Thiên Đồng

Hội viên
  • Số nội dung

    6.278
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    75

Everything posted by Thiên Đồng

  1. Hành trình kỳ lạ của một người Việt đến Tây Tạng Kỳ 1: Đến Lhasa Thanh Niên – Thứ sáu, ngày 18 tháng mười một năm 2011Vài ngày sau khi đến Lhasa, Lạt ma Thubten Osall Nguyễn Tấn Tạo đã xuất hiện trên đường phố với pháp phục màu vàng chói uy nghiêm của một thiền sư khiến dân chúng cả thành Lhasa kinh ngạc và lo lắng giùm cho ông, vì đây là điều cấm kỵ từ lâu ở xứ này. Sự xuất hiện khác thường Theo ghi chép của ông trong Nhật ký tham bái Ấn Độ - Tây Tạng (chưa xuất bản) thì thời ấy việc mặc pháp phục màu vàng đi giữa thành phố Lhasa là vi phạm luật định: “Bất cứ ai nếu thấy mặc đồ vàng thì phải bị bắt và đánh đuổi ra, vì xứ Lhasa trọng sắc vàng lắm. Sắc Phật chỉ đặng làm y, làm áo, làm mão, còn ai dùng làm chăn, làm quần, làm vớ, làm giày bằng sắc vàng ấy thì bị phép nước bắt đánh đòn, lột đồ ấy rồi đuổi ra khỏi nơi cư ngụ. Nhơn dân quăng đá mắng chưởi. Ấy là tục lệ xứ này vậy”. Sau vài giây phút ngỡ ngàng, dân chúng thành Lhasa đã yên lòng vì thấy đi bên cạnh ông là những quý tộc và những viên chức hộ tống đưa ông đến dinh của một vị quan cấp cao nhất Lhasa đương thời, mà ông gọi là “thừa tướng” cho dễ hiểu: “Quan thừa tướng cho người lại bảo bần đạo phải đắp y bi sô (tức pháp phục màu vàng của tỳ kheo) chứ không nên bận đồ Tây Tạng đi yết kiến” và đó là một đặc ân hiếm thấy. Trước kia, đã có những vị tỳ kheo các vùng khác đến Tây Tạng nhưng cũng không được mặc sắc vàng như ông. Vì thế, khi ông xuất hiện, người lớn trẻ em đang đứng “trên đường và hai bên phố đều dòm ngó xầm xì”... Đến dinh thừa tướng cũng vậy: “Cả người trong dinh đều thấy, đã đồn rân khắp thành thị, phần đông đều hiểu trước thầy là người quen của nhà thừa tướng”. " " Chùa Tây Tạng ở Bình Dương (do Lạt ma Nguyễn Tấn Tạo khai sơn) hiện nay với phong cách kiến trúc theo mô hình các cổ tự ở Himalaya - Ảnh: Võ Văn Tường Quan thừa tướng và phu nhân mời ông ngồi trên đơn, còn những người khác tháp tùng “ngồi trên rầm trên đất”, vì tục người Tây Tạng không có bàn ghế bằng gỗ. Phu nhân đeo ngọc châu “tóc rẽ làm hai, đeo trên hai góc ngôi sao, bỏ xả hai bên tai (chạy xuống) khỏi vai, đoạn dưới tóc bính, rồi đâu hai bính ra sau lưng, có một sợi ngọc điệp cột hai bính ấy”. Bà bưng một cái đĩa bạc trên có đặt sẵn bình trà, bình sữa và bình đường cũng bằng bạc, đem đến mời ông. Lần thứ hai, vào 1.7.1936, quan thừa tướng lại sai người đến mời ông lần nữa, lần này để xem hát ở dinh. Hết lớp hát khoảng 9 giờ đêm, phu nhân đãi trà và chính tay bà quẹt lửa cho ông đốt thuốc. Tiếp kiến pháp vương Chính nhờ thừa tướng và phu nhân cùng các lạt ma có uy tín lúc bấy giờ ở Lhasa mà sau đó ông được giới thiệu để tiếp kiến Pháp vương Bodalama lần thứ nhất ngày 3.7.1936. Ấy là một ngày có ý nghĩa rất lớn đối với ông trong chuyến hành hương. Là vì lần đầu tiên ông yết kiến pháp vương có “mặt mày sáng láng, ngồi trên long đơn, trước có tợ sơn son phết vàng, trên đơn trải gấm Tây Tạng, nội bộ chỉ có bần đạo đắp y vàng rực từ trên sắp dưới, làm cho quốc vương chăm chỉ ngó ngay, khiến các lạt ma và quan nội điện đều để mắt”. Pháp vương rất hài lòng, ngài cầm một nắm dây lụa điều màu đỏ quấn lên cổ ông thân thiết. Khi ra về, dân chúng hai bên đường phố Lhasa thấy sợi dây điều màu đỏ trên cổ ông đều biết ông ở trong ngự điện thiền cung mới ra nên tỏ thái độ cung kính chiêm ngưỡng ông. Ông yết kiến pháp vương lần nữa vào ngày 4.10.1936, sau đó được pháp vương ban pháp danh là Thubten Osall Lama. Theo ông giải thích: “Thubten là tên của đức Tả tê Lama thái thượng hoàng đã băng. Thubten (có nghĩa là): vòng cứng bền chắc của kim cương. Còn chữ Osall (có nghĩa là): ánh sáng mặt trời - tên của đương kim quốc vương lạt ma, nên bần đạo biết Thubten Osall có nghĩa là Huệ Nhựt (có thể hiểu là: ánh sáng trí huệ phóng chiếu rực rỡ như mặt trời)”. Được pháp vương và các lạt ma, quý tộc Tây Tạng giới thiệu, ông đã đến thăm điện Potala - nơi được mệnh danh là trái tim hoặc linh hồn của thủ phủ Lhasa, tận mắt quan sát, chiêm ngưỡng và ghi lại cảnh chùa cất trên đỉnh núi với rất nhiều đèn lưu ly thắp bằng beurre tại các điện, với nhiều lầu nhiều nóc mà nóc nào cũng thếp vàng khiến ông “chói mắt vì thấy nhiều điện Phật toàn bằng vàng ròng, lư đèn, lục bình các món cũng vậy... Ôi đến nơi: thấy tháp cao lớn, cả trên dưới đều thếp bọc vàng ròng, chạm trổ, ngọc thạch xanh, đỏ, vàng, trắng, lưu ly, pha lê, trân châu, thủy xoàng của quan dân cúng dường gắn khắp tháp”. Những ghi nhận của ông về điện Potala hoàn toàn phù hợp với tài liệu do Lạt ma Lobsang Rampa cung cấp sau này qua cuốn Các lạt ma hóa thân (Lê Nguyễn dịch, NXB VH-TT 2003). Theo đó, điện Potala là một cung điện khổng lồ xây trên miệng một núi lửa đã tắt và trên nền móng của một cung điện cũ, ngọn hỏa sơn này “chứa trong lòng nó những hang động bí mật với hàng ngàn đường hầm tỏa ra tứ phía. Có những hang động cất giấu nhiều tài liệu cổ xưa hàng chục thế kỷ. Có những kho chứa châu báu, vàng ngọc từ thời đại xa xưa. Rất ít ai được biết đến những chỗ này (...) những mạch vàng lớn khoảng mấy chục thước bề ngang, ngày xưa nhiệt độ cao đã làm vàng chảy ra như sáp nến về sau nguội dần, đông đặc lại thành những mạch vàng dài như một con rồng uốn khúc. Bây giờ chắc hiểu tại sao người ta xây cung điện khổng lồ lên trên miệng núi lửa như thế (...) nếu không biết che giấu, Tây Tạng có thể trở nên một chiến trường đẫm máu do lòng tham vô độ của con người” (sđd trang 63). Ông cũng đã đi nhiều chùa lớn và tu viện khác thuộc vùng phụ cận của Lhasa, để rồi một hôm - ông bất ngờ gặp một đại sư bí mật trong hẻm núi vắng lạnh và trở thành chuyện lạ nhất của chuyến hành hương. Vì chính cuộc kỳ ngộ đó đã đánh thức trí nhớ và công phu tu tập từ tiền kiếp của ông... Kỳ 2: Rời xứ tuyết Trước ngày rời Lhasa, Lạt ma Thubten Osall Nguyễn Tấn Tạo đã gặp một vị Tổ sư sống ẩn dật trong hốc núi tuyết... Gặp Tổ sư trong núi lạnh Vào một ngày rằm, ông cùng Lạt ma Shamden (là vị Lạt ma được Pháp vương Tây Tạng cử đến ở cạnh ông) ra một bờ suối lớn vùng phụ cận Lhasa. Suối này uốn lượn thông đến các dãy núi cao và xa hút tầm mắt. Đến khúc quẹo vắng vẻ, ông tách ra đi dạo một mình và đột nhiên cảm thấy đường đi quen quen, giống với con đường ông đã thấy trong một giấc mộng trước đó. Quanh co gần cả buổi sáng, cuối cùng đến một hẻm núi vắng lạnh, bên trong có một người đang chờ ông, đó là vị Tổ sư (chữ của ông dùng) sống ẩn dật lặng lẽ không biết đã bao nhiêu năm ở đây. Ông đảnh lễ ngài. Ngài lấy một tấm đá có khắc mấy dòng chữ đưa cho ông bảo hãy nhận lấy để hành trì pháp môn của Đức Bồ đề Đạt ma chính lý. Tiếp đó ngài đem yếu lý Tâm kinh Bát nhã ba-la-mật-đa ra truyền: “Ôi nhờ ngài chuyển tư tưởng mở cả trí não của bần đạo, làm cho bần đạo đoạt lý tâm kinh, mới biết đó là đại thần chú của tam thế chư Phật. Đảnh lễ cảm ơn giáo hóa. Ngài cười rồi đứng dậy rờ đầu bần đạo rằng: Nhân duyên trong đạo nhiều kiếp qua rồi, nay gặp nhau cũng còn dìu dẫn. Bông ưu đàm nải búp (đơm nụ) chẳng bao lâu sẽ trổ...”. Trong khoảng thời gian nhanh chưa đầy một búng ngón tay, ngài vẽ một bông sen trong lòng bàn tay phải của ông, nói: “Kinh (mang) tên bông này (ngươi) có tụng đọc mà chẳng đoạt lý hay sao?” (Kinh Diệu pháp liên hoa - tức Pháp Hoa). Ngài lại “móc một cục đất dưới chân (đất mềm) nắn ra hình một cái chén, đoạn thổi một hơi khô queo. Ngài hỏi cái chi? Bần đạo đáp: Đất...”. Ngài khen: “Đúng lắm... trước nó là đất, bây giờ ra hình là cái chén”. Có ý bảo rằng: Đất có thể tạo nên nhiều thứ đồ dùng hình trạng khác nhau như chén, đĩa, bát, bình hoa... Nhưng cái thể chung nhất của các thứ đồ vật ấy vẫn là đất thôi. Người có con mắt đạo nhìn xuyên qua những hình tướng sai biệt bên ngoài để thấy cái “đồng nhất”, cái “nhất thể”, cái “nguyên sinh” của vạn vật, vốn không hai, không khác. Nếu có cái hai, ba, bốn, năm và nhiều vô lượng nữa thì vẫn chỉ là những “hoa đốm trên không” rốt cuộc sẽ bị hoại diệt như kinh Kim Cương chỉ rõ: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”. Nghĩa là phàm thứ gì có tướng trạng (như con người, các loài vật, nhà cửa, bàn ghế, cây cối, núi non, rừng rậm, tinh tú, các thiên hà) đều phải theo thời gian hư hoại. Từ nghĩa đó, Tổ nhìn thẳng vào ông chuyển trí để ông “thấu đáo kinh Kim Cương nghĩa lý nhiệm màu” và kêu lên: “Ôi! Tu trong mấy kiếp, đoạt lý một giờ...”. Trở về nhà, ông không kể lại gì về chuyện mình đã gặp Tổ sư, mãi đến trước ngày rời Lhasa khoảng nửa tháng ông mới hỏi Samdhen: “Này huynh, vậy chớ huynh có biết hướng nam nơi dãy núi từ Bumpari chạy dài theo mé suối lớn có vị đại đức Lạt ma nào ẩn dật tu hành nơi ấy chăng?”. Samdhen đáp: “Khi tôi còn nhỏ trong khoảng 9 năm trời ở tại chùa Dzêsbung tôi đã nghe nói có nhiều vị đại Lạt ma ẩn dật trong hang núi để tu hành cao pháp (pháp tối thượng) nhưng ít ai gặp đặng các ngài... nhưng làm sao thầy biết vậy mà hỏi tôi?”. Ông đáp: “Nếu tôi không biết thì làm sao hỏi huynh đặng (...) tôi có đến gặp đại lão Lạt ma, người thông tiếng Hindou lắm”. Samdhen nài nỉ hỏi vị đại lão Lạt ma ấy nói gì. Ông bộc bạch thiệt tình: “Có, nhưng tôi không thể nói lại cho huynh hiểu... Vì nghe qua thì hiểu, mà nói lại thật khó lắm!”. Tháp tròn tại chùa Tây Tạng (Bình Dương) tạo hình theo phong cách mỹ thuật Tây Tạng - Ảnh: Giao Hưởng Về lại Việt Nam Sau hơn 5 tháng ở Lhasa (28.5 đến 29.10.1936), ông từ biệt Pháp vương Tây Tạng và các Lạt ma để lên đường về lại Việt Nam. Chuyến về lượt này đông hơn, vì có thêm 8 mã tử tháp tùng và 36 con ngựa thồ đồ đạc, với lộ trình phải trải qua từ Xhuxul, Bede, Namcachê, Ralum, Yăngsê, Khăngma, Kala, Tunna, Pharijong (trả ngựa), tiếp đến: Gialinkha, Chima, Natăng, Linhđam, Tchongthapa, Arakara, Kalimpong. Trên những chặng đường đó, ông ghé qua nhiều xóm làng tuyết phủ như Dranhđaziga, Yokăng, Samadước, Xhalu, vượt qua đỉnh Kharula, Nađăng, Zêlêla, ghé các quán gió hú hẻo lánh ở Nepal để uống vài ly trà nóng biệt ly... Đến chân dãy Himalaya, ông theo các tuyến xe lửa đi thấp dần xuống đồng bằng có nắng và đặt chân vào đất Ấn Độ, tới Calcutta, rồi xuống tàu đi Ceylon, hồi tưởng mới ở đỉnh núi tuyết lạnh lẽo, bây giờ tựa như chớp mắt ngủ dậy “sáng ra đã thấy biển mênh mông” quanh mình. Lên bờ, ông ra mắt “giáo chủ tại Đại học đường Pali” và nhận thêm một pháp danh tiếng Pali nữa: Manjusri (Manhgiusshri). Qua chuyến đi, ông ghi nhận tượng ngài Di lặc thờ ở Ấn Độ (và ở Tây Tạng) có khác với tượng Di lặc đang thờ ở Việt Nam (và Trung Quốc)... Về lại Việt Nam, trong sáu năm từ 1944-1950, Lạt ma Thubten Osall Nguyễn Tấn Tạo (tức thiền sư Nhẫn Tế - Minh Tịnh) đã dịch bộ Lăng Nghiêm tông thông (do Nam Nhạc Tăng Phụng Nghi soạn), sau này được ấn hành bởi Thành hội Phật giáo TP.HCM, năm 1997, gồm hai tập, 1.463 trang (tái bản trọn bộ bởi NXB Tôn Giáo - Hà Nội 2002). Giao Hưởng nguồn: http://www.thanhnien.com.vn/
  2. @ Hơi & Mao, Nên chọn 8/12 âm giờ Mùi 13g-15ghay giờ Dậu 17g-19g. hay chọn 12/12 âm giờ giờ tị 9g-11g. Chúc hạnh phúc Thiên Đồng
