-
Số nội dung
6.278 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
75
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Thiên Đồng
-
Theo người Giarai thì do đánh nhau với Mơsao bị thua nên thần Yang Dai bực bội, chui vào chăn giấu mặt mấy tháng không ra. Vì thế mà có mùa đông, đó chính là lúc Yang Dai xấu hổ không muốn nhìn thấy ai cả. Và tiếp theo đó là rất nhiều các vị thần khác như thần Tang, thần Lút, thần Kon Xur, Blang Kyan... đã sáng tạo nên cây cỏ như tranh, tre, chuối, dứa... và các muông thú như con kiến, con voi, con hổ... Với quan niệm vạn vật hữu linh, người Bana cho rằng cây cối, mọi vật trên mặt đất đều có thần linh ngự trị. Trong thần thoại của Bana, thần Cây được gọi là Yang Hơlơn, thần Núi là Yang Gông Cơrôi, hay Yang Bót Rang, hay còn gọi là Yang Bót Keling. Diện mạo của mỗi thần mang bóng dáng thoát thai của mình, như thần Sông thì giống hình con Rồng, thần Suối thì giống hình con Rắn, thần Cây là một người đàn ông có cặp mắt to tròn như cối giã gạo v.v... Theo thần thoại của người Mnông thì, tương tự như ở tầng Trời, ở tầng Đất cũng có các vị thần. Trong số các vị thần ở tầng Đất là vị thần Lúa, là một vị thần có vai trò quan trọng (có tên gọi là Truh Ba). Thần Lúa có nhiệm vụ bảo vệ mặt đất, chăm cho cây lúa lớn nhanh, không cho sâu bọ làm hại mùa màng. Ngoài ra cư ngụ trên mặt đất còn có thần Núi (Brah Yok), thần Rừng (Brah Bri) cai quản núi rừng, thần Suối (Brah Dak) cai quản các ngọn núi, dòng sông, thần Brah Kuât và Brah Njuk là những thần hộ mệnh giữ gìn sức khỏe cho con người, thần Ng’Vich Ng’Val bảo vệ nòi voi... Hầu hết các dân tộc đều có câu chuyện về thần Lúa của mình. Người Bana kể, sau trận hồng thuỷ, có hai anh em sống sót, họ nhờ có con kiến đen mang lại cho một hạt lúa thần, đem gieo thì ngày hôm sau, lúa mọc lên đầy đồng mênh mông, mỗi hạt lúa có thể nấu đầy một nồi và ăn no một bữa. Người Mường kể về nàng Dặt Cái Dành là một người phụ nữ Mường đảm đang khéo léo đã lên tận Mường Trời xin nữ thần Lúa - nàng Tiên Thiên Mái Lúa cho các giống lúa quý đem về để người Mường trồng cấy đến tận ngày nay. Người Thái cũng kể, sau trận lụt, hai anh em nhà kia đã tìm được hạt thóc to bằng quả bầu. Hai anh em phải chặt cho chóc vỡ vụn ra mới nấu ăn được. Chính vì thế, ngày nay hạt thóc bé lại, người ta muốn trồng lúa ăn thì phải gieo thật nhiều hạt, khi ăn phải đâm giã rất vất vả. 1.3. Thần thoại về nguồn gốc loài người Từ trong bộ phận thần thoại nói về sự hình thành vũ trụ, về thiên nhiên, núi sông, cây cỏ với những vị thần sáng tạo có tầm vóc lớn lao kỳ vĩ, ta dần dần thấy xuất hiện cả bóng dáng con người với sự tưởng tượng, với những nét chấm phá ngày càng rõ nét, ngày càng đậm đà. Để sau đó thần thoại các dân tộc thiểu số Việt Nam sẽ cho thấy rằng con người sẽ là chủ của thiên nhiên, của cả thế giới vũ trụ lớn lao cho tới các cây cỏ, loài vật, núi sông, đồng ruộng, đất nước... Phản ánh nhận thức con người tách biệt ra khỏi thiên nhiên đó là bộ phận thần thoại hình dung ra con người có nguồn gốc từ đâu, do ai mà sinh ra. Con người khiếp sợ trước thiên nhiên hoang sơ, hùng vĩ, nhưng con người cũng đã nhận thức được mình là một bộ phận của thiên nhiên và hơn nữa còn muốn khẳng định mình là bộ phận tinh tuý nhất của thiên nhiên. Trong thần thoại của các dân tộc, con người đầu tiên xuất hiện, đều do một đấng siêu nhiên sinh ra. Ở người Kinh (Việt) có câu chuyện kể Ông Trời sau khi tạo ra muôn vật, đã dùng đất sét, thứ đất bùn nhão tinh tuý để nặn ra con người, nặn xong đem phơi nắng cho khô, tượng đó hoá thành người có đủ mắt mũi, chân tay. Tương tự, ở người H’mông, có truyện Sáng tạo ra loài người, nói về nhân vật Chử Làu (tức Ông Trời) lấy đất nặn thân hình con người đầu tiên, hà hơi vào miệng, cho hồn vào bụng, cho tiếng nói ở cổ họng. Con người đàn ông đầu tiên có mắt mũi, có tiếng nói và đi lại trên mặt đất. Chử Làu lại nặn tiếp người đàn bà để cho họ lấy nhau, để sinh con đẻ cái đông đúc như ngày nay. Thần thoại kể về nguồn gốc tộc người, nguồn gốc dân tộc mang tính phổ biến toàn nhân loại, nhưng cũng mang nét đặc sắc riêng, phản ánh tâm thức và trình độ phát triển xã hội của từng dân tộc. Các dân tộc Việt Nam có rất nhiều thần thoại giải thích nguồn gốc của loài người, giải thích nguồn gốc các dân tộc. Ở người Kinh (Việt) tiêu biểu nhất là câu chuyện về Lạc Long Quân (giống Rồng) và Âu Cơ (giống Tiên) với bọc một trăm trứng nở ra một trăm người con trai. Thần thoại này đã trở thành truyền thuyết bố Rồng mẹ Tiên phản ánh nội dung về nguồn gốc sinh ra giống nòi và mang ý nghĩa phản ánh về việc phân chia địa vực. Thần thoại của người Mường thì có truyện Trứng Điếng kể chuyện đôi chim Tùng, chim Tót (có nơi còn gọi là chim Ây cái Ứa hoặc chim Tráng, chim Trò v.v...) đẻ ra trứng và từ trứng nở ra người. Hệ thần thoại này được kể trong sử thi Đẻ đất đẻ nước với cảnh sinh ra các vị tổ tiên người Mường và các dân tộc láng giềng của họ như sau: Thấy nở trứng Điếng Nghe ồn ào tiếng Lào Nghe lao nhao tiếng Kinh Nghe ình ình tiếng Mọn (Mường)(13). Cảnh tượng này cũng giống như chuyện chim Ông Tôn của người Thái được kể trong sử thi - thần thoại Ẳm ẹt luông v.v... Điều này chứng tỏ có sự tương đồng lớn giữa thần thoại các dân tộc, đó là những truyện kể về các nhân vật khổng lồ, các cặp vợ chồng khổng lồ đầu tiên đã sinh ra nòi giống con người và kiến tạo địa bàn sinh tụ. Đó là những Ông Đùng – Bà Đà (Việt), ông Thu Tha – bà Thu Thiên (Mường), Ải Lậc Cậc (Thái), Pựt Luông, Tài Ngào, Báo Luông – SLao Cải (Tày) và cặp đôi Lạc Long Quân – Âu Cơ (Việt). Đặc biệt, thần thoại các dân tộc còn lưu giữ nhiều ký ức về trận lụt lớn, về nạn đại hồng thuỷ, nó giống như một đại hoạ khủng khiếp khiến cho loài người bị tuyệt diệt và cùng với đó là ký ức về sự tái sinh của con người nhờ những quả bầu kỳ lạ. Nói về trận hồng thuỷ, người Giáy có truyện Nước ngập trời: “Bỗng một năm, mặt đất mưa mấy tháng liền không dứt cơn, hạt mưa to như quả mận. Núi non sạt lở, đất nhão thành bùn, cây to cây nhỏ trôi ầm ầm về phía cửa trời và đá tảng cũng lăn theo đến đó... Nước lụt dâng lên vùng thấp, dâng lên núi cao, ngập hết mọi nơi, nước dâng lên tận trời làm cho người và vạn vật đều chết hết”. Người Thái có thần thoại Hồng thuỷ: “Ngày xưa có Trời, Đất, Cỏ, Cây. Trời giống hình cái nấm khổng lồ làm bằng bảy miếng đất, ba khối đá, chín con sông... Trời bỗng trở nên tối tăm, sấm sét nổi dậy. Trong vòng một ngày có trên một trăm ngàn trận mưa rơi đầy mặt đất. Tất cả khe suối, ao hồ đều tràn ngập. Đồng ruộng cũng đầy cả nước. Nước dâng cao lên đến tận Trời, tất cả mọi sinh vật sống trên mặt đất đều chết sạch”. Người H’mông kể về Hồng thuỷ với “những trận mưa liên tiếp luôn bốn mươi ngày đêm, nước dâng lên ngập mặt đất, dâng lên đến tận trời cao”. Người Lô Lô thì kể “loài rồng dâng nước lên khắp nơi trên trái đất, nước dâng lên ngày càng cao. Cuối cùng những ngọn núi cao nhất cũng phải chịu ngập trong nước, mọi người đều bị chết đuối hết”. Người Bana kể: “Nước dâng lên ngập sông, ngập biển và đến tận trời. Tất cả mọi sinh vật đều chết hết, trừ có hai người, hai anh em trai và gái vào nấp trong một chiếc trống lớn. Họ đem theo mỗi giống vật một đôi... Nước lụt bảy ngày bảy đêm. Nước rút... Hai anh em lấy nhau, sinh đẻ nhiều con cái”. Người Raglai cũng ghi lại truyện Hồng thuỷ : “Nước lụt từ biển dâng lên đến ngọn núi, nước lên cao đến tận trời. Có hai người ở miền Thượng, một trai một gái chui vào một cái trống... Sau trận lụt lớn ấy, tất cả đều chết sạch, chỉ trừ hai người còn sống sót ở trong cái trống. Họ lấy nhau rồi dần dà sinh sôi nảy nở ra loài người”. Sau trận hồng thuỷ, con người đã được tái sinh. Hệ thống thần thoại các dân tộc đã lưu truyền rộng rãi những câu chuyện kể về Quả bầu nở ra hàng vạn người con với nhiều giống người. Loại truyện Quả bầu này có trong kho tàng dân gian Đông Nam Á và nó đã được dân tộc hoá tuỳ theo sự sáng tạo của từng dân tộc. Truyện Quả bầu của người Thái ở Tây Bắc thì kể rằng dây bầu mọc bên bờ sông Nậm Rốn đã đẻ ra người Thái, người Xá, v.v... Truyện của người Thái, người Dao đều kể: “Sau trận lụt, chỉ có hai anh em nhà kia sống sót nhờ nấp trong quả bầu nên họ đành phải lấy nhau. Ba năm sau, họ sinh ra một quả bầu. Thấy trong quả bầu có tiếng ồn ào, họ đem dùi ra đục. Một cặp nam nữ mình đen ra trước. Đó là người Xá. Người Thái, người Lự, người Lào, sau rốt là người Kinh chui ra. Con cái nhiều quá, nuôi không xuể, hai bố mẹ mới phân chia các con đi các ngả kiếm ăn. Cặp con cả ở lại với bố mẹ là tổ tiên của người Xá hiện nay. Cặp con út đi xa xuống đồng bằng là tổ tiên người Kinh ngày nay vậy” (Thái). Hoặc là “Từ vỏ, cùi, hạt bầu đều hoá thành người. Vỏ bầu ít hoá thành người Dao, người Mèo ở trên núi cao. Cùi bầu nhiều hơn thì hoá thành người Tày người Nùng ở lưng chừng núi. Còn vô vàn hạt bầu hoá thành người Kinh (Việt) ở vùng thấp, vùng đồng bằng đông đúc” (Dao). Truyện Quả bầu của người Khơ Mú nhận rằng nguồn gốc của tộc người này là từ một quả bầu mẹ sinh ra. Người ta tin rằng quả bầu ấy có hồn thiêng. Mỗi khi trong nhà có người ốm, thì lấy áo của người bệnh trùm lên quả bầu khô khấn vái, xin giữ hồn vía cho người ốm đừng để ma dữ bắt đi. Truyện Quả bầu ở Tây Nguyên thì kể rằng nó đã đẻ ra người Vân Kiều, người Bru, người Khau, ngoài ra còn có cả người Xrô (Xô), người Cùi ở bên Tây Trường Sơn của nước Lào nữa. Thần thoại của một số dân tộc Tây Nguyên đã khẳng định sự sinh ra của loài người, của các dân tộc Việt Nam đều từ một gốc. Thần thoại Bana kể lại rằng các dân tộc anh em (bao gồm người Bana, người Êđê, người Giarai, người Mnông, người Xtiêng, và người Kinh) đều từ ông tổ BokXơgơr sinh ra... Về nguyên nhân các dân tộc phân tán đi nhiều nơi sinh sống làm nên những địa vực cư trú mới, thần thoại Việt Mường giải thích là do bố mẹ chia con đem một số lên rừng, một số khác xuống biển v.v... như thần thoại Lạc Long Quân – Âu Cơ, sử thiĐẻ đất đẻ nước. Thần thoại Hồng thuỷ của người Lô Lô nói con cái của hai người sống sót sau trận lụt được sinh ra từ cục thịt. Họ xẻ ra thành nhiều mảnh đem vứt dưới gốc đào, gốc lê, mận, táo... Miếng vứt ở gốc đào biến thành làng họ Đào, miếng vứt ở gốc lê mang họ Lý (Lê). Loài người sinh sôi đông đúc, nói tiếng nói khác nhau. Và các dân tộc đều là anh em, đều chung một tổ tiên, chung một bọc mà ra. Còn ở thần thoại các dân tộc khác như thần thoại Bana thì lại kể nguyên nhân là do tai hoạ tại trời gây ra. Như truyện Bok Xơgơr kể rằng: Con cháu ông Xơgơr dựng nhà rông lên quá cao đã làm Trời tức giận, Trời còn làm cho anh em không nghe, không hiểu được tiếng nhau. Họ bèn ôm nhau khóc lóc rồi chia tay nhau. Từ đấy anh em mỗi người một ngả, ra ở những chỗ khác nhau và dần dần trở thành các dân tộc anh em ngày nay... “Kẻ nói tiếng Bana thì đến xứ Bana, những người nói tiếng khác nữa thành ra tổ tiên của các dân miền núi như Giarai, Xêđăng, Êđê, Xtiêng, Raglai... Chỉ có người con cả nói tiếng Kinh thì ở lại với cha mẹ, họ khôn ngoan và giàu có hơn các em”(14). Như vậy, thần thoại về nguồn gốc loài người, nguồn gốc các dân tộc ở Việt Nam gặp nhau và giống nhau ở điểm cơ bản (có cùng một gốc) và chỉ khác nhau ở cách kể chi tiết, các tình tiết (cách quan niệm, suy đoán về nguyên nhân phân tán). Chủ đề lớn đó được thể hiện qua hệ thống hình tượng có những mối quan hệ gần gũi, đồng thời lại có những nét khác biệt: hoặc là quả bầu, hoặc là bọc trăm trứng, hoặc là bọc trăm con, hoặc là ông tổ chung... Từ cái nền chung đó, thần thoại các dân tộc ViệtNam đã khắc hoạ được cốt lõi đời sống cộng đồng các dân tộc Việt Nam thời xa xưa. 2. Thần thoại kể về sự chinh phục thiên nhiên và sáng tạo văn hoá Nằm trong hệ thống kho tàng thần thoại các dân tộc Việt Nam còn có nhóm thần thoại mang nội dung phản ánh những kỳ tích của con người trong quá trình chinh phục thiên nhiên, sáng tạo văn hoá... tạo nên những nhân vật anh hùng thần thoại, anh hùng văn hoá. Việc chinh phục thiên nhiên, khai phá núi sông, tiêu diệt những lực lượng thần linh ma quái thuở ban đầu được con người thời cổ kể lại, khắc hoạ những hình tượng đó bằng kích thước to lớn, khác thường. Thần thoại Bố Rồng mẹ Tiên, Lạc Long Quân – Âu Cơ... trong hệ thống truyện Họ Hồng Bàng của người Việt kể về vua Rồng với những câu chuyện mang đậm tinh thần đấu tranh chống thiên nhiên của người Việt cổ. Ở đây, người anh hùng Lạc Long Quân có sức khoẻ hơn người đã ra tận biển Đông để chiến đấu, tiêu diệt con cá lớn đã thành tinh (Ngư tinh) chuyên ăn thịt dân thường và làm đắm thuyền bè qua lại. Lạc Long Quân còn vào sâu trong đất liền giết con cáo chín đuôi đã thành tinh quấy phá một vùng (Hồ tinh) và Long Quân còn dùng mưu mẹo để giết được con tinh ở trên cây (Mộc tinh). Bằng các chiến công, Long Quân trừ được một tai hoạ cho loài người. Cũng từ đó, hễ ở đâu người Việt gặp nguy hiểm lại cất tiếng gọi: “Bố ơi ở đâu về cứu chúng con” là Long Quân tức khắc đến ngay. Hình ảnh người anh hùng chinh phục thiên nhiên trong thần thoại Mường là vị vua Dịt Dàng với chiến tích chặt cây Chu Đồng, săn con muông Tìn Vìn Tượng Vượng được kể trong sử thi thần thoại Đẻ đất đẻ nước. Ở thần thoại của người Thái là chàng khổng lồ Ải Lậc Cậc với công việc khai phá các cánh đồng lớn ở Tây Bắc. Ở thần thoại người Tày là hai vợ chồng ông bà khổng lồ Báo Luông – Slao Cải đã mở rộng các cánh đồng lớn ở Hoà An, Nguyên Bình... của vùng Cao Bằng, Bắc Cạn. Còn thần thoại của người Êđê là truyện kể về chàng khổng lồ Prông Pha, đạp đất núi lấy nước uống, tiêu diệt yêu tinh trừ lũ lụt và hạn hán. Thần thoại của người Bana thì kể lại ba anh em Việt – Bana – Lào hợp sức diệt xà tinh, trừ các tai hoạ dông bão, lũ lụt và nạn hoả hoạn... Kể về chủ đề chinh phục tự nhiên, thần thoại của các dân tộc bằng nhiều cách khác nhau đều nhằm ghi lại và ngợi ca những chiến tích lao động của tổ tiên trong buổi đầu tạo dựng và ổn định địa bàn cư trú. Ngoài những anh hùng văn hoá chinh phục thiên nhiên là các nam thần, trong thần thoại các dân tộc cũng có rất nhiều các anh hùng văn hoá là các nữ thần: Trong thần thoại của người Việt có bà Nữ Oa, bà Tồ Cô, nữ thần Lửa, nữ thần Lúa, nữ thần nghề mộc... Thần thoại người Mường có bà Nhân, người có công xếp đặt lại đất đai, trồng ra mọi thứ cây cỏ được kể trong bài ca Đang Vần Va. Thần thoại của người Chăm có nữ thần Pôư Nagar hoặc là Thiên Ya Na (theo cách gọi của người Việt) là nữ thần văn hoá, dạy dân cày cấy được kể trong thần thoại Pôư Nagar. Trong kho tàng thần thoại còn có hình tượng của nhiều thần tổ ngành nghề, các bà chúa... họ ở khắp nơi dạy dân trồng lúa, làm nghề mộc, thuần dưỡng vật nuôi, cây trồng, tìm giống mới, tìm cách làm nhà, tìm nghề mới, v.v... Trong điều kiện khí hậu khắc nghiệt xưa, hạn hán và bão lụt là những thứ tai hoạ thiên nhiên thường xuyên đe doạ đời sống con người từ thời cổ. Sự kiện này được thể hiện ở nhiều thần thoại các dân tộc với thiên thần thoại Nạn hồng thuỷ ghi lại bóng dáng của một trận lụt lớn. Thần thoại Sơn tinh Thuỷ tinh của người Việt kể về cuộc giao tranh giữa thần Núi (Sơn tinh) và thần Nước (Thủy tinh) là sự phóng đại với trí tưởng tượng hào hùng việc chống lũ lụt hay việc trị thuỷ nói chung để bảo vệ mùa màng và đời sống... Để bảo vệ địa bàn sinh tụ, đan xen với những cuộc đấu tranh chinh phục thiên nhiên là những cuộc đấu tranh xã hội của con người. Thần thoại cũng đã phản ánh cuộc đấu tranh này với sự phóng đại cường điệu đầy tính thần kỳ với hình ảnh của các anh hùng bộ tộc, bộ lạc chống giặc ngoại xâm. Ở thần thoại Việt, thần thoại về thời kỳ Hùng Vương, An Dương Vương (Văn Lang, Âu Lạc) là truyện kể chung, tên gọi chung cho nhiều thế hệ thủ lĩnh, anh hùng văn hoá đã tổ chức ra nhà nước và các cuộc chiến thắng của bộ tộc. Đó cũng là hình tượng người anh hùng làng Dóng giết giặc Ân được kể trong truyện Thánh Dóng, hình tượng Thạch Sanh trong truyện Thạch Sanh (với khá nhiều yếu tố thần thoại lẫn cổ tích) có chiến công diệt yêu quái gần với những chiến công của Lạc Long Quân. Ở thần thoại các dân tộc Tây Nguyên, đó là rất nhiều hình tượng các chàng trai dũng sĩ đã được kể lại trong các sử thi - khan như chàng Đam Noi, anh hùng Đam Dông của dân tộc Bana, chàng Đam Săn, Xing Nhã của dân tộc Êđê, chàng Đăm Duông của dân tộc Xêđăng, chàng Diông của dân tộc Giarai, v.v... IV. Giá trị và ý nghĩa thẩm mỹ của thần thoại Thần thoại Việt Nam ra đời từ rất sớm. Thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của nó là thời kỳ thành lập địa vực cư trú, địa vực quốc gia. Nội dung phong phú nhất của nó là phản ánh một cách hoang đường kỳ vĩ về những hiện tượng vũ trụ, thiên nhiên, về sự hình thành, xây dựng và bảo vệ đất nước. Do tính chất truyền miệng và không được ghi chép nên nhiều thần thoại đã không lưu giữ lại được đầy đủ. Chính vì vậy, nhiều nhà nghiên cứu trước nay đã cho thần thoại của dân tộc Việt chỉ là những mảnh vụn bị vỡ ra, những mẩu vụn của thần thoại Việt cổ. Nhưng có lẽ, cho đến lúc này đây, chúng ta nên xem xét kho tàng thần thoại Việt cổ ấy trên cái nền bóng dáng chung của thần thoại các dân tộc ít người để thấy được những đặc trưng, những nội dung lớn của thần thoại Việt Nam. Trong quá trình lâu dài của lịch sử, thần thoại Việt Nam đã phát triển, từ những mẩu thần thoại phản ánh sự nhận thức từng mặt của con người về vũ trụ thiên nhiên, loài vật,... các dân tộc trong cộng đồng Việt đã có những hệ thống thần thoại lớn như hệ thống truyện Họ Hồng Bàng của người Việt, sử thi mo Đẻ đất đẻ nước của người Mường, sử thi - khan của các dân tộc Tây Nguyên như Đăm San, Xing Nhã của dân tộc Êđê, v.v... Và khi đất nước ta bị các lực lượng ngoại bang xâm chiếm, bị sự thống trị lâu dài của phong kiến phương Bắc, thần thoại Việt đã bị phân hoá thành các hướng: hoặc bị Hán hoá các thần thoại Việt Mường, hoặc bị phong kiến hoá, bị cắt rời thành những phiên bản rời rạc... Sự tác động xã hội này đã sớm đẩy nhiều thần thoại Việt Nam sang giai đoạn bị truyền thuyết hoá, cổ tích hoá, đặc biệt đã tạo ra nhiều truyền thuyết có tính lịch sử. Có thể tìm thấy rất nhiều trong thần thoại Việt Nam những thần thoại bị lịch sử hoá, truyền thuyết hoá, đặc biệt là trong những truyện về thời kỳ Văn Lang, Âu Lạc của dân tộc Việt như Âu Cơ – Lạc Long Quân, Sơn tinh - Thủy tinh, An Dương Vương, Thánh Dóng... Và bị cổ tích hoá như Thạch Sanh v.v...Ngoài ra ta cũng thấy có thể có những thần thoại về anh hùng văn hoá chinh phục thiên nhiên trở thành cổ tích như Thạch Sanh kể về nhân vật có những chiến tích diệt trừ yêu quái, Mai An Tiêm kể về người có công khai phá vùng ven biển và tìm ra một loại cây ăn quả mới, Chử Đồng Tử kể về người có công tìm ra nơi cư trú mới ở vùng đầm lầy... Trong thần thoại của các dân tộc Việt Nam, nhiều môtip thần thoại về loài vật như Con Cóc, Con Rùa, Con Rắn được nhào nặn lại, phát triển để trở thành những môtíp của thể loại khác. Thí dụ, ở các dân tộc, con cóc đi từ thần thoại (Cóc kiện trời, Lệnh Trừ) để sang truyện cổ tích (Chàng rể Cóc, Người lấy Cóc). Con Rùa đi từ thần thoại Thần Biển đến truyền thuyết Thần Kim Quy v.v... Cả hệ thống thần thoại các dân tộc Việt Nam đã đi từ nguyên sơ đến chỗ phát triển cao hơn với dung lượng rộng lớn hơn trong các áng mo, các sử thi - khan với các hình thức diễn xướng dân gian, và qua quá trình giao lưu, tiếp biến, thần thoại đã cùng với các thể loại khác của văn học dân gian làm nên kho tàng văn hoá quý giá của cả dân tộc Việt Nam ta. Thần thoại Việt Nam đã là nguồn tư liệu quý giá cho tất cả các ngành khoa học xã hội ngày nay. Thần thoại tuy không phải là tài liệu sử học thực sự nhưng vì nó đã phản ánh ít nhiều tình trạng sinh hoạt xã hội loài người trong lịch sử, vì vậy các sử gia phong kiến Việt Nam xưa trong khi viết sử đã tham khảo nhiều ở thần thoại. Việc đặt thần thoại lên đầu quyển sử, làm thành một phần Ngoại kỷ như Ngô Sĩ Liên tuy là “Không chính xác nhưng cũng nói lên một điều là thần thoại đã có cống hiến trong chừng mực nào đó cho lịch sử, là cái bóng của những sự việc lịch sử đời xưa” (Nguyễn Đổng Chi)(15). Thần thoại còn đặt nền móng cho tôn giáo. Đối với người nguyên thuỷ thì chưa có tôn giáo, mà vạn vật đều hữu linh, thần thoại đã tạo nên tín ngưỡng bái vật giáo nguyên thuỷ, là dây nối giữa vật tổ và thị tộc, thần thoại dần dần đã tô điểm, bổ sung và làm nền móng cho thế giới thần của tôn giáo. Thần thoại còn là nguồn cảm hứng vô tận cho mọi sáng tác văn học nghệ thuật, mỹ học, hội hoạ, v.v... Tất cả những điều đó đã khẳng định giá trị mọi mặt của thần thoại Việt Nam nói riêng cũng như thần thoại toàn thế giới nói chung. IV. Nghệ thuật của thần thoại 1. Kết cấu và cốt truyện Đối với người đời sau, thần thoại không những có giá trị như là những tài liệu quý cho các khoa dân tộc học, sử học, lịch sử tôn giáo..., mà còn có giá trị thẩm mỹ to lớn, còn hấp dẫn chúng ta bằng những hình tượng nghệ thuật độc đáo vì đã được sản sinh trong “những điều kiện xã hội vĩnh viễn không bao giờ trở lại nữa”. Đa phần những tác phẩm thần thoại có cốt truyện ở dạng đơn giản, chưa có nhiều chi tiết, thể hiện cách lý giải còn thô sơ rời rạc trong nhận thức về thế giới của con người thời cổ. Ở những cốt truyện này thường có kết cấu: Một thần - một nhân vật - một hành động. Nhân vật thường xuất hiện đột ngột trong cõi hỗn mang, hình dạng khổng lồ, thực hiện công việc của người sáng tạo ra thế giới. Kết cấu này chủ yếu là những thần thoại kể về nguồn gốc vũ trụ, thiên nhiên. Thần thoại còn có dạng truyện mang hình thức một cốt truyện với nhiều chủ đề, kết cấu của truyện là các cốt truyện đơn, song đã có thêm một số tình tiết, biến cố, sự kiện (Truyện về chủ đề Hồng thuỷ xen cài với chủ đề Quả bầu, chủ đề Sáng tạo loài người...). Hiện tượng phức hợp về chủ đề trong một cốt truyện thần thoại phản ánh sự chứa đựng nhiều lớp văn hoá đã được chồng lấp lên nhau trong quá trình lưu truyền. Điều này tạo ra tính đa nghĩa trong một số thần thoại xuất hiện ở thời điểm muộn như thần thoại Sơn tinh Thủy tinh, Thánh Dóng của người Việt, Lệnh Trừ của người Tày, Pôư Nagar của người Chăm v.v... Một trong những dạng kết cấu khác của thần thoại, đó là dạng một cốt truyện mang hình thức liên kết của nhiều cốt truyện đơn, làm nên một hệ thần thoại. Hệ thần thoại (mifologie), theo E.M. Mêlêtinxki, chính là tổng thể những câu chuyện về các thần và các nhân vật, đồng thời là hệ thống những quan niệm hoang đường về thế giới. Kết cấu này, nhìn chung là kết cấu của những áng sử thi - thần thoại lớn. Ở những hệ thần thoại này, trong quá trình lưu truyền, các cốt truyện đơn có mối liên hệ móc xích với nhau đồng thời ở mức độ nào đó chúng có tính độc lập tương đối (Hệ thống truyện Họ Hồng Bàng (người Việt), moĐẻ đất đẻ nước (người Mường), Ẳm ẹt luông (người Thái), Báo Luông – Slao Cải (người Tày), sử thi - khan Tây Nguyên v.v...) 2. Nhân vật Nhân vật của thần thoại là kết quả của sự tưởng tượng mộng mơ của con người thời cổ đại. Do vậy nhân vật của thần thoại hầu như đều được mô tả với hình dạng khổng lồ, có sức mạnh to lớn, có tính cách đơn giản một chiều. Các nhân vật như thần Mưa, thần Sấm, thần Gió, thần Biển, thần Nước, thần Lửa, v.v... mỗi thần chỉ thực hiện một chức năng, một hành động. Đối với các nhân vật sáng tạo văn hoá cũng vậy, mỗi thần đem tới một chiến công, một sự đóng góp cho xã hội loài người. Các nhân vật cặp đôi như hai thần Đực – Cái, Lạc Long Quân – Âu Cơ (Việt), ông Thu Tha – bà Thu Thiên (Mường), Báo Luông – Slao Cải (Tày), vợ chồng Ải Lậc Cậc (Thái)... đã tạo nên nòi giống, dân tộc. Các nhân vật dũng sĩ như Thánh Dóng, Sơn tinh Thủy tinh (Việt), Lệnh Trừ (Tày)... đã có công chống lại thiên tai, giặc dữ bảo vệ cương vực địa bàn sinh tụ v.v... 3. Nghệ thuật phóng đại, ẩn dụ Thần thoại là bức tranh toàn cảnh của cả một thời đại huy hoàng của quá khứ xa xăm của loài người. Nghệ thuật phản ánh chủ yếu của thần thoại là phóng đại, kỳ vĩ vì điều này phù hợp với khung cảnh kỳ bí, hoang sơ của thiên nhiên và xã hội thời cổ đại. Nghệ thuật phóng đại đã làm cho thần thoại thêm hấp dẫn bởi những hình tượng nhân vật mang tầm cỡ lớn lao với sức mạnh siêu nhiên mà con người đời sau không bắt chước được. Cũng nhờ nghệ thuật phóng đại mà các nhân vật thần thoại có được sức sống lâu bền, vượt qua mọi thời gian để còn lại với chúng ta ngày nay. Có thể nói phóng đại là nghệ thuật chủ yếu của thần thoại. Để diễn tả sự siêu việt của các nhân vật, thần thoại đã xây dựng hình tượng các vị thần, vị nào cũng có một hình thù to lớn dị thường: Thần Trụ Trời có bước chân bước từ đỉnh núi này sang đỉnh núi nọ. Thần Biển mỗi lần vùng vẫy là có sóng to gió lớn, nước dâng ngập tràn khắp nơi. Cánh tay của ông Chày bà Chày kéo được cả trời đất... Thần thoại cũng dùng biện pháp ẩn dụ “Trời tròn như cái bát úp, đất phẳng như cái mâm vuông”. Cách nói ẩn dụ này đã làm cho thần thoại ẩn dấu nhiều nghĩa phong phú mà ngày nay khi nghiên cứu thần thoại như là một đối tượng của sáng tác nghệ thuật, chúng ta cần xem xét kĩ tính chất ẩn dụ này để “giải mã” đúng đắn các thần thoại cổ. Thần thoại đã tạo nên cho con người Việt Nam nếp cảm, nếp nghĩ, nếp tư duy đầy hình tượng phóng đại và khoáng đạt. Một nhà nghiên cứu phương Đông người Nga M.N. Tkachốp đã có nhận xét xác đáng rằng: “Những quan điểm thần linh siêu nhiên vốn là tư duy truyền thống của người Việt Nam từ thời xa xưa và được bắt nguồn chính từ thần thoại. Những lời giải cho sự “kì lạ” không phải là quá hiếm hoi, và đã nằm trong những hoàn cảnh đã tạo nên nó. Một người Việt Nam dù sinh ra trong gia đình làm nghề cày ruộng hay một gia đình quý tộc thì từ tấm bé đều biết ánh sáng loé lên của tia chớp và tiếng sấm là dấu hiệu thần Sấm đang đến, vung lưỡi tầm sét của mình để thực hiện ý muốn của ông Trời trừng phạt một kẻ nào đó phạm tội ác. Anh ta biết rằng cơn gió mát mẻ và trận cuồng phong dữ dội là do bởi chiếc quạt lông của thần Gió cụt đầu mà ra, còn con rồng khổng lồ đang dồn đuổi đám mây mưa trên bầu trời chính là thần Mưa. Còn nếu ông Thần Nông xuất hiện trong giấc mơ của ai đó một cách vui vẻ thì có nghĩa là mùa màng thất bát đang đón chờ anh ta, còn nếu thần xuất hiện trong bộ dạng phờ phạc thì là sự báo trước một mùa màng bội thu... Trong mỗi dòng sông, trong những cánh rừng rậm và hang núi, đang sống những vị thần mà mọi người đều biết rõ tập tục và thói quen của họ”(16)1 ________________ (1) E.M. Mêlêtinxki: Từ điển thần thoại. Nxb. Bách khoa Xôviết. M. 1991. Bùi Mạnh Nhị dịch. (Trong sách Văn học dân gian, những công trình nghiên cứu. Nxb. Giáo dục, H, 1999). (2) E.M. Mêlêtinxki: Thi pháp của huyền thoại. (Trần Nho Thìn và Song Mộc dịch). Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004. (3) Đinh Gia Khánh (Chủ biên), Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn: Văn học dân gian Việt Nam. Nxb. Giáo dục, H, 2002. (4) Đỗ Bình Trị: Nghiên cứu tiến trình lịch sử của văn học dân gian Việt Nam, Đại học Sư phạm, H, 1978. (5), (6) Chu Xuân Diên: Mục từ Thần thoại, trong sách Từ điển văn học (Bộ mới). Nxb. Thế giới, H, 2004, tr.1646-1648. (7) Trương Sĩ Hùng: Tìm hiểu quá trình diễn xướng của thần thoại và sử thi Mường. Tạp chí Dân tộc học, số 4-1988. (8) Phan Đăng Nhật: Mo tang lễ - một pho thần thoại và sử thi Mường - Việt đồ sộ. Trong cuốn Nghiên cứu sử thi Việt Nam. Nxb. Khoa học xã hội, H, 2001. (9) Những người theo trường phái thần thoại ở châu Âu vào cuối thế kỷ XIX - nửa đầu thế kỷ XX đã cho rằng sử thi - thần thoại xuất phát từ chính các sinh hoạt nghi lễ về các vị thần trong tín ngưỡng dân gian hoặc trong các tôn giáo. (Dẫn theo Đỗ Hồng Kỳ: Sử thi thần thoại Mnông, trong sách Văn học dân gian, những công trình nghiên cứu. Sđd). (10) Cao Huy Đỉnh: Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam. Nxb. Khoa học xã hội, H, 1974. (11), (15) Nguyễn Đổng Chi: Lược khảo về thần thoại Việt Nam. Nxb. Văn Sử Địa, H, 1956. Nxb. Khoa học xã hội (tái bản), H, 2003. (12) Vũ Ngọc Khánh, Phạm Minh Thảo, Nguyễn Thị Huế: Kho tàng thần thoại Việt Nam. Nxb. Văn hóa - Thông tin, H, 1995. (13) Từ Chi: Phần thần thoại trong Đẻ đất đẻ nước, Văn nghệ dân tộc và miền núi, H, số 8-1996. (14) Đặng Nghiêm Vạn (Chủ biên): Tổng tập văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam. Nxb. Đà Nẵng, 2002. (16) Dẫn theo N.I. Niculin: Thần thoại Việt - Mường về cây thế giới và sự hình thành văn học. Tạp chí Văn hóa dân gian, số 4-2000. PGS.TS. Nguyễn Thị Huế Phòng Văn học dân gian, khoavanhoc-ngonngu.edu.vn================================================================ Thần thoại hay huyền thoại phản ảnh tư duy nhân thức thực tại của một dân tộc phù hợp với nền tri thức của dân tọc đó, đôi khi huyền thoại hay thần thoại mang yếu tố của sự kiên lịch sửa, nhưng không phải là lịch sử. Huyền thoại hay thần thoại Việt luôn chứa đựng trong đó nội dung Minh triết sâu sắc văn hiến 5000 năm huyền vĩ. Thiên Đồng
