-
Số nội dung
6.278 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
75
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Thiên Đồng
-
Mọi đóng góp từ thiện liên quan đến trường hợp hai mẹ con nêu trên, xin chuyển vào tài khoản sau: Tài khoản TTNC Lý Học Đông Phương Chủ tài khoản : HÀ HỒNG NGA 1.Số tài khoản VND (Việt Nam Đồng): 10620424693010 2. Tài khoản USD: 106 204 246 93029 tại : Ngân hàng: TECHCOMBANK (chi nhánh Tân Bình). Lưu ý: Để thuận tiện cho việc kiểm tra và xác nhận, khi chuyển khoản hay dùng Ủy Nhiệm Chi, nên ghi rõ: -Nội dung nộp: “Quỹ từ thiện”. -Nick đăng ký trên diễn đàn lyhocdongphuong.org.vn. -Tên thật (nếu có nêu). Thiên Đồng
-
Trời, người ta mới trên núi Dà Lạt xuống, lẽ ra anh Thanh Phúc phải cho bảng thể hiện địa chấn ở Bảo lộc hay Đà Lạt chứ? Cút lộn rồi anh ơi!
-
Vậy câu nói này đúng ở chổ nào vậy Dương Triết?
-
@ Đặng quang Hưng, Chọn màu trắng bạc, xanh đen, xanh biển, xanh da trời. Ngày 30/10 DL, 17/11 DL. TD
-
Chi tiết các cạnh là bao nhiêu?
-
@nguoivosu Đất 5,2mx50,0m Nhà ngang dài bao nhiêu? TD
-
Tin động đất qua rồi mà anh Gạo? Thiên Đồng ngày trước cũng đoán...mò từ hướng Tây Bắc xuống hướng Đông Nam ra tận đảo Papua, chứ không có báo động...núi đất ở...Đà Lạt! Mà anh Thanhphuc có "cảm động tiên tri" vụ động đất, động đậy này dễ mà?!
-
@ nguoivosu, Nên bố trí theo sơ đồ thứ hai, bàn thờ như hình vẽ nhưng dịch vô góc chút. Nhưng ngang dài bao nhiêu không cho kích thước thì khó đoán định bố trí có hợp lý không? Thiên Đồng
-
6 – Luận địa chi thuộc tướng. Hoặc hỏi vì sao địa chi có thuộc tướng mà thiên can thì không . Đáp rằng : Thiên can động mà không tướng Địa chi tịnh mà có tướng bởi thanh mà nhẹ là Thiên , trược mà nặng là Địa , trong cái trọng trược ( nặng nhớp ) thì có vật vậy nên Tí thuộc Thử , Sửu thuộc Ngưu , Dần thuộc HỔ Mão thuộc Thố , Thìn thuộc Long , Tỵ thuộc Xà , Ngọ thuộc Mã , Mùi thuộc Dương , Thân thuộc Hầu , Dậu thuộc Kê , Tuất thuộc Khuyển , Hợi thuộc Trư . Đây là 12 thuộc Tướng cũng phân theo âm dương và dùng theo thạnh suy . Dương thì Thử Hổ Long Mã Hầu khuyển. Âm thì Ngưu Thố Xà Dương Kê Trư . …….. ( Phần tiếp theo luận không liên quan đến Tử Bình tôi xin thông qua – Anhngoc ) 7 – Luận nhân nguyên ty sự. Nhứt khí nguyên vẹn , hình chất chưa rời , rõ cái âm dương đã khởi đầu từ thái thỉ . Tách 1 thành 3 , bỗng nhiên mà phân , có Thiên là dương nhẹ lại thanh , có Địa là âm nặng lại trược , Nhân thì ở giữa Thiên Địa thụ bẩm được cái khí trung hòa của âm dương . Cho nên thanh nhẹ là 10 can chủ Lộc , gọi là Thiên nguyên . Còn trược nặng là 12 chi chủ Thân gọi là Địa nguyên . Thiên Địa đều có vị trí mà thành tài ở 2 mặt đó là Nhân vậy . Nên sở tạng chủ mệnh ở trong địa chi gọi là Nhân nguyên , nói theo thuật mệnh thì chi là nguyệt lịnh dụng thần . Kinh nói : Dụng thần không được tổn thương . Nhật chủ tốt nhất là kiện vượng vậy . Như tháng giêng kiến Dần , trong Dần có Cấn thổ dụng sự 5 ngày, Bính hỏa trường sanh 5 ngày , Giáp mộc 20 ngày . Tháng 2 kiến Mão : trong Mão có Giáp mộc dụng sự 7 ngày , Ất mộc 23 ngày . Tháng 3 kiến Thìn , trong Thìn có Ất mộc dụng sự 7 ngày , Nhâm thủy mộ khố 5 ngày , Mậu thổ 18 ngày . Tháng 4 kiến Tỵ , trong Tỵ có Mậu thổ dụng sự 7 ngày , Canh kim trường sanh 5 ngày ,Bính hỏa 18 ngày . Tháng 5 kiến Ngọ , trong Ngọ có Bính hỏa dụng sự 7 ngày , Đinh hỏa 23 ngày . Tháng 6 kiến Mùi , trong Mùi có Đinh hỏa dụng sự 7 ngày ,Giáp mộc mộ khố 5 ngày , Kỷ thổ 18 ngày . Tháng 7 kiến Thân , trong Thân có Khôn thổ dụng sự 5 ngày , Nhâm thủy trường sanh 5 ngày , Canh kim 20 ngày . Tháng 8 kiến Dậu , trong Dậu có Canh kim dụng sự 7 ngày , Tân kim 23 ngày . Tháng 9 kiến Tuất , trong Tuất có Tân kim dụng sự 7 ngày , Bính hỏa mộ khố 5 ngày , Mậu thổ 18 ngày . Tháng 10 kiến Hợi , trong Hợi có Mậu thổ dụng sự 5 ngày , Giáp mộc trường sanh 5 ngày , Nhâm thủy 20 ngày . Tháng 11 kiến Tí , trong Tí có Nhâm thủy dụng sự 7 ngày , Quý thủy 23 ngày . Tháng 12 kiến Sửu , trong Sửu có Quý thủy dụng sự 7 ngày , Canh kim mộ khố 5 ngày , Kỷ thổ 18 ngày . Trên đây là 12 chi an trong 12 tháng đều chứa ngũ hành là nhân nguyên phối với tứ thời , tức Xuân ấm ,Thu hòa , Đông lạnh , Hạ nóng tuần hoàn xoay chuyển mà thành năm . * Xét trong Ngọc Tỉnh thì dùng Giáp ,Bính , Canh , Nhâm phân trong 35 ngày mổi can , Ất , Tân ,Đinh ,Quý 35 ngày , Mậu , Kỷ 50 ngày . Cọng tất cả là 360 ngày . - Chánh nguyệt Dần : Lập xuân , Vũ thủy :Kỷ 7 ngày , Bính hỏa 5 ngày , Giáp mộc 18 ngày . - Tháng 2 Mão : Kinh trập ,Xuân phân : Ất 18 ngày , Giáp 9 ngày , Quý 3 ngày . - Tháng 3 Thìn : Thanh minh , Cốc vũ : Mậu 18 ngày , Ất 9 ngày , Quý 3 ngày . - Tháng 4 Tỵ : Lập hạ , Tiểu mãn : Bính 18 ngày , Mậu 7 ngày , Canh 5 ngày . - Tháng 5 Ngọ : Mang chủng ,Hạ chí : Đinh 18 ngày , Bính 9 ngày , Ất 3 ngày . - Tháng 6 Mùi : : Tiểu thử , Đại thử : Kỷ 18 ngày , Ất 5 ngày , Đinh 7 ngày . - Tháng 7 Thân : Lập thu , Xử thử : Canh 17 ngày , Kỷ 7 ngày , Mậu 3 ngày , Nhâm 3 ngày. - Tháng 8 Dậu : Bạch lộ , Thu phân : Tân 20 ngày , Canh 7 ngày , Đinh 3 ngày . - Tháng 9 Tuất : Hàn lộ , Sương giáng : Mậu 18 ngày , Tân 7 ngày , Đinh 5 ngày . - Tháng 10 Hợi : Lập đông , Tiểu tuyết : Nhâm 18 ngày, Giáp 