  3. Nhân dịp Ngày Nhà Giáo Việt Nam, Thiên Đồng Kính Chúc Sư Phụ An Khang Và Văn Hiến Việt 5000 Năm Vinh Hiển.
  4. @Minh Anh Kính mong anh Thiên Đồng xem giúp dùm em một quẻ (chắc bạn Thiên Luân đang bận bịu rồi ^_^) Số là em chuẩn bị xin việc, lòng rất tham sau 3 năm thất nghiệp, em chỉ đang phân vân không biết nên "đòi hỏi" mức lương nào cho phù hợp theo 2 vế sau: 1. Như lòng tham là 1k 2.Khoảng 800 nhưng phải cộng cho em thêm những thứ khác Vì đây là một công ty cổ phần có xuất thân của nhà nước, mới mở rộng một lĩnh vực mới (họ chưa biết gì về lĩnh vực này, khác em^_^), chắc chắn có thêm những khoản khác trong quá trình làm việc... nên em hơi phân vân... Xin anh Thiên Đồng xem giúp dùm em khả năng em nên thương lượng mức nào cho chị ấy khỏi "Lưu Niên" ạ? Vì hiện tại em nhìn bảng xem ngày của mình thì thấy quẻ Đỗ Lưu Niên, em tuổi Canh Thân ạ, hỏi vào giờ Tỵ, ngày Đinh Tị tháng Kỷ Hợi năm Tân Mão Thêm nữa xin Anh cho em lời khuyên về thái độ khi đi gặp chị sếp trong buổi phỏng vấn vào ngày Thứ Hai tới vào giờ Thân ạ. Em mong là em sẽ "quơ" được job này để ổn định cuộc sống và hẹn gặp Anh trong một ngày offline không xa ^_^ Kính chúc Anh thật nhiều sức khỏe. Xin cảm ơn Anh trước ạ Đến hôm nay trả lời thì chắc trể rồi, nhưng có thể đoán là cuộc phỏng vấn cũng hơi căng, người trả lời cũng đành phải làm bóng bảy kinh nghiệm và khả năng của mình để được việc, nếu không như thế thì hư bột hư đường. Tuy nhiên kết quả là " Chúc bạn may mắn lần sau". Hic. @ Canhcut Kính gửi chú Thiên Đồng, mong chú xem giúp cháu một quẻ Nữ Canh Ngọ Hỏi lúc 20h45 ngày 29/10/2011 dương lịch. Cháu muốn nhờ chú tư vấn giúp chuyện gia đình bác cháu, bác gái cháu đang rất mệt mỏi khổ tâm ạ, vì có kẻ thứ 3 hình như đang muốn xen vào chuyện gia đình của bác cháu. Cháu muốn hỏi là: Người thứ 3 này có ý đồ như thế nào? Ý đồ kể thứ 3 có thể là chia rẻ cái mối quan hệ trong gia đình và nhắm đến tài sản hay nhà đất của một ai đó trong nhà. Hai bác cháu có sống được tới cuối đời với nhau không? Dắt tay đi hết đường đời đắng cay sướng khổ cuộc chơi vô thường Chuyện này bao giờ thì giải quyết xong ạ? Kính mong chú cho lời khuyên giúp ạ Nhanh thì cuối tháng 10 âm, châm 5 thì tháng giêng năm nhâm thìn. Thật sự cảm ơn chú rất nhiều Chúc chú dồi dào sức khoẻ và nhiều niềm vui ạ @Mecoca Chào chú Thiên Đồng, hôm nay lại vào nhờ chú xem quẻ giúp ạ! Cháu tuổi : Bính Dần, hỏi lúc 11h 37 phút sáng, ngày 31/10/2011 Văn phòng kinh doanh du lịch của cháu, kế toán thông báo sẽ xin nghĩ vào tháng 12, cháu đồng ý vì công việc liên quan đến kế toán không nhiều, nay cháu muốn học thêm về báo cáo thuế để tự làm. Xin hỏi chú: 1. Học các lớp ngắn hạn để báo cáo thuế thôi được ko?Hay học đại học kế toán (hệ từ xa vì cháu không có thời gian ạ)? Chắc ăn là học lớp ngắn hạn. 2. Kế hoạch có thực hiện được không ạ,khi nào thì có thể bắt đầu học? Sau một tháng nữa kể từ khi hỏi. 3. Cháu chưa tìm được kế toán, sẽ tự làm báo cáo dựa trên các số liệu kế toán đã làm, có bị phiền phức với bên thuế không ạ? Không sao. Quẻ này thấy ổn. Cám ơn chú rất nhiều ạ! @kimnana20 Hôm nay ngày 1/11/2011, 8h23'. Tuổi Nhâm Thân. cháu muốn hỏi chú Thiên Đồng mấy câu ạ.Mong chú tư vấn giùm cháu - cháu đang yêu đơn phương một người vậy tình cảm của người đó như thế nào ạ Tốt nhất đừng nên yêu đừng nên quen, vì sẽ thiệt vào thân về nhiều thứ. , liệu cháu có nên nói tình cảm của mình với người ấy không? Không nên Và khi nào thì cháu bắt đầu có tình yêu của mình ạ, Đến tháng 3 năm 2012 có. người ấy sẽ như thế nào? Tính tình hơi ngang, hơi khó hiểu. - sau này ra trường cháu có được bằng khá vàcó đi luôn theo đúng chuyên ngành của mình không ạ. Bằng cấp cũng thuộc hạng khá nhưng làm thì không đúng ngành - Cháu có thể kinh doanh nhỏ trong thời điểm này được không,có bị lỗ không ạ! Có thể được. Hòa vốn là mừng. Cháu cảm ơn chú, mong chú giúp đỡ@ @ datvietnam Kính gửi anh Thiên Đồng, mong anh xem giúp em. Nam, tuổi Ất Sửu. Hỏi vào lúc 10 giờ 23 phút (buổi sáng) ngày 4 tháng 11 dương lịch. Câu hỏi 1: Năm 2013 em có gặp được người sau này sẽ là vợ của em không? Cô ấy có phải là người mà em đã từng gặp hoặc quen biết không? Sẽ gặp. Một trong nhưng người bạn đang quen, đến nay vẫn con liên lạc hay vẫn con mối quan hệ. Câu hỏi 2: Vợ tương lai của em làm nghề gì? Bó tay. Trăm vạn nghề sao biết mà lần! Câu hỏi 3: Em dự định đi học nâng cao kiến thức, theo anh trong các năm 2013, 2014, 2015, 2016, năm nào em đi học là tốt nhất? năm 2013. @ Tianang Dạ, bây giờ là 05 Th11 2011 12:57 PM (theo đồng hồ của diễn đàn. Em sinh ngày 30/3/1980, ông xã sinh ngày 14/6/1976, hiện đang mang thai dự sinh tháng 4 năm sau. Xin nhờ anh xem giúp: 1/ Việc sinh nở có thuận lợi không? Em chỉ mong sinh con bình thường, khỏe mạnh, dễ nuôi là vui rồi. Mong ước không biết có được toại nguyện không ạ. Có khó khăn trăn trở tí, nhưng không đến nỗi thầy thuốc phải can thiệp. 2/ Bé sinh ra cơ bản sẽ là người thế nào, và cần chú ý vấn đề gì khi nuôi dạy con. Xinh đẹp, mắt to, cười rất xinh. Nuôi con bằng cả tình thương của mẹ là được. 3/ Tình hình sức khỏe , tiền bạc và sự nghiệp của ông xã năm sau sẽ như thế nào ạ? Kinh tế gia đình năm sau có tốt không? Năm sau vẫn chưa ổn, năm sau phòng kẻ chơi xấu, kinh tế kém, làm tay trái áp phe còn vớt vát được. Xin cảm ơn anh đã dành thời gian. Xin chúc anh vạn an. @Mickkey Hiện tại con đang có 1 số điều rất băn khoăn. Con xin bác Thiên Đồng coi giùm con với ạ Giờ hỏi: 11h 57' trưa , Ngày 7/11/2011. Tuổi Kỷ Tỵ 1. Con đang vướng phải 1 chuyện tình cảm với một người mà có lẽ đúng ra con cần phải quên lãng. Tụi con đã chia tay ( đến giờ phút này thì có lẽ 95% là không thể quay lại đc nữa rồi).Nhưng giờ con không thể quên đc họ mà ngày càng lún sâu như vầy.Con phải làm sao để có thể delete họ ra khỏi tâm trí con đây bác ? Bác có thể xem cho con nguyên nhân chính làm cho chúng con chia tay đc ko à? ( vì thực sự con cũng ko biết đc lý do mà người ta đưa ra là làm sao nữa bác à).Con nên lãng quên vè coi họ là 1 kỷ niệm đẹp hay là bắt đầu lại từ đầu vậy ạ? Cứ làm theo cảm xúc nào mà mình thấy thoải mái nhất. Nếu lãng quên người này thì bao lâu nữa con mới thực sự có cảm giác yêu trở lại? Đến tháng 5 âm năm 2012 2. Con cảm thấy như mình đang ở giai đoạn khủng hoảng,đen tối nhất trong cuộc đời. Xin bác cho con hỏi đến khi nào thì con có thể qua sóng gió và bình yên trở lại ? Hết tháng giêng năm 2012 hay tháng 4 âm. 3. Từ trước đến giờ có ai yêu con thật lòng không? ( vì sau những lần đổ vỡ hình như con đã mất đi cảm giác yêu và tin tưởng vào t/y của 1 người nào đó). Sau này gia đình riêng của con có hạnh phúc ko? có mấy đứa con? Cụ thể là nhiêu trai, nhiêu gái? Nếu thật lòng thì không đổ vỡ. Mong bác quan tâm giúp đỡ.Con cảm ơn bác nhiều. Chúc bác Vạn sự cát tường ! Hỏi xong lúc 12h16' . Mickkey ! @Minhvuong Em xin nhờ anh Thiên Đồng xem giúp e môt quẻ. Em tuổi Tân Dậu, Ngày 09-11-2011 lúc 12:49 PM Câu 1 : Em tính nộp đơn xin việc ở công ty khác.Em xin hỏi là e có thành công,xin được vào công ty khác không ạ? Đến bay giờ thì câu hỏi này đã quá trể, nhưng kết quả thì không. Câu 2: Nếu xin được thì công việc ở công ty mới này có tốt hơn(về lương cao hơn nhiều ,chế độ có tốt hơn,công danh tốt hơn) công ty đang làm không anh? xxxxxxxx Câu 3:Em định đầu tư ,em xin hỏi việc đầu tư này có thành công không anh? Đừng đầu tư, coi chừng bị lỗ nặng. Em xin cám ơn anh,mong anh giúp em.Chúc anh luôn mạnh khỏe,thành công trong mọi lĩnh vực. @nangmoi Cháu chào chú Thiên Đồng! Chuyện tình duyên của cháu lại lần nữa tan vỡ đúng như chú xem quẻ. Chú xem giúp cháu lần này nữa nhé. Tuổi Giáp Tý 1984 Hỏi vào lúc: ngày 9/11/2011; 21h41 Câu hỏi 1: Chú xem giúp chuyện tình duyên, hôn nhân của cháu sắp tới thế nào ạ (thời gian và kết cục ạ). Quẻ tốt. Đám cưới lớn. Câu hỏi 2: Công việc của cháu sắp tới có gì biến chuyển không ạ. Có biến động tí, về quan hệ hoặc vị trí bất an nhưng đều qua. Ổn. Câu hỏi 3: Sức khỏe của cháu có gì lo lắng lắm k ạ. Không, nhưng coi lại gan nhé. Cháu cảm ơn chú nhiều! @ hoamaudon Em xin nhờ anh Thiên Đồng xem giúp 1 quẻ. Cảm ơn anh nhiều Tuổi Kỷ Mùi, Nữ Xin quẻ lúc 14h26 ngày 10/11/2011 1/ Chồng em (Mậu Ngọ 1978) định đổi công việc đang làm sang dạy học vào năm sau, công việc dạy học đó có tốt với chồng em không ? Sẽ có khó khăn. Phải chịu khó. 2/ Công việc mới đó có mang lại tài lộc hơn công việc đang làm không ạ? Không hơn 3/ Sức khỏe của gia đình em có tốt không ạ ? Tốt. không sao. Cảm ơn anh @Miu Cháu chào chú Thiên Đồng Cháu là nữ Tuổi: Kỷ Tỵ Sinh ngày 26/9/1989 DL, lúc 10h50p ( giờ Ngọ) Câu hỏi của cháu: 1. Bao nhiêu tuổi cháu có người yêu và lấy chồng? Đang có, sớm 24 tuổi có chồng, trể 27 tuổi chống cò. 2. Chồng cháu là người thế nào? Cao ráo, vui vẽ, kỹ tính. 3.Vấn đề tài chính của cháu sau này ra sao? Chưa biết Cháu cảm ơn chú
  5. Lói thế lào thì lói! Chủ Nhật, 20/11/2011 07:00 (TT&VH Cuối tuần) - Hà Nội đã bắt đầu cái gọi là cuộc chiến chống nói ngọng. Mừng quá! 13 huyện ngoại thành đã bắt đầu có những tiết học để giảng dạy cách phát âm đúng. Nhưng mà, có vẻ như không dễ, việc phát âm cho chuẩn l, n. Camera thấy một sự thật thế này, đi khắp nước, chẳng địa phương nào nhầm lẫn l, n nhiều như chính đất Thủ đô. Đơn giản, vì Thủ đô là nơi dân bốn phương tụ họp. Có trăm ngàn cách để thành người Hà Nội, có trăm ngàn kiểu đi lại nói năng từ ngày ra phố, biết thế nào là chuẩn chứ? Nếu chẳng có ai hướng dẫn người ta cứ lói thế lào thì lói, chết ai đâu! Không có chủ trương này, lâu ngày chẳng ai biết đúng sai chỗ nào, động tẹo lại hỏi nhau l cao hay l thấp, chờ trâu hay chờ chó…, nghe rất buồn cười, nghìn năm văn hiến ai lại thế. Nhưng có chủ trương này, thì ngoài cái chuyện mừng, nghĩ xa xa một chút bỗng dưng hơi hoang mang… Lý do để hoang mang, là đã từ lâu, Camera ngờ ngợ chính mình mới ngọng, dù mình bảo cái lá là cái lá, không phải cái ná… Nhưng mình có vẻ như thiểu số. Mỗi sớm đi ra đường, nghe những câu chuyện râm ran người đi đường nói hoặc cãi nhau, thành phố giống hệt một cái làng to, chỉ khác cái làng ở chỗ nhiều ô tô xe máy nên tắc đường liên tục, sẽ thấy cái sự l, n nhầm lẫn hiển nhiên đến mức người nói đúng lại là nói sai, vì ít. Nghe trên truyền hình cũng vậy, cả những người trông rất oách, phát biểu ở những nơi chốn rất oách, vẫn cứ “lăm vừa qua đất lước ta có nhiều bước phát triển nớn nao”, bảo sao không hoang mang được? Thêm lý do nữa, trẻ em đến trường - nội thành cũng không phải không có - các thầy các cô lói tiếng lào ra tiếng ý - nên bắt chúng nói đúng, trước hết phải từ các thầy. Mà trước đấy, từ lúc tập nói, bác giúp việc đã dỗ dành những câu như: không chịu ăn bác sẽ đánh cho nằn đít nên! Nên, một cách đầy tiêu cực, Camera nghĩ chủ trương nói không với ngọng này ở Hà Nội rất khó thực hiện. Muốn, phải tiến hành trên cả nước, phải cấm phóng viên, phát thanh viên nói sai l, n trên truyền hình (việc này hiếm thôi nhưng có), quan trọng nữa là các bậc có chức quyền khi phát ngôn trước công chúng cũng phải chịu khó uốn lưỡi cho đỡ sai… Đấy là nghĩ thế thôi, cứ bàn ra tán vào những chuyện chẳng ra đâu vào đâu, nào là sửa kết chuyện Tấm Cám, nào là khi nào l thấp n cao, rôm rả thật nhưng có thêm bớt được gì cho nền văn hóa chung của đất nước hay không? Câu trả lời sẽ là ít lắm. Đọc báo một ngày, thấy quá nhiều chuyện nhảm nhí hoặc ghê sợ được viết ra, ngọng hay không ngọng chẳng giải quyết gì nếu người hành xử với nhau tồi tệ. Camera Quảng cáo giữa Thủ đô cũng "ngọng" Thứ Năm, 17/11/2011 15:00 Trên nhiều đường tại Hà Nội, xuất hiện nhiều tấm biển quảng cáo sai chính tả, khiến người quan sát vừa buồn cười, vừa thấy buồn.Chúng ta có thể tìm thấy những biển quảng cáo 'ngọng', sai chính tả ở khắp mọi nơi của Hà Nội. Những biển quảng cáo này đã vô tình làm mất mỹ quan Thủ đô. Nhiều người còn cảm thấy xấu hổ thay vì giữa mảnh đất nghìn năm văn hiến, cái nôi của văn hoá mà những tấm biển quảng cáo sai chuẩn như vậy vẫn xuất hiện hàng loạt. Quảng cáo "sữa đậu nành" thành "sữa đậu lành". Ảnh VTC Có cả dây lưng sịn? (Ảnh: GDVN) Có gạo xuất khẩu chứ không có cơm “xuất khẩu”! (đúng ra là cơm suất) (Ảnh: VnExpress) . "Sôi thịt" là món ăn mới chăng? Không có từ " lãi xuất" (đúng ra phải là "lãi suất"). (Ảnh: VnExpress) "Thư giãn" chứ không phải "thư dãn" (Ảnh: GDVN) "Trứng chim cút" thành "Chứng chim cút" (Ảnh: VTC News) Lẽ nào có dịch vụ "uốn soăn" tóc? . Ảnh VnExpress Chẳng lẽ có món "mỳ sào"? (Ảnh: VnExpress) Biển quảng cáo rất hoành tráng, nhưng tiếc thay lại nhầm giữa "nên" và "lên" Không chỉ sai chính tả tiếng Việt, một số biển quảng cáo tiếng Anh cũng sai. "Fastfood" (đồ ăn nhanh) sai thành "Fast Foot" ("Foot" nghĩa là bàn chân) (Ảnh: VnExpress). Theo Vietnamnet ======================================= Thế lày thì lói thế lào! Nàm chi cho mệt lão.
  6. Chương 5: LỤC THÂN CA Càn Đoài: Kim Huynh, Thổ Phụ truyền, Mộc Tài, Hỏa Quỷ, Thủy Tử nhiên (Càn Đoài cung, theo Bát Quái đều thuộc Kim) Khảm: Thủy Huynh, Hỏa vi Tài, Thổ Quỷ, Kim Phụ, Mộc Tử lai Khôn Cấn: Thổ Huynh, Hỏa vi Phụ, Mộc Quỷ, Thủy Tài, Kim Tử lộ (Khôn Cấn cung, theo Bát Quái đều thuộc Thổ) Ly: Hỏa Huynh, Thủy vi Quỷ, Thổ Tử, Mộc Phụ, Kim Tài trợ Chấn Tốn: Mộc Huynh, Thủy Phụ Mẫu, Kim Quỷ, Hỏa Tử, Tài thị Thổ (Chấn Tốn cung, theo Bát Quái đều thuộc Mộc) Chương 6: THẾ ỨNG Càn vi Thiên: Thế tại hào 6 Thiên Phong Cấu: Thế tại hào 1 Thiên Sơn Độn: Thế tại hào 2 Thiên Địa Bỉ: Thế tại hào 3 Phong Địa Quan: Thế tại hào 4 Sơn Địa Bác: Thế tại hào 5 Hỏa Địa Tấn: Thế tại hào 4 (Du Hồn) Hỏa Thiên Đại Hữu: Thế tại hào 3 (Quy Hồn) Cách với hào Thế 2 ngôi, tức là hào Ứng; kỳ dư các quẻ khác có thể từ đó mà suy ra. Sau đây tôi cần phải thuyết minh rõ nguồn gốc ở đâu mà Thánh Nhân đã lập ra được Thế Ứng cho các quẻ. Và vì sao có quẻ Du Hồn, và Quy Hồn Tất cả các Quẻ Thuần của tám Quẻ là Quẻ Kép của quẻ đơn Bát Quái chồng lên mà có. Tất cả 64 quẻ có Thế Ứng đều từ 8 Quẻ Thuần tuần tự biến ra. Và các cặp Thế Ứng là sự hòa hợp Âm Dương của Hào Vị mà có từng cặp như (1-4) (2-5) (3-6). Tại sao vậy? Vì Hào Vị được lập ra từ nguyên lý Cơ Ngẫu, tức là do số chẳn lẻ mà có. Tỷ như trong một quẻ có 6 Hào từ dưới đếm lên: 1, 2, 3, 4, 5, 6. Hào: 1, 3, 5 là số lẻ nên là Dương Hào Hào: 2, 4, 6 là số chẳn nên là Âm Hào Nhưng tại sao có các cặp hợp như (1-4), (2-5), (3-6)? Chắc có bạn sẽ cho rằng vì do Dương và Âm hợp, nên có sự hợp như thế! Nói vậy thì chỉ đúng 1 phần, bởi nếu thế thì, tại sao 1 không hợp với 6, 3 không hợp với 4??? Sở Dĩ có sự hợp thành cặp Thế Ứng là vì: - Hào 1 là Dương thuộc hào đầu của quẻ Nội, 4 là Hào Âm thuộc hào đầu của quẻ Ngoại (phải có đủ Âm Dương, Nội Ngoại, và hợp Hào Vị mới chính đáng hòa hợp sinh thành được). Dịch Đạo có câu: "một Âm, một Dương là Đạo của Trời Đất", "độc Dương không thể sinh, độc Âm cũng không thể thành". Quẻ Bát Thuần là Quẻ Kép chồng lên nhau mà có. Quẻ Thượng hay quẻ Ngoại gọi là Dương vì tượng của Trời nên ở trên; Quẻ Nội gọi là Âm vì tượng của Đất nên ở dưới. Do đó các cặp Thế Ứng phải có đủ Âm Dương, Nội Ngoại Quái, Trời Đất, và hào vị mới hòa hợp được. (Hầu như chưa có sách nào giải thích điều này, nhưng nếu ta Thấy và Hiểu được Ý Thánh Nhân thì không gì không rõ ràng cả). Cũng từ cái Lý thiên nhiên trời trên đất dưới, trời có trước đất có sau mà Thánh Nhân mới vạch quẻ từ dưới lên theo tuần tự từ thấp lên cao, vì bất cứ Sự Vật nào cũng có quá trình từ dưới thăng tiến lên, rồi đến cực mới giáng xuống theo hậu thiên. Hơn nữa, người học theo Đạo Trời Đất nên phải theo ĐỊNH LUẬT tự nhiên. Vạch từ dưới lên là theo Hậu Thiên mà lập vì có hào thì thành tượng. Trường hợp lập quẻ theo Tiên Thiên thì sẽ diễn từ số mà ra, vì số có trước sau mới thành tượng. Một khi lập quẻ từ các con số, thì phải lập quẻ thượng (ngoại quái) trước, sau mới lập quẻ hạ (nội quái), tức là từ trên xuống. Trên là nói sơ qua Nguyên Lý do đâu mà có các cặp Thế Ứng, dưới đây là nói về Nguyên Lý vì sao có Thế Ứng của 64 quẻ và Tổ Bói Dịch Lý Thuần Phong dựa vào đâu mà lập thành. Thí Dụ: Quẻ Thuần Càn 6. ----- Thế 5. ----- 4. ----- 3. ----- Ứng 2. ----- 1. ----- Như đã nói ở trên, vạch quẻ theo Bốc Phệ thì vạch từ dưới lên. Từ dưới vạch lên đến Hào 6 là vừa đủ một Quẻ Kép Càn chồng lên Càn. Đến đó là Cực và đó cũng là hào vừa vạch (Động) cuối cùng nên mới lấy Thế ở đó. Thế chẳng gì khác hơn là hào vừa động mà có. Khi đã có Thế rồi thì lấy hào 3 làm Ứng, theo LÝ đã nói ở trên. Và tất cả các Quẻ Bát Thuần đều có hào Thế ở hào 6 vì Nguyên Lý vừa nêu. Từ quẻ Bát Thuần Càn vừa vạch xong 6 Hào, là QUẺ CHỦ; nếu bây giờ có sự chuyển động thì hào Dương sẽ biến thành Âm, hoặc ngược lại Âm sẽ biến thành Dương. Vạch đến hào 6 rồi, phải trở xuống Hào 1 mà chuyển động ngay từ dưới. Hào 1 (sơ) Dương động thành Âm, nên thành quẻ Thiên Phong Cấu. (Xem tượng quẻ ở dưới) 6. ----- 5. ----- 4. ----- Ứng 3. ----- 2. ----- 1. -- -- Thế Vì Hào một vừa động biến ra, nên quẻ Cấu Thế ở Hào 1 thì Ứng ở hào 4 theo LÝ đã nêu ở trên theo các cặp (1-4), (2-5), (3-6). Hào 1 đổi rồi, đến động hào 2 thành quẻ Thiên Sơn Độn. (Xem tượng quẻ ở dưới) 6. ----- 5. ----- Ứng 4. ----- 3. ----- 2. -- -- Thế 1. -- -- Hào 2 vừa động biến thành Quẻ Độn nên Thế ở hào 2 thì Ứng ở hào 5. Giờ đến Hào 3 động thì thành quẻ Thiên Địa Bỉ. (Xem tượng ở dưới) 6. ----- Ứng 5. ----- 4. ----- 3. -- -- Thế 2. -- -- 1. -- -- Hào 3 vừa động biến thành Quẻ Bỉ, nên Thế ở Hào 3 và Ứng ở Hào 6. Đến hào 4 động thì thành quẻ Phong Địa Quan hoặc Quán. (Xem tượng ở dưới) 6. ----- 5. ----- 4. -- -- Thế 3. -- -- 2. -- -- 1. -- -- Ứng Hào 4 vừa động biến ra quẻ Quán, nên Thế ở hào 4 thì Ứng ở hào 1. Đến hào 5 động thì thành quẻ Sơn Địa Bác. (Xem tượng ở dưới) 6. ----- 5. -- -- Thế 4. -- -- 3. -- -- 2. -- -- Ứng 1. -- -- Hào 5 vừa động thành quẻ Bác, nên Thế ở hào 5 thì Ứng ở hào 2. Đến đây thay vì động hào 6 Thánh Nhân lại không làm vậy mà trở ngược xuống động hào 4 là cớ làm sao? Đó là vì, nếu cho động hào 6 nữa thì coi như 6 hào Dương đều động thành 6 Âm tức Thành quẻ Khôn mất, nên không thể cho động hào 6. Từ quẻ Bác vẫn còn nằm trong quẻ Càn, nay muốn giữ (Xác) của quẻ Càn phải mượn động hào 4 thành quẻ Hỏa Địa Tấn. Tuy Xác thì vẫn là quẻ Càn, nhưng Hồn thì không phải của quẻ Càn nữa vì tên quẻ không có chữ nào là Thiên (tượng của Càn) cả. Bởi mỗi quẻ chỉ có 6 hào biến 6 lần thì hết, nên quẻ Càn xuất qua quẻ Bác động hào 4 thành quẻ Hỏa Địa Tấn nên gọi là Du Hồn. Chỗ này hiếm người biết nguyên lý lắm! (Xem tượng quẻ ở dưới) 6. ----- 5. -- -- 4. ----- Thế 3. -- -- 2. -- -- 1. -- -- Ứng Hào 4 vừa động thành quẻ Tấn nên Thế ở hào 4 thì Ứng ở hào 1. Vừa biến xuống hào 4 xong, bây giờ phải động xuống hào 3, nhưng nếu động hào 3 thành quẻ Hỏa Sơn Lữ thì Hồn không trở về được Thể quẻ Càn. Do đó phải động hào 1, 2, 3, của quẻ Khôn ở dưới thành quẻ Càn mới quy về Hồn của quẻ Càn được, nên thành quẻ Hỏa Thiên Đại Hữu. Cũng nhờ cách biến này mới Quy Hồn về Xác quẻ Càn mà gọi là quẻ Quy Hồn. Chỗ này cũng hiếm người biết nguyên lý lắm! (Xem tượng quẻ ở dưới) 6. ----- Ứng 5. -- -- 4. ----- 3. ----- Thế 2. ----- 1. ----- Vì hào 3 là hào động cuối cùng nên Thế ở hào 3 thì Ứng ở hào 6. Ghi chú: Chỉ có quẻ thứ 7 và quẻ thứ 8 của tám quẻ Bát Thuần mới gọi là Du Hồn và Quy Hôn thôi. Không phải Thế ở hào 4 hay hào 3 thì gọi là quẻ Du Hồn hoặc Quy Hồn. Lấy Quẻ Càn Khôn làm viền mối trời đất, tất cả quẻ khác cũng đồng một Nguyên Lý biến (theo Càn Khôn) và Thế Ứng, Du Hồn Quy Hồn, bất di bất dịch. Đâu phải Thánh Nhân muốn làm gì thì làm, họ đều có Nguyên Lý cả. Nhưng chúng ta hiểu được hay không lại là chuyện khác.