-
III. Phân loại và nội dung phản ánh của thần thoại Trên cơ sở thần thoại các dân tộc thiểu số Việt Nam đã được sưu tầm và công bố, có thể phân loại thần thoại Việt Nam thành hai nhóm, tương đương với hai chủ đề chính như sau: - Thần thoại suy nguyên kể về nguồn gốc vũ trụ và nguồn gốc muôn loài. - Thần thoại kể về việc chinh phục thiên nhiên và sáng tạo văn hoá. 1. Thần thoại suy nguyên kể về nguồn gốc vũ trụ và nguồn gốc muôn loài 1.1. Thần thoại suy nguyên kể về nguồn gốc vũ trụ Trong bộ phận thần thoại nói về sự hình thành vũ trụ, thiên nhiên này, nhân vật thường là các vị thần được tưởng tượng ra với những nét chấm phá ban đầu qua những hình tượng vừa cụ thể, vừa sống động, hồn nhiên, vừa vươn tới dạng thái khái quát của tư duy triết học thuở ban đầu của loài người. Khi sáng tạo ra các vị thần, tư duy thần thoại đã lấy con người làm mẫu, nên các thần đều mang bóng dáng của con người. Thần thoại Việt (Kinh) có truyện Thần Trụ Trời phản ánh khá rõ quan niệm của người Việt cổ về nguồn gốc và quá trình hình thành thế giới. Truyện kể rằng: Ban đầu vũ trụ là một cõi hỗn độn, mờ mịt, tối tăm, lạnh lẽo. Từ cõi hỗn độn ấy, thần Trụ Trời đã xuất hiện, ông lấy đầu đội trời lên cao và dùng chân đạp đất xuống thấp. Đất, trời đã phân cách nhưng chưa xa nhau, ông lại đào đất đá, xây trụ chống trời lên cao mãi. Khi trời đã thật cao, đất đã thật rộng, ông mới phá cột trụ đi “Trời tròn như bát úp, đất phẳng như cái mâm vuông”. Thần ném vung đất đá đi khắp chốn. Mỗi hòn đá văng ra bấy giờ thành một hòn núi hay một hòn đảo. Đất tung toé mọi nơi thành cồn, thành đồi, thành cao nguyên. Vì thế mà bây giờ mặt đất có chỗ cao, chỗ thấp. Những nơi thần đào đất xây trụ thì mặt đất lõm xuống thành đầm hồ, sông biển. Những nơi đất đá văng ra khi cột trụ bị phá thì mặt đất nhấp nhô thành núi, thành gò, chỗ ráp quanh giữa trời và đất được gọi là chân trời. Coi vũ trụ do một vị thần tạo ra, và vị thần ấy cũng phải vất vả đào đắp giống như con người lao động vậy, chính ở thần thoại Thần Trụ Trời này, con người đã nêu lên được vấn đề lao động sáng tạo và cải tạo vũ trụ. Họ đã tạo ra một thế giới mới bằng sức tưởng tượng phong phú và mạnh mẽ của mình. Tiếp theo thần thoại Thần Trụ Trời, người Việt còn kể đến nhiều vị thần khai sáng, xây dựng vũ trụ như trong bài ca: Ông Đếm cát Ông Tát bể Ông Kể sao Ông Đào sông Ông Xây rú...(10) Trong thế giới thần thoại, người nguyên thuỷ đã coi vũ trụ có ba cõi chính: Trời, Đất và Nước do ba vị thần cai quản: Ông Trời vừa cai quản cõi Trời, vừa cai quản cả thế giới vũ trụ. Thần Đất cai quản cõi Đất, thần Nước trông coi cõi Nước... ở mỗi cõi còn có nhiều vị thần khác, mỗi vị thần phụ trách một công việc nhất định. Hầu hết trong thần thoại các dân tộc, các vị thần ở cõi Trời phần nhiều tương ứng với các hiện tượng tự nhiên có nhiều tác động đến đời sống mà con người thời cổ đã quan sát được như thần Trời, thần Gió, thần Mưa, thần Sấm sét, thần Mặt trăng. Các truyện đều rất đơn giản, mộc mạc... Theo thần thoại Việt, trên cõi Trời, ông Trời là Chúa tể (sau được gọi là Thượng đế, Ngọc hoàng) được nói nhiều đến trong những thần thoại: Cóc kiện trời, Sáng tạo ra loài người, Cuộc tu bổ lại các giống vật, ... Trời là người quản lý, điều hành, vua của muôn loài, Trời hành động theo quy luật của tự nhiên và xã hội. Trời có quyền uy nhưng cũng bình đẳng, vô tư với các thần khác, với loài người và loài vật. Trong số các vị thần ở trên trời có ba vị được nói nhiều hơn cả là ông Trời và nữ thần Mặt Trời, Mặt Trăng. Thần thoại Việt kể: vũ trụ ban đầu lạnh lẽo tối tăm. Trời đã cho xuất hiện chín mặt trời, mười mặt trăng, thi nhau chiếu sáng và thiêu đốt mặt đất. Có nhân vật thằng Quải đã dùng nỏ bắn các mặt trời, mặt trăng khiến trời đất lại tối. Người phải cho gà trống đi gọi lại một mặt trời và một mặt trăng. Mặt trăng nóng nảy hay sà xuống gần mặt đất làm cho con người nóng không chịu được. Thằng Quải phải lấy tro bếp ném lên mặt của mặt trăng, từ đó mặt trăng không sà xuống thấp nữa và trở nên mát dịu. Có truyện còn kể về hiện tượng trăng tròn trăng khuyết là do sự ngoảnh mặt của trăng. “Nghe nói cô Mặt Trăng xưa kia tính tình nóng nảy. Hạ giới rất khổ sở vì tính tình gay gắt của cô. Việc ấy về sau đến tai Ngọc Hoàng. Bà mẹ phải trát cho nữ thần một lần tro vào mặt. Từ đó, cô trở nên dịu dàng, hiền lành; ở hạ giới ai cũng ưa thích. Người ta bảo, mỗi lần cô ngoảnh mặt nhìn xuống nhân gian thì lúc đó là trăng rằm; cô ngoảnh lưng lại tức là ba mươi, mồng một; cô ngoảnh lưng lại lần nữa tức là thời kỳ trăng thượng huyền hay hạ huyền. Những lúc trăng có quầng là lúc bụi tro trát mặt ngày trước hiện ra”(11). Ngoài ra, còn có truyện kể về Ngày tháng Năm dài, ngày tháng Mười ngắn. Đó là ngày tháng Mười thì ngắn, ngày tháng Năm thì dài. Là vì mặt trời thì làm ra ngày, thường ngồi trên kiệu có các cô gái khiêng, họ thường mải chơi vừa đi vừa dừng nên làm cho ngày dài ra vào khoảng thời gian tháng năm, mùa hè. Còn vào tháng mười, mùa đông, kiệu được các bà già khiêng, chăm chỉ, đi nhanh nên làm cho ngày ngắn lại. So với thần thoại Việt, thần thoại của các dân tộc anh em cũng rất phong phú với những biểu hiện tương ứng về các chủ đề, mô típ và hình tượng về vũ trụ, thiên nhiên. Kể về chủ đề nguồn gốc vũ trụ và thế giới tự nhiên, người Thái có sử thi-thần thoại Ẳm ẹt luông, người Lô Lô có Bài ca trời đất, người H’mông có thần thoại Khúa Kê... Trong đó có thể kể đến nhiều vị thần khai sáng xây dựng vũ trụ: ở người Lô Lô là ông bà Két Dơ, GaGia, ở người Thái là Xô Công Phạ, Xô Công Đin, có nơi thì lại cho là do Thẻn Luông sinh ra trời đất và mọi vật. Trong thần thoại sử thi Đẻ đất đẻ nước của người Mường là ông Thu Tha và bà Thu Thiên... Tên gọi các vị thần sáng tạo ra vũ trụ và thiên nhiên ở các dân tộc kể trên tuy có khác nhau, nhưng các vị thần ấy có điểm chung: họ là những cặp vợ chồng khai sáng vũ trụ. Trời đất đã được sinh ra từ sự hôn phối của hai ông bà có tầm vóc kỳ vĩ này. Rõ ràng các tác giả của các thiên thần thoại cổ của các dân tộc ấy đã lấy sự sáng tạo ra con người làm khuôn mẫu, thiên nhiên đã được nhân hoá. Trong thần thoại H’mông, Chử Làu là vua Trời, khi vũ trụ còn hỗn mang mờ mịt, Chử Làu đã gọi ông Chày bà Chày để tạo ra trời đất. Hai ông bà Chày vâng lời Chử Làu, ông Chày tạo ra bầu trời và bà Chày tạo ra trần gian. Thấy bầu trời vòm thì hẹp mà mặt đất bằng phẳng và rộng nên ông bà Chày bèn nắn mặt đất hẹp lại cho khớp với bầu trời. Do vậy mặt đất bị nhăn nhúm, lồi lõm. Chỗ trồi lên thì thành đồi, chỗ lún xuống thành thung lũng, biển hồ. Thần thoại của người Chăm thì kể rằng trời đất là do thần Trời (thần Cha) và thần Đất (thần Mẹ) sáng tạo ra. Thần Cha còn gọi là Pô Chà Ta là đấng sáng tạo ra vũ trụ bao la cùng muôn vật. Dưới thần Trời là cả một hệ thống thần linh các Pô Yang khác. Thí dụ như thần Mặt Trời, khi thần này cúi lạy ông Trời Pô Chà Ta thì sinh ra Nhật thực. Còn khi thần này đi qua cung trăng có bà Chà ở đó, bà Chà đứng lên cúi chào thì sinh ra Nguyệt thực. Còn ở một số dân tộc khác, thần thoại của họ lại kể về một vị thần duy nhất sáng tạo ra thiên nhiên. Theo quan niệm của các dân tộc này thì từ thiên nhiên và vạn vật trong trời đất đến con người, cây cỏ đều từ một nguồn gốc mà ra: ở thần thoại người Dao là Chang Lô Cô, là Bàn Cổ (hoặc Nhiên vương). Thần Bàn Cổ của người Dao có tầm cỡ bao quát cả vũ trụ con người: Đầu thần là trời, chân thần là đất, mắt bên trái của thần là mặt trời, mắt bên phải của thần là mặt trăng... Ở thần thoại của người Êđê có thần Ai Điê sáng tạo ra vũ trụ cũng có vóc dáng kỳ vĩ: đầu tròn của thần là bầu trời; trán thần nhăn là mây bay lượn, lưng thần trở thành không khí, hai cánh tay thần là hai cây trụ phân chia trời đất thành hai cõi tách riêng ra... Theo thần thoại của người Êđê, thần Ai Điê là người cai quản tất cả các vị thần khác như thần Mặt Trời (Yang Hruê), thần Mặt Trăng (Yang Mlau), thần Núi (Yang Cư), thần Nước (Yang Eê)... Trong các vị thần ở trên trời, thì việc làm ra mưa là do hai vị thần Mưa. Người Êđê quan niệm có mưa ở trên trời và có mưa ở dưới đất. Tuy mỗi nơi đều do một vị thần trông nom riêng như vậy, nhưng mỗi khi bị hạn hán phải cầu cúng xin trời mưa, người ta đến cầu khấn cả hai: Aê Mghăn - thần Mưa ở trên trời và Aê Mghi - thần Mưa ở dưới đất. Theo thần thoại của người Mnông thì tất cả những gì trong vũ trụ, theo cách nhìn và cách thể hiện của họ, dường như chúng đều có hồn và sống động. Người Mnông tin tưởng rằng ở trên trời, cũng như ở dưới đất đều có rất nhiều vị thần trú ngụ. Vị thần tối cao, toàn diện, toàn năng nhất ở tầng trời là thần Mặt Trời với các tên gọi Yang Nar, Yang TNghe, Yang Măt. Ở tầng trời, quyền lực sau thần Trời là thần Sét (Yang N’glai). Vị thần này là một người đàn ông to lớn, có giọng nói dữ tợn, có thanh gươm chặt ra lửa. Đây là vị thần nửa thiện, nửa ác. Trừng trị những kẻ gây tội ác cho con người là nhiệm vụ chính của thần Sét, do vậy ở vị thần này, phần thiện trội hơn phần ác và thần rất được con người ngưỡng mộ. Thần thoại của người Bana thì kể rằng “Khi chưa có trời đất vũ trụ, đã có hai vị thần. Thần nam là Bok Kơi Dơi, thần nữ là Ia Kon Keh. IaKonKeh dùng cám vắt ra trời đất, Bok Kơi Dơi thì làm ra mặt trăng, mặt trời và các ngôi sao. Họ sống chung với nhau và sinh được ba người con. Con cả là Ia Pôn ở lại làm thần Trời, hai anh em nam nữ Ia Bok xuống trần gian, trở thành tổ tiên của loài người. Họ được ông bà Bok Kơi Dơi - IaKonKeh cho các giống cây cỏ, chim muông, thú vật xuống làm vui cho mặt đất”(12). Người Bana còn hình dung ra thần Sét (thần Bot Gơ Lai) là một vị thần linh thiêng ghê gớm nhất, tay có lông lá, mùa xuân thì ngủ, còn mùa hè thì cầm búa đi tuần tra dưới trần gian... Trong hệ thống thần thoại các dân tộc Việt Nam còn có các thần thoại kể về những vị thần ở cõi đất, gồm có: Thần Đất (có nơi gọi là ông Địa, Thổ công), thần Bếp, thần Lửa (bà Hoả)... Thần Đất thường hiện ra với hình dạng một cụ già. Thần có phép dời cát thay núi chỉ trong nháy mắt. Oai quyền của thần rất lớn. Kẻ nào phạm vào việc thay đổi đất đai mà không xin phép thần, nhất định kẻ ấy sẽ bị thần trừng phạt. Thần Núi cũng thường hiện hình là các ông già đầu râu tóc bạc. Có nhiều vị thần Núi, mỗi thần cai quản một dãy núi lớn, bao gồm cả những núi con. Thần Lửa là một bà già mặt mũi rất hung dữ. Người ta thường gọi là bà Hoả. Thần chuyên giữ một thứ lửa rất màu nhiệm có thể đặt nồi không mà nấu ra đủ những thức ăn ngon lành... Thần Lửa cũng có nhiều lúc hung dữ cho bộ hạ đi tàn phá nhân dân, cây cối. Người ta thường phân biệt lửa của thần trong khi đốt nhà là một thứ lửa màu xanh xanh liếm từ trên nóc nhà liếm xuống. Trong số bộ hạ thần Lửa có thằng Bợ quen thói hung ác, nó ở với thần Lửa lâu năm, một hôm ăn cắp lửa của thần rồi trốn đi. Nó là kẻ thù của loài người. Hình như về sau, nó bị thần bắt được và đày xuống địa ngục. Ngoài thần Lửa còn có thần Bếp hoặc còn gọi là thần Táo hay Núc, vị thần chuyên trông nom củi lửa bếp núc cho hạ giới. Trái với thần Lửa, thần Bếp hiền lành dễ tính, thần Bếp gồm có một bộ ba: một người đàn bà với hai ông chồng. Các thần được Trời (hay còn gọi là Ngọc Hoàng) giao cho việc trông nom việc thổi nấu ăn uống của nhân gian, xem xem trong từng gia đình mỗi một năm có những hành động tốt xấu thế nào để đến ngày 23 tháng Chạp sẽ lên báo cáo cho Trời biết. Thần Bếp có hai bộ hạ, bộ hạ thứ nhất là cá chép giúp thần trong việc đi về từ hạ giới lên Thiên Đình, bộ hạ thứ hai là Nhện giúp thần báo tin cho người. Về hệ thống thần ở cõi Nước gồm có: Thần Nước (còn gọi là Long Vương), vua Thuỷ Tề, thần Sông (Hà Bá) Ba Ba, Thuồng Luồng, Cá Voi... Ở từng vùng, ở các địa phương, thần thoại cũng kể về các vị thần cai quản riêng, được thờ ở các đền miếu thờ thần như Thủy thần, Sơn thần... Như vậy, nhóm thần thoại kể về nguồn gốc vũ trụ và tự nhiên phản ánh cách giải thích, nhìn nhận hết sức hồn nhiên của con người thời cổ về vũ trụ, núi sông, biển cả, đất trời và muôn vàn các hiện tượng tự nhiên khác, đã chứa đựng cả khoa học và triết học duy vật sơ khai. Có thể tìm thấy trong đó cái logic biện chứng của mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên và môi trường sinh tụ thuở ban đầu, khi con người mới định cư trên những vùng đất hoang sơ còn nhiều lạ lẫm. Câu chuyện về các thần vũ trụ, thần thiên nhiên (thần Trụ Trời, thần Sấm, thần Sét, thần Mưa, thần Gió, thần Biển, thần Nước... ) là sự phát triển một cách sinh động quá trình nhận thức về sự tồn tại khách quan của thế giới thông qua sự quan sát của con người tuy còn ở trình độ tự phát và ấu trĩ. Các thần chính là sản phẩm của niềm tin và sự sùng bái tự nhiên đan cài với nhận thức có tính vật chất về thế giới được dựa trên hai “trực kiến thiên tài” (chữ dùng của Ăng ghen) của con người thời cổ đại: Một là, thế giới không phải là hư vô mà nó đã tồn tại như một cõi hỗn mang trước khi Thần xuất hiện, các Thần chỉ làm nhiệm vụ thay đổi hình dạng của thế giới mà thôi. Hai là, các Thần cũng phải lao động cật lực mới biến cải được thế giới tự nhiên cũng như mới kiến tạo được vũ trụ. 1.2.Thần thoại kể về nguồn gốc muôn loài Tiếp theo các thoại kể về các vị thần làm công việc sáng tạo ra trời đất, hệ thống thần thoại của các dân tộc Việt Nam còn có hàng loạt các thần thoại khác kể về nguồn gốc muôn loài... Cũng như các vị thần cai quản thế giới ở trên trời, các vị thần cai quản trên mặt đất và dưới mặt đất, đã cùng với các loài vật và con người tạo nên cuộc sống trần gian. Thần thoại của các dân tộc đã kể về hàng loạt các giống vật, cây cối, núi sông, gò đống đều không phải tự nhiên mà%2
-
Loang mực, vò giấy, thấy tranh Vẽ tranh thủy mặc, nhưng họa sĩ Trần Văn Hải đã phá cách và "phá phách", tạo ra những họa phẩm mang dấu ấn rất riêng. Không những đạt trình độ nhuần nhuyễn trong kỹ thuật vẽ tranh thủy mặc, Trần Văn Hải còn vượt thoát khỏi phong cách truyền thống để dần tạo lập cho mình một đường đi cá tính. Họa sĩ Trần Văn Hải với tác phẩm "Tuổi thơ" Trần Văn Hải dùng kỹ thuật loang mực lên mặt giấy được vò nhăn để tạo hiệu ứng rạn nứt rất bắt mắt. Hoặc anh in, ép mực trên trên các chất liệu có độ nhám để tạo lên những mảng màu khác lạ. Không chỉ vẽ hoa, điểu, ngư... như mọi họa sĩ thủy mặc, Trần Văn Hải còn chịu khó đi thực tế, ghi chép, ký họa, đặc biệt ở miền biển, để có mảng tranh thủy mặc về đời thường rất ấn tượng. Tư duy đổi mới của Trần Văn Hải giúp anh tạo dựng phong cách riêng, phai dần những ảnh hưởng khó cưỡng từ các họa sĩ thủy mặc danh tiếng như Lý Tùng Niên, Lý Khắc Nhu, Trương Hán Minh... "Truyền nhân" của dòng tranh thủy mặc chia sẻ rằng anh vẫn giữ tinh thần của thủy mặc truyền thống, nhưng nhịp sống sôi động luôn đòi hỏi cái mới, nên đã mở một hướng đi để hài hòa cả hai. Họa sĩ thủy mặc nổi tiếng Lý Tùng Niên nói về Trần Văn Hải nhân triển lãm đầu tay của hậu bối: "Vẽ tranh thủy mặc với nền tảng Tây họa, Trần Văn Hải đã có bước tiến dài về kỹ thuật và nội dung, tạo được một lối vẽ riêng cho mình". Một số tác phẩm thủy mặc phá cách của họa sĩ Trần Văn Hải: Ngày mới Hình tượng gà được Trần Văn Hải thể hiện với bút pháp ngẫu hứng. Tính bán trừu tượng nằm trong nét đen của lông cánh, đuôi mạnh mẽ. Trần Văn Hải tìm đến sự trôi chảy hoạt bát trong bút pháp hơn là chú ý tính tả thực. Hình và bóng Tác phẩm Xuôi dòng 3. Trong loạt tranh vẽ cá, Trần Văn Hải dùng ngôn ngữ đồ họa, nhấn mạnh hiệu quả độc lập của đường nét, sắc độ, chất liệu để tạo sự hài hòa. Kỹ thuật này mang đến cho tranh thủy mặc nét trẻ trung. Xuôi dòng 4 Tác phẩm Thời gian. Giấy vẽ được vò, loang mực, sau đó vuốt phẳng lại. Phương cách này của Trần Văn Hải đã tạo hiệu ứng rất lạ về mặt thị giác, gây cảm giác mọi thứ như sắp rơi, vỡ. Người đàn ông vùng cao V.T Việt Báo (Theo_VietNamNet)
-
NGHỆ THUẬT CHÈO Chèo là một loại hình nghệ thuật sân khấu dân gian Việt Nam, giàu tính dân tộc, phát triển mạnh ở đồng bằng Bắc Bộ. Chèo mang tính quần chúng và được coi là một loại hình sân khấu của hội hè với đặc điểm sử dụng ngôn ngữ đa thanh, đa nghĩa kết hợp với cách nói ví von giàu tính tự sự, trữ tình. Nếu sân khấu truyền thống Trung Quốc có đại diện tiêu biểu là Kinh kịch của Bắc Kinh và sân khấu Nhật Bản là kịch nô thì đại diện tiêu biểu nhất của sân khấu truyền thống Việt Nam là chèo. Phù thủy sợ ma Nhà hát chèo Ninh Bình LỊCH SỬ : Kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình) là đất tổ của sân khấu chèo, người sáng lập là bà Phạm Thị Trân, một vũ ca tài ba trong hoàng cung nhà Đinh vào thế kỷ 10, sau phát triển rộng ra đồng bằng Bắc Bộ. Địa bàn phố biến từ Nghệ - Tĩnh trở ra. Chèo bắt nguồn từ âm nhạc và múa dân gian, nhất là trò nhại từ thế kỷ 10. Qua thời gian, người Việt đã phát triển các tích truyện ngắn của chèo dựa trên các trò nhại này thành các vở diễn trọn vẹn dài hơn. Sự phát triển của chèo có một mốc quan trọng là thời điểm một binh sỹ quân đội Mông Cổ đã bị bắt ở Việt nam vào thế kỷ 14. Binh sỹ này vốn là một diễn viên nên đã đưa nghệ thuật Kinh kịch của Trung Quốc vào Việt Nam. Trước kia chèo chỉ có phần nói và ngâm các bài dân ca, nhưng do ảnh hưởng của nghệ thuật do người lính bị bắt mang tới, chèo có thêm phần hát. Vào thế kỷ 15, vua Lê Thánh Tông đã không cho phép biểu diễn chèo trong cung đình, do chịu ảnh hưởng của đạo Khổng. Chèo trở về với nông dân, kịch bản lấy từ truyện viết bằng chữ Nôm. Tới thế kỷ 18, hình thức chèo đã được phát triển mạnh ở vùng nông thôn Việt Nam và tiếp tục phát triển, đạt đến đỉnh cao vào cuối thế kỷ 19. Những vở nổi tiếng như Quan Âm Thị Kính, Lưu Bình Dương Lễ, Kim Nham, Trương Viên xuất hiện trong giai đoạn này. Đến thế kỷ 19, chèo ảnh hưởng của tuồng, khai thác một số tích truyện như Tống Trân, Phạm Tải, hoặc tích truyện Trung Quốc như Hán Sở tranh hùng. Đầu thế kỷ 20, chèo được đưa lên sân khấu thành thị trở thành chèo văn minh. Có thêm một số vở mới ra đời dựa theo các tích truyện cổ tích, truyện Nôm như Tô Thị, Nhị Độ Mai. Đồng bằng châu thổ sông Hồng luôn là cái nôi của nền văn minh lúa nước của người Việt. Mỗi khi vụ mùa được thu hoạch, họ lại tổ chức các lễ hội để vui chơi và cảm tạ thần thánh đã phù hộ cho vụ mùa no ấm. Nhạc cụ chủ yếu của chèo là trống chèo. Chiếc trống là một phần của văn hoá cổ Việt Nam, người nông dân thường đánh trống để cầu mưa và biểu diễn chèo. CÁC ĐẶC TRƯNG CỦA CHÈO Nội dung Không giống tuồng chỉ ca tụng hành động anh hùng của các giới quyền quý, chèo còn miêu tả cuộc sống bình dị của người dân nông thôn. Nhiều vở chèo còn thể hiện cuộc sống vất vả của người phụ nữ sẵn sàng hy sinh bản thân vì người khác. Nội dung của các vở chèo lấy từ những truyện cổ tích, truyện Nôm; được nâng lên một mức cao bằng nghệ thuật sân khấu mang giá trị hiện thực và tư tưởng sâu sắc. Trong chèo, cái thiện luôn thắng cái ác, các sỹ tử tốt bụng, hiền lành, luôn đỗ đạt, làm quan còn người vợ thì tiết nghĩa, cuối cùng sẽ được đoàn tụ với chồng. Các tích trò chủ yếu lấy từ truyện cổ tích, truyện Nôm; ca vũ nhạc từ dân ca dân vũ; lời thơ chủ yếu là thơ dân gian. Lối chèo thường diễn những việc vui cười, những thói xấu của người đời như các vai: Thầy mù, Hương câm, Đồ điếc, Quan Âm Thị Kính. Ngoài ra chèo còn thể hiện tính nhân đạo, như trong vở Trương Viên. Chèo luôn gắn với chất "trữ tình", thể hiện những xúc cảm và tình cảm cá nhân của con người, phản ánh mối quan tâm chung của nhân loại: tình yêu, tình bạn, tình thương. Nhân vật trong chèo Nhân vật trong chèo thường mang tính ước lệ, chuẩn hóa và rập khuôn. Tính cách của các nhân vật trong chèo thường không thay đổi với chính vai diễn đó. Những nhân vật phụ của chèo có thể đổi đi và lắp lại ở bất cứ vở nào, nên hầu như không có tên riêng. Có thể gọi họ là thầy đồ, phú ông, thừa tướng, thư sinh, hề v.v...Tuy nhiên, qua thời gian, một số nhân vật như Thiệt Thê, Thị Kính, Thị Mầu, Súy Vân đã thoát khỏi tính ước lệ đó và trở thành một nhân vật có cá tính riêng. Diễn viên đóng chèo nói chung là những người không chuyên, hợp nhau trong những tổ chức văn nghệ dân gian gọi là phường chèo hay phường trò..."Hề" là một vai diễn thường có trong các vở diễn chèo. Anh hề được phép chế nhạo thoải mái cũng như những anh hề trong cung điện của vua chúa Châu Âu. Các cảnh diễn có vai hề là nơi để cho người dân đả kích những thói hư tật xấu của xã hội phong kiến hay kể cả vua quan, những người có quyền, có của trong làng xã. Có hai loại hề chính bao gồm :hề áo dài và hề áo ngắn Kỹ thuật kịch Đây là loại hình nghệ thuật tổng hợp các yếu tố dân ca, dân vũ và các loại hình nghệ thuật dân gian khác ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Nó là hình thức kể chuyện bằng sân khấu, lấy sân khấu và diễn viên làm phương tiện giao lưu với công chúng, và có thể được biểu diễn ngẫu hứng. Sân khấu chèo dân gian đơn giản, những danh từ chèo sân đình, chiếu chèo cũng phát khởi từ đó. Đặc điểm nghệ thuật của chèo bao gồm yếu tố kịch tính, kỹ thuật tự sự, phương pháp biểu hiện tính cách nhân vật, tính chất ước lệ và cách điệu. Ngôn ngữ chèo có những đoạn sử dụng những câu thơ chữ Hán, điển cố, hoặc những câu ca dao với khuôn mẫu lục bát rất tự do, phóng khoáng về câu chữ. Chèo không có cấu trúc cố định năm hồi một kịch như trong sân khấu Châu Âu mà các nghệ sỹ tham gia diễn chèo thường ứng diễn. Do vậy, vở kịch kéo dài hay cắt ngắn tuỳ thuộc vào cảm hứng của người nghệ sỹ hay đòi hỏi của khán giả. Không giống các vở opera buộc các nghệ sỹ phải thuộc lòng từng lời và hát theo nhạc trưởng chỉ huy, nghệ sỹ chèo được phép tự do bẻ làn, nắn điệu để thể hiện cảm xúc của nhân vật. Số làn điệu chèo theo ước tính có khoảng trên 200. Nhạc cụ Chèo sử dụng tối thiểu là hai loại nhạc cụ dây là đàn nguyệt và đàn nhị đồng thời thêm cả sáo nữa. Ngoài ra, các nhạc công còn sử dụng thêm trống và chũm chọe. Bộ gõ nếu đầu đủ thì có trống cái, trống con, trống cơm, thanh la, mõ. Trống con dùng để giữ nhịp cho hát, cho múa và đệm cho câu hát. Có câu nói " phi trống bất thành chèo" chỉ vị trí quan trọng của chiếc trống trong đêm diễn chèo. Trong chèo hiện đại có sử dụng thêm các nhạc cụ khác để làm phong phú thêm phần đệm như đàn thập lục, đàn tam thập lục, đàn nguyệt, tiêu v.v... Tác phẩm Một số vở chèo tiêu biểu: Bài ca giữ nước, Chu Mãi Thần, Đồng tiền Vạn Lịch, Hoàng Trìu kén vợ, Kim Nham, Lưu Bình Dương Lễ, Nghêu sò ốc hến, Quan Âm Thị Kính, Tuần Ty Đào Huế, Từ Thức gặp tiên, Trần Tử Lệ, Trương Viên. Một số trích đoạn tiêu biểu: Thị Mầu lên chùa & Xã trưởng - Mẹ Đốp (vở Quan Âm Thị Kính), Súy Vân giả dại (vở Kim Nham), Đánh ghen (vở Tuần ty Đào Huế), Hồ Nguyệt Cô hóa cáo... Chính vở Tuần ty Đào Huế được trích và phát triển từ vở Chu Mãi Thần mà ra. Một số giai điệu chèo cổ : Quân tử dịch, Sử bằng, Đò đưa, Tò vò, Nhịp đuổi, Du xuân, Đào liễu, Ngâm bốn mùa, Đường trường trong rừng, Tuyết sương, Quá giang... Nghiên cứu về chèo, Lương Thế Vinh đã viết Hý Phường Phổ Lục. PHÂN LOẠI CHÈO Chèo sân đình Chèo sân đình là loại hình chèo cổ của những phường chèo xưa, thường được biểu diễn ở các sân đình, sân chùa, sân nhà các gia đình quyền quý. Sân khấu chèo sân đình thường chỉ là một chiếc chiếu trải ngoài sân, đằng sau treo chiếc màn nhỏ, diễn viên và nhạc công ngồi hai bên mép chiếu tạo dàn đế. Chèo diễn theo lối ước lệ, cảnh trí chỉ được thể hiện theo ngôn ngữ, động tác cách điệu của diễn viên. Đạo cụ của người diễn hay sử dụng là chiếc quạt. Chèo cải lương Chèo cải lương là một dạng chèo cách tân do Nguyễn Đình Nghi khởi xướng và theo đuổi để thực hiện từ đầu những năm 1920 đến trước Cách mạng tháng Tám 1945, theo xu hướng phê phán tính ước lệ của chèo cổ. Chèo cải lương được soạn thành màn, lớp, bỏ múa và động tác cách điệu trong diễn xuất, xử lý những mô hình làn điệu chèo cổ, đưa nguyên những bài dân ca có sẵn vào bổ sung cho hát chèo. Bộ "Tám trận cười" của Nguyễn Đình Nghi gồm những vở nổi tiếng. Chèo chái hê Chèo chái hê là loại hình dân ca hát vào rằm tháng bảy hàng năm, hoặc trong đám tang, đám giỗ của người có tuổi thọ, có nguồn gốc từ việc kết nghĩa giữa 2 làng Vân Tương (Bắc Ninh) và Tam Sơn (Đông Anh, Hà Nội), gồm có các phần: Giáo roi Nhị thập tứ hiếu Múa hát chèo thuyền cạn Múa hát kể thập ân. Kết thúc chương trình hát chèo chái hê thường là hát quan họ. Chèo hiện đại Trong quá trình hội nhập quốc tế và bảo lưu truyền thống văn hóa dân tộc, nghệ thuật chèo của Việt Nam một mặt được quảng bá khắp năm châu, mặt khác, cũng tự hiện đại hóa để đáp ứng thị hiếu của khán - thính giả. Quá trình hiện đại hóa luôn đi đôi với quá trình bảo lưu nhưng tinh hoa văn hóa dân tộc được bồi đắp qua nhiều thế kỷ. Hướng hiện đại hóa đầu tiên diễn ra sau năm 1954 ở miền Bắc cùng với quá trình cuộc Chiến tranh Việt Nam. Sau chiến tranh, quá trình này vẫn tiếp tục với một số vở chèo cải biên phản ánh các chủ đề hiện đại. Sau năm 1954, nhiều đoàn nghệ thuật chèo Việt Nam đã đi biểu diễn ở các nứoc xã hội chủ nghĩa và được công chúng hoan nghênh. Sau Chién tranh Việt Nam, nghệ thuạt chèo Việt Nam đã có mặt trong nhiều kỳ liên hoan văn hóa nghệ thuật dân gian ở nhiều nước và thu được sự mến mộ của công chúng nhiều quốc gia. Về âm nhạc, một số điệu hát chèo đã được các nghệ sĩ mạnh dạn cải biên, phối khí theo phong cách và nhạc cụ hiện đại nhưng vẫn giữ giai điệu gốc vốn có. CÁC NGHỆ SĨ NỔI TIẾNG Trùm Thịnh Hoa Tâm Phạm Thị Trân, một vũ ca tài ba trong hoàng cung nhà Đinh, người sáng lập nghệ thuật sân khấu chèo. Tào Mạt: là người có đóng góp lớn trong sự phát triển chèo hiện đại. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là bộ ba vở chèo Bài ca giữ nước kể về lịch sử Việt Nam thời nhà Lý với nhân vật chính là Lý Thánh Tông, Nguyên phi Ỷ Lan và Lý Nhân Tông. Nguyễn Thị Minh Lý, bà sinh năm 1912, là con gái Trùm Thịnh (1883 - 1973), người đã cùng với Nguyễn Đình Nghị và Cả Tam (1888 - 1971) đóng góp lớn cho việc hiện đại hóa chèo đầu thế kỷ 20. Hoa Tâm (1906 - 1986), người xã Kim Động, tỉnh Hưng Yên. Năm Ngũ, Tư Liên, Lý Mầm, Mạnh Tuấn, những nghệ nhân nổi danh với loại vai hề chèo Dịu Hương , người Bình Lục, Hà Nam, thành công với những trích đoạn Suý Vân giả dại và Thị Màu lên chùa. Gần đây có các nghệ sĩ : Thanh Trầm, An Chinh, Hoài Thu, Xuân Hinh, Vân Quyền... CÁC LÀNG CHÈO NỔI TIẾNG Thái Bình Là một trong những cái nôi của những làn điệu hát chèo. Tiêu biểu nhất là chèo làng Khuốc là dòng chèo đặc trưng của địa phương: Làng Khuốc nay là xã Phong Châu, huyện Đông Hưng, cùng với với Hà Xá (Hưng Hà) và Sáo Diền (Vũ Thư) là những chiếng chèo nổi tiếng của Thái Bình. Những năm đầu thế kỷ thứ 19, có lúc trong làng có đến 15 gánh hát chèo. Chèo diễn quanh năm suốt tháng, không chỉ được biểu diễn ở trong làng mà gánh hát chèo còn đi đến các vùng miền khác biểu diễn phục vụ nhân dân. Trong tổng số 151 làn điệu và ca khúc chèo thì riêng các phường chèo Thái Bình đã chiếm 30 ca khúc và bốn kiểu hát nói. Trong số 155 nghệ sỹ chèo là người Thái Bình trong các đoàn chèo cả nước thì riêng làng Khuốc có 50 người. Nam Định Nam Định thuộc “Chiếng Chèo Nam”. Vùng quê này có nhiều làng chèo nổi tiếng như làng Đặng Xá, làng Chèo ở xã Mỹ Hà (Mỹ Lộc); làng Chèo Bồng Xuyên, làng Trung Khu ở xã Yên Phong; Làng Chèo An Lại Hạ, Thụ Ích xã Yên Nhân (Ý Yên); làng Chèo Phú Vân Nam ở xã Hải Châu (Hải Hậu); Làng Chèo Hoành Nhị ở xã Giao Hà, làng Chèo Kiên Hành ở xã Giao Hải và làng Chèo Duyên Thọ ở xã Giao Nhân (Giao Thuỷ.[7] Từ đầu thế kỷ 20, huyện Mỹ Lộc, Nam Định đã có 3 làng chèo khá nổi tiếng: làng Đặng, làng Quang Sán, làng Nhân Nhuế, xã Mỹ Thuận. Các nơi khác Hưng Yên: làng chèo Thiết Trụ, ở xã Bình Minh. Đội chèo làng Thiết Trụ được thành lập từ thập niên 1960. Bắc Giang: làng chèo Tân Mỹ, làng chèo Đồng Quan (xã Đồng Sơn - Yên Dũng); chiếu chèo làng Then (Lạng Giang); làng chèo Hoàng Mai (Việt Yên); làng chèo Bắc Lý (Hiệp Hòa) Hà Nội: làng chèo Xa Mạc (xã Liên Mạc - Mê Linh); làng chèo Cổ Phong; làng chèo Trung Lập (Tri Trung - Phú Xuyên). Ninh Bình: làng chèo Phúc Trì, CLB chèo thành phố Ninh Bình và các chiếu chèo ở Khánh Mậu, Khánh Hội, Khánh Thiện, Khánh Trung, Khánh Cường (Yên Khánh), Yên Phong, Yên Từ, Khánh Thịnh (Yên Mô); Thượng Kiệm, Như Hoà, thị trấn Phát Diệm (Kim Sơn). nguồn: ttvhq5.com.vn