5 ngày , Mậu 7 ngày . - Tháng 11 Tí : Đại tuyết , Đông chí : Quý 18 ngày, Nhâm 9 ngày , Tân 3 ngày . - Tháng 12 Sửu : Tiểu hàn , Đại hàn : Kỷ 18 ngày , Quý 7 ngày , Tân 5 ngày . * Túy tiên tử nói : Thời hành thì vật sanh tức lẽ thường của Thiên đạo trong 1 năm , tuy có tấn thối mà ở nơi tứ thời thì vốn không có khinh trọng nên lấy Kim Mộc Thủy Hỏa mà phân vượng nơi tứ thời gồm được 72 ngày ( mỗi hành ) , Thổ thì vượng ở tứ quí gồm được 18 ngày , cọng được 360 ngày mà thành năm vậy . Sau Lập xuân thì lấy dương mộc 36 ngày , Cấn thổ phân cõi , Bính Mậu trường sanh Sau Kinh trập 6 ngày thì dùng âm mộc 36 ngày , Quý thủy ký sanh . Sau Thanh minh 12 ngày thì dùng Mậu thổ 18 ngày dương thủy quy khố âm thủy phãn hồn . Hạ , Thu , Đông cũng như vậy . *Trù nguyên giãn hải thì dùng sau Lập xuân Kỷ thổ dư khí mấy ngày , Cấn thổ phân cõi mấy ngày , Bính MẬu trường sanh trước sanh đều có mấy ngày , tháng Mão Quý thủy ký sanh mấy ngày , tháng Thìn dương thủy quy khố âm thủy phãn hồn cũng có mấy ngày mà không nghĩ tháng Sửu đã dùng đủ mà sau Xuân lại có dư sao ? .Phân cõi là tụ khí vượng ở 1 phương , trường sanh là về mẹ mà thành thai , trước sau tức là trước có DẦn mà sau mới sanh Bính , có Bính mà Mậu sanh sau , ký sanh là theo nơi hư danh không thật có vị , quy khố là sanh khí tuyệt mà thâu tạng lại , phãn hồn là kế tục nơi tử khí mà biến hóa . Đây là sự huyền cơ của ngũ hành trong cái sanh tử tiến thối sao chỉ có thể hạn chế trong mấy ngày ư . Còn Xuân dùng mộc Thu dùng kim lý nhất định vậy , nếu thần mà lẫn tạp nơi ngụ , xưa dùng mấy ngày thì số chủ khí của bổn cung chưa từng khuyết mà lại khuyết vậy . Làm sao thấy Xuân mộc Hạ hỏa , một khí lưu hành vượng trong 72 ngày , dùng tứ quý phồi cùng ngũ hành , chủ có số nạp khách , khách thì không thắng chủ được , nhưng khí Nhâm tư quyền tự có ở trong chưa có sâu cạn trong 3 khí mà dùng vật , vậy nên phải cân nhắc khinh trọng thôi , sao có thể dùng 3,5,7 ngày mà giới hạn ư như vậy tức đã phá mất cái uyên nguyên ; lại sở tạng trong chi chỉ lấy nguyệt mà luận còn niên nhựt thời không luận nhân mệnh tức xem trọng đề cương mà thiếu sự chỉ dẫn vậy . 8 – Luận tứ thời tiết khí. 9 - Luận nhựt khắc 10 - Luận thời khắc. 11 - Luận Thái dương triều thứ Thái âm. (thiếu) 12 – Luận ngũ hành vượng , tướng ,hưu , tù , tử , hư ký sanh 12 cung. Thạnh đức thừa thời thì gọi là Vượng . Như : Mùa Xuân thì Mộc Vượng . Vượng thì sanh Hỏa , hỏa là con của Mộc , con theo nghiệp cha nên Hỏa Tướng . Mộc mà dụng Thủy sanh , sanh ngã tức phụ mẫu tử tôn đắc thời cao minh hiễn hách mà khi sanh ngã thì phải biết thồi ( lui) vậy , nên Thủy Hưu , hưu thì thể đẹp mà vô sự . Hỏa thường khắc Kim , Kim là Quỷ của Mộc bị hỏa khắc chế không thể phát huy nên Kim Tù vậy . Hỏa năng sanh Thổ , Thổ là Tài của Mộc , Tài là vật ẩn tạng , thảo mộc mà phát sanh thì Thổ tán khí hư cho nên mùa Xuân Mộc khắc thì Thổ Tử . Mùa HẠ Hỏa Vượng . Vượng Hỏa sanh Thổ thì Thổ Tướng , Mộc sanh Hỏa nên Mộc Hưu , Thủy khắc Hỏa thì Thủy Tù , Hỏa khắc Kim thì Kim Tử . Tháng 6 vượng Thổ , Thổ sanh Kim thì Kim Tướng , Hỏa sanh Thổ tức Hỏa Hưu , Mộc khắc thổ thì mộc Tù , Thổ khắc Thủy thì Thủy Tử . Mùa Thu Kim Vượng , Kim sanh Thủy thì Thủy Tướng , Thổ sanh Kim thì Thổ Hưu , Hỏa khắc Kim thì hỏa Tù , Kim khắc Mộc thì Mộc Tử . Mùa Đông Thủy Vượng , Thủy sanh Mộc thì Mộc Tướng , Kim sanh Thủy thì Kim Hưu ,Thổ khắc Thủy thì Thổ Tù , Thủy khắc Hỏa thì Hỏa TỬ . Xét tháng Hạ quá khô , Kim thạch lưu thủy thổ tiêu , tháng 6 khí nóng tăng nên khí lạnh bị diệt , tháng Thu kim thắng lá cây vàng rơi , tháng Đông quá lạnh nên Thủy kết đông băng , hỏa khí đình giảm , lúc Vượng lúc Tử có thể thấy được vậy . Bởi tánh của Tứ thời llluc1 đã đủ thì lui về ngũ hành , Công đã thành thì lui vậy , cho nên cực khi cực dương xuống thì cực âm lên vậy đấy là lẽ thường vậy . Người trong Trời Đất thế nhiều thì tổn , Tài tụ thì tán , niên thiếu trở thành suy , vui quá hóa thành buồn là cái lẽ thường tình vậy , nên một thạnh một suy , hoặc được hoặc mất , vinh khô tấn thối không ra ngoài lý nầy . Kinh nói : Người tuy linh hơn vạn vật mà cái mệnh khó tránh khỏi nơi ngũ hành vậy . Về ngũ hành ký sanh trong 12 cung : Truong2 sanh Mộc dục Quan đới Lâm qua Đế vượng Suy Bệnh Tử Mộ Tuyệt Thai Dưỡng tuần hoàn không ngừng , quay vòng trở lại , tạo vật đại thể với người tương tợ tuần hoàn 12 cung như luân hồi vậy . Tam mệnh đề yếu nói : Ngũ hành ký sinh 12 cung , thứ nhất nói thọ khí , lại nói tuyệt, nói bào , dùng vạn vật tại địa trung chưa có tượng như bụng mẹ trống không chưa có vật vậy ; thứ hai nói thọ thai , trời đất giao khí mà tạo vật , vật tại địa trung mà có chồi giống , trước tiên là kh1 như người thọ khí cha mẹ vậy ; thứ ba nói thành hình tức vạn vật tại địa trung mà thành hình , như người tại bụng mẹ mà thành hình vậy ; thứ tư nói trường sanh tức vạn vật phát sanh lớn dần như người mới sanh mà dần lớn vậy ; thứ năm nói mộc dục lại nói bại tức vạn vật mới sanh hình thể mềm yếu dễ bị tổn hại vậy ; thứ sáu nói quan đới tức nói vạn vật dần tốt đẹp như người đủ áo mũ vậy ; thứ bảy nói lâm quan tức vạn vật đã thật đẹp như người lam quan vậy ; thứ tám nói đế vượng tức vạn vật thành thục như người hưng vượng vậy ; thứ chín nói suy tức hình vạn vật suy như người suy khí vậy ; thứ mười nói bệnh tức vạn vật bệnh như người bệnh vậy ; thứ mười một nói tử tức là vạn vật tử như người tử vậy ; thứ mười hai nói mộ lại nói khố tức vạn vật thành công mà tạng khố như người đến hết mà quy mộ vậy ; quy mộ thì thọ khí bào thai mà lại sanh .Thường trong sự tạo hóa mà thấy sanh vượng thì vị tất đã luận là tốt , gặp hưu tù tử tuyệt thì vị tất đã nói là xấu . Như sanh vượng thái quá thì nên chế phục nơi tử tuyệt . Nếu bất cập thì nên sanh phò . Cái hay ở nơi sự thông hiểu . Xưa dùng thai sanh vượng khố là tứ quý , tử tuyệt bệnh bại là tứ kỵ , ngoài ra là tứ bình cũng nói đại khái vậy . 