  7. Hòa thượng Thubten Osall Lama Minh Tịnh - Nhẫn Tế (1889 – 1951) Hòa thượng Thubten Osall Lama, pháp danh Chơn Phổ, pháp hiệu Nhẫn Tế, nối pháp đời thứ 40 dòng Lâm Tế Chúc Thánh. Sau Ngài cầu pháp với Tổ sư Huệ Đăng, được ban pháp danh là Trừng Liến, pháp hiệu là Minh Tịnh, nối pháp đời thứ 42 dòng Thiên Thai Thiền Giáo Tông. Ngài thế danh là Nguyễn Tấn Tạo, sanh ngày Rằm tháng Bảy năm Kỷ Sửu – 1889, tại làng An Thạnh (thường gọi Búng) Lái Thiêu, tỉnh Thủ Dầu Một (nay là tỉnh Bình Dương). Thân phụ là cụ ông Nguyễn Văn Lập, thân mẫu là cụ bà Lê Thị Ri, Ngài sinh trưởng trong một gia đình trung lưu trí thức, nên từ thuở nhỏ đã được song thân cho đi học Quốc ngữ và Pháp ngữ. Năm Giáp Thìn 1904, khi lên 16 tuổi, Ngài tìm đến chùa Thiên Tôn, một ngôi chùa cổ nổi tiếng trong vùng, xin quy y với Hòa thượng Ấn Thành – Từ Thiện, được pháp danh là Chơn Phổ để nghiên cứu và tham học giáo điển Phật đà. Nhờ có trí tuệ mẫn thiệp và trình độ thế học, Ngài chóng thâm nhập vào áo nghĩa kinh tạng, và có ý muốn một ngày nào đó sẽ thực hiện hạnh giải thoát. Sau khi học hành thành đạt, Ngài được bổ làm công chức trong ngành Y tế, được một thời gian, Ngài chán cảnh thế gian đầy đua chen danh lợi, cũng như bất mãn trước sự cai trị hà khắc của thực dân Pháp đối với dân chúng Việt Nam, nên có ý muốn hồi hưu. Nhân mắc phải trọng bệnh trong khi thừa hành công vụ, Ngài xin thôi việc, dứt bỏ trần nghiệp, vân du học đạo khắp mọi nơi, lúc thì tu hạnh đầu đà, khi thì khoác màu nguyên thủy để tìm cho mình hướng đi đích thực trên con đường giải thoát. Năm Bính Dần 1926, chùa Long Hòa núi Thiên Thai, Bà Rịa mở giới đàn, do Hòa thượng Huệ Đăng làm Đàn đầu truyền giới, Ngài đến đăng đàn thọ Cụ túc giới. Cảm phục đức độ và tư tưởng yêu nước của Tổ sư Huệ Đăng, Ngài xin cầu pháp với Tổ sư, được ban pháp danh là Trừng Liến, pháp hiệu là Minh Tịnh, nối pháp đời thứ 42 dòng Thiên Thai Thiền Giáo Tông. Đến tháng 8 năm Quý Dậu – 1933, chùa Thiên Tôn mở Đại giới đàn, do Hòa thượng Ngộ Định – Từ Phong làm Đàn đầu truyền giới, Ngài được thọ đại giới lại với Sơn môn, được ban pháp hiệu là Nhẫn Tế, để nối pháp đời thứ 40 dòng Lâm Tế Chúc Thánh, chùa Thiên Tôn. Trải qua thời gian tu hành và tham học, Ngài cảm thấy vẫn chưa thỏa mãn chí nguyện, muốn tìm về cội nguồn Phật tổ, trước là để chiêm bái đảnh lễ thánh tích, sau là tham cứu học hỏi phương pháp tu trì, mong đạt sở chứng tỏ ngộ bản tâm, thoát ly sanh tử. Vì thế, Ngài rời chùa Thiên Tôn, ra cất một cái am đặt hiệu Thiên Chơn để tu và ngày đêm ấp ủ mộng lớn, chuẩn bị tư lương, học tập thêm Anh ngữ để đợi ngày thực hiện ý định. Năm Ngài 47 tuổi, hội đủ nhân duyên, Ngài xuống tàu thủy tại Sài Gòn khởi hành sang Ấn Độ vào ngày 17 tháng 4 năm 1935. Trong thời gian trên đất Ấn, tùy thuận phong tục, Ngài đắp y theo xứ Tích Lan và học tiếng Tamil khi ở Nam Ấn, học tiếng Hindu khi ở Bắc Ấn. Lúc đến xứ Bhutan, Tây Tạng, Ngài lại đổi sang pháp phục Lạt Ma và học tiếng Tây Tạng để ứng hợp việc tham cầu giáo pháp. gày 6 tháng 2 năm 1936, Ngài đến xứ Nepal tham lễ chùa tháp. Khi đến Tháp Bodha Nath, Ngài được đảnh lễ chiêm ngưỡng Xá lợi Phật tổ, và cần cầu Thượng tọa quản tháp xin thỉnh được một phần Xá lợi để đem về bổn quốc làm chứng tín cho hàng đệ tử Phật tôn thờ. Ngài là người đầu tiên thỉnh được Xá lợi Phật về Việt Nam. Ngày 27 tháng 2 năm 1936, Ngài bắt đầu khởi hành đi Tây Tạng theo các vị Lạt Ma trong đoàn chiêm bái Bồ Đề Đạo Tràng khi họ trở về xứ. Đường đi gian khổ vất vả, đi hơn hai tháng mới đến xứ Bhutan, mất một tháng ở lại đây học hỏi ngôn ngữ, phong tục, chờ tuyết tan và đi thêm một tháng nữa mới đến thủ đô Lhasa. Ngài đến xứ Tây Tạng vào ngày 28 tháng 6 năm 1936. Tại Tây Tạng, Ngài tham học về Kim Cang thừa Mật giáo với Lama Quốc Vương. Để học được pháp môn này, Ngài phải trải qua khảo thí khắt khe nghiêm mật trong cuộc thi tuyển toàn quốc, Ngài là một trong hai người được tuyển chọn cuối cùng. Sau một trăm ngày tu học ở Tây Tạng, Ngài được Lama Quốc Vương ấn chứng sở đắc thiền quán, truyền tâm pháp Kim Cang thừa và ban cho pháp danh là Thubten Osall Lama. Thành tựu sở nguyện, ngày 29 tháng 10 năm 1936, Ngài lên đường rời xứ Tây Tạng, mất một tháng để trở lại Ấn Độ. Ngài ở lại đây đi chiêm bái và học hỏi một thời gian nữa, rồi xuống tàu về nước. Ngày 30 tháng 6 năm 1937, Ngài về đến Việt Nam, kết thúc chuyến tường khảo thánh tích dài 2 năm 4 tháng. Ngài đến chùa Thiên Thai đảnh lễ Tổ sư, dâng cúng ngọc xá lợi lên Hòa thượng để làm biểu tượng chánh pháp tại đây. Về lại trụ xứ Bình Dương, uy tín đạo đức của Ngài lan rộng, bổn đạo làng Phú Cường cung thỉnh Ngài chứng minh trụ trì ngôi chùa Bửu Hương, vốn thuộc giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương, Ngài đổi tên chùa thành Tây Tạng tự, để ghi nhớ nơi Ngài đã đến cầu pháp. Năm Mậu Dần 1938, Ngài khởi công xây dựng lại ngôi chùa Thiên Chơn ở làng An Thạnh, ngay trên nền cũ của am nơi Ngài ở tu trước khi đi Ấn Độ. Chùa được khánh thành vào năm 1940. Trong cuộc đời tu học và hoằng đạo, Ngài hóa độ rất nhiều đồ chúng xuất gia và tại gia, đệ tử truyền thừa của Ngài là Hòa thượng Như Trạm - Tịch Chiếu. Ngài có hai tác phẩm lưu lại hậu thế : - Lăng Nghiêm Tông Thông (1997). - Nhật Ký Tham Bái Ấn Độ, Tây Tạng (1999). Ngày 17 tháng 5 năm Tân Mão – 1951, Ngài thâu thần viên tịch tại chùa Tây Tạng, trụ thế 63 năm, giới lạp 25 mùa Hạ. Môn đồ nhập Bảo tháp nhục thân của Ngài tại chùa Thiên Chơn và lập Bảo tháp thờ vọng tại khuôn viên chùa Tây Tạng. Thích Đồng Bổn Trích trong “TIỂU SỬ DANH TĂNG VIỆT NAM THẾ KỶ XX - TẬP II” nguồn: http://thienviendaidang.net
  8. Kiến trúc bí ẩn của khám Chí Hòa Xuất bản: Thứ sáu, 18/11/2011, 15:05 [GMT+7] Theo Cảnh sát Toàn cầu Có một truyền thuyết khá ly kỳ về khám Chí Hoà được truyền miệng ra ngoài là hầu như năm nào trong khuôn viên của trại đều bị sét đánh và sau khi trại bị sét đánh thì bao giờ cũng có 1 hay nhiều hơn một cán bộ chết vì rất nhiều lý do. Đặc biệt có năm sửa nhà thờ nằm trong khuôn viên trại thì chỉ trong vài tháng, 5-6 cán bộ đang công tác trong trại đã bị chết vì những lý do hết sức bất ngờ… Mô hình trại giam. Tôi cho rằng đó chỉ là truyền thuyết trong muôn ngàn những truyền thuyết được tôi đã được nghe. Nhưng khi tiếp xúc với các cán bộ công tác trong trại thì mọi người cũng đều xác nhận, chuyện khám Chí Hoà hay bị sét đánh hay chuyện cán bộ chết bí ẩn là có thật.Tôi tìm gặp Thượng tá Nguyễn Văn Cao - người có 16 năm làm việc trong trại để tìm hiểu bí mật này. Bát trận đồ trong lòng thành phố Nơi bị sét đánh nhiều nhất lại là toà nhà quan trọng nhất, toà nhà hình bát giác nơi giam giữ hàng ngàn phạm nhân. Toàn bộ khu nhà giam này rộng bảy hécta. Đường hầm trong trại giam Trại giam Chí Hòa (tên thường gọi là khám Chí Hòa) được Pháp xây từ năm 1943, Kiến trúc của Chí Hoà rất đặc biệt, do một kiến trúc sư người Nhật thiết kế và xây dựng theo ngũ hành bát quái. Nó cao ba tầng lầu có hình bát giác với 8 cạnh đều, 8 góc A, B, C, D, E, F, G, H. Tượng trưng cho 8 quẻ trong Kinh dịch (cũng có người thì cho là kiến trúc này dự trên Bát trận đồ của Khổng Minh). Do vậy nó có lối kiến trúc độc đáo: vừa mang những đặc trưng cơ bản của kiến trúc Pháp: kiên cố, kín đáo, mát mẻ vừa mang nét huyền bí: âm - dương, ngũ hành của phương Đông. Mỗi cạnh của bát quái trận đồ là một khu, lưng xây bịt kín ở phía ngoài còn phía trong toàn song sắt. Chí Hoà chỉ có 1 cửa vào người ta nói đó là cửa Tử, qua cửa đó là hệ thống đường hầm, đường đi bên trong đều thiết kế theo cung vị nếu không có người hướng dẫn thì một người đi vào đó sẽ mất hết phương hướng giống như lọt vào một mê cung đồ không thấy đường ra. Chính giữa hình bát quái đồ là một sân rộng cũng hình bát giác chia thành 8 khu hình tam giác nhỏ, với rất nhiều cây cối, bãi cỏ sạch sẽ và thoáng mát. Ngay tâm của hình bát quái có một đài bơm nước, với một đoạn là bể nước phình to nhìn từ trên cao có hình một cây kiếm cắm thẳng xuống đất, nghe đâu thanh kiếm này có tên là "Tru Tiên Kiếm". Đây là thanh kiếm trấn, những tên tội phạm dù có xảo quyệt đến đâu thì khi ở đây mọi thủ đoạn của chúng cũng bị thanh kiếm "linh" này hoá giải hết. Thanh kiếm này chính là "trái tim" của của toà nhà, nếu thanh kiếm này bị nhổ lên thì toàn bộ "trận đồ" không cần phá mà sẽ tự vỡ. Chính lối kiến trúc "bát trận đồ" kỳ diệu đó mà hầu hết các phạm nhân bị kết án nặng khi đã bước qua cửa Tử thì có thể coi như là không có đường ra, và không thể nhận biết được đường ra chờ khi hết án tù, hoặc được phóng thích. Lịch sử khám Chí Hòa cho đến ngày hôm nay chỉ ghi nhận có hai trường hợp vượt trại thành công. Lần thứ nhất là vào năm 1945, của những người tù cách mạng và lần thứ hai, sau đó 50 năm của một tử tội hình sự khét tiếng là Phước "Tám Ngón". Có cả triệu người đã bị nhốt vào đây mà hầu như không thấy có người nào thoát ra được cả. Theo nhiều nhà nghiên cứu tâm linh thì những người chết linh hồn vẫn bị "bát quái" giam giữ không thể siêu thoát cứ lởn vởn bên trong nên ở đây âm khí rất nặng nề (quả thực khi tôi đứng đây cảm giác rờn rợn, u uất lạnh toát cả cột sống). Người ta đồn rằng oán khí bay lên thấu trời cao, do thế ông Trời thường xuyên làm sấm sét đánh bể một góc để khai một cửa Sanh, cho oán khí được thoát ra, người chết được siêu thoát. Tất nhiên, tất cả những đồn đại này chỉ là truyền nhau, không ai dám chắc điều đó là sự thật. Chẳng biết truyền thuyết và đồn đại này thật giả bao nhiêu phần trăm, nhưng chính Tổng thống Ngô Đình Diệm ông cũng tin chuyện này là có thật. Ông cho mời một thầy địa lý rất cao tay nhằm hoá giải một phần "trận đồ" này. Và sau đó một trong 8 nóc nhà của hình bát giác đã được san bằng, phá vỡ tính hoàn hảo của "bát quái", thuận theo ý Trời mở 1 cửa Sanh cho các linh hồn được bay đi. Nhà thờ hình chúa Giêsu trên cây thập giá Cũng theo lời Thượng tá Cao kể, thì trong khuôn viên trại còn có một nhà thờ (ngày nay được sử dụng làm Hội trường của trại), thực dân Pháp cho xây dựng nhà thờ này để "rửa tội" cho những người cộng sản mà chúng sẽ xử tử. Nếu theo quan niệm của phương Tây thì khi sống con người ta dù phạm rất nhiều tội lỗi, nhưng trước khi chết nếu người đó được rửa tội thì mọi tội lỗi sẽ được tha thứ và linh hồn người đó sẽ được lên thiên đàng. Nhưng nhà thờ này có kiến trúc khác đặc biệt và quanh nó cũng rất nhiều chuyện ly kỳ được truyền miệng cho đến nay. Về kiến trúc nhà thờ được xây hình Giêsu trên cây thập giá: cửa vào chính là chân, hai nhà nguyện là hai cánh tay bị đóng đinh đang dang rộng, bàn thờ nơi Cung Thánh chính là phần đầu của Chúa. Người ta đồn rằng đây là nơi rửa tội cho những chiến sỹ cộng sản trước khi bị thực dân Pháp bắn nên rất "linh thiêng". Chiến tranh đã đi qua rất lâu nhưng nhà thờ vẫn nằm sừng sững trong khuôn viên trại, vì không ai dám dỡ bỏ nó. Chí Hòa nhìn từ vệ tinh. Thế nhưng có một biến cố xảy ra vào những năm 90 của thế kỷ trước, vị phó giám đốc mới được cử về công tác trong trại - một người không tin vào những lời đồn thổi "nhảm nhí", đã cho sửa nhà thờ thành hội trường nơi diễn ra hội họp, hội nghị của trại. Nơi được người ta sửa chữa đầu tiên là cửa vào (vị trí chân Chúa). Người ta phá đi cửa cũ, mở một cái cửa đại hội vào hội trường. Nhưng việc sửa chữa chỉ mới được bắt đầu thì một sự cố lớn đã xảy ra, chỉ trong một thời gian ngắn liên tiếp 5-6 cán bộ công tác trong trại bị thiệt mạng vì những lý do bất ngờ: tai nạn, súng cướp cò, đột tử… Tất nhiên, rất có thể những tai nạn này xảy ra là ngẫu nhiên, trùng hợp với thời gian sửa chữa nhà thờ. Song lúc đó sự hoang mang bao trùm toàn trại, vị tân phó giám đốc thật sự dao động và cuối cùng ông quyết định sửa lại ngôi nhà như thiết kế ban đầu, thuê thầy về cúng giải hạn. Và điều kỳ diệu đã xảy ra, dường như "báo ứng" đã được hoá giải, những vụ chết bất đắc kỳ tử đã dừng lại hầu như ngay lập tức. Cán bộ toàn trại thở phào. Nếu bạn nghĩ chuyện âm khí, oán khí chỉ là sản phầm tưởng tượng cũng những người có đầu óc mê tín dị đoan lý giải chuyện sét đánh, chuyện những cái chết bất thường. Tuy nhiên, sau những sự cố trên, một nhóm những nhà khoa học và nhà nghiên cứu đã âm thầm nghiên cứu và lý giải mọi chuyện dưới góc độ khoa học. Một số nhà khoa học cho rằng bên dưới của toà nhà có một mỏ quặng đó mới chính là nguyên nhân tại sao "ông Trời" hay "nhắm" vào toà nhà đó và những cái chết chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên. Tru Tiên Kiếm chụp cận cảnh. Riêng tôi khi bước qua cửa Tử vào một mê cung đồ mà ở đó mất hết mọi khái niệm phương hướng - không gian, ngày đêm - thời gian, khi nhìn trên mô hình hình bát giác "hoàn hảo" bị khuyết với khu GF mái ngói bị san bằng, bước chân vào nhà thờ nơi chúa đang chịu đau đớn vì nhục hình tôi tin nơi đây còn nhiều điều bí ẩn chưa lời giải. Ngày nay khoa học đã rất phát triển nhưng tự nhiên, vũ trụ vẫn còn đầy rẫy những bí ẩn mà chúng ta chưa thể lý giải đang chờ chúng ta khám phá. Bài viết này chỉ là nhát cắt phản ánh sự bí ẩn của kiến trúc cổ, với mong muốn đưa đến cho độc giả một vài giả thuyết mới Tác giả: Kim Ngân nguồn: http://landtoday.net/vn
  9. Chương 4: HỖN THIÊN GIÁP TÝ "Lãi Hải Tập" nói: "Thuyết về Nạp Giáp, từ Giáp là 1 đến Nhâm là số 9, đó là số Dương bắt đầu và cuối hết vậy, vì vậy quay về Càn, Dịch thuận số vậy. Ất là số 2 đến Quý là số 10, số Âm bắt đầu và hết ở đó, vì vậy quay về Khôn, Dịch nghịch số vậy. Càn nhất sách, một lần tìm mà được nam là Chấn; Khôn nhất sách, một lần tìm mà được nữ là Tốn, vì vậy Canh nhập Chấn, Tân nhập Tốn. Càn lại sách tìm lần nữa, mà được nam là Khảm; Khôn lại sách tìm lần nữa mà được nữ Ly, vì vậy Mậu quy về Khảm, Kỷ xu theo Ly. Càn sách tìm lần thứ 3 mà được nam là Cấn; Khôn sách tìm lần thứ 3 mà được nữ là Đoài, vì vậy Bính theo Cấn, Đinh theo Đoài. Dương sinh ở Bắc mà thành ở Nam, vì vậy Càn bắt đầu ở Giáp Tý mà kết thúc ở Nhâm Ngọ. Âm sinh ở Nam mà thành ở Bắc, vì vậy Khôn bắt đầu ở Mùi mà kết thúc ở Quý Sửu. Chấn Tốn sách tìm một lần (từ Càn Khôn), vì vậy Canh Tân bắt đầu ở Tý Sửu (tức là Chân bắt đầu ở Canh Tý, Tốn bắt đầu ở bắt đầu ở Tân Sửu). Khảm Ly sách tìm lần nữa (lần thứ 2 từ Càn Khôn), vì vậy Mậu Kỷ bắt đầu ở Dần Mão (tức là Khảm bắt đầu ở Mậu Dần, Ly bắt đầu ở Kỷ Mão). Cấn Đoài ba lần sách tìm (từ Càn Khôn), vì vậy Bính Đinh bắt đầu ở Thìn Tỵ (tức là Cấn bắt đầu ở Thìn là Bính Thìn, Đoài bắt đầu ở Tỵ là Đinh Tỵ". ĐỒ HÌNH NẠP GIÁP 12 CHI ĐỒ HÌNH NẠP GIÁP 12 CHI CÀN ****** KHÔN **** CHẤN ****** TỐN --- Nhâm Tuất - - Quý Dậu - - Canh Tuất --- Tân Mão --- Nhâm Thân - - Quý Hợi - - Canh Thân --- Tân Tỵ --- Nhâm Ngọ - - Quý Sửu --- Canh Ngọ - - Tân Mùi --- Giáp Thìn - - Ất Mão - - Canh Thìn --- Tân Dậu --- Giáp Dần - - Ất Tỵ - - Canh Dần --- Tân Hợi --- Giáp Tí - - Ất Mùi --- Canh Tí - - Tân Sửu KHẢM ***** LY ***** CẤN ****** ĐOÀI - - Mậu Tí --- Kỷ Tỵ --- Bính Dần - - Đinh Mùi --- Mậu Tuất - - Kỷ Mùi - - Bính Tí --- Đinh Dậu - - Mậu Thân --- Kỷ Dậu - - Bính Tuất --- Đinh Hợi - - Mậu Ngọ --- Kỷ Hợi --- Bính Thân - - Đinh Sửu --- Mậu Thìn - - Kỷ Sửu - - Bính Ngọ --- Đinh Mão - - Mậu Dần --- Kỷ Mão - - Bính Thìn --- Đinh Tỵ "Khảo Nguyên" nói rằng: "Đó là phương Pháp lấy sáu hào cúa Bát Quái phân ra mà nạp với lục thời của Địa Chi. Hễ Càn tại nội quái thì là Giáp nạp với Địa Chi Tý Dần Thìn. Tức là sơ cửu Giáp Tý, cửu nhị Giáp Dần, cửu tam Giáp Thìn. Tại ngoại quái thì là Nhâm, nạp với Địa Chi Ngọ Thân Tuất, tức là cửu tứ là Nhâm Ngọ, cửu ngũ là Nhâm Thân, thượng cửu là Nhâm Tuất. Hễ Khôn tại nội quái thì Ất nạp với Địa Chi Mùi Tỵ Mão, tức là sơ lục là Ất Mùi, lục nhị là Ất Tỵ, lục tam là Ất Mão. Tại ngoại quái thì là Quý, nạp Sửu Hợi Dậu, tức là lục tứ là Quý Sửu, lục ngũ là Quý Hợi, thượng lục là Quý Dậu. Bởi vì là Càn Khôn đều nạp với hai Can cho nên phân ra làm nội ngoại hai quái. Ngoài ra sáu quẻ, chỉ nạp một Can, dựa vào thứ tự phối với nhau với chỗ nạp lục thời có thể được. Phương pháp cúa Bát Quái nạp với Địa Chi, là Chi Dương đều thuận hành, Chi Âm đều nghịch chuyển. Bát Quái dựa vào chỗ thứ tự của Âm Dương, chỗ nạp Địa Chi đều lệch nhau một ngôi vi. Chỉ có chỗ nạp của Chấn với Càn là giống nhau, đại khái ý tứ là trưởng tử thừa tiếp thể của cha. Khôn không khởi ở Sửu mà khởi ở Mùi, đặc biệt cùng với Lạc Thư số ngẫu khởi ở Mùi. Ở đồ hình hậu thiên, Khôn đóng ở Tây Nam, nhạc luật Lâm Chung là địa, thống nhất mà ứng với khí của tháng Mùi, hợp nhau. Tại chỗ có ở trong thuật số, chỉ có Nạp Giáp hết sức gần với lý lẽ. Nay 'Hỏa Châu Lâm' chiêm quẻ, chỗ dùng đúng chính là loại phương pháp này". (Chú Ý: Bát Quái cũng có phân Âm Dương. Dương Quái là Càn Khảm Cấn Chấn; Âm Quái là Tốn Ly Khôn Đoài. Ý nói "Dương thuận Âm nghịch và lệch nhau một vị", tức như quẻ Càn khởi đầu là Tí Dương Chi đi thuận theo Dương Chi đến Tuất là hết 6 hào Dương; Khảm khởi đầu là Dần Dương Chi đi thuận theo Dương Chi đến Tí hết 6 hào Dương; Cấn khởi đầu là Thìn Dương Chi đi thuận theo Dương Chi đến Dần là hết 6 hào Dương. Riêng Chấn và Càn khởi giống nhau nên ở đây không lập lại nữa. Âm Quẻ chuyển nghịch, như quẻ Tốn khởi đầu là Sửu Âm Chi chuyển nghịch theo Âm Chi đến Mão là hết 6 hào Âm; Ly khởi đầu là Mão Âm Chi chuyển nghịch đến Tỵ là hết 6 hào Âm; Khôn khởi đầu là Mùi Âm Chi chuyển nghịch theo Âm Chi đến Dậu là hết 6 hào Âm; Đoài khởi đầu là Tỵ Âm Chi chuyển nghịch theo Âm Chi đến Mùi là hết 6 hào Âm). Tóm lại, những gì viết trên đây là phần tối quan trọng của Dịch Lý, các bạn nên chú ý và hiểu rõ, thì sẽ có một nền tảng vững chắc dù sau này học bất cứ môn nào thuộc Dịch Lý, cũng sẽ dễ thông đạt các diệu lý. Hoặc trường hợp đọc các sách man thư, hoặc các nhà làm sách không thông đạt lý lẽ, có thể tự mình biết được chỗ sai trái mà phế bỏ đi. Mong quý vị chớ nên xem thường. Giả như chiếm đặng quẻ Thiên Phong Cấu --- Phụ Tuất Thổ ==> Ba hào trên là quẻ Càn, tức Càn ở quẻ Ngoài --- Huynh Thân Kim (Ngọ Hỏa, Thân Kim, Tuất Thổ) --- Quan Ngọ Hỏa ( Ứng ) --- Huynh Dậu Kim ==> Ba hào dưới là quẻ Tốn, tức Tốn ở quẻ Trong --- Tử Hợi Thủy (Sửu Thổ, Hợi Thủy, Dậu Kim) - - Phụ Sửu Thổ ( Thế ) Ghi chú: Chấm quẻ thì bắt từ dưới chấm lên, cho nên trang ngũ hành cũng từ dưới mà đi lên. Kỳ dư làm y như vậy.