-
Chương 3: TÁM CUNG TƯỢNG HÀO 64 QUẺ I. CUNG CÀN có 8 quẻ đều thuộc Kim (nên học thuộc lòng) 1. CÀN VI THIÊN 2. THIÊN PHONG CẤU 3. THIÊN SƠN ĐỘN 4. THIÊN ĐỊA BỈ 5. PHONG ĐỊA QUAN 6. SƠN ĐỊA BÁC 7. HỎA ĐỊA TẤN 8. HỎA THIÊN ĐẠI HỮU CÀN VI THIÊN --- Phụ Mẫu Tuất Thổ (Thế) --- Huynh Đệ Thân Kim --- Quan Quỷ Ngọ Hỏa --- Phụ Mẫu Thìn Thổ (Ứng) --- Thê Tài Dần Mộc --- Tử Tôn Tý Thủy THIÊN PHONG CẤU --- Phụ Mẫu Tuât Thổ --- Huynh Đệ Thân Kim --- Quan Quỷ Ngọ Hỏa (Ứng) --- Huynh Đệ Dậu Kim --- Tử Tôn Hợi Thủy - - Phụ Mẫu Sữu Thổ (Thế) THIÊN SƠN ĐỘN --- Phụ Mẫu Tuất Thổ --- Huynh Đệ Thân Kim (Ứng) --- Quan Quỷ Ngọ Hỏa --- Huynh Đệ Thân Kim - - Quan Quỷ Ngọ Hỏa (Thế) - - Phụ Mẫu Thìn Thổ THIÊN ĐỊA BỈ --- Phụ Mẫu Tuất Thổ (Ứng) --- Huynh Đệ Thân Kim --- Quan Quỷ Ngọ Hỏa - - Thê Tài Mão Mộc (Thế) - - Quan Quỷ Tỵ Hỏa - - Phụ Mẫu Mùi Thổ PHONG ĐỊA QUAN --- Thê Tài Mão Mộc --- Quan Quỷ Tỵ Hỏa - - Phụ Mẫu Mùi Thổ (Thế) - - Thê Tài Mão Mộc - - Quan Quỷ Tỵ Hỏa - - Phụ Mẫu Mùi Thổ (Ứng) SƠN ĐỊA BÁC --- Thê Tài Dần Mộc - - Tử Tôn Tý Thủy (Thế) - - Phụ Mẫu Tuất Thổ - - Thê Tài Mão Mộc - - Quan Quỷ Tỵ Hỏa (Ứng) - - Phụ Mẫu Mùi Thổ HỎA ĐỊA TẤN --- Quan Quỷ Tỵ Hỏa - - Phụ Mẫu Mùi Thổ --- Huynh Đệ Dậu Kim (Thế) - - Thê Tài Mão Mộc - - Quan Quỷ Tỵ Hỏa - - Phụ Mẫu Mùi Thổ (Ứng) HỎA THIÊN ĐẠI HỮU --- Quan Quỷ Tỵ Hỏa (Ứng) - - Phụ Mẫu Mùi Thổ --- Huynh Đệ Dậu Kim --- Phụ Mẫu Thìn Thổ (Thế) --- Thê Tài Dần Mộc --- Tử Tôn Tý Thủy Đó là 8 quẻ thuộc cung Càn. Cung Càn ngũ hành thuộc Kim nên Thân Dậu là hào Huynh Đệ vì giống nhau; Thìn Tuất Sửu Mùi là Phụ Mẫu vì Thổ sinh Kim; Tỵ Ngọ là hào Quan Quỷ vì là hào khắc (khắc mình là bệnh tật, hay quan lộc); Dần Mão là hào Tài vì mình khắc (sai khiến hay xài), là Thê Tài (vợ và tiền bạc); Hợi Tý là hào Tử Tôn vì mình sinh ra là con cháu (cũng là phúc đức vì do mình tạo ra). 2. CUNG ĐOÀI: 1. ĐOÀI VI TRẠCH 2. TRẠCH THỦY KHỐN 3. TRẠCH ĐỊA TUY 4. TRẠCH SƠN HAM 5. THỦY SƠN KIỀN 6. ĐỊA SƠN KHIÊM 7. LÔI SƠN TIỂU QUÁ 8. LÔI TRẠCH QUY MUỘI ĐOÀI VI TRẠCH - - Phụ Mẫu Mùi Thổ (Thế) --- Huynh Đệ Dậu Kim --- Tử Tôn Hợi Thủy - - Phụ Mẫu Sửu Thổ (Ứng) --- Thê Tài Mão Mộc --- Quan Quỷ Tỵ Hỏa TRẠCH THỦY KHỐN - - Phụ Mẫu Mùi Thổ --- Huynh Đệ Dậu Kim --- Tử Tôn Hợi Thủy (Ứng) - - Quan Quỷ Ngọ Hỏa --- Phụ Mẫu Thìn Thổ - - Thê Tài Dần Mộc (Thế) TRẠCH ĐỊA TUỴ - - Phụ Mẫu Mùi Thổ --- Huynh Đệ Dậu Kim (Ứng) --- Huynh Đệ Hợi Thủy - - Thê Tài Mão Mộc - - Quan Quỷ Tỵ Hỏa (Thế) - - Phụ Mẫu Mùi Thổ TRẠCH SƠN HÀM - - Phụ Mẫu Mùi Thổ (Ứng) --- Huynh Đệ Dâu Kim --- Tử Tôn Hợi Thủy --- Huynh Đệ Thân Kim (Thế) - - Quan Quỷ Ngọ Hỏa - - Phụ Mẫu Thìn Thổ THỦY SƠN KIỀN - - Tử Tôn Tý Thủy --- Phụ Mẫu Tuất Thổ - - Huynh Đệ Thân Kim (Thế) --- Huynh Đệ Thân Kim - - Quan Quỷ Ngọ Hỏa - - Phụ Mẫu Thìn Thổ (Ứng) ĐỊA SƠN KHIÊM - - Huynh Đệ Dậu Kim - - Tử Tôn Hợi Thủy (Thế) - - Phụ Mẫu Sửu Thổ --- Huynh Đệ Thân Kim - - Quan Quỷ Ngọ Hỏa (Ứng) - - Phụ Mẫu Thìn Thổ LÔI SƠN TIỂU QUÁ - - Phụ Mẫu Tuất Thổ - - Huynh Đệ Thân Kim --- Quan Quỷ Ngọ Hỏa (Thế) --- Huynh Đệ Thân Kim - - Quan Quỷ Ngọ Hỏa - - Phụ Mẫu Thìn Thổ (Ứng) LÔI TRẠCH QUY MUỘI - - Phụ Mẫu Tuất Thổ (Ứng) - - Huynh Đệ Thân Kim --- Quan Quỷ Ngọ Hỏa - - Phụ Mẫu Sửu Thổ (Thế) --- Thê Tài Mão Mộc --- Quan Quỷ Tỵ Hỏa Đó là 8 quẻ của cung Đoài. Cung Đoài cũng thuộc hành Kim như cung Càn, nên vẫn lấy Kim làm Huynh Đệ và lục thân giống như cung Càn ở trên. 3. CUNG LY 1. LY VI HỎA 2. HỎA SƠN LỮ 3. HỎA PHONG ĐÌNH 4. HỎA THỦY VỊ TẾ 5. SƠN THỦY MÔNG 6. PHONG THỦY HOÁN 7. THIÊN THỦY TỤNG 8. THIÊN HỎA ĐỒNG NHÂN LY VI HỎA --- Huynh Đệ Tỵ Hỏa (Thế) - - Tử Tôn Mùi Thổ --- Thê Tài Dậu Kim --- Quan Quỷ Hợi Thủy (Ứng) - - Tử Tôn Sửu Thổ --- Phụ Mẫu Mão Mộc HỎA SƠN LỮ --- Huynh Đệ Tỵ Hỏa - - Tử Tôn Mùi Thổ --- Thê Tài Dậu Kim (Ứng) --- Thê Tài Thân Kim - - Huynh Đệ Ngọ Hỏa - - Tử Tôn Thìn Thổ (Thế) HỎA PHONG ĐỈNH --- Huynh Đệ Tỵ Hỏa - - Tử Mẫu Mùi Thổ (Ứng) --- Thê Tài Dậu Kim --- Thê Tài Dậu Kim --- Quan Quỷ Hợi Thủy (Thế) - - Tử Tôn Sửu Thổ HỎA THỦY VỊ TẾ --- Huynh Đệ Tỵ Hỏa (Ứng) - - Tử Tôn Mùi Thổ --- Thê Tài Dậu Kim - - Huynh Đệ Ngọ Hỏa (Thế) --- Tử Tôn Thìn Thổ - - Phụ Mẫu Dần Mộc SƠN THUỶ MÔNG --- Phụ Mẫu Dần Mộc - - Quan Quỷ Tý Thủy - - Tử Tôn Tuất Thổ (Thế) - - Huynh Đệ Ngọ Hỏa --- Tử Tôn Thìn Thổ - - Phu Mẫu Dần Mộc (Ứng) PHONG THUỶ HOÁN --- Phụ Mẫu Mão Mộc --- Huynh Đệ Tỵ Hỏa (Thế) --- Tử Tôn Mùi Thổ - - Huynh Đệ Ngọ Hỏa --- Tử Tôn Thìn Thổ (Ứng) - - Phụ Mẫu Dần Mộc THIÊN THỦY TỤNG --- Tử Tôn Tuất Thổ --- Thê Tài Thân Kim --- Huynh Đệ Ngọ Hỏa (Thế) - - Huynh Đệ Ngọ Hỏa --- Tử Tôn Thìn Thổ - - Phụ Mẫu Dần Mộc (Ứng) THIÊN HỎA ĐỒNG NHÂN --- Tử Tôn Tuất Thổ (Ứng) --- Thê Tài Thân Kim --- Huynh Đệ Ngọ Hỏa --- Quan Quỷ Hợi Thủy (Thế) - - Tử Tôn Sửu Thổ --- Phụ Mẫu Mão Mộc Đó là 8 quẻ của cung Ly. Cung Ly ngũ hành thuộc Hỏa, nên lấy Hỏa làm hành chính mà phối với lục Thân, như sinh ra Hỏa là Mộc Dần Mão là cha mẹ. Hỏa sinh ra Thổ nên Thìn Tuất Sửu Mùi là Tử Tôn... 4. CUNG CHẤN 1. CHẤN VI LÔI 2. LÔI ĐỊA DƯ 3. LÔI THỦY GIẢI 4. LÔI PHONG HẰNG 5. ĐỊA PHONG THĂNG 6. THỦY PHONG TỈNH 7. TRẠCH LÔI ĐỊA QUÁ 8. TRẠCH PHONG TÙY CHẤN VI LÔI - - Thê Tài Tuất Thổ (Thế) - - Quan Quỷ Thân Kim --- Tử Tôn Ngọ Hỏa - - Thê Tài Thìn Thổ (Ứng) - - Huynh Đệ Dân Mộc --- Phụ Mẫu Tý Thủy LÔI ĐỊA DỰ - - Thê Tài Tuất Thổ - - Quan Quỷ Thân Kim --- Tử Tôn Ngọ Hỏa (Ứng) - - Huynh Đệ Mão Mộc - - Tử Tôn Tỵ Hỏa --- Thê Tài Mùi Thổ (Thế) LÔI THUỶ GIẢI - - Thê Tài Tuất Thổ - - Quan Quỷ Thân Kim (Ứng) --- Tử Tôn Ngọ Hỏa - - Tử Tôn Ngọ Hỏa --- Thê Tài Thìn Thổ (Thế) - - Huynh Đệ Dần Mộc LÔI PHONG HẰNG - - Thê Tài Tuất Thổ (Ứng) - - Quan Quỷ Thân Kim --- Tử Tôn Ngọ Hỏa --- Quan Quỷ Dậu Kim (Thế) --- Phụ Mẫu Hợi Thủy - - Thê Tài Sửu Thổ ĐỊA PHONG THĂNG - - Quan Quỷ Dậu Kim - - Phụ Mẫu Hợi Thủy - - Thê Tài Sửu Thổ (Thế) --- Quan Quỷ Dậu Kim --- Phụ Mẫu Hợi Thủy - - Thê Tài Sửu Thổ (Ứng) THUỶ PHONG TỈNH - - Phụ Mẫu Tý Thủy --- Thê Tài Tuất Thổ (Thế) - - Quan Quỷ Thân Kim --- Quan Quỷ Dậu Kim --- Phụ Mẫu Hợi Thủy (Ứng) - - Thê Tài Sửu Thổ TRẠCH PHONG ĐẠI QUÁ - - Thê Tài Mùi Thổ --- Quan Quỷ Dậu Kim --- Phụ Mẫu Hợi Thủy (Thế) --- Quan Quỷ Dậu Kim --- Phụ Mẫu Hợi Thủy - - Thê Tài Sửu Thổ (Ứng) TRẠCH LÔI TÙY - - Thê Tài Mùi Thổ (Ứng) --- Quan Quỷ Dâu Kim --- Phụ Mẫu Hợi Thủy - - Thê Tài Thìn Thổ (Thế) - - Huynh Đệ Dân Mộc --- Phụ Mẫu Tý Thủy Đó là 8 quẻ thuộc cung Chấn. Cung Chấn ngũ hành thuộc Mộc, nên dựa theo Mộc mà phối lục thân. 5. CUNG TỐN 1. TỐN VI PHONG 2. PHONG THIÊN TIỂU SÚC 3. PHONG HỎA GIA NHÂN 4. PHONG LÔI ÍCH 5. THIÊN LÔI VÔ VỌNG 6. HỎA LÔI PHỆ HẠP 7. SƠN LÔI DI 8. SƠN PHONG CỔ TỐN VI PHONG --- Huynh Đệ Mão Mộc (Thế) --- Tử Tôn Tỵ Hỏa - - Thê Tài Mùi Thổ --- Quan Quỷ Dậu Kim (Ứng) --- Phụ Mẫu Hợi Thủy - - Thê Tài Sửu Thổ PHONG THIÊN TIỂU SÚC --- Huynh Đệ Mão Mộc --- Tử Tôn Tỵ Hỏa - - Thê Tài Mùi Thổ (Ứng) --- Thê Tài Thìn Thổ --- Huynh Đệ Dần Mộc --- Phụ Mẫu Tý Thủy (Thế) PHONG HỎA GIA NHÂN --- Huynh Đệ Mão Mộc --- Tử Tôn Tỵ Hỏa (Ứng) - - Thê Tài Mùi Thổ --- Phụ Mẫu Hợi Thủy - - Thê Tài Sửu Thổ (Thế) --- Huynh Đệ Mão Mộc PHONG LÔI ÍCH --- Huynh Đệ Mão Mộc (Ứng) --- Tử Tôn Tỵ Hỏa - - Thê Tài Mùi Thổ - - Thê Tài Thìn Thổ (Thế) - - Huynh Đệ Dần Mộc --- Phụ Mẫu Tý Thủy THIÊN LÔI VÔ VỌNG --- Thê Tài Tuất Thổ --- Quan Quỷ Thân Kim --- Tử Tôn Ngọ Hỏa (Thế) - - Thê Tài Thìn Thổ - - Huynh Đệ Dần Mộc --- Phụ Mẫu Tý Thủy (Ứng) HỎA LÔI PHỆ HẠP --- Tử Tôn Tỵ Hỏa - - Thê Tài Mùi Thổ (Thế) --- Quan Quỷ Dậu Kim - - Thê Tài Thìn Thổ - - Huynh Đệ Dần Mộc (Ứng) --- Phụ Mẫu Tý Thủy SƠN LÔI DI --- Huynh Đệ Dần Mộc - - Phụ Mẫu Tý Thủy - - Thê Tài Tuất Thổ (Thế) - - Thê Tài Thìn Thổ - - Huynh Đệ Dần Mộc --- Phụ Mẫu Tý Thủy (Ứng) SƠN PHONG CỔ --- Huynh Đệ Dần Mộc (Ứng) - - Phụ Mẫu Tý Thủy - - Thê Tài Tuất Thổ --- Quan Quỷ Dậu Kim (Thế) --- Phụ Mẫu Hợi Thủy - - Thê Tài Sửu Thổ Đó là 8 quẻ của cung Tốn. Cung Tốn ngũ hành thuộc Mộc 6. CUNG KHẢM 1. KHẢM VI THỦY 2. THỦY TRẠCH TIẾT 3. THỦY LÔI TRUÂN 4. THỦY HOẢ KÝ TẾ 5. TRẠCH HỎA KẾ 6. LÔI HỎA PHONG 7. ĐỊA HỎA MINH DI 8. ĐỊA THỦY SƯ KHẢM VI THỦY - - Huynh Đệ Tý Thủy (Thế) --- Quan Quỷ Tuất Thổ - - Phụ Mẫu Thân Kim - - Thê Tài Ngọ Hỏa (Ứng) --- Quan Quỷ Thìn Thổ - - Tử Tôn Dần Mộc THỦY TRẠCH TIẾT - - Huynh Đệ Tý Thủy --- Quan Quỷ Tuất Thổ - - Phụ Mẫu Thân Kim (Ứng) - - Quan Quỷ Sửu Thổ --- Tử Tôn Mão Mộc --- Thê Tài Tỵ Hỏa (Thế) THỦY LÔI TRUÂN - - Huynh Đệ Tý Thủy --- Quan Quỷ Tuất Thổ (Ứng) - - Phụ Mẫu Thân Kim - - Quan Quỷ Thìn Thổ - - Tử Tôn Dần Mộc (Thế) --- Huynh Đệ Tý Thủy THỦY HOẢ KÝ TẾ - - Huynh Đệ Tý Thủy (Ứng) --- Quan Quỷ Tuất Thổ - - Phụ Mẫu Thân Kim --- Huynh Đệ Hợi Thuỷ (Thế) - - Quan Quỷ Sửu Thổ --- Tử Tôn Mão Mộc TRẠCH HỎA CÁCH - - Quan Quỷ Mùi Thổ --- Phụ Mẫu Dậu Kim --- Huynh Đệ Hợi Thủy (Thế) --- Huynh Đệ Hợi Thủy - - Quan Quỷ Sửu Thổ --- Tử Tôn Mão Mộc (Ứng) LÔI HỎA PHONG - - Quan Quỷ Tuất Thổ - - Phụ Mẫu Thân Kim (Thế) --- Thê Tài Ngọ Hỏa --- Huynh Đệ Hợi Thủy - - Quan Quỷ Sửu Thổ (Ứng) --- Tử Tôn Mão Mộc ĐỊA HỎA MINH DI - - Phụ Mẫu Dậu Kim - - Huynh Đệ Hợi Thủy - - Quan Quỷ Sửu Thổ (Thế) --- Huynh Đệ Hợi Thủy - - Quan Quỷ Sửu Thổ --- Tử Tôn Mão Mộc (Ứng) ĐỊA THỦY SƯ - - Phụ Mẫu Dậu Kim (Ứng) - - Huynh Đệ Hợi Thủy - - Quan Quỷ Sửu Thổ - - Thê Tài Ngọ Hỏa (Thế) --- Quan Quỷ Thìn Thổ - - Tử Tôn Thân Kim Đó là 8 quẻ thuộc cung Khảm. Cung Khảm ngũ hành thuộc Thủy. 7. CUNG CẤN 1. CẤN VI SƠN 2. SƠN HỎA BÔN 3. SƠN THIÊN ĐẠI SÚC 4. SƠN TRẠCH TỐN 5. HỎA TRẠCH KHÊ 6. THIÊN TRẠCH LÝ 7. PHONG TRẠCH TRUNG PHU 8. PHONG SƠN TIỆM CẤN VI SƠN --- Quan Quỷ Dần Mộc (Thế) - - Thê Tài Tý Thủy - - Huynh Đệ Tuất Thổ --- Tử Tôn Thân Kim (Ứng) - - Phụ Mẫu Ngọ Hỏa - - Huynh Đệ Thìn Thổ SƠN HỎA BÔN --- Quan Quỷ Dần Mộc - - Thê Tài Tý Thủy - - Huynh Đệ Tuất Thổ (Ứng) --- Thê Tài Hợi Thủy - - Huynh Đệ Sửu Thổ --- Quan Quỷ Mão Mộc (Thế) SƠN THIÊN ĐẠI SÚC --- Quan Quỷ Dần Mộc - - Thê Tài Tý Thủy (Ứng) - - Huynh Đệ Tuất Thổ --- Huynh Đệ Thìn Thổ --- Quan Quỷ Dần Mộc (Thế) --- Thê Tài Tý Thủy SƠN TRẠCH TỔN --- Quan Quỷ Dần Mộc (Ứng) - - Thê Tài Tý Thủy - - Huynh Đệ Tuất Thổ - - Huynh Đệ Sửu Thổ (Thế) --- Quan Quỷ Mão Mộc --- Phụ Mẫu Tỵ Hỏa HỎA TRẠCH KHUÊ --- Phụ Mẫu Tỵ Hoả - - Huynh Đệ Mùi Thổ --- Tử Tôn Dậu Kim (Thế) - - Huynh Đệ Sửu Thổ --- Quan Quỷ Mão Mộc --- Phụ Mẫu Tỵ Hỏa (Ứng) THIÊN TRẠCH LÝ --- Huynh Đệ Tuất Thổ --- Tử Tôn Thân Kim (Thế) --- Phụ Mẫu Ngọ Hỏa - - Huynh Đệ Sửu Thổ --- Quan Quỷ Mão Mộc (Ứng) --- Phụ Mẫu Tỵ Hỏa PHONG TRẠCH TRUNG PHU --- Quan Quỷ Mão Mộc --- Phụ Mẫu Tỵ Hỏa - - Huynh Đệ Mùi Thổ (Thế) - - Huynh Đệ Sửu Thổ --- Quan Quỷ Mão Mộc --- Phụ Mẫu Tỵ Hỏa (Ứng) PHONG SƠN TIỆM --- Quan Quỷ Mão Mộc (Ứng) --- Phụ Mẫu Tỵ Hỏa - - Huynh Đệ Mùi Thổ --- Tử Tôn Thân Kim (Thế) - - Phụ Mẫu Ngọ Hỏa - - Huynh Đệ Thìn Thổ Đó là 8 quẻ thuộc cung Cấn. Cung Cấn thuộc Thổ. 8. CUNG KHÔN 1. KHÔN VI ĐỊA 2. ĐỊA LÔI PHỤC 3. ĐỊA TRẠCH LÂM 4. ĐỊA THIÊN THÁI 5. LÔI THIÊN ĐẠI TRÁNG 6. TRẠCH THIÊN QUẢI 7. THỦY THIÊN NHU 8. THỦY ĐỊA TỶ KHÔN VI ĐỊA - - Tử Tôn Dậu Kim (Thế) - - Thê Tài Hợi Thủy - - Huynh Đệ Sửu Thổ - - Quan Quỷ Mão Mộc (Ứng) - - Phụ Mẫu Tỵ Hỏa - - Huynh Đệ Mùi Thổ ĐỊA LÔI PHỤC - - Tử Tôn Dậu Kim - - Thê Tài Hợi Thủy - - Huynh Đệ Sửu Thổ (Ứng) - - Huynh Đệ Thìn Thổ - - Quan Quỷ Dần Mộc --- Thê Tài Tý Thủy (Thế) ĐỊA TRẠCH LÂM - - Tử Tôn Dậu Kim - - Thê Tài Hợi Thủy (Ứng) - - Huynh Đệ Sửu Thổ - - Huynh Đệ Sửu Thổ - - Quan Quỷ Mão Mộc (Thế) --- Phụ mẫu Tỵ Hỏa ĐỊA THIÊN THÁI - - Tử Tôn Dậu Kim (Ứng) - - Thê Tài Hợi Thủy - - Huynh Đệ Sửu Thổ --- Huynh Đệ Thìn Thổ (Thế) --- Quan Quỷ Dần Mộc --- Thê Tài Tý Thủy LÔI THIÊN ĐẠI TRÁNG - - Huynh Đệ Tuất - - Tử Tôn Thân Kim --- Phụ Mẫu Ngọ Hỏa (Thế) --- Huynh Đệ Thìn Thổ --- Quan Quỷ Dần Mộc --- Thê Tài Tý Thủy (Ứng) TRẠCH THIÊN QUẢI - - Huynh Đệ Mùi Thổ --- Tử Tôn Dậu Kim (Thế) --- Thê Tài Hợi Thủy --- Huynh Đệ Thìn Thổ --- Quan Quỷ Dần Mộc (Ứng) --- Thê Tài Tý Thủy THỦY THIÊN NHU - - Thê Tài Tý Thủy --- Huynh Đệ Tuất - - Tử Tôn Thân Thế (Thế) --- Huynh Đệ Thìn --- Quan Quỷ Dần --- Thê Tài Tý Thủy (Ứng) THỦY ĐỊA TỶ - - Thê Tài Tý Thuỷ (Ứng) --- Huynh Đệ Tuất Thổ - - Tử Tôn Thân Kim - - Quan Quỷ Mão Mộc (Thế) - - Phụ Mẫu Tỵ Hỏa - - Huynh Đệ Mùi Thổ Đó là 8 quẻ thuộc cung Khôn. Cung Khôn ngũ hành thuộc Thổ. nguồn: nhantrachoc.net.vn
-
Tài liệu tham khảo: Giải mã bí ẩn giấc mơ Sự trải nghiệm cảm xúc không cố ý này xảy ra khoảng 90 phút sau khi bạn chìm vào giấc ngủ. Các chuyên gia cho rằng giấc mơ là kết quả của yếu tố thần kinh và hoạt động của cuộc sống con người trong đó 64% giấc mơ liên quan đến lo lắng, tức giận hay buồn phiền, 18% niềm vui và chỉ 1% là bản năng tình dục. Ý nghĩa của những giấc mơ Các nhà tâm lý học mà tiên phong trong lĩnh vực này là Sigmund Freud tin rằng giấc mơ mang tính biểu tượng và là cửa sổ cho ký ức vô thức của chúng ta. Giấc mơ phản ánh đặc điểm tính cách của mỗi cá nhân cũng như hoàn cảnh của cá nhân đó trong cuộc sống hàng ngày. Thông qua giấc mơ, một người có thể cảm thấy bất an, hoang tưởng, yêu thương, thù hận, sợ hãi, hay những cảm giác khác biểu lộ trạng thái tinh thần của người đó. Có ý kiến cho rằng, chẳng tìm thấy điều gì sâu sắc trong giấc mơ cả vì giấc mơ có ý nghĩa nhưng quá chủ quan và khác biệt đối với tất cả mọi người. Có người lại đưa ra lý do chúng ta mơ là để thanh lọc những ý nghĩ, cảm xúc và ký ức nào đó từ vô thức hoặc để loại bỏ dữ liệu không cần thiết hoặc làm đảo lộn cân bằng hoá học hoàn hảo của bộ não. Dĩ nhiên, giấc mơ đôi khi chỉ đơn giản đưa ra những hình ảnh chúng ta đã thấy trong ngày hay trên phim ảnh. Ví dụ, bạn có thể mơ về trường học sau khi gặp lại một người bạn thời thơ ấu vào buổi chiều qua. Các nhà tâm lý học chuyên về khoa học của giấc ngủ đã đưa ra những giải thích chung cho những giấc mơ cụ thể. Hãy xem giấc mơ của bạn có ý nghĩa gì nhé. Ban công Bạn mơ thấy mình đang đứng trên ban công. Ý nghĩa: Nói lên mong muốn của bạn được nhìn ngắm thế giới và được mọi người chú ý bạn là ai. Nó cũng có nghĩa là bổng lộc hay lợi ích trong tương lai của bạn. Bị rượt đuổi Trong giấc mơ, bạn bị các nhân vật ghê tởm rượt đuổi. Bạn trốn chạy và cố đánh lừa kẻ muốn làm tổn thương bạn. Ý nghĩa: Điều này thường xảy ra khi bạn đang có cảm giác lo lắng trong cuộc sống. Bạn bị stress và sợ hãi, bạn trốn chạy tình trạng này thay vì đương đầu với nó. Cái chết (của người nào đó) Bạn mơ thấy người đã chết từ rất lâu rồi hoặc bạn thấy người thân của mình đang hấp hối. Ý nghĩa: nói chung mơ thấy người chết là tín hiệu cho thấy bạn đang giao du và bị ảnh hưởng bởi những người xấu. Mơ về người đã chết lâu rồi có nghĩa là bạn cần chấm dứt mối quan hệ hiện tại. Nếu bạn mơ về cái chết của ngươi thân có nghĩa là bạn thiếu phẩm chất mà người đó có. Cái chết (của chính bạn) Dĩ nhiên một trong những giấc mơ buồn nhất là đây, bạn thấy hoặc cảm thấy mình đang chết mà không có cách nào thoát ra được. Ý nghĩa: Hiển nhiên, giấc mơ này làm bạn lo lắng nhưng chính giấc mơ lại có ý nghĩa tích cực vì nó cho biết rằng cuộc đời bạn sắp sửa thay đổi theo chiều hướng tốt hơn. Hiện tại, nó cũng có nghĩa bạn đang có một lối sống tiêu cực hoặc có mối quan hệ không lành mạnh. Chết đuối Bạn đang bơi và đột nhiên bị dìm xuống nước. Bạn không thể thở được và bạn chết đuối. Ý nghĩa: Về nghĩa đen bạn đang chìm trong cảm xúc. Tình cảm bị kìm nén đang quay lại ám ảnh bạn. Nếu bạn chết đuối, đó sẽ là sự “tái sinh” tình cảm. Nếu bạn sống sót, thì bạn sẽ trải qua được vấn đề này. Người yêu cũ Dù bạn đã có người mới nhưng bạn vẫn mơ về người yêu cũ. Có nghĩa là: Điều này nhắc nhở bạn rằng cô ấy là người phụ nữ lý tưởng hoặc là bạn đang gặp lại hình mẫu cũ trong mối quan hệ hiện tại Bị ngã Giấc mơ khá phổ biến là bạn bị ngã từ trên cao xuống. Ý nghĩa: Nếu bạn không sợ ngã, bạn sẽ vượt qua khó khăn. Nếu bạn sợ có nghĩa là bạn cảm thấy không kiểm soát được mình và sợ thất bại. Đánh nhau Bạn mơ thấy mình đánh nhau với ai đó. Thậm chí đánh đến chết. Ý nghĩa: Nó ám chỉ rằng bạn đang trải qua những rối loạn tinh thần. Với ý tưởng bạn đang ganh đua để được chú ý. Nếu bạn đánh nhau cho đến chết, có nghĩa là bạn không sẵn sàng thừa nhận mâu thuẫn trong cuộc sống biến động của mình. Đang bay Giấc mơ phổ biến khác nữa là thấy mình đang bay, lững lờ qua những đám mây hoặc bay vút trong không trung như một con chim. Ý nghĩa: Bạn đang cảm thấy tự do vì bạn đang hoàn toàn kiểm soát được mình. Đầy sinh lực, bạn sẽ thành công trong công việc Đánh bạc Ở Las Vegas, Thành phố Atlantic hay ở trong một sòng bạc nào đó, bạn đang vui thú đánh bạc suốt đêm. Ý nghĩa: có lẽ bạn đang tham gia một vài hoạt động có độ rủi ro cao và có thể bạn không chịu trách nhiệm với hành động của mình. Nếu bản chất của bạn không phải là một tay cờ bạc thì giấc mơ này báo hiệu bạn cần nắm bắt lấy một cơ hội Hôn Trong cử chỉ lãng mạn này, bạn thấy mình đang hôn một người phụ nữ đẹp. Thậm chí hôn một người bạn ghét. Ý nghĩa: Nói chung, nụ hôn liên quan đến tình yêu, bình yên và hoà hợp. Nếu bạn hôn người bạn thân, có nghĩa là bạn rất quan tâm đến họ. Hôn một kẻ thù có thể ám chỉ sự phản bội và thù địch. Hôn người lạ nghĩa là bạn cần hiểu bản thân mình hơn nữa. Tiền bạc Cuộc sống của chúng ta xoay quanh đồng tiền, dứt khoát bạn sẽ mơ về nó nhất là khi bạn đang trong tình trạng khó khăn về tài chính hoặc chi tiêu không có kế hoạch. Ý nghĩa: Nếu bạn mơ được tiền, nghĩa là bạn phát đạt và có quyền lực trong tay. Nó cũng cho thấy sự tự tin và sức mạnh của bạn. Tuy nhiên, nếu bạn mơ làm mất tiền, nó tượng trưng cho sự xúc phạm hoặc tổn thương,và bạn sẽ trải qua một khoảng thời gian ngắn không vui vẻ chút nào. Khỏa thân Bạn mơ thấy mình đến công sở hay đến trường mà không một mảnh vải che thân và cảm thấy xấu hổ. Ý nghĩa: Khỏa thân nơi công cộng nghĩa là bạn sợ bị phát hiện những yếu kém của mình. Bạn dễ bị tổn thương và mất đi tham vọng. Bị liệt Một giấc mơ đáng sợ khi bạn thấy mình đang cố gắng cử động nhưng không được, bạn bị liệt. Ý nghĩa: Giấc mơ phản ánh trực tiếp sự thụ động của bạn. Nó cũng chỉ ra rằng bạn bị lãnh cảm. Bạn không thể giải quyết được các vấn đề bạn phải đối mặt. Răng Đôi khi có giấc mơ kỳ cục như bạn mơ thấy mình bị sâu răng hoặc bị rụng răng. Ý nghĩa: Nếu bạn mơ thây răng mình bị sâu, nó ám chỉ công ty của bạn gặp rắc rối về tài chính. Khi bạn mơ bị rụng răng, có lẽ bạn nên quyết đoán hơn vì giấc mơ này là biểu hiện cho giảm sút quyền lực. La hét Trong giấc mơ bạn thấy mình đang la hét. Ý nghĩa:Nếu bạn hay ai đó đang la hét, nó thể hiện sự tức giận bị đè nén. Có lẽ bạn cảm thấy cần thể hiện mình một cách mạnh mẽ và giải phóng xúc cảm của mình. Nếu bạn cố la lên nhưng không ra tiếng, có nghĩa là một vài tình huống cần sự chú ý ngay lập tức của bạn. Dù khoa học có đi xa đến đâu cũng chẳng thể có câu trả lời rõ ràng cho những giấc mơ. Các nhà khoa học có thể diễn giải rõ ràng dựa trên suy nghĩ cá nhân của người nằm mơ và quá trình cảm xúc của họ. Do đó, hãy ghi lại những giấc mơ của bạn và đánh giá chúng trong thời gian dài để thấy rằng những lý giải nêu trên đúng với trường hợp cụ thể của bạn thế nào. Chúc ngủ ngon. Phương Hoa Theo Askmen, Việt Báo (Theo_DanTri)
-
Tài liệu tham khảo: ĐOÁN TÍNH CÁCH VÀ VẬN SỐ QUA TƯỚNG MŨI Mũi giữ vai trò rất quan trọng trên khuôn mặt con người. Dù cho tai mắt miệng có hài hoà đẹp đẽ đến bao nhiêu mà mũi xấu xí lệch lạc thì khuôn mặt cũng xem như bị phá cách. Thuật xem bói, xem tuớng số truyền thống quan niệm, nếu mũi hanh thông cao thì cơ thể đầy sinh khí, còn nếu mũi lệch lạc thì sự sống cuả con người cũng khó mà ổn định và phát triển được. Diễn viên Hàn Quốc: Kim Tea Hee TÍNH CÁCH VÀ VẬN SỐ QUA HÌNH DÁNG MŨI Mũi được phân chia thành 3 khu vực như sau: Khu vực sống mũi gồm có Sơn căn ( gốc mũi nằm giữa hai mắt) , Niên thượng và Thọ thượng. · Khu vực Chuẩn đầu, túc là chóp mũi. Khu vực phụ trợ gồm Giản đài và Đinh Úy, là 2 cánh mũi. Ảnh minh họa Sơn căn ứng với tuổi 41 Tịnh xá ứng với tuổi 42 Quang điện ứng với tuổi 43 Niên thượng ứng với tuổi 44 Thọ thượng ứng với tuổi 45 Quyền kinh ứng với tuổi 46 – 47 Chuẩn đầu ứng với tuổi 48 Giản đài ứng với tuổi 49 Đình úy ứng với tuổi 50 Theo một thuyết về nhân tướng học cuả người Nhật, 3 khu vực trên cuả mũi biểu hiện rất rõ ràng cá tính cuả một người với ý nghĩa như sau: - Khu vực sống mũi: Bao gồm, Sơn căn, Niên thượng và Thượng thọ, biểu hiện về những khả năng tiềm tàng cuả người đó. Tuỳ theo khu vực này rộng hẹp phát triển ra sao mà người này có thể mạnh mẽ hoặc yếu kém. - Khu vực Chuẩn đầu: Biểu hiện cho trí lực cuả một người, có liên quan rất lớn đến sự phát triển cuả trí óc và tinh thần. - Khu vực phụ trợ: Tức là hai cánh mũi ( Giản đài và Đình uý) thể hiện cho năng lực hoạt động cuả một người. Lý Gia Hân Chúng ta cũng nên biết qua cách thức nhận định chiều dài và độ cao thấp cuả mũi. Một chiếc mũi được gọi là trung bình khi có chiều dài bằng 1/3 chièu dài cuả khuôn mặt. Còn để nhận biết mũi là cao hay thấp thì dùng cách so sánh sự cân đối giưã chiều cao cuả mũi với chiều cao Lưỡng quyền hay chiều cao cuả cằm để nhận biết độ cao thấp. - Mũi phú quý: Mũi cao, cánh mũi to dày, lỗ mũi rộng , chuẩn đầu tròn đầy. - Mũi nghèo khó: Lỗ mũi lớn và quá lộ hay hếch lên. - Mũi đầy đặn, phát triển cả bề cao lẫn chiều rộng, không bị phá cách: Là tướng dại phú qúy, biểu hiện cho người có đầu óc rất thông minh, mưu trí và dũng cảm hơn người. Thêm nữa là tính tình trung thực, giao thiệp rộng nên thường rất phát đạt trong việc kinh doanh. - Mũi đầy đặn, rộng từ trên xuống dưới Chuẩn đầu khiến Gián đài và Đình úy bị thu hẹp: Người bình thường có thể được giàu sang. - Mũi đầy đặn, cao và rộng nhưng hơi thiếu bề dài giống như mũi cọp: Biểu hiện cho cá tính thiên về vật chất, ăn to nói lớn, thích danh vọng. Nếu có thêm Đình úy và Giản đài cân xứng thì có thể thành công về đường võ nghiệp hay binh nghiệp. - Mũi dọc dưà: Biểu hiện cho người có tính tình trung hậu, khoan hoà trong xử thế , thiên về văn chương nghệ thuật nên thường được danh tiếng hơn lợi lộc. - Diễn viên Lưu Diệc Phi - Mũi dài nhưng không đầy đặn, bề ngang quá hẹp giống như thân cá kết hợp với phần Niên thượng, Thọ thượng nổi cao: Biểu hiện cho cá tính nhỏ nhen, hay nghi ngờ người khác nên thiếu sự thân thiện, thường khó thành công trong cuộc sống. - Mũi hẹp ở phần trên nhưng đến Chuẩn đầu thì nở nang quá mức, kéo theo hai canh mũi to: Biểu hiện cho tâm tính hời hợt, thường thích được người khác nịnh hót, sinh kê, vất vả. - Mũi hẹp và ngắn nhưng riêng phần Niên thượng và Thọ thượng phát triển quá mức, khi đến Chuẩn đầu thì nhỏ lại: Biểu hiện cho cá tính chung thủy nhưng vận số không được giàu sang phú quý, chỉ an nhàn vưà đủ. Nếu Niên thượng, Thọ thượng nở to mà Chuẩn đầu hếch lên để lộ lõ mũi thì vẫn là người biết trọng tình nghĩa nhưng thường vất vả trong sinh kế. - Mũi thẳng nhưng hẹp, trơ xương giống như mũi cá nhưng khác biệt ở chỗ Đình úy và Gián đài phát triển hếch lên cao làm lộ lỗ mũi: Tướng này biểu hiện cá tính nhỏ nhen, hời hợt, bất cận nhân tình, thường phải tha phương lập nghiệp, vất vả mưu sinh. - Mũi thẳng nhưng hẹp ở phiá trên, khi đến Chuẩn đầu mới phát triển, lỗ mũi lộ rõ: Biểu hiện tính tình phóng khoáng, thích kết hợp bè bạn, vận số ở mức bình thường nhưng nếu đắc cách với ngũ quan thì có thể hưng vượng hậu vận. - Mũi gấp khúc nhiều đoạn: Người có tính khí thất thường, kiến thức nông cạn, gặp nhiều nhiều trắc trở trong sự nghiệp. Nếu kết hợp với Lưỡng quyền khuyết hãm thì càng xấu tướng hơn, không đủ tài sức đủ ăn đủ mặc. - Mũi nhìn khô khốc và xương xẩu: Người có đời sống tình cảm nghèo nàn, gia đình bất hoà. - Mũi hung ác: Mũi có nhiều nếp ngang dọc, thân mũi cao gầy, lỗ mũi hẹp, Chuẩn đầu nhọn trơ xương. - Mũi gian trá xảo quyệt: Mũi nhỏ và ngắn, mềm, lỗ mũi hếch. Cánh mũi lệch hoặc cụp xuống như mỏ chim nhiều hâu. - Mũi quá nhỏ so với Lưỡng quyền và khuôn mặt: Là người nông nổi, trí tuệ có phần hạn chế. - Mũi ngắn, lỗ mũi quá to và hếch: Người bất chính, tiêu xài hoang phí, không nghĩ tới hậu quả ngày sau. - Mũi thon nhỏ nhưng Giản đài và Đình uý hơi trễ xuống dưới nhân trung: Biểu hiện cho người có cá tính nhanh nhẹn, thích nhàn nhã chứ không thích làm việc nặng nhọc, cuộc sống đủ ăn chứ không giàu sang. - Mũi đầu đặn, Chuẩn đầu, Giản đài, Đình uý đều hợp cách nhưng Sơn căn hợp thấp xuống khiến Niên thượng và Thượng thọ nhô cao rõ rệt: Là người được hưởng quý cách, thiên về văn chương nghệ thuật, không giàu sang nhưng tiền bạc đủ dùng. Nếu tướng mũi này kết hợp với Chuẩn đầu nở nang thì có phần thiên về nhục dục - Sống mũi lệch trái: Mẹ thọ hơn cha - Sống mũi lệch phải: Cha thọ hơn mẹ - Sống mũi có nốt ruồi: Sự nghiệp bị gãy đổ nưả chừng - Sống mũi có gân máu chạy ngang: Người cô độc không ai thân thích khi về già - Sống mũi lớn nhưng cong vào khiến Chuẩn đầu thấp hẳn xuống: Biểu hiện cho người có tính tình nhân hoà. Nếu kết hợp với Lưỡng quyền tốt thì có thể làm ăn thành công rất đễ dàng. Trường hợp Lưỡng quyền phá cách thì tướng tốt cũng bị giảm sút nhiều, chỉ là người có ăn có mặc vưà đủ mà thôi. - Sống mũi nhỏ và hẹp: Là người thẳng tính nhưng lại quá cứng rắn, thường hay cố chấp, thiếu kiên nhẫn khi gặp khó khăn. Cựu hoa hậu Củng Lợi - Hai cánh mũi lệch lạc không đều: Là biểu hiện song thân có điều không được thọ toàn. - Lỗ mũi nhỏ hẹp, Gián đài và Đình uý đầy đặn và cân bằng nhau: Biểu hiện cá tính cuả người tham lam hoặc keo kiệt. Hai cánh mũi càng đầy đặn bao nhiêu tức là lỗ mũi càng nhỏ hẹp thì cá tính này càng phát triển và bộc lộ nhiều bấy nhiêu. - Lỗ mũi rộng , Giản đài và Đình uý xẹp, đường nét không rõ : Biểu hiện cho cá tính cuả người thích nghe lời ngọt ngào , nịnh hót ,tiê xaì phung phí . - Lỗ muĩ rộng , Giản đaì và Đình uý đầy đặn và cân bằng nhau : Người rất thông minh , trí tuệ . Thích hợp với những công việc dùng đầu óc . - Phía trên Sơn căn và Ấn đường có ba vết nhăn chạy dọc: Biểu hiện cho người có nhiều suy nghĩ nội tâm , có khả năng tập trung và cân mẫn trong công việc. - Sơn căn đầy đặn nhưng hẹp: Là người có trí tuệ, tính tình thẳn thắnnhưng có lúc không được rộng rãi, thường làm người khác khó chịu. - Sơn căn thấp rồi cao dần đến chuẩn đầu thì phát triển rất cao, Giản đaì và Đình uý cũng phát triển lớn theo: Là người có tứơng mũi sư tử, có cá tính mạnh mẽ , có uy lực trong giao tiếp khiến người ta tự nhiên phải kính nể . Thông thường người có loaị muĩ này rất quyết đoán trong công việc , nếu không bị phá cách thì sẽ trở nên đaị phú quý. - Sơn căn thấp, dần dần lên cao đến chuẩn đầu thì phát triển vượt mức giống như chóp núi: Đây gọi là Cô phong tỵ( mũi cô độc một mình) biểu hiện cho cá tính lương thiện, không thích tranh đua . Đa số những người có tứơng mũi này thích sống nơi cô tịch, lòng vẫn thấy an nhàn thanh tịnh. nguồn: nangmui.vn
-
Mạn phép chú Lãn Miên, tiếng Pháp cũng nói ngôn ngữ là cái "lưỡi": La langue.