13 – Luận độn nguyệt thời. Thiên mệnh lấy Niên là bổn là phụ . Lấy nguyệt là huynh đệ bằng hữu . Lấy nhật là chủ , lấy thê là tự thân . Lấy thời là tử tôn . Lấy đế tọa là bình sanh vinh thời chủ thủ vậy . Lại nói niên là căn ( rễ) , nguyệt là miêu ( mầm) , nhựt là hoa , thời là thật , nên mầm không rễ thì không sanh , thật mà không hoa thì không kết vậy . Nên độn nguyệt thì theo niên ; độn thời thì theo ngày . * Độn nguyệt tức là Giáp Kỷ niên thì khởi chánh nguyệt , Bính dần tháng 2 , Đinh mão tháng 3... thuận hành đến tháng 12. Cổ ca rằng : Giáp Kỷ chi niên Bính tác thủ. Ất Canh chi tuế Mậu vi đầu Bính Tân chi tuế tầm Canh thượng Đinh Nhâm Nhâm vị thuận hành lưu Cánh hữu Mậu Quý hà xứ khởi Giáp Dần chi thượng hảo truy cầu * Độn thời : như ngày Giáp Tí , sanh nhân giờ Tí thì Giáp Kỷ hoàn gia Giáp tức biết giờ Tí là Giáp Tí , Giờ Sửu là Ất sửu thuận hành cho đến 12 thời . Cổ ca rằng : Giáp Kỷ hoàn gia Giáp Ất Canh Bính tác sơ Bính Tân tùng Mậu khởi Đinh Nhâm Canh Tí cư Mậu Quý hà phương phát Nhâm tí thị trực đồ . Có pháp khởi nguyệt thời , lấy thiên can hợp số phối âm dương vậy , đã lấy hợp số , tự sanh hóa số , nguyệt thì lấy sanh , thời thì lấy khắc . Ví dụ : Giáp Kỷ hóa thổ , hỏa sanh thổ nên nguyệt khởi ở Bính dần ; Mộc khắc thổ nên thời khởi Giáp Tí . Nguyệt độn thì khởi Dần nghĩa là người sanh nơi Dần mà đông tác hưng phương vậy . Thời khởi độn ở Tí tức nghĩa là trời mở ở Tí nhứt dương sanh vậy . Xét thì tất cả đều tương sanh mà chuyển luân không ngừng vậy . Bởi từ thượng cổ nguyên lịch là năm Giáp Tí tháng Giáp Tí ngày Giáp Tí giờ Giáp Tí . Vậy Giáp Kỷ khởi Giáp Tí là khởi nơi Tổ vậy , có Giáp Tí rồi thì tiếp Ất Sửu , Bính Dần mà bổ thuận khắp 12 cung , dương sanh dương , âm sanh âm , tương gian một vị , đồng loại làm phu thê , đó là phép khởi nguyệt không ngoài khởi thời vậy . Sưu tầm nguồn:nhatrachoc.net.vn
-
"Giờ cao điểm sẽ chỉ có xe buýt" 17/10/2011 19:20 (TNO) Đó là mong muốn về một giải pháp đột phá (có thể thực hiện trên một số tuyến phố chính) nhằm xóa bỏ ùn tắc giao thông của Bộ trưởng Giao thông vận tải (GTVT) Đinh La Thăng trong cuộc họp với đại diện lãnh đạo sở ngành Hà Nội và các chuyên gia nhằm nâng chất lượng xe buýt, vào chiều 17.10. Bộ GTVT sẽ nghiên cứu phương án cấm xe ôtô, xe taxi giờ cao điểm tại một số tuyến phố - Ảnh: Ngọc Thắng Nhưng điều dư luận chờ đợi và Bộ trưởng đặt ra ngay trong cuộc họp là sáng kiến mới, đột phá thì vẫn chưa có được. Lại đề xuất điều chỉnh giờ học, giờ làm Ông Nguyễn Phi Thường, Tổng giám đốc Tổng công ty vận tải Hà Nội (Transerco) cho rằng: “Vấn đề lớn nhất của xe buýt là không có đường để đi, giờ cao điểm có thể chậm 40 phút, xe 80 chỗ nhưng phải gánh 200 hành khách. Cần cơ chế chính sách để khuyến khích doanh nghiệp (DN) tham gia phát triển”. Bộ trưởng Thăng đặt luôn vấn đề cho ông Thường: “Lượng khách hiện nay bao nhiêu phần trăm là học sinh, sinh viên (HS-SV), nếu giải quyết kiến nghị của DN thì có thể giải quyết được các tồn tại của xe buýt không?”. Khẳng định có thể làm được nhưng lãnh đạo Transerco vẫn đưa ra những giải pháp không mới khi cho rằng, với lượng khách 80% là HS-SV, phải giải quyết về mặt cung cầu, như giảm tải về cầu (giờ học lệch giờ cao điểm), về cung (tăng khả năng lưu thoát của xe buýt bằng cách tăng tần xuất, một số xe tăng cường vào giờ cao điểm). Cắt ngang lời ông Thường, ông Thăng quyết liệt: “Các giải pháp này chưa mang tính đột phá. Tôi muốn có các giải pháp đột phá, đến giờ cao điểm cấm các loại xe khác, chỉ để xe buýt hoạt động thì có giải quyết được không? Các ông phải đề xuất những vấn đề như thế mới được, còn giải pháp như thế này vẫn đâu sẽ vào đấy hết. Mấu chốt là giờ cao điểm mà xe khác vẫn vào thì xe buýt có tăng tuyến nữa cũng không vào được”. Dẫn lại kinh nghiệm từ Trung Quốc, theo Bộ trưởng Thăng, nước này quy định ôtô chẵn lẻ, đấu thầu lưu thông nhưng giờ cao điểm tại một số tuyến phố chỉ có xe công cộng vào. “Mình có làm được không. Nếu đề xuất thì có vi phạm luật không, phải là giải pháp không mất thời gian, làm được ngay, vì nếu không dân vẫn bức xúc”, ông Thăng nhấn mạnh. Đề xuất tương đối mới mà ông Trần Ngọc Thành, Vụ trưởng Vụ Vận tải đưa ra là tất cả các cơ sở kinh doanh trong vành đai 2 phải mở cửa sau 9 giờ; các tuyến đường một chiều thì xe buýt được chạy hai chiều. Cho biết đã làm việc với Bộ trưởng Bộ GD-ĐT Phạm Vũ Luận về điều chỉnh giờ học, theo ông Thăng, để giảm ùn tắc giao thông, Bộ GD-ĐT đồng ý cho điều chỉnh, bây giờ phải tính toán cụ thể giờ cho HS-SV, giờ cho Hà Nội, giờ cho cơ quan T.