  10. Cò Tây Cò Ta http-~~-//www.youtube.com/watch?v=bLq07g-XCe4&feature=related http-~~-//www.youtube.com/watch?v=dGjmSRx0l_M&feature=related
  11. Trần Văn Khê : Ca Trù Bề dầy lịch sử. Ca trù theo một số chuyên gia , có thể sinh ra từ đời Lý ( thế kỷ thứ 11) hay muộn nhứt cũng từ đời Lê (thế kỷ thứ 15) cách nay hơn 500 năm. Có nhiều sách sử ghi lại lịch sử của Ca trù. Trong quyển « Góp phần tìm hiểu lịch sử Ca trù « của Nguyễn xuân Diện do Nhà xuất bản Khoa học xã hội phát hành từ năm 2000 , tác giả đã cho chúng gta biết rằng tại Viện Hán Nôm, có tàng trử 39 quyển sách viềt bằng chữ Nôm vể Ca trù , 78 văn bia về thể lệ, sinh hoạt Ca trù. Và còn có 93 sách báo viết bằng chữ quốc ngữ về Ca trù. Quách Thị Hồ - Đào nương bậc nhất thế kỷ 20 Chiều sâu của nghệ thuật. Về mặt nghệ thuật thì Ca trù là một loại nhạc thính phòng vô vùng độc dáo. Chỉ có 3 người mà nên đình nổi đám Chỉ có 2 diễn viên một đào nương vừa ca vừa gõ phách, một người đàn đáy phụ hoạ và một người dánh trống chầu vừa tham gia vào buồi trình diễn bằng cách chấm câu , vừa phê phán khen thưởng bằng tiếng tom chát của trống để hướng dẫn người nghe biết tiếng ca lúc nào hay, tiếng phách lúc nào giòn, tiếng đàn lúc nào xuất sắc. Nhạc và Thơ quyện nhau như bóng với hình Người nghe một bài Ca trù thưởng thức được văn chương bóng bảy của câu thơ, thang âm, điệu thức dồi dào của nét nhạc, tiết tấu rộn ràng của tay phách, chữ đàn gân guốc hay bay bướm của nhạc công, không khí nghiêm trang hay rộn rã của buổi trình diễn nghệ thuật trong đó Thơ và Nhạc quyện vào nhau như bóng với hình. Kỹ thuật hát tinh vi , độc đáo Cách ém hơi, nhả chữ, đào nương không mở to miệng, gần như mím môi mà ca thì tròn vành rõ chữ, luyến láy khi đổ hột , lúc đổ con kiến, hơi trong cổ theo kỹ thuật "ậm ự" làm cho lời ca những đoạn buồn, như có tiếng khóc chẳng khác tiếng hát đặc biệt của người Á rập nghe "khàn khàn mà nức nở" xoáy lòng người nghe, khéo biểu diễn thì người cầm chầu không thể dằn lòng, phải thưởng tiếng hát với khổ chầu "xuyên tâm" , hay "song châu" . Cổ phách, phách cái, phách con, cách gõ phách đặc biệt vô song Đào nưong chẳng những hát hay mà tay phách phải vững : 5 khổ phách : sòng đầu, khổ đơn ( hay khổ giữa), khổ rải, khổ xiết, khổ lá đầu, cùng với tiếng đàn đáy đánh đoạn mở đầu. Lúc không hát, chỉ có tiếng đàn biểu diễn đoạn » lưu không « tiếng phách lại phải róc giòn cho người đàn thêm hứng.. Phách ca trù có môt không hai trên thế giới : Phách là môt thanh gỗ hay thanh tre để trước mặt đào nương, gọi là cổ phách. Đào nương dùng hai dùi gỗ để gõ. Trong các nước trên thế giới, khi nhạc công gõ phách hay đánh trống, đều dùng hai dùi giống nhau.Chỉ có trong truyền thống ca trù hai dùi phải khác nhau. . Hai dùi tròn dài, một dùi chuốc hơi nhọn ở phía đầu. Một dùi chẻ làm hai theo chiều dài nhưng cập lại để gõ. Dùi tròn, và nhọn, tượng trưng cho dương vật, dùi chẻ hai, là âm vật. Như vậy hai dùi là Dương Âm trộn hai tiếng khác nhau, một tiếng tròn, một tiếng dẹp, một tiếng cao, một tiếng thấp, một tiếng trong một tiếng đục, một tiếng nặng một tiếng nhẹ, một tiếng Dương một tiếng Âm, chen nhau, xen kẽ, pha trộn, khi gõ riêng từng dùi, khi gỏ hai dùi một lượt gọi là "chát" làm cho tiết tấu có nhịp hẵn hòi mà nghe như không có nhịp, thực mà như hư, có mà như không ,hiện mà như ẩn. Có chỗ tiếng phách bao trùm tiếng hát như làn sóng lượn, lúc điểm đều đặn chấm câu, gõ cùng một lượt với tiếng đàn và tiếng trống chầu. Cách gõ phách làm người nghe hứng thú, không phải nghe tiếng gõ đều đều làm chán tai, mà có tiếng mạnh tiếng nhẹ như cách đánh castagnettes của người Tây ban Nha trong diệu hát flamenco, tiếng trống tabla va bahya của Ấn độ hay cách đàn Rubato đặc biệt của Chopin, khi tay trái đánh đều theo nhịp một cách rõ ràng, tay mặt tha hồ lả lướt trên phím ngà như mây bay, nước chảy không cần theo nhịp, và mang tên là "Rubato chopinesqueé. Trên thế giới chỉ có bốn thí dụ tôi vừa kể trên trong trăm ngàn cách đánh nhịp. Người Ấn độ hãnh diện với cách đánh nhịp như thế, và đã nghĩ rằng trên thế gian chỉ có bên Ấn độ là có đuợc Tala là tiết tấu nhịp điệu rõ ràng và Laya là nhịp mà như không có nhịp. Có người nhạc sĩ nói với tôi : Tala như bước đi của một người phụ nữ, đều đặn . Còn Laya là chiếc váy phất phơ theo bưóc đi. Ngưới ta nghe rõ và đếm đươc bước đi mà không đếm được cái phất phơ của chiếc váy. Trong truyền thống Ca trù không có bài bản như trong Ca Huế hay đòn ca tài tử, mà có những "Lối", hay "Thể" theo danh từ dùng trong Ca trù biên khảo gần giống như Làn điệu trong Hát chéo và Hát bội.Lời thơ có trước Rồi nét nhạc tùy theo thanh giọng của câu thơ mà thể hiện. Nhưng cấu trúc âm thanh thì không thể sai.Thí dụ như có Ba thể điêu Bắc Phản , Mưỡu Hát nói mà có rất nhiều bài. Hát nói do nhiều nhà văn nổi tiếng đạt ra. Sách Ca trù biên khảo của hai tác giã Đỗ bằng Đoàn và Đỗ trọng Huể co ghi lại Dương Khuê,( 13 bài) Nguyễn công Trứ(52 bài), Cao Bá Quát,(16 bài ) Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (12 bài) Vô Danh ( 38 bài)Trần Tế Xương (7 bài) Nguyễn Khuyến ( 6 bài)Nguyễn Quí Tân (5 bài)Nguyễn đức Nhu ( 6 bài) , Nguyễn văn Bình (9 bài) Cụ Ưng Bình ( 2 bài : nhưng thật ra Ông Cụ đã sáng tác mấy chục bài mà Nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khuơng ái nữ của Cụ đã sưu tập ) Gân đây các Cụ Nguyễn Linh Ngọc, Chu Hà ngoài Bắc có rất nhiều bài. Cũng như trong Nam Nuyễn Quảng Tuân trong tập Ca trù Thú Xưa Tao nhã đã sáng tác hơn 70 bài hát nói với nhiều đề tài hiện đại như Ba lê cảm tác, những bài Hát cảm tác khi sang Nhựt, lúc sang Trung quốc . Các thể rất nhiều. Sách Ca trù biên khảo có ghi lại : Khi Hát chơi tại nhà ả đào hay nhà quan viên 15 thể Hát cửa đình 12 thể Hát thi có 4 giai đoạn : Vãn chỉ cần vài câu Gửi thư, ngâm vịnh để tỏ ra đào nương biết hát Giám khảo chứng nhận và cho phép vào hát Chầu thi. Chầu thi có 28 khúc hát Giám khảo bảo hát khúc nào phải hát và sau khi trúng tuyển vào Chầu cầm ; Chầu cầm có 17 khúc hát. Trúng tuyển Chầu Cầm mới đưọc vào giai đoạn chó là Hát lại hay Phúc hạch Lúc thi giám khảo chấm hát, đàn ; Kỹ thuật xong mới đến nhan sac. Và cuối cùng xét đến hạnh kiểm. Giải nhứt là Thủ khoa ; Giải nhì Á nguyên Đến đêm hát Giã đám, các đào nương trúng giải xếp hàng đôi : Đứng đầu bên trái là Thủ khoa rội đền các cô giải ba, bớn, năm, sáu Đầu hàng bên mặt là Á nguyên và tiếp theo giải bảy tám, chín mười Sáng hôm sau đến lãnh thưởng : Thủ khoa lãnh 30 quan tiền 10 vuông nhiểu điều, 1 cân trà Tàu và 1 cái quạt Tàu Á nguyên lãnh 26 quan tiền 6 vuông nhiểu điều, nửa cân trà Tàu và một cái quạt Tàu Từ giải ba 24 quan tiền trở xuống thì mỗi giải ít hơn giải trước 2 quan tiền 22, 20, 18 đến giải thứ 10 thì còn 10 quan tiền, không có nhiểu điều và trà Tàu mà chỉ có 1 quạt Tàu. Xong rồi dự tiệc : ngoài các cổ cho chức sắc trong làng , Thủ khoa và Á nguyên ngồi một cổ, 8 cô từ giải 3 đén giải 10 chia ra ngồi 2 cổ. Thức ăn có giò, nem, ninh mộc,có sơn hào là hai con chim bồ câu hầm,và hải sãn là 1 con cua biển, 1 con cá trắm. Mỗi cỗ có 2 bánh chưng, 2 bánh dầy, một mâm bánh đồ đường Lúc ăn có nhạc bát âm giúp vui. nguồn: http://www.tranquanghai.info
  12. Ca Trù Ca trù có nhiều tên gọi, tuỳ từng địa phương, từng thời điểm mà hát ca trù còn gọi là hát ả đào, hát cửa đình, hát cửa quyền, hát cô đầu, hát nhà tơ, hát nhà trò và hát ca công. Đây là một loại hình nghệ thuật có từ lâu đời, độc đáo và có ý nghĩa đặc biệt trong kho tàng âm nhạc Việt Nam, gắn liền với lễ hội, phong tục, tín ngưỡng, văn chương, âm nhạc, tư tưởng, triết lý sống của người Việt. Ca trù đã được Hội đồng thẩm định di sản của UNESCO đánh giá như sau: Ca trù đã trải qua một quá trình phát triển ít nhất từ thế kỷ 15 đến nay, được biểu diễn trong không gian văn hóa đa dạng gắn liền, ở nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau. Ca trù thể hiện một ý thức về bản sắc và sự kế tục trong nghệ thuật biểu diễn, có tính sáng tạo, được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua các tổ chức giáo phường. Những giáo phường này đã duy trì các cộng đồng có quan hệ mật thiết, tạo nên nét đặc trưng cho ca trù. Mặc dù trải qua nhiều biến động lịch sử, xã hội nhưng ca trù vẫn có một sức sống riêng bởi giá trị nghệ thuật của nó đối với văn hóa Việt Nam. Ca trù độc đáo ở không gian nghệ thuật riêng, nhạc cụ và thể thơ riêng biệt. Theo các nghệ nhân dân gian, ca trù có 56 thể thức hoặc giai điệu khác nhau, mỗi loại này được gọi là thể cách. Kỹ thuật hát rất tinh tế, công phu như thể ca sĩ nắn nót, trau chuốt từng chữ. Nhạc cụ được tinh giản với sự tương phản âm sắc đã làm tôn vẻ đẹp của từng thành phần tham gia hoà tấu. Tham gia biểu diễn ca trù có ít nhất 3 người: - Một ca sĩ luôn là nữ (gọi là "đào" hay "ca nương") hát theo lối nói và gõ phách lấy nhịp (phách là một nhạc cụ làm bằng gỗ hoặc tre, được gõ bằng 2 que). - Một nhạc công nam giới (gọi là "kép") đệm đàn đáy cho người hát. Đán đáy là một loại đàn cổ, dài, với 3 sợi dây tơ và 10 phím đàn. - Ngoài ra, còn có một người chơi trống hoặc đánh trống chầu (gọi là "quan viên", thường là tác giả bài hát). Sự tán thưởng mà "quan viên" dành cho người hát, hoặc bài hát được biểu lộ qua cách đánh trống. "Quan viên" đánh vào thành trống nhiều lần biểu lộ chỗ đắc ý. Nếu không hài lòng với người hát, "quan viên" đánh hai nhịp trống. Đào hát ngồi trên chiếu ở giữa. Kép và quan viên ngồi chếch sang hai bên. Không gian trình diễn ca trù có phạm vi tương đối nhỏ và sự tham gia từ phía khán giả là rất cần thiết Hát ca trù là nghệ thuật hát thơ, có một hệ bài bản phong phú quy định cho từng lối hát thờ, hát chơi và hát thi. Lời lẽ, ca từ của ca trù mang tính uyên bác, ít lời mà nhiều nghĩa, giàu chất thơ, mang nhiều cảm xúc, trầm ngâm, sâu lắng. Ca trù có đủ các thể loại từ trữ tình lãng mạn đến sử thi anh hùng, triết lý giáo huấn… đã thu hút sự tham gia sáng tác, thể nghiệm tài năng của nhiều văn sĩ và trí thức. Có hiểu thấu nội dung và nghệ thuật ngôn từ trong các bài ca cùng sự biểu hiện tinh tế của các ca nữ trong sự phối hợp nhịp nhàng với ngón đàn, khổ phách... mới thấy hết vẻ đẹp và giá trị của loại hình nghệ thuật này. Theo thống kê của các nhà nghiên cứu, đến giữa năm 2009 có 63 câu lạc bộ với khoảng 769 người (bao gồm 513 đào nương và 256 kép đàn và người đánh trống chầu) ở 14 tỉnh, thành phố (Hà Nội, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Ðịnh, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, TP. Hồ Chí Minh) trên cả nước có hoạt động thường xuyên và có kế hoạch luyện tập truyền nghề ca trù. Tuy nhiên, số nghệ nhân có thể hát được từ 10 làn điệu trở lên là rất hiếm. Tại Viện Âm nhạc hiện đã lưu trữ được 7 điệu múa ca trù và 42 bài bản ca trù. Các văn bản Hán Nôm về ca trù là 26 bản và khoảng 25 cuốn sách về ca trù. Ca trù được công nhận là đã có đóng góp lớn vào văn hóa Việt Nam. Từ ca trù, một thể thơ độc đáo ra đời và trở nên có vị trí sáng giá trong dòng văn học chữ Nôm của dân tộc. Đó là thể thơ hát nói, được ưa chuộng qua nhiều thế kỷ. Ngoài ra, đàn Đáy và Phách đã trở thành những nhạc khí đặc trưng của ca trù, góp phần đưa ca trù trở nên một thể loại thanh nhạc kinh điển của Việt Nam. Với bề dày của lịch sử, chiều sâu của nghệ thuật và mang bản sắc dân tộc rõ rệt ca trù đã khẳng định được vị trí quan trọng không chỉ ở Việt Nam mà trên cả thế giới. Với sự đồng thuận, tự nguyện và hiểu biết đầy đủ của các cộng đồng hát ca trù, cùng với các kế hoạch hành động, trách nhiệm, cam kết, ủng hộ và hỗ trợ của các cơ quan nhà nước đối với việc bảo vệ di sản đã góp phần đảm bảo sức sống của ca trù. Và với những đặc tính ưu việt, sau bốn năm chờ đợi, kể từ khi Chính phủ cho quyết định đệ trình UNESCO xét duyệt, ca trù của Việt Nam đã được ghi danh vào danh sách di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp vào ngày 1/10/2009 tại Abu Dhabi, Các Tiểu vương quốc Ả-rập thống nhất. Nghệ thuật hát ca trù. Ảnh: rockviet. Ca trù được công nhận là Di sản thế giới Chiều 1/10/2009, nghệ thuật ca trù vừa trở thành di sản văn hóa thứ tư của Việt Nam được UNESCO công nhận. Ca trù được xếp vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp. Tiến sĩ Lê Thị Minh Lý, Cục phó Cục di sản văn hóa, cho biết, theo Công ước UNESCO 2003, các di sản văn hóa phi vật thể đại diện của các quốc gia sau khi được đề cử, công nhận sẽ đăng ký vào hai danh sách: Di sản đại diện của nhân loại và Di sản cần được bản vệ khẩn cấp. Trước đó, hôm 30/9, Quan họ đã được công nhân là Di sản phi vật thể đại diện của Nhân loại. Chia sẻ hạnh phúc khi hai di sản của Việt Nam đều được thế giới công nhận tại kỳ họp thứ tư của Ủy ban Liên Chính phủ Công ước UNESCO, đang diễn ra tại Abu Dhab, thủ đô Các tiểu vương quốc Ảrập thống nhất, ông Phạm Sanh Châu - Tổng thư ký Ủy ban quốc gia UNESCO Việt Nam - cho biết, so với quan họ, việc xét duyệt hồ sơ ca trù gặp nhiều khó khăn hơn. Vì ghi danh vào hạng mục cần được bảo vệ khẩn cấp, nên khi xem xét, các chuyên gia Hội đồng chuyên môn của UNESCO ngoài việc đánh giá giá trị di sản, còn phải xét đến các phương pháp quản lý, bảo tồn di sản trong đời sống văn hóa cộng đồng. Tâm sự với VnExpress.net về sự ghi nhận của UNESCO với hai loại hình văn hóa của Việt Nam, nhạc sĩ Đặng HoànhLoan, người có nhiều năm nghiên cứu về ca trù, cho biết: "Đó là quyết định rất đúng, rất hay, rất phù hợp với đặc trưng của từng di sản. Nó giúp chúng ta, không chỉ các nhà quản lý mà cả cộng đồng, có ý thức hơn trong việc bảo tồn các loại hình văn hóa truyền thống". Trong số 15 hồ sơ của 9 quốc gia đăng ký vào danh sách Di sản cần được bảo vệ khẩn cấp, có 12 hồ sơ được công nhận. Được ưu tiên ở danh sách này là những di sản liên quan đến nghệ thuật truyền khẩu, các phong tục tập quán xã hội mang tính chất tín ngưỡng, tâm linh. Trung Quốc (3 di sản), Mông Cổ (3 di sản) và Mexico (2 di sản) là những quốc gia có nhiều Di sản cần được bảo vệ khẩn cấp nhất. (Minh Tâm tổng hợp) nguồn: http://www.hanoitourist.com.vn xem một bài trù: http-~~-//www.youtube.com/watch?v=kDn8JsTvjks&feature=related
  13. @ Zenova mến, Những câu chuyện về cảm giác và sự kiện mà bạn đã kể ra tôi không biết là thật hay không, nhưng nếu Zenova có ở trong tình trạng tinh thần đó thì cũng không có gì đáng phải buồn phiền lo lắng mà nên ngay bây giờ bạn cần đến tác bạch với một vị sư phụ nào đó trong môn phái Thiếu Lâm Hải Nam để các vị này có những lời khuyên hữu ích. Thân mến