-
Bệnh mới đau, Tài gặp Tuần Không và động mà hóa Không, hoặc gặp lục xung, quẻ biến lục xung, chẳng cần uống thuốc, dám hứa nạn qua. Nếu bệnh đau lâu, hào Tài hóa Không, hóa Phá, gặp quẻ lục xung, quẻ biến lục xung, hoặc Tài động biến Quỷ, Quỷ động hóa Tài, Huynh Đệ hóa Tài, Tài hóa Huynh Đệ, trên đời dù có lương y cũng khó trị lành (chết nhiều hơn sống). Phàm chiếm bệnh cho ba đảng: Phụ Tộc, Mẫu Tộc, Thê Tộc (bà con bên Nội, bà con bên Ngoại, và bà con phía vợ) cùng là quan trưởng, Thầy trò, tôi tớ, người giúp việc, đều phải coi chương Dụng Thần mà chọn cho đúng Dụng Thần, thì có thể xem rõ lành bệnh, hoặc sống chết. Còn chiếm bệnh cho bằng hữu là kẻ ngoại nhân, thì lấy ứng hào làm Dụng Thần. Đó cũng là lẽ thường, nhưng có khi không ứng nghiệm. Tại sao? Có lẽ vì không phải ruột rà, nên không hết lòng thành mà ra vậy. (Theo tôi đã nghiệm thấy, đối với bạn bè mà người có niềm tin, và là bạn bè chí thân, hết lòng cho nhau, thì quẻ ra vẫn ứng rõ ràng. Ta có thể dùng Ứng hào, hoặc chọn ngay Dụng Thần là Huynh Đệ, tuỳ theo quẻ, vẫn đoán rất chính xác) Thánh Dã Hạc nói: Có người hỏi tôi rằng, "Cứ theo lời thầy nói, bói quẻ là một việc rất dễ dàng. Như chiếm công danh, quan chức, mà đặng vượng Quan trì Thế, sẽ thành danh; Tử Tôn trì Thế thì thất vọng. Chiếm tật bệnh, bệnh mới đau mà gặp lục xung, gặp Tuần Không, chẳng uống thuốc cũng hết bệnh. Bệnh đau lâu, mà gặp xung, gặp Tuần Không, dù có thuốc linh đơn cũng không thể cứu. Như đặng thấy hiển nhiên như vậy thì thật không phải khó biết. Còn như chiếm tật bệnh mà không gặp lục xung, Dụng Thần chẳng thấy Tuần Không, vượng chẳng vượng, suy chẳng suy, hung chẳng hung, mà cát chẳng cát. Lại như chiếm công danh, sự nghiệp, Quan với Tử Tôn không trì Thế, 6 hào Loạn động, Tài phụ đồng hung, thì mới lấy chi mà nhất quyết?” - Nếu anh xủ rèm mà làm nghề bói mướn, mỗi ngày xủ nhiều quẻ, thì đâu mà đặng toàn là những quẻ hiển nhiên dễ thấy. Cũng trong hung mà ẩn cát, trong cát mà ẩn hung, thì phải ráng tìm áo lý để ý xét suy. Nếu anh muốn tự biết xu kiết tỵ hung, tất nhiên không có loạn chiếm nhiều quẻ, không có tạp niệm trong lòng. Mỗi khi gặp một việc gì, thì tức khắc bói liền. Thần chẳng gạt người. Hễ chiếm danh mà đặng thành, thì có Quan trì Thế. Còn không đặng thành, thì Tử Tôn sẽ động ở trong quẻ. Hoặc như có quẻ không minh bạch rõ ràng thì mai sớm hết lòng thành bói lại coi. Nếu còn rối reng nữa, thì bói lại nữa, tự nhiên có tương ứng. Nhưng khi chiếm trong lòng chẳng nên tưởng nhớ hai việc. Lòng thành nhất niệm, thì sẽ thấy ứng. Nếu một lần chiếm đôi ba việc thì quẻ không linh. Lại như chiếm tật bệnh, còn dễ dàng lắm vậy. Một người có bệnh trong nhà ai khác cũng có thể chiếm thay, tha hồ mà chiếm giùm. Nếu là bệnh mới đau, chỉ có một quẻ, một hào gặp lục xung, hoặc quẻ biến lục xung, hoặc Dụng Thần gặp Tuần Không, hoặc động mà hóa Không, đó là bệnh dễ mạnh. Bệnh đau lâu, mà nhằm nó, thì mang tai, vì khó trị. Lại như phòng tai sợ nạn, chỉ đặng hào Tử Tôn trì Thế thì ở trong chỗ sấm sét, hứa chắc bình an, không sao cả. Vậy thì có gì là khó đâu. Khách nói: Chiếm một lần đã phiền nhọc Thần linh, chẳng dám hỏi lần thứ hai thứ ba nữa, đâu dám bói luôn mấy ngày như vậy. Thánh Dã Hạc trả lời: Vì một lời nói đó mà hết thả những người bói quẻ phải lầm lạc. Vậy anh nghe nói: "Ba người chiếm thì do lời hai người bàn" không? Một việc mà đã chiếm ra ba chỗ, thì tái cầu có hại gì? Cũng có một trường hợp không chiếm lại là, trong một khắc mà chiếm hoài một việc. Phải chờ mai xem lại mới là tốt. Lại cũng có trường hợp chiếm liên tiếp mà nhiều ngày cũng không nên, là như chiếm công danh, đã đặng Tử Tôn trì Thế, trong lòng không thích, muốn chiếm lại sao cho được Quan trì Thế mới chịu thôi. Đó gọi là làm phiền nhọc Thần linh nhiều lần. Nhưng tôi cũng thấy có kẻ làm như vậy, mà Thân linh cũng chưa từng không ứng. Tôi nhân thuở nhỏ lao bề công danh, chiếm đến 7 lần. Sáu lần đặng Tử Tôn trì Thế. Đó là Thần Linh chẳng phải chán, vì tôi hỏi nhiều lần. Mỗi lần hỏi, thì mỗi lần có báo tin. Mà chán tôi nhiều là, như tôi hỏi quẻ cầu tài, để chỉ rõ số tiền hiện hữu, lòng tôi đã rõ rồi mà cứ hỏi hoài, thì Thần không nói nữa. Có nói, là nói về viêc tôi không có hỏi. Như có một ngày kia, tôi chiếm cầu tài. Vượng Tài trì Thế thì tôi đã rõ ngày Thìn đặng tài. Ngày kế, tôi chiếm một quẻ coi quả ngày Thìn đặng có Tài không? Quẻ đặng hào Thân Kim Huynh động, mà không rõ là nói gì. Đến ngày Thìn đặng tài, đến ngày Thân vì việc khác mà mất tài. Mới biết Thần cho tôi rõ ngày Thìn có tài, mà ngày kế tôi còn hỏi nữa nên Thần không nói. Thần lại nói, "ngày Thân mất tài", cho nên biết rằng hỏi nhiều lần, Thần cũng không trách, mà lại báo tin về việc ta không hỏi. Việc như vậy rất nhiều. Tôi viết cuốn sách này ra, là để truyền bí pháp cho bực hậu hiền. Nhưng không phép nào khác, chỉ dạy người học bực sơ cạn, phàm gặp quẻ mơ hồ trong lòng chưa biết rõ, thì chiếm nhiều lần vô ngại. Nếu trong quẻ đã hiện rỏ ràng rồi, thì chớ nên hỏi nữa. Chí như chiếm bệnh, một người có bệnh, thì cả nhà ai cũng chiếm thế cho được, tự có quẻ ứng linh. Lại gặp việc, thì chiếm liền, thừa lúc chưa loạn, chẳng khá nghĩ nhiều việc trong lòng. Việc nhiều tâm loạn, thì không phải là lòng thành nhất niệm nữa. Còn dạy kẻ học bói đến chỗ sâu xa, sau có chia phép chiếm và nói về chỗ sai lầm ở trong các sách, chỉ thêm chỗ áo lý, nên nghiền ngẫm mà hiểu cho rõ cái ý nghĩa. Đó là công trình của tôi trong bốn chục (40) năm, cả ngày ăn rồi chỉ lo một việc đó, chẳng lìa ra chốc lát nào hết, mới là đặng vậy. Đó là chỗ tiên hiền chưa truyền. Phải ráng từ đầu đến cuối, tỷ mỉ xét rõ, tự nhiên xảo đoạt thiên công. Muốn tham cứu chỗ hóa dục (sinh biến) của Trời Đất, suy trắc lý ẩn vi của Quỷ Thần, không phải khó. Giác Tử cũng có nói: "Nếu gặp việc gấp dù trong một giờ, cũng có thể chiếm năm ba quẻ liên tiếp". Cá nhân tôi có kinh nghiệm với một cô em dâu chưa cưới, Cô này đang chuẩn bị vào trường thuốc để học bác sĩ, và cô chỉ thích làm bác sĩ không học gì khác, nên đã đến nhờ tôi xem quẻ có được nhận hay không. Từ năm ngoái đến năm nay xủ gần chục quẻ, từ quẻ đầu cho đến quẻ cuối, không quẻ nào mà không Tử Tôn trì Thế. Nên tôi đã đoán nhất định số cô làm bác sĩ thôi không thể làm gì khác. Và tôi cũng đã có cơ hội xem cho 3 người bác sĩ đã hành nghề nhiều năm, hễ họ xủ quẻ hỏi về Vận Số là Tử Tôn trì Thế. Còn tôi có ông bạn làm Cha nhà thờ, xủ khá nhiều quẻ về bản Mệnh mà không hề có quẻ nào là Tử Tôn trì Thế cả, thật tôi không hiểu lý do, nhưng đó là việc rất lạ. Cũng như số Thánh Dã Hạc được làm Thầy Thiên Hạ và làm Vĩ Nhân nên 6 lần đều Tử Tôn trì Thế là vậy. Nên nhớ Thầy thuốc, Tăng đạo, Thầy tướng, trung thần lương tướng, cửu lưu thuật sĩ, con cháu, phước đức đều lấy hào Tử Tôn làm Dụng Thần). Dám chắc với các bạn là sắp tới sẽ có người mặc dù chê bai Bốc Dịch, còn viết ra thành văn nữa, nhưng sẽ thử áp dụng cách tôi đã viết ra ở trên hoặc sắp tới, để xem có khả năng làm Thầy không. Và cũng xin thông báo trước nếu khi xủ quẻ bản Mệnh thấy mình không có Tử Tôn trì Thế mà đoán số càn bậy thì nghiệp không phải ít đâu nhé. À, tôi còn quên một điều này nữa, có cô bạn làm Đông y sĩ châm cứu, đã xủ quẻ hỏi bản mệnh năm nay. Cô ta xủ tổng cộng 3-4 quẻ gì đó, đều là Tử Tôn trì Thế! Từ từ tôi sẽ viết ra cách các bạn có thể xem thử cho mình khi đi gặp bác sĩ khám bệnh, Thầy coi Tử Vi, coi bói, Thầy dạy học hay thầy dạy Tử Vi, hoặc xem người mình hỏi là người giỏi hay dỡ hay là bọn nói dốc, hay là người ta đây chỉ nói khoác lác... Các bạn đều có thể xem biết hết! Khỏi phải sợ ai lường gạt. Lấy vượng suy để đo lường khả năng, tiền bạc, cũng như học thuật của mình của người. Chương 1: BÁT QUÁI ĐỒ Đạo Càn là cha thuộc Dương: sinh ra Chấn = trưởng nam, Khảm = trung nam, Cấn = thiếu nam --- --- Càn --- - - - - Chấn --- - - --- Khảm - - --- - - Cấn - - Đạo Khôn là mẹ thuộc Âm: sinh ra Tốn = trưởng nữ, Ly = trung nữ, Đoài = thiếu nữ - - - - Khôn - - --- --- Tốn - - --- - - Ly --- - - --- Đoài --- Chương 2: QUÁI TƯỢNG ĐỒ CÀN tam liên (3 gạch liền): được 3 hào Dương không có hào bị đứt khúc KHÔN lục đoạn (6 đoạn): được luôn 3 hào Âm có 6 đọan ngắn CHẤN ngưỡng bồn (chậu để ngửa): hào đầu dương, hào 2 hào 3 là Âm CẤN phúc oản (chén để úp): hào 1 hào 2 là Âm, hào 3 Dương Ly trung hư (giữa ruột trộng): hào 1 và hào 3 Dương, hào 2 ở giữa Âm KHẢM trung mãn (giữa ruột đầy): hào 1 và hào 2 là Âm, hào 2 Dương ĐOÀI thượng khuyết (trên khuyết): hào 1 hào 2 Dương, hào 3 là Âm TỐN hạ đoạn (dưới đứt khúc): hào đầu Âm, hào 2 hào 3 là Dương Cách Xủ Quẻ (dùng 3 đồng tiền) 1 đồng sấp (head) là Dương, thì gạch 1 gạch dài ( --- ) 2 sấp (2 heads) là Âm thì gạch 2 gạch ngắn ( - - ) 3 sấp là Lão Dương, thì vẽ 1 vòng tròn ( O ) 3 ngữa là Lão Âm, thì vẽ hai đường chéo ( X ) Một gạch dài (---) là Thiếu Dương, còn vòng tròn (O) gọi là Lão Dương - tức là hào Dương động. Hai gạch ngắn (- -) là Thiếu Âm, còn chữ (X) gọi là Lão Âm - tức là hào Âm động. Phàm trong quẻ có vòng tròn, dấu chéo, thì gọi là quẻ động. Muốn hỏi việc chi, thì lòng phải chí thành, bày tỏ tên họ, chỗ ở, cầm 3 đồng tiền gieo vào trong mâm, hoặc đĩa, hoặc trên bàn, hoặc dưới nền nhà, coi mấy đồng ngữa mấy đồng sấp. Thấy 1 sấp thì gạch 1 gạch dài (---), 2 sấp thì vạch 2 gạch ngắn (- -), 3 sấp thì vẽ vòng tròn (0), 3 ngửa thì viết chữ X (X). [Dùng tiền xưa, thì bên không chữ là sấp Dương (---), bên có chữ là ngửa - Âm (- -). Tại sao thế, vì Dương chủ là Khí, còn Âm chủ là Thể, như khí của cha truyền qua mẹ tạo thành hình thể của con là vậy, đó là nguyên lý mà cổ nhân đặt ra như thế.] Thí dụ gieo tiền 6 lần ta được quẻ Hỏa Thủy Vị Tế hóa Thủy Hỏa Ký Tế như sau: --- O - - X (3 hào trên hợp lại là quẻ ngoại, gọi ngoại quái) --- O - - X --- O (3 hào dưới hợp lại là quẻ nội, gọi nội quái) - - X Quẻ Hỏa Thủy Vị Tế hóa Thủy Hỏa Ký Tế, nạp thành 6 hào như sau: Hỏa Thủy Vị Tế è Ký Tế Huynh Tỵ Ứng O è Quan Tý Tử Mùi X è Tử Tuất Tài Dậu O è Tài Thân Huynh Ngọ Thế X è Quan Hợi Tử Thìn O è Tử Sửu Phụ Dần X è Phụ Mão Chú Ý: khi vạch quẻ thì vạch từ dưới lên, mà khi đọc quẻ thì đọc từ trên xuống. Như quẻ trên có Ly trên (Ly trung hư), Khảm dưới (Khảm trung mãn), nên đọc là Hỏa Thủy Vị Tế (tượng là chưa xong). Khi biến ra thì có quẻ Khảm trên, Ly dưới, nên đọc là Thủy Hỏa Ký Tế (tượng đã xong). Lại nên ghi nhớ: Quẻ có động thì có biến, hào có động thì có biến. Động hào là lão Âm thì biến thành Thiếu Dương; nếu động hào là Lão Dương thì biến thành Thiếu Âm. Mới đầu hơi khó nên bình tâm suy gẫm, và gắng sức sẽ hiểu. nguồn: nhantrachoc.net.vn
-
Luật nhà thơ để làm gì? (Dân trí) - Thảo luận về Dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XIII, nhiều đại biểu bất ngờ trước những dự án luật chưa cần thiết như Luật Nhà thơ, Luật Thư viện, nhưng lại thiếu vắng những luật để điều chỉnh những vấn đề cấp bách hiện nay. Đại biểu Trần Du Lịch thẳng thắn: "Tôi không hiểu dự án Luật Nhà thơ nó chế định cái gì mà lại được đưa vào chương trình. Chẳng nhẽ lại bắt ông kia phải làm thơ, ông này không được làm. Trong khi những cái rất cần như Luật Quản lý vốn kinh doanh nhà nước, đã được đề nghị đưa vào từ khóa trước đến nay nhưng đến bây giờ chúng ta vẫn còn nợ cử tri". Quả thực rất khó hiểu khi chúng ta đưa những dự luật này vào chương trình xây dựng luật. Trước hết, xin được hỏi các nhà làm luật muốn xây dựng Luật Nhà thơ để phục vụ mục đích gì, điều chỉnh quan hệ gì của đời sống xã hội. Thơ ca thuộc lĩnh vực văn học nghệ thuật, ai thích thì làm thơ, chẳng lẽ lại có quy định về đối tượng, tuổi tác, ai được làm thơ và ai không được làm thơ. Chẳng lẽ rồi đây còn soạn thảo luật nhà văn, luật họa sĩ, luật nhạc sĩ, luật ca sĩ... Còn về Luật Thư viện, sống trong thời đại ngày nay, với công cụ công nghệ thông tin ngày càng phát triển và internet là cái thư viện khổng lồ, thì thư viện không phải là nơi phục vụ một cách phổ biến cho công tác nghiên cứu, học tập như trước đây. Cho nên hoạt động thư viện ngày càng bị thu hẹp, chưa cần thiết phải soạn thảo một đạo luật để điều chỉnh. Trong khi đó, có những dự án luật liên quan đến các quyền cơ bản của công dân rất cần được thúc đẩy nhanh lại không được chú trọng như Luật Trưng cầu ý dân, Luật Bảo vệ quyền riêng tư, Luật Biểu tình. Thảo luận vấn đề này, đại biểu Trần Thị Quốc Khánh phát biểu: "Không nên sợ thực tiễn cuộc sống, cần sớm có luật để người dân có thể biểu tình một cách trật tự và thể hiện ý kiến của mình một cách đúng luật". Thời gian làm việc của Quốc hội có giới hạn, hãy chắt chiu thời gian đó cũng như trí tuệ của các đại biểu để tập trung vào những việc cần thiết, có ích cho dân, cho nước hơn. Quốc gia có vùng biển đảo rộng lớn và có 3.260 km bờ biển nhưng chưa có Luật Biển Việt Nam, các đạo luật khác như Luật Đất đai, Luật Giáo dục, Luật Phòng, Chống tham nhũng cần phải sửa đổi nhanh cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Mỗi một giờ làm việc của Quốc hội là một giờ chi tiêu tiền của dân. Mỗi chiếc vé máy bay, phòng ở của đại biểu là tiền của dân. Mà nước mình còn nghèo, dân còn khổ, cho nên phải chi tiêu tiền của dân cho hợp lý Lê Chân Nhân ========================= Có luật nhà văn thì phải có luật nhà thơ cho đủ bộ. Còn luật gì nữa đây?
-
Tư liệu tham khảo: THÁI ẤT THẦN KINH Thái Ất thần kinh hay Thái Ất là một trong ba môn học xếp vào tam thức (Thái Ất, Độn giáp, Lục nhâm đại độn). Thái Ất tức là Thái Nhất, tên gọi khác của Thần Bắc cực. Trong tam thức, Thái Ất thiên về Thiên, nó nghiên cứu sự chuyển động của các tinh tú ảnh hưởng đến Trái Đất, đến con người. Theo một số sách bói kinh điển, Thái Ất là tôn thần của thiên đế, ở trước sao Bắc thần, chủ sai khiến 16 thần. Sao Thái Ất chủ về dự đoán gió mưa, hạn hán lụt lội, chiến tranh đói rét bệnh tật, xem tình hình trong nước, sao Thái Ất chủ sự hưng vong, lịch số dài ngắn. Ðối tượng dự trắc Theo Lê Quý Ðôn (1726-1784), xem Thái Ất có bốn cách: Tuế kế (kể năm) để xem sự lành hay dữ của quốc gia. Ðó là việc của các vua và hoàng hậu làm, để sáng chính hoá, sửa đức giáo, xét cơ động, tĩnh. Nguyệt kế (kể tháng), để xem lành hay dữ. Ðó là bậc công khanh xem, để xét biện được hay mất, mà điều hoà sự hoà hay trị. Nhật kế (kể ngày), để đo lường hoạ phúc trong nhân gian, sử dụng cho mọi người để xét lớn hay nhỏ, hưng hay suy. Thời kế (kể giờ), để vận trù mưu kế sách lược, xác định về chủ, khách, thắng, thua. Phàm thiên văn đổi khác, các nước lân bang động hay tĩnh, thế trận hai bên có tương đương hay không, xã hội bình yên hay có giặc cướp, đều dùng Thời kế mà xem. Lê Quý Ðôn viết: "Thuyết ấy (Thái Ất) phần nhiều nói về binh pháp: địch ta, chủ khách, lợi hại, được mất, cái cơ thịnh suy, trị loạn; cái thế thắng thua, yên hay nguy, không điều gì là không bày rõ. Nếu hiểu lẽ ấy mà biết phòng bị, ứng phó thì có thể tìm điều lành, tránh điều dữ, tiêu hoạ, vời phúc thì, mới là người giỏi dùng sách Thái Ất vậy...Làm tướng mà không biết sách ấy thì sẽ mờ tối ở chỗ đánh hay giữ, tiến hay ngừng; không lấy gì mà quyết đoán các nghi mưu khi ra trận tuyến; làm tể tướng mà không biết sách ấy thì sẽ sai lầm ở sự động hay tĩnh, cất lên hay đặt xuống; không lấy gì để quyết đoán những nghị luận lớn cho triều đình..." (Bài tựa cho sách Thái Ất Dị giản lục - bản dịch của Ðặng Ðức Lương, Nhà Xuất bản Văn hoá Thông tin, Việt Nam năm 2001). Sách Thái Ất Thần kinh tương truyền là của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm(1491-1585), (bản dịch của Nguyễn Ngọc Doãn (1912-1989) với bút hiệu là Thái Quang Việt – Nhà xuất bản Văn hoá Dân tộc – 2002) cũng viết: "...Thái Ất kể ngày luận về mệnh hạn người đời. Ðo biết hoạ phúc, định luận không sai. Suy rõ mấu chốt, nên cẩn thận tinh tường, diệu ở huyền vi tỏ biết. ...Phép này mọi người dân gian sử dụng để đo lường hoạ phúc cho mình, vào đời dựng nghiệp lớn hay nhỏ, được hưng hay suy, biết mấu chốt mà định luận không sai về vận hạn sống trong đời sao cho hợp với đạo nhà, đạo nước và đạo học đúng nghĩa quen gọi là Ðạo Người." và: "...Xem Thái Ất kể giờ chú trọng vào con toán nhất, rồi xem xét các chướng ngại (tù, giam, cấp...) được sử dụng cho công việc hàng ngày, nhất là xem cho việc binh bị, chủ khách thắng thua, nước ngoài động tĩnh, vận trù kế sách; đặc biệt xem thiên văn đổi thay, xã hội bị ảnh hưởng vì mưa nắng, bão gió, giặc cướp không." Cách lập quẻ Tính số cục bao gồm niên cục, nguyệt cục, nhật cục và thời cục. Số niên cục Mỗi nguyên tý có 72 năm. Niên cục là số từ 1 đến 72 trong mỗi nguyên tý. Người ta dùng mốc tính tích niên từ Thượng cổ, năm Giáp Tý đời Thiên hoàng, cách năm CN 10.153.917 năm. Để tính số niên cục của một năm, sử dụng công thức: Tính Tích niên (Tuế tích) = (số của năm xem) + 10.153.917 Tích niên chia 3.600 Phần dư của phép chia trên chia 360 Phần dư của phép thứ 2 chia 72 số dư của phép chia này chính là số niên cục. Có một số thuyết tính mốc tích niên từ Trung cổ, năm Giáp Dần đến năm tuổi Việt (tuổi Việt lấy năm dương lịch là năm 2879 TCN cộng với năm xem) Từ Thượng cổ, năm Giáp Tý đời Thiên hoàng đến Trung cổ, năm Giáp Dần cách nhau 10.141.310 năm. Nếu dùng mốc Trung cổ, năm Giáp Dần, những vì sao xuất phát từ Thượng cổ, năm Giáp Tý thì phải thêm số doanh sai, tính toán phiền phức. Ví dụ năm 2006 (Bính Tuất), dương cục là: Tích niên = 2006 + 10.153.917 = 10.155.923, chia tích niên cho 3.600 được số dư 323, phần dư lại chia tiếp 360 dư 323, phần dư này chia tiếp cho 72 được số dư 35. Vậy được số niên cục dương 35. Số nguyệt cục Cục tương ứng với tháng gọi là nguyệt cục. Cách tính là lấy số tích tháng từ Thượng cổ, năm Giáp Tý đến tháng xem, cộng thêm hai tháng Tý, Sửu vì người ta dùng lịch kiến Dần; hai tháng này gọi là Thiên Chính, Ðịa Chính. Công thức tính: Tính số tích tháng từ định tính so với mốc = (10.153.917 + [năm trước năm có tháng xem])*12 + 2 + [số của tháng xem] Chia số Tích tháng tính được cho 360 Phần dư của phép chia trên chia tiếp cho 72, số dư là nguyệt cục. Ví dụ: Tính nguyệt cục của tháng Mậu Dần năm Canh Thìn (2000) Từ Thượng cổ Giáp Tý đến năm trước năm có tháng xem (năm 1999) có: 10.153.917 + 1999 = 10.155.916 năm, 10.155.916 * 12 = 121.870.992 tháng. Số tháng Thiên Chính, Ðịa Chính và tháng cần xem (1) là 3, nghĩa là phải cộng thêm 3 được tổng số tháng = 121.870.992 + 3 = 121.870.995. Lấy số này : 360 dư 195, 195 : 72 dư 51. Như vậy tháng Mậu Dần năm Canh Thìn (2000) thuộc nguyên Nhâm Tý, có Nguyệt cục dương 51. Một số thuyết tính gốc Nguyệt cục là ngày mồng một (Mậu Ngọ) tháng 11 (Bính Tý), năm Giáp Tý, năm đầu niên hiệu Nguyên Gia, vua Tống Văn Ðế nhà Tống(420-479) ở Trung Quốc thời kỳ Nam-Bắc triều (Tương ứng với ngày 7 tháng 12 năm 424). Sách Thái Ất dị giản lục có ghi cách tính này. Ví dụ: Tính Nguyệt cục của tháng Mậu Dần năm Canh Thìn (2000)Từ tháng Bính Tý năm Giáp Tý (năm 424) đến tháng Ất Hợi (tháng trước tháng Bính Tý) năm Kỷ Mão (năm 1999) có: (2000-1) – 423 = 1.576 năm. Lấy số năm (1.576) * 12 được 18.912 tháng (mỗi năm 12 tháng). Từ tháng tháng Bính Tý năm Kỷ Mão (1999) đến tháng Mậu Dần năm Canh Thìn (2000) có 3 tháng. Vậy số Tích tháng = 18.912 + 3 = 18.915. Lấy số này chia cho 360 dư 195. Lấy dư số chia cho 72 dư 51. Như thế tháng Mậu Dần năm Canh Thìn (2000) thuộc nguyên Nhâm Tý, dương có Nguyệt cục dương 51. Nguyên tắc: niên cục dương thì nguyệt cục cũng dương; niên cục âm thì nguyệt cục cũng âm. Số nhật cục Phương pháp tính: Sau tiết Đông chí, tìm ngày Giáp Tý đầu tiên gần nhất sau Ðông chí năm trước, lấy đó làm gốc đếm trở đi, tích cho đến ngày xem, được bao nhiêu là số tích ngày. Chia số tích ngày đó cho 360 phần dư lại tiếp tục chia cho 72, còn dư lại bao nhiêu chính là nhật cục. Theo sách Thái Ất thần kinh, chỉ có thời kế là có phân biệt âm cục, dương cục. Một số thuyết áp dụng cục âm dương trong Thái Ất kể ngày. Cục âm, dương tính như sau: Từ Đông chí đến trước ngày Hạ chí, là dương cục; từ Hạ chí đến trước ngày Đông chí, thuộc âm cục (chú ý tính ngày phải xét đến cả giờ chuyển tiết, khí) Thí dụ: Tính nhật cục ngày 14 tháng 12 năm 1992 dương lịch. Tính Nhật cục theo Thái Ất thần kinh: Ngày Ðông chí năm trước: 22 tháng 12 năm 1991 Ngày Giáp Tí đầu tiên gần nhất sau Ðông chí năm trước là ngày 18 tháng 02năm 1992 (Ngày Giáp Tí (15) tháng Nhâm Dần, năm Nhâm Thân) Số ngày tích lại: 14/12/1992 - 18/02/1992 + 1 = 301 đem chia cho 360 được số dư 301. Số dư chia tiếp cho 72 được số dư là 13.Vậy ngày 14/12/1992 có Nhật cục 13. Có thuyết tính mốc tích ngày là ngày Giáp Tí (01) tháng Giáp Tí (11), năm Quý Hợi thuộc niên hiệu Cảnh Bình đời Tống tương ứng với ngày 19 tháng 12 năm423 theo dương lịch. Trước hết tính số ngày từ gốc là ngày 19 tháng 2 năm 423 tới ngày 18 tháng 2 trước ngày xét và tính được tròn số từ năm 423 tới năm xét. Tiếp đó người ta sử dụng công thức tính làm tròn ngày tích 365,2425 ngày/năm với số năm. Bước tiếp theo tính số ngày lẻ từ ngày 19 tháng 2 tới ngày xét.Lấy tổng số ngày (số tích ngày) chia 360 lấy dư. Lại chia tiếp 72 lấy dư làm số Nhật cục. Có thuyết quy định tính Tích Nhật dựa vào Tích Nguyệt. Sách Thái Ất dị giản lục có ghi cách tính này. Số thời cục Cách tính: Cục âm dương của thời cục cũng tính như Nhật cục Số giờ từ ngày Giáp Tí hoặc Giáp Ngọ gần nhất sau Ðông chí năm trước đến ngày, giờ muốn tính Chia số giờ đó cho 360, số dư lại chia tiếp 72 số dư chính là Thời cục. Ví dụ: Tính thời cục giờ Nhâm Tý, ngày Mậu Tuất (23 tháng 1 năm 1992) Ngày Giáp Ngọ gần nhất sau Ðông chí là 19 tháng 1 năm 1992. Số ngày tích lại = 23/01/1992 - 19/01/1992 = 4. Số tích giờ 4*12 = 48 giờ. Cộng thêm 1 giờ của ngày Mậu Tuất là 49 giờ. 49 chia 360 dư 49, lại chia 49 cho 72 dư 49. Ngày 23 tháng 1 năm 1992 sau Đông chí thuộc dương cục. Vậy tính được Thời cục 49 Dương. Cách tính số Niên cục, Nguyệt cục, Nhật cục, Thời cục gọi là Tứ kế (Tuế kế, Nguyệt kế, Nhật kế, Thời kế) An các sao chính Thái Ất Tiểu Du Thái Ất, Tiểu Du Thiên Mục và Đại Du. Thái Tuế Thần Hợp Kể Định (Kể Mục) và Toán Định Kể Thần Thái Âm Văn Xương Thủy Kích Toán Chủ - Toán Khách Đại Tướng Chủ Đại Tướng Khách Tham Tướng (Tiểu Tướng) Chủ và Khách Ngũ Phúc Quân Cơ Thần Cơ Dân Cơ Tứ Thần Thiên Ất Địa Ất Trực Phù (Phép Tôn) Phi Phù Phi Lộc Phi Mã Hạn Dương Cửu Hạn Bách Lục – Vào quẻ Cách đoán quẻ Sau khi an được quẻ Ất, căn cứ vào tính lý các cung, sao, căn cứ thuyết âm dương, ngũ hành sinh khắc, quy luật sinh vượng, chú ý các trạng thái vô thường của Thái Ất, nếu có và tùy theo lập quẻ Ất kể năm, kể tháng, kể ngày hay kể giờ mà tiến hành luận đoán. Trong trường hợp lập quẻ Ất kể ngày xem mệnh, còn phải hạn Dương cửu, hạn Bách Lục, căn cứ quẻ, hào Kiếp Sống tìm được, để dự đoán đời sống tiến lui lành dữ; căn cứ quẻ, hào Thái Tuế lưu niên tìm được, để dự đoán các việc và khi nào xảy ra trong năm ấy. Lưu ý Cũng mang tên môn Thái Ất còn có Thái Ất thần quẻ, là phương pháp ứng dụngDịch lý để lập quẻ dự đoán bằng hình thức lắc hào. Quẻ gồm có năm hào, mỗi lần gieo một đồng tiền để xin Âm Dương cho từng hào, khác với môn Thái Ất này, không trình bày ở đây. Tham khảo Bằng tiếng Việt: Truyền lại đến ngày nay có hai bộ Thái Ất do hai soạn giả đồng thời vào thế kỷ 18: Một bộ là Huyền Phạm tiết yếu của Phạm Ðình Hổ (1768-1840) sửa lại bộ Huyền Phạm của Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585). Cuốn này được Nguyễn Ngọc Doãn (1912-1989) với bút hiệu là Thái Quang Việt dịch sang quốc âm năm 1972; Nhà Xuất bản Văn Hoá Dân tộc phát hành với tên gọi Thái Ất Thần kinh ghi tên tác giả là Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Năm 2002, Nhà Xuất bản Văn Hoá Dân tộc cho tái bản sách Thái Ất Thần kinh được sửa chữa, bổ sung thêm những phần thiếu sót. Bộ thứ hai là Thái Ất Dị giản lục của Lê Quý Ðôn (1726-1784). Sách này được Ðặng Ðức Lương dịch, Nhà Xuất bản Văn hoá Thông tin in năm 2002. Có người còn có Thái Ất diễn quái bí lục của Nguyễn Xuân Quang, nhưng ít thấy bán trên các hiệu sách tại Việt Nam.Bằng tiếng Trung: [*] Thái Ất kim kính thức kinh Thái Ất thống tông bảo giám Thái Ất thống tông đại toàn Những sách này ít thấy bán trong các cửa hiệu sách ở Việt Nam.