Ư, với cơ quan T.Ư sẽ làm từ 9 giờ. Cấm xe ôtô cá nhân, xe taxi giờ cao điểm Được mời chia sẻ sáng kiến, TS Khuất Việt Hùng, Đại học GTVT đưa ra 4 giải pháp, mà hạn chế xe cá nhân là giải pháp cơ bản nhất. Đặt vấn đề tập trung kiểm soát ôtô, ông Hùng nêu số liệu: xe ôtô chỉ chiếm 10% làn phương tiện nhưng chiếm 55% diện tích đường tham gia giao thông. Nếu bớt 20% số ôtô tham gia giờ cao điểm, có 11% diện tích đường dự trữ. Giải pháp để hạn chế ôtô, theo ông Hùng, dễ nhất là thu phí, có sự phân bậc về mức phí đỗ xe giữa trung tâm và bên ngoài, giờ cao điểm phải tăng thêm. Mạnh dạn áp dụng thu phí ôtô vào nội thành như TP.HCM, cũng với nguyên tắc thu cao vào giờ cao điểm. “Tôi đề xuất giờ cao điểm cấm các xe con vào có được không. Cấm 1 tiếng tại một số trục, các anh có xe riêng phải chờ hoặc đi đường khác?”, ông Thăng nêu vấn đề. Đại tá Nguyễn Duy Ngọc, Trưởng phòng Cảnh sát giao thông Hà Nội cũng đề xuất, cần hạn chế xe taxi giờ cao điểm, như đấu thầu trong một số tuyến, những tuyến lớn hai đầu xe buýt hoạt động thì không cho taxi vào. Theo Bộ trưởng Đinh La Thăng: “Các tuyến cao điểm mà nhân dân bức xúc, dứt khoát cấm không cho vào, quan điểm của Bộ đây là xe cá nhân, các nước làm gì có nhiều xe taxi thế. Đau bụng phải chữa trị ngay, đề nghị 1 số tuyến cấm xe taxi và hạn chế xe cá nhân bằng cách thu phí…”. Chốt lại “đã đến lúc phải hành động”, nhưng ông Thăng cũng nêu rõ “phải làm quyết liệt, thường xuyên họp điều chỉnh những cái nào chưa đạt, vì không chỉ cuộc họp hôm nay có thể giải quyết được ùn tắc của Hà Nội”. Mai Hà
-
nội trong ngày 21/9 âm là được. Ngày này có ít giờ tốt nhất.
-
4 – Thập can phân phối thiên văn : * Giáp mộc là lôi , lôi là sự hà hơi của dương khí vậy , giáp mộc thuộc dương nên thủ tượng ở Lôi vậy , nguyệt lệnh là tháng trọng xuân , Lôi thì phát ra tiếng , Giáp mộc vượng tức nghiệm vậy , huống chi Lôi thì rung động đất mà mộc lại sanh nơi đất thì lý lại không bất đồng . Tử nói : đất mà có Lôi gặp thiên căn dương mộc sanh thì gì mà thiên căn chẳng động ư !, là giáp mộc đến Thân thì tuyệt , dùng Lôi thanh đến Thân mà thâu Dần vậy . Thường mệnh thuộc Giáp , nhựt chủ thích ở Xuân thiên , hoặc cùng loại tượng , hoặc theo Càn , hoặc xa Tỵ , hoặc cũng Quý thì đều đại cát , Vận thì không thích Tây phương . Kinh nói: Mộc tại Xuân mà sanh thì đời an nhiên thọ mạng . * Ất mộc là phong , Ất trường sanh ở Ngọ , bại ở Tỵ , tại Ngọ mà sanh là bởi Ất tức sơn lâm hoạt mộc đến mùa Hạ thì tươi tốt nên gọi là Thiên chương hạ mộc thanh vậy , còn bại ở Tỵ thì vì sao : Tỵ là đất Tốn , Tốn là phong , mộc thạnh thì sanh phong vậy , phong sanh nơi mộc mà trở lại hại mộc , giống như hỏa sanh nơi mộc mà trở lại thiêu mộc , vậy nên bại vậy , nói Ất mộc là phong nói theo nghĩa mộc tự sanh thôi . Như người Ất nhựt kiến sanh thì ở Thu lịnh đại cát , ở Thu lịnh thì kim vượng nên Ất mộc năng hóa năng theo mà căn gốc thái tiết , chẳng lợi khí và không nơi tài thành , gặp Hợi thì tử , tức cái thời lá rụng về gốc vậy . * Bính là nhựt , trong thuyết quái nói: Ly là hỏa , là nhựt , nhựt với hỏa đều tượng văn minh , tức dùng cái tên Bính hỏa là nhựt không khác vậy . Thái dương sáng thì xuất mà tối thì nhập . Dương hỏa sanh ở Dần mà tử ở Dậu , làm sao khác được . Lấy Bính nhựt Sửu thời là cách Nhựt xuất địa thượng thật hay vậy . Thường thì lục Bính mà sanh ở Đông Hạ thì không bằng ở Xuân Thu , ngày Xuân làm ấm vạn vật , Thu dương thì dùng để khô vạn vật , Đông tức âm tối , Hạ thì quá quá nóng , cần phải tỉ mỷ mà quyền biến vậy . * Đinh hỏa là tinh , Bính hỏa tử mà Đinh hỏa được tùng sanh vậy , ở ngày thì tinh bạc nên hồi về vậy đại loại như vậy . Tinh tượng chỉ về đêm mới quang sáng , âm hỏa chì gần tối mới huy hoàng . Đinh không bảo là tinh mà sao chân bảo phú lại nói: Âm hỏa giờ Hợi thì phú qúy du du , giải thì dùng đây là Tài Quan tức nói tam kỳ cũng có thể vậy , sao biết Hợi tại Bắc phương ấy là Thiên môn , lại nói tinh củng Bắc ư . thường Đinh nhựt sanh nhân thì thích gặp đêm , thích gặp Thu như tinh quang được thời vậy , lại thích nhược địa như ẩn trong thạch * Mậu thổ là ráng hồng , thổ không chuyên khí , nhờ thổ mà sanh , ráng thì không định thể , nhờ nơi ánh nhựt mà hiện ra , biết Bính hỏa là nhựt thì biết Mậu thổ là ráng vậy , ráng tức là dư quang của nhựt vậy , nhựt mà hết thì ráng cũng theo đó mà diệt mất , mọi hỏa đều không ghét nên gọi là ráng vậy . Diễn nạp âm tượng ngũ hành cho Mậu ngọ là Thiên thượng hỏa thì ý cũng vậy . Như Mậu thổ nhựt chủ thích tứ trụ đới thủy tức là thổ cách , ráng thủy tương với ánh mà thành màu sắc vậy , lại thích niên nguyệt có can Quý , quý thì là vũ ( mưa) , sau khi mưa thì ráng hiện mà trông được rõ vậy. * Kỷ thổ là vân (mây) Kỷ thổ sanh cư Dậu , Dậu là phương Đoài , có tượng là trạch ( đầm) . Tiên chánh nói : Trời làm mưa , núi xuất mây nhưng mây có được do khí xuất ở đầm ( trạch ) vậy , Kỷ tuy thuộc thổ , theo đây mà luận vị chi là mây vậy ; nên Giáp Kỷ hợp mà hóa thổ , khí thăng lên mà thành mây , Vân Lôi giao nhau mà làm ra mưa , do đó mà thổ ở trạch được nhuận