  14. Mỹ đang bao vây Trung Quốc? TT - Phân tích tầm tác động của việc Mỹ tuyên bố tăng cường sự hiện diện quân sự tại Úc nhằm đối phó với Trung Quốc trên Thái Bình Dương, báo Le Monde đề cập một số nội dung chính: Một là, Mỹ muốn giành lại châu Á. Sau khi Mỹ hoàn thành việc rút quân khỏi Iraq và bắt đầu rút quân khỏi Afghanistan, Mỹ muốn định hướng lại chính sách an ninh của mình ở châu Á, như tuyên bố của Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton tuần trước. Việc tăng cường hợp tác quân sự với Úc là nhằm cụ thể hóa học thuyết của ông Obama về châu Á - Thái Bình Dương và tăng cường sự hiện diện của Mỹ ở Ấn Độ Dương. Hai là, xây dựng một “căn cứ” mới trên Thái Bình Dương. Quân Mỹ hiện đã hiện diện mạnh tại Thái Bình Dương. 2/3 lực lượng hải quân Mỹ đã đứng chân trong khu vực, nhất là tại Nhật (40.000 quân) và Hàn Quốc (28.000 quân) cũng như tại Guam. Bởi vậy, điểm đứng chân mới của quân Mỹ tại Úc ngay lập tức được Bắc Kinh xem là một bằng chứng cho thấy Washington đang tìm cách bao vây Trung Quốc. Ba là, đối phó với việc hiện đại hóa quân đội của Trung Quốc. Từ năm 2008, Bắc Kinh đã loan báo một kế hoạch nhằm hiện đại hóa lực lượng hải quân và mở rộng khả năng tấn công phủ đầu của mình (với tên lửa tầm xa bắn mục tiêu chính xác) trên biển Đông. Ngày 10-8, Trung Quốc đã hạ thủy tàu sân bay đầu tiên của mình. Ngân sách quốc phòng năm 2010 của Trung Quốc đã lên mức 119 tỉ USD, đứng hàng thứ hai thế giới, chỉ sau Mỹ (689 tỉ USD). Alan Dupont của Đại học Sydney nhận định với báo Sunday Morning Herald: việc tái triển khai lực lượng hải quân Mỹ ở Úc là nhằm “giải quyết tính dễ bị tổn thương ngày càng tăng lên của các lực lượng Mỹ ở Nhật và Guam đối với các tên lửa thế hệ mới của Trung Quốc. Một điều chưa từng có trước đó. Khoảng cách địa lý của Úc giờ là một lợi thế chiến lược”. Bốn là, trấn an các nước trong khu vực. Valérie Niquet, chuyên gia nghiên cứu về châu Á của Tổ chức nghiên cứu chiến lược Pháp, nhận định: “Bằng mọi giá, các nước ven biển Đông muốn tránh không để xảy ra việc họ phải đơn thân độc mã đối mặt với sức mạnh của Trung Quốc, vốn không chỉ là một nguồn giàu có về kinh tế mà còn là mối lo ngại rất hiện thực về mặt chiến lược”. TRUNG NGUYỄN ================================== Cái này gọi là Dương khắc âm tắc bế, âm khắc dương tắc loạn. Hic, hong biết có đúng hong? Cao bồi đàn anh đang cưỡi ngựa bắn súng với thằng đệ gồng mình kungfu.
  15. - Có kẻ hỏi: Trong quẻ này (quẻ đã nói trên), Thế hào là Tuất Thổ không có biến ra Dần Mão, Tỵ Ngọ. - Tôi trả lời: Mấy hào khác thường có biến ra hồi đầu sinh khắc. Đây là mượn đỡ nó để làm kiểu mẫu mà thôi. - Lại hỏi: Mão mộc hay khắc Tuất Thổ, lại hợp với Tuất (theo lục hợp), vậy phải kể là khắc hay hợp? - Tôi trả lời: Trong chương Ngũ Hành tương hợp, có giải nghĩa rất rõ ràng. - Hỏi: Quẻ này là quẻ Kiền Vi Thiên, trong đó Ngọ Hỏa là Quan Tinh. Sao mà tháng Ngọ, ngày Ngọ, chiếm quẻ cũng lấy Ngọ Hỏa làm Quan Tinh? - Trả lời: Bất luận chiếm được quẻ nào, nếu trong quẻ lấy Tỵ Ngọ Hỏa làm Quan Tinh, mà chiếm quẻ lại nhằm ngày tháng Tỵ Ngọ, thì tháng hay là ngày đó cũng là Quan Tinh. Nếu trong quẻ, lấy Tỵ Ngọ làm Tài Tinh, thì ngày tháng Tỵ Ngọ cũng là Tài Tinh. Kỳ dư, cứ vậy mà suy. Vượng, tướng, hưu, tù, thì tra trong chương Tứ Thời Vượng Tướng. Không, phá, thì coi trong chương Tuần Không, Nguyệt phá. Xung, hợp, thì coi trong chương Ngũ Hành tương sinh, Ngũ Hành tương hợp. Sinh khắc, thì tra ở chương Ngũ Hành tương sinh, Ngũ Hành tương khắc. Nguyên Thần thì tra trong chương Nguyên Thần, Dụng Thần, Quan Tinh thì tra trong chương Dụng Thần. Ám động thì tra trong chương ám động. Hồi đầu sinh, hồi đầu khắc, thì tra trong chương biến động sinh khắc. Nhật Thần, Nguyệt Kiến, tra ở trong chương Nhật Thần, Nguyệt Kiến. Nếu chiếm về Phụ Mẫu, thì lấy hào Phụ Mẫu làm Dụng Thần. Trong quẻ này (quẻ Càn Vi Thiên ở trên), hai hào Thìn Tuất đều là Phụ Mẫu. Nếu hai hào đều động, hoặc không động, lựa cái vượng mà làm Dụng Thần. Nếu chỉ có một hào động, thì lấy hào động làm Dụng Thần. Phụ Mẫu đã tới hai Thổ là Thìn, Tuất, tức là lấy Thổ làm Phụ Mẫu. Nó hợp với Hỏa tương sinh, mà sợ Mộc tương khắc. Kỵ trúng Nguyệt Phá, Tuần Không, cũng có 4 chỗ sinh khắc xung hợp, nhưng phải sinh nhiều, khắc ít là kiết. Phải hiệp nó với Thế hào nói trước mà xem. Chiếm nhà cửa, xe cộ, ghe tàu, văn thư, tấu chương đều lấy hào Phụ Mẫu làm Dụng Thần. Phải coi cho rõ ở trong chươg Dụng Thần. Chiếm giùm người ta, thì lấy Ứng hào làm Dụng Thần. Theo quẻ này, ứng ở Thìn Thổ. Muốn đặng kiết, thì phải có 4 chỗ tương sinh. Chiếm về Huynh Đệ, lấy hào Huynh Đệ làm Dụng Thần. Theo quẻ này (quẻ nói trên), Thân Kim là Huynh Đệ, tức là dùng hào đó, nó hợp với Thổ tương sinh, sợ Hỏa tương khắc, kỵ trúng Nguyệt Phá, Tuần Không, cũng có 4 chỗ sinh khắc, đều là nhiều sinh ít khắc là kiết, ít sinh nhiều khắc là hung. Lại nói: Hào Huynh Đệ là Thần Kiếp Tài (đoạt của). Nhưng chiếm cho biết anh em, chị em bỉ thái, thì nó phải sinh vượng, chẳng nên trúng Tuần Không, Nguyệt Phá. Như chiếm về vợ hầu, tôi tớ, cũng là tài vật, hào Huynh cần phải đặng nhiều khắc, ít sinh. Lại nó (hào Huynh) ưa gặp Tuần Không, gặp Nguyệt Phá, thì mới không cướp tài, khắc hại vợ hầu, tôi tớ (hay nhân viên) của ta được. Chiếm về Vợ Hầu, Tôi Tớ, Tài Vật, lấy hào Thê Tài làm Dụng Thần. Theo quẻ này (quẻ nói ở trên), Dần Mộc Thê Tài là Dụng Thần, kỵ trúng Tuần Không, Nguyệt Phá, nên có Thuỷ tương sinh, sợ có Kim tương khắc, cũng có 4 chỗ sinh khắc, nhiều sinh ít khắc thì kiết, đồng như nói trên. Phàm chiếm về tiền bạc, mua bán, đều lấy hào Thê Tài làm Dụng Thần, coi kỹ trong chương Dụng Thần. Chiếm về Tử Tôn, lấy hào Tử Tôn làm Dụng Thần. Theo quẻ này (quẻ nói trên), hào đầu Tý Thủy, tức là Dụng Thần, kỵ trúng Nguyệt Phá, Tuần Không, ưa kim tương sinh, sợ Thổ tương khắc. Cũng có 4 chỗ sinh khắc, xung hợp. Hợp tại khắc ít, sinh nhiều, cũng như nói trên. Coi về việc khác, lấy hào Tử Tôn làm Dụng Thần thì cũng thường tra trong chương Dụng Thần. Chiếm về Công Danh, lấy hào Quan Quỷ làm Dụng Thần. Theo quẻ này (quẻ nói trên), Ngọ Hỏa Quan Tinh tức là dùng hào này. Hào Ngọ Quan rất kỵ gặp Không, gặp Phá, sợ Thủy tương khắc, ưa Mộc tương sinh. Cũng có 4 chỗ sinh khắc như trên. Chiếm quỹ xí, yêu nghiệt, loạn thần, đạo tặc, đều lấy hào Quan Quỷ làm Dụng Thần. Coi kỹ trong chương Dụng Thần. Các việc đem ra luận từ trước tới đây, thì cuốn sau sẽ nói thêm rộng cho dễ hiểu, e rằng người sơ học không biết ngỏ mà vào. Đây chỉ nói những điểm cương lĩnh, để dẫn dẫn dắt lần vào cửa. Biết những điều cương lĩnh rồi, hãy coi các chương trong cuốn sau cho kỹ lưỡng, do cạn vào sâu, tự thấy cảnh đẹp. Bát cung toàn Đồ ở phía trước đều là tịnh hào. Những quẻ nên có động, động thì phải biến. Thiên sau, tuy có chương động biến, e người không rõ. Đây xin vẽ ra một quẻ biến làm kiểu. Phải xem cho kỹ. Quẻ có vòng tròn 0. Biến ra vòng tròn làm "trùng", trùng là Dương, Dương động biến Âm. Quẻ có dấu tréo X. Biến ra dấu tréo làm "giao", giao là Âm, Âm động biến Dương. Như chiếm đặng quẻ Trạch Thiên Quải, biến ra quẻ Thiên Phong Cấu: Trạch Thiên Quải è Cấu -X- Huynh Đệ Mùi Thổ X è --- Huynh Đệ Tuất Thổ --- Tử Tôn Dậu Kim --- Hợi Thuỷ Thê Tài --- Huynh Đệ Thìn Thổ --- Quan Quỷ Dần Mộc -O- Thê Tài Tý Thủy O è - - Huynh Đệ Sửu Thổ Trong quẻ này, Trạch ở trên (là ngoại quái), Thiên ở dưới (là nội quái), tức là quẻ Trạch Thiên Quải. Hãy kiếm quẻ này trong toàn Đồ (phía trước), chiếu theo đó mà trang ra Thế Ứng, Ngũ Hành, Lục Thân, rồi sau coi động hào. Ba hào trên là quẻ Đoài, hào thứ sáu là giao động. Dấu tréo X (hai vạch ngắn) biến ra một vạch dài. Ấy là quẻ Đoài biến ra quẻ Càn, Càn vi Thiên. Ba hào dưới là quẻ Càn, hào đầu là trùng động. Vòng tròn O biến ra hai vạch ngắn, ấy là quẻ Càn biến ra quẻ Tốn, Tốn vi Phong. Thiên ở trên, Phong ở dưới, tức là quẻ Thiên Phong Cấu. Vì hào đầu, sửu Thổ trong quẻ Cấu, đối chiếu với hào đầu phát động trong quẻ trước là Tí Thuỷ, nên gọi là Tí Thuỷ biến ra Sửu Thổ. Vì hào thứ 6 Tuất Thổ ở trong quẻ Cấu, đối chiếu với với hào thứ 6 phát động trong quẻ trước là Mùi Thổ, nên gọi Mùi Thổ biến ra Tuất Thổ. Còn các hào khác không động, thì chẳng cần viết ra. - Theo lục Thân, trong quẻ Cấu: Sửu Thổ, Tuất Thổ nguyên là Phụ Mẫu, nay đều viết là Huynh Đệ tại sao? - Về lục Thân, phải chiếu theo quẻ trước mà định. Quẻ trước là Trạch Thiên Quải, Thổ làm Huynh Đệ, cho nên hai Thổ Sửu Tuất ở trong quẻ mới biến ra cũng phải để là Huynh Đệ. Các hào khác động biến ra cũng theo đó mà suy. Tất cả các quẻ khác, cứ vậy mà suy. Ghi chú: Trường hợp quẻ trước là nội hay ngoại quái là Càn, mà trong quẻ biến ra không có lục Thân, ví như Thiên Phong Cấu có hào nào đó động biến ra hào có lục Thân là Dần hay Mão Mộc, tức là trong quẻ Cấu không có. Không biết lục Thân là gì thì có thể tìm xem quẻ Cấu thuộc cung gì? Quẻ Cấu thuộc cung Càn, nó là 1 trong 8 quẻ của cung Càn nên có thể tra ngay lục Thân trong quẻ Bát Thuần Càn xem Dần Mão Mộc lục Thân là gì. Ta sẽ thấy đó là Tử Tôn Dần Mộc. Nếu là hào Mão Mộc cũng là Tử Tôn. Các quẻ và các trường hợp khác cũng theo đây mà suy xét, truy tìm về quẻ Chính Bát Thuần sẽ có lục Thân. nguồn: nhantrachoc.net.vn
  16. Sodpa – Nhẫn Nhục Ba La Mật Ngày 23 tháng 7 tại Nyoma, Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa đã khai thị hoàn toàn bằng tiếng Ladakh về chủ đề Sodpa tức “Nhẫn nhục ba la mật”. Sau đây là phần trình bày tóm tắt nội dung bài giảng pháp của Ngài: Sodpa hay Nhẫn nhục ba la mật là một trong những pháp thực hành quan trọng nhất trong Bồ tát đạo. Có những hoàn cảnh đặc biệt bạn cần phải thực hành hạnh Sodpa. Trước hết, khi bạn đang đau khổ tột cùng, đừng bao giờ buông xuôi và nản chí. Bạn cần lạc quan và tiếp tục thực hành thiện hạnh. Bạn cần phải kiên trì thực hành Phật Pháp. Chúng ta đã thực hành và nghe thuyết pháp rất nhiều, vậy mà dường như chúng ta chẳng hề tinh tấn và tiến bộ. Đó chính là vì chúng ta thiếu mất Sodpa. Bất cứ khi nào cảm thấy vui sướng hạnh phúc, bạn đều dễ bị trôi lăn lạc bước. Bạn không biết tự thỏa mãn, bằng lòng, và tâm bạn luôn tràn đầy kiêu mạn tự hào. Chẳng hạn, nếu bạn là người giàu có nhất trong làng, bạn cảm thấy rất tự hào về mình và coi thường người khác. Có được sự giàu có và sức khỏe là điều rất tốt, bởi lẽ ai cũng cần có tài bảo và sức khỏe, nhưng đừng nên ngã mạn. Nếu bạn giàu có, hãy biết cảm ơn những nghiệp thiện mình đã tích lũy thay vì coi thường người khác. Là người mạnh mẽ, đẹp đẽ, khỏe mạnh hay giàu có không nên là lý do khiến bạn trở nên ngã mạn, vì ngã mạn sẽ mang lại kết quả không tốt đẹp. Thí dụ, nếu bạn xinh đẹp và hãnh diện về vẻ đẹp của mình, bạn sẽ phải chịu nhiều đau khổ khi nhìn thấy chỉ một vết nhăn hay một cái mụn nhỏ nổi trên mặt. Lúc này đây, trước mặt tôi, tất cả chúng ta đều có làn da cháy nắng, đen đủi và nhăn nheo. Thật đáng tri ân vì chúng ta xấu xí, như vậy chúng ta sẽ không có cơ hội để ngã mạn và vì thế chúng ta sẽ không phải gánh chịu khổ đau. Ha! Ha! Ha! Nếu bạn đang hạnh phúc, bạn không nên để mình lạc bước hay vui mừng quá độ. Bạn cần biết vì sao mình có được hạnh phúc và không nên kiêu mạn vì những gì mình đang có. Mỗi khi có được quyền lực và sự giàu sang, bạn phải hiểu rằng những điều đó rất vô thường và sẽ không trường tồn bền lâu. Sodpa có nghĩa là bạn không nên kiêu mạn về bản thân khi mọi điều suôn sẻ thuận lợi đến với mình, và bạn không nên buồn rầu khi những người khác làm tốt hơn bạn, thay vì thế bạn cần phải hoan hỷ giống như chính mình đang thành công như họ vậy. Thời xa xưa, vua chúa là những người có quyền lực. Họ dùng quyền lực để xây dựng nên rất nhiều thành lũy, cung điện, người dân chẳng có lựa chọn nào khác và buộc phải tuân theo. Giờ đây, tất cả những gì còn lại từ những công trình vĩ đại ấy chỉ còn là đất đá và đổ nát. Những vị vua đó đều đã qua đời từ lâu và bạn chỉ có thể biết tới những thành tựu lớn lao của họ qua những trang sử sách còn lưu lại. Điều này cho chúng ta thấy mọi thứ đều vô thường. Vì vậy, chúng ta cần thực hành Sodpa mỗi khi cảm thấy hạnh phúc hay bất hạnh. Chúng ta luôn nghĩ và tin tưởng rằng tiền bạc là tất cả. Nếu có được tiền bạc, chúng ta sẽ có thể xoay chuyển được cả thế giới. Và để có được tiền, người ta sẵn sàng làm mọi điều xấu xa. Rất nhiều người trong chúng ta tin rằng nếu giàu có, chúng ta sẽ hạnh phúc. Nhưng sự thực lại không phải như vậy. Sodpa thực chất chính là sự thực hành Bồ tát đạo. Nếu không có Sodpa thì sự thực hành Bồ tát đạo sẽ không thể nào viên mãn. Cho dù chúng ta có thực hành bất cứ pháp nào, như Lục độ Ba La mật hay bất cứ một công hạnh nào khác, chúng ta đều cần thực hành Bồ tát đạo với tình yêu thương và lòng bi mẫn. Nếu không có tình yêu thương và lòng bi mẫn, chúng ta sẽ không thể thực hành Lục Độ Ba La Mật cũng như mọi thiện hạnh khác. Vạn Pháp đều không nằm ngoài từ bi và tính không. Từ bi là phạm trù vô cùng rộng lớn và tính không vô cùng sâu xa. Từ và bi giống như những đội quân đóng ở biên phòng để canh giữ biên giới cho tổ quốc, chống lại mọi thế lực thù địch. Chẳng hạn như đội quân biên phòng có nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc ở biên cương, nếu chỉ đi người không thì quả thật là điều vô cùng ngu ngốc và vô nghĩa. Họ cần phải được trang bị vũ khí. Tương tự như vậy, bạn cần phải được trang bị tâm từ và tâm bi để có thể chống lại những xúc tình tiêu cực hiện tướng của ngũ độc, tức là sân giận, tật đố, chấp thủ, vô minh và ngã mạn. Vì vậy, nếu bạn tìm kiếm giác ngộ, bạn cần phải thực hành vì lợi ích của hữu tình chúng sinh. Nếu không có sức mạnh của tình yêu thương và lòng bi mẫn, bạn sẽ không thể đạt tới giác ngộ. Khi bạn thực hành tâm từ và tâm bi với động cơ chân chính, sự thực hành sẽ thực sự che chở và giúp đỡ cho bạn có thể chinh phục mọi xúc tình tiêu cực và vượt qua mọi chướng ngại. Thí dụ, có một lần Đức Phật, với tâm đại từ đại bi đã thành thục viên mãn, bị người em họ Ngài là Devadatta (Đề Bà Đạt Đa) đem tâm đố kỵ âm mưu ám hại. Devadatta định hãm hại Đức Phật bằng một hòn đá tảng, nhưng hòn đá lại lăn xa khỏi người Đức Phật rồi quay vòng trở lại. Một thí dụ khác, Đức Phật đã gặp một đàn voi say điên cuồng giết hại mọi người và phá hoại nhà cửa. Khi tới gần Đức Phật, chúng bỗng trở nên hiền lành, bình tâm trở lại, và quỳ lạy dưới chân Đức Phật. Không ai có thể kiểm soát được đàn voi ấy, nhưng với lòng từ bi, Đức Phật đã có thể chế ngự được chúng. Nhờ thực hành trưởng dưỡng tâm từ bi, Đức Phật đã hoàn toàn chuyển hóa sân giận, vô minh, bám chấp cũng như mọi xúc tình tiêu cực khác trong tâm mình. Nếu bạn không thể phá bỏ được những xúc tình tiêu cực ấy, không thể kiểm soát được tâm sân giận của mình, có thể rốt cuộc bạn sẽ giết hại kẻ thù của mình. Gia đình họ hàng quyến thuộc của kẻ thù sẽ truy đuổi bạn và kết quả là bạn có thêm nhiều kẻ thù hơn. Nếu giết hại 100 kẻ thù, bạn sẽ có thêm 5,000 kẻ thù khác. Bạn sẽ chỉ làm tăng thêm chứ không làm giảm đi những quả báo bất thiện. Vì vậy, nên bạn đừng nghĩ tới chuyện loại bỏ kẻ thù bên ngoài của bạn, thay vì thế, bạn cần phá hủy tâm sân giận bởi đó chính là kẻ thù bên trong của bạn. Như vậy, số lượng kẻ thù sẽ tăng lên hay giảm đi chỉ hoàn toàn phụ thuộc vào mình bạn. Tam độc hay ngũ độc được coi là kẻ thù bên