ra đi) mà ta rượt theo để thêm cho nó, làm sao tránh khỏi gây cho khí bị thực thêm? . Phép châm theo đúng “nghênh, tùy”, lấy ý để điều hòa nó . Được vậy thì đạo của phép châm mới tròn vẹn vậy” . Phàm khi dụng châm: hư thì áp dụng phép châm thực, mãn thì áp dụng phép châm tiết . Khi tà khí bị tích tàng lâu ngày thì phải trừ đi, khi tà khí thắng thì phải áp dụng phép châm hư . Thiên “Đại Yếu” nói rằng: Châm theo phép “chậm rồi nhanh” gọi là châm thực . Châm theo phép “nhanh rồi chậm” gọi là châm hư . Khi nói đến “thực và hư” là muốn nói đến một cái gì như “có”, như “không có” . Khi nói đến “xét sau và trước” là muốn nói đến một cái gì như “còn” như “mất” . Khi nói đến “hư và thực” là muốn nói đến một cái gì như “được”, như “mất” . Việc trị hư và thực rất quan trọng, dùng phép ‘Cửu châm’ là hay nhất, nhưng phải đợi đúng thời thích hợp cho việc bổ hoặc tả để mà châm . Khi dùng phép tả, tức là dùng phép “nghênh chi”, “nghênh chi” có nghĩa là bắt buộc kim phải được nắm cho chắc, và bên trong phải thật bén nhọn . Đợi lúc khí đến thì phải rút kim thật nhanh và án phải thật chậm, nhờ đó có thể mở được con đường dương đạo giúp cho tà khí tiết ra ngoài . Khi rút kim ra (trong phép tả) mà án huyệt, như vậy sẽ làm cho tà khí bị đẩy trở vào và chất chứa bên trong, huyết sẽ không tán được, khí sẽ không xuất được . Khi dùng phép bổ, tức là dùng phép “tùy chi” . “Tùy chi” có nghĩa là phải làm sao cho người bệnh ít bị kích thích, giống như không có chuyện gì xẩy ra, giống như đang châm, đang dừng (tiến hành thật chậm), giống như con muỗi đang đậu lên, giống như đang giữ lại, đang lấy về . Khi rút kim ra phải thật nhanh như dây đàn bị đứt, vừa làm công việc bên tả, lại lo việc bên hữu, như vậy khí sẽ bị dừng lại, cửa ngoài bị đã bị bế thì khí bên trong mới thực . Điều quan trọng là không làm cho huyết bị lưu giữ (bên trong) . Nếu huyết bị lưu giữ, phải châm xuất cho thật nhanh . Đạo giữ kim phải giữ cho vững mới thật quý, ngay thẳng như ngón tay châm thẳng xuống, không nên nghiêng tả hoặc nghiêng hữu . (Phép giữ) thần khí (phải tinh vi) chính xác như sợi lông mùa thu, phải theo dõi kỹ lưỡng tình trạng bệnh của bệnh nhân . Xét kỹ, xem kỹ huyết mạch, khi châm vào sẽ không còn lo lắng . Trong lúc vừa châm xong, việc theo dõi thần khí là quan trọng nhất, sau đó là để ý đến vệ khí (tại biểu) và tỳ khí (tại tạng phủ) . Nếu thần khí còn, chưa mất thì mới có thể đoán được bệnh sống hay chết . Huyết mạch liên lạc chiều ngang với các kinh du, phải nhìn rõ một cách sáng suốt, phải trừ bỏ nó một cách vững vàng . Tên gọi của 9 loại kim châm, mỗi loại đều có hình dáng khác nhau . Một gọi là Sàm châm, dài 1 thốn 6 phân; Hai gọi là Viên châm, dài 1 thốn 6 phân; Ba gọi là Đề châm, dài 3 thốn rưỡi; Bốn gọi là Phong châm, dài 1 thốn 6 phân; Năm gọi là Phi châm, dài 4 thốn, rộng 2 phân rưỡi; Sáu gọi là Viên lợi châm, dài 1 thốn 6 phân; Bảy gọi là Hào châm, dài 3 thốn 6 phân; Tám gọi là Trường châm, dài 7 thốn; Chín gọi là Đại châm, dài 4 thốn . Sàm châm đầu to mũi nhọn, dùng làm tiết tả dương khí . Viên châm mũi hình như quả trứng, dùng như để xoa chùi trong khoảng phận nhục, không để cho thương tổn phần cơ nhục, dùng để châm cho khí ở giữa khoảng phận nhục tiết ra . Đề châm nhọn như mũi nhọn của hạt lúa thử, chủ về việc án lên mạch không cho bị hãm vào, nhằm làm cho kim tiếp xúc được với khí . Phong châm là loại kim 3 mặt có cạnh sắc, dùng để phát tiết tà khí, trừ cố tật . Phi châm là loại kim thân và mũi nhọn như lưỡi kiếm, dùng để châm lấy mủ . Viên lợi châm to như sợi lông dài, vừa tròn vừa nhọn, giữa thân hơi to ra, dùng để châm lấy bạo khí . Hào châm mũi nhọn như mũi con muỗi, khi châm thì khí sẽ đến một cách yên tĩnh, chậm chạp và nhẹ nhàng cho nên có thể lưu kim thật lâu nhằm dưỡng chính khí và trừ được tà khí đã gây nên chứng thống tý . Trường châm mũi nhọn mà thân mỏng, có thể dùng để lấy khí tý ở xa . Đại châm hình như cây côn mũi nhọn, phần mũi nhỏ, tròn, dùng để tả thủy ở các nơi quan tiết . Cửu châm đến đây là hết” . Ôi ! khí ở tại mạch: tà khí trúng thì ở trên, trọc khí trúng thì ở giữa, thanh khí trúng thì ở dưới . Cho nên châm vào hãm mạch thì tà khí bị xuất rất, châm vào trung mạch thì trọc khí xuất ra, châm vào quá sâu thì tà khí ngược lại, trầm xuống, bệnh càng nặng hơn . Cho nên nói rằng: Bì, phu, cân, mạch, mỗi bộ phận đều có chỗ “xứ: ở” của nó, còn các bệnh đều có chỗ “tạm trú” của nó . Tất cả đều biểu hiện không giống nhau và đều có vai trò riêng của nó, không thể quy định đâu là thực đâu là hư . Nếu ta bớt đi cái “bất túc” để thêm vào cho cái:hữu dư” thì đó gọi là làm cho bệnh nặng hơn [67]. Bệnh càng nặng, nếu châm vào các du huyệt của ngũ tạng thì sẽ chết, nếu châm vào mạch của tam dương thì sẽ làm cho tình trạng suy kiệt hơn . Châm “đoạt âm” thì phải chết, châm “đoạt dương” thì sẽ cuồng . Sự hại của việc châm trị như vậy là rất đầy đủ rồi vậy . Khi châm mà khí chưa đến thì không thể kể đến bao lâu . Khi châm mà khí đã đến thì thôi, không nên châm tiếp trở lại . Phép châm có những nguyên tắc thích hợp, có những cách châm không giống nhau, có những phép châm tùy theo bệnh, đó là những điểm quan trọng của phép châm . Khi nào khí đến đó là châm có kết quả tốt . Dấu hiệu của kết quả tốt ví như gió thổi tan đám mây che, sẽ sáng tỏ như thấy được trời xanh . Đạo của việc châm như vậy là đầy đủ rồi vậy . Hoàng Đế nói: “Ta mong nghe được trình bày về nơi xuất ra của ngũ tạng, lục phủ” . Kỳ Bá đáp : “Ngũ tạng có ngũ du, ngũ ngũ là nhị thập ngũ du . Lục phủ có lục du, lục lục là tam thập lục du . Kinh mạch có thập nhị, lạc mạch có thập ngũ, tất cả là nhị thập thất khí, nhằm để (làm đường) đi lên và đi xuống . Chỗ xuất ra gọi là huyệt Tỉnh . Chỗ lưu gọi là Vinh . Chỗ chú gọi là Du . Chỗ hành gọi là Kinh . Chỗ nhập gọi là Hợp . Con đường vận hành của nhị thập thất khí đều ở ngũ du huyệt vậy . Chỗ giao nhau của tiết có tam bách lục thập ngũ (365) hội . Nếu biết được chỗ quan yếu của nó thì có thể dùng một lời nói mà hiểu được tất cả . Nếu không biết chỗ quan yếu của nó thì sẽ hiểu một cách lưu tán vô cùng . Cái gọi là tiết, chính là nơi du hành, xuất nhập của thần khí, nó không phải là cái thuộc bì, nhục, cân, cốt vậy” . Quan cái sắc, sát đôi mắt, sẽ biết được bệnh đã hết hay còn trở lại . (Người thầy thuốc) phải chuyên chú vào tâm của mình, vào bệnh hình của bệnh nhân, phải theo dõi sát tình huống động hay tĩnh của bệnh, phải luận đúng về tà phong hay chính phong . Tay mặt đẩy kim vào, tay trái nắm vững kim để giữ gìn cẩn thận, khi nào khí đến thì rút kim ra . Phàm trong phép dụng châm, trước hết nên chẩn mạch, phải xét thần khí xem tình trạng nguy kịch hay đang bình thường rồi mới trị . Khi khí của ngũ tạng bị tuyệt bên ngoài, nếu ta dùng phép châm ngược lại, sẽ làm cho bên trong thêm thực, đó gọi là nghịch quyết . Bị nghịch quyết thì phải chết, khi chết thì ở tình trạng sao động, đó là vì người dùng phép châm trị đã châm theo lối tứ mạt . Cái hại của việc châm, đó là châm trúng khí mà chưa chịu rút kim ra, như vậy sẽ làm cho tinh khí bị tiết ra ngoài, hoặc châm chưa trúng khí mà đã rút kim ra, sẽ làm cho khí huyết bị tích trệ . Tinh khí bị tiết thì bệnh sẽ nặng và suy tàn . Khí huyết bị tích trệ sẽ gây thành bệnh ung và nhọt . Ngũ tạng có lục phủ, lục phủ có thập nhị Nguyên . Thập nhị Nguyên đều xuất ra ở tứ quan . Tứ quan chủ trị ngũ tạng . Ngũ tạng có bệnh nên thủ huyệt của thập nhị Nguyên . Thập nhị Nguyên là nơi mà ngũ tạng bẩm thụ “khí vị” của 365 tiết . Ngũ tạng có bệnh phải xuất ra ở thập nhị Nguyên . Thập nhị Nguyên đều có chỗ xuất của nó . Nếu chúng ta biết rõ các Nguyên huyệt, và chúng ta thấy được những biến ứng của nó thì chúng ta sẽ biết được tình trạng bị hại (bệnh) của ngũ tạng vậy . Phế thuộc Thiếu âm trong Dương, huyệt Nguyên của nó xuất ra ở huyệt Thái uyên, có 2 huyệt . Tâm thuộc Thái dương trong dương , Nguyên của nó xuất ra ở huyệt Đại Lăng, Đại Lăng có 2 huyệt . Can thuộc Thiếu dương trong Âm, huyệt Nguyên của nó xuất ra ở huyệt Thái Xung, Thái Xung có 2 huyệt . Tỳ thuộc Chí âm trong Âm, huyệt Nguyên của nó xuất ra ở huyệt Thái Bạch, Thái Bạch có 2 