Đây là sự tạo hóa rất ư vi diệu , đối với nhân thân mà thuộc Kỷ thổ thì quý tọa ở Dậu , quý sanh Xuân , quý được gặp Giáp , nếu tọa Hợi thì không thể gặp Ất mộc , mây lên trời mà gặp gió thì xấu vậy . * Canh kim là nguyệt , Canh ở Tây phương dương kim , do đâu mà biết phối nguyệt - Đáp : ngũ hành có Canh thì giống như tứ thời có nguyệt vậy . Canh không đợi đến Thu mới sanh nhưng Thu làm cho bắt đầu thạnh , nguyệt không đợi Thu mà có sau nhưng cũng nhờ Thu mà sáng đẹp , nguyệt lấy sắc mà nói thì là trắng vậy , lấy khí mà nói thì Kim sanh Thủy vậy , tức triều ứng nguyệt vậy . Xưa Giáp tí lấy Canh đứng đầu , gặp cùng với nhựt là bình minh vậy . Kinh nói : Kim trầm tại Tí , gặp cùng với nguyệt thì trầm ba vậy , tam nhựt nguyệt gặp phương Canh , gặp suối thì sơ sanh đồng vị với Canh vậy , nên nói Canh kim là nguyệt . Như người mà sanh ngày Canh , tứ trụ có Ất tỵ thì gọi là gió mát trăng thanh , Thu ở đầu Đông thì tốt nhì , Xuân Hạ thì không dùng . * Tân kim là sương , tháng 8 là Tân kim kiến Lộc ,khí trời tiêu , Bạch lộ là sương , cây cỏ vàng lá mà thành suy , nên trong ngũ hành âm mộc bị tuyệt ở chỗ nầy , nếu mộc đã bị đao búa chặt phạt thì chưa thể sanh được vậy , dao rựa lấy thời nầy mà vào sơn lâm hung dữ nơi lúc nầy mà sát cây cỏ , đo nơi thiên đạo , xét nơi nhân sự mà tin là Tân kim đúng là sương vậy , hoặc nói : sương thường tránh nhật thì Bính với Tân là sao hợp , nói vậy thì lý cũng tương khắc nhưng hỏa chỉ khắc kim nên khi tương hợp thì bèn hóa thủy , sương tuy kỵ nhật nên khi tương ngộ mà thủy tiêu đi cũng là thủy vậy nên phải dùng thôi . *Nhâm thủy là Thu lộ ( hơi nước ) . Xuân cũng có lộ sao chỉ riêng về Thu ,bởi Xuân lộ thì có mưa mà thấm vào lộ còn Tu lộ thì có sương mà hòa mất lộ , nên lộ ở Xuân thì chủ sanh mà ở Thu thì chủ sát , công dụng khác nhau như vậy nhưng ta dùng Nhâm là Thu lộ vậy . Như ngày Nhâm sanh ở Thu mà gặp Đinh hỏa là rất vinh hiễn , Đinh là tinh hà Nhâm là Thu lộ tẩy sạch hơi nóng ngùn ngụt mà chiếu khắp vậy . * Quý thủy là Xuân lâm ( mưa dầm) . Quý thủy sanh ở tháng Mão tên là Xuân lâm bởi âm mộc được mưa mà phát sanh vậy , nhưng đến Thân thì tử , đến tháng 7,8 thì bị khô cạn . Mão đứng trước Thìn , Thìn là Long cung vậy , Mão gần Long cung nên Thủy sanh , Long phấn lên mà hóa thành mưa , Mão là Lôi môn , Lôi chấn lên mà Long được hưng vậy . Xem đây thì Quý thủy là mưa Xuân . Như ngày Quý Mão thấu xuất ở Tỵ thì có mây bay mưa rớt , với người thì tất có tài kinh tế vậy . Xuân Hạ tốt Thu Đông không lợi . Thi viết : Quý nhựt sanh phùng Kỷ Tỵ hương , Sát tinh tu yếu mộc lai hàng , tuy nhiên danh lợi thăng cao hiễn , tranh nại bình sanh thọ bất tường . 5 – Thập nhị chi phân phối địa lý . * Tí là ao đen( hắc trì) : Tí ở chánh Bắc thuộc Thủy có sắc tượng màu đen . Thường như mệnh là năm Tí thì thích gặp giờ Quý Hợi tức là Thủy quy Đại Hãi và lại là Song ngư du hắc , chủ là người văn chương vậy . * Ngọ là Phong ai : Ngọ chánh vị ở Nam thuộc Hỏa Thổ , có màu đỏ vàng , Ngọ lại là mã phong ai nên là xứ sở của nhung mã binh hỏa vậy . Người sanh Ngọ thì nên gặp giờ Thìn là chân Long xuất tức mã không , gọi là mã hóa long câu . * Mão là Quỳnh mộc ( cây quỳnh ) : Thuộc hệ Ất Mùi cư ở chánh Đông , thời thuộc trọng Xuân ( tháng 2 ) , là vạn vật sanh vậy , nếu sắc ngọc lan lan mà xanh thì gọi Quỳnh lâm . Năm Mão gặp giờ Kỷ Mùi thì gọi là Thố nhập nguyệt cung chủ đại quý . * Dậu là tự chung ( chuông chùa ) thuộc Kim , cư ở gần Tuất Hợi , Tuất Hợi là Thiên môn vậy . Chuông thuộc Kim , chuông chùa đánh lên thì tiếng động Thiên môn mà Dậu lại ở chánh Tây tức cảnh giới Tây phương của chùa vậy . Dậu gặp Dần thì tốt , đó là chuông chùa kêu mà ứng trong hang động . * DẦn là quãng cốc ( hang động) ở phương Cấn , Cấn là sơn . Mậu thổ trường sanh ở đây nên có ý nghĩa là quãng cốc vậy , nhưng cung Dần có hổ , người sanh năm Dần mà gặp giờ Mậu thìn tức là Hổ gầm mà sanh cốc phong vậy , oai chấn vạn lý . * Thân là danh đô , Khôn là địa cư , thể không cùng thì chẳng danh đô , lấy không đủ mà ví Khôn Thân vậy , Đô là nơi Vua ở , cung Thân là nơi Nhâm thủy sanh lại đối với Cấn sơn tức là Thủy nhiễu Sơn hoàn vậy . Thường mệnh mà có năm Thân giờ Hợi tức Thiên Địa giao thái . * Tỵ là đại dịch , nhân yên thấu tập đạo lộ thông đạt chi địa , trong Tỵ có Bính hỏa Mậu thổ là tượng vậy , lại sau Tỵ có Ngọ mã nên gọi đại dịch . Sanh ở Tỵ thì thích gặp giờ Thìn tức Xà hóa Thanh long có cách là Thiên lý long câu . * Hợi là huyền hà , Thiên hà thủy chảy đi mà không hồi về nên gọi là huyền hà , Hợi là Thiên môn lại thuộc thủy chẳng có tượng huyền hà ư . Sanh năm Hợi mà nhựt thời gặp Dấn Thìn nhị tự thì gọi là thủy cũng lôi môn. * Thìn là thảo trạch . Tả truyện nói : núi sâu đầm lớn thì rồng rắn sanh vậy . Trạch là nơi của thủy , Thìn ở phương Dông là thủy khố nên có cỏ có trạch . Thìn mà gặp Nhâm tuất Quý hợi thì gọi là Long quy đại hải cách . * Tuất là thiêu nguyên , Tuất thuộc tháng 9 Thu , cây cỏ héo úa , ruộng vườn thì thiêu đốt mà canh tác , lại Tuất thuộc thổ nên lấy tên là thiêu nguyên và đất Tuất Thìn thì quý nhân đều không đến . Sanh Tuất mà gặp Mão gọi là Xuân nhập thiêu ngân. * Sửu là liểu ngạn , trong