-
Tài liệu tham Khảo:PHÉP THẢ ĐÒN TAY Cách tính số lượng Huỳnh Tử (Xà gồ) tốt cần thả trên mỗi mái nhà, người ta thường tính theo Trực, muốn tính theo Trực phải biết thứ tự của Trực, cách tìm Trực Chủ và Trực thuộc Ngũ hành. Để chọn Trực sinh, tránh Trực khắc. 1. THỨ TỰ CỦA 12 TRỰC: Kiến, Trừ, Mãn, Bình, Định, Chấp, Phá, Nguy, Thành, Thâu, Khai, Bế. 2. TÌM TRỰC CHỦ NHÀ: Muốn tìm Trực Chủ phải biết người đó tuổi gì, Bổn mạng thuộc hành gì rồi theo câu này mà tìm: “Trâu Vàng, Chó Lửa, Dê Gỗ, Đất Nước Rồng”. Trâu là Sửu, Vàng là Kim. Người Bổn mạng Kim thời khởi Kiến tại Sửu thuận tới tuổi của người đó thì biết được Trực. Chó là Tuất, Lửa là Hỏa. Người Bổn mạng Hỏa thì khởi Kiến tại Tuất tính như trên. Dê là Mùi, Gỗ là Mộc. Người Bổn mạng Mộc khởi Kiến tại Mùi tính như trên. Đất, Nước là Thổ và Thủy, Rồng là cung Thìn. Người Bổn mạng Thổ hay Bổn mạng Thủy thì khởi Kiến tại cung Thìn rồi tính như trên. Như người tuổi Hợi, Bổn mạng Mộc, khởi Kiến tại Mùi, Trừ tại Thân, Mãn tại Dậu, Bình tại Tuất, Định tại Hợi. Vậy người tuổi Hợi, Bổn mạng Mộc thuộc Trực Định. Tùy Bổn mạng của người điểm đến tuổi là đúng. 3. TRỰC THUỘC NGŨ HÀNH (Có bài thơ cổ nói rõ): Cầm gươm mà chém Thành, Khai, Người Bé có tài 3 gả thuộc KIM. Định thì độc MỘC thù hiềm Trừ, Nguy, Thâu THỦY Bình tâm chế hoài Chấp tay, Phá trận HỎA sài Mãn, Kiến tranh THỔ đua tài ai hơn. Hai câu đầu nói 3 Trực: Thành, Khai và Bế thuộc KIM. Câu 3: Nói chỉ có một Trực Định thuộc MỘC. Câu 4: Nói bốn Trực: Trừ, Nguy, Thâu, Bình đều thuộc THỦY. Câu 5: Nói Trực Chấp và Trực Phá thuộc HỎA Câu 6: Nói Trực Mãn và Trực Kiến thuộc THỔ. Sổ lượng Huỳnh Tử thả trên mỗi mái nhà có hiệp Trực mà Trực thuộc Ngũ hành nên có sự sanh hạp hoặc xung khắc. Đòn dông (Hoặc đòn đông) làm Trạch chủ, Huỳnh tử thuộc vợ con và của cải, nếu Trạch chủ khắc xuống Huỳnh tử thì vợ con đau ốm, của tiền hao tán, bằng khắc ngược lại thì Trạch chủ bị nguy: Tai nạn, đau ốm liên miên. Ví dụ 1: Tuổi Nhâm Thân, Bổn mạng Kim là Trực Nguy thuộc Thủy. Làm nhà hai mái, mỗi một mái nhà thả 4 cây Huỳnh tử. Tính từ cây Đòn dông là Trực Nguy của chủ nhà điểm xuống cây Huỳnh tử: 1 là Thành, 2 là Thâu, 3 là Khai, 4 là Bế. Trực Bế thuộc Kim sanh Thủy là Trực Nguy của chủ nhà là rất tốt, phát tài, hưng vượng (Ở đây đừng hiểu lầm là Trực Bế xấu vì trường hợp này căn cứ vào Ngũ hành tương sanh hoặc tương khắc của Trực mà định xấu tốt). Ví dụ 2: Tuổi Kỷ Hợi, Bổn mạng Mộc, Trực Định, nhà hai mái, mỗi một mái nhà thả 4 cây Huỳnh tử. Đặt Trực Định chủ nhà lên đòn dông điểm xuống Huỳnh tử: 1 là Chấp, 2 là Phá, 3 là Nguy, 4 là Thành. Trực Thành thuộc Kim khắc Trực Định thuộc Mộc của chủ nhà là rất xấu, đừng lầm tưởng Trực Thành là tốt mà nguy hiểm với nó. Nguồn : Sách Nghi Lễ-Thích Hoàn Thông
-
@ hoangnt, Nói rằng có linh hồn thì linh hồn được tạo nên bởi dạng vật chất gì? Hay thể gì? Thiên Đồng
-
@ hoangnt, Vậy trong lúc người còn sống thì linh hồn là gì? Người chết rồi thì linh hồn là gì? Thiên Đồng
-
Kết của truyện Tấm Cám: Vận động xã hội cũng cần sự thay đổi Thứ tư 09/11/2011 04:25 (GDVN) - Quá trình hoàn thiện truyện cổ tích là quá trình biến đổi không ngừng. Sự thay đổi kết thúc trong truyện Tấm Cám cũng không nằm ngoài quy luật này. Chỉ có 20% độc giả ủng hộ việc sửa đoạn kết "Tấm Cám" Sách Giáo khoa lớp 10 sửa đoạn kết "Tấm Cám" thế nào? Những ngày gần đây dư luận đang xôn xao với chuyện thay đổi cách kết thúc trong chuyện cổ tích Tấm Cám. Một số người cho rằng cái kết trong câu chuyện Tấm Cám có tính chất quá dã man, không phù hợp với xã hội ngày nay và cho rằng nên đổi cái kết của câu chuyện này. Phó giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Bích Hà Theo Phó giáo sư, Tiến sĩ, Nguyễn Bích Hà, nguyên trưởng khoa Việt Nam học, trường ĐH Sư phạm Hà Nội, người đã có nhiều năm nghiên cứu về văn học dân gian cho biết: Truyện cổ tích là truyện truyền miệng và luôn luôn biến đổi theo nhu cầu của thời đại, không bao giờ bất biến. Trong quá trình truyền miệng để lưu truyền thì truyện cổ tích có những biến đổi khác nhau. Truyện Tấm Cám ra đời trong thời kỳ trung đại. Đây là thời kỳ mà sự trả thù và hành xác của con người hết sức "man rợ" không phải chỉ ở Việt Nam mà trên thế giới cũng vậy. Truyện Tấm Cám vốn kết thúc bằng tình tiết Tấm dội nước sôi, Cám chết. Tấm lấy xác Cám làm mắm, gửi về cho mụ dì ghẻ. Ngày ngày mụ ăn mắm do Tấm gửi và tấm tắc khen ngon. Cho đến khi ăn đến đáy hũ, nhìn thấy đầu lâu con mình, mụ lăn đùng ra chết. Kết thúc ấy đã tồn tại một thời gian khá dài trong lời kể dân gian và đã từng làm cho không ít người hả hê vì cách trừng phạt “ác giả, ác báo” đó. Chính vì vậy cách kết thúc của truyện Tấm Cám trong thời kỳ trước không có vấn đề gì. Lúc đó, cái ác phải bị sự trừng phạt đích đáng giống như cách mà con người thời kỳ đó hành xử. Tuy nhiên trong thời hiện này không giống như trong thời kỳ trung đại. Con người có ác độc đến mấy thì cũng không thể hành hạ giống như kiểu ác giả ác báo như trong thời kỳ trước. Cô Tấm là một người hiền lành mà lại dùng những thủ đoạn để trả thù mẹ con Cám một cách hết sức dã man như vậy không phù hợp với thời kỳ hiện đại. Vì vậy trong lời kể hiện nay nhiều người đã bỏ qua một vài tình tiết, trong đó có tình tiết “làm mắm”. Khi kể cho trẻ mẫu giáo, các cô giáo cũng đã bỏ đi đoạn trừng phạt bằng cách này. Chính vì vậy sách giáo khoa lớp 10 phổ thông khi trích giảng truyện Tấm Cám cũng chọn bản kể không có cái chết ghê rợn kia. Truyện chỉ dừng lại ở chỗ, Cám nghe Tấm nói nhờ tắm nước sôi nên trắng trẻo liền sai người đào hố và Tấm dội nước sôi. Cám chết, mụ dì ghẻ nghe tin con chết cũng lăn đùng ra chết theo. Như vậy tính chất thời đại đã chi phối các lựa chọn các tình tiết trong chuyện. Ngay cả khi truyện Tấm Cám được văn bản hóa thì nó vẫn có thể biến đổi để phù hợp với thời đại mà nó đang được lưu truyền. Chính vì vậy mà tất yếu cái kết trong câu truyện cổ tích Tấm Cám phải thay đổi. Đó không chỉ là sự thay đổi của một cá nhân nào khi viết sách giáo khoa mà do bản thân nhu cầu của thời đại đòi hỏi phải thay đổi. "Truyện cổ tích là sản phẩm của tập thể nhân dân, nếu có những chi tiết nào không phù hợp với thời đại mới, với nhu cầu của tập thể, nhân dân vẫn có thể sửa chữa theo nhu cầu chung khiến cho tac phẩm biến đổi không ngừng qua các thời đại. Chính vì vậy quá trình biến đổi truyện cổ tích không ngừng và không có điểm dừng cuối..."_PGS-TS Nguyễn Bích Hà bày tỏ. Nguyễn Tiến ======================== Cứ theo lý này thì truyện dân gian cứ sửa thoải mái, mà hiện thực là không ít câu truyện dân gian, sự tích huyền thoại...của Việt đã bị (được) thay đổi tình tiết hay quay chiều hướng nội dung sang hướng khác. Buồn thay! Bởi những thông điệp mang tính minh triết bên trong mang nguy cơ bị vùi lấp hay biến mất. Cũng bởi văn hiến Việt 5000 năm không được nhắc đến như một sao Bắc Đẩu dẫn đường khai sáng vòm trời nhận thức giá tri dân tộc Việt. Làm sao có cái chuyện như thế được? Trước thời kỳ trung đại không có chăng? sau trung đại không có chăng? Nghe có vẻ hợp lý, nhưng phải chăng là tư duy "xét lại" hay "phủ nhận lại" và "phủ định sạch trơn"? Mối nguy là ở chổ này!Thiên Đồng
-
Hiểu đúng về truyện cổ tích Tấm Cám (Dân trí) - Thời gian gần đây, một số báo trên Dân trí có đề cập đến vấn đề đưa truyện cổ tích Tấm Cám vào chương trình SGK phổ thông, là một sinh viên ngành văn học, tôi cũng đặc biệt quan tâm đến vấn đề này. >> Hãy thay đoạn kết truyện Tấm Cám để phù hợp với hiện tại >> Độc giả đề xuất bỏ truyện Tấm Cám khỏi SGK (ảnh minh họa - nguồn ảnh: internet) Tôi thấy có rất nhiều ý kiến khác nhau bàn luận về việc có nên hay không nên đưa truyện Tấm Cám vào dạy học, rõ nhất là ở bài báo “Độc giả đề xuất bỏ truyện Tấm Cám khỏi SGK” của Dân trí. Đa số độc giả đều đề xuất hoặc là sửa, hoặc là bỏ đi. Có rất nhiều lí do được đưa ra nhưng hầu như đều “đổ tội” cho cô Tấm, rằng Tấm đẹp người, đẹp nết, Tấm không nên trả thù như vậy, rằng Tấm độc ác hơn cả mẹ con mụ dì ghẻ, rằng Tấm đã đi ngược lại với truyền thống đạo lý của người Việt Nam ta. Bản thân tôi đã từng được nghe cô giáo, nghe mẹ tôi kể về câu chuyện này khi còn nhỏ, cũng đã từng thốt lên rằng “sao cô Tấm lại độc ác đến vậy?”. Nhưng cho đến khi học đại học tôi mới hiểu ra rằng ta không thể đổ tội cho cô Tấm, không thể lấy con mắt, lấy tư duy của người hiện đại chúng ta mà quy kết cho chuyện của “ngày xửa ngày xưa” được. Truyện cổ tích thuộc về văn học dân gian, là thể loại phản ánh lời ăn tiếng nói, lối suy nghĩ và tâm tư nguyện vọng của ông cha ta ngày xưa, lí giải theo văn học thì kiểu nhân vật Tấm là kiểu nhân vật chức năng, nghĩa là được nhân dân ta sáng tạo ra để thay mặt cho nhân dân trừng trị những kẻ xấu xa, độc ác, do đó nhất thiết cái kết của chuyện cổ tích Tấm Cám phải diễn ra như vậy, nhân vật Tấm đã thực hiện đúng chức năng mà nhân dân ta “giao phó” chứ không phải là nàng độc ác và đi ngược lại với truyền thống đạo lý Việt Nam như nhiều người vẫn nghĩ. Tuy nhiên, với nhận thức của những học sinh phổ thông thì tôi e rằng các em chưa thể hiểu hết được điều này, có khi lại hiểu sai và dẫn đến “phản giáo dục” như nhiều người đã nói. Do đó, thiết nghĩ rằng sách giáo khoa không nên sửa lại cái kết câu chuyện mà nên thay vào đó một câu chuyện cổ tích khác, kho tàng truyện cổ tích Việt Nam không thiếu những câu chuyện hay, đầy tính giáo dục và đúng “tầm” với các em. Đợi khi lớn thêm một chút, các em sẽ có thể hiểu một cách đúng đắn về truyện cổ tích Tấm Cám, về chức năng trừng trị những kẻ độc ác mà nhân dân ta đã khéo léo giao cho cô Tấm. Đoàn Thị Thu Trang ĐH Duy Tân ==================================== Cũng có một tiếng nói trung dung, nhưng cũng không lý giải được vấn đề truyện "Tấm Cám" Thiên Đồng
-
VẺ ĐẸP CỦA VŨ ĐẠO VÀ THƯ PHÁP (PHẦN I) Sự kết hợp tuyệt vời giữa Vũ đạo và Thư pháp. Một seri tác phẩm kết hợp vẻ đẹp của Vũ đạo và Thư pháp qua sự sắp đặt và thử nghiệm tuyệt vời của nhiếp ảnh gia người Đài Loan Penmanship. Là nghệ thuật tổng hợp theo trường phái multymedia art, trong đó 2 yếu tố chính là Vũ đạo và Thư pháp được thể hiện một cách sinh động và vô cùng hiệu quả. Ông cho biết, để thực hiện việc tạo dáng cho tác phẩm, người mẫu phải treo trên những sợi dây thép rất vất vả trong nhiều giờ đồng hồ liền mới có thể hoàn thành được tác phẩm. Thể chất, trí tuệ tâm hồn con người luôn là nguồn cảm hứng sáng tạo, đồng thời cũng là cái đích mà người nghệ sỹ hướng tới. Quả là một cách biểu diễn, hiện đại đầy sáng tạo để làm nên những tác phẩm độc đáo và hấp dẫn. Xin giới thiệu một số tác phẩm của Nhà nhiếp ảnh Đài Loan Penmanship sưu tầm
-
Thư pháp và họa Nhật Bản: chữ "TỬ" Pictorial Calligraphy. Ko (character for "child") Yi Dynasty Korea, +19th Century, Length 77 cm Photo Courtesy The Japan Folk Crafts Museum
-
Tư liệu tham khảo: TAM MỆNH THÔNG HỘI Nghiên cứu lý luận hàng ngàn năm và thu thập từ thực tiễn không chỉ hoàn thiện hệ thống luận mệnh tứ trụ mà còn tích luỹ lượng lớn các tác phẩm nghiên cứu, nổi tiếng nhất có Uyên hải Tử Bình, Tam mệnh thông hội. Uyên hải Tử Bình khá hoàn chỉnh, là tác phẩm nổi tiếng luận thuật một cách có hệ thống về mệnh lý học tứ trụ do Từ Tử Thăng ở đời Tống dựa trên phương pháp luận mệnh của Từ Tử Bình ghi chép lại, là tác phẩm mở màn cho mệnh lý học tứ trụ. Mệnh lý thám nguyên là tác phẩm của Viên Thụ San đời Thanh. Dựa trên cơ sở của các tác phẩm nổi tiếng trước đó, cuốn sách này đã kết hợp vệc kiểm nghiệm tính hợp lý của phương pháp bát tự trong thực tiễn và tư tưởng tề nước cứu dân. Tam mệnh thông hội là tập đại thành về tứ trụ mệnh lý, là sự tổng kết toàn diện nhất của các trước tác về mệnh lý tứ trụ có từ trước nó. Sách Tam mệnh thông hội được viết thành sách vào đời Thanh. Đây là thời kỳ đỉnh cao của sự phát triển tứ trụ luận mệnh. Bậc công thần khai quốc đời Thanh là Tống Liêm Tăng viết cuốn Lộc hợp biện, lần đầu tiên tổng kết có hệ thống về nguồn gốc lịch sử mệnh lý học của Trung Quốc, sự ra đời của tác phẩm nổi tiếng về mệnh lý này giống như măng mọc sau cơn mưa xuân, khá nổi tiếng và chất lượng khá tối còn có Lưu Cơ (tức Lưu Bá Ôn của khai quốc công thần đời Minh) là sách Trích thiên tuỷ, Tử Bình chân thuyên của Thẩm Hiếu Chiêm, Tam mệnh thông hội của Vạn Dân Anh, Thần phong thông khảo mệnh lý chân tông của Trương Thần Phong, trong đó Tam mệnh thông hội có ảnh hướng lớn nhất, tiếng tăm rộng nhất. Xem lại toàn bộ Tam mệnh thông hội có hai đặc điểm nổi bật nhất: Một là tổng kết lịch sử phát triển hơn 200 năm của thuật đoán mệnh bát tự, chắt lọc được tinh hoa trong đó, sử dụng cách diễn đạt có hệ thống giúp cho hệ thống đoán mệnh bát tự hoàn thiện hơn. Từ đó mà thuật đoán mệnh bát tự đạt đến đỉnh cao của lý luận. Hai là phổ cập. Do nội dung sách phong phú, tuyển chọn thích hợp, trình bày hệ thống, có nhiều ví dụ thực tế nên được mọi người đón nhận, có giá trị cao. Nhìn tổng kết thì Tam mệnh thông hội có 24 quyển: Quyển 1 luận về cơ sở luận mệnh bát tự. Quyển 2 luận về mệnh lý và phương pháp đoán mệnh cơ bản, dề cập đến lý luận và các bước cách sắp xếp niên, nguyệt, nhật, thời trụ để đự đoán đại vận, tiểu vận, lưu niên, mệnh cung và hình xung khắc hại hoá hợp của can chi. Quyển 3 thảo luận về tinh túc thần sát, có cát tinh như thiên nguyệt đức, thiên ất quý nhân, có hung thần như Dương nhẫn, Lục ách. Quyển 4 thảo luận về 10 can toạ chi và nguyệt thời và hành vận cát xung. Quyển 5 giảI thích các thuật ngữ như ấn thụ, thực thần, chính quan, thiên quan, chính tài, thiên tài. Quyển 6: thảo luận về cách cục của bát tự. Quyển 7 đến quyển 9 thảo luận về cách xem tướng mạo tính tình của một người từ mệnh cục, xem bát tự luận Lục thân, và cát hung của mệnh nữ. Quyển 10 đến quỷên 12 là khẩu quyết ca dao luận mệnh, thực chất là tổng kết của mấy quyển trước. Quyển sách này trong quá trình biên tập dựa vào nội dung của “Tam mệnh thông hội” và quan hệ lôgic phân 24 quyển trên thành 3 bộ. “Luận đoán” cát hung trong bộ thứ 2 là được ghi chép từ quyền 4 đến quyển 9, là nội chung chủ yếu của lý luận bát tự tứ trụ. Bất luận là mức độ ảnh hưởng hay nội dung thì Tam mệnh thông hội đều là đi đầu, là tác phẩm toàn diện nhất trong lịch sử mệnh lý học. 1- Luận Hà Đồ Và Hồng Phạm Ngũ Hành -Xưa Bào Nghi là Vua của thiên hạ ,Hà đồ dùng làm Bát quái , cho nên chữ là Càn Khôn Khảm Ly Chấn Tốn Cấn Đoài , đặt Thiên Địa Nhựt Nguyệt Phong Lôi Sơn Trạch các loại tượng . -Hệ từ nói : Trời đất định vị , sơn trạch thông khí , phong lôi tương bạc , thủy hỏa không tương xạ , bát quái tương thác , bát quái thành lệ mà có 24 vị đồng hành ở trong đó , chẳng kịp lấy âm dương tiêu tức mà nghiệm lấy sự biến của bát quái . Giáp thuộc mộc , mộc nạp quái ở càn mà giao với khôn , dùng khôn trên dưới hai hào ,giao hoán với càn trên dưới hai hào hóa thành khảm tượng , giáp tùy khảm mà hóa nên thuộc mộc vậy . Ất vốn thuộc mộc , nạp quái ở Khôn , Khôn đối với Càn , dùng càn lấy hào giữa giao hoán khôn ở giữa nên thành ly tượng , ất chịu ly hóa nên thuộc hỏa vậy . Bính vốn thuộc hỏa nạp quái ở cấn , cấn đối với đoài , lấy hào dưới của đoài giao hoán với cấn hào dưới hóa thành ly tượng , Bính chịu ly hóa nên thuộc hỏa vậy . Đinh vốn thuộc hỏa , nạp quái ở đoài , đoài đối với cấn , lấy hào thượng của cấn giao hoán với hào thượng của đoài hóa thành càn tượng , Đinh chịu càn hóa nên thuộc kim vậy . Canh vốn thuộc kim , nạp quái ở chấn , chấn đối với tốn , lấy hào dưới của tốn giao hoán với hào dưới của chấn hóa thành khôn tượng , Canh chịu khôn hóa nên thuộc thổ vậy . Tân vốn thuộc kim nạp quái ở tốn , tốn đối với chấn , lấy hào trên của chấn giao hoán với hào trên của tốn hóa thành khảm tượng , Tân chịu khảm hóa nên thuộc thủy vậy . Nhâm vốn thuộc thủy , nạp quái ở ly , ly đối với khảm , lấy hào giữa của khảm giao hoán với hào giữa của ly hóa thành càn tượng , Nhâm chịu càn hóa nên thuộc kim . Quý vốn thuộc thủy , nạp quái ở khảm , khảm đối với ly , lấy hào giữa của ly giao hoán với hào giữa của khảm hóa thành khôn tượng , Quý chịu khôn hóa nên thuộc thổ vậy . Đây là 8 can biến ở nạp quái , như hai hào thượng hạ của Càn Khôn mà giao hoán , thủ tượng có nghĩa Bĩ Thái , cho nên nói Thiên Địa định vị . Chấn Cấn dùng hào thượng giao nơi Tốn Đoài . Tốn Đoài dùng hạ hào giao với Chấn Cấn , thủ tượng có nghĩa Hàm Hằng Tổn Ích nên nói Lôi Phong tương bạc . Sơn trạch thông khí , lấy hào giữa của Ly giao với Càn Khôn , Càn Khôn lấy hào hạ giao với Khảm Ly , thủ tượng là Ký tế Vị tế , nên nói Thủy Hỏa bất tương xạ là vậy . Bát quái có biến có không biến , Càn Khôn là gốc ư , Kim thượng mà không biến thì âm dương là Tổ tông mà các quái là Phụ Mẫu vậy , thối thân mà dừng nơi sáng , cao lão mà không biến vậy , nên Khảm Ly Chấn Đoài vị nơi tứ chánh . Kim Mộc Thủy Hỏa mà không biến thì dùng Tí Ngọ Mão Dậu 4 vị vượng địa , tuyên bố đắc lệnh tứ thời mà khí hóa thành vậy , cho nên bất biến vậy . Cấn Tốn dùng biến thì Cấn thổ đổi vị nơi Khảm Chấn , ở Đông bắc , suy ở Sửu , bịnh ở Dần , nghỉ nơi thay vị thì tự nhiên thành sơn mà hóa mộc vậy . Tốn vốn đổi vị ở Chấn Ly Đông Nam , suy ở Thìn bịnh ở Tỵ không thể tự lập , trở về quy thủy ở Thìn là mộ địa , gồm với Thìn là thủy vậy . Hợi vốn thuộc thủy do kim mà sanh , thừa thay kim mà lập nên Hợi thuộc Kim vậy . Dần vốn thuộc mộc do thủy mà sanh , nương theo thủy mà lập nên Dần thuộc thủy . Tỵ vốn thuộc hỏa do nơi mộc mà sanh , tùy Chấn mà suy , thay Chấn mà lập nên Tỵ thuộc Mộc vậy . Thân vốn thuộc Kim , thủy sanh nơi Thân , Kim giúp Thủy thế nên Thân thuộc thủy vậy . Thìn Tuất Sửu Mùi trung , 5 phương 5 thổ thần phân làm tứ quý , là chủ của sự tạo hóa đúc nặng , có cái chất hậu tải ( chở đầy) , phương mộc có thể biến , do thổ mà sanh mộc , phụ nơi thổ và chiếm một nữa của thổ là thủy , thủy gúp cho thổ tịnh , Thìn Tuất là dương nên động nên thuộc Mộc ; Sửu Mùi là âm tịnh vậy , nên thuộc Thổ . Do sự hóa khí nơi ngũ hành mà thủ , thống suất các loài , lợi cho Trời Đất giao mà sanh vạn vật , trên dưới giao mà thành đức nghiệp , nam nữ giao mà đồng chí khí . Xưa đi nay đến chưa hề không giao hợp mà có thể thành . Sự tạo hóa là vậy . Suy bịnh lui về chưa hề không tự tiếp tục đổi thay mà thường chuyển hóa cái cơ vận vậy . Cho nên Hồng Phạm đại ngũ hành sở dỉ nói : Ất Bính Ly Nhâm là Viêm hỏa . Càn Hợi Đoài Đinh theo giống cây . Quý Sửu Khôn Thân Mùi giá sắc . Chấn Cấn tứ vị khúc trực trang . Giáp Tí Giáp Dần Tốn tân địa . Thìn TUất giai đồng nhuận hạ hành . Thường xem nhân mệnh như gặp Giáp Ất Đinh Canh Tân Nhâm Quý Tí mà cư nơi Càn Cấn Tốn Khôn thì phải lấy sở biến mà luận vậy . Với thập can hóa khí , lục thập nạp âm nạp giáp đều hợp lại mà tham xét , không thể chỉ dùng Hà Đồ chánh ngũ hành mà luận mệnh rồi nói pháp của ta là vậy . Đời nầy khi nói về Mệnh thì phần nhiều không chuẫn xác vậy. 2 - Luận Thiên Can Âm Dương Sanh Tử - Hoặc hỏi trong 10 can có phân âm dương cương nhu sanh tử không ?. - Đáp rằng :Trong 10 can có 5 dương 5 âm .Dương thì cương mà Âm thì nhu . Trong Dịch nói phân âm phân dương để cương nhu thay đổi vậy . Còn phân sanh tử tức là mẫu sanh tử . Tử thành thì mẫu lão,tử . Cái lý thật tự nhiên. Phú rằng : Dương sanh âm tử . Dương tử âm sanh. Tuần hoàn thuận nghịch. Biến hóa là vậy . * Giáp mộc đứng đầu trong 10 can , chủ tể của tứ thời , sanh dưỡng vạn vật . Tại Thiên là Lôi là Long .Tại Địa là Lương là Đống nên gọi Dương mộc . Khi Lộc đến Dần , thì Dần là Mộc rời Thổ , tức căn rễ đã đoạn đứt mà cành lá cũng đã tuyệt nên gọi là Tử Mộc , Mộc tử thì cứng vậy ,lấy búa rìu mà chặt chẻ thì thành được khí vật . Trường sanh ở Hợi , Hợi là nước sông hồ ao đầm gọi là Tử Thủy , ngâm tẩm lâu năm thì không thể hư hoại , giống như cây sa cây thung , ở nơi thủy thì thường chắc chắn , nếu rời thủy mà lên nguồn gặp Quý thủy, Quý thủy là nước hoạt động là nước mưa giữa trời đất , Mộc bị khi khô khi ướt dễ thành khô mục tức năng sanh Hỏa , Hỏa vượng thì Mộc phải thiêu vậy , tức có cái họa khói bay lửa cháy vậy. Còn Ngọ thuộc Ly hỏa , hỏa nhờ mộc sanh , mộc là mẹ của hỏa, hỏa là con của mộc , con vượng thì mẹ suy, có không hết lý nên Giáp mộc Tử ở Ngọ . Kinh nói : mộc không dến Nam đúng là vậy . Lại nói Giáp là dương cương xuẩn mộc , nguyên không có căn rễ nhành lá , nếu thành khí mà dùng tất cũng nhờ nơi kim , núp giấu để không hư hoại tất cũng nhờ nơi thủy , được hỏa đắc phối thì có tượng văn minh . Dùng hỏa quá nhiều mà lại gặp Nam phương thì hóa thành than khói dẫn đến tai hại vậy . Do chỗ Giáp mộc không lấy Xuân Thu mà định sướng khổ , đụng tới vật mà biến hóa nên cũng không có định hình nên phải xem kim hỏa thủy thế nào vá lại xem hợp hóa thế nào chứ không thể chấp nhứt mà luận vậy . * Ất mộc kế tiếp sau Giáp , phát dục vạn vật , sanh sanh không dứt , tại Thiên là Phong , tại Địa là thọ (cây) nên là âm mộc . Lộc mà đến Mão , Mão là Thọ mộc (cây) nên rễ sâu cành tốt , hoạt mộc thì mềm vậy . Sợ dương kim nghiền chặt và sợ mùa Thu thì mộc gãy điêu linh , thích có nhuận thổ để bồi đắp cho rễ , muốn được hoạt thủy để giúp tươi lá cành , hoạt thủy tức là quý thủy vậy , tức là nước mưa vậy . Ở đất là dòng nước chảy thấm vậy , như đất canh tác làm cho đâm chồi . Lộc đến tại Ngọ thì lục dương tiêu tận , một âm lại sanh nên hoa lúa sanh nơi thời Ngọ và Ất mộc thì sanh nơi đất Ngọ . Tháng 10 là kiến Hợi , Hợi là thuần âm tư lịnh .Nhâm Lộc đến Hợi là đương quyền , tử thủy phiếm lạm , thổ mỏng gốc hư mất sự bồi dưỡng cho nên Ất mộc Tử ở Hợi. Kinh nói : Thủy phiếm thì mộc trôi nổi tức là vậy . Lại nói : ẤT là mộc có cành lá tươi tốt rất thích cùng dương hòa chiếu thì được vinh quang , âm lạnh thì không lợi , thủy nhiều thì trốc lở gốc , kim vượng thì chặt đứt mà buồn giận . Như than đã suy mà Hỏa nhiều lại đến phương Nam thì họa không ít , hành về Tây thì thổ trọng càng hại cho than , không hay mà theo thì họa rất lớn . Bởi hoạt mộc tức là mộc liên căn (liền rễ ) vậy. Sao lấy Đống Lương mà ví . *Bính hỏa trông đẹp chiếu khắp, tại Thiên là nhựt là Lôi , tại Địa là lư là Dã ( đúc) , đó tức dương hỏa , Lộc tại tỵ , Tỵ là hỏa của lò đúc nên là Tử hỏa , là cương hỏa vậy , thích có tử mộc để phát sanh lửa , sợ Kim Thổ che đậy ánh quang .Tử mộc là Giáp mộc vậy . Giáp Lộc tại Dần , Dần là nơi dương mộc , Mộc thạnh thì Hỏa sanh , ẩn nơi mộc thạnh , nếu người không dùng thì không thể phát sanh , nên ngũ dương đều xuất ở tự nhiên mà làm tiên thiên , còn ngũ âm đều xuất ở nhân sự mà làm hậu thiên . Bính hỏa sanh ở Dần lý thật rất rõ như Hỏa của Thái dương , từ phía Đông mà lên đến Tây thì hết , Tây thuộc Đoài mà Đoài là Trạch , Thổ đã sanh Kim , khí Kim mà thạnh thì che mất ánh quang của Bính hỏa , không thể phát huy thì sao mà không tối được . Cho nên Bính Hỏa sanh ở Dần mà tử ở Dậu vậy . Kinh nói : Hỏa không hướng Tây là vậy . Lại nói : Bính Hỏa tượng là Thái Dương , trên dưới hóa quang , chẳng nơi nào không chiếu nhưng không lấy Mộc trôi nổi làm mẹ vì không thể sanh được lửa ; không nhận Thổ bị thấp thủy làm con , vì dương hỏa không thể sanh vậy . Nếu gặp sông hồ tử thủy dù không hợp không xung thì cũng nỗi ba đào mà xung khích thôi , đây thuộc loại khắc hỏa nên phải kỵ vậy , là loại phồn hoa không thực , Thủy không thể sanh Hỏa mà lại còn làm tắt ánh quang của Hỏa , có nghĩa như ngũ tinh Thái Dương mà dùng mộc khô thì khó vậy . * Đinh hỏa kế sau Bính , là tinh túy của vạn vật , có tượng văn minh , tại Thiên là tinh tú , tại Địa là đăng hỏa gọi là âm hỏa . Lộc đến Ngọ , đứng đầu lục âm , Bính có Ất mộc năng sanh Đinh hỏa . Ất là hoạt mộc Đinh là hoạt hỏa , hoạt hỏa thì hỏa nhu vậy . Đinh thích sanh nơi ất mộc tức âm sanh âm vậy , có nghĩa như người đời dùng dầu để đốt đèn vậy , dầu lấy Ất mộc mà thành vậy . Đến Dậu thì tứ âm tư quyền nên Đăng hỏa được huy hoàng , tinh tú được sáng lạng cho nên Đinh sanh ở Dậu , đến đất Dần thì tam dương đang hợp dương hỏa mà sanh và âm hỏa thì lui , như mặt trời lên ở Đông thì tinh tú ẩn mất , đèn dù có đỏ cũng không phát ánh quang nên Đinh Sanh ở Dậu mà Tử ở Dần vậy . Kinh nói: hỏa sáng thì diệt là vậy . Lại nói : Đinh hỏa âm nhu cần phải đắc thời gặp cuộc thì mới có thể huy hoàng sáng lạng , tuy gặp loại kim ngoan độn cũng có thể đúc luyện . Nếu thất thời mất cuộc thì quang huy biến mất mà khói cũng không còn thì dù loại kim nhỏ nhặt cũng không thể chế được , nhưng mộc khô dù nhỏ cũng đủ để cho hỏa sanh còn mộc ướt dù nhiều cũng khó mà làm cho hỏa phát . Cho nên cần xét nơi chỗ mạnh yếu chứ không nên chấp một phía . * Mậu thổ : lúc hỗn mông chưa định thì đứng giữa một mặt , đến trời đất phân định thì chở che vạn vật , trụ ở trung ương mà tán ở tứ duy , tại thiên là vụ , tại Địa là Sơn gọi là dương thổ . Lộc ở tại Tỵ , tỵ là hỏa của lò đúc , rèn luyện mà thành khí vật , gõ thì có tiếng , tánh thì cương mãnh khó mà xúc phạm được , thích dương hỏa tương sanh , sợ âm kim cướp khí . Dương hỏa tức Bính hỏa , Bính sanh ở Dần , Dần thuộc Cấn , Cấn là sơn , sơn là cương thổ tức Mậu thổ vậy , nhờ Bính hỏa mà sanh thôi , đến nơi đất Dậu , Dậu thuộc Đoài kim nên bị đoạt hao khí thổ , bởi kim thạnh thì thổ hư , mẫu suy tử vượng , hơn nữa kim lại đánh thạch tan thì làm sao mà thọ được , nên Mậu thổ Sanh ở Dần mà Tử ở Dậu . Kinh nói : Thổ mà hư thì đổ tức là vậy . Lại nói : Mậu thổ sâu dày , cái tượng như tường thành , cần sanh ở quý nguyệt và lại cần cành dưới thông rễ thì mới chấn được song biển mà không tiết , nếu trên dưới kèm hợp , tức hình được kiên cố , không bị tiết lậu ; nếu than mà theo thủy mộc hư nhược thì cái thế bị khuynh nguy , không khỏi cái họa băng lở . Nếu Thổ bị thất thời thì đại kỵ nhiều Kim làm tiết lậu , như tường thành đã có thì không nên để Mộc tương thông , thích đi về Đông Nam , Nếu trước đã vượng có Ấn mà lại đến đất nầy tức hỏa hóa sanh thân thì trở thành họa vậy . * Kỷ thổ kế tiếp