huyệt . Thận thuộc Thái âm trong Âm, huyệt Nguyên của nó xuất ra ở huyệt Thái Khê, Thái Khê có 2 huyệt . Huyệt Nguyên của Cao xuất ra ở huyệt Cưu Vĩ, Cưu Vĩ có 1 huyệt . Huyệt Nguyên của Hoang xuất ra ở huyệt Bột Ương, Bột Ương có 1 huyệt . Phàm tất cả thập nhị Nguyên chủ trị về bệnh của ngũ tạng và lục phủ vậy . Bệnh trướng thì thủ huyệt của các kinh tam Dương, bệnh tiêu chảy thì thủ các huyệt của các kinh tam Âm . Nay ngũ tạng có bệnh, thí dụ như đang có 1 cái gì cầm dính vào, như đang có 1 cái gì dơ bẩn, như đang có 1 cái gì kết tụ lại, như đang có 1 cái gì bế tắc . Cái gì “cầm dính vào” ấy, tuy dính lâu, vẫn có thể nhổ lên được, cái gì “dơ bẩn” ấy, tuy dơ lâu, vẫn có thể rửa sạch được, cái gì “kết tụ” ấy, tuy kết lâu, vẫn có thể cởi mở được, cái gì “bế tắc” ấy, tuy bế lâu, vẫn có thể khai ngòi cho thoát được . Nay nếu có người cho rằng bệnh lâu, không thể thủ huyệt để chữa trị, lời nói ấy sai . Ôi! Người khéo dụng châm, khi thủ huyệt để trị bệnh, phải giống như một người đang làm công tác “nhổ một vật đang cầm dính vào”, đang “rửa sạch một vật đang dơ bẩn”, đang “cởi mở một vật đang kết tụ”, đang “khai ngòi một vật đang bế tắc” . Bệnh tuy đã lâu, nhưng vẫn có thể trị được . Người nào bảo rằng không trị được, đó là vì họ chưa nắm được (châm) thuật mà thôi . Khi châm về nhiệt, phải như người đang thọc tay vào nước canh nóng . Khi châm về hàn, phải như có người đang bịn rịn không muốn ra đi . Nếu ở âm phận mà có bệnh thuộc về dương, phải thủ huyệt hạ lăng tam lý . Phải chăm chú một cách đứng đắn, không được lười biếng, cho đến khi tà khí thoát hết mới thôi . Nếu chưa thoát hết phải châm trở lại . Bệnh ở phần trên xâm nhập vào thì phải thủhuyệt Âm lăng tuyền . Bệnh ở phần trên, xuất ra ngoài thì nên thủ huyệt Dương lăng tuyền . 九针十二原第一法天 黄 帝问于岐伯曰:余子万民,养百姓,而收其租税。余哀其不给,而属有疾病。余歌勿使被毒药,无用随石,欲以微针通其经脉,调其血气,营其逆顺出入之会。令可 传于后世,必明为之法,令终而不灭,久而不绝,易用难忘,为之经纪。异其章,别其表里,为之终始,令各有形,先立针经,愿闻其情。岐伯答曰:臣请推而次 之,令有纲纪,始于一,终于九焉,请言其道。小②针之要,易陈而难入,粗守形,上守神,神乎神,客在门,未睹其疾,恶知其原。刺之微,在速迟,粗守关,上 守机,机之动,不离其空,空中之机,清静而微,其来不可送,其往不可追。知机之道者,不可挂以发,不知机道,叩之不发,知其往来,要与之期,粗之暗乎,妙 哉工独有之。往者为逆,来者为顺,明知逆顺,正行无问。逆而夺之,恶得无虚,退而济之,恶得无实,迎之随之,以意和之,针道毕矣。凡用针者,虚则实之,满 则泄之,宛陈则除之,邪胜则虚之。位要油:徐而疾则实,疾而徐则虚。言实与虚,若有若无,察后与先,若存若亡,为虚与实,若得若失。虚实之要,九外最妙, 补泻之时,以针为之。泻曰:必持内之,放而出之,排阳得针,邪气得泄。按而引针,是谓内温,血不得散,气不得出也。补日随之,随之意若妄之,若行若按,如 蚊虹止,如留如还,去如弦绝,令左属右,其气故止,外门已闭,中气乃实,必无留血,急取诛之。持针之道,坚者为宝,正指直刺,无针左右,神在秋毫,属意病 者,审视血脉者,刺之无殆。方刺之时,必在是阳,及与两卫,神属勿去,知病存亡。血脉者,在脑横居,现之独澄,切之独坚。九针之名,各不同形:一日锡针, 长一寸六分;二日员针,长一寸六分;三日胆针,长三寸半;四日锋针,长一寸六分;五日被针,长四寸,广二分半;六日员利针,长一寸六分;七日毫针,长三② 寸六分;八日长针,长七寸;九日大针,长四寸。镜针者,头大本锐,去泻阳气。员针者,针④如卵形,指摩分间,不得伤肌肉,以泻分气。①卷之一:原作'黄帝 素问灵枢经卷之一"。下同。②小:《甲乙经排"夫"。③三:拥已经诽"-"。④针:《太累•九针所生》杨注怅'锋"O116很针者,锋如黍粟之锐,主按脉 勿陷,以致其气。锋针者,刃三隅,以发病疾。彼外考,未如剑锋,以取大脓。员利针者,大如是,且员且锐,中身微大,以取暴气。毫针者,尖如蚊虹呼,静以徐 往,微以久留之而养,以取痛痹。长针者,锋利身薄,可以取远痹。大外者,尖如检,其锋微员,以泻机关之水也。九针毕矣。夫气之在脉也,邪气在上,浊气在 中,清气在下。故针陷脉则邪气出,针中脉则浊气出,针太深则邪气反沉,病益。故曰:皮肉筋脉各有所处,病各有所直,各不同形,各以任其所直。无实无虚,损 不足而益有余,是谓重①病,病益甚。取五脉者死,取三脉者惬;夺阴者死,夺阳者狂,针害毕矣。刺之而气不至,无问其数;剩之而气至,乃去之,勿复针。针各 有所直,各不同形,各任其所为。刺之要,气至而有效,效之信,若风之吹云,明乎若见苍天,刺之道毕矣。黄帝曰:愿闻五藏六府所出之处。岐伯曰:五藏五脑, 五五二十五航;六府六份,六六三十六偷。经脉十二,络脉十五,凡二十七气以上下,所出为井,所渴为荣,所注为辅,所行为经,所人②为合,二十七气所行,皆 在五胞也。节之交,三百六十五会,知其要者,一言而终,不知其要,流散无穷,所言节者,神气之所游行出入也,非皮肉筋骨也。睹其色,察其目,知其散复;一 其形,听其动静,知其邪正。右主推之,左持而御之,气至而去之。凡将用针,必先诊脉,视气之剧易,乃可以治也。五藏之气已绝于内,而用外者反实其外,是谓 重竭,重竭必死,其死也静,治之者辄反其气,取腋与膺;五藏之气已绝于外,而用针者反实其内,是谓逆厥,逆厥则必死,其死也躁,治之者,反取四末。刺之 害,中而不去,则精泄;害中而去,则致气。精泄则病益甚而惬,致气则生为痈疡。五藏有六府,六府有十二原,十二原出于四关,四关主治五藏。五藏有疾,当取 之十二原,十二原者,五藏之所以禀三百六十五节气味也。五藏有疾也,应出十二原,而③原各有所出,明知其原,睹其应,而知五藏之害矣。阳中之少阻,肺也, 其原出于太渊,太渊二。阳中之太阳,心也,其原出于大陵,大陵二。明中之少阳,肝也,其原出于太冲,太冲二。阴中之至阴,脾也,其原出于太白,太白二。阴 中之大阴,肾也,其原出于太溪,太溪二。膏之原,出于鸠尾,鸡尾一。盲之原,出于脖肌脖取一。凡此十二愿者,主治五藏六府之有疾者也。胀取三阳,淮地取三 明。今夫五藏之有疾也,譬犹刺也,犹污也,犹结也,犹团也。刺虽久,犹可拔也;污虽久,犹可雪也;结里久,犹可解也;闭虽久,犹可决也。或言久疾之不可取 者,非其说也。夫善用针者,取其疾也,犹拔刺也,犹雪行也,犹①重:原作"甚",据拥乙经》改。②人:原作"以",据牌乙经)刚素问•咳论征注5;根树文 改。③而:原作"二',揭牌已经》改。117解结也,犹决闭也。疾虽久,犹可毕也。言不可治者,未得其术也。刺话热者,如以手探汤;刺寒清者,如人不欲 行。阴有阳疾者;取之下陵三里,正往无殆,气下乃止,不下复始也。疾高而内者,取之阴之陵泉;疾病而外者,取之阳之陵泉也。
  22. THIÊN 19: TỨ THỜI KHÍ Hồng Đế hỏi Kỳ Bá: “Ơi ! Khí của tứ thời (bốn mùa), mỗi mùa đều cĩ sự biểu hiện khác nhau, sự khởi lên của trăm bệnh đều cĩ sự sinh ra của nĩ, phép cứu châm lấy gì làm chỗ định ?”[1]. Kỳ Bá đáp : “Khí của bốn mùa đều cĩ nơi ảnh hưởng (trong thân thể chúng ta), phép cứu châm phải đắc được khí huyệt là chỗ định[2]. Cho nên mùa xuân thủ ở kinh tức là nơi phận nhục của huyết mạch, nếu nặng thì châm sâu, nếu nhẹ thì châm cạn[3]. Mùa hạ thủ ở thịnh kinh và tơn lạc, thủ ở phận gian, tuyệt nĩ ngay ở bì phu[4]. Mùa thu thủ huyệt Kinh và Du, khí tà ở tại phủ thì thủ huyệt Hợp[5]. Mùa đơng thủ huyệt Tỉnh, Vinh, và tất phải châm sâu mà lưu kim lâu”[6]. Bệnh ơn ngược, mồ hơi khơng ra, thuộc về nhĩm 59 vết châm[7]. Bệnh Phong thủy bì phu bị trướng, thuộc nhĩm 57 vết châm, châm lấy huyết ở bì phu cho đến hết[8]. Bệnh xơn tiết châm bổ Tam âm chi thượng (tức Tam âm), châm bổ huyệt Âm Lăng Tuyền, tất cả đều lưu kim lâu, khi nào nhiệt khí vận hành mới thơi[9]. Bệnh chuyển gân (cân) ở Dương thì trị Dương, chuyển gân ở Âm thì trị Âm, tất cả nên dùng phép thiêu châm[10]. Bệnh đồ thủy, trước hết thủ huyệt dưới Hồn Cốc 3 thốn, dùng phi châm để châm, khi đã châm rồi lại dùng thêm phép đồng châm để châm đi châm lại nhiều lần, nhằm châm cho hết thủy, được vậy thì cơ nhục mới rắn chắc[11]. Khi thủy đến chậm thì lịng phiền muộn, khi thủy đến nhanh thì an tĩnh, cách ngày châm cho đến khi thủy ra hết mới thơi[12]. Nên uống loại thuốc làm thơng cái bế [13]. Trong lúc châm thì chỉ nên uống[14]. Trong lúc uống thì khơng được ăn, trong lúc ăn thì khơng được uống, khơng được ăn cái gì khác (ngồi thủy cốc) trong thời gian 135 ngày (mới bình phục)[15]. Bệnh Trước Tý làm cho sự hành động khĩ khăn, hàn khí lâu ngày khơng hết, mau mau thủ huyệt Tam Lý[16]. Cốt cứng rắn như thân cây cứng, (Đại và tiểu) trường đều bất tiện, thủ huyệt Tam Lý, nếu khí thịnh thì châm tả, khí hư thì châm bổ [17]. Bệnh Lệ phong, tìm châm trên chỗ sưng thủng, dùng kim nhọn châm nơi ấy, dùng tay đè cho ác khí xuất ra, cho đến khi nào sự sưng thũng hết mới thơi, nên ăn những thức ăn đúng phép, khơng ăn những gì ngồi ra, để cĩ thể phát độc[18]. Bệnh trong bụng thường kêu (sơi), đĩ là khí xung lên trên đến ngực, làm cho suyễn khơng đứng lâu được, đĩ là tà khí đang ở tại Đại trường, châm huyệt Nguyên của hoang, châm huyệt Cự Hư Thượng Liêm và Tam Lý[19]. Bệnh tiểu phúc (Trường) đau dẫn xuống hịn dái, dẫn đến cột sống, thắt lưng, xung lên đến Tâm, tà ở tại Tiểu trường làm liên hệ đến hịn dái cho đến cột sống, xuyên qua Can, Phế, lạc với Tâm hệ, khi nào khí bị thịnh thì thành chứng Quyết nghịch, xung lên đến trường Vị, hơ nĩng Can, tán ra ở hoang, kết lại ở vùng rớn, vì vậy, nên thủ huyệt Nguyên của hoang để làm tán tà khí, châm kinh Thái âm để đoạt tà khí, châm kinh Quyết âm để hạ tà khí, châm huyệt Cự Hư Hạ Liêm để trừ tà khí, đĩ là xét theo các đường kinh mà tà khí đi qua để điều khí[20]. Bệnh thường hay nơn, mỗi lần nơn ra nước đắng, hay thở dài ra, thở mạnh ra, trong lịng thấy trống rỗng, sợ cĩ người sắp đến bắt mình; đĩ là tà khí ở tại Đởm, nghịch lên đến Vị, chất dịch của Đởm tiết ra làm cho miệng bị đắng, Vị khí bị nghịch thì ĩi ra chất đắng, cho nên gọi là chứng ẩu Đởm, thủ huyệt Tam Lý nhằm làm cho Vị khí hạ xuống[21]. Khi Vị khí bị nghịch nên châm phần huyết lạc của kinh túc Thiếu dương nhằm làm cho khí đởm nghịch được dừng lại, nhằm điều hịa sự hư thực, đuổi được tà khí[22]. Bệnh ăn nuốt khơng xuống, hồnh cách bị bế tắc khơng thơng, đĩ là tà khí ở tại Vị hỗn[23]. Nếu tà khí ở tại thượng hỗn thì nên châm để làm cho thượng hỗn đưa khí đi xuống, nếu tà khí ở tại hạ hỗn thì nên châm để làm cho hạ hỗn tán khí (tả)[24]. Bệnh tiểu phúc, đau và sưng lên, khơng tiểu tiện được, đĩ là tà khí ở tại Tam tiêu, nên thủ huyệt Đại lạc của kinh túc Thái dương bàng quang, cĩ thể luơn cả tiểu lạc và tơn lạc, khi nào trơng thấy những tiểu lạc của (Thái dương) và Quyết âm kết thành huyết lạc, (trong khoảng mu bàn chân cho đến kheo chân), nên châm tả, nếu nĩ sưng lên đến vị hỗn thì thủ huyệt Tam Lý[25}. Nhìn cái sắc, xét cái bệnh do đâu mà ra, biết được bệnh đã tán (hết) hay cịn quay trở lại, xem màu sắc của mắt