Sửu có thủy có thổ có kim và ngạn là thổ liểu chỉ thủy cho nên gọi là liểu ngạn vậy . Thi viết : Liểu có màu hoàng kim non trẻ vậy . Người năm Sửu mà giờ gặp Kỷ Mùi gọi là nguyệt chiếu liểu sảo rất là thượng cách . * Mùi là hoa viên , vì sao thuộc Mùi mà không thuộc Mão , vì Mão là vượng mộc mà tự thành lâm , Mùi là khố mộc như người xây tường thành để bảo vệ trăm hoa vậy , lấy trăm hoa mà nói thì trong mùi có tạp khí thôi . Năm Mùi mà có cách song phi là rất hay , như Tân Mùi mà gặp Mậu Tuất tức lưỡng can bất tạp vậy Hoặc hỏi vì sao thủ tượng 12 chi lại nói có tự phồi hợp , có tự sanh khắc ,có tự phương vị , có tự thời lệnh , có tự thủy chung không giống nhau vậy ? Đáp rằng đó chỉ đứng về một góc mà nói vậy , học giả tùy loại mà quyền lấy , tức trong 10 can đều có sự vận hành vi diệu , trong cái tiêu tức doanh hư mà được sự thanh ứng khí cầu vậy . Tức đạo lý tự nhiên của tạo hóa thì sao một ngừơi có thể nói được ư !. Lại nói 12 chi có THìn Tuất Sửu Mùi cư ở Tứ ngung và cái Thể đối đãi nhau nên chi thì thuộc Địa , Địa thì tịnh mà không năng động vậy . Mậu Kỷ cư ở trung ương và DỤng nơi lưu hành nên Can thuộc Thiên , Thiên thì động mà không tih5 vậy . Nên tứ thổ trong địa chi chẳng thêm ích vậy mà chỉ dùng chuyên khí thôi , và nhị thổ trong thiên can chẳng tổn thêm mà chỉ không định vị thôi . Nếu dụng can chi mà không phân số sai biệt thì làm sao có được sự biến hóa mà thành quỷ thần . Số của Thiên nguyên có 10 , Tí đã phân phối là Thiên văn . Số của Địa nguyên có 12 và Tí lại phân phối là Địa lý . Ngày xưa Thánh nhân làm Dịch nơi tượng của Bát quái , xa thì lấy nơi vật , gần thì lấy nơi thân , nói rất rõ mà không đặt lý can chi , Thuật gia giải thuyết mà lại trái nhiều với Thánh nhân vậy , Tí do vậy mà có . Phú nói : luận Dụng thần , luận nhựt chủ đều có cái nên thủ địa mạch , thủ thiên nguyên , hoặc là một đạo , bởi gồm cả ở đây mà sau mới có vậy , nếu không thì cũng một lần sai lầm chữ vậy ( bản gốc mất 6 chữ )..., địa chi đưa ra tứ sanh tứ bại tứ khố các vị mà thác tống thi cũng thấy vậy , học giả gồm những thuyết trước mà xét vậy . Túy tỉnh tử nói : lớn thay địa chi trước sanh ra vật và gốc của Thiên Địa , tổ tiên của vạn vật , có sự biến hóa âm dương và dùng theo thời hầu sâu cạn nên kim mộc thủy hỏa thổ không có chủ hình và sự sanh khắc chế hóa dùng không giống nhau . Ví dụ tử mộc thiên về hoạt thủy để thấm nhuần và như là ngoan kim thì rất thích được lò lớn mà luyện lâu . Thái dương hỏa kỵ Lâm mộc mà mộc lương đống thì muốn làm bạn với dao rựa , hỏa mà cách thủy thì không thể nhuốm được kim , còn kim mà trầm trong thủy thì không thể khắc được mộc , hoạt mộc thì kỵ thiết , tử kim thì sợ bùn che , Giáp Ất thì muốn thành một khối , Nhâm Quý thì năng thành ngủ hồ bởi cùng một tánh lưu , gỗ xấu thì kỵ dao sắc , trân châu thì rất sợ lò nóng , liểu yếu tùng cương , suy vượng phân theo thời , kim khí dùng tùy cương nhu , thổ long đầu ít mộc thì khó thông suốt với kim trong lư , thấm ướt trở thành vũ lộ bồi bổ cây khô , tường thành không sanh kim , kiếm kích đá thanh thì sợ gặp , đất hỏa dễ bị loại , thành tường vững chải đến nơi đất mộc thì đổ nghiêng , Quý Bính sanh Xuân không mưa không tạnh , Ất Đinh sanh Đông chẳng lạnh chẳng nóng , Giáp Ất gặp Kim mạnh thì hồn về cõi Tây , Canh Tân gặp hỏa vượng thì khí tán , thổ khô hỏa nóng thì kim chẳng nhờ được , mộc nổi thủy phiêu thì hỏa không thể sanh , kim luyện mạnh tốt thì năng chế được mộc cường , tháng Đông đất ẩm thì khó mà ngăn chận sóng tràn , thổ yếu như cát bụi thì chẳng làm nền tảng cho hoạt mộc , kim thiết tiêu phế thì sao hoàn về căn bổn , mộc thạnh thường làm kim thương tổn , thổ hư lại khiến thủy coi thường , hỏa không mộc thì không còn sáng , mộc không hỏa thì chất chẳng còn , Ất mộc sanh Thu thì dễ thành cây khô gãy đỗ vậy , Canh kim tử ở Đông , cát chìm trong biển sao có thế , cỏ đọng sương ngưng lại gặp được kim , kim sa trong thổ không hề hơn mộc , hỏa chưa sáng nên có khói , thủy đã đi mà còn ướt . Đại để thủy lạnh thì không lưu , mộc lạnh thì không phát , thổ lạnh thì không sanh , hỏa lạnh thì không dữ , kim lạnh thì không luyện , đều chẳng phải chánh khí trời đất nhưng vạn vật sơ sanh chưa thành , thành lâu thì diệt , ấy chính là sự biến chuyển Siêu phàm nhập thánh thoát tử hồi sanh rất vi diệu , không tượng mà thành không hình mà hóa , dụng chắc không bằng gốc chắc , gốc sâu sao có hoa nhiều . Còn như Bắc kim biến thành thủy mà chìm hình , Nam mộc thành khói mà thoát thể , Đông thủy vượng mộc mà khô nguyên , Tây thổ thắt kim mà dã hư , lửa thành khói , thổ mà tối đều là đại họa . Trong ngũ hành quý nhất là sự trung hòa và cần nhất là đừng nói trái , phải đào tận hàn đàm mới thấy đáy vậy . Sưu tầm nguồn:nhatrachoc.net.vn
-
Theo tài liệu này ghi lại từ trang mạng thì đồ hình do Thiên Đồng vẽ có nhầm lẫn về vị trí tên cung Tài Lộc và Hôn Nhân theo Bát quái cổ thư trong quá trình...vẽ vời. Thiên Đồng sẽ chỉnh lại. Thiên Đồng
-
Nên sinh đứa Giáp Ngọ 2014 hoặc Ất Mùi 2015. Chúc Hạnh phúc
-
Châu âu, Tây âu...không biết Dịch, sao họ vẫn phát triển ào ào và vẫn giầu, vậy thì " Không có Dich, không thành sự trong thiên hạ" có đúng không?