sau Mậu , tại Thiên là nguyên khí , tại Địa là chân thổ , thanh khí bay lên xung hòa với Thiên Địa , trược khí hạ xuống chúng sinh vạn vật gọi là âm thổ , Thiên Địa Nhân tam tài đều không thể thiếu thứ nầy . Thổ ở Càn Khôn cùng một mưu chước , nếu mất Âm Dương thì làm sao phối ngẩu do đó ở tại tứ hành mà không ở tại tứ thời và chỉ ký vượng mà thôi , đó là chân thổ vậy . Thích Đinh hỏa sanh mà ghét bị dương hỏa luyện . Lộc tại Ngọ , Đinh hỏa ở trong Ngọ năng sanh ra Kỷ thổ , bị Ất mộc cướp mất cái khí tài bồi nên đến đất Dậu thì Đinh hỏa mới sanh , Đinh hỏa đã sanh thì Kỷ thổ cũng năng sanh vậy , đến Dần dụng sự thì Ất hỏa tư quyền làm sáng lạng cho Kỷ thổ mà thành từ thạch đánh mất cái khí trung hòa , lý sao mà không tổn , cho nên Kỷ thổ Sanh ở Dậu mà Tử ở Dần . Kinh nói: Hỏa khô thì thổ rách vậy . Lại nói : Kỷ thổ dày rộng có tượng như ruộng nương , không quý nơi sự sanh phò tụ hợp mà chỉ thích hình xung thì hữu dụng , đây là thể chắt sinh vật , nếu bị thất thời lệnh mà lại thiển bạc thì không những khó thi triển cái sức tư cơ (làm ruộng) mà còn không chôn được kiếm kích của kim , nếu như lại kiêm hành nơi kim thủy vượng thì thân bị nhu nhược rất là bất lợi , nếu gặp được hỏa thổ sanh thành thì lại đâm chồi sanh lộc vậy. * Canh kim nắm Thiên Địa , quyền tiêu sát , chủ sự binh biến của nhân gian . Tại Thiên là Phong sương , Tại Đia là kim thiết nên là dương kim . Lộc đến ở Thân , Thân là cương kim , thích Mậu thổ sanh , sợ Quý thủy làm cho yếu . Trường sanh ở Tỵ , Mậu thổ ở Tỵ năng sanh Canh kim tức dương sanh dương vậy , Tỵ là lò hỏa nên Canh kim được thành loại chung đỉnh , gõ thì có tiếng , nếu gặp thủy thổ chôn trầm thì chẳng có tiếng vậy , đây gọi là kim thật vô thanh . Đến đất Tí là nơi thủy vượng , Kim hàn THủy lạnh, con vượng mẹ suy nên bị họa trầm nhược làm sao sanh lại được , nên Canh kim Sanh ở Tỵ mà TỬ ở Tí . Kinh nói : Kim trầm Thủy để là đây vậy . Lại nói : Canh kim ngoan độn được Hỏa chế mà thành khí vật , Kim thành khí vật mà gặp đất hỏa thì trở thành bị hoại . Hạ sanh thì không căn lại hành ở Đông Nam thì dù nung nấu không ngừng cũng chẳng thành khí . Sanh Thu không hỏa lại hành ở Tây Bắc thì trừng thanh thối thế mà tự được quang sáng , nếu bị trầm nơi đáy nước thì chẳng còn lúc xuất dụng , Kim lại trở thành thọ thương nơi Thủy ; đến như nếu dùng bạc thiết mà chặt cây rừng thì chẳng những không chặt được Mộc mà ngược lại còn bị Mộc làm cho tổn thương ; cho dù Thổ nặng tạng Kim mà không hình xung khắc phá thì Kim cũng suốt đời bị mai một mà chẳng còn mong hữu dụng vậy . * Tân kim : kế sau Canh , là đứng đầu ngũ kim , đứng trước bát thạch. Tại Thiên là nguyệt , Nguyệt là Tahi1 Âm tinh . Tại Địa là Kim , Kim là khoáng sản của sơn thạch , gọi là âm kim . Lộc ở Dậu , trong DẬu có Kỷ thổ năng sanh Tân kim tức âm sanh âm vậy , đó là nhu kim , là thái âm vậy . Đến nơi trung thu Kim Thủy tương đình hội hợp hàm quang vien dung giao khiết . Thiệu TỬ có nói : 15(rắm) tháng 8 là ngoạn thiềm quang vậy . Trường sanh ở Tí , Tí là nơi Khảm thủy , KHảm có một hào dương ở giữa thuộc Kim , ngoài ra có hai hào âm thuộc Thổ , Thổ năng sanh Kim , con ở trong thai mẹ nên chưa rõ cái thể , được Tí thủy gạn đãi lớp phù sa mà bày ( lộ) cái sắc , đây là THủy tề cho Kim sáng , sắc quang rõ ràng vậy . KHi đến đất Tỵ , tỵ là lò hỏa , đặt Tân kim luyện thành tử khí , cũng bị Mậu thổ ở trong Tỵ chôn mất hình , Kim không biến hóa được thì làm sao sanh lại được .Cho nên Tân Kim Sanh ở Tí mà Tử ở Tỵ . Kinh nói: Thổ trọng chôn Kim là đây vậy . Lại nói : Tân kim ẩm ướt chẳng phải ngoan độn cứng cáp , nếu gặp hỏa nóng đúc nấu thì tánh chat bị hại nên khó mà thành vật dụng đẹp được , chỉ nên được Thủy Thổ phò giúp ưu nhu hòa hợp thì mới nhuận được cái thể vậy . Gặp hỏa quá nóng thì về Tây Bắc tránh hỏa đi để kim được còn . Như Kim mà quá lạnh thì cũng cần Bính Đinh để dung hòa Kim cho hết lạnh . Nếu tọa Lộc không căn tức là nơi vượng thân , dù có gặp Thổ dày cũng không bị chìm mất cho nên chẳng lấy dương Kim mà so vậy . *Nhâm thủy : thích dương Thổ để giúp cho bờ đê , sợ gặp âm Mộc lấy mất khí . Tại Thiên là vân ( mây) , tại Địa là trạch ( đầm) , gọi là dương thủy . Lộc tại hợi .Hợi là nước ao hồ tồn đọng nên là tử thủy, tử thủy tức là cương thủy vậy, nhờ canh kim mà sanh, canh lộc đến thân năng sanh nhâm thủy bèn là khí ngũ hành phụ dưỡng, đến nơi đất mão, mão là nơi cây cối hoa quả, mộc vượng ở mão tức thường khắc thổ, thổ mà hư thì băng lở cho nên đê bờ bị sụp đổ khiến nhâm thủy bị tiết tháo chảy khắp bốn bề, chảy mà không lui, lại bị âm mộc cướp khí thì làm sao mà còn được . Cho nên nhâm thủy sanh ở thân mà tử ở mão vậy Kinh nói: Tử thủy hoành lưu là ấy vậy. Lại nói: Nhâm thủy hoạt đãng là nước có nguồn, gồm trăm suối mà chảy khắp nơi, nhờ thổ để ngăn phòng, nếu can chi không thổ tức bị phiêu lưu tràn ngập, thân suy mà gặp nhiều hỏa thổ thì bị hao nguồn tắt mạch. Nhâm thích về Nam nên lấy Mùi Ngọ là thai dưỡng tức nơi lộc hòa hoãn, trường sanh quy lộc đừng quá Thân Hợi là nơi thống tống hội nguyên, thủy được nơi quy về vậy, nếu tài nhiều thân nhược mà đén đây cũng được tập phước, nếu thân vượng tài ít mà gặp đấy thì trở thành tai ương, dù thiếu niên cường tráng cũng không thể thắng được vậy. * Quý thủy : kế sau Nhâm , là một vòng khí âm dương của thiên can , hình thành ở nơi cuối mà lại trở thành từ đầu nên là loại thủy thanh trược chưa phân tán khắp bốn phương , có sự nhuận hạ cho thổ , giúp cho vạn vật . Tại Thiên là vũ lộ ( nước mưa) , tại Địa là tuyến mạch , gọi là âm thủy . Lộc ở tại Tí , Tí là nơi âm cực dương sanh , là nơi Tân sanh mà Canh tử .Quý là hoạt thủy tức nhu thủy vậy , thích âm kim sanh , sợ dương kim thì trì trệ , muốn âm mộc thông rễ hòa với âm thổ , âm thổ mà thông được thì địa mạch được thông suốt . Tháng 2 kiến Mão là cây cối hoa quả , Mộc vượng thì Thổ hư tức Quý thủy có thể thông đạt , đến tại Thân là tam âm dụng sự ứng quẻ Bĩ , Thiên Địa không giao hòa , Vạn vật không thông , Khôn thổ ở trong Thân Canh kim trở thành tường lũy khiến cho Quý thủy không thể lưu thông và bị đọng ở ao hồ không thể phát huy được thì làm sao mà tái sanh , nên Quý thủy sanh ở Mão mà tử ở Thân . Kinh nói : Thủy không lưu Tây là đây vậy . Lại nói Quý thủy vũ lộ nhuận âm trạch vậy , nếu gốc mà thông nới Hợi Tí thì được danh lợi , Lưu chảy mà thành giang sông , trụ mà không khảm khôn mất mộc sanh vượng thì tức thân phải yếu , cuộc mà có tài quan thì tuy có sự giúp vặt nhưng cũng không nên gặp quá nhiều , như Thân Tí Thìn toàn là thủy quy tụ một nhà Ám cung với Dần Ngọ Tuất hỏa trở thành Thượng cách . Nếu biết dùng Dần Ngọ Tuất hỏa thì phải trong ngoài không yếu mới tốt , hoặc sanh trọng hạ thì đắc dụng , Tài Quan không mất lại dựa vào cung thì chủ Đại Phú quý , vận đạo mà qua Tây Bắc thì không ngại thái quá . Luận rằng : Cái lý trường sanh ngũ hành cũng đồng với vạn vật , giống như ngày mới bắt đầu thì ánh quang mới thấy , đến Ngọ Ly cung thì ánh quang rất nhiều ,....., đối với nhân sanh thì cái lý cũng tương tự ,từ nhỏ đến lớn đến già chết vậy , lúc mới sanh có khóc cười đến lớn chết có hiền ngu , Vạn vật cũng như vậy . Giáp mộc sanh ở Hợi , hợi lịnh thuộc thủy nên Giáp mộc cư vậy , Mộc vượng ở Xuân đến Dần là Lâm quan quy Lộc giáp mộc đắc địa , đến Ngọ thì tử . Bính hỏa sanh ở Dần , Dần linh thuộc mộc nên Bính hỏa cư vậy , Hỏa vượng ở Hạ đến Tỵ là Lâm quan quy Lộc Bính hỏa đắc địa đến Dậu thì tử . Canh Kim sanh ở Tỵ , Tỵ Thân Mậu thổ Canh kim cư , Kim vượng ở Thu đến Thân là Lâm quan quy Lộc Canh kim đắc địa đến Tí thì tử . Nhâm thủy sanh Thân , Thân lịnh thuộc Kim nên Nhâm thủy cư, Thủy vượng ở Đông chí , Hợi là Lâm quan quy Lộc , Nhâm thủy đắc địa đến Mão thì tử . Mậu thổ sanh ở Dần , trong Dần có hỏa Mậu thổ sanh , thời thuộc tam dương , thổ là mở mật để cho vạn vật phát sanh tức Mậu thổ nơi Dần vậy , Thổ vượng ở tứ quý , Hỏa và Thổ như mẹ con tương sanh cho nên Mậu cũng theo Bính Lâm quan quy Lộc ở Tỵ và Kỷ thì theo Đinh Lâm quan quy Lộc ở Ngọ , Mậu thổ sanh ở Dần Kỷ thổ sanh ở Dậu vậy . Nếu lấy Mậu sanh ở Thân ,Kỷ sanh ở Mão thì sao không lấy Nhâm Mậu quy Lộc ở Hợi , Quý Kỷ quy Lộc ở Tí . Người sau vọng làm nghỉ thổ ca có câu Mậu Kỷ tuyệt ở Tỵ , lấy Mậu sanh ở Thân , Dậu là Mộc dục , đến Tuất là Quan Đới , âm dương cách ngăn thật quá sai lầm vậy . Hoặc nói : Trường sanh ngũ hành có mẹ rồi mới có con , tức là nói qui mẫu thành thai vậy .Một thổ độc hành thì dùng nơi chỗ hậu tải sâu dày , thổ phân thể thì dùng mà cư giữa thì không dùng , thổ phân tán ở tứ duy và đều vượng ở tứ quý là thổ đáng dùng vậy , thể thổ sanh ở Tỵ , nương Lộc của phụ mẫu mà sanh ở Thân , nên Thủy Thổ sanh ở Thân , đây là thuyết của nhà âm dương ; Thổ sanh ở Tỵ , thuyết của thầy thuốc . Xét sách ngũ tinh thì Thân là cung âm dương nên Thủy Thổ đều sanh ở Thân , Khôn vị thủy thổ nguyên là không tương ly mà thổ tùy theo nguồn thủy , nói cũng là có lý , tứ hành mà có nhất sanh , chỉ 1 thổ trường sanh ở Dần mà lại còn trường sanh ở Thân , một vật mà 2 nơi sanh , dùng phương Cấn thổ kéo qua Khôn Tây Nam mà được bạn , nên nói lợi hưởng hồ trung vậy . Tử viết Khôn thì trọng hậu , tích thổ thành công nên thổ sanh ở đây vậy . Lại nói Mậu thổ sanh ở Dần , gởi Lộc nơi Tỵ tức nghĩa là theo mẫu mà được nhà vậy . Dùng thổ không ở chánh vị sanh vật nhiều phương sao lại nghi ngờ vậy . Lại xét Chu thị làm phép âm dương có nói : Ất mộc sanh ở Ngọ , Quý thủy sanh ở Mão , Tân kim sanh ở Tí , Đinh hỏa sanh ở Dậu để làm dương tử âm sanh mà không biết Đông chí là thời vượng của Tí thủy , Xuân phân là thời vượng của Ất mộc , Hạ chí là thời vượng của Đinh hỏa , Thu phân là thời vượng của Tân kim , mà Khảm Ly Chấn Đoài là chánh vị của Tí Ngọ Mão Dậu , vị tức chánh thời , ở thời thì vị rất diệu dụng , vậy sao lại gặp sanh nơi chỗ tử tuyệt . Hoặc nói đúng là như vậy thì Ất mộc sanh ở đâu , như nói là tại hợi thì trong Hợi chỉ có Giáp vậy thì Giáp sanh ở đâu , như nói tại Mão thì trong Mão chỉ có Ất , thử biện lấy Hỏa Thủy Thổ Kim , rằng âm dương tương làm một thể . Khổng tử nói : Thái cực sanh Lưỡng nghi . Chu tử nói : Dương biến Âm hợp mà sanh Thủy Hỏa Mộc Kim Thổ . Chân tử nói : vạn vật đều đủ một thái cực . Đây là 3 lời nói đều là vén buộc ngũ hành tức cái thuyết vạn vật đều đủ một thái cực , tức là mộc cũng đủ một thái cực . Sao biết vậy?. Tức là thuyết Thái cực sanh Lưỡng nghi thì phân ra Giáp Ất , mà Giáp là dương nên động trước , Ất là âm nên tịnh sau , có thể hiểu vậy. Tức cái thuyết dương biến âm hợp , Giáp là nhứt biến mà Ất là nhứt hợp sau đó mới sanh mộc , chẳng nói Giáp là nhứt mộc mà Ất lại sanh riêng nhứt thủy vậy . Giáp Ất tương tu mà làm nhứt mộc , thì Giáp chắc không cần vượng ở Mão mà tự Mão không thể không làm Ất vượng ở sau ; Ất cũng bất tất sanh ở Hợi mà Hợi tự không thể không là Giáp sanh ở trước , quyền mà đến Bính Đinh tương tu là Hỏa , Mậu Kỷ tương tu là Thổ , Canh Tân tương tu là Kim , Nhâm Quý tương tu là Thủy , sao không hiểu vậy ư . Chu tử nói : Âm khí lưu hành tức là dương ,dương khí ngưng tụ thì là âm chẳng phải có hai vật tương đối vậy . Thái thị nói : Đông phương Dần Mão mộc , Thìn thổ sanh ở Hợi ; Nam phương Tỵ Ngọ hỏa , Mùi thổ sanh ở Dần ; Tây phương Thân Dậu kim ,Tuất thổ sanh ở Tỵ ; Bắc phương Hợi Tí thủy ,Sửu thổ sanh ở Thân .Lại nói : Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ đều có một âm một dương , như Giáp đúng là dương mộc mà Ất đúng là âm mộc , Ất lấy chất mà nói , Giáp lấy khí mà nói , âm thì chủ hợp , thường tụ liểm thì thành tựu , Ất là như vậy , dương thì chủ mở , thường phát sướng huy hoàng , Giáp là vậy . Giáp là vóc của mộc , Ất là căn của mộc . Bính hỏa là sao, Đinh hỏa là ánh sáng . Mậu thổ là cương, Kỷ thổ là nhu . Canh kim là chất , Tân kim là nhọn . Nhâm thủy là nguồn , Quý thủy là chảy . Vậy là Giáp ẤT một mộc mà chia âm dương , chẳng phân tử mộc hoạt mộc rẻ ra làm 2 vậy , đã là 1 mộc thì đều đồng sanh đồng tử cho nên người xưa chỉ nói có tứ đại trường sanh mà thôi . Ngày nay phân âm dương thành 2 , cho nên có dương tử âm sanh , dương sanh âm tử mà biện vậy . Xét Trần Bác nói : Giáp cây Ất cỏ , Bính lửa Đinh khói , Mậu đất Kỷ cát , Canh kim Tân đá , Nhâm thủy Quý tuyến ; đấy cũng phân mà làm 2 vậy , nếu không phân thì Quan Sát Thực Thương Ấn thụ Kiêu thần Kiếp bại bằng nhau . Sao có một vật mà lại có 2 tên và cát hung họa phước lại không tương đồng . Muốn xét Mệnh thì phải lấy thuyết trước mà khán vậy. 3- Luận Địa Chi - Dụng của Địa chi không giống như Thiên can , động tịnh không đồng , vuông tròn cũng khác nhưng ngũ hành sở thuộc thì cùng một mà nơi sở xứ cũng bất nhất . Như niên ở “ngọ” thì lấy tại “ ngọ” mà luận , tại nguyệt thì lấy ở nguyệt mà luận , tại nhựt thời thì lấy nhựt thời mà luận . Nên âm dương khinh hay trọng , cương hay nhu làm sao mà mà chấp nê nơi một thể?. Nay đơn cử lấy nguyệt làm chủ nơi sở tạng , việc sở dụng thì cần gặp thần nào và sở hao sở kị thuộc vào hệ nào , thường phải cân nhắc so lường nơi Tứ trụ xem sâu cạn thế nào rồi sau mới dùng vậy. * Tí : đứng đầu 12 chi , là thủy ở khe suối sông biển , là Mậu thổ vượng địa , nhưng phải qua kỳ Đại tuyết có một dương lai phục thì mới phục lại được ; Tân kim là nơi sở sanh và cũng phải nơi dương về cho thủy ấm rồi sau mới sanh được vậy . Tương xung với Ngọ , tương hình với Mão , Tam hợp với Thân Thìn ; nếu Thân Tí Thìn toàn hội ở thủy cuộc tức sẽ thành sông biển mà ba đào nổi sóng vậy . * Sửu : tuy hàn đông mà lại sợ có băng tuyết , chỉ khi thiên thời chuyển qua 2 dương là lấy sự ấm áp của Kỷ thổ trong sửu thì năng sanh được vạn vật ,Tân kim là nơi dưỡng sao chỉ là sâu chứa , gặp Tuất thì hình , gặp Mùi là xung , nơi khố thì rất cần hình xung , không phải là vô dụng . Gặp Tỵ Dậu là tam hợp hội khởi kim cuộc , nếu nhân mệnh sanh ở tháng Sửu mà thời và nhựt gặp nhiều thủy mộc tất đi ngang qua đất Tốn Ly mà phương thổ không suy vậy . * DẦn : kiến ở Xuân , khí tụ tam dương có Bính Đinh hỏa sanh , Dần hình Tỵ , Tỵ hợp Thân và vượng mà là quý khách , vượng ở Mão khố đồng loại với Mùi nên cùng một nhà , đến Ngọ thì hỏa được quang sáng mà thành siêu phàm nhập thánh , gặp Thân thì Dần bị xung và bị phá Lộc , nếu tứ trụ có nhiều hỏa thì không nên vào Nam phương đất hỏa . Lời rằng : Mộc bất Nam bôn là vậy. * Mão : mộc trọng Xuân khí được phồn hoa , tuy dùng kim thủy nhưng không nên thái quá , nếu can đầu mà Canh Tân nhiều thì địa chi không nên gặp Thân Dậu sợ bị cái hại phá chặt , còn địa chi gặp nhiều Hợi Tí thì không nên gặp can đầu Nhâm Quý sợ bị phiêu lưu thương tổn . Gặp Dậu thì xung , mộc bị rơi đổ , gặp Hởi Mùi thì hợp , mộc tất thành rừng , nếu thời nhựt quy ở kim và đại vận lại hướng về Tây thì nhiều họa vậy . * Thìn : kiến Quý Xuân là nước bùn ẩm thấp và là gốc của vạn vật đều nhờ sự bồi dưỡng ở đây . Giáp đến đây thì tuy suy nhưng có Ất là dư khí . Nhâm đến đây tuy mộ nhưng có Quý là hoàn hồn , gặp Tuất là mở được vật trong khố , nếu có 3 Tuất trùng xung phá môn , không có nhựt thời tốt lạ gặp nhiều thủy thổ mà vận lại hướng đến Tây Bắc thì Thìn thổ không thể còn được vậy. * Tỵ : ở đầu Hạ , hỏa được thêm quang , là tận cùng lục dương , Canh kkim ký sanh do nhờ ở mẩu Tuất , Mậu thổ Quy Lộc và tùy theo mẹ hỏa , gặp Thân thì hình mà trong hình lại có hợp nên thành vô hại , gặp Họi thì xung , xung thì phá nên rất dễ tổn , nếu vận lại hành về phía Đông Nam sanh phát thì thế lực thành được mạnh mẽ vậy . * Ngọ : tháng viêm hỏa , chánh thăng nhân trung khí tức có một âm sanh vậy , Canh đến đây thì vô dụng , Kỷ đến đây là quy viên , gặp Thân Tí tức là chiến khắc , gặp Dần Tuất là phát quang minh , vận hành ở Đông Nam chính là nơi thân cường , nếu vào Tây Bắc tức hưu tù tang hình vậy . * Mùi : ở Quý Hạ , âm nhiều và hỏa suy dần , trong mùi có Ất mộc , có Đinh hỏa là tạng quan tạng ấn mà không tạng tài vậy , không hội được với Hợi Mão tức bị hình khó biến , chỉ lấy hỏa mà luận , không bị Sửu Tuất hình xung thì cũng không mở được khố , khó được quan ấn , trụ trung không có hỏa thì sợ vận hành gặp kim thủy , nhựt thời mà lạnh nhiều thì thích thiên về nơi Bính Đinh , cho nên khi dụng thần tốt hay xấu thì cần phải phân hiểu rõ ràng , không nên có chút sai lầm vậy . * Thân : là nơi trường sanh của thủy thổ , vào Tỵ Ngọ thì tức gặp hỏa luyện thành được kiếm kích , gặp Tí Thìn tức phùng thủy giúp cho thành quang phong , cho mộc nhiều mà không hỏa kim cuối cùng cũng thắng , nếu thổ trọng chôn vùi kim thì lại xấu bởi Thân là ngoan độn kim , không đồng với loại châu ngọc ôn nhu vậy. * Dậu : kiến tháng 8 sắc kim , nước trắng chảy trong nếu gặp nhựt thời có nhiều hỏa thì vận lại sầu đông mà đi , nếu nhựt thời gặp mộc vượng thì cũng sợ về Nam , trong trụ mà có thủy bùn (nê) thì là hữu dụng nên hành về Tây Bắc sao lại vô tình , nhưng gặp Tỵ Sửu tam hợp cũng được tinh nhuệ , vậy sao có thể lấy âm kim là ôn nhu châu ngọc mà luận nê ư ! * Tuất : là khố như lò lớn , thuần thiết ngoan kim nhờ ở đây mà thành , gặp Thìn long thì xung , xuất ở Nhâm thủy mà vũ lộ (mưa) sanh vậy , gặp Dần hổ thì hội khởi với Bính hỏa mà văn chương xuất vậy , nhưng hỏa mệnh mà gặp là nhập mộ thì thường tránh được sự thương tổn vậy thay . * Hợi : đất lục âm , tuyết mưa tràn mặt , thổ đến đây mà không nóng , kim đến đây mà sanh lạnh , nếu ngũ hồ mà qui tụ thì dụng tại tam hợp , tức là muốn biết nơi Càn Khôn hòa hoãn thì theo nơi đất Cấn Chần Tốn Ly mà tìm vậy . Đại để khi dùng pháp ngũ hành đều không chân thật , sanh tử suy vượng cũng là giả danh thôi , mà phải rõ nơi xuất xuất xứ trực hướng nguyên đầu như ngũ dương là cương ngũ âm là nhu , nếu lịnh thân suy mà không gặp giúp phò lại bị tiết khí thì dù cương cũng mất cương , nếu có lịnh thân cường và dụng sự được trợ thì dù nhu cũng mất nhu , trong đó lại phân mộc hỏa là dương , kim thủy là âm đều thích được sanh phò tư trợ và cái quý là sự trung hòa vậy. Sưu tầm nguồn:nhatrachoc.net.vn
-
Tư liệu tham khảo: Lục thập Giáp Tí tánh chất cát hung : • Giáp tí Kim là thực vật thích Kim Thủy vượng địa, tấn thần hỷ phúc tinh, bình đầu huyền ngoại phá tự. • Ất sửu Kim là khoáng vật thích Hỏa và Nam phương nhựt thời, phúc tinh Hoa cái chánh ấn. • Bính dần Hỏa là Lư khôi thích Đông và Mộc, phúc tinh lộc hình, bính đầu lung á. • Đinh mảo Hỏa là Lư yên thích Tốn và Thu đông, bính đầu triệt lộ huyền châm. • Mậu thin Mộc là sơn lâm sơn dã, mộc bất tài, thích thủy lộc khố hoa cái, thủy lộc mã khố, bổng trương phục thần bình đầu. • Kỷ Tỵ Mộc là hoa quả trên núi, thích Xuân và Thu, Lộc khố nhập chuyên. • Canh Ngọ Thổ là đất mỏng bên đường, thích Thủy và Xuân, phúc tịnh quan quý, triệt lộ bổng trượng huyền châm. • Tân Mùi Thổ, thích Thu với Hỏa, hoa cái huyền châm phá tự. • Nhâm Thân Kim là kích chiến, thích Tí Ngọ Mảo Dậu, bình đầu đại bại, phường hại lung á phá tự huyền châm. • Quý Dậu Kim là Kim thôi tạc, thích Mộc và Dần Mảo, phục thần phá tự lung á. • Giáp Tuất Hỏa thích Xuân và Hạ, chánh ấn hoa cái, bình đầu huyền châm phá tự bổng trượng. • Ất Hợi Hỏa, Hỏa khí nóng thích Thổ và Hạ, Thiên đức khúc cước. • Bính Tí Thủy sông hồ, thích Mộc và Thổ, phúc tinh quan quý, bình đầu lung á, giao thần phi nhận. • Đinh sửu Thủy, thủy bất lưu thanh, triệt cứ, thích kim và hạ, hoa cái thối thần, bình đầu phi nhận. • Mậu Dần Thổ, đề tinh thành quách, thích Mộc và Hỏa, phục thần bổng trượng lung á. • Kỷ Mão Thổ, phá đê bại thành, thích Thân Dậu và Hỏa, tấn thần đoản thiên cửu xá, khúc cước huyền châm. • Canh Thìn Kim Tích lạp, thích Thu và triệt Mộc, hoa cái đại bại, bổng trượng bình đầu. • Tân Tỵ Kim ; Kim sanh thì sa thạch tạp, thích Hỏa và Thu, Thiên đức phúc tinh quan quý, triệt lộ đại bại huyền châm khúc cước. • Nhâm Ngọ Mộc : dương liểu cán tiết, thích Xuân Hạ, thích quan quý, cửu xú phi nhận bình đầu lung á huyền châm. • Qúy Mùi Mộc : Dương liểu căn, thích Đông với thủy và chánh ấn ở Xuân, hoa cái đoản thiên phục thần phi nhận phá tự. • Giáp Thân Thủy : Cam tỉnh thích Xuân và Hạ, phá lộc mã triệt lộ bình đầu. • Ất Dậu Thủy : âm Thủy thích Đông và Nam phương , phá lộc đoản thiên cửu xú khúc cước phá tự lung á • Bính Tuất Thổ : gò đồi, thích Xuân Hạ và Thủy, thiên đức hoa cái, bình đầu lung á. • Đinh Hợi Thổ : Bình nguyên, thích Hỏa và Mộc, thiên đức phúc tinh quan quý đức hợp bình đầu. • Mậu Tí Hỏa : Sét vậy, thích Thủy và Xuân Hạ, đắc thượng thần thiên, phục thần đoản thiên cửu xú trượng hình phi nhận. • Kỷ Sửu Thổ : điện vậy, thích thủy và Xuân Hạ, đắc địa mà tối, hoa cái đại bại phi nhận khúc cước. • Canh Dần Mộc : Thân cây tùng bách, thích Thu Đông, phá lộc mã tướng hình trượng hình lung á. • Tân Mão mộc : Rễ cây Tùng, thích Thủy Thổ và Xuân, phá lôc giao thần cửu xú huyền châm. • Nhâm Thìn Thủy : Long Thủy, thích Lôi điện và Xuân Hạ, chánh giáp thiên đức thủy lộc mã tất thối thần bình đầu lung á. • Quý Tỵ Thủy : Không nghĩ khi chảy về biển, thích Hợi Tí mà biến hóa thiên ất quan quý đức hợp, phục mã phá tự khúc cước. • Giáp Ngọ Kim : Bách luyện tinh Kim, thích Mộc Thủy Thổ, thối thần đức hợp, bình đầu phá tự huyền châm. • Ất Mùi Kim : Lư khôi dư Kim, thích dại hỏa và thổ, hoa cái triệt lộ khúc cước phá tự. • Bính Thân Hỏa : Bạch nha dã thiêu, thích Thu Đông và Mộc, bình đầu lung á đại bại phá tự huyền châm. • Đinh Dậu Hỏa : Quỷ thần thừa hưởng Hỏa vô hình, thích Thìn Tuất Sửu Mùi, thiên ất hỷ thần bình đầu phá tự lung á đại bại. • Mậu Tuất Mộc : Thứ cỏ ngải khô, thích Hỏa và Xuân Hạ, hoa cái đại bại nhập chuyên trượng hình triệt lộ . • Kỷ Hợi Mộc : mầm cỏ ngải, thích Hỏa và Xuân Hạ, khúc cước . • Canh Tí Thổ : Thổ giữa không, là ốc vũ, thích Mộc và Kim Mộc, đức hợp trượng hình . • Tân Sửu Thổ : Mộ, thích Mộc và Hỏa với Xuân, hoa cái huyền châm. • Nhâm Dần Kim : Kim hoa sức, thích Mộc Hỏa, triệt lộ bình đầu lung á. • Quý Mão Kim : Dây ngọc, thích Hỏa mạnh và Thu, quý nhân phá tự huyền châm. Giáp Thìn Hỏa : Đèn vậy, thích đêm và Thủy, Hoa cái đại bại bình đầu phá tự huyền châm. • Ất Tỵ Hỏa : Ánh đèn vậy, thích Thân Dậu và Thu, chánh Lộc mã, đại bại khúc cước. • Bính Ngọ Thủy : Nguyệt luân, thích đêm và Thu thủy, hỷ thần dương nhận, giao thần bính đầu lung á huyền châm . • Đinh Mùi Thủy : Hỏa quang đồng thươn, hoa cái dương nhận thối thần nhập chuyên bình đầu phá tự. • Mậu Thân Thổ : Điền địa, thích Thân Dậu và Hỏa, phúc tinh phục mã phục hình phá tự huyền châm . • Kỷ Dậu Thổ : thích Thân Dậu và Đông, tấn thần triệt lộ cửu xú, khúc cước phá tự lung á. • Canh Tuất Kim : thích dùng Hỏa và Mộc, hoa cái trượng hình. • Tân Hơi Kim : chung đỉnh bảo vật, thích Mộc Hỏa và Thổ, chánh lộc mã huyền châm. • Nhâm Tí Mộc : thương Thủy Mộc, thích Hỏa Thổ và Hạ,dương nhận cửu xú bình đầu lung á. • Quý Sửu Mộc : thương Thủy Mộc, thích Kim Thủy và Thu, hoa cái phúc tinh nhập chuyên, phá tự dương nhận . • Giáp Dần Thủy : Mưa vậy, thích Hạ và Hỏa chánh lộc mã phúc thần nhập chuyên bình đầu phá tự huyền châm lung á. • Ất Mão Thủy : Lộ vậy, thích Thủy và Hỏa, kiến lộc, nhập chuyên cửu xú khúc cước huyền châm. • Bính Thìn Thổ : Đê ngạn, thích Kim và Mộc , lộc khố chánh ấn, hoa cái triệt lộ bình đầu lung á . • Đinh Tỵ Thổ : Thích Hỏa và Tây Bắc, lộc khố bình đầu khúc cước. • Mậu Ngọ Hỏa : Nhựt về Hạ thì nhân úy, qua Đông thì nhân ái, kỵ Mậu tí Kỷ sửu Giáp dần Ất mão, phục thần dương nhận cửu xú bỗng trượng huyền châm. • Kỷ Mùi Hỏa : Ngày kỵ đêm, phúc tinh hoa cái dương nhận khúc cước phá tự. • Canh Thân Mộc : Lựu hoa, Hạ bất nghi, Thu Đông kiến lộc mã, nhập chuyên trương hình phá tự huyền châm. • Tân Dậu Mộc Lựu nhỏ, thích Thu và Hạ kiến lộc giao thần cửu xú nhập chuyên huyền châm lung á. • Nhâm Tuất Thủy : Biển vậy thích Xuân Hạ và Mộc, hoa cái thối thần bình đầu lung á trượng hình. • Quý Hợi Thủy : Bách xuyên thích Kim trên Hỏa, phục mã đại bại phá tự triệt lộ . Lục thập Giáp Tí thịnh lớn thì kỵ biến nhỏ yếu, nếu bị nhỏ yếu thì muốn thành lớn mạnh, giống như trước bần tiện mà về sau phú quý vinh hoa, trước phú quý mà sau bần tiện nhỏ mọn ; không nên dùng phú quý trước mà không luận bần tiện, cũng không thể thấy bần tiện trước mà không luận phú quý. Niên sanh thuộc Mộc, ví dụ như Canh Dần Tân Mão tức Mộc lớn mạnh, nếu nhựt nguyệt thời không gặp các Mộc thì lấy Tòng bá Mộc mà luận ; vạn nhứt mà gặp Dương liểu hoặc Thạch lựu tức bỏ đại mà về tiểu, không lấy Tòng bá mà luận vậy. Còn như sanh nhân là Nhâm Ngọ Quý Mùi thì Mộc nhỏ yếu nếu nhựt nguyệt thời không gặp các Mộc khác thì lấy Dương liểu mà luận, vạn nhứt nếu gặp Tùng bách hoặc Đại lâm Mộc tức bỏ nhỏ mà luận lớn, không nên luận như Dương liểu vậy. Cho nên Thiên thượng Hỏa, Kiếm phong Kim , Đại hải Thủy Đại trạch Thổ sanh nhân mà nhựt nguyệt thời không gặp các vị nạp âm đều nhỏ yếu ; hay như Phúc đăng Hỏa, Kim bạc Kim, Tỉnh tuyền Thủy, Sa trung Thổ sanh nhân mà nhựt nguyệt thời không gặp vị khác thì nạp âm đều lớn mạnh, hoặc đem phàm nhập thánh, hoặc trước trọng mà sau khinh, đều theo sự biến mà luận chứ không thể chấp ở một mặt. - Giáp tí là Kim tùng cách nên khí tán, nếu được Mậu Thân Thổ, Quý Tỵ Thủy tương hợp thì tốt, Mậu Thân là đất Lâm quan Kim, Thổ thì vượng ở Tí nên được sanh thành vậy, Quý tỵ thuộc hệ Kim sanh ở Tỵ, Thủy sanh ở Tí, nạp âm tat cả đều quy lại là triều nguyên lộc, kỵ Đinh Mão Đinh Dậu Mậu Ngọ Hỏa . Diêm đông Sưu nói : Giáp Tí Kim là tấn thần bẩm cái đức trầm tiệm hư vô nên tứ thời đều tốt, nhập quý cách thừa vượng khí nên tay nghề tinh vi chủ về vinh hoa hiễn đạt. - Ất sửu là Kim phủ khô, Hỏa không thể khắc bởi Kim đã ân núp nên không bị hình hại xung phá lại là hiễn vinh , chỉ kỵ Kỷ Sửu Kỷ Mùi Hỏa. Diêm đông Sửu nói : Ất sửu là chánh ấn, là đại phúc đức, Thu Đông được phú quý thọ khảo, Xuân Hạ thì tốt , trong đó tự nhập cách thì kiến công hưởng phước. Ngọc Tiêu bửu Giám nói : Giáp Tí Ất Sửu chưa thành khí, Kim gặp Hỏa thì thành, gặp