để biết được bệnh cịn hay hết, nên giữ bình tĩnh để giữ được sự hài hịa giữa hình và thần, lắng nghe sự động tĩnh, nắm giữ mạch Khí khẩu và Nhân nghênh, dựa vào mạch đang cứng và thịnh hoạt, đĩ là bệnh ngày càng tiến thêm, mạch nhuyễn (mềm) đĩ là bệnh đang giảm[26]. Nếu các kinh đang thực thì biết đĩ là trong khoảng 3 ngày bệnh sẽ hết[27]. Mạch Khí khẩu biểu hiện được Âm khí, mạch Nhân nghênh không biểu hiện được dương khí [28]. THIÊN 20: NGŨ TÀ Tà khí ở tại Phế sẽ làm cho bệnh bì phu bị đau, hàn nhiệt, khí lên trên làm cho suyễn, mồ hôi ra, ho động đến vùng vai và lưng [1]. Thủ huyệt du nằm ở phía ngoài của vùng giữa ngực và huyệt nằm ở cạnh của ngũ tạng du ở tiết xương thứ 3, dùng tay đè lên chỗ nào thấy dễ chịu (đó là chân huyệt), nên châm chỗ đó, thủ huyệt giữa Khuyết bồn để xua đuổi (Phế tà) [2]. Tà khí ở tại Can sẽ làm cho trong khoảng hông sườn bị đau, bị hàn ở trong giữa thân, ác huyết ở trong, khi đi đứng thường hay bị co rút, thường là sưng thũng ở chân [3]. Nên thủ huyệt Hành Gian nhằm dẫn thống khí dưới hông sườn, bổ huyệt Tam lý nhằm làm ôn (ấm) trong Vị, thủ ác huyết ở huyết mạch nhằm làm tán ác huyết, thủ những nơi có mạch mầu xanh nằm trong vùng tai nhằm xua đuổi chứng co rút [4]. Tà khí ở Tỳ Vị sẽ làm cho bệnh cơ nhục thống, khi Dương khí hữu dư, Âm khí bất túc thì sẽ thành chứng nhiệt trung, dễ đói; khi Dương khí bất túc, Âm khí hữu dư thì sẽ thành chứng hàn trung, ruột kêu (sôi) bụng đau, đó là Âm Dương đều hữu dư, nếu âm dương đều bất túc thì hữu hàn, hữu nhiệt; tất cả đều điều hòa bằng huyệt Tam Lý [5]. Tà khí ở tại Thận sẽ làm cho bệnh cốt thống, Âm tý - bệnh Âm tý là chứng mà ta dùng tay đè lên không biết được, bụng trướng, thắt lưng đau, đại tiện khó khăn, đau từ vai, lưng, cổ và gáy, thường hay bị choáng váng, nên thủ huyệt Dũng Tuyền và Côn Lôn, khi thấy có huyết ứ nên châm xuất huyết cho hết [6]. Tà khí ở tại Tâm sẽ làm cho bệnh Tâm thống, thường hay lo buồn, choáng váng té xuống, nên xem hữu dư hoặc bất túc để điều hòa các du huyệt [7]. THIÊN 21: HÀN NHIỆT BỆNH Da bị hàn nhiệt không thể nằm xuống chiếu được, lông tóc khô, mũi khô hết nhờn, không ra mồ hôi, thủ huyệt lạc của kinh Tam dương (túc Thái dương) nhằm bổ thủ Thái âm [1]. Cơ (nhục) bị hàn nhiệt làm cho phần cơ bị đau, lông tóc bị khô, môi cũng khô mất trơn nhuận, không có mồ hôi, nên thủ huyệt lạc của Tam dương (Thái dương) nhằm đuổi huyết lạc, châm bổ kinh túc Thái âm nhằm làm cho ra mồ hôi [2]. Cốt bị hàn nhiệt, làm cho người bệnh không lúc nào yên, mồ hôi chảy rót ra không thôi [3]. Nếu răng chưa bị khô thì nên thủ huyệt lạc nơi phía trong đùi kinh Thiếu âm [4]. Nếu răng đã khô thì chết, bất trị [5]. Chứng cốt quyết cũng thế [6]. Bệnh Cốt tý làm cho toàn thể khớp xương bị bất dụng mà đau nhức, mồ hôi chảy rót ra, Tâm bị phiền, nên thủ huyệt ở kinh Tam dương để bổ [7]. Thân mình nếu có chỗ bị thương, máu ra nhiều, đến nỗi trúng phải Phong Hàn khí, nếu như có khi bị té xuống đất, tứ chi bị buông lỏng không co lại được, gọi là chứng Thể nọa, nên thủ huyệt nơi Tam kết giao dưới rún - Tam kết giao thuộc kinh Dương minh và Thái âm, huyệt nằm dưới rốn 3 thốn, tức là huyệt Quan Nguyên [8]. Chứng Quyết tý là chứng mà khí quyết nghịch (của tam dương) lên trên cho đến bụng (mà thôi), nên thủ huyệt lạc của (túc Thái) âm và (túc Dương minh), tuy nhiên người thầy thuốc nên xem chủ bệnh thuộc kinh nào để mà, nếu thuộc kinh dương minh thì tả, nếu kinh thái âm thì bổ [9]. Động mạch bên cạnh của cổ là huyệt Nhân Nghênh, huyệt Nhân Nghênh thuộc kinh Túc Dương minh [10]. Huyệt nằm trước gân cổ và sau gân cổ, thuộc kinh Túc Dương minh, có tên là Phù Đột [11]. Huyệt nằm ở mạch kế bên ngoài thuộc kinh túc Dương minh, có tên là Thiên Dũ [12]. Huyệt nằm ở mạch kết bên ngoài nữa thuộc kinh túc Thái dương có tên là Thiên Trụ [13]. Huyệt nằm dưới nách thuộc kinh thủ Thái âm, gọi tên là Thiên Phủ [14]. Dương tà nghịch ở Dương kinh làm cho đầu đau, ngực bị đầy không thở nổi, thủ huyệt Nhân Nghênh [15]. Bị cảm 1 cách nhanh chóng, mạnh bạo, khí nghịch (làm cho cổ họng và lưỡi) bị cứng, thủ huyệt Phù Đột và châm xuất huyết cuống lưỡi [16]. Bị điếc 1 cách nhanh chóng, mạnh bạo, khí bị che lấp xuống dưới làm tai và mắt mất sáng, thủ huyệt Thiên Dũ [17]. Bị co quắp, động kinh 1 cách nhanh chóng và mạnh bạo, choáng váng làm cho chân không còn tuân theo thân mình nữa, thủ huyệt Thiên Trụ [18]. Bị chứng đản 1 cách nhanh chóng và mạnh bạo, bên trong bị nghịch, Can và Phế cùng đánh nhau, huyết tràn lên đến mũi và miệng, thủ huyệt Thiên Phủ [19]. Trên đây là 5 cánh cửa lớn (Thiên) gọi là Thiên Dũ Ngũ Bộ [20]. Kinh thủ Dương minh có đi vào vùng xương má và mũi lan tỏa vùng răng, gọi đây là Đại Nghênh [21]. Khi răng dưới bị đau nhức thì thủ huyệt của Tý (Thủ) Dương minh, nếu sợ (uống) lạnh thì châm bổ, nếu không sợ (uống) lạnh thì châm tả [22]. Kinh túc Thái dương có đi vào vùng xương má và mũi lan tỏa vùng răng (mạch mà nó hợp để đi vào) đó là huyệt Giác Tôn [23]. Khi răng trên bị đau nhức nên thủ các huyệt ở vùng trước xương mũi và má, nếu là lúc đang bệnh thì mạch thịnh, thịnh thì nên châm tả, nếu hư thì châm bổ, còn 1 cách nữa đó là thủ các huyệt nằm ở ngoài mũi [24]. Kinh túc Dương minh có đường đi áp theo mũi nhập vào mặt, gọi nơi đó là huyệt Huyền Lô, (đường đi xuống) thuộc vào miệng, (đường đi lên) đối lại với miệng để nhập vào mục bản, (dù ở miệng hay là ở mắt) nếu thấy có đi qua (bệnh) thì thủ huyệt châm, châm theo lối tổn hữu dư: tả bớt cái hữu dư và ích bất túc, bổ thêm cho cái bất túc, nếu châm ngược lại thì bệnh càng nặng [25]. Kinh túc Thái dương có đường thông với cổ gáy nhập vào não, đây chính là thuộc vào gốc của mắt, gọi là Nhân hệ [26]. Khi đầu hay mắt bị đau, thủ huyệt nằm ở giữa 2 đường gân giữa cổ nhập vào não, đây là nơi tương biệt với mạch Âm kiểu và Dương kiểu, là nơi giao hội giữa các đường kinh Âm Dương, là nơi mà mạch Dương (Kiểu) nhập vào Âm, và mạch Âm (Kiểu) xuất ra ở Dương để rồi giao nhau ở khoé mắt ngoài (trong), khi nào Dương khí thịnh thì mắt mở trừng, khi nào Âm khí thịnh thì mắt nhắm lại [27]. Chứng Nhiệt quyết nên thủ huyệt ở kinh túc Thái âm và Thiếu dương, tất cả đều nên lưu kim lâu [28]. Chứng Hàn quyết nên thủ huyệt ở kinh túc Dương minh và túc Thiếu âm, tất cả đều nên lưu kim lâu [29]. Lưỡi bị chảy nước dãi xuống, lòng phiền muộn, thủ huyệt ở kinh túc Thiếu âm [30]. Người bị lạnh run, hai hàm đánh nhau, không ra mồ hôi, bụng bị trướng, lòng phiền muộn, thủ huyệt ở kinh thủ (Thái) âm [31]. Châm bệnh hư, nên châm lúc nó ra đi, châm bệnh thực nên châm lúc nó đến [32]. Mùa xuân thủ huyệt ở lạc mạch, mùa hạ thủ ở phận nhục và tấu lý, mùa thu thủ huyệt ở Khí Khẩu, mùa đông thủ huyệt kinh du [33]. Phàm trong tứ thời, mỗi thời phải lấy thống nhất (tề) làm chính: Lạc mạch trị bì phu, phận nhục và tấu lý trị cơ nhục, khí khẩu trị cân mạch, kinh du trị cốt tủy [34]. Ngũ tạng khí biểu lộ ra thân gồm 5 bộ (vị): vùng huyệt Phục Thố là một, vùng bắp chuối chân là hai, vùng phì tức là bắp chuối chân vậy, vùng lưng là ba, vùng các du huyệt của ngũ tạng là bốn, vùng cổ gáy là năm [35]. Trong 5 bộ trên đây, bộ nào bị ung thư thì chết [36]. Bệnh bắt đầu ở cánh tay, trước hết nên thủ huyệt ở kinh thủ Dương minh và thủ Thái âm làm cho mồ hôi ra [37]. Bệnh bắt đầu ở trên đầu nên thủ huyệt ở cổ gáy thuộc kinh túc Thái dương làm cho mồ hôi ra [38]. Bệnh bắt đầu ở vùng ống chân (hĩnh), trước hết nên thủ huyệt của kinh túc Dương minh, làm cho mồ hôi ra [39]. Châm kinh thủ Thái âm có thể làm cho mồ hôi ra, châm kinh túc Dương minh có thể làm cho mồ hôi ra, cho nên khi châm kinh âm mà mồ hôi ra quá nhiều có thể châm dứt mồ hôi bằng kinh Dương, châm kinh Dương mà mồ hôi ra quá nhiều có thể châm kinh Âm để dứt mồ hôi [40]. Cái hại của việc châm, đó là châm trúng khí mà chưa chịu rút kim ra, như vậy sẽ làm cho tinh khí bị tiết ra ngoài, hoặc châm chưa trúng khí mà đã rút kim ra sẽ làm cho khí huyết bị tích trệ [41]. Tinh khí bị tiết thì bệnh sẽ nặng mà suy tàn, khí huyết tích trệ sẽ gây thành bệnh ung và thư [42]. THIÊN 22: ĐIÊN CUỒNG Khoé mắt ngoài rạch ở mặt gọi là khoé mắt nhọn, khoé mắt nằm trong gần mũi gọi là nội tý: khoé mắt trong [1]. Mí mắt trên thuộc ngoại tý, mí mắt dưới thuộc nội tý [2]. Chứng Điên tật lúc mới bắt đầu sinh ra, trước hết làm cho bệnh nhân không vui, đầu bị nặng và đau nhức, nhìn thấy đỏ, nếu bệnh phát lên đến cực rồi giảm (dứt), sau đó bị phiền Tâm, bệnh bộc lộ ở Thiên đình [3]. Nên thủ các huyệt ở kinh thủ Thái dương, thủ Dương minh, thủ Thái âm, châm xuất huyết cho đến khi nào màu của huyết biến (đỏ) mới thôi [4]. Bệnh Điên tật khi mới bắt đầu phát, làm cho miệng méo phải rên la, hơi thở suyễn, lo sợ, biểu hiện ở 2 kinh thủ Dương minh và thủ Thái dương [5]. Nếu bên trái bị đau cứng thì công vào bên phải, nếu bên phải bị đau cứng thì công vào bên trái, khi nào màu của huyết biến (đỏ) thì mới thôi [6]. Bệnh Điên tật khi mới bắt đầu phát, trước hết người bệnh bị vặn ngược cứng đờ, nhân đó bị cứng cột sống, bệnh biểu hiện ở các kinh túc Thái dương, túc Dương minh, túc Thái âm, thủ Thái âm [7]. Châm xuất huyết cho đến khi nào huyết biến đỏ mới thôi [8]. Phép trị bệnh điên tật, (người thầy thuốc) phải thường ở bên cạnh (người bệnh) để quan sát những nơi cần thủ huyệt để chữa [9]. Nếu bệnh đến, ta nhìn kỹ chỗ có bệnh để châm tả, ta chứa huyệt này vào 1 cái bầu, đợi khi nào bệnh phát thì huyết sẽ động 1 mình [10]. Nếu không động thì cứu cùng cốt 20 tráng, Cùng cốt chính là để cốt: đốt xương sống cùng [11]. Bệnh Cốt điên tật làm cho bệnh nhân mặt vàng, răng (vùng từ Thái dương đến răng), tất cả phận nhục đó đều bị trướng mãn, tách rời với xương, mồ hôi ra, phiền muốn ói ra nhiều nước có bọt, khí đi xuống dưới và tiết ra ngoài thì không trị được [12]. Bệnh Cân điên tật làm cho bệnh nhân thân mình bị cuống lại, co giật (mạch đại) [13]. Nên châm huyệt Đại Trữ của đường kinh lớn ở cổ gáy [14]. Nếu ói ra nhiều nước có bọt, khí đi xuống và tiết ra ngoài thì không trị được [15]. Bệnh Mạch điên tật làm cho bệnh nhân hay té nhào dữ dội, các mạch ở tứ chi đều trướng lên và buông lỏng, mạch bị mãn [16]. Nên châm xuất huyết cho kỳ hết [17]. Nếu mạch không mãn thì cứu các huyệt ở dọc theo cổ gáy của kinh Thái dương, cứu huyệt Đới mạch ở thắt lưng, nằm cách thắt lưng khoảng hơn 3 thốn, các huyệt thuộc bản du của tay chân và trong khoảng phận nhục [18]. Nếu ói ra nhiều nước có bọt, khí đi xuống dưới và tiết ra ngoài thì không trị được [19]. Bệnh điên tật mà phát ra nhanh như bệnh cuồng thì phải chết, không trị được [20]. Khi bệnh cuồng bắt đầu sinh ra, trước hết bệnh nhân thấy buồn, thường hay quên, giận dữ, lo sợ, tất cả đều do lo lắng và đói [21]. Phép trị nên thủ các huyệt của các kinh Ttủ Thái âm, Dương minh, chờ khi nào màu của huyết biến đỏ thì mới thôi, tiếp theo thủ các huyệt ở túc Thái âm và Dương minh [22]. Bệnh cuồng bắt đầu phát ra thì bệnh nhân ít nằm, không đói, tự cho mình là người hiền ở trên cao, tự coi mình là người trí, tự cho mình là tôn qúy, thường hay mạ lị người khác ngày đêm không nghỉ [23]. Phép trị nên thủ các huyệt ở kinh thủ Dương minh, Thái dương, Thái âm, huyệt dưới lưỡi, kinh Thiếu âm [24]. Nếu thấy nơi nào thịnh thì thủ huyệt châm, nếu không thấy thịnh thì không châm [25]. Bệnh mà cuồng ngôn, kinh sợ, hay cười, thích ca hát, thường hay đi lang thang, đó là do quá khủng khiếp, quá sợ [25]. Phép trị nên thủ các huyệt ở kinh thủ Dương minh, Thái dương, Thái âm [26]. Bệnh cuồng làm cho bệnh nhân mắt thấy bậy ba, tai nghe bậy bạ, hay la to, đó là do thiểu khí mà ra [27]. Phép trị nên thủ các huyệt ở kinh thủ Thái dương, Thái âm, Dương minh, túc Thái âm, đầu và 2 bên má, hàm [28]. Người bị cuồng thường hay ăn nhiều và thường hay thấy qủy thần, hay cười mà không phát lộ ra bề ngoài, đó là do quá vui mừng [29]. Phép trị là nên thủ các huyệt ở các kinh túc Thái âm, Thái dương, Dương minh, tiếp theo sau là thủ các huyệt ở các kinh thủ Thái âm, Thái dương, và Dương minh [29]. Nếu bệnh cuồng mà mới phát lên chưa ứng ra những bệnh chứng như đã nói trên, trước hết nên thủ huyệt Khúc Tuyền ở hai bên động mạch bên trái và phải [30]. Nếu thấy thịnh thì nên châm xuất huyết, bệnh sẽ khỏi trong giây lát, nếu không hết nên dùng phép châm như trên và phép cứu huyệt ở xương cùng 20 tráng [31]. Bị chứng Phong nghịch, tứ chi bị bạo thũng, thân mình thấy lạnh cầm cập, có lúc lạnh đến cấm khẩu, lúc đói thì lòng phiền, lúc no thì hay biến động không yên [32]. Nên thủ các huyệt ở các kinh thủ Thái âm, cả biểu lẫn lý, và kinh túc Thiếu âm, Dương minh [33]. Nơi nào nhục khí bị lạnh thì thủ huyệt Huỳnh, nơi nào cốt bị lạnh thì thủ huyệt Tỉnh và Kinh [34]. Chứng Quyết nghịch gây bệnh làm cho chân bị lạnh ghê gớm, lồng ngực như muốn vỡ tung ra, trường (ruột) như đang bị dao cắt, lòng bứt rứt nên không được an, mạch đại tiểu đều sắc [35]. Nếu thân còn ấm thì thủ huyệt ở kinh túc Thiếu âm, nếu thân bị lạnh thì thủ huyệt ở kinh túc Dương minh. (Nói tóm lại), nếu lạnh thì châm bổ, nếu ấm thì châm tả [36]. Chứng Quyết nghịch làm cho bụng bị trướng, ruột sôi, ngực bị đầy làm cho không thở được [37]. Nên thủ huyệt nằm ở sườn thứ hai bên dưới ngực, nơi mà bệnh nhân ho sẽ động đến đầu ngón tay, đồng thời dùng tay ấn lên huyệt ở bối du thì bệnh sẽ khỏi ngay [38]. Nếu bệnh nội bế sẽ làm cho bệnh nhân không đi tiểu được, nên châm huyệt của kinh túc Thiếu âm và Thái Dương cùng với huyệt ở xương cùng, dùng kim Trường châm [39]. Bị bệnh khí nghịch, nên thủ các huyệt ở kinh Thái âm, Dương minh, Quyết âm, nếu nặng thì thủ các kinh Thiếu âm, Dương minh, nên quan sát kinh nào có bệnh để châm [40]. Nếu bị bệnh khí ngắn, thân mình lạnh cầm cập, tiếng nói kéo dài ra, xương bị đau buốt, thân mình nặng nề, lười biếng không muốn động, châm bổ túc Thiếu âm [41]. Người bị bệnh khí ngắn, hơi thở ngắn không liên tục, nếu có làm động tác gì thì khí càng bị tiêu, nên châm bổ kinh túc Thiếu âm, châm xuất huyết các nơi huyết lạc [42]. THIÊN 23: NHIỆT BỆNH Chứng bệnh Thiên khô làm cho 1 bên mình không còn hoạt động được và bị đau, lời nói chưa thay đổi, chí chưa loạn, đó là bệnh còn ở nơi phận nhục và tấu lý [1]. Nên dùng kim cự châm để châm [2]. Đó là ích cho (chính khí) đang bất túc, tổn bớt tà khí đang hữu dư, được vậy thì (chính khí) mới có thể hồi phục được [3]. Phì khí gây nên bệnh làm cho thân thể không đau đớn, tứ chi không còn co duỗi theo ý nữa, trí vẫn chưa loạn nặng lắm, tiếng nói nhỏ, ta biết bằng bệnh đó còn trị được [4]. Nếu bệnh nặng thì không nói được, bệnh này không chữa được [5]. Nếu bệnh trước hết khởi lên ở Dương, về sau lại nhập vào âm, như vậy, trước hết ta phải trị ở phần dương, rồi sau mới trị đến phần âm, làm sao cho ngoại tà theo phần phù biểu ra ngoài [5]. Nhiệt bệnh trong 3 ngày, nhưng mạch khí khẩu còn tĩnh, còn mạch Nhân nghênh thì táo, nên thủ huyệt ở các đường kinh Dương theo lối ‘ngũ thập cửu’, nhằm tả đi cái nhiệt tà, làm cho xuất mồ hôi, làm thực cho âm, tức là bổ cho âm đang bất túc [6]. Nếu thân mình bị nhiệt nặng, mạch âm dương đều tĩnh, trường hợp này không nên châm [7]. Còn như xét thấy có thể châm được thì nên châm ngay, dù cho không có ra mồ hôi, nhưng tà khí vẫn có thể tiết ra ngoài [8]. Khi nói rằng không nên châm có nghĩa là mạch đang có triệu chứng chết [9]. Nhiệt bệnh trong 7 ngày, 8 ngày, mạch Mạch khẩu đóng, suyễn và hơi thở ngắn, nên châm ngay, tức thì mồ hôi sẽ tự ra, châm cạn huyệt nằm ở trong khoảng ngón tay cái [10]. Nhiệt bệnh trong 7 ngày, 8 ngày, mạch vi tiểu, người bệnh tiểu ra máu, trong miệng khô, chết trong 1 ngày rưỡi, nếu mạch đại thì 1 ngày chết [11]. Nhiệt bệnh có khi đã ra mồ hôi mà mạch vẫn còn táo, suyễn, có khi bị nhiệt trở lại, không nên châm ở phu biểu, nếu như bị suyễn nặng hơn, nhất định phải chết [12]. Nhiệt bệnh trong 7 ngày, 8 ngày, mạch không táo, hoặc dù táo mà không tán, vả lại còn thêm sác, chờ trong 3 ngày sẽ có mồ hôi ra; nếu như trong 3 ngày mà không có mồ hôi thì ngày thứ 4 sẽ chết [13]. Vả lại, nếu chưa từng ra mồ hôi thì ta cũng châm phần (phu) tấu [14]. Nhiệt bệnh, trước hết là đau ở phần bì phu, mũi bị nghẹt sưng lên đến mặt, nên thủ huyệt châm ở ở bì, dùng kim số 1 theo phương pháp ‘ngũ thập cửu’ [15]. Nếu mũi bị tình trạng hà chẩn tỵ thì ta nên tìm quan hệ giữa bì và Phế, nếu không kết quả, ta tìm ở Hỏa, Hỏa tức là Tâm vậy [16]. Nhiệt bệnh, trước hết thân mình trì trệ, nóng, phiền muộn, môi miệng cổ họng đều khô, thủ huyệtở bì, dùng kim số 1 theo phương pháp ‘ngũ thập cửu’ [17]. Nếu bì phu trướng, miệng khô, ra mồ hôi lạnh, nên tìm quan hệ giữa mạch và Tâm, nếu vẫn không kết quả, nên tìm ở thủy, thủy tức là ở Thận vậy [18]. Nhiệt bệnh, cổ khô, uống nhiều nước, thường hay kinh sợ, nằm xuống không ngồi dậy nổi, thủ huyệt chữa vùng phu nhục, dùng kim số 6 theo phép ‘ngũ thập cửu’ [19]. Nếu như thấy khoé mắt xanh nên tìm quan hệ giữa nhục và Tỳ, nếu vẫn không kết quả, nên tìm ở Mộc, Mộc tức là Can vậy [19]. Nhiệt bệnh, mặt xanh, não đau, tay chân bồn chồn không yên, thủ huyệt ở vùng cân cốt, dùng kim số 4 theo phép chữa ‘tứ nghịch’ [20]. Nếu bị vặn gân không đi được hoặc bị chảy nước mắt đầm đìa, nên tìm quan hệ giữa cân và Can, nếu không kết quả, nên tìm ở Kim, Kim tức Phế vậy [21]. Nhiệt bệnh, nhiều lần kinh sợ, cân bị khiết túng và cuồng, thủ huyệt chữa vùng mạch, dùng kim số 4, châm tả phần huyết hữu dư [22]. Nếu bị chứng mạch điên tật làm cho lông và tóc bị rụng, nên tìm quan hệ giữa huyết và Tâm, nếu không kết quả, nên tìm ở thủy, thủy tức là Thận vậy [23]. Nhiệt bệnh, thân thể nặng nề, xương bị đau, tai điếc, thích ngủ, thủ huyệt chữa vùng cốt, dùng kim số 4 theo phép `ngũ thập cửu’ để châm cốt [24]. Nếu bị bệnh mà không ăn được, cắn răng lại, tai màu xanh, nên tìm quan hệ ở cốt và Thận, nếu không kết quả, tìm ở Thổ, Thổ tức là Tỳ vậy [25]. Nhiệt bệnh, không biết đau nhức chỗ nào, tai điếc, (tay chân) không hoạt động co duỗi được, miệng khô, Dương nhiệt nặng, có khi Âm khí làm cho hàn, đó là nhiệt ở tại tủy, sẽ chết, không trị được [26]. Nhiệt bệnh, đầu đau, từ huyệt Não Không xuống đến mắt miệng như đang bị đắng, còn mạch hệ bị đau, thường hay chảy máu mũi, đó là Quyết nhiệt bệnh, dùng kim số 3, nên quan sát sự hữu dư và bất túc để trị, nó gây thành chứng hàn nhiệt trĩ [27]. Nhiệt bệnh tay chân nặng nề, đó là trường bị nhiệt, dùng kim số 4 châm các du huyệt và các huyệt ở các ngón chân dưới, tìm quan hệ khí ở các lạc của vị (là) nơi đắc khí vậy [28]. Nhiệt bệnh, vùng rốn đau rất kịch liệt, ngực và hông sườn đau, thủ huyệt Dũng tuyền và Âm Lăng tuyền, dùng kim số 4, châm huyệt trong cổ họng [29]. Nhiệt bệnh, mồ hôi vẫn ra mà lại mạch thuận, có thể châm cho ra mồ hôi, nên thủ huyệt Ngư Tế, Thái Uyên, Đại Đô, Thái Bạch, châm tả các huyệt này sẽ làm cho nhiệt giảm bớt, châm bổ thì mồ hôi ra [30]. Nếu mồ hôi ra quá nặng, nên thủ huyệt nằm ở mạch giao ngang ở trên mắt cá trong để dứt mồ hôi [31]. Nhiệt bệnh, đã có mồ hôi, nhưng mạch còn táo thịnh, đó là Âm mạch đang cực, sẽ chết [32]. Khi có mồ hôi mà mạch còn tĩnh, thì sống [33]. Nhiệt bệnh, mạch vẫn táo mà không có mồ hôi, đó là Dương mạch đang cực, sẽ chết [34]. Mạch thịnh táo, có mồ hôi, tĩnh, sẽ sống [35]. Nhiệt bệnh không thể châm gồm có 9 trường hợp [36]: - Một là: Mồ hôi không ra, 2 gò má ửng đỏ, ói, chết [37]. - Hai là: Tiêu chảy mà bụng bị đầy nặng, chết [38]. - Ba là: Mắt không còn sáng, nhiệt không giảm, chết [39]. - Bốn là: Người già, trẻ con khi bị nhiệt mà bụng đầy, chết [40]. - Năm là: Mồ hôi không ra, ói, tiêu ra huyết, chết [41]. - Sáu là: Cuống lưỡi bị nhiệt đến như nát lưỡi không dứt, chết [42]. - Bảy là: Ho mà ra máu mũi, mồ hôi không ra, mồ hôi ra mà không đến chân, chết [43]. - Tám là: Tủy bị nhiệt, chết [44]. - Chín là: Nhiệt là giật cong người, chết, thắt lưng gãy, khiết túng, răng cắn chặt [45]. Phàm 9 trường hợp nói trên, không thể châm [46]. Điều gọi là ‘Ngũ Thập Cửu thích’ gồm có [47]: - Hai bên mép ngoài và trong của 2 tay, mỗi bên gồm 3 huyệt, tất cả có 12 huyệt [48]. - Trong khoảng 5 ngón tay, mỗi nơi 1 huyệt, gồm có 8 huyệt, ở chân cũng giống như thế [49]. - Ở trên đầu, phần sâu vào trong mí tóc 1 thốn, bên cạnh 3 phân, mỗi nơi 3 huyệt, tất cả có 6 huyệt [50]. Đi sâu vô trong mí tóc 3 thốn, mỗi bên 5 huyệt, gồm 10 huyệt [51]. - Ở trước và sau tai, dưới miệng, mỗi nơi 1 huyệt, giữa cổ gáy 1 huyệt, gồm tất cả 6 huyệt [52]. - Đỉnh đầu 1 huyệt, Tín Hội 1, mí tóc 1, Liêm Tuyền 1, Phong Trì 2, Thiên Trụ 2 [53]. Khi nào khí bị đầy, giữa ngực phát suyễn, thủ huyệt nằm ở đầu ngón chân cái cách móng chân như lá hẹ, thuộc kinh túc Thái âm, nếu hàn thì lưu kim lâu, nhiệt thì châm nhanh, khi nào khí đi xuống mới thôi [54]. Bệnh Tâm sán đau dữ dội, thủ các huyệt thuộc kinh túc Thái âm, Quyết âm, châm cho xuất hết huyết lạc [55]. Bệnh cổ họng bị tý, lưỡi bị cuốn, trong miệng khô, Tâm phiền, Tâm thống, mép trong cánh tay đau, tay không đưa được lên đến đầu, nên thủ huyệt ở ngón tay áp út phía ngón út, cách móng tay như lá hẹ [56]. Giữa mắt bị đau, đỏ, bắt đầu đau từ khoé mắt trong, nên thủ huyệt Âm kiểu [57]. Bị chứng Phong kinh làm cho thân mình bị vặn gãy ra sau, trước hết nên thủ huyệt của kinh túc Thái dương ở giữa kheo chân, châm xuất huyết ở huyết lạc [58]. Nếu trung khí có hàn khí, nên thủ huyệt Tam Lý [59]. nếu bị bí tiểu, nên thủ huyệt Âm kiểu và thủ huyệt nằm ở chòm lông Tam mao, xuất huyết lạc [60]. Con trai bị bệnh cổ độc, con gái như bị tử, thân thể, thắt lưng, cột sống như bị rã rời, không muốn ăn uống, trước hết nên thủ huyệt Dũng Tuyền, châm cho ra máu, nên xem kỹ vùng trên bàn chân, nếu bị thịnh, nên châm cho xuất huyết cho hết mới thôi [61]. THIÊN 24: QUYẾT BỆNH Chứng Quyết đầu thống làm cho mặt như bị sưng lên, khởi lên Tâm phiền, thủ huyệt ở kinh túc Dương minh và Thái âm [1]. Chứng Quyết đầu thống làm cho mạch ở đầu bị đau, tâm bi, thường hay khóc, nên xem cái động mạch ở đầu, nếu ngược lại bị thịnh, phải châm xuất huyết cho hết, sau đó mới điều bổ kinh túc Quyết âm [2]. Chứng Quyết đầu thống xảy ra 1 cách vững chắc, đầu nặng mà đau, nên châm tả 5 hàng mạch trên đầu, mỗi hàng 5 huyệt, trước hết thủ huyệt ở kinh thủ Thiếu âm, sau đó thủ ở kinh túc Thiếu âm [3]. Chứng Quyết đầu thống làm cho ý hay quên, dùng tay đè lên không thấy nơi nào đau, nên châm vào nơi động mạch ở 2 bên phải và trái của đầu và mặt, sau đó mới thủ huyệt ở kinh túc Thiếu âm [4]. Chứng Quyết đầu thống trước hết làm cho cổ gáy bị đau, ứng với thắt lưng và cột sống, trước hết thủ huyệt Thiên Trụ, sau đó thủ huyệt ở kinh túc Thái dương [5]. Chứng Quyết đầu thống làm cho đầu bị đau nặng, mạch ở trước và sau tai như dâng vọt lên, phát nhiệt, châm tả, xuất huyết, sau đó thủ huyệt ở kinh túc Thiếu dương [6]. Chứng Chân đầu thống làm cho đầu bị đau nặng, não bị đau suốt, tay chân bị hàn đến tận các đốt (tiết), trường hợp này chết, không trị được [7]. Chứng đầu thống (mà) không thủ các huyệt du để chữa, đó là vì người bệnh bị té, bị đánh, ác huyết lưu lại bên trong, phần cơ nhục bị thương, bị đau chưa khỏi, nếu thấy châm được nơi đau thì châm, nếu không được thì không thể thủ du huyệt ở xa [8]. Chứng đầu thống (mà) không thể châm được, đó là chứng đại tý gây thành ác hoạn (bệnh tật khó khăn), gặp ngày Phong đều xảy ra, chúng ta chỉ có thể làm giảm bớt thôi, không thể hết được [9]. Chứng đầu thống, hàn 1 bên, trước hết thủ huyệt ở kinh thủ Thiếu dương, Dương minh, sau đó thủ ở kinh túc Thiếu Dương, Dương minh [10]. Chứng Quyết tâm thống, đau ra đến vùng lưng, hay bị khiết túng, như có cái gì từ ngoài sau đến chạm vào Tâm, làm cho người bệnh bị gù lưng, đó gọi là Thận tâm thống; trước hết thủ huyệt Kinh Cốt, Côn Lôn, nếu như đã phát châm rồi mà bệnh vẫn không khỏi, thủ thêm huyệt Nhiên Cốc [11]. Chứng Quyết tâm thống làm cho bụng bị trướng, ngực bị đầy, Tâm càng bị đau nhiều hơn, gọi là chứng ‘Vị Tâm thống’, thủ huyệt Đại Đô, Thái Bạch [12]. Chứng Quyết tâm thống làm cho bệnh nhân đau như như dùng cây chùy đâm vào Tâm, Tâm bị đau nhiều, gọi là chứng ‘Tỳ Tâm thống’, thủ huyệt Nhiên Cốc, Đại Khê [13]. Chứng Quyết tâm thống làm cho sắc mặt bị xanh, xanh như mầu của người chết, suốt ngày không thở được 1 hơi dài, gọi là chứng ‘Can Tâm thống’, thủ huyệt Hành Gian, Đại Xung [14]. Chứng Quyết tâm thống, nếu nằm hoặc nhàn rỗi thì Tâm thống được giãn, bớt, khi nào hoạt động thì đau nhiều hơn, không biến sắc mặt, gọi là chứng ‘Phế Tâm thống’, thủ huyệt Ngư Tế, Đại Uyên [15]. Chứng Chân Tâm thống làm cho tay chân bị xanh cho đến các đốt ngón, Tâm bị đau nhiều, sáng phát chiều chết, chiều phát sáng chết [16]. Chứng Tâm thống không châm được: • Ở trung bộ có cái gì thịnh tụ lại, không thể thủ các du huyệt để châm [17]. • Trong ruột có trùng hà, và cógiun, tất cả đều không thể châm bằng tiểu châm [18]. Chứng Tâm trường thống làm cho bệnh nhân áo não mà đau đớn, (Những con giun này) tụ lại làm vùng (ngực và bụng) sưng lên, nó đi lên xuống, đau có lúc ngưng nghỉ [19]. Bụng bị nhiệt và hay khát nước, nước dãi chảy ra, đây là bởi con giun gây ra [20]. Dùng tay đè chúng lại, nên kiên trì đừng để đi sai chỗ, dùng kim lớn để châm, nên giữ thật lâu cho đến khi con giun bị bất động rồi mới rút kim ra [21]. Bụng đầy, đau 1 cách áo não (đó là chứng hà tụ) thành hình, từ giữa để đi lên trên [22]. Tai bị điếc không nghe được gì, nên thủ huyệt ở trong tai [23]. Nếu tai bị kêu, thủ huyệt ở động mạch trước tai [24]. Tai đau không châm được, đó là trong tai có mủ như là đang có rái tai khô, tai không nghe được [25]. Tai điếc, thủ huyệt ở ngón tay áp út ở phía ngón tay út, nằm ở chỗ giao nhục với móng tay [26]. Trước hết chọn huyệt ở tay, sau đó chọn huyệt ở chân [27]. Tai kêu, thủ huyệt nằm ở chỗ gần móng tay của ngón tay giữa, đau bên trái chọn huyệt ở bên phải, đau bên phải chọn huyệt ở bên trái, trước hết chọn huyệt ở tay, sau đến huyệt ở chân [28]. Xương đùi không đưa lên được, nên nằm nghiêng một bên để thủ huyệt, huyệt nằm ở chỗ mấu chuyền, châm sâu bằng kim viêm lợi châm, không nên dùng kim đại châm [29]. Bệnh tiêu ra máu, thủ huyệt Khúc Tuyền [30]. Chứng phong tý ngày càng tràn ngập tà khí, bệnh không thể khỏi được, chân như đang đạp trên băng tuyết, có lúc như đi vào nước nóng [31]. Từ đùi đến ống chân đều bị tràn ngập tà khí, Tâm phiền, đầu đau, có khi nôn, có khi bứt rứt, sau khi choáng váng thì mồ hôi ra, để lâu ngày thì mắt hoa, buồn mà hay lo sợ, đoản khí, như vậy sống không quá 3 năm thì phải chết [32]. THIÊN 25: BỆNH BẢN Trước bệnh mà sau nghịch, trị bản [1]. Trước nghịch mà sau bệnh, trị bản [2]. Trước hàn mà sau sinh bệnh, trị hàn [3]. Trước bệnh mà sau sinh hàn, trị bản [4]. Trước nhiệt mà sau sinh bệnh trị bản [5]. Trước bị tiêu chảy mà sau sinh ra các bệnh khác, trị bản [6]. Ắt phải điều hòa (Tỳ vị) rồi sau mới trị các bệnh khác [7]. Trước bệnh mà sau bị mãn ở trung (Tỳ vị), trị tiêu [8]. Trước bệnh mà sau tiêu chảy, trị bản [9]. Trước bị mãn ở trung rồi sau đó mới bị Tâm phiền, trị bản [10]. Có khi do khách khí, có khi do đồng khí [11]. Đại tiểu tiện bất lợi, trị tiêu [12]. Đại tiểu tiện lợi, trị bản [13]. Bệnh phát ra (tà khí) hữu dư, đó là bản đến tiêu, trước hết trị bản, sau đến trị tiêu [14]. Bệnh phát ra chính khí bất túc, đó là tiêu đến bản, trước hết trị tiêu, sau đến trị bản [15]. Nên quan sát 1 cách tường tận vấn đề gián và thậm rồi dùng ý để điều hòa, nếu gặp gián thì cùng trị 1 lúc, nếu gặp thậm thì chỉ nên trị riêng [16]. Ví dụ, trước hết đại tiểu tiện bất lợi, rồi sau đó mới sinh ra các chứng bệnh khác, nên trị bản [17]. THIÊN 26: TẠP BỆNH Bệnh quyết nghịch đi áp theo cột sống làm đau lên đến đỉnh đầu, đầu bị trầm trầm, mắt bị hoa hoa, cột sống ở thắt lưng bị cứng, thủ huyệt ở huyết lạc tại kheo chân thuộc kinh túc Thái Dương [1]. Bệnh quyết nghịch làm cho lồng ngực bị đầy, mặt bị thũng, môi run cầm cập, bật ra tiếng nói rất khó, nếu nặng hơn, sẽ không nói chuyện được, thủ huyệt ở kinh túc Dương Minh [2]. Bệnh quyết nghịch làm cho khí đi lên đến cổ họng, không nói chuyện được, tay chân lạnh, đại tiện bất lợi, thủ huyệt ở túc Thiếu Âm [3]. Bệnh quyết nghịch làm cho bụng kêu ồ ồ, khi hàn khí nhiều làm cho trong bụng kêu róc rách, tiêu và tiểu rất khó khăn, thủ kinh túc Thái Âm [4]. Cổ họng khô (ách), trong miệng nóng như có keo, thủ kinh túc Thiếu Âm [5]. Trong gối bị đau, thủ huyệt Độc Tỵ, dùng kim viên lợi châm, châm xong rồi chờ cách khoảng thời gian để châm tiếp, dùng kim to như sợi lông đuôi trâu, châm gối đau như thế không còn nghi ngờ gì nữa [6]. Cổ họng (hầu) bị tý không nói chuyện được, châm kinh túc Dương Minh, nếu còn nói được, châm kinh thủ Dương Minh [7]. Bệnh ngược (sốt rét) không khát nước, cách ngày phát tác 1 lần, thủ kinh túc Dương Minh, nếu có khát nước và mỗi ngày phát tác, thủ kinh thủ Dương minh [8]. Răng đau không sợ uống nước lạnh, thủ kinh túc Dương minh, nếu sợ uống nước lạnh, thủ kinh thủ Dương minh [9]. Bệnh điếc mà không đau nhức, thủ kinh túc Dương minh; điếc mà đau nhức, thủ kinh thủ Dương minh [10]. Chứng chảy máu mũi không ngừng, có máu bầm chảy ra, thủ kinh túc Thái dương, nếu máu bầm không chảy nữa, thủ kinh Thủ Thái dương; nếu không hết, châm huyệt nằm dưới xương uyển cốt, nếu vẫn không hết châm xuất huyết lạc ở kheo chân [11]. Chứng lưng đau, trên chỗ đau bị lạnh, thủ kinh túc Thái dương, Dương minh, còn nếu trên chỗ đau bị nóng, thủ kinh túc Quyết âm; nếu không cúi ngửa được, thủ kinh túc Thiếu dương [12]. Trong ngực bị nhiệt, muốn nôn, thủ huyết lạc ở kheo chân, thuộc kinh úc Thiếu Âm [13]. Vì vui mừng và giận dữ mà không muốn ăn, tiếng nói ngày càng nhỏ, thủ kinh túc Thái âm [14]. Vì giận mà nói nhiều, châm kinh túc Thiếu dương [15]. Hàm bị đau nhức, châm kinh thủ Dương minh, châm xuất huyết chỗ có thịnh mạch ở vùng má và lên đến Thái dương [16]. Cổ gáy bị đau làm cho không thể cúi ngửa được, châm kinh túc Thái Dương, nếu làm cho không thể ngó ngoái lại phía sau thì châm kinh thủ Thái dương [17]. Thiếu phúc bị đầy, to, lên trên chạy đến vùng Vị, đến Tâm, thân mình hơi bị dao động, có lúc bị hàn nhiệt, tiểu tiện bất lợi, thủ kinh túc Quyết âm [18]. Bụng đầy, đại tiện bất lợi, bụng to, khí cũng chạy lên đến ngực và cổ họng, thở suyễn mạnh, cổ khan, thủ kinh túc Thiếu âm [19]. Bụng đầy, ăn không tiêu, bụngsôi, không đi tiểu được, thủ kinh túc Thái âm [20]. Chứng Tâm thống đau dẫn đến cột sống thắt lưng, muốn nôn, thủ kinh túc Thiếu âm [21]. Chứng Tâm thống làm cho bụng bị trướng như có cái gì bị sợ lạnh, đại tiện bất lợi, thủ kinh túc Thái âm [22]. Chứng Tâm thống đau dẫn đến lưng làm cho không thở được, châm kinh túc Thiếu âm, nếu không hết, châm kinh thủ Thiếu dương [23]. Chứng Tâm thống kéo theo làm cho bụng dưới đầy, dưới trên không nơi nhất định, đại tiện khó khăn, châm kinh túc Quyết âm [24]. Chứng Tâm thống chỉ có khí ngắn không đủ để thở mà thôi, châm kinh thủ Thái âm [25]. Chứng Tâm thống nên chọn huyệt ngay ở (quanh) đốt xương thứ 9 để châm, trước hết dùng tay ấn lên chỗ phải châm, khi rút kim ra lại dùng tay ấn, ấn xong là hết ngay; nếu không hết, nên tìm các huyệt ở trên và ở dưới (huyệt) đã châm, khi nào đắc khí thì khỏi bệnh ngay [26]. Hàm (má) bị đau, châm kinh túc Dương minh, ngay chỗ xương gãy quay hàm, nơi có động mạch quay quanh, châm xuất huyết xong là khỏi ngay; nếu không khỏi, nên ấn lên huyệt Nhân Nghênh của bản kinh (châm cạn), khỏi ngay [27]. Chứng khí nghịch lên trên, châm nơi hãm huyết ở vùng ngực, rồi lại châm huyệt có động mạch ở dưới ngực [28]. Bệnh Nuy quyết, nên trói tay chân người bệnh lại để làm cho họ bị bực bội, bấy giờ mới mở trói ra, Mỗi ngày 2 lần; Nếu có bị bất nhân là không còn cảm giác, nên chữa như vậy trong 10 ngày sẽ kết quả, đừng ngưng lại, đợi khi nào bệnh khỏi mới thôi [29]. Bệnh Uyết nấc, nên dùng cọng cỏ châm nhẹ vào mũi để cho bị ách xì, xong sẽ khỏi bệnh, hoặc là làm sao để cho ngộp thở, xong ngước mặt lên dẫn khí ra ngoài sẽ khỏi, hoặc làm cho người bệnh bị sợ dữ dội cũng có thể khỏi bệnh [30].
  23. @ Tianang, Thưa anh Thiên Đồng: Bây giờ là 08 Th09 2011 01:36 PM theo đồng hồ của diễn đàn. Tia nắng sinh ngày 30/3/1980 . Chồng sinh ngày 14/6/1976. Hiện đang mang thai, dự kiến sinh cuối tháng 3 đầu tháng 4 năm 2012. Xin nhờ anh tư vấn giúp: 1. Em vừa mới chuyển sang nghề dạy học, nhưng vẫn thấy rất bế tắc, thấy mình không được trọng dụng. Nghề dạy học có phù hợp với tia nắng không a? nghề này phù hợp. có thể học tiến lên cao và nghiên cứu sâu. 2. Khi nào công việc của tia nắng sẽ đỡ hơn, được tín nhiệm và trọng dụng hơn ạ? -1 năm sau sẽ đỡ hơn, 5 năm sau sẽ có danh vị cao 3. Vợ chồng có ăn đời ở kiếp với nhau vui vẻ hanh phúc đến già không ạ? đến đầu bạc răng lung lay Xin cảm ơn anh. Xin chúc anh vạn sự vạn an. @Songtrang Anh Thiên Đồng cho em hỏi với! Em đã ngoài ba mươi mà long đong về tình duyên quá. - Tuổi Kỷ Mùi 1979 - Hỏi vào 08-09-2011(dương lịch) lúc 14:04PM Câu 1: Bao giờ thì em sẽ lập gia đình ? Nhanh thì tháng 4 năm Nhâm thìn, chậm thì năm Quý tị 2013. Câu 2: Người ấy là người như thế nào? Người dáng cao, 1.68-1.78. người mực thước, hơi bảo thủ, hay lo xa. Bỏ nhà xa sứ đi làm. Mắt sáng da ngâm đen Câu 3: Cuộc sống hôn nhân có ổn thỏa ko ? - thương nhau lắm cắn nhau đau. Em cảm ơn anh Thiên đồng và chúc quán của anh luôn luôn đông khách. @Tuấnn Kính chào bác Thiên Đồng, cháu xin mạn phép hỏi: Tuổi gì: Giáp Tuất Hỏi vào ngày 15 tháng 09 năm 2011 giờ 13h39 dương lịch. Câu hỏi 01: Bà nội cháu hiện đang bị bệnh, nằm liệt giường, liệu có sống thêm được vài năm với con cháu không ạ? Không đáng lo. Câu hỏi 02: Năm sau cháu thi đại học liệu có đỗ vào trường mình mong muốn không ạ? Đỗ vô trường không mong muốn. Câu hỏi 03: Cháu hiện đang thầm thương trộm nhớ 1 người, liệu có kết quả khả quan không ạ? Chủ động tấn tới thì khả quan. Cháu xin cảm ơn bác:). @Tịnh Tâm Up lại trang 11 nhờ chú thiên đồng xem giúp. Nam Bính dần (1986) Hỏi vào lúc: 19h35' pm, ngày 31/8/2011 Mong anh Thiên Đồng bớt chút thời gian quý báu xem giúp e, e sốt ruột và lo lắng vô cùng. Câu hỏi 1: Em và bạn gái em đã có đứa con trước giờ bạn gái em ở với bố mẹ vợ. Bố mẹ hai gia đình đã gặp nhau và nói chuyện nhiều về chuyện hai đứa tụi em nhưng do hai gia đình ở hai tỉnh khác nhau nên có phong tục khác nhau phía vợ nói gia đình em dù nó đã có con trước nhưng vẫn phải tổ chức cái lễ để cho bà con dòng họ đều biết chứ không không dẫn con gái "tui dề" không được trước khi làm cái lễ đó ba mẹ cháu phải ra nói chuyện trước và phải đem theo trầu câu để thưa chuyện...Phía em thì khác mấy người lớn trong họ cũng như phong tục hễ con gái có con rùi thì ba tháng mười ngày thì dẫn dề thui bởi vì bất đồng ý kiến đến bây giờ hai gia đình vẫn chưa thống nhất phải làm thế nào. Ba mẹ cô ấy nói nếu trong tháng 8 hay 9 âm lcij mà nhà em không ra thưa chuyện thì khỏi luôn, vì vậy làm em rất lo lắng không biết phải làm thế nào cả ? Anh xem thử gia đình em có đem trầu câu ra nhà bạn gái em thưa chuyện không ? Nếu đi thì tháng mấy âm lịch đi ? Cuộc nói chuyện có suông sẻ không và có kết quả tốt không ? hai đứa tụi em có đến được với nhau không? Nữ tuổi gì? Không cho biết tuổi thì làm sao tư vấn? Bên nhà trai nên trầu cau qua nói chuyện thì êm xuôi. Câu hỏi 2: Nếu thuận lợi thì hai đứa em tháng nào lấy nhau? Khi lấy nhau thì tổ chức thê nào có nhộn nhịp như đám cưới bình thường không hay tổ chức đơn giản ?. -sẽ linh đình Câu hỏi 3: Nếu hai em lấy nhau cha mẹ hai bên có hổ trợ thêm về mặc tài chính không? hai đứa định lấy nhau xong năm sau sẽ xây nhà và mở cửa hàng buôn bán không biết có như ý không? Em vừa xin được công việc nhà nước không biết có tốt và thuận lợi cho con đường công danh sự nghiệp của em sau này không? -Hai đứa tự lo tài chính. bên Nam có cho chút chút thôi. @ huyen nhung 1980 Kính gửi anh Thiên đồng! Em tuổi Canh Thân (1980) Hỏi lúc 10h25 ngày 16/9/2011. 1. Hiện tại em đang mong có bầu nhưng đã mấy tháng nay vẫn chưa có tin vui, vậy mong anh xem giúp trong năm này em có thể có bầu được không? Chậm nhưng sẽ được. Em rất mong sang năm (Nhâm thìn) sinh trong 6 tháng đầu năm theo tư vấn của các anh , các Bác nhưng bây giờ chỉ còn 2 tháng nữa không biết tình hình có được không, nếu có bầu mọi việc có tốt đẹp cả không? Nữ tuổi Canh Thân sinh nhâm thìn hay Quý Tị đều tốt. 2. Hiên nay em đang được đề nghị tăng lương không biết là có được cấp trên duyệt không? Chưa duyệt đâu, tháng 12 năm tân mão hay tháng giên năm Nhâm thìn mới được. 3. Có thể xem được cho chồng em trong năm này có thể có sự thay đổi công việc không? Không thay đổi đâu cả. Rất mong anh Thiên Đồng giúp đỡ, Cảm ơn anh. @Lynktran, Chào anh Thiên Đồng ( em xưng hô theo mấy anh chị trước, nếu không đúng anh bỏ qua cho e nhá ) Xem tuổi: Canh Ngọ (1990) Hỏi lúc: 21h10, 19/09/2011 Câu 1: Việc học hành trong năm nay có thuận lợi và đạt kết quả cao như mong muốn hay không? (Nếu không thì có cản trở gì đặc biệt không?) Việc học có nhiều trở ngại nên chú trọng sức khỏe tốt để học hành. Câu 2: sang năm em tốt nghiệp có được bằng giỏi hay không? Tốt khá giỏi chứ chư phải hạng giỏi. Kém nhất 8 điểm. Câu 3: dự định tốt nghiệp xin việc gần nhà có thành hay không? Xin việc ở xa nhà thì thành. Em cảm ơn anh đã giúp! @duybaobaby, Kính gửi anh Thiên Đồng nhờ anh xem giúp vợ chồng em một quẻ Em tuổi: Tân Dậu (sinh 20/01 ÂL, lúc 6h45') Chồng em (sinh năm Quý Hợi) và con trai sinh 21/07/2007 1. Anh xem giúp gia đình em : gia đạo hiện tại 3 thành viên có hạp không, hai vợ chồng em đến năm nào thì việc kinh doanh phát triển tốt và vững chắc? -Tuổi 3 người trong gia đình tương đối hợp. Tuy vậy con trai sức khỏe kém, khi mẹ sinh xong thì sức khỏe mẹ cũng có vấn đề. Từ năm 2010 nếu kinh tế khá thì từ đầu năm nay đến giờ chuyện nhà có lục đục. Nên sinh đứa Nhâm thìn hay Quý tị thì sự nghiệp phát triển tốt. 2. Hiện tại em đang có bầu và dự sanh tháng 04/2012 âm lịch. Em sinh đứa bé út này có thì gia đình em có tốt không? Vậy quá tốt. Nếu đúng vậy thì sinh bé ra thì rất khá. Tháng 5 năm đó thì rất phát. 3. Năm nay tụi em định mở thêm cửa hàng kinh doanh nữa thì có tốt không anh? nếu được anh xem dùm em ngày tháng nào khai trương tốt Không nên mở, sang năm sau tính lại. Mong anh tư vấn cho tụi em sớm để tụi em sắp xếp công việc. Rất cảm ơn anh Thiên Đồng nhiều. Không có gì. mệt. Thiên Đồng
  24. "Nhiều người quá để tâm đến kinh phí dựng tượng đài" "Mọi người đang lạc vào chuyện tranh cãi không nên làm to mà để dành tiền chăm lo cho các mẹ còn sống hay người nghèo, trẻ em... Nhưng việc nào phải đi việc ấy", họa sĩ Lương Xuân Đoàn, Phó vụ trưởng Vụ Văn hóa văn nghệ (Ban Tuyên giáo TƯ) trao đổi với VnExpress. - Là thành viên Hội đồng thẩm định nghệ thuật, đồng hành cùng dự án từ khi mới khởi động, ông nói gì trước nhiều ý kiến trái chiều về công trình xây tượng đài mẹ Việt Nam anh hùng ở Quảng Nam? - Tôi cho là dư luận đang quá để tâm vào số tiền mà chưa nhìn thấu đáo ở các khía cạnh. Quảng Nam là vùng đất tiêu biểu cho các mẹ VN anh hùng, có rất nhiều người con hy sinh. Đây là vùng đất thiêng, chọn địa điểm xây tượng ở đây chắc không có gì phải bàn cãi. Quảng Nam cũng là tỉnh nghèo, chưa có không gian văn hóa cộng đồng, chưa có trung tâm sinh hoạt chính trị văn hóa nên đây là điểm nhấn cần thiết cho quy hoạch phát triển tương lai của tỉnh. Chúng ta không nên căng thẳng ở vấn đề kinh phí. Mọi người đang lạc vào chuyện tranh cãi không nên làm to như thế mà nên dành tiền chăm lo cho các mẹ còn sống hay người nghèo, trẻ em... Các công trình trường học, y tế vẫn phải làm, việc chăm sóc mẹ cũng thế. Nhưng việc nào phải đi việc ấy. Đền ơn đáp nghĩa luôn là việc phải làm đầy đủ, nhà nước mình chưa làm gì thất lễ với các mẹ. Nhưng xây tượng để có được một địa điểm sinh hoạt văn hóa cộng đồng, tạo điểm nhấn cho đô thị mới như Tam Kỳ cũng là cần thiết. Ở ta bao giờ cũng vậy, cứ công trình bất bình thường là đặt vào sự so sánh khập khiễng, không thỏa đáng với ý tưởng nhân văn của dự án. Khi dự án mới triển khai cũng có tiếng nói phản ứng. Tuy nhiên, vấn đề bây giờ không phải là thu nhỏ tượng đài, bớt số tiền 410 tỷ này để làm việc khác. Nếu cứ nghĩ mãi thế thì lúc nào mới có thể làm được công trình thực sự của tương lai, tồn tại vài thập kỷ? Hà Nội từng cuống lên làm Bảo tàng Hà Nội tốn 2.000 tỷ đồng mà mới chỉ là vỏ, nội thất chưa xong. Nếu muốn so sánh thì tượng đài này chẳng đáng là bao. Rất nhiều công trình quốc gia có số tiền đầu tư còn lớn hơn nhiều lần nhưng chưa hoàn thiện, xuống cấp, dở dang… Tại sao tượng đài chiến thắng Điện Biên nhanh hỏng? Đơn giản vì quá cấp tập, trong nửa năm hoàn thiện một công trình hàng chục tỷ đồng. Tượng mẹ VN anh hùng đã xong mô hình xi măng tỷ lệ 1/1. Ảnh: Vũ Huy Thông. - Vậy theo ông, công trình có những yếu tố nào thuyết phục để cần bỏ ra số tiền đầu tư lớn đến vậy? - Khi khởi động cuộc thi chọn ý tưởng, đến lần hai mới chọn được phác thảo của họa sĩ Đinh Gia Thắng. Tác giả vào cuộc rất muộn nhưng đáp án rất có duyên. Tại nơi quyết định đặt tượng là núi Cấm có 2 quả đồi tự nhiên, thế đất thích hợp để làm dự án này với khoảng 15 ha. Hình tượng người mẹ với vách đá vòng cung hình thành từ nguyên mẫu mẹ Thứ. Chủ trương ban đầu nhận được sự ủng hộ rộng rãi, sau được nhà nước quan tâm trở thành công trình quốc gia. Đây là sự quan tâm rất lớn của Chính phủ đối với Quảng Nam và theo nguyện vọng của rất nhiều người về một công trình quốc gia xứng đáng để ghi nhớ, biết ơn mãi mãi sự hy sinh cao quý của mẹ VN trong suốt 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Đến bây giờ, tôi cho là chủ trương này vẫn nhận được sự đồng thuận nhưng thời gian qua có ý kiến trái chiều vì động đến tiền bạc, vấn đề kinh tế rất nhạy cảm. Công trình khởi động từ giữa 2006 đến giờ, phải điều chỉnh, bỏ khá nhiều hạng mục vì kinh phí không đủ. Tôi cho là chưa có tượng đài nào có lộ trình dài như vậy. Điều đó cho thấy tính nghiêm túc, cẩn trọng của những người có trách nhiệm khi đặt chất lượng nghệ thuật của công trình lên hàng đầu. Trong quá trình làm, khi kêu gọi hảo tâm của doanh nghiệp, tổ chức thì nguyện vọng của họ là không bỏ hạng mục nào vì như thế sẽ phí. Về phía tác giả, nghệ sĩ Đinh Gia Thắng đã bỏ rất nhiều công sức, tiền bạc để theo đuổi công trình. Tác giả thậm chí còn phải đưa gia sản của mình ra thế chấp để làm vì từ lúc khởi động, các công việc đã tiêu tốn rất nhiều. Cách đây 2 năm, khi cơn bão đổ vào đã làm sập nhà xưởng và sập mô hình tượng xi măng, tác giả phải chịu chứ nhà nước không đền bù. Với sự chuẩn bị nghiêm túc, tôi cho rằng việc xây dựng công trình này là hết sức cần thiết và không có gì băn khoăn. Tôi đánh giá cao quyết tâm của tác giả, cố gắng của hội đồng và mong cho công trình hoàn thành để trở thành công trình quốc gia có chất lượng cao. - Trong tâm thức của người Việt, hình ảnh mẹ VN anh hùng nhỏ bé gầy gò luôn được coi là biểu tượng có sức lan tỏa lớn chứ không phải công trình đồ sộ, ông nghĩ sao về điều này? - Không nên lấy tâm lý quen nhìn hình ảnh người mẹ gầy gò khắc khổ để so sánh trong trường hợp cụ thể này. Trong điều kiện đất Quảng Nam vốn có sẵn trong lòng nó là di sản Hội An, Mỹ Sơn thì không gian dành cho dự án tượng đài mẹ VN cũng là không gian khiêm tốn thôi. Tượng khi đặt vào không gian lớn ở khu vực núi Cấm này cũng là lọt thỏm. Nếu để thực sự tương xứng với chỗ ấy thì còn phải to nữa. Nghe thì hoảng nhưng đặt trong khung cảnh thiên nhiên, tượng đài hài hòa, không chế ngự và xóa bỏ kết cấu cây xanh, đồi tự nhiên. Điểm qua các công trình tượng mẹ đã xây dựng như Mẹ Tổ quốc ở nghĩa trang TP HCM thì trong không gian đó chỉ xây dựng như thế là vừa. Hay Mẹ miền Nam ở Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ, một số tượng xây trong nhà cũng quy mô nhỏ thì người ta đã quen với hình ảnh này. Còn khi đã có điều kiện để vinh danh hình tượng người mẹ VN như ở Quảng Nam thì cần phải nhìn tổng thể. Quảng Nam tuy nghèo về kinh tế nhưng có lợi thế là giàu về di sản. Thực tế, năm 2005, từ trước khi hình thành dự án, đã có ý tưởng xây dựng Bảo tàng nghệ thuật đương đại ở Tam Kỳ, tạo trục tam giác văn hóa Hội An - Mỹ Sơn - Bảo tàng đương đại. Trục này sẽ tạo thế mạnh về văn hóa du lịch cho tỉnh bên cạnh phát triển kinh tế, tạo cho khuôn mặt văn hóa miền Trung có được khởi đầu tốt trong thế kỷ mới. Tới khi thành dự án thì được tỉnh tiếp nhận ngay và thành nghị quyết. Song khi có dự án làm tượng đài mẹ VN anh hùng thì dự án bảo tàng được đẩy lùi lại để tập trung xây tượng đài. Vì thế, bên cạnh tượng đài mẹ trong quy hoạch sẽ dành đất để xây bảo tàng, giờ chỉ cần kêu gọi đầu tư. - Thưa ông, làm sao xử lý được vấn đề thẩm mỹ khi với công trình tượng đài, việc lồng ghép quá nhiều công năng thường tạo ấn tượng không tốt? - Với công trình này, trục chính là khối tượng ở giữa, trong lòng tượng là bảo tàng mẹ VN. Từ phía trước đi vào là 8 trụ như cột dẫn vào bên trong công viên lớn và bên trong cùng là tượng đài mẹ. Dự án này gắn với quảng trường, không gian rộng. Khi đưa ra phương án, ngoài tác giả phần tượng còn có kiến trúc sư Nguyễn Luận đưa ra ý tưởng thiết kế cho toàn bộ không gian. Các hạng mục như đường trường lang che mưa nắng cho người dân tới chiêm ngưỡng mà không bị mưa nắng hay hồ nước luôn có nước luân chuyển từ cách vách đá xuống... tạo ra sự hài hòa. Tôi khẳng định việc lồng ghép các công năng không làm cho cụm công trình tượng đài này bị "loãng" về mặt thẩm mỹ hay ý nghĩa. Một bảo tàng quốc gia về mẹ được đặt trong lòng khối tượng. Việc sưu tầm tư liệu về các mẹ anh hùng, các hiện vật liên quan sẽ được lưu giữ trong bảo tàng. Công trình như một công viên lớn, không gian mang ý nghĩa về mặt tinh thần, cần thiết phải có nhiều hạng mục. Họa sĩ Lương Xuân Đoàn: "Quảng Nam xứng đáng có công trình văn hóa - lịch sử này, xứng đáng có một khuôn mặt khang trang, đẹp đẽ chứ không chỉ dừng lại ở khuôn mặt cũ trong thế kỷ mới". Ảnh: Nguyễn Hưng. - Mô típ làm tượng to, đồ sộ được cho là đang đi ngược lại xu hướng của thế giới, hình thức làm công trình tưởng niệm cũng không nhất thiết phải là tượng đài. Hội đồng nghệ thuật đã cân nhắc như thế nào về điều này? - Dự án này đáp ứng được đầu bài, phù hợp với mảnh đất có nhiều quy hoạch trong tổng thể quy hoạch của Tam Kỳ. Khi có một dự án tương ứng với đầu bài này cũng là cần thiết để thay đổi khuôn mặt đô thị này vì không gian văn hóa như thế này gần như trống trải tại miền Trung. Việc này tôi cho là đừng nên bị ảnh hưởng bởi thế giới. Ở châu Âu chỉ có tượng đài ở Nga làm to, còn đa số tượng gắn với vườn, theo tỷ lệ kiến trúc để quyết định kích thước của điêu khắc. Tỷ lệ của tượng đài mẹ VN đặt ở không gian này thì thấy vừa với không gian chung. Tức là không gian cho phép thì mới có thể xây tượng đài theo tỷ lệ phù hợp. Ví dụ, ở Hà Nội có tượng đài Lý Thái Tổ, tượng Cảm tử quân không quá to nhưng thực ra không hợp lý bởi Hà Nội là đô thị cũ, cứ ấn bằng được tượng đài vào đã là phiêu lưu mạo hiểm, phá vỡ không gian sinh hoạt văn hóa cộng đồng. - Ông muốn nói gì với những người cho rằng nên ngừng dự án hoặc lùi lại khi đất nước giàu có hơn? - Tôi chia sẻ những suy nghĩ của người dân nhưng việc này khiến tôi nhớ lại câu chuyện của TP HCM đầu những năm 1990 khi bỏ ra số tiền hơn 600 triệu, lúc đó tương đương 100.000 USD, để mua lại bức tranh Vườn xuân Trung Nam Bắc của danh họa Nguyễn Gia Trí - tác phẩm mà họa sĩ dày công sáng tạo trong suốt 20 năm. Hồi đó, dư luận cũng rất căng thẳng, vì số tiền đó có thể sửa chữa nhiều cây cầu cũ, người dân không phải chịu tai nạn sập cầu; hay nhờ nó rất nhiều người được ăn cơm chứ không còn phải ăn cháo. Tuy nhiên, lúc đó nếu nhà nước không bỏ tiền ra mua thì giờ kiệt tác này chắc chắn không còn ở VN vì người nước ngoài sẵn sàng đã trả giá gấp 10 lần và bây giờ, dù có bỏ ra số tiền thậm chí gấp cả trăm lần cũng không mua lại được. Câu chuyện đánh dấu bước đột phá về tư duy quản lý, cũng như hành xử văn hóa cực kỳ đáng trân trọng của nhà nước, anh em nghệ sĩ giờ vẫn còn nhắc lại. Cũng nhờ đó, tác phẩm của anh em nghệ sĩ được nâng giá trị rất nhiều. Qua đây tôi muốn nói rằng, cái gì đáng tiền thì nên làm, nên mua. Tỉnh Quảng Nam xứng đáng có công trình văn hóa - lịch sử này, xứng đáng có một khuôn mặt khang trang, đẹp đẽ chứ không chỉ dừng lại ở khuôn mặt cũ trong thế kỷ mới. Như vậy rõ ràng sẽ thiệt thòi cho thế hệ sau, mình nên nghĩ cho những công dân tương lai của người Việt. Nguyễn Hưng thực hiện ===================Câu: "Nhưng việc nào phải đi việc ấy." nghe có vẻ có lý, nhưng nhìn lại thì vẫn là việc vun tiền qua cửa sổ. Dù cho có bóp lại con số 410 tỷ đồng thì cũng chỉ là việc bò ốm bò béo đều qua lổ kim. Có phải chăng chỉ dựa vào một đống xi măng trăm tỉ đồng đó mà trở nên là điểm nhấn văn hóa? mà văn hóa cộng đồng nâng cao và phát triển? và là có thể là điểm nhấn cho phát triển quy hoạch tương lai? Nghe qua có gì đó thơ mộng.
  25. Mừng Sinh Nhật Sư Phụ Kính Chúc Sư Phụ và Gia Đình Khỏe Mạnh, Phúc Lạc và An Khang