-
Tình sử Bùi Giáng - Kim Cương: Duyên nợ (kì 1) Nghệ sĩ Kim Cương trong một lần lên Gò Vấp thăm Bùi Giáng Kỳ nữ Kim Cương chiếm một vị trí đặc biệt trong cuộc đời, trong tâm hồn và trong sáng tác của Bùi Giáng. Trong tâm hồn ông, Kim Cương là "đệ nhất mỹ nhân" trong thiên hạ. Ông yêu Kim Cương bằng một tình yêu lạ lùng nhất thế gian. Chỉ có thể nói đó là một tình yêu bất tử. Đã có rất nhiều giai thoại xung quanh mối tình kỳ bí này.Đối với Kim Cương, tuy là mối tình đơn phương từ phía Bùi Giáng, nhưng nữ nghệ sĩ đã rất trân trọng tình yêu của ông, một sự trân trọng vô cùng cảm động và hiếm thấy. Nhiều năm qua, nghệ sĩ Kim Cương có những lý do riêng nên đã không lên tiếng một cách chính thức. Lần đầu tiên, bà tiết lộ với Báo Thanh Niên một số sự thật về thiên tình sử này, vì đã đến lúc bà không còn lý do để tiếp tục im lặng... Chúng tôi tạm gác những phần cuối của loạt bài Bùi Giáng - thi sĩ kỳ dị để giới thiệu riêng cùng bạn đọc những tiết lộ của Kim Cương. Chúng tôi xin tỏ lòng biết ơn nghệ sĩ Kim Cương. Những tiết lộ này sẽ giúp cho công chúng hiểu rõ hơn con người và sự nghiệp của một thi sĩ độc đáo vào bậc nhất của đất nước. Có lẽ trong cuộc đời của thi sĩ Bùi Giáng, ngoài chuyện văn chương ra thì chuyện tình đơn phương của ông với NSƯT Kim Cương là nổi bật nhất, kỳ lạ nhất, và cũng cảm động nhất. Kim Cương còn giữ rất nhiều bài thơ của ông viết tặng riêng bà, cả hình ảnh nữa, nhưng từ lâu bà từ chối mọi lời yêu cầu của các tờ báo, nhà xuất bản xin được phát hành, đặc biệt sau khi Bùi Giáng vừa qua đời nhiều đơn vị còn đặt vấn đề "mua" những tấm ảnh, tập thơ đó. Bà nói: "Tôi không muốn đem tình cảm của Bùi Giáng ra đánh bóng tên tuổi của mình hoặc làm gì đó có dấu ấn kinh doanh. Dù tôi không yêu ông, nhưng tôi trân trọng tình yêu của ông. Tuy nhiên, bây giờ sau loạt bài của Báo Thanh Niên, tôi thấy đây không còn là chuyện riêng tư nữa, mà Bùi Giáng là một sự kiện văn học chung của đất nước, cần có thêm nhiều thông tin về ông. Và vì không lên tiếng nên có những thêu dệt không đẹp cho Bùi Giáng, vì vậy tôi chỉ muốn nói rõ một vài sự thật để người ta hiểu đúng ông hơn". Kim Cương biết Bùi Giáng lúc bà khoảng 19 tuổi, còn theo đoàn cải lương của má Bảy Nam nhưng đã được mệnh danh là "kỳ nữ". Thật ra, ông chú ý đến bà trong một đám cưới của đôi bạn Hạnh - Thùy. Sau đám cưới, một hôm Thùy bảo Kim Cương: "Có một ông giáo sư Đại học Văn khoa, đi học ở Đức về, ái mộ chị lắm, muốn đến nhà thăm chị". Kim Cương trả lời: "Ừ, thì mời ổng tới". Hóa ra là Bùi Giáng, lúc ấy đang dạy học, cũng áo quần tươm tất chứ chưa có "điên điên" như sau này. Bùi Giáng lui tới, mời Kim Cương lên xe đạp ông chở đi chơi, rồi cả cầu hôn, nhưng bà đều né tránh. Bởi sau vài lần tiếp xúc, bà thấy ở ông toát lên cái gì đó "kỳ kỳ", bất bình thường, nên bà sợ. Đeo đuổi mãi không được, Bùi Giáng thở dài nói: "Thôi, chắc cô không ưng tôi vì tôi lớn tuổi hơn cô (Bùi Giáng lớn hơn Kim Cương mười mấy tuổi), vậy cô hứa với tôi là sẽ ưng thằng cháu của tôi nhé. Nó trẻ, lại đẹp trai, học giỏi". Kim Cương ngần ngừ: "Thưa anh, chuyện tình cảm đâu có nói trước được. Tôi không dám hứa hẹn gì đâu, để chừng nào gặp nhau hẵng tính...". Ý bà muốn hoãn binh. Nhưng Bùi Giáng đã đùng đùng dắt cháu tới. Trời ơi, hóa ra đó là thằng nhỏ mới... 8 tuổi. Kim Cương hết hồn, thôi rồi ổng đúng là không bình thường! Từ đó, mỗi năm Bùi Giáng mỗi bệnh nặng hơn. Ông không có vợ con, suốt ngày đi lang thang ngoài đường, hò hét, rồi cứ địa chỉ nhà Kim Cương mà tới. Thằng bé Toro con của Kim Cương lúc ấy khoảng 5 tuổi, thường trố mắt ra nhìn ông, và hỏi: "Mẹ ơi, sao bác này giống cái xe hoa quá?". Tư duy trẻ con thật ngộ nghĩnh, nhưng lại rất chính xác. Thì trên người Bùi Giáng có đủ thứ: nào hộp lon treo lủng lẳng, nào lá cờ giắt sau lưng, nào nhánh cây, vòng hoa trên đầu... cả một nải chuối đeo thường xuyên trên cổ. Không mở cửa cho ông vào là ông la hét, đập cửa, chửi um sùm, ném đá nữa, khiến hàng xóm náo động. Nhưng riết rồi quen, mỗi lần ông tới nhà Kim Cương ai nấy đều cười. Má Bảy Nam ở trên lầu chỉ cần nghe la rùm beng, đập cửa ầm ầm, là hỏi: "Bùi Giáng phải không?". Nhiều lần ông say khướt, nằm ịch xuống gốc cây trước nhà Kim Cương, mọi người phải khiêng vào. Bà lắc đầu: "Sợ ổng chết. Tướng tá vầy có thể chết bất cứ lúc nào. Nhưng khiêng vô rồi cũng sợ rủi ổng chết trong nhà mình. Mà điều, không nỡ bỏ ổng lăn lóc ngoài đường, thấy tội quá". Nhưng điều hay nhất là mỗi khi vô nhà Kim Cương ông lại sáng tác thơ để tặng bà. Tiện tay xé bất cứ tờ giấy, tờ lịch nào là ông viết ào vô đó. Nguồn thơ yêu cứ tuôn trào như suối, không vơi cạn theo năm tháng. Về sau, khi ông "quậy" quá thì Kim Cương nghĩ ra cách, không mở cửa, mà lòn một cuốn sổ ra khe cửa cho ông viết thơ. Ông hí hoáy một hồi, rồi vui vẻ bước đi. Suốt 40 năm, cả chục cuốn sổ tay đã đầy ắp chữ của ông, chỉ riêng tặng "nương tử Kim Cương". Bà trân trọng gìn giữ trong ngăn tủ. Những vần thơ yêu với nét chữ ngả nghiêng chệnh choạng nhưng hồn nhiên say đắm lạ kỳ. - Kính thưa nương tử Kim Cương Tấm lòng rộng mở phi thường bấy nay Ngàn năm điêu đứng đọa đày Thiên thu sử lịch cau mày về sau Thưa em đời mộng dạt dào Tình yêu vô tận yêu đào vô biên - Kể từ tao ngộ đầu tiên Kim Cương vô tận, thuyền quyên vô cùng Bốn mươi năm đã lẫy lừng Âm thầm tưởng niệm lạ lùng giai nhân Trái tim thiết thạch vô ngần Từ tam thu tới tử phần hôm nay Kể từ sử lịch xa xuôi Bất ngờ một bận bùi ngùi yêu em Hoàng Kim (báo Thanh Niên)
-
Hiện Tượng Lạ Bé Như Ý 9 tuổi thuyết pháp, một hiện tượng lạ hay một trường hợp nào khác? http-~~-//www.youtube.com/watch?v=wjs_9KO95o0
-
Mọi người quên rằng việc Khổng Minh cầu mưa và làm được mưa, đó chỉ là trong truyện chứ không phải là một hiện thực lịch sử. Như vậy, nếu cứ như mấy tay "ở trần đóng khố" mà ào ào dẫn chứng một chi tiết của truyện, như vậy là hiện thực hóa truyện, thì thực quả là; nếu không phải là trơ tráo; thì chứng tỏ thiểu năng trong phương pháp tư duy mà dân gian gọi rằng "đầu bả đậu'. Còn việc 10 ngày Đại lễ ngàn năm Thăng Long không mưa thì đó là một hiện thực, một hiện thực lịch sử! Đó là điều đầu tiên Khổng Minh không có lý do gì để so sánh với Thiên Sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh. Một lý do thứ hai để Khổng Minh không đáng được so sánh với Thiên Sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh rằng dù cho Khổng Minh cầu gió Đông được 3 ngày được cho là thật đi chăng nữa, theo cách chủ quan hay nghe sao nói vậy, thì cũng không thể so được với 10 ngày không mưa trong Đại lễ ngàn năm Thăng Long - Hà Nội. Thứ ba, cái không thể so sánh Khổng Minh với Thiên Sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh là Khổng Minh biểu hiện việc làm bằng hiện tượng thần quyền hay mê tín, còn Thiên Sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh tuyên bố 10 ngày không mưa trong Đại lễ ngàn năm Thăng Long - Hà Nội bằng lời tiên tri trước sự kiện những 2 tháng và trên cơ sở lý thuyết có thể giải thích được mà giáo sư uy tín Đào Vọng Đức cũng đã phát biểu trước khi sự kiện diễn ra là "Về mặt lý thuyết, ông Tuấn anh có thể làm được" và sau đó hiện thực là sự kiện đã diễn ra như xã hội đã biết, nghĩa về mặt lý thuyết và hiện thực khách quan điều đúng, phản ánh đúng lời tiên tri, đài truyền hình Việt Nam đã ghi nhận 10 ngày không mưa. Thứ tư, Cái không thể so sánh Khổng Minh với Thiên Sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh là Không Minh cầu gió đông để chứng tỏ một khả năng siêu nhân hay một phương pháp ứng dụng bí truyền và chỉ dừng lại ở đó, nếu đây là hiện thực lịch sử. Còn việc 10 ngày không mưa trong Đại lễ ngàn năm Thăng Long - Hà Nội mà Thiên Sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh tiên tri là một phần minh chứng cho một lý thuyết cao cấp đằng sau nó, lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành, thuộc nền văn hiến Việt 5000 vinh hiển, là một lý thuyết thống nhất vũ trụ và chính thật một lý thuyết khoa học. Thiên Đồng
-
Nói sao đi nữa thì cũng không thoát khỏi cái tư tưởng u u minh minh như thế này để mị dân:
-
theo quẻ hôm nay thì hàng đã lên xe và được chuyển đi đến nơi nhận. Do sự chủ quan của chành xe, không làm đúng thủ tục giao hành, tức phải có xác nhận hay chứng minh ai nhận và nhận lúc nào nên người nhận phải là người có ý gian. Ở đây có 2 trường hợp, một là người của công ty có ý gian cắp mất, hai là người ngoài công ty, nhưng khả năng này không thể vì chỉ có người của công ty nhận hàng hay người của chành xe có ý gian mới biết có hàng để nhận. Vậy vấn đề phải theo quẻ luận tiếp là nếu người nhận là nữ độ khoản 33-34 tuổi là người của công ty ra nhận thì hàng không mất vì do có thể nhận rồi và để đâu đó. Nếu người của công ty ra nhận mà là đàn ông độ khoản 38 hay 43 tuổi người hơi gày cao thì khả năng mất hàng. Nếu là chành xe, nếu ngày đó chành xe có thêm một phụ xế nghĩa là 1 tài chánh, 2 tài phụ thì khả năng mất hàng là tại nơi chành xe. Tuy nhiên, kết luận cuối cùng là hàng có thể không mất, nên kiểm tra kỹ lại tại nơi nhận và cả chành xe. Nếu kiện thì cũng nên kiện, mất lòng trước được lòng sau. Thiên Đồng
-
Tháng 10 dương lịch: ngày 30. Tháng 11 dương lịch: 12, 16, 23, 28. Chúc an lạc. Thiên Đồng
-
Chúc mừng chúc hạnh phúc An Thư, chúc mừng Engineer quẻ nghiệm.
-
Nghiệm Chứng Qua Thiền Định http-~~-//www.youtube.com/watch?v=j_sRZud95rE
-
Vậy cũng được. Cũng có thể 19 đem về luôn 13g20-15g20.
-
vài dòng hứng ngẫu.... Lòng riêng lưu luyến thuyền duyên Yêu từ cổ độ (*) quên miền chiều thu miên trường (*) thơ rượu lãn du ru hời đời mộng khôn ngu vui cười Đông Thiền ngẫu bút (*)Cổ độ, miên trường: những từ trong thơ Bùi Giáng