nhiều thì tốt. - Bính Dần là Hỏa hách hy, Thủy không chế được nên cái Hỏa thiêu đốt dữ dội, Thủy không qua được, chỉ thích một mình Giáp Dần Thủy, đồng vị với nhau lại gọi là triều nguyên Lộc. Yếu luận nói : trong Dần Hỏa chứa khí linh minh, tứ thời sanh đức, nhập quý cách thì văn chương phát khoa giáp. - Đinh Mão là Hỏa phục minh, khí yếu nên cần Mộc sanh, gặp Thủy thì hung, nếu gặp Ất mão Ất dậu thủy thì rất độc. Ngũ hành Yếu Luận nói : Đinh mão là Hỏa mộc dục, khí hàm lôi đông phong, thủy tề khí đạt, thổ tải thì mộ hậu, lấy mộc mà cho thì văn chương, lấy kim mà hợp lại gặp hạ thì hung bạo. Quỷ Cốc nói : Bính dần Đinh mão thu đông cần phải bảo trì. Chú rằng : hỏa không vượng tây đến thu đong thì thế sợ không bền. - Mậu thin là lưỡng thổ hạ mộc, các kim không thể khắc bởi là thổ sanh kim tức cái đạo mẫu tử, được thủy sanh là tốt. Ngũ hành yếu Luận nói : Mậu thìn Canh dần Quý sửu 3 thần này tánh mộc tráng kiện, sanh ở Xuân Hạ có chất độc lập, tùy biến hóa mà thành công, thừa được vượng khí thì chí tận mây xanh, chỉ kỵ sanh ở Thu, tuy bị hoại tiết chí bị khuất phục nhưng chẳng theo vậy. - Kỷ tị là mộc cận hỏa, kim sanh ở đây, ở ta mà không sát, kỵ gặp hỏa sanh vượng. Diêm Đông nói : Kỷ tỵ tại Tốn là Mộc bị phong đông, rễ dể bị bạt, hòa với Kim, Thổ vận ở Đông nam mà thành vật dụng, tuy ngoài dương trong âm mà chẳng phụ trợ nên khí hư tán, lại thêm Kim quỹ khắc nên thành Mộc bất tài dung vậy. Lạc lộc Tử nói : Kỷ tỵ Mậu thìn qua Càn cung mà thoát ách. Chú rằng : Kỷ tỵ Mậu thìn là loại cử mộc, kim quỹ vượng ở phương Tây, nạp âm mà Mộc thì đến đây phải tuyệt vậy. Như bị hạn ách nếu đến Càn Hợi cung thì Mộc đắc Thủy thành trường sanh mới khỏi ách. - Canh ngọ Tân mùi Thổ, Mộc không dến khắc, chỉ kỵ nhiều Thủy thì bị thương khí, còn Mộc nhiều thì nhủ quy về, bởi Mộc quy Mùi vậy. Diêm Đong nói : Canh ngọ Tân mùi Mậu thân Kỷ dậu đều có đức hậu, Thổ bao hàm trấn tịnh, dung hợp hòa khí, nhân cách phước lộc. - Nhâm thân là Kim lâm quan, thích gặp Thủy Thổ, nếu gặp Hỏa Bính thân Bính dần Mậu ngọ thì tác hại . Diêm D(ông nói : Nhâm thân Kim là cái uy của thiên tướng cho khí lâm quan, Thu Đong chủ quyền bị sát, Xuân Hạ thì tốt ít xấu nhiều, nhân cách lấy công danh mà phấn chấn, đế sát dùng để khắc bạc. - Quý dậu là Kim cứng mạnh, Hỏa tử ở Dậu nên gặp Hỏa chẳng hề gì, chỉ kỵ Hỏa Đinh dậu cùng vị nên khắc vậy. Diêm Đông nói : Quý dậu là tự vượng Kim, cái khí chất thuần túy, Xuân Hạ thì tánh anh minh, Thu Đong rất quý nhân cách nên công danh sự nghiệp tiết tháo hơn người, đới sát thì niên thiếu ngang ngạnh đến sau 40 thì dần thuận tánh. Vương tiêu Bửu Giám nói : Nhâm thân Quý dậu là vị vượng Kim, không nên vượng lại vì vượng thì sát vật, không nên gặp Hỏa vì gặp Hỏa thì bị thương. Giáp tuất là tự khô Hỏa, không sợ các thủy chỉ sợ Nhâm tuất, đó là cái họa mộ trung thọ khắc, khó tránh được. Ngũ hành yếu luận nói : Giáp tuất Hỏa là Ấn là khố, gồm cho đến khí dương tạng mật, gặp được qúy cách thì phú quý quang đại, chỉ kỵ sanh Hạ thì trong cát có hung. - Ất hợi là Hỏa phục minh nên khí uất ức mà không phát tịch được, Kỷ hợi, Tân mão Kỷ tỵ Nhâm ngọ Quý mùi là Mộc sanh cho nên tinh thần vượng tướng, có Quý hợi Bính ngọ Thủy thì không tốt. Diêm Đông nói : ẤT hợi là Hỏa tự tuyệt, khí hàm minh mẫn mà tự tịnh, thuộc hệ ám quang tịch nhiên vô hình, nếu được đắc số thì cao nhân diệu đạo, quân tử tốt đức. - Bính tí là Thủy lưu hành, không sợ các Thổ, chỉ hiềm Canh tí bởi trong vượng gặp quỷ chẳng được tốt lành. Ngũ hành yếu Luận nói : Bính tí tự vượng Thủy, dương thượng âm hạ, tinh thần hoàn hảo, bẩm chất thiên tư khoáng đạt, tri thức uyên thâm, Xuân Hạ thì khí tề vật, công năng kiện lợi. - Đinh sửu là phước tụ Thủy, rất thích Kim sanh, sợ bị Tân mùi Bính thìn Bính tuất tương hình phá vậy.Ngũ hành yếu luận nói “ Đinh sửu Ất dậu tại số là thủy tam yếu, có bẩm chất âm thạnh dương yếu, tuy trong sáng nhiều huệ mà thiếu phước, dùng Thủy Mộc vượng khí thì quân bình được âm dương mà phát quý đạt hiển sĩ “. - Mâu Dần là Thổ thọ thương, chẳng có chút lực, cần được Hỏa sanh vượng để giúp khí, kỵ Kỷ hợi Canh dần Tân mão Mộc khắc, chủ bị đoãn triết đại hung. Ngũ hành yếu luận nói : Mậu dần, Bính tuất hai vị này thừa khí Thổ, một mặt sanh Hỏa, một mặt giữ Hỏa, tức là linh dương theo trong được phước khánh, đắc quý cách, đạo đức hơn đời, đến tận thân vương công tử, nhiều nơi chỗ nhựt sanh thường được dắc cách, cũng đếu phước thọ dài lâu, trước sau đều an dật. - Kỷ mão là Thổ tư tử, bị ức chế nhiều, quý nhờ ở cái HỎa Đinh mão Giáp tuất Đinh hợi Kỷ mùi mà có phước. Ngũ hành yếu luận nói : Kỷ mão tự tử Thổ, mạnh ở nơi chánh vị, gió nỗi sét động, tán mà hòa khí, bẫm loại đạo hàn, tùy biến mà thích ứng, phức thọ tự tại, chỉ không lợi nơi tử tuyệt tức là cửu giả vật quý chi đồ. Tam mệnh soán cục nói : Mậu dần Kỷ mão Thổ thọ thương không sợ lấy Mộc lâm tổn vì Thổ không còn lực. Vương tiêu bửu giám nói : Mậu dần Kỷ Mão Thổ không nên gặp Thủy, gặp Thủy thì tổn tài, không sợ Mộc, gặp Mộc thì thành chắc. Mậu dấn thừa Thổ đức vượng khí mà hàm sanh Hỏa, đắc thì chỉ phước thọ dài lâu, Kỷ mão không nên gặp lại tử tuyệt, gặp thì hung. - Canh thìn là Kim tụ khí, không dùng Hỏa chế thì khí vật tự thành, Hỏa mạnh thì thành tổn thương khí vật, gặp Hỏa bệnh tuyệt thì vô hại, nếu gặp Giáp thìn Ất tỵ thì xấu ác rất nhiều, cũng không thể khắc các Mộc được. Diêm Đông nói : Canh thìn Kim có được sự cương kiện trầm hậu, lại có tánh thông minh lanh lợi, Xuân Hạ họa phước cũng có, nhập cách thì tài kiêm văn võ, đới sát thì hảo lộng binh quyền. - Tân tỵ là bạch kim, tinh thần đầy đủ, khí thế hoàn bị, có bị thiêu đốt cũng không tiêu vong, kỵ Bính thìn Ất tỵ Mậu ngọ các Hỏa, bởi Kim bạch ở tỵ mà không thường sanh, bại ở ngọ tuyệt ở dần, khí tán mà lại gặp Hỏa sanh vượng thì khó mà đương nổi. Ngũ hành yếu luận nói : Tân tỵ Kim là tự sanh học đường, đủ anh minh khối kỳ, Thu Đong sức lực đầy đủ, Xuân Hạ bảy phần xấu ba phần tốt, nhập quý cách thì chủ học hành thông minh, thân được thanh quý, có lòng thương vật. Vương tiêu bửu giám nói : Canh thìn Tân tỵ chưa thành Kim khí nên cần gặp Hoa. Tân tỵ là tự sanh, tỵ thì đắc Hỏa nên quang huy nhựt tân. - Nhâm ngọ là Mộc nhu hòa , thân rễ đều nhỏ yếu, mộc năng sanh hỏa nên kỵ gặp nhiều hỏa, gặp thì thiêu hết vậy, tuy là kim sanh vương nhưng cũng không làm cho thương tổn được bởi kim đến đây thì bại, được kim trở thành quý, thủy thổ thạnh thì cũng quý, chỉ sợ kim Giáp ngọ làm thương tổn thôi. Ngũ hành yếu luận nói : Nhâm ngọ mộc tự tử, mộc tử tuyệt thì hồn đi mà thần khí linh tú, bẩm được cái đức tịnh minh, có dõng lực mà phá tịnh lập công, diên niên ích thọ. - Quý Mùi mộc tự khố, sanh vượng thì tốt, tuy ẤT sửu kim không thể xung phá cũng đều phải quy về gốc mới không tương phạm, kỵ Canh tuất Ất mùi kim. Ngũ hành yếu luận nói : Quý mùi là chánh ấn , có tánh văn minh tài đức, muốn đươc phước thanh hoa. Ngọc tiêu bửu giám nói : Nhâm ngọ Quý mùi là Dương liễu mộc, mộc đến ngọ thì tử, đến mùi thì mộ, cho nên thịnh mùa Hạ lá nhiều, được thời thì phú thọ, chẳng đựơc thời thì bần yểu. Giáp thân thủy tự sanh, khí lưu hành nên có nơi quy cũng mượn kim sanh, không sợ các Thổ khác chỉ sợ Mậu thân Canh tí thổ. Ngũ hành yếu luận nói : Giáp thân thủy bạch sanh có thiên chân học đường mà đắc nhập cuộc thì trí thức thông tuệ diệu dụng vô cùng. - Ất dậu tự bại thủy, cần các kim tương trợ, bởi khí tự đã yếu, muốn được mẹ dưỡng, kỵ Kỷ dậu Kỷ mão Mâu thân Canh tí Tân sửu các Thổ, nếu gặp thì yểu triết cùng tiện. - Bính tuất phước tráng lộc hậu thổ, mộc không thể khắc được, sợ gặp Kim sanh vượng, nếu gặp được Hỏa thạnh thì quý không nói hết. - Đinh hợi Lâm quan thổ, Mộc không thể khắc, chỉ hiềm nhiều Kim thì tiết, cần có Hỏa sanh để cứu thì tốt , kỵ Kỷ hợi Tân mão Mộc. Ngũ hành yếu luận nói : Đinh hợi Canh tí hai thổ có chứa kim , trong cương ngoài hòa, có được đinh lực, dùng Thủy Hỏa vượng khí thì kiến công lập nghiệp vậy. - Mậu tí Kỷ sửu hỏa ở trong thủy, lại gọi là thần long hỏa, gặp thủy thì quý là ma lục khí vậy. Ngũ hành yếu luận nói : Mậu tí chứa tinh thần quang huy toàn thật, khí cả 4 thời, bảo sanh cái phước, nhập quý cách tức là quý nhân quân tử khí chất gồm lớn phú quý hết đời. - Kỷ sửu là hỏa Thiên tướng, lại là nhà Thiên Ất, hàm chứa khí oai phúc quang hậu, phát rất dũng mãnh , là tướng đức là khôi danh. Kinh nói : Hỏa được thai dưỡng thì khí dần mạnh, nếu được Bính Dần Mậu ngọ Hỏa trợ thêm thì trở thành có công tế vật . - Canh dần Tân mão tuế hàn Mộc, sương tuyết không thể làm mất tiết tháo hướng chi là kim, như gặp thổ Canh dần Tân mão chẳng muốn chế trị, tự nhiên thành rừng. Diêm dông nói : Tân mão Mộc, tự vượng Xuân Hạ thì khí tiết xuất chúng, kiến công lập nghiệp, sanh ở Thu thì bị ngông cuồng hẹp hòi tỏa triết, khí vượng khí nhuần. - Nhâm thìn là tự khố thủy, nếu là đất ao hồ tích thủy thì kỵ kim đến quyết phá, nếu gặp lại Nhâm thìn tức là tự hình, gặp nhiều Thủy Thổ thì thích, chỉ sợ gặp Nhâm tuất Quý hợi Bính tí Thủy, được sanh vượng thái quá trở thành tràn lan hỗn tạp. Ngũ hành yếu luận nói : Nhâm thìn là chánh ấn thủy, chứa cái đức thanh minh huần ốc, có tánh bao dung quãng đại, tâm thức như gương, được mùa Xuân Hạ thì đại phước tuệ, Thu Đông thì thuộc loại gian trá bạc đức. - Quý tỵ là tự tuyệt thủy, tên gọi là hạc lưu ( chảy cạn ), nếu gặp Bính tuất Đinh hợi Canh tí thổ hùng hậu thì còn giữ cạn, nếu gặp kim tam hợp sanh vượng thì thành nguyên lưu dồi dào khoa danh tấn đạt vậy. Ngũ hành yếu luận nói : Quý tỵ Ất mão là Thủy tự tuyệt tự tử , bèn đến âm lui ẩn, chân tình sắc dưỡng ngưng thành khí quý trở nên quý cuộc, loại nầy thuộc diệu đạo quân tử hiễn công cập vật. - Giáp ngọ là tự bại kim cũng gọi là cường hãn ( dữ mạnh ) kim gặp hỏa sanh vượng thì khí vật thạnh, gặp Đinh mão Đinh dậu Mậu tí hỏa đại hung. Ngũ hành yếu luận nói : Giáp ngọ kim là tấn thần khí tốt có, có đủ đức cang minh, Thu Đông thì tốt Xuân Hạ thì xấu, nhập quý cách thì khoa trương xuất chúng, nếu chẳng gặp thời mà đới sát thì bạo liệt vô ơn thiếu nghĩa. Chúc thần kinh nói : Giáp ngọ kim dương dữ mạnh, nếu ức chế thì trầm. Chú viết : Sa thạch kim cứng thích sát, muốn ức thì lấy hỏa mà dùng vậy. Quỷ Cốc di văn rằng : giáp ngọ thích quan quỷ. Lý hư trung nói : Giáp ngọ kim tổn dữ mạnh, Nhâm tí mộc hết nhu, hoặc Nhâm tí gặp Giáp ngọ hoặc Giáp ngọ gặp Nhâm tí, âm dương giành vị không còn sáng tỏ. - Ất mùi kim thiên khố ( không chánh khố ), cũng là hỏa khắc mà thổ sanh thì phước mạnh khí tụ, kỵ Kỷ mùi Bính thân Đinh dậu các hỏa. Ngũ hành yếu luận nói : Ất mùi kim ở số là mộc khố lại là thiên tướng có đủ các đức thuần nhân hậu nghĩa, được quý cách thì anh kiệt xuất chúng khôi trấn tứ luân, nếu được cách thường mà đới sát xung phạm cũng được quân tử bình thường. - Bính thân hỏa tự bịnh, Đinh dậu hỏa tự tử, khí nhỏ yếu, cần mộc tương trợ thì khí mới sanh, kỵ Giáp thân Ất dậu Giáp dần Ất mão các thủy, Diêm Đông nói : Bính thân hỏa bịnh hư, gặp Mộc đức văn minh , thủy khoáng đạt thì được phước tuệ, chỉ có kim là bạo hại, nếu dù có tốt thì cũng đổi thành cái khí bất hòa. Ngũ hành yếu luận nói : Bính thân Đinh dậu hỏa tư tử, hàm khí dấu kín yên tịnh, ngoài hòa trong cương, quý cách ở đó, thuộc loại có đạo quân tử, đức hạnh tự nhiên. - Mậu tuất mộc trong thổ kỵ gặp lại thổ, nếu nạp âm gặp nhiều thổ thì một đời truân chuyên, kim không thể khắc bởi kim đến tuất thì bại, gặp kim có khi lại được phước, thích gặp nhiều thủy, thịnh mộc sẽ thành quý cách. Diêm Đông nói : Mậu tuất mộc cô thân độc vị, hòa với thủy hỏa vượng khí thì được cái đức chân thật anh minh, nhập cách thì văn chương tấn đạt, phước lộc thủy chung, nhưng vì thừa khí thiên tướng nên trãi nhiều gian hiểm song tiết tháo không đổi thì mới được phước về sau. - Kỷ Hợi mộc tự sanh, căn bản phồn thịnh không sợ các kim khác chỉ sợ Tân hợi Tân tỵ Quý dậu kim, nếu gặp Ất mão Quý mùi Đinh mùi mộc chưa hẳn là không đại quý. Ngũ hành Yếu luận nói : Kỷ hợi mộc tự sanh, anh minh tài trí, như đắc được nơi thì thanh quý. Diêm Đông nói : Kỷ hợi mộc được thời thì thanh quý, chẳng gặp thời thì tân khổ. - Canh tí thổ hậu đức, hay khắc các thủy và không kỵ các mộc, bởi mộc đến tí thì vô khí, nếu gặp được Nhâm thân kim thì là được Lộc vị tức quý vậy. - Tân sửu thổ phước tụ, bởi lộc không thể khắc và Sửu là Kim khố, trong Sửu có Kim nên không sợ gặp Mộc. Ngọc tiêu Bửu giám nói : Canh tí Tân sửu thổ thích Mộc mà ghét Thủy, gặp Mộc là quan, gặp Thủy thì không tương nghi. Diêm Đông nói : Tân sửu Kỷ dậu Thổ trong có chứa ít Kim, đức hậu tánh cứng hòa mà bất đồng, trên dưới tề nhau dùng Thủy Hỏa vượng khí thì công lớn danh oai vậy. - Nhâm dần tự tuyệt kim, Quý mão là kim tám khí, nếu gặp các Hỏa thì phải tiêu khí, chỉ tốt khi được Thủy Thổ triều. Ngũ hành yếu Luận nói : Nhâm dần Quý mão là Kim hư hoại bạc nhược nhưng cũng có đức nghĩa nhu cương, Thu Đông khang kiện không xấu, xấu lại là điềm tốt, Xuan Hạ thì nội hung ngoại cát, tốt thì bị xấu trước, nhập quý cách thì tiết chí anh minh, đới sát thì hung bạo không cùng vậy.Tam mệnh soán cuộc nói : Quý mão là Kim tự thai, nếu gặp Bính dần Đinh mão Lư trung Hỏa thì không sợ, vì thai Kim nên ở trong lư thì thì khí vật được thành vậy. - Giáp thìn là Hỏa thiên khố ( không chánh khố ), có nhiều Hỏa trợ thì tốt, đó là đồng khí tương trợ, nếu gặp được Mậu thìn Mậu tuất Mộc sanh cho thì đắc quý cách, kỵ Nhâm thìn Nhâm tuất Bính ngọ Đinh mùi Thủy rất độc. Ngũ hành yếu Luận nói : Giáp thìn là Thiên tướng Hỏa, tánh khí nóng mạnh nhanh nhẹn, nhập quý cách thi văn khôi đặc biệt, lợi ở Thu Đông mà không lợi ở Hạ. - Ất tỵ lâm quan Hỏa, Thủy không thể khắc bởi Thủy tuyệt ở Tỵ, được Thủy tương tề thì là thuần túy, nếu có hai ba Hỏa tương trợ thì cũng tốt. Ngũ hành yếu Luận nói : Ất tỵ chứa thuần dương, phát khí ở Tốn nên quang huy sung mãn, Xuân Đông theo tốt, Thu Hạ theo xấu. - Bính ngọ Đinh mùi Thiên hà Thủy thổ không thể khắc Thủy ở trên trời nên đất Kim không sanh được, như sanh vượng thai quá thì phát dục nơi vạn vật, nếu tử tuyệt thái quá thì lại không thể sanh vạn vật . Ngũ hành yếu Luận nói : Bính ngọ là thủy chí cao, khí thể ôn hậu ở phương Nam tánh loại có đạo khí hư thì biến thành xuất sắc. - Đinh Mùi thì đủ cả tam tài, toàn số được xung chánh khí bẩm được tinh thần toàn khí, căn tánh cao diệu, biến hóa vô cùng. - Mậu thân trọng phụ thổ, mộc không thể khắc vì mộc tuyệt ở thân, nếu được kim thủy trợ nhiều thì chủ phú quý tôn vinh vậy. - Kỷ dậu là tự bại thổ, khí không đầy đủ, cần lấy hỏa tương trợ, gặp được Đinh mão Đinh dậu hỏa thì tốt, kỵ nhất là tử tuyệt, nếu gặp Tân Mão Tân dậu mộc thì tai ương yểu triết - Canh tuất Tân hợi là kiên thành kim không nên gặp hỏa dễ bị thương tổn, nếu được thủy thổ tương giúp thì quý. Diêm Đông nói : Canh tuất kim mộ ở hỏa, kim cương liệt trở thành hung bạo, Thu Đong ít nhiều trầm hậu, Xuan HẠ động sanh hối tiếc, quân tử nắm binh quyền, tiểu nhân thì tánh hung ác. Tân hợi kim mạnh ở Càn, có khí thuần minh trung chánh, Xuan Thu Đông đều tốt, Hạ thì 7 tốt 3 xấu, lấy nhân mà hành nghĩa, nếu có hình sát thì hung bạo bần tiện.. - Nhâm tí mộc chuyên vị, Quý sửu là mộc thiên khô, gặp tử tuyệt thì phú quý, gặp sanh vượng thì bần tiện, nhiều mộc thì yểu triết, kim thổ nhiều và thịnh thì tốt. Ngũ hành yếu Luận nói : Nhâm tí là mộc âm u, dương yếu mà âm mạnh, nhu mà không lập, gặp Bính ngọ thủy thì đức tánh thuần túy thuộc loại thần tiên dị sĩ tánh cách phi thường. Chúc thần Kinh nói : Nhâm tí mộc mắc ở chỗ nhu mềm, hoặc phát dương nhân thì cao minh. Chú rằng : Nhâm tí mộc ở nơi vượng thủy, tí được ít dương khí mà sanh, nhu thoát dễ triết tức là mộc tự bại, nếu phát lên được thì khí hỏa thượng tăng ích mà khiến cho phồn vinh nên cao minh nhân nghĩa. - Bản gốc thiếu Quý sửu . - Giáp Dần : Tự bịnh Thủy ; Ất Mão Tự tử Thủy : Tuy là tử bịnh Thủy nhưng Thổ không thể khắc được bởi vì can chi 2 Mộc có thể chế được Thổ, nếu gặp Nhâm dần Quý mão Kim thì rất tốt. Ngũ hành Yếu Luận nói : Giáp dần Nhâm tuất hai thủy này là phục nghịch, âm thắng dương chủ gian tà hai vật, chỉ nên dùng hỏa thổ tổn ích thì mới thành đại khí vậy. - Bính thìn : tự khố thổ, vừa dày lại mạnh, thích Giáp thìn Hỏa mà ghét Mậu thìn mộc, Mộc này ở trên không tổn được vì bởi Bính là Hỏa, Thìn là Thiên khố hỏa, Thổ đã thành khí rồi, chỉ sợ Mậu tuất Kỷ hợi Tân mão Mậu thìn Mộc. Ngũ hành yếu luận nói : Bính thìn là chánh ấn thổ, có đức ngũ phước cát hội thì đều đại hưởng, không quý cũng phú, nếu phạm xung thì phần nhiều làm tăng sĩ. - Đinh tỵ tự tuyệt Thổ mà lại không bị tuyệt bởi vì một Thổ mà ở với hai Hỏa, tức ở đất của cha mẹ nên không thể tuyệt, Mộc cũng không thể khắc, nhiều Hỏa thì càng tốt. Ngọc tiêu Bửu giám nói : Đinh tỵ là Đông Nam Hỏa đức vượng, đắc thì có nhiều phước thọ. - Mậu ngọ là Tự vượng Hỏa ; Kỷ mùi là Thiên khô Hỏa, cư ở Ly thì sáng, là đất vượng tướng nên khí rất thịnh, các Thủy đều không hại được chỉ kỵ Bính ngọ Đinh mùi Thiên thượng Thủy. Diêm Đông nói : Mậu ngọ Tự vượng Hỏa có được khí viêm thượng ở Ly, tụ vật vô tình, động khắp các chúng, đắc ở Thu Đông, dùng Thủy Thổ vượng khí khoát đạt cao minh, phước lực mạnh mẽ, Xuân Hạ tốt theo, dùng Kim Mộc thì tuy phát nhanh mà mệnh chẳng thường lâu. Ngũ hành yếu luận nói : Kỷ mùi hỏa suy chứa được dư khí nên tháng Xuân Hạ thì vận được dấu kín nên minh mẫn tuấn đạt, phướng khánh đầy đủ, gặp Hạ thì chẳng hòa khí, gặp Thu thì trước tốt mà sau thì xấu. - Canh thân, Tân dậu 2 Mộc này có Kim ở trên, do Kim mà thành vật nên kỵ tái gặp Kim sẽ hủy mất khí vật vậy, nếu gặp Giấp thân Ất dậu Thủy thì nhập cách. Ngọc tiêu bửu Giám nói : Canh thân tự tuyệt mộc là hồn du thần biến gặp được ngày mà sanh là loại phi phàm chủ tính cách xuất chúng, gia tộc không kềm chế được, nhập quý cách thì nhân kiệt anh tài. Tân dậu là Mộc thất vị, đối với Quý mão Kim thì cương nhu tương tề suy quần bạt tụy. Chúc thần Kinh nói : Hồn quý ở Thiên du, nên Canh thân mộc không sợ bị tử tuyệt mà quý ở thiên du. QUỷ cốc dị văn nói : Tân dậu kỳ sanh vượng. Chú rằng : Tân dậu mộc khí tuyệt, cần được sanh vượng thì mới vinh đạt. - Nhâm tuất Thiên khố Thủy ; Quý Hợi Lâm quan Thủy đều gọi là Đại hải Thủy bởi can chi nạp âm đếu là thủy, kỵ gặp các thủy, tuy Nhâm thìn thủy khố cũng không thể gánh nổi, không bị các Thổ khắc, tử tuyệt thì tốt còn sanh vượng thì lại lan tràn không có chỗ quy vậy . Ngọc tiêu bửu giám nói : Hợi Tí là Thủy chánh vị, ở Nhâm tuất khí phục mà khôn thuận, chỉ dùng hỏa thổ để tổn ích thì thành đại khí ; QUý hợi đủ số thuần nhân, thể chất thiên từ thông minh, chí khí rộng lớn, phát triển công nghiệp, chọn nhựt thời tốt, đới sát thì vào loại hung giảo. * Lại nói : Bính tuất thổ là phúc hậu, hỏa cũng tụ ở đây vậy, Kỷ mùi Canh thìn Mậu thìn Đinh sửu cũng đồng nghĩa nầy, Kỷ mùi hỏa, trong Mùi có mộc mộ, Canh thìn Kim vậy, trong kim có thổ mộ, Mậu thìn mộc trong thìn có thủy mộ, Đinh sửu thủy trong sửu có kim mộ, đều là khí phụ mẫu nên được dương, năm thứ này phước sâu dày nên dù có quỷ thương cũng không làm hại khí thành vậy. Lý hư Trung nói : Bính tuất rất lạ, lấy Tuất lại là bổn vị của thổ mà rất vượng thạnh. * Ất tỵ, Mậu ngọ là hỏa nóng mạnh, Thu Đông có đức tốt, Xuân Hạ thì hình hung, nếu trọng Hạ thì phát nóng dữ, hết thảy khô táo, Ất tỵ Lâm quan hỏa có một mộc sanh nên khí thạnh, Mậu ngọ tự vượng hỏa nếu sanh Thu Đông thì khí ấm có đức nuôi vật, như sanh Xuân Hạ thì thì vượng hỏa trở về dương vị nên sanh hung, Hạ thì bạo lệ, thuộc loại hung yểu. * Ất mão Quý tỵ Đinh dậu Ất hợi thủy hỏa tuy tử tuyệt nhưng lại giai diệu, hỏa tử tuyệt mà trong sáng ngoài tối phản quang hồi chiếu, thủy tử tuyệt mà thanh trọng. Lý trung Hư nói : 4 vị này tuy tử tuyệt không thanh minh mà diệu giai, cứ xem Thiên ất quý nhân thì biết vậy. * Nhâm dần kim, việc vua không thể nghịch ; Canh thân kim, làm tôi không chống ngũ hành thuộc ngũ âm, cung thổ là vua, thương quan là thần, giác thủy là dân, thương thái quá thì thần mạnh, giác thái quá thì vua yếu, nên trong ngũ hành thường dùng 4 thanh cung để sát thương giác * CAnh thân là giác mộc tự tuyệt, Nhâm dần là thương kim tự tuyệt, đều khiến được cái đạo trung thuận , nên việc vua không nghịch, là thần không chống, cho nên từ tử vi loan đài phụng các trở lên rất kỵ kim mộc mệnh sanh vượng, như vậy không thể làm, làm thì chẳng được lâu, độc nhất thì có thể được, nếu kim mộc sanh vượng mà khắc phá thì chẳng thể. Canh thân mộc, Ất tỵ hỏa, thổ kim sanh mà hoàn, không sanh Bính ngọ thủy Quý mão kim, mộc thủy tử mà lại không tử, thổ sanh thân mà lại không sanh nơi Canh thân, thủy sanh thân mà lại không sanh nơi Mậu thân, hỏa sanh dần mà lại không sanh nơi Giáp dần, kim sanh tỵ mà lại không sanh nơi Ất tỵ, mộc sanh hợi mà lại không sanh nơi Tân hợi, bởi nơi sanh mà trở lại phản chế vậy, đắc thì yểu thọ. Mộc tử mão mà lại không tử nơi Quý mão, thổ tử mão mà lại không tử nơi Đinh mão, mộc tử ngọ mà lại không tử nới Bính ngọ, kim tử tí mà lại không tử nơi Canh tí, hỏa tử dậu mà lại không tử nới Tân dậu, bởi nơi tử mà được sanh vậy, đắc thì trường thọ. Mậu tí can chi vượng ở Bắc phương là thủy vị, nạp âm thuộc hỏa tức hỏa ở trong thủy,không phải thần long thì không có. Bính ngọ can chi vượng ở Nam phương là hỏa vị, nạp âm thuộc thủy tức thủy ở trong hỏa, không phải Thiên hà thì không có. Người Bính tí gặp Bính ngọ hoặc người Bính ngọ gặp Mậu tí thì quý, bởi trong hỏa xuất thủy, trong thủy chứa hỏa tức thủy hỏa ký tế, tinh thần vận động thì thuộc người phi thường vậy. Lý trung Hư nói : Bính ngọ thiên thượng thủy trong 12 thời thiên hậu vậy, đắc được thì cao minh khoáng đạt linh dị bất phàm . Mậu tí hỏa ở trong thủy thì lục khí quân hỏa vậy, đắc được gọi là thần minh. Ngoài ra các khí khác lấy đây mà làm chuẩn. Tân sửu thổ không sợ mộc, Mậu tuất mộc không sợ kim, vì sao nói vậy : kim khố ở trong sửu nên mộc không thể khắc, trong mậu có hỏa kim tới thì bị thương. Như Mậu tuất mộc có hai thổ ở trên một mộc ở dưới, vì chôn dưới 2 thổ nên mộc manh nha mà chưa thấy hình tức là thổ thạnh mà mộc yếu, các loại khác đều xét. * Canh dần mộc Đinh tỵ thổ không sợ quỷ kim mộc, kim đến cung dần tức là quỷ nhưng kim tuyệt ở dần nên không là quỷ, Mộc đến cung tỵ mà tỵ có kim sanh khắc mộc nên không là quỷ, nếu Canh dần mộc mà gặp Nhâm thân kim tức bị tương xung tương khắc vậy, các vị khác cũng. * Canh ngọ thổ thừa nơi Nam phương vượng hỏa dưỡng mà thành hình, Mậu thân thổ tự sanh, Canh tí thổ tự doanh nên không sợ mộc quỷ bởi mộc đến ngọ thì tử ,đến thân thì tuyệt, đến tí thì bại, lại là thổ tự dưỡng nên không thể làm thương tổ được. CÁc vị khác cũng tính. * Nhâm thân Quý dậu Canh tuất Tân hợi kim khí mạnh nên không sợ quỷ, Mậu tí hỏa không sợ quý thủy bởi Tích lịch hỏa là Thần long, có thủy thì Lôi mới phát, nếu gặp Bính ngọ Đinh mùi Thiên thượng thủy thì có thể kỵ vì bị tương chiến, thường thì khí bổn mạng can chi thọ thương tức lục căn không đủ, có trước không sau ; như Đinh tỵ gặp Quý hợi, Nhâm tí gặp Mâu ngọ. Các vị khác cũng tính vậy. * Mâu ngọ Canh thân tương hợp, Canh thân Thạch lựu Mộc Hạ vượng nên thích Mậu ngọ, bởi hỏa cung vượng mà Thạch lựu mộc tánh được đắc thời, Mâu ngọ lại là cực vượng hỏa, thích nơi Thân, gặp thiên mã tương cho vậy, là thần đầu lộc tức chuyên vị thập can, Lộc là Am dương chuyên vị, thiên địa thần hội vậy. Bày cái chân nguyên của Bát quái , xếp cái thành bại của Ngũ hành, sự cương nhu tương quyền, có hay không hợp hóa, nên Nhâm tí quý ứng ở Bắc phương Khảm ; Bính ngọ hỏa thuộc Nam cung Ly, cho nên Bính ngọ đắc Nhâm tí không là phá, Đinh tỵ đắc Quý hợi không là xung, đây là Thủy Hỏa tương tế có cái nghĩa Phu Thê phối hợp vậy ; Khảm Ly là Nam Nữ, cái dụng tinh thần, Nhâm tí được Bính ngọ, Quý hợi được Đinh tỵ thì trước sau Thủy Hỏa có tương vị tế, không như Đinh tỵ gặp Nhâm tí, Bính ngọ gặp Quý hợi. * Canh thân Tân dậu Kim ứng ở Tây phương Đoài, Giáp dần Ất mão Mộc thuộc Đong phương Chấn, sở dĩ Giáp dần gặp Canh thân không là hình, Ất mão gặp Tân dậu không là quỷ, bởi Mộc nữ Kim phu chánh thể vậy, rõ sự thần hóa tả hữu, Mộc chủ hồn mà Kim chủ phách, hai thứ này tả hữu tuong gian không hợp, nếu được toàn hợp tức là thần hóa chẳng còn khoảng cách vậy, nếu Canh thân gặp Ất mão, Tân dậu gặp Giáp dần thì không phải cái dụng biến thông nguyên thần. * Mậu thìn Mậu tuất Thổ là khôi cương tương hội, hậu đức làm khôn không phải là phản ngâm, không phải là xung bởi Thổ đắc chánh vị, can ở nguyên hội. * Kỷ sửu Kỷ mùi là quý thần giữ trung trinh, đây là tứ chân Thổ có cái đạo thủy chung của vạn vật, nếu chẳng phải bực đai nhân quân tử thì không có được cái đức nầy, huống chi là thần đầu lộc, chủ của các thần, sự vận động tả hữu ở trong lục hợp, biến hóa thừa thiếu của việc cát hung vậy. * Kỷ sửu Thổ là Thiên ất quý nhân, là thái thường phúc thần, giải được sự hung ác của các sát, nếu đắc được thì chủ hoạnh tài, Mâu thìn là Câu trần, Mậu tuất là Thiên không, chủ tướng trấn biên phòng nên bất thường vậy, Đinh tỵ là thần Đằng xà, hung láy hung mà dùng, cát lấy cát mà theo, dễ bị mê hoặc, có tánh hoạt kê, Bính ngọ là thần Châu tước thể chất dương minh, văn từ thông tuệ, Giáp dần là thần Thanh long, giúp cho mọi loài, đắc lợi cả 4 phương, Ất mão là thần Lục hợp, phát sanh sự vinh hoa, Nhâm tí là thần Thiên hậu chủ thiên đức âm dương tốt đẹp nhiều quyền, Quý hợi là thần Huyền vũ là cuối cùng âm dương, khí đã tiềm phục, theo dưới mà lưu, tuy có đại trí mà chẳng có sự hiên ngang siêu đạt, thuận thì được an bình, nghịch thì loại cừu gian, Canh thân là thần Bạch hổ, lợi ở võ mà không lợi cho văn , sắc lệ nhu mì, có nhân nghĩa, thích u tịch, Tân dậu là thần thái âm, tính cách thanh bạch, văn chương trôi chảy, tài năng xuất chúng, nhưng phải xét sự hưu vượng thân sơ mà định tánh tình họa phước.
-
Thiên Đồng đang lên lịch để Sư Phụ đi vụ này thì nghe tin hồi lại. hic
-
Bài viết dưới đây thể hiện một sự "cầm nhầm" trong học thuật từ trang batdongsan.vn, Kts. Nguyễn Thanh Tùng: Mái nhà: Nơi tụ khí của toàn thể căn nhà Thứ năm, 06/10/2011, 09:14 GMT+7 Mái nhà chính là nơi tụ khí của toàn thể căn nhà. Bịt kín thì khí bế, trống trải thì khí tán.Tính bế khí và tán khí trong nhà theo quan niệm phong thủy ảnh hưởng tới cuộc sống của con người trong ngôi nhà. Phân loại ngũ hành trong phong thuỷ Trong căn nhà, hai cấu trúc quan trọng nhất là tường nhà và mái nhà. Theo quan niệm của phong thủy với phương pháp luận của thuyết âm dương ngũ hành, bất luận hình thức ngôi nhà có cấu trúc hình thể như thế nào thì bản chất của ngôi nhà – do cấu trúc bởi những góc vuông - vẫn thuộc Thổ hình. Do đó với những ngôi nhà có tính tương sinh giữa mái nhà và cấu trúc nhà được coi là mối quan hệ hoàn hảo về phong thủy. Chúng ta có thể thấy điều này qua mối tương quan giữa cấu trúc bằng mái nhà nhọn – Hỏa hình – vốn là mái nhà phổ biến nhất hiện nay – Hỏa sinh Thổ. Như vậy, giữa hình thức mái nhà với cấu trúc nhà tương sinh thì tốt. Khắc thì xấu. Theo phân loại ngũ hành: mái nhà được chia làm 5 loại chính: mái vút cao thuộc Mộc; mái bằng thuộc Thổ; mái hình tròn thuộc Kim; mái nhọn thuộc Hỏa; mái lượn sóng thuộc Thủy. Mái nhà truyền thống Trong kiến trúc dân gian Việt Nam, mái nhà khởi nguồn bằng những vật liệu có nguồn gốc thiên nhiên. Mỗi địa phương có một loại mái – một loại vật liệu đặc thù cho mái. Ở miền Bắc có mái tranh, mái rơm – rạ, mái cọ… miền Nam sử dụng nhiều lá dừa để lợp mái. Kết cấu khung mái là tre, gỗ với những liên kết mộng, chốt, hay thậm chí buộc bằng lạt tre (ở miền Bắc), dây dừa (ở miền Nam)… Những mái nhà nguyên sơ này vẫn còn tồn tại ở nhiều vùng quê Việt Nam. Mái nhà tiếp theo chính là mái ngói đất nung. Mái ngói đã trở thành một hình ảnh điển hình trong kiến trúc truyền thống Việt Nam. Mái ngói cùng hệ kết cấu khung gỗ là một sự kết hợp tuyệt vời của vật liệu với vật liệu, của kiến trúc và điêu khắc. Mái nhà dân gian có bốn mái hoặc hai mái, các công trình nhà ở quy mô nhỏ thường là hai mái. Tuỳ từng loại công trình mà mái ngói đi kèm với những chi tiết trang trí khác ở bờ nóc, bờ chảy, đầu đao, diềm mái... Nhiều hình tượng và những ước mơ, khát vọng của con người được lồng ghép vào những chi tiết trang trí trên mái hay ở hệ khung vì kèo gỗ. Ngôi nhà truyền thống vốn đa phần quay mặt dài về hướng Nam nên phần đỉnh mái nhà kéo từ đông sang tây, mà cư dân nông nghiệp thì xem phương Đông là khởi điểm cuộc sống, nơi mặt trời mọc, thuộc mộc, nên cây xà gồ đỉnh mái trong nghi lễ thượng lương thường được bọc vải đỏ hai đầu và treo tấm bùa bát quái ở giữa như một sự trân trọng với bộ phận kết cấu đặc biệt này của ngôi nhà. Mái nhà hiện đại Đối với kiến trúc hiện đại, sự sáng tạo nghệ thuật đã mang đến nhiều khối cấu trúc với các kiểu mái nhà khác nhau. Những kiểu mái nhà đạt chuẩn có khả năng tụ khí trong không gian của ngôi nhà chính là mái tam giác truyền thống, mái tròn và cuối cùng là mái bằng. Nay để tăng thêm giá trị thẩm mỹ của ngôi nhà các gia chủ lựa chọn mái nhà với các nhịp điệu gấp gãy, điều đó vừa mang lại một sắc thái riêng vừa có không gian “giải nhiệt” dưới mái vào mùa hè. Mặt khác, thiết kế mái nhà cũng là giải pháp để chống thấm trên mái bằng. Tùy theo môi trường cảnh quan, các diện của mái thường quanh quẩn theo hình thức hai mái, nhưng đã được xử lý. Những kiểu hai, ba mái đôi theo nhiều phương đa dạng, làm nên chất thơ cho “chiếc nón” của ngôi nhà. Mái cũng không còn liên tục và dày khít như trước kia. Trên khoảng mái rộng để chừa lại một ô vuông đủ rộng để đón ánh nắng mặt trời cho sân phơi trên tầng áp mái. KTS. Nguyễn Thanh Tùng Công ty Tư vấn Kiến trúc và Xây dựng Trang Kim (Theo Archi) Trong khi đó, bài viết về mái nhà của nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh (Thiên Sứ) là đây:Mái nhà trong phong thủy Nguồn: Thanh Nien Online 20/09/2009 10:40 (TNTT>) Trong thành ngữ dân gian Việt có câu: "Con không cha như nhà không nóc".Nhà không có nóc thì không thể gọi là nhà. Chỉ cần thêm một cái mái che là đủ làm chỗ trú ngụ cho con người. Với ý nghĩa thông thường và tính ứng dụng nhận thức đã cho thấy tầm quan trọng của mái nhà. Mái nhà yếu tố quan trong trong phong thủy Trong căn nhà, hai cấu trúc quan trọng nhất là tường nhà và mái nhà. Phong thủy vốn là một phương pháp ứng dụng tổng kết từ những nhận thức thực tế của con người trong mối quan hệ với thiên nhiên môi trường sống của mình, tất nhiên rất quan trọng trong việc thiết kế mái nhà. Mái nhà chính là nơi tụ khí của toàn thể căn nhà. Bít kín thì khí bế, trống trải thì khí tán. Tính bế khí và tán khí trong nhà theo quan niệm phong thủy ảnh hưởng tới cuộc sống của con người trong ngôi gia. Bởi vậy, mái nhà trong phong thủy có vị trí cực kỳ quan trọng. Theo phong thủy, mái nhà là quyết định cuối cùng cho sự ảnh hưởng của toàn bộ căn nhà lên cuộc sống các thành viên. Do đó tính chất của mái nhà được ví như người cha cũng không ngoa. Mối tương quan hình thể giữa mái nhà và cấu trúc nhà. Theo quan niệm của phong thủy với phương pháp luận của thuyết âm dương ngũ hành, bất luận hình thức ngôi nhà có cấu trúc hình thể như thế nào thì bản chất của ngôi nhà – do cấu trúc bởi những góc vuông - vẫn thuộc Thổ hình. Do đó với những ngôi nhà có tính tương sinh giữa mái nhà và cấu trúc nhà được coi là mối quan hệ hoàn hảo về phong thủy. Chúng ta có thể thấy điều này qua mối tương quan giữa cấu trúc bằng - Thổ hình - của ngôi nhà với mái tròn – Kim hình – của tòa Bạch Ốc. Do tính Thổ sinh Kim. Hoặc với mái nhà nhọn – Hỏa hình – vốn là mái nhà phổ biến nhất hiện nay – Hỏa sinh Thổ. Mái nhà Mộc hình rất hiếm gặp. Trường hợp đặc biệt chỉ thấy ở nhà thờ Đức Bà, TP.HCM. Theo thuyết âm dương ngũ hành thì Mộc khắc Thổ. Nhưng với cấu trúc nhiều mái nhọn của nhà thờ Đức Bà - phong thủy gọi là ”Hỏa khí xung thiên” – thì mái nhà Mộc hình vút cao có tính tương sinh cho toàn bộ cấu trúc của nó. Đây là kiến trúc độc đáo theo cái nhìn phong thủy. Như vậy, giữa hình thức mái nhà với cấu trúc nhà tương sinh thì tốt. Khắc thì xấu. Theo phân loại ngũ hành: mái nhà được chia làm 5 loại chính (xem hình): Mái vút cao thuộc Mộc (nhà thờ Đức Bà, TP.HCM) Nhiều mái nhọn hình tam giác đều, hoặc cân với góc nhọn xấp xỉ hoặc lớn hơn 90 độ thuộc Hỏa ở Nhà Thờ Đức Bà. T/p HCM. Nhà mái bằng thuộc Thổ Mái hình tròn thuộc Kim Nhà mái nhọn thuộc Hỏa Nhà mái lượn sóng thuộc Thủy Nguyễn Vũ Tuấn Anh
-
Ban quản trị đã nhận đượ thông tin: Nguyen Duy Hiep 1.800.000 đ có phải là Duy Hiep? vì không thấy báo nick! Thiên Đồng
-
“Đại gia” Việt chơi ngông mua 10 máy bay: Mất thì thôi? Bỏ tiền túi ra mua 10 chiếc máy bay cá nhân hạng nhỏ, nhưng Ông Cao Văn Sơn - Chủ tịch HĐQT Công ty Hành tinh xanh (Green Planet) vẫn ăn phở bình dân và uống cà phê 17.000 đồng/cốc. Mấy ngày nay, báo chí và dư luận xôn xao về việc một doanh nghiệp Việt Nam nhập khẩu 10 chiếc máy bay cá nhân hạng nhỏ. Nhưng ít ai có thể ngờ rằng trụ sở của công ty này lại khá giản dị, thậm chí có thể nói là cũ kỹ và chật hẹp, ngay cả tấm biển đề tên công ty cũng không thấy. Ổng chủ của doanh nghiệp này còn “xuề xòa” hơn thế rất nhiều. Áo sơ mi đóng thùng với quần âu, chân đi dép xăng đan màu nâu giản dị và chỉ sử dụng xe Ford Escape “bán 15.000 USD không ai mua”,… Đam mê bay, mua máy bay mất thì… thôi! Là doanh nghiệp đầu tiên nhập khẩu tới 10 chiếc máy bay cá nhân, ý tưởng nào đã khiến ông quyết định như vậy? Nghề phi công không phải tướng tá vì không phân biệt. Cái thứ hai là quan chức của ngành hàng không tôi cũng không phải 2 cái này, tôi không biết gì về hàng không cả. Thứ ba, là tôi không như nhiều người, làm ăn thì cố phải tằn tiện, rồi để có nhiều tiền thì sẵn sàng vi phạm, thậm chí tham nhũng tài sản công… đủ thứ trên đời để mua nhà cửa cho con cái. Nhưng người ta không biết là để cho con cái càng nhiều thì con cái lại càng dễ sinh hư. Tôi chỉ muốn để cho con cái sức khỏe và trí tuệ. Người đời có tiền thường đi làm từ thiện như xây nhà tình nghĩa, giúp đỡ các hoàn cảnh khó khăn hoặc xây chùa… người ta làm như vậy, còn tôi, tôi sẽ để lại cho xã hội cái gì? Tôi muốn để lại cho xã hội cái mầm nhỏ về lòng đam mê, dũng cảm. undefined Ông Cao Văn Sơn: "Tôi không chơi ngông" Vì vào hàng không anh phải đam mê, dũng cảm. Người Việt Nam ta nhìn thấy phi công là cảm thấy rất ghê gớm, không giống như anh lái xe ô tô. Một cô gái nếu yêu được một anh phi công cũng sẽ cảm thấy rất tự hào, ra đường có thể ưỡn ngực “khoe” với bạn bè. Vì vào hàng không anh phải đam mê, dũng cảm. Người Việt Nam ta nhìn thấy phi công là cảm thấy rất ghê gớm, không giống như anh lái xe ô tô. Một cô gái nếu yêu được một anh phi công cũng sẽ cảm thấy rất tự hào, ra đường có thể ưỡn ngực “khoe” với bạn bè. Tất cả thành viên trong gia đình tôi đều đã có công ăn việc làm, cuộc sống ổn định rồi. Tôi có chút tiền thì muốn đầu tư vào mấy cái máy bay, chủ yếu là để chơi và thỏa mãn niềm đam mê, mất thì thôi. Tôi tự bỏ tiền túi của tôi ra và gọi thêm một vài anh em cùng niềm đam mê, chí hướng cùng góp vốn. Tôi có một anh bạn nước ngoài sở hữu một chợ rất lớn, trị giá khoảng 20 triệu USD, nhưng tôi nói với anh ta rằng, dù có nhiều tiền nhưng vẫn là thằng chủ chợ, vậy tại sao mày không đóng vào đây 1 triệu đô để thành người sở hữu máy bay, anh ta nghe vậy rất tán thưởng. Anh em cũng có ý thức trong chuyện này nên tham gia để cảm thấy có những trải nghiệm thú vị. Tôi đã từng đưa các anh em đi chơi, họ nói rằng lần nào đi cũng chỉ ăn, uống, mua sắm và đi chơi đủ kiểu nhưng chưa bao giờ được đi máy bay, lại được ngồi trên ghế lái, thấy khác hẳn. Từ câu nói này, tôi đã nảy sinh ý tưởng để thành lập công ty Hành tinh Xanh. Ngoài tiền túi của tôi, còn có các anh em, bạn bè cùng đóng góp. Tôi cũng nói thẳng rằng chúng ta làm việc mấy năm, nếu lỗ tất cả cùng chịu nhé. Tất cả mọi người cùng đồng ý.dù biết cơ chế bây giờ còn khó khăn, muốn phá vỡ cơ chế không phải dễ dàng gì. Máy bay ATEC 321 FAETA của hãng ATEC (Ảnh: atecaircraft) Giờ nói tôi đi đọ với bầu Đức, bầu Long có khi người ta cười cho, bảo là phấn đọ với vôi nên ta không bao giờ được nghĩ đến đoạn đó. Đó là những đại gia tài giỏi, giàu có. Mình phải đi bằng con đường rất bình thường nhưng đạt được mục tiêu. Tôi không sợ khó Máy bay mà giá chỉ có 100 – 200 nghìn USD, ngang với giá của xe hơi. Liệu “của rẻ” có phải là “của ôi” không thưa ông? Không phải máy bay giá rẻ mà là mình mua cái gì rẻ. Chúng tôi phải đặt hàng trực tiếp với nơi sản xuất, không qua trung gian. Những chiếc máy bay này đều do các hãng có uy tín sản xuất, đều có thương hiệu cả rồi. Phần thiết kế đã được Cục hàng không các nước phê duyệt, ứng dụng nhiều năm nay rồi. Động cơ máy bay người ta cũng sản xuất cả mấy trăm năm nay, nên không lo về phần chất lượng. Là doanh nghiệp đầu tiên nhập khẩu máy bay cá nhân với số lượng lớn, ông có sợ khó khăn? Bước đầu tiên chắc chắn rất khó. Cái khó đầu tiên là Hải quan hiện tại đang bảo chưa từng có tiền lệ nên chưa đủ thủ tục để thông quan. Luật nhà nước không cấm thì phải cho chúng tôi vào. Thuế cần nộp bao nhiêu thì cứ áp theo quy định của Bộ Tài chính. Trước khi nhập vào chúng tôi đã đoán trước là sẽ phải gặp khó khăn nên hiện giờ vẫn đang khá bình tĩnh. Còn phí nằm ở cảng thì mình cũng phải chịu thôi. Ông đã từng khẳng định sẽ tiến tới lắp ráp loại máy bay này tại Việt Nam, ông có thể nói rõ hơn về dự định này? Không phải dự định mà chúng tôi đã ký hợp đồng với các hãng sản xuất trong khoảng 2 năm nữa chúng tôi sẽ cho người sang học lắp ráp. Dự tính của chúng tôi là trong một năm sẽ đào tạo được khoảng vài chục học viên. Tuy nhiên, phải chờ 10 chiếc máy bay này về thì mới nên nghĩ đến chuyện lắp ráp. Cái lắp ráp máy bay này thuộc về ngành cơ khí. Chuyên ngành chính của tôi lại là về cơ khí động lực nên tôi nhìn thấy cũng khá đơn giản, ta có thể lắp lấy được. Cái khó thì các công ty nước ngoài đã nghiên cứu cả mấy chục năm nay rồi, bây giờ mình chỉ việc lấy đúng cái thiết kế đó và người ta sẽ hướng dẫn mình lắp ráp. 20/11 này chúng tôi sẽ cử một vài đồng chí sang học lắp ráp. Tuy nhiên, việc phát triển máy bay còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa như quy định về đường bay, cơ sở hạ tầng,….? Có một khó khăn là từ xưa đến nay Bộ Quốc phòng quản lý đường bay. Chính vì thế, chúng tôi đã gia nhập Câu lạc bộ hàng không Việt Nam và đã được Bộ Quốc phòng, quân chủng phòng không quân phê duyệt cho Hành tinh xanh làm một thành viên. Khi đã là thành viên thì việc mở các đường bay sẽ dễ dàng hơn. Họ cũng đã đề nghị với chúng tôi về chương trình giáo dục quốc phòng, chúng tôi cũng sẵn sàng tham gia. Chúng tôi sẽ nhập 4 chiếc máy bay đầu tiên này để làm chương trình giáo dục quốc phòng toàn dân. Học lái máy bay, chắc tốn kém lắm? Ngược lại. Tôi nghĩ sẽ rất rẻ. Bây giờ nếu đi vào khách sạn 5 sao, ăn một bữa cũng mất khoảng 100 USD. Nhưng khoản tiền đó, chúng ta cũng có thể học lái máy bay. Tất nhiên sẽ đắt hơn cho phí học ô tô một chút. Chúng tôi sẽ phát hành thẻ như sân gold và có các ưu đãi, Tuy nhiên, đây vẫn nằm trong kế hoạch nên chưa thể công bố được. Nhưng chắc chắn khi phổ biến rộng rãi, giá sẽ chấp nhận được. Ăn cơm bình dân và uống cà phê 17.000 đồng/cốc Bỏ tiền túi mua 10 chiếc máy bay cá nhân, chắc ông hay dùng bữa ở các nhà hàng sang trọng? Không. Tôi suốt đời chỉ tới quán bình dân và uống cà phê 15.000 đồng/cốc, giờ thì lên 17.000 đồng/cốc. Bữa ăn hàng nghìn đô tôi cũng chưa từng ăn cho phí của. Những người khó khăn họ có thể bán cả những bộ phận trên cơ thể đi chỉ để lấy vài trăm đô, tại sao mình lại đi ăn những bữa ăn cả nghìn đô, nó có làm cho mình bổ béo lên không? Người ta có thể nói rằng tôi bủn xỉn, không chịu ăn chơi, nhưng kệ. Còn chiếc xe ông hiện đi? Tôi chỉ có 1 chiếc Ford Escape bán 15.000 USD không ai mua. Chị mua không? Tôi bán lại cho. Nguyễn Yến =========================== Cái này gọi là "li chi cái nhỏ để chi... phí cái lớn", "Xài theo năng lực ăn theo nhu cầu".
-
Tư liệu tham khảo: Luận nạp âm thủ tượng : - Âm tức Hoàng đế tương nơi Giáp Tí phân khinh trọng mà phối thành 60, có tên Hoa Giáp tí, chữ Hoa thật rất ảo diệu. Thánh nhân mượn ý mà dụ vậy, không nên chấp nê cái ý nầy. Từ Tí đến Hợi trong 12 cung rải đều Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ, ban đầu khởi ở Tí là nhứt dương và cuối cùng ở Hợi là lục âm, ngũ hành sở thuộc Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ tại Thiên là ngũ hoàng, tại địa là ngũ nhạc, ở đức là ngũ thường, ở nhân là ngũ tạng, đó là mạng vậy, nên Giáp tí sở thuộc ứng mạng, mạng tức là việc cả một đời. Cho nên các tượng Giáp tí nạp âm là thánh nhân dụ vậy, cũng như các việc của đời người vậy. Vì sao gọi Tí Sửu là âm dương thai nghén, nhân tại bào thai mà vật tạng ở căn rễ chưa có hình thành, đến Dần Mảo thì âm dương bắt đầu mở dần , nhân cũng lần sanh trưởng , sự tinh hoa của vật cũng dần tạo ra như người bắt đầu lập thân vậy, qua Thìn Tỵ thì khí âm dương đã thành vật cho trái đẹp như người đến tuổi 30, 40, dến Ngọ Mùi thì khí âm dương sáng rõ mà vật đã tề chỉnh và người thì đến 50, 60 ; việc bần tiện phú quý đã định rõ, sự hung suy cũng biết rành, khi qua Thân Dậu thì âm dương tiêu sát vạt thì thâu thành người thì quy súc, mỗi đều tinh cả, đến Tuất Hợi thì âm dương bế tắc, khí vật trở về gốc, người cũng ngưng nghĩ, tất cả đều quy vậy. Nói qua về 12 vị ấy cứ lần lượt trước sau mà hiểu luc thập Giáp tí.- Sao mà tương cho Giáp Tí, Ất Sửu là Hải trung Kim, bởi khí ở bao tạng có tên mà không có hình, do người ở trong bụng mẹ vậy Nhâm Dần, Quý Mão tuyệt địa, Kim khí thô sơ bạc nhược nên gọi là Kim bạc Kim. Canh Thìn, Tân Tỵ là Kim ở đất Thổ Hỏa, khí đã phát sanh, Kim còn tại mỏ, nơi gởi hình để sanh dưỡng lại nhận chánh sắc ở phương Tây nên gọi là Bạch lạp Kim Giáp Ngọ, Ất Mùi tức khí đã thành, vật chất đã tự chắc thật, cuộn nơi cát mà cũng biệt nơi cát, ở nơi Hỏa mà luyện cũng nơi Hỏa nên gọi là Sa trung Kim. Nhâm Thân, Quý Dậu khí vật cực thạnh, đang lúc thâu liễm, thoát làm mủi nhọn như dao, do chánh vị là Thân Dậu lại đặt vào can Nhâm Quý tức Kim Thủy phối luyện để thành công dụng của Kim vậy, đến Tuất Hợi thì khí Kim tạng phục hình thể đã tàn, nung đúc trang điểm đã thành hình trạng, cát chứa trong lầu các không làm gì nữa nên công dụng của Kim đã hết do đó gọi Canh Tuất, Tân Hợi là Xoa xuyến Kim. Sao Nhâm Tí, Quý Sửu lại dùng cái tượng như cây dâu, bởi khí ở nơi quanh co hình trạng chưa thẳng và lại cư nơi đất Thủy, nhận khí dâu tàm theo thời mà sanh. Canh Dần, Tân Mão thì khí đã qua dương, được tài bồi cái thế lực mà tráng kiện chỉ nại ở dưới Kim, nhưng thường Kim có chất sương thì trở thành chắc chắn, Mộc cư ở đó thì thành vượng nên tánh cũng được kiên cố do đó gọi là Tùng bá Mộc. Mậu Thìn, Kỷ Tỵ thì khí không thành lượng, vật đã đúng thời, cành lá tốt thịnh sầm uất mà thành rừng, lại lúc Mộc rất thạnh nên gọi là Đại lâm Mộc. Nhâm Ngọ, Quý Mùi Mộc mà đến Ngọ thì tử, đến Mùi thì mộ cho nên dương liễu thanh mùa Hạ lá tàn, cây nhành có phần nhược nên tánh chất là nhu mềm bèn gọi là Dương liễu Mộc. Canh Thân, Tân Dậu thuộc Kim ngũ hành mà nạp âm thuộc Mộc, lấy tương khắc mà dùng, bởi tánh mộc cay chỉ có nơi Thạch lựu, khí đến Thân Dậu thì tịnh túc, vật dần thành thực, do Mộc ở đất Kim có vị cay nên gọi là Thạch lựu Mộc vậy, xét thấy các Mộc khác đến Ngọ thì tử nhưng chỉ riêng Mộc này đến Ngọ lại vượng đó cũng do tánh mà khác. Mậu Tuất, Kỷ Hợi thì khí quy về tàng phục âm dương bế mộ, khí mộc về gốc, nấp ở nơi Thổ cho nên gọi là Bình địa Mộc vậy. Bính Tí, Đinh Sửu vì sao mà dùng tuong nhuận thủy, bởi khí chưa thông tế, chẳng phải nơi thủy lưu, có được nơi thấp thì thủy tụ cũng tùy theo đất mà thôi nên gọi là Nhuận hạ Thủy. Giáp Dần, Ất Mảo khí dương xuất rõ, thế thủy nương ở gốc, lưu hành cuồn cuộn ở phương Đông cái thế rất mạnh nên gọi là Đại khê Thủy. Nhâm Thìn, Quý tỵ thế mạnh ở Đông Nam tàng khí Ly cung, Hỏa thế sáng mạnh, Thủy được quy khố, vừa nhiều vừa lưu nên gọi là Trường lưu Thủy. Bính Ngọ, Đinh Mùi khí đang lên xuống, ở cao thì hỏa sáng có thủy chảy do mưa, trong thủy có hỏa thì chỉ ở trên trời mới có nên gọi là Thiên hà Thủy. Giáp Thân, Ất Dậu khí an tịnh dừng nghĩ, mẫu tử đồng vị, xuất mà không cùng, múc mà không kiệt nên gọi là Tỉnh tuyền Thủy. Nhâm Tuất, Quý Hợi là đất thiên môn, khí quy về bế tắc thủy trãi khắp mà không xa, thế quy mà yên lặng, đến mà không cùng, nạp vào mà không đầy tràn nên gọi là Đại hải Thủy vậy. Mậu Tí, Kỷ Sửu sao lại lấy tượng Tích lịch Hỏa, bởi khí tại nhứt dương mà hình thì ở thủy vị, thủy ở trong hỏa khí là hạng thần long nên gọi là Tích lịch Hỏa. Bính Dần, Đinh Mảo khí dần phát huy, do nơi cây cỏ mà hiển ra, âm dương thì lửa thiên địa thì lò nên gọi là Lư trung Hỏa. Giáp Thìn, Ất Tỵ là nơi hình khí thạnh, thế ở chỗ cao chiếu sáng tới chỗ tối tăm nên gọi là Phúc đăng Hỏa. Mậu Ngọ, Kỷ Mùi khí quá dương cung, trùng ly tương hội, chớp sáng giao nhau phát nóng lên trên nên gọi là Thiên thượng Hỏa. Bính Thân, Đinh Dậu thì khí dừng mà hình núp, cái thể hỏa quang đã cát giấu mà quy về Đoài vị nên sức nhỏ thế yếu nhìn chẳng rõ xa nên gọi là Sơn hạ Hỏa. Giáp Tuất, Ất Hợi gọi là Sơn đầu Hỏa bởi sơn tạng hình mà đầu thì đơn quang, trong sáng ngoài tối, ẩn dấu không lộ, đem ánh quang đến hết quy về dừng nghĩ ở trong nên gọi là Sơn đầu Hỏa. Canh Tí, Tân Sửu sao dùng tượng Bích thượng Thổ, bởi khí ở nơi bế tắc, vật chuộng được bao nấp, che hình chận thể, trong ngoài không giao nhau nên gọi là Bích thượng Thổ. Mậu Dần, Kỷ Mảo khí đã thành vật, có công nuôi vật, phát ở nơi rễ mà trưởng thành ở nhụy đài nên gọi là Thành đầu Thổ. Bính Thìn, Đinh Tỵ khí đã thành dương, phát sinh đã quá, thành mà chưa đến nên gọi là Sa trung Thổ. Canh Ngọ, Tân Mùi thì khí đang thành mà hình vật đã lộ hình, có hình tức đã có chất tức vật đã rõ ràng nên gọi là Lộ bàng Thổ. Mậu Thân, Kỷ Dậu khí đã dừng nghĩ, vật đã thâu liễm quy về, đẹp mà vô sự nên gọi là Đại trạch Thổ. Bính Tuất, Đinh Hợi khí đã thành mỹ mãn, âm dương trãi khắp, thế đã nhàn hạ nên gọi là Ốc thượng Thổ. Ta thấy Lộ bàng Thổ sanh ra năm thứ cốc mễ nơi Ngọ Mùi cũng là thời hưng thạnh trưởng dưỡng. Đại trạch Thổ thông đạt 4 phương nơi Thân Dậu cũng đạt được lý hanh thông ; Thành đầu Thổ dùng để phòng sự công kích, Vương hầu nhờ nó để lập nước giữ dân vậy. Bích thượng Thổ là phấn để trang sức, thần dân đều cho dùng. Sa trung Thổ là đất rất nhuận, Thổ mà nhuận thì sanh nên chưa tới mà hữu dụng. Ốc thượng Thổ chỉ cho sự thành công, đã thành công thì dừng mà nhất định không đổi, bởi trong ngũ hành sự che chở dưỡng dục, tam tài ngũ hành đều không thể mất nơi cao thấp, mà đắc vị ở tứ quý mà có công, Kim thì được sắc nhọn cứng cáp, Hỏa thì được quang minh chiếu diệu, Mộc thì được tươi tốt xum xuê, Thủy thì được sung mãn không phiếm, Thổ thì được cấy gặt dồi dào, tụ mà không tán tức phải là sơn, sơn thì cao ; tán mà không tụ tức đúng căn nguyên, dùng mà không cùng, sanh mà không hết, cái công dụng hết sức to lớn. Lại nghe các nhà nhựt gia nói : Giáp Tí, Ất Sửu, tí thuộc thủy lại là hồ, tất thủy dụng, kim lại tử ở tí mộ ở sửu, thủy vượng mà kim tử mộ nên gọi là Hải trung Kim. Nhâm Thân Quý Dậu, thân Dậu là chánh vị của Kim, Lâm quan ở thân Đế vượng tại Dậu, Kim đã được sanh vượng tức thành cường vậy nên gọi là Kiếm phong Kim. Canh thìn Tân tỵ, kim dương ở Thìn mà sanh ở Tỵ, hình chất chưa thành nên chưa được cứng mạnh nên gọi là Bạch lạp Kim. Giáp Ngọ, Ất Mùi là đất vượng Hỏa, hỏa vượng thì Kim bại, Mùi là đất hỏa suy, hỏa suy thì kim quan đới bại mà phương quan đới thì chưa thể cắt chặc nên gọi là Sa trung Kim. Nhâm Dần, Quý MẢo, dần mảo là đất vượng mộc, mộc vượng thì kim loa, kim thì lại tuyệt ở dần thai ở mảo kim đã không còn lực nên gọi là Kim bạc Kim. Canh Tuất, Tân Hợi, kim đến tuất thì suy, đến hợi thì bịnh, Kim đã suy bịnh thì yếu mềm vậy nên gọi là Xoa xuyến Kim. Bính Dần, Đinh Mảo , dần là 3 dương mà mảo là 4 dương, Hỏa đã đắc địa lại được dần mảo mộc sanh, đây là thời thiên địa khai lư vạn vật thì sanh nên gọi là Lư trung Hỏa. Giáp Tuất, Ất Hợi là thiên môn, hỏa chiếm thiên môn thì ánh quang rất cao nên gọi là Sơn đầu hỏa. Mậu Tí, Kỷ Sửu, sửu thuộc thổ tí thuộc thủy, thủy ở chánh vị mà nạp âm thuộc hỏa chỉ có nơi hạng thần long nên gọi là Tích lịch Hỏa. Bính Thân, Đinh Dậu, thân là đất nhà dậu là nhựt nhập chi môn, nhựt đến đây thì hết ánh quang nên gọi là Sơn hạ Hỏa. Giáp Thìn, Ất Tỵ, thìn là thực thời tỵ là khu trung, nhựt ở đây thì đẹp thế dương chiếu cho thiên hạ nên gọi là Phúc đăng Hỏa. Mậu Ngọ, Kỷ Mùi, Ngọ là nơi vượng hỏa, Mộc ở trong Mùi trở lại sanh cho Hỏa, tánh nóng phát lên lại gặp sanh địa nên gọi là Thiên thượng Hỏa. Mậu Thìn, Kỷ Tỵ là cồn bãi ; Tỵ là lục dương, mộc đến đây thì cành lá tươi tốt, đã tốt cành lá mà lại ở nơi cồn bãi nên gọi là Đại lâm Mộc vậy. Nhâm Ngọ, Quý Mùi ; mộc tử ở ngọ mộ ở mùi, mộc đã tử mộ tuy được thiên can Nhâm Quý thủy sanh nhưng cũng bị nhu nhược nên gọi là Dương liểu Mộc. Canh Dần, Tân Mảo ;Mộc lâm quan dần đế vượng mảo Mộc đã sanh vượng thì không còn nhu nhược nữa nên gọi là Tòng bá Mộc. Mậu Tuất, Kỷ Hợi ; tuất là cồn bãi hợi là nơi sanh mộc, Mộc mà ở nơi cồn bãi thì như thể một gốc một cây nên gọi là Bình địa Mộc. Nhâm Tí, Quý Sửu ; tí thuộc thủy sửu thuộc thổ, thủy thì sanh mộc mà bị thổ phạt nên phải làm loại dâu tằm để phương sanh do đó gọi là Tang đố Mộc. Canh Thân, Tân Dậu ; Thân thuộc tháng 7 dậu thuộc tháng 8, đây là thời mộc tuyệt, chỉ có thạch lựu mới kết thật nên gọi là Thạch lựu Mộc. Canh Ngọ, Tân Mùi ; ngọ mùi thì vượng hỏa, hỏa vượng thì thổ được thêm, lại thọ sanh nơi thổ, nên gọi là Lộ bàng Thổ vậy. Mậu Dần, Kỷ Mảo ; thiên can mậu kỷ thuộc thổ, dần là cấn do tích thổ mà thành sơn nên gọi là Thành đầu Thổ. Bính Tuất, Đinh Hợi ; Bính Đinh thuộc Hỏa, Tuất hợi là thiên môn, Hỏa đã nóng lên trên thì thổ chẳng ở dưới mà sanh nên gọi là Ốc thượng Thổ. Canh Tí, Tân Sửu, sửu tuy là thổ chánh vị mà tí lại là nơi vượng thủy, thổ gặp thủy thì thành bùn nên gọi là Bích thượng Thổ. Mậu Thân, Kỷ Dậu ; thân thuộc đất khôn dậu thuộc đoài trạch, Mậu Kỷ thổ lại thêm Khôn Đoài nên là nơi đầm trạch lớn mới gọi Đại trạch Thổ. Bính Thìn, Đinh Tỵ ; Thổ khố ở Thìn tuyệt ở tỵ mà thiên can là Bính Đinh hỏa đến thin là quan đới, tỵ là lâm quan, trên đã tuyệt khố mà gặp hỏa vượng trở lại sanh nên gọi là Sa trung Thổ. Bính Tí, Đinh Sửu ; thủy vượng ở tí, suy ở sửu, vượng mà trở lại suy nên không thể là sông hồ do đó gọi là Giãn hạ Thủy. Giáp Thân, Ất Dậu ; lâm quan thân đế vượng dậu, Kim đã sanh vượng thì thủy nương đó mà sanh, sức lực chưa lớn nên gọi là Tỉnh tuyền Thủy. Nhâm Thìn, Quý tỵ ; thin là thủy khố, tỵ là nơi kim tràng sanh, kim đã sanh mà thủy đã vượng lại khố thủy mà gặp kim sanh thì tất dòng chảy không cạn nên gọi là Trường lưu Thủy. Bính Ngọ, Đinh Mùi ; Bính Đinh thuộc hỏa, Ngọ là nơi vượng hỏa nạp âm lại là thủy, thủy từ hỏa mà xuất chỉ là ngân hà mới có nên gọi là Thiên hà Thủy. Giáp Dần, Ất Mảo ; Dần là Đông Bắc, Mảo là chánh Đông, Thủy lưu ở chánh Đông thì tánh được thuần nên sông ngòi hồ lạch đều hợp lại mà về nên gọi là Đại khê Thủy. Nhâm Tuất, Quý Hợi thủy, Tuất Quan đới, Hợi Lâm quan nên lực rất mạnh, lại Hợi là sông chẳng có thủy nào sánh được nên gọi là Đại hải Thủy. Thuyết tuy không thông nhưng có thể thấy rõ được cái nghĩa tương hỗ dùng tương của cổ nhân vậy. Thường luận rằng ngũ hành thủ tượng do nơi sự đối đải mà phân âm dương, trước sau biến hóa rõ ràng. Như Giáp Tí Ất sửu đối với Giáp Ngọ Ất Mùi, Hải trung Sa trung lấy Thủy sanh mà biện phân âm dương vậy. Nhâm Dần Quý Mảo đối với Nhâm Thân Quý Dậu lấy Kim Mộc mà biện cương nhu khác nhau vậy. Canh Thìn Tân Tỵ, Canh Tuất Tân Hợi ,Bạch lạp Xoa xuyến, Càn Tốn khác phương, hình sắc mổi lạ. Nhâm Tí Quý Sửu đối với Nhâm Ngọ Quý Mùi, Tang đố Dương liểu, một cong một mềm, hình chất khác nhau vậy. Canh Dần Tân Mảo đối với Canh Thân Tân Dậu, Tùng bá Thạch lựu một cứng một cay, tánh vị đều khác vậy. Mậu Thìn Kỷ Tỵ đối với Mậu Tuất Kỷ Hợi, Đại lâm Bình địa một thịnh một suy, Tốn Càn đối phương. Mậu Tí Kỷ Sửu đối với Mậu Ngọ Kỷ Mùi, Tích lịch Thiên thượng, lôi đình huy tiên nhật nguyệt đồng chiếu vậy. Bính Dần Đinh Mảo đối với Bính Thân Đinh Dậu, Lư trung Sơn hạ hỏa thịnh mộc thiếu kim cường hỏa diệt. Giáp Thìn Ất Tỵ đối với Giáp Tuất Ất Hợi, Phúc đăng Sơn đầu, hàn quang sợ gió, đưa quang về Cấn. Bính Thìn Đinh Tỵ đối với Bính Tuất Đinh Hợi, Sa trung Ốc thượng, cạn ướt tương hỗ biến hóa thỉ chung. Xét tròn xét vuông không ngoài vượng tướng tử hưu tù. Lấy gần lấy xa chẳng rời Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ. Lấy can chi mà phân phối ngũ hành, luận âm dương mà sáng tỏ trước sau, thiên thành nhân lực gồm tương sanh vượng tử tuyệt các loại. Kêu là lục thập Giáp tí chẳng qua Thánh nhân mượn cái tượng mà làm rõ cái lý ; tính chất hình sắc của ngũ hành công dụng chẳng thể không khúc tận mà tạo hóa không dư chứa. Trong Dịch nói đạo lập thiên âm với dương nhật là Thiên đạo vậy, 10 ngày thay đổi là đã rõ cái nghĩa âm dương, còn cái đạo lập địa thì cương nhu thời tức địa đạo vậy. Từ Tí đến Hợi có 12 thời thứ bậc mà rõ nghĩa âm dương, trước bày thanh sau đó là âm, cho nên dùng nhật thời thác tống nạp giáp để thành ngũ âm, lấy lục tượng đó là tam tài đủ mà ngũ hành không dư vậy. Dùng can là Lộc mà định quý tiện, lấy chi là mệnh để định trường đoản, lấy nạp âm là thanh để xét thanh suy, người nếu có Lộc, mệnh thân đều được vượng tướng, tam tài đắc khí thì chắc khoái lạc trường thọ ; nếu bị tử tuyệt hưu tù, tam tài thất khí thì một đời trần ai khốn khổ chẳng sai. nguồn:phongthuyquan.vn