trong của bạn, còn mọi người, chúng sinh hay hoàn cảnh đều được coi là kẻ thù bên ngoài. Chúng ta vẫn thường cố gắng hết sức để phá hủy những kẻ thù bên ngoài mà không hề biết rằng chỉ cần phá hủy được kẻ thù bên trong, mọi kẻ thù bên ngoài sẽ hoàn toàn biến mất. Khi sân hận, bạn chiến đấu và giết hại kẻ thù, rồi sau đó bạn cảm thấy rất tự hào về mình. Nhưng đối với một con người, đây là điều tệ hại và xấu xa nhất không được phạm phải. Xét từ góc độ từ bi nhân ái, từ góc độ tâm linh hay thậm chí từ góc độ xã hội, sân giận là một điều vô cùng xấu xa. Mọi người có thể sẽ không chê bai trước mặt bạn, nhưng khi vắng mặt họ sẽ nói với nhau “Không nên gần gũi người đó”. Vì vậy chúng ta cần phải kiểm soát được tâm mình. Nếu nói về tài bảo thế gian thì có bao nhiêu cũng không bao giờ đủ. Hôm nay bạn có thể có 10 đô la nhưng bạn vẫn ước ngày mai có 20 đô la, và mỗi ngày ước muốn đó càng tăng lên. Bạn không bao giờ mãn nguyện. Điều này giống như uống nước muối khi bạn đang khát. Càng uống bạn càng thấy khát. Đó chính là hậu quả của lòng tham muốn hay dục vọng. Cách đối trị là mỗi ngày bạn cần kiểm soát sự tham muốn trong nội tâm. Chẳng hạn khi thấy một thứ gì đẹp đẽ, tâm tham muốn bên trong của bạn lập tức muốn có được thứ đó. Nhưng bạn cần kiểm soát tâm mình bằng cách từ bỏ ham muốn đó. Mỗi ngày, từng ngày một, từng chút một, bạn làm như vậy, rồi sẽ tới một ngày bạn kiểm soát được tâm mình. Chẳng hạn, nếu bạn nghiện thuốc hay nghiện rượu, bạn sẽ không thể bỏ được ngay một lúc. Cho dù bạn có phát nguyện, rồi cuối cùng bạn cũng sẽ không làm được. Vì thế, hãy cố đừng giữ bất cứ điếu thuốc nào trong túi, đừng đi chơi với những người bạn thích uống rượu. Hãy đề nghị bạn bè đừng uống rượu hay hút thuốc trước mặt bạn. Nếu bạn có thể thực hiện điều này từng chút một, có khi bạn chưa kịp nhận thấy thì bạn đã từ bỏ được thói quen xấu đó rồi. Nếu không, khi gặp gỡ bạn bè, có thể vì lịch sự, bạn sẽ uống một chút rượu hay hút một điếu thuốc. Và bạn tự nhủ rằng chỉ một lần này thôi thì cũng chẳng hại gì. Cứ như vậy cuối cùng mỗi lần bạn sẽ dùng thêm một chút, cho tới khi bạn sẽ chẳng thể ngừng thói quen xấu đó lại được nữa. Tất cả những thói quen xấu như hút thuốc hay uống rượu đều rất tổn hại đối với con đường dẫn tới giác ngộ xét từ khía cạnh thực hành tâm linh và cả từ góc độ thế tục. Những thói quen này đều rất có hại tới sức khỏe. Hút thuốc rồi sẽ dẫn tới căn bệnh ung thư, thế nhưng mọi người vẫn cứ tiếp tục hút cho tới khi bị mắc bệnh thật sự. Khi họ mắc bệnh thì đã quá muộn rồi. Vì thế, nếu bạn có thể đấu tranh để loại bỏ chúng, từng chút một, từng ngày một bạn sẽ có thể đạt được tiến bộ. Đó cũng chính là thực hành Bồ tát đạo. Bất cứ điều gì bạn nhìn thấy, nghe được hay cảm giác đều là do tâm tạo tác. Tâm chính là yếu tố mang lại cảm giác mãnh liệt về điều gì tốt, điều gì xấu. Chẳng hạn như ngọn đồi ngoài kia, tâm nói với chúng ta rằng ngọn đồi đó cao hay thấp. Ngọn đồi không phải do tâm tạo ra, nhưng tâm tạo ra những hoàn cảnh hay điều kiện về ngọn đồi. Chẳng hạn tâm nói với chúng ta món ăn này ngon hay dở, nói với chúng ta thứ này ngắn hay dài. Nhưng tất cả mọi thứ đều chỉ là vọng tưởng, ngay cả tâm cũng không phải là thật. Nếu bạn thử tìm kiếm xem tâm ở đâu; tâm có màu gì; tâm có kích thước như thế nào; bạn sẽ không thể nào tìm thấy câu trả lời. Đó chính là bản chất của tâm. Có và không, xấu và tốt, cao và thấp, tất cả đều chỉ mang tính tương đối. Tự tính của vạn pháp là chân không. Do tâm là hư vọng nên mọi thứ do tâm tạo ra cũng đều là hư vọng, và chúng ta không nên đuổi theo hư vọng. Chúng ta thường có khuynh hướng tham chấp ái luyến những con người, những hoàn cảnh, những sự vật hiện tượng tốt đẹp. Chẳng ai muốn chịu đựng đau khổ. Ai cũng muốn được hạnh phúc. Nhưng chúng ta cần phải hiểu được rằng hạnh phúc hay khổ đau cũng đều là hư vọng. Giống như cầu vồng vậy. Tất cả những thứ tốt đẹp cũng giống như cầu vồng, đều không có thật. Thực hành xả chấp cũng là thực hành Bồ tát đạo. Bám chấp sẽ dẫn tới khổ đau vô lượng. Thế nhưng cũng đừng nên tuyệt vọng khi gặp đau khổ, vì đau khổ cũng chỉ là hư vọng mà thôi. Khổ đau muôn hình vạn trạng, trong đó có bốn nhóm chính. Thứ nhất là bạn đau khổ khi không có được điều mình mong muốn. Thứ hai là ngay cả khi đã có được thứ mình mong muốn rồi, bạn vẫn đau khổ vì lo sợ sẽ đánh mất nó. Loại khổ thứ ba là bạn gặp gỡ những người hoặc những hoàn cảnh mà bạn không mong muốn song lại chẳng có cách nào để trốn tránh. Loại khổ thứ tư là bạn buộc phải xa lìa những người, những đồ vật hay những hoàn cảnh mà bạn yêu mến. Đây là bốn loại khổ thông thường vẫn gặp. Có những người khổ vì ốm đau, có những người khổ vì mất người thân yêu v.v. Có rất nhiều nguyên nhân gây ra đau khổ. Nếu như bạn gặp phải bất cứ cảnh ngộ nào như vậy, bạn đừng nên tuyệt vọng. Bạn cần phải hiểu rằng đau khổ là bản chất của luân hồi. Hãy nghĩ về điều đó và tự nhủ, “Mình đang đau khổ bởi những nghiệp quả bất thiện trong quá khứ đang chín muồi”. Thay vì cảm thấy tuyệt vọng hay hoảng loạn, bạn hãy bình tâm và cầu nguyện. Hãy thử suy nghĩ và hành động tích cực, thiện lành, để trong tương lai và những đời sống sau nữa bạn sẽ không phải trải qua cảnh khổ tương tự. Trong khi đau khổ, bạn cũng cần nghĩ tới những người đang chịu đau khổ giống như bạn, hãy cầu nguyện cả cho họ và nguyện rằng họ sẽ không phải chịu đau khổ giống như bạn đang phải chịu. Đau khổ là vọng tưởng và vọng tưởng giống như một giấc mơ. Thí dụ như khi bạn nằm mơ thấy con mình tử nạn, trong mơ bạn cảm thấy đau đớn tột cùng, cho dù đó chỉ là giấc mơ. Ngay khi thức dậy, bạn nhận ra rằng con bạn vẫn còn sống và đó chỉ là một cơn ác mộng. Điều này cho thấy những đau khổ chúng ta đang trải qua cũng chỉ là ảo vọng. Hiểu được rằng đau khổ là ảo vọng cũng là thực hành Bồ tát đạo. nguồn: http://drukpavietnam.org
  17. Hic, hồi còn là sinh viên, câu truyện ông thầy đồ liếm dĩa thì đệ tử đã qua rồi. Đọc xong rồi cười, cười chỉ vì truyên mô tả ông thầy tham ăn. Nhưng bây giờ Sự Phụ khai ngộ Lý học Việt thì mới thấy cái ẩn ngữ, bí ẩn, thâm thúy của trí tuệ con Rồng cháu Tiên. Tự hào văn hiến Việt lắm thay! hehehe “Thái cực sinh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, Tứ tượng sinh Bát quái” bằng"Ông bà sinh ra cha mẹ; Cha mẹ sinh ra con cái; con cái đẻ ra con vịt". (cười cái này bể bụng hơn). Thiên Đồng
  18. CA TRÙ VIỆT NAM Ca trù là một sản phẩm dân gian đã có lịch sử gần 1000 năm theo suốt chiều dài của Thăng Long – Hà Nội. Tương truyền vào thời vua Lý Thái Tổ ( 1010 – 1028) đã từng có một ca nhi hát hay múa giỏi tên là Đào Thị biểu diễn xuất sắc dòng nhạc này và rất được vua khen ngợi.Người thời đó mộ danh tiếng của Đào Thị nên cứ phàm là con hát thì đều gọi là Ả đào vì vậy nên từ những ngày đầu ca trù được biết đến với cái tên hát ả đào. Tuy vậy, ca trù lại có cội nguồn từ lối hát cửa đình - một lối hát tín ngưỡng thờ thành hoàng làng. Lối hát cửa đình từ những ngày đầu được các trưởng tộc, trưởng làng dùng vào việc cầu trời đất, thánh thần. Lấy âm nhạc làm tín hiệu truyền lời thỉnh cầu của dân làng đến các đấng thần linh. Về sau, các bậc vua chúa cũng lấy dòng nhạc này để hát cúng trời đất và tổ tiên nơi thái miếu. Theo như dân gian truyền miệng thì vào đời nhà Lê, Đinh Lễ - tự là Nguyên Sinh, người làng Cổ Đạm, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, con nhà gia thế, tính tình phóng khoáng, không thích công danh bó buộc thường ôm cây đàn nguyệt đến bên bờ suối gẩy rồi hát để hoà với tiếng suổi chảy trong khe. Một hôm Nguyên Sinh đem đàn và rượu vào rừng thông để tiêu khiển bỗng nhiên gặp được hai cụ già. Đó chính là Lý Thiết Quài và Lã Động Tân ( hai vị trong bát tiên), hai vị tiên ông đưa cho Nguyên Sinh khúc gỗ ngô đồng và tờ giấy vẽ kiểu mẫu đàn rồi dặn đóng đàn theo kiểu mẫu như trong giấy. Tiếng đàn đó sẽ giải trừ được ma quỷ và mọi phiền muộn. Nguyên Sinh sụp xuống lạy tạ, lúc ngẩng lên hai vị tiên ông đã hóa ra đám mây trắng bay về lối tây. Nhờ tiếng đàn kỳ diệu, Nguyên Sinh đã chữa được bệnh cho rất nhiều người. Một lần Nguyên Sinh đến Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa, với tiếng đàn của mình Nguyên Sinh đã chữa khỏi bệnh cho cô gái tên Hoa, con gái của vị quan châu - Bạch Đình Sa khỏi bệnh câm. Cả nhà quan châu và dân làng mừng khôn xiết. Nhờ thế, quan châu đã tác thành cho Nguyên Sinh và Bạch Hoa nên duyên chồng vợ, sống với nhau rất hoà hợp. Nguyên Sinh đặt ra lối múa hát mới rồi lấy hai thanh tre vót thật đẹp để cho vợ gõ lên những mảnh gỗ theo nhịp mà hát. Sau đó hai vợ chồng từ biệt ông bà nhạc dẫn nhau về quê Nguyên Sinh là làng Cổ Đạm để lập nghiệp. Ít lâu sau, Nguyên Sinh gặp lại hai vị tiên ông, được ghi tên vào tiên phả và cùng nhau hoá đi. Vợ Nguyên Sinh biết chuyện, bèn phát tán hết tài sản rồi đóng cửa dạy cho đám con em trong làng hát múa. Sau khi nàng lâm bệnh mà chết, dân làng Cổ Đạm và đệ tử nhớ ơn lập đền thờ gọi là đền Tổ cô đầu hay là đền Bạch Hoa công chúa. Triều đình phong tặng Đinh Lễ ( Nguyên Sinh ) là Thanh Xà Đại Vương, Bạch Hoa là Mãn Đào Hoa Công chúa. Nhưng cho đến nay thì tư liệu chữ viết cho thông tin về ca trù sớm nhất là vào thế kỷ XV, trong “Đại nghĩ bát giáp thưởng đào giải văn” của Tiến sĩ Lê Đức Mao soạn khoảng trước năm 1505 chép trong “ Lê tộc gia phả”. Bên cạnh đó, những tư liệu khảo cổ học sớm nhất ghi nhận ca trù là bức chạm khắc đàn Đáy, tìm thấy ở một số ngôi đình, chùa Bắc bộ thế kỷ XVI. Ca trù tuy có nguồn cội từ lối hát dân gian nhưng khi vào đến chốn cung đình đã được sự nghiên cứu chỉnh sửa của các chuyên gia về âm luật trong chốn cung đình nên đã trở thành một bộ môn nghệ thuật sâu sắc, có tính thẩm mỹ cao. Thường được dùng trong các dịp yến tiệc, khánh tiết và tiếp đãi sứ thần. Từ khi Thăng Long không còn là kinh đô nữa, dòng nhạc ca trù ngoài phần làm hát cúng, mang tính chất linh thiêng thì ca trù vẫn được những gia đình quan lại và những bậc hào hoa kẻ sĩ trong các Phường, Hội trên đất cố đô ưa chuộng. Dòng nhạc ca trù ở đất Hà Thành vẫn phát triển theo nhịp sống riêng của nó. Nhưng vào đầu thế kỷ XX , lối ăn chơi của người phương Tây đã tràn vào Việt Nam, cả Hà Nội và các tỉnh thành lân cận rộ lên cơn sốt đào rượu. Các quán cô đầu thi nhau mọc lên và các chủ quán lợi dụng lối hát ả đào để câu khách bằng cách thuê vài cặp đào kép giỏi nghề cầm ca hát mua vui, còn các cô không biết hát thì chuốc rượu cho khách, các cô này thời đó được gọi là đào rượu. Cho đến năm 1945, để lập lại sự lành mạnh của nền văn hoá mới, chính quyền đã dẹp nạn đào rượu nhưng do giận cá chém thớt, người dân Hà nội nói riêng và người dân cả nước nói chung cũng ác cảm lây với lối hát ca trù. Các đào nương, kép đàn đã từng một thời vang bóng cũng dấu phách, dấu đàn và không dám nhắc đến hai từ ca trù nữa. Dòng nhạc này cũng từ đó bị lãng quên và mất dần. Nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát là người có công đầu tiên trong việc tuyên truyền giá trị nghệ thuật của ca trù. Năm 1976, Giáo sư Trần Văn Khê ở Pháp về đã tìm và thu băng giọng hát của bà Quách Thị Hồ và đem đi giới thiệu với thế giới. Năm 1978, Hội đồng âm nhạc quốc tế của Unesco và Viện nghiên cứu quốc tế về âm nhạc đã trao bằng danh dự cho bà vì công lao đặc biệt trong việc bảo tồn một bộ môn âm nhạc truyền thống có giá trị văn hoá nghệ thuật cao. Năm 1977, mới bắt đầu thấy lác đác sống dậy làn điệu ca trù qua sóng của Đài Tiếng Nói Việt Nam. Năm 1988, tại liên hoan tiếng hát âm nhạc truyền thống tại Bình Nhưỡng với sự tham gia của 29 quốc gia, băng ghi âm tiếng hát của bà Quách Thị Hồ đã đại diện cho Việt Nam được xếp thứ hạng cao nhất. Và đến năm 1991, với sự nỗ lực của đào nương Lê Thị Bạch Vân câu lạc bộ ca trù Hà Nội ra đời và theo sau đó là một vài câu lạc bộ nhỏ lẻ tiếp bước thế nhưng tất cả đều chỉ dừng lại ở mức độ hoạt động tự phát. Năm 2000, Liên hoan ca trù Hà Nội mở rộng lần thứ nhất được tổ chức với sự tham gia của nghệ nhân 14 tỉnh thành, trong đó nhiều nghệ nhân đã bỏ nghề cả nửa thế kỷ. Phải đến năm 2002 với sự tài trợ của quỹ Ford, Cục nghệ thuật biểu diễn đã tổ chức được một lớp học trong hai tháng và dạy được ba bài hát. Năm 2005, liên hoan ca trù toàn quốc lần đầu tiên được tổ chức. Và cũng trong năm 2005, Bộ Văn Hóa chỉ đạo Viện âm nhạc Việt Nam hoàn tất hồ sơ về ca trù để đề nghị Unesco công nhận ca trù là di sản văn hoá phi vật thể truyền miệng của nhân loại. Theo tư liệu Hán Nôm thì ca trù có khoảng 99 thể cách, cho đến ngày hôm nay thì chúng ta chỉ còn lưu giữ được 26 thể cách và 3 thể cách không được tài liệu Hán Nôm ghi nhận nhưng đã được tư liệu tiếng ghi lại. Nghe thử một bài Trà do NSND Quách Thị Hồ biểu diễn: http-~~-//www.youtube.com/watch?v=eZl8EEJJyF0&feature=related nguồn: http://vietnamcatru.com
  19. “Lòng vị tha là nguồn hạnh phúc lớn nhất” Đức Dalai Lama. Thái Hà chuyển ngữ 23/07/2011 13:32 (GMT+7) Đức Dalai Lama tự coi mình là một thầy tu mộc mạc giản dị – một người dậy lúc 4 giờ sáng và sử dụng hàng giờ mỗi ngày vào cầu nguyện và thiền. Nhưng mọi nỗ lực không bạo lực để giải phóng đất nước Tây Tạng của Ngài đã khiến Đức Dalai Lama trở thành một biểu tượng quốc tế của hòa bình trong suốt bốn thập kỷ qua. Trong 46 quốc gia mà Đức Dalai Lama đã được mời tới thăm, hàng nghìn người đã tập trung lại để nghe Ngài nói chuyện về những điều Ngài tin là thông điệp ý nghĩa nhất – Lòng thương người là con đường chắc chắn nhất dẫn tới hạnh phúc. Trong một chuyến đi của Đức Dalai Lama tới Washington và viếng thăm Tổng thống Bush, Đức Dalai Lama đã có cuộc gặp gỡ với Oprah Winfrey – người dẫn chương trình đối thoại nổi tiếng trên truyền hình Mỹ và là nhà xuất bản tạp chí danh tiếng. Trong suốt thời gian buổi nói chuyện, Người lãnh tụ nổi tiếng về tôn giáo chia sẻ tại sao những thứ vật chất không thể thỏa mãn tâm hồn nhưng lòng thương lại có thể, mỗi con người có thể tìm thấy bí mật cho một cuộc sống tràn ngập niềm vui như thế nào và bí mật đơn giản một cách đáng ngạc nhiên để có được sự không hối tiếc. Dưới đây là nội dung cuộc phỏng vấn giữa Oprah và Đức Dalai Lama được trích dẫn và dịch từ Tạp chí Oprah, Số tháng 8 năm 2001. Oprah: Một người của nền văn hóa chú trọng đến chủ nghĩa duy vật có thể đạt được hạnh phúc thực sự như thế nào? Đức Dalai Lama: Thậm chí khi một người có đầy đủ tiện nghi của cuộc sống - thức ăn ngon, nơi ẩn náu tốt, một người bạn đời- cô ta hoặc anh ta có thể vẫn không thấy hạnh phúc khi gặp phải một tình huống bi kịch. Những tiện nghi vật chất có thể không làm dịu bớt được những nỗi đau khổ tinh thần, và nếu chúng ta nhìn gần lại chúng ta có thể thấy rằng những người có nhiều của cải chưa chắc thấy hạnh phúc. Thực tế, giàu có thậm chí thường mang tới nhiều lo lắng hơn. Mặt khác, những người không có một cuộc sống giàu sang vẫn có thể có một ngôi nhà với tình thương, dựa vào những chọn lựa của họ để thỏa mãn và thực hành khả năng kiềm chế ham muốn bản thân. Thậm chí khi chúng ta có khó khăn về vật chất, chúng ta vẫn có thể rất hạnh phúc. Oprah: Vậy thưa Ngài, hạnh phúc bắt nguồn từ trong ý nghĩ của chúng ta? Đức Dalai Lama: Đúng vậy. Đó là tại sao hạnh phúc về tinh thần thường quan trọng hơn các tiện nghi vật chất. Các tiện nghi bắt nguồn từ vật chất. Nhưng vật chất không thể cung cấp cho bạn có suy nghĩ bình an. Oprah: Đúng vậy thưa Ngài. Đức Dalai Lama: Khi bạn không toại ý, bạn thường muốn nhiều hơn, hơn và hơn nữa. Mong muốn của bạn có thể không bao giờ được thỏa mãn. Nhưng một khi bạn thực hành sự bằng lòng, bạn có thể nói với bản thân, “Oh đúng – Ta đã có mọi thứ ta cần” Oprah: Cái tôi thu nhận được từ cuốn “Nghệ thuật của sự hạnh phúc” là tình thương là chìa khóa cho sự thanh bình và suy nghĩ hòa bình. Nhưng Ngài có thể động lòng trắc ẩn với mọi người như thế nào khi bản thân Ngài đang phải chịu đựng, thưa Ngài? Đức Dalai Lama: Khi một người trong một tình huống khó khăn, thì vâng, nó thật khó để phát triển tình thương to lớn tới người khác. Đó là tại sao tôi thấy khó khăn khi nói với những người nghèo, “Xin có tình thương tới những người triệu phú.” Điều đó không dễ. Và nhưng thậm chí người giàu có những nỗi khổ, lo lắng, nghi ngờ và sợ hãi của riêng họ. Bởi vậy, trong nhiều trường hợp, người giàu có không hạnh phúc! Và có lúc họ thỉnh thoảng phải chịu sự đau khổ tinh thần khi đối mặt với những khó khăn nhỏ nhiều hơn so với những người đối mặt với những khó khăn này thường ngày. Oprah: Phật giáo là một hướng đi tới hạnh phúc đúng không, thưa Ngài? Đức Dalai Lama: Chắc chắn – mặc dù một vài người có ấn tượng rằng Phật giáo nói quá nhiều về nỗi khổ. Để trở nên phát đạt, một người ban đầu phải làm việc thật chăm chỉ, bởi vậy anh hoặc cô ta phải hi sinh nhiều thời gian rảnh rỗi. Tương tự, Phật tử sẵn sàng hi sinh các tiện nghi để anh ta hoặc cô ta có thể đạt được hạnh phúc dài lâu. Và để phát triển quyền năng hi sinh, bạn đầu tiên phải nhận ra rằng sử dụng toàn bộ thời gian và năng lượng của bạn theo đuổi các tiện nghi vật chất nghĩa là rốt cuộc bạn sẽ đau khổ. Nó là tất cả kết cục tốt và xấu và điều quan trọng khi nhận thức rằng có những kết cục lâu dài (cho từng hành động). Oprah: Mặc dù Ngài tin rằng Phật giáo là hướng đi tới hạnh phúc, Ngài khuyến khích người khác duy trì niềm tin của riêng họ đúng không thưa Ngài? Đức Dalai Lama: Đúng vậy. Tôi luôn đề cao rằng an toàn và tốt hơn là để mỗi người giữ niềm tin tôn giáo của riêng họ. Những tôn giáo chính thống khác đã tồn tại hàng nghìn năm và có truyền thống lâu đời. Oprah: Ngài có tin rằng một ai đó có thể là người Thiên chúa giáo và vẫn thực hành Phật giáo không thưa Ngài? Đức Dalai Lama: Có, tôi nghĩ vậy. Có những kỹ năng của Phật giáo, ví dụ như thiền mà bất kỳ ai có thể sử dụng. Và tất nhiên có nhiều linh mục Thiên chúa giáo và tăng ni cũng sử dụng các phương pháp Phật giáo để phát triển lòng mộ đạo, tình thương và khả năng tha thứ của họ. Oprah: Chức năng tôn giáo phục vụ trong đời sống của chúng ta là gì vậy thưa Ngài? Đức Dalai Lama: Nó giúp chúng ta phát triển tình thương, sự quan tâm và tôi nghĩ, một ý thức có mục đích. Oprah: Và cái gì là mục đích của chúng ta ở đây trên trái đất này? Đức Dalai Lama: Để giúp người khác. Oprah: Như vậy lý do chính mà chúng ta tồn tại trên hành tinh này là để phục vụ người khác phải không, thưa Ngài? Đức Dalai Lama: Đúng vậy. Oprah: Một người có thể tốt mà không cần thực hành tôn giáo không? Đức Dalai Lama: Có, và anh hoặc cô ta cũng có thể hạnh phúc. Oprah: Liệu mọi người có thể hạnh phúc không, thưa Ngài? Đức Dalai Lama: Có thể - tất nhiên. Và nó đáng giá cho bất cứ ai nỗ lực để đạt hạnh phúc. Giống như mục đích của một cái cây là lớn lên, thì mục đích chính của con người là sống sót và phát triển tới lúc chết. Đến chừng nào sự phát triển tinh thần được quan tâm, chúng ta không bao giờ nên tự mãn. Chúng ta có thể phát triển suy nghĩ của chúng ta mãi mãi – không có một giới hạn nào. Rất nhiều trong chúng ta không bằng lòng với những của cải chúng ta có, nhưng chúng ta bằng lòng khi chúng ta đạt tới sự phát triển tinh thần. Đó là sai lầm của chúng ta. Oprah: Nếu tất cả chúng ta hiểu rằng mục đích duy nhất của chúng ta là giúp người khác, liệu cái đó có thay đổi được nhân loại không, thưa Ngài? Đức Dalai Lama: Có và sự hiểu biết bắt đầu thay đổi thái độ của chúng ta. Chúng ta phải nhận ra rằng tốt nhất là tập trung vào tính duy nhất của chúng ta, chú trọng tới sự giống nhau trong mỗi chúng ta hơn là chăm chú vào cái khác biệt. Vâng, có những sự khác biệt giữa chúng ta. Nhưng nó không phù hợp để đề cao, bởi vì tương lai của tôi và của bạn được kết nối với tương lai của những người khác. Vậy chúng ta phải thực sự quan tâm tới toàn nhân loại. Khi chúng ta tập trung vào cá nhân chúng ta, nhân loại chắc chắn đau khổ. Và một khi nhân loại đau khổ, mỗi người chúng ta cũng sẽ chịu đau khổ. Ví dụ, vài phút trước có một chuông báo cháy trong tòa nhà này. Tôi phản ứng ngay lập tức – không phải bởi tòa nhà này là một phần cơ thể tôi mà bởi tôi đang ở trong nó. Đó là tại sao tôi phải quan tâm tới nó. Tương tự, khi chúng ta yêu nhân loại hay không, chúng ta phải nhận ra rằng chúng ta là một phần của nó. Tương lai của tôi phụ thuộc hoàn toàn vào tương lai của nhân loại, và bởi vậy tôi buộc phải quan tâm đến nhân loại. Đó là tại sao động lòng trắc ẩn thực tế là mối quan tâm lớn nhất của riêng tôi. Và một dấu hiệu về suy nghĩ hòa bình của riêng tôi đó là tôi có thể chia sẻ tiện nghi với người khác xung quanh tôi. Oprah: Không thực hành lòng biết ơn cũng ảnh hưởng tới cuộc sống của chúng ta giống như cách mà tình thương ảnh hưởng đúng không, thưa Ngài? Đức Dalai Lama: Thực sự như vậy. Khi bạn thực hành sự biết ơn, có một ý thức tôn trọng tới người khác. Oprah: Đúng như vậy. Bây giờ chúng ta có thể nói về Ngài được không? Khi Ngài được phát hiện ra lần đầu tiên là Dalai Lama, Ngài có cảm thấy có một cái gì đặc biệt về mình không? Đức Dalai Lama: Không có. Oprah: Không có một phần nào trong ngài thấy rằng mình khác biệt sao? Đức Dalai Lama: Thỉnh thoảng, tôi có cảm giác đấy, tôi có thể cảm thấy một vài tác động từ các kiếp trước. Vào những buổi sáng sớm, khi tôi đang nửa tỉnh nửa mơ, suy nghĩ của tôi rất rõ ràng. Và khi tôi ở trong tình trạng này, tôi đã từng có những thoáng hiện của ký ức từ những kiếp trước trong đó tôi nhận biết có những trường hợp từ một hai thế kỷ trước. Một lần tôi có cảm giác tôi ở Ai Cập 600 năm trước. Oprah: Ngài có cảm thấy mình khác biệt so với hầu hết người khác không? Đức Dalai Lama: Không, không có. Oprah: Vậy giống mọi người khác, ngài làm chủ bản thân ngài phải không thưa Ngài? Đức Dalai Lama: Đúng vậy Oprah: Nhưng ngài cũng không làm chủ bất kỳ ai khác? Đức Dalai Lama: Thực như vậy Oprah: Lớn lên, ngài có nhớ có một thời thơ ấu bình thường không? Đức Dalai Lama: May mắn thay, tôi đã có nhiều bạn chơi mặc dù hầu hết họ đã trưởng thành. Oprah: Ngài đã từng bao giờ muốn có một gia đình hoặc trẻ con? Đức Dalai Lama: Không. Khi tôi khoảng 15, 16 tổi, tôi có một vài sự quan tâm. Đó là sinh học. Nhưng sau đó một vài người bạn lớn tuổi hơn mà là nhà sư sau này đã trở thành người thế tục, và họ đã nói cho tôi về một vài sự phức tạp của việc điều hành một cuộc sống gia đình. Tất nhiên, có những niềm vui to lớn trong việc có một gia đình, nhưng cũng có rất nhiều vấn đề khác. Oprah: Tôi vừa đọc thấy rằng Ngài sử dụng nhiều giờ trong một ngày để thiền. Giá trị mà thiền mang lại cho những người thậm trí không phải là Phật tử là gì? Đức Dalai Lama: Thiền có giá trị cho tất cả nhân loại bởi vì nó bao hàm việc hướng vào nội tâm. Con người không phải theo tôn giáo để nhìn vào bên trong bản thân họ một cách cẩn thận. Nó có tính xây dựng và đáng giá để phân tích tình cảm bao gồm cả lòng thương và ý thức chăm sóc của chúng ta, bởi vậy chúng ta có thể trở nên bình tĩnh và hạnh phúc hơn. Lòng căm thù, ghen tỵ và nỗi sợ cản trở ý nghĩ hòa bình. Ví dụ khi bạn tức giận hoặc không tha thứ, bạn sẽ liên miên chịu nỗi khổ tinh thần. Tốt nhất nên bỏ qua hơn là phá hỏng ý nghĩ hòa bình của bạn với những cảm xúc mệt mỏi. Oprah: Ngài dường như có rất nhiều niềm vui. Cái gì khiến cho Ngài hạnh phúc vậy, thưa Ngài? Đức Dalai Lama: Tôi không đòi hỏi bản thân quá nghiêm trọng. Điều đó khiến tôi hạnh phúc. Oprah: Một ngày hoàn hảo đối với Ngài là gì? Đức Dalai Lama: Không bao giờ có một ngày hoàn hảo vì không có sự hoàn hảo trên thế giới. Oprah: Vậy cái gì tạo nên một ngày tốt đẹp – một ngày mà Ngài thấy thực sự vui và cười rất nhiều? Đức Dalai Lama: Tôi thực sự thích làm vườn và các đồ cơ khí. Và khi tôi có thời gian rỗi, tôi sử dụng một phần để đọc sách và học – chủ yếu là sách Phật giáo Tây Tạng cũng như các chủ đề ưa thích của tôi như tình thương và lòng vị tha. Trong những ngày đó khi tôi có thể sử dụng vài giờ để nhận được sự hiểu biết, tôi cảm thấy thỏa mãn. Tôi cảm giác như thể tôi đã sử dụng thời gian thật tốt. Oprah: Ngài làm việc quá chăm chỉ và du lịch nhiều bởi vì Ngài muốn chú ý tới những gì đang xảy ra với người Tây Tạng đúng không? Đức Dalai Lama: Không cần thiết. Như sáng nay tôi đã đọc một bài báo nói một vài thứ như “Đức Dalai Lama thăm sáu thành phố để giảng giải về sự áp bức người Tây Tạng của Trung Quốc”. Điều đó là sai. Tôi chưa từng ở bất cứ địa điểm nơi mà tôi không được mời đầu tiên. Và về lời mời, nếu tôi cảm thấy có khả năng đóng góp cho nhân loại, tôi sẽ làm theo mặc dù mệt mỏi. Oprah: Ngài sẽ không hạnh phúc nếu người Tây Tạng không đạt được độc lập trước khi Ngài qua đời đúng không? Đức Dalai Lama: Nếu tôi chết hôm nay, tôi sẽ có một vài mối bận tâm với người Tây Tạng. Nhưng bây giờ tôi biêt rằng cá nhân tôi đã làm nhiều như tôi có thể sử dụng sự tồn tại của mình cho người khác. Bởi vậy tôi không hối tiếc. Oprah: Không một cái gì sao thưa Ngài? Đức Dalai Lama: Đúng vậy. Oprah: Ngài đã từng bao giờ tha thứ cho bản thân Ngài vì một cái gì chưa? Đức Dalai Lama: Tôi đã từng phải tha thứ cho bản thân vì một số thứ nhỏ nhặt như chẳng may giết chết một côn trùng. Thái độ của tôi đối với muỗi và bọ gường không được hòa bình hoặc ưa thích cho lắm. Oprah: Ngài đã từng bao giờ tha thứ cho bản thân Ngài vì bất kỳ lỗi lầm lớn nào chưa? Đức Dalai Lama: Tôi mắc lỗi nhỏ hàng ngày. Nhưng lỗi lầm lớn ah? Dường như không. Tôi kiểm tra sự phục vụ của tôi với người Tây Tạng và với nhân loại và tôi đã làm nhiều như tôi có thể trong cuộc đời của tôi. Oprah: Câu hỏi cuối cùng: Hàng tháng tôi đều làm một mục trong quyển tạp chí tên là “Cái tôi Biết chắc chắn”. Vậy cái gì Ngài biết chắc chắn nhất? Đức Dalai Lama: Lòng vị tha là nguồn hạnh phúc lớn nhất. Không có nghi ngờ gì về điều này. http://www.oprah.com...-The-Dalai-Lama
  20. Dã Hạc nói: Xưa kia tôi có lấy toàn đồ này mà gửi cho 1 người bằng hữu, lúc đi ra cầu sĩ (làm quan). - Người bằng hữu hỏi: Tôi không biết ngũ hành, làm sao mà đoán quẻ được? - Tôi trả lời: Trước học chấm quẻ. Khi đặng quẻ rồi, coi là quẻ gì, rồi tìm quẻ ấy trong toàn đồ, chiếu theo đó mà viết ra, nào là Thế Ứng, nào là Ngũ Hành, nào là Lục Thân. Không cần đọc sách quẻ, tức là không biết lý ngũ hành sinh khắc, vẫn đoán được bốn việc lớn. Không kể gì trong quẻ có động, cùng là không có động, cứ chiếu theo toàn đồ, và chỉ coi hào thế mà thôi. BỐN VIỆC LỚN: 1. Chiếm Phòng Ngừa Ưu Hoạn: Nếu đặng Tử Tôn trì Thế, không có gì lo. Đặng Quan Quỷ trì Thế, ưu nghi khó giải; phải để ý phòng ngừa. 2. Chiếm Công Danh: Nếu đặng Quan Quỷ trì Thế, thì hứa sẽ nên danh. Đặng Tử Tôn trì Thế, thì phải chờ thời. 3. Chiếm cầu Tài: Thê Tài trì Thế chắc sẽ đăng. Huynh Đệ trì Thế thì khó cầu. 4. Chiếm Tật Bệnh: Nếu đặng quẻ lục xung, bệnh mới đau, không uống thuốc mà mạnh. Còn bệnh đau lâu, thần tiên cũng khó cứu. - Người bằng hữu hỏi: Sao là Tử Tôn trì Thế? - Tôi trả lời: Tử Tôn và chữ Thế đồng ở chung một hào, tức là Tử Tôn trì Thế. Nếu gặp Quan Quỷ và chữ Thế đồng ở chung một hào, tức là Quan Quỷ trì Thế. Kỳ dư Huynh Đệ, Thê Tài trì Thế, thì cũng đồng như nói trên. Phải biết sao gọi là quẻ lục xung. Trong mỗi cung những quẻ đầu là: Kiền Vi Thiên, Đoài Vi Trạch, Ly Vi Hỏa, Chấn Vi Lôi, Tốn Vi Phong, Khảm Vi Thuỷ, Cấn Vi Sơn, Khôn Vi Địa, đều là quẻ lục xung cả, thêm quẻ Thiên Lôi Vô Vọng, Lôi Thiên Đại Tráng, cũng là quẻ lục xung. Tổng cộng là 10 quẻ, còn lại thì không phải. - Có kẻ hỏi: Cầu quan nếu đặng Quan Quỷ trì Thế, cầu danh chắc thành. Cầu tài nếu đặng Thê Tài trì Thế, cầu tài chắc thành. Nếu như hào Quan Quỷ với hào Thê Tài, hoặc gặp Tuần Không, Nguyệt Phá, hoặc bị trong quẻ có Tử Tôn phát động để hại Quan. Huynh Đệ phát động để hại Tài, tuy gặp Quan Quỷ trì Thế, Thê Tài trì Thế, có ích chi đâu? - Tôi trả lời: Nếu anh biết lý ngũ hành, thần linh đã rõ rồi. Cái quẻ anh chiếm đặng, không phải trong hung ẩn kiết, định cũng là trong kiết ẩn hung. Đó là thần thánh dẫn người được biết chỗ áo lý, tự nhiên phải xem Tuần Không, Nguyệt Phá, Sinh Khắc, Xung Hình. Còn anh không biết lý ngũ hành, thần thánh cũng đã sớm biết rồi. Như cầu danh, thì van vái rằng: Công danh nếu thành, cho tôi quẻ Quan Quỷ trì Thế. Nếu không có hy vọng, cho tôi quẻ Tử Tôn trì Thế. Như chiếm phòng ngừa ưu hoạn, hãy van vái rằng: Nếu có hoạ, xin cho Quan Quỷ trì Thế. Nếu thoát khỏi tai nạn, xin cho quẻ Tử Tôn trì Thế. Trong quẻ chiếm đặng, tự nhiên rõ ràng dễ thấy. Nếu có chỗ ẩn vi (không rõ) thì thần thánh cũng khi người, đâu còn phải là thần. Huống tôi bày ra phép giản dị này, chỉ để cho người không biết lý ngũ hành mà thôi. Ai biết chiếm quẻ, cứ chiếu theo 8 cung mà lập quẻ, thì sẽ biết quyết đoán 4 VIỆC LỚN. Nếu biết chút lý ngũ hành, thì chớ nên dùng phép này. [Trích Tăng San Bốc Dịch] Thánh Dã Hạc lại nói: Phải xem kỷ lời trong sách này giải: Sao là không mà chẳng không, phá mà chẳng phá. Sao là Mộ mà chẳng mộ, Tuyệt mà chẳng Tuyệt. Sao là chân phản ngâm, giả phản ngâm. Sao là tiến mà chẳng tiến, thối mà chẳng thối. Sao là hồi đầu khắc mà sinh, hồi đầu khắc mà tử. Chỗ nào phải xem Dụng Thần, chỗ nào không xem Dụng Thần. Sao là chiếm đây mà ứng đó (hỏi việc này mà ứng việc kia), chiếm xa mà ứng gần. Sao là đắc pháp, bách chiếm bách linh (xủ quẻ trăm phát trăm ứng). Sao là chẳng đắc pháp chiếm hoài không nghiệm. Sao là Nguyên Thần hữu lực, chẳng sinh Dụng Thần. Sao là Kỵ Thần vô lực, hay hại Dụng Thần. Chỗ nào sai lầm, phải bác ở các sách. Chỗ nào kỳ diệu, thêm xảo nghiệm cho mình. Phải xét kỷ các thứ bí pháp đó, mới có thể nhất quyết mỗi việc như thần. - Có kẻ hỏi: Xin một quẻ không rõ, chiếm một quẻ nữa, nếu một quẻ nữa mà không được hiểu rõ, thì ngày mai sẽ chiếm lại. Xưa kia, người ta câu nệ không dám chiếm lại, cho nên hết phương pháp. Tôi thấy Kinh Dịch nói: "Ba người chiếm, thì theo lời bàn của hai người". Người xưa có một viêc mà có thể quyết ở ba chỗ người nay tái cầu có hại chi đâu. Tôi bình sinh, ít đặng áo lý, toàn là nhờ sức chiếm lại nhiều lần. Nếu việc không gấp có thể từ từ chiếm lại. Nếu gặp việc gấp, nghỉ một chút rồi lại chiếm nữa. Chẳng luận sớm trưa, chẳng cần đốt nhang, nữa đêm canh khuya, cũng có thể chiếm. Chỉ cần chiếm một việc đó mà thôi, chớ đừng có chiếm lại việc khác. Duy có người chiếm quẻ mà trong lòng tưởng đôi ba việc, chẳng phải có lòng thành nhất niệm, thì quyết chắc không linh nghiệm. Giả như chiếm công danh, hoặc là Quan Quỷ trì Thế, hoặc là Tử Tôn trì Thế, đặng một trong hai quẻ đó, thì đã biết thành bại nên hư, không cần và không nên chiếm nữa. Chớ khá thấy Tử Tôn trì Thế, mà trong lòng không vui, muốn cầu cho đặng Quan Quỷ trì Thế mới chịu cho. Như vậy là trái lẽ. Như chiếm cầu tài, hoặc là Tài trì Thế, hoặc là Huynh Đệ trì Thế, trong hai lẽ có có đặng một thì thôi, có cần chi chiếm nữa. Thỉnh thoảng cũng một việc mà có nhiều người đồng chịu ảnh hưởng họa phước, thì mỗi người chiếm một quẻ cho chắc. Như đi thuyền gặp bảo tố, trong nhà phòng hỏa hoạn, thì ai ai cũng đều chiếm được. Nếu có một quẻ mà đặng Tử Tôn trì Thế, thì hết thảy có gì lo. Còn chiếm tật bệnh, người bệnh nặng tự chiếm cho mình, nếu không đặng quẻ lục xung, thì trong nhà ai ai cũng có thể chiếm giùm. Nếu có một người đặng quẻ lục xung, hoặc thuộc bệnh mới đau, hoặc thuộc bệnh đau lâu, thì sự cát hung đã thấy rõ ràng. Tôi nói với bạn rằng: Người thế gian, phàm có nghi nan, mở miệng thì nói: cầu thần hỏi bói, đủ biết họ muốn rõ sự kiết hung sẽ đến. Ngoài việc bói ra, không còn phép nào nữa. Tôi học tập Chu Dịch mấy năm, việc nào hỏi bói, xem lý cảm ứng, như thần thánh mở miệng nói chuyện với mình, làm cho con người phải rỡn ốc cùng mình. Vì đó mà có kẻ không biết cái áo diệu của Dịch, chẳng đọc sách bói, tôi không đành không chỉ cái bí pháp ấy, cho người ta theo đó mà thí nghiệm. Nếu bạn thấy linh thì tự nhiên mới ham đọc sách, học bói. Phép này rất hay, bạn cũng có thể truyền cho người khác. Dù quan lớn, thứ dân, dù làm ăn, buôn bán, không có ai mà chẳng nên dùng. Phải nhớ: Người nào dốt đặc lý ngũ hành sinh khắc thì mới nên dùng phép này. Nếu có kẻ biết chút ít ngũ hành thì thần cho hiện quẻ ẩn vi. Vậy trước phải đọc hỗn thiên Giáp Tí, lục Thân ca, hễ chiếm đặng quẻ, thì phải trang ngũ hành, lục Thân. Rồi còn học biến động. Trong quẻ phải có hào động, hễ động thì biến. Đã biết động biến rồi, phải coi Dụng Thần, Nguyên Thần, Kỵ Thần. Biết cái này mới vào được cửa Bói Dịch. Kế coi chương bốn mùa Vượng Tướng; chương Ngũ Hành tương sinh, tương khắc; chương Ngũ Hành tương xung, tương hợp; chương Tuần Không, Nguyệt Phá, Sinh Vượng, Mộ Tuyệt thì lại như vào nhà khách của Bói Dịch. Sau lại còn phải coi cuốn chót nói về các môn, các loại, chiếm việc gì, lấy phép nào mà đoán, lần lần do cạn vào sâu. Phàm muốn hỏi việc, trước biên năm, tháng, ngày, giờ, kế chiếu theo Chương Lục Thần, viết ra sáu Thần, rồi sau mới xem quẻ. Như chiếm đặng quẻ Càn vi Thiên: Phụ Mẫu Tuất Thổ (Thế) Huynh Đệ Thân Kim Quan Quỷ Ngọ Hỏa Phụ Mẫu Thìn Thổ (Ứng) Thê Tài Dần Mộc Tử Tôn Tý Thủy Người tự chiếm kiết hung, lấy Thế hào làm Dụng Thần. Trong quẻ này thế hào ở Tuất Thổ, tức là lấy Tuất Thổ làm Thân Mệnh của mình. Nó phải được vượng tướng, rất sợ hưu tù. Nó hạp (thích) gặp Tỵ Ngọ Hỏa để sinh, kỵ (sợ) Dần Mão Mộc tương khắc. Lại Thế hào chẳng nên lạc Không Vong (Tuần Không), lại cũng chẳng nên trúng Nguyệt phá. Cái Thế hào Tuất Thổ này có 4 chỗ: Sinh, Khắc, Xung, Hợp. I. Nguyệt Kiến năng Sinh, Khắc, Xung, Hợp Theo quẻ trên, thế hào là Tuất Thổ. Nếu chiếm quẻ này nhằm tháng Dần, Mão, thì bị Dần Mão, mộc tương khắc. Vậy thì Thế hào chịu thương (khắc), người tự chiếm cát hung gọi đó là hưu tù, bất lợi. Nếu chiếm quẻ nhằm tháng Thìn, Thìn xung Tuất Thổ, Tuất là bị Nguyệt phá, cũng như thân mình bị phá cách, không làm được việc gì hết. • Nếu chiếm quẻ này nhằm tháng Tỵ, Ngo. Tỵ Ngọ tức là Quan Quỷ có thể sinh Tuất Thổ, gọi là Hỏa vượng, Thổ tướng, Thế hào gặp vượng tướng, thì các việc đều làm được. • Nếu chiếm quẻ này nhằm tháng Sửu Mùi, trong hai tháng đó thì lúc Thổ vượng, cũng có thể phò trì giúp Tuất Thổ. Cái Thế hào Tuất Thổ này, cũng gọi là vượng tướng, thì cũng là kiết. • Nếu chiếm nhằm tháng Tuất, Thế hào Tuất Thổ làm Nguyệt Kiến, đó là vượng tướng. Đương lúc đó mà tự chiếm cát hung mọi việc đều được hanh thông. • Nếu chiếm ở tháng Thân Dậu, Hợi Tý thì Tuất Thổ trúng nhằm lúc tiết khí (hao sức), gọi là Thế hào hưu tù vô lực. Đó gọi là Nguyệt Kiến có thể sinh, khắc, xung, hợp Dụng Thần, là Thế hào Tuất Thổ. Phải biết sao là Dụng Thần? Mình tự chiếm cát hung, dùng Thế hào làm chủ, chẳng gọi là Thế hào, mà kêu là Dụng Thần. Chiếm cho cha mẹ, thì lấy hào Phụ Mẫu làm Dụng Thần... II. Nhật Thần năng Sinh, Khắc, Xung, Hợp Trong quẻ trên, Thế hào là Tuất Thổ. Nếu chiếm quẻ nhằm ngày Dần Mão, Dần Mão Mộc có thể khắc tuất Thổ. Đó là Thế hào bị Nhật Thần tương khắc, bất lợi. • Nếu chiếm nhằm ngày Thìn, Thìn xung với Tuất Thổ, gọi là Thế hào (ám động). • Nếu chiếm nhằm ngày Tỵ Ngọ, Hỏa của Tỵ Ngọ là Quan Quỷ, hay sinh được Tuất Thổ. Đó gọi là Thế hào được Quan Quỷ, mà sinh ra vượng, nên mọi việc đều cát. • Nếu chiếm quẻ nhằm ngày Sửu Mùi, Thổ gặp Thổ thì phù trợ, vậy Tuất Thổ cũng được giúp. • Nếu chiếm quẻ nhằm ngày Tuất, gọi là Thế lâm (ở) Nhật Kiến, được lệnh đăng quyền. • Nếu chiếm nhằm ngày Thân Dậu, Hợi Tí, đó là đối với Tuất Thổ không khắc, không sinh. Đó là Nhật Kiến có thể sinh, khắc, xung, hợp Dụng Thần. III. Quái Trung chi động (trong quẻ hào động), năng Sinh Khắc, Xung, Hợp Theo quẻ trên, Thế hào là Tuất Thổ. Như trong quẻ hào thứ 2 là Thê Tài Dần Mộc phát động, thì nó hay khắc được Tuất Thổ. Hào thứ 4, Ngọ Hỏa Quan Quỷ phát động, thì hay sinh được Tuất Thổ. Hào thứ 3 Phụ Mẫu Thìn Thổ phát động, thì nó hay xung Tuất Thổ. Đó gọi là, trong quẻ, hào động có thể sinh, khắc, xung, hợp Dụng Thần. IV. Thế hào tự động biến xuất chi hào, năng hồi đầu sinh khắc. Thế hào phát động (Tuất Thổ theo quẻ trên), động thì phải biến, biến ra Tỵ Ngọ Hỏa, gọi là hồi đầu sinh Thế; biến ra Dần Mão Mộc, gọi là hồi đầu khắc Thế; biến ra Thìn Thổ gọi là hồi đầu xung Thế; biến ra Mão Mộc, gọi là hợp Thế. Đó gọi là: hào Dụng Thần (Thế) tự động thành biến hào, hay sinh khắc xung hợp với Dụng Thần (Thế). Dẫn lên là 4 chỗ (4 chỗ tức là tháng ngày, hào động, Thế hào tự động), nếu đặng hoàn toàn sinh hạp Dụng Thần, thì việc chiếm toàn kiết. Nếu được 3 chỗ tương sinh, một chỗ tương khắc, cũng là đoán theo kiết. Nếu có hai chỗ khắc, hai chỗ sinh phải coi vượng suy. Nếu Nguyên Thần sinh Dụng Thần được vượng tướng thì đoán kiết. Còn Kỵ Thần khắc Dụng Thần vượng tướng thì bàn hung. Nếu gặp 3 chỗ tương khắc, 1 chỗ tương sinh, mà hào tương sinh được vượng tướng, cũng có thể gọi là: "khắc xứ phùng sinh hung trung đắc giải" (trong chỗ khắc gặp sinh, tuy thấy hung mà được cứu). Bằng hưu tù, chỗ tương sinh này có danh, không có thật, thì đoán mọi việc đều là đại hung, như 4 chỗ đều khắc hết. nguồn. nhantrachoc.net.vn
  21. Bí Mật Ngồi Thiền Lơ Lửng http-~~-//www.youtube.com/watch?v=O7JbEj1MOxU&feature=related
  22. Tài liệu tham khảo Kỵ binh. Tượng binh tác giả: N.I.Nikulin Dịch: Trần Thị Phương Phương Trong những bộ phim màu, các cảnh chiến đấu trông thật rực rỡ và ngoạn mục: những kỵ sĩ cưỡi trên lưng ngựa, gươm tuốt trần lao tới kẻ thù. Từ lâu ngựa đã phục vụ con người trong quân sự. Những con tuấn mã, những cỗ chiến xa thắng ngựa, cuộc đi săn sư tử bằng xe ngựa - tất cả những cái đó đã được mô tả trên những bức phù điêu cổ xưa trong cung điện của các vua xứ Babylon (nằm giữa hai sông Tigris và Euphrates) đầu thiên niên kỷ thứ nhất trước công nguyên. Tất nhiên, ngựa được sử dụng trong quân sự còn sớm hơn thế rất nhiều. Nhưng có một điều thú vị là: cũng trên những bức tranh cổ đại của vùng Cận Đông đó, sánh bước bên những con chiến mã là những chú lạc đà. Có cả những trung đoàn "lạc đà binh" bao gồm các chiến binh cưỡi trên lưng lạc đà vẫn còn tồn tại ở Saudia Arabia vào thế kỷ XX. Chúng được chuẩn bị tốt để thích ứng với những hoạt động chiến đấu trên sa mạc. Vào giữa thế kỷ XIX những người Mỹ tháo vát đã định lập đơn vị "lạc đà binh" trong quân đội của mình để chiến đấu với các bộ lạc người da đỏ vùng đồng cỏ miền Tây nước Mỹ nơi vốn là vùng đất bán sa mạc khô cằn, nhưng rồi ý đồ đó nhanh chóng bị bác bỏ bởi thời đại kỹ thuật đã bắt đầu. Một hiện tượng dường như rất đơn sơ giản dị, là độ dày và độ cao của những thảm cỏ trên các thảo nguyên Mông Cổ tăng lên, rút cục lại gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến lịch sử thế giới. Thực vậy, bắt đầu từ thế kỷ XI trong những vùng bán sa mạc Trung Á khí hậu trở nên tốt hơn, dù chỉ trong một thời gian. Trên những thảo nguyên Mông Cổ mưa xuống nhiều hơn, cỏ trở nên cao và dày hơn. Ở những nơi đó thức ăn trở nên phong phú cho "năm loại gia súc" - ngựa, cừu, dê, lạc đà và bò. Đàn gia súc tăng trưởng rõ rệt. Và theo đó, dân cư thảo nguyên cũng tăng lên. Bởi vậy vào cuối thế kỷ XII nơi đó đã hình thành một đạo quân mà Thành Cát Tư Hãn đã dẫn vào các chiến dịch chinh phạt. Đạo quân đó gồm các đội kỵ binh với hàng chục ngàn kỵ sĩ. Ngựa Mông Cổ thấp bé, song rất khỏe, đặc biệt dai sức và dễ nuôi. Hơn thế nữa, trong những cuộc chinh phạt dài ngày, những chiến binh Mông Cổ mệt mỏi vì đói và khát có thể dùng dao khoét lỗ nhỏ trên cổ con ngựa và uống máu nóng của nó. Vào giữa thế kỷ XIII khi đạo quân kỵ binh Mông Cổ, cho đến khi đó vẫn luôn bách chiến bách thắng, xuất hiện ở Việt Nam, nó phải chạm trán với không chỉ nghệ thuật quân sự điêu luyện của các vị tướng lĩnh và lòng dũng cảm của các chiến binh Việt Nam, mà còn với những điều kiện khác lạ của xứ nhiệt đới khó thích hợp với ngựa Mông Cổ. Thêm nữa, quân Mông Cổ còn gặp phải một loại quân hết sức xa lạ đối với chúng là tượng binh. Các đơn vị tượng binh vẫn còn tồn tại trong quân đội Việt Nam đến nửa sau thế kỷ XIX. Những cứ liệu về những chú voi chiến được lưu giữ trong các sách sử biên niên, trong các truyền thuyết và các bài ca dao nói về Hai Bà Trưng, Bà Triệu. Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy rằng việc dùng voi trong quân sự chỉ thích hợp khi phải đối mặt với một lực lượng đông đảo quân địch ở vị trí thoáng rộng. Cưỡi voi chiến để đuổi những tên lính lẻ tẻ, lại chạy trong rừng rậm thì không có mấy hiệu quả. Bởi vậy việc dùng voi trong quân sự chỉ có được sự phổ biến nhất định sau khi đã xuất hiện nhà nước và các đạo quân đông người, trong khi việc sử dụng ngựa trong quân sự thì sớm hơn rất nhiều, bởi kỵ binh có thể chiến đấu có hiệu quả với những nhóm nhỏ quân địch hay khi đấu một chọi một. Từ thời cổ xưa ở Bắc Phi và Ấn Độ đã có tượng binh. Mọi người đều biết rằng vào thế kỷ III trước công nguyên, vị tướng kiệt xuất Hannibal chỉ huy quân đội Carthage (một quốc gia ở Bắc Phi) đã đập tan những đạo quân La Mã nhờ sự trợ giúp của những con voi chiến. Ngoài ra, theo như truyền thuyết kể lại, Hannibal không cần cử quân trinh sát địch, bởi những chú voi cách xa hàng chục cây số đã ngửi được mùi của quân lính La Mã. Ấy là do người La Mã thường bỏ vào thức ăn của mình rất nhiều hành. Voi bắt mùi hành rất nhạy. Thế nhưng khi ở trên núi cao có tuyết rơi và thời tiết giá lạnh, những chú voi chiến của Hannibal đã chết. Còn ở Việt Nam, đã được dựng cả bia đá cho voi chiến - Dương Võ bi ký. Có lẽ đó là tấm bia tưởng niệm duy nhất trên thế giới dành cho voi chiến. Hiện nay, Dương Võ bi ký nằm tại chùa Phổ Giác trên đường Ngô Sĩ Liên ở Hà Nội. Tấm bia được dựng từ năm 1770, người ta chuyển nó từ vùng giáp Hồ Hoàn Kiếm về chùa này khi vào năm 1886 thực dân Pháp có ý định xây dựng những tòa nhà trong trung tâm Hà Nội. Bài văn viết trên bia là những lời ngợi ca cổ vũ những chú voi đã chiến đấu bảo vệ đất nước: "Trời Nam ta, thế nước vững chắc, đất đai gồm cả Tượng Quận. Trong nước có nhiều loại vật, nhưng hùng mạnh nhất trong các thú, chỉ có voi đực là cực quý, thật là nanh vuốt để bảo vệ quốc gia. Song phép nuôi, dạy, tập luyện, điều khiển, phải có bậc tiền bối mở đầu". Vào năm 1770, trong những chuồng voi ở kinh đô Thăng Long có 200 con. Đó là một lực lượng hùng mạnh và ghê gớm, có khả năng phá vỡ trận địa quân địch trên phạm vi rộng, gây kinh hoảng trong hàng ngũ địch. Người ta nói có lý, rằng voi có thể tương đương với xe tăng về chức năng kỹ thuật chiến thuật: nó là lực lượng chọc thủng phòng tuyến đối phương. Trong quân đội của vị tướng vĩ đại Quang Trung, tượng binh đã thể hiện mình một cách đẹp đẽ nhất trong các trận chiến đấu chống quân xâm lược Đại Thanh. Cùng với sự phát triển của kỹ thuật quân sự, cùng với sự xuất hiện của những phương tiện cháy nổ, những đạn đại bác, súng trường, mìn, lựu đạn đã được hoàn thiện - việc sử dụng voi chiến trở nên không có lợi. Như một loại quân, tượng binh biến mất sớm hơn kỵ binh, vào cuối thế kỷ XIX. Bởi vì trong những năm đầu của cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại (1941-1945) trong Hồng quân Liên Xô vẫn còn có các kỵ binh tham chiến. Họ đặc biệt hoạt động thành công trong vùng địch hậu: sư đoàn kỵ binh lừng danh của thiếu tướng Dobator đã cắt đứt đường giao thông của quân phát xít, phá hủy các cơ quan đầu não, các ga xe lửa, các kho đạn dược lương thực. Tuy nhiên sau cuộc chiến tranh này, kỵ binh như một loại quân cũng biến mất. Hiện nay, ở Nga chẳng hạn, chỉ còn sử dụng ngựa trong lực lượng cảnh sát. Ở Moskva có tiểu đoàn cảnh sát kỵ binh với gần 150 kỵ sĩ. Họ giữ gìn trật tự xã hội trong thời gian có các trận đá bóng, các cuộc mít tinh, biểu tình tuần hành. Còn ở Việt Nam, các chú voi lại quay về với "nghề nghiệp" hòa bình của mình là làm công việc vận chuyển gỗ, chuyên chở những hàng hóa nặng nhọc trong điều kiện của những khu rừng rậm rạp khó đi. (2001) Trần Thị Phương Phương dịch từ bản thảo của tác giả nguồn: khoavanhoc-ngonngu.edu.vn ==================================== Quân tượng hiên diện trên bàn cờ tướng, nhưng trung quốc từ xưa không có tượng binh, cũng như sự thật là không có voi ở Trung Quốc, mà voi tốt có được là do vua Việt cống nạp , tuy vậy người ta lại cứ nghĩ cờ tướng là của trung quốc, trong khi đó tượng binh hiện diện trong quân đội người Việt, trong văn hóa dân gian Việt thân thiết như con Trâu, con chó, con gà...của văn minh nhà nông. Thiên Đồng
  23. Pháp Vương Gyalwang Drukpa đời thứ XII khai thị Trước hết, tôi xin chào mừng tất cả mọi người tới dự buổi trò chuyện của tôi. Thực sự thì đây không phải là một bài giảng pháp mặc dù dường như buổi trò chuyện này có không khí trang nghiêm. Vậy, trước tiên tất cả chúng ta hãy thư giãn. Chúng ta không nên gò ép mình vào một thái độ cứng nhắc và bảo thủ để lắng nghe chủ đề thuyết giảng này Hãy cố gắng hoàn toàn thư giãn và mở lòng để đón nhận Dù các bạn nghe bất kỳ một bài giảng nào, không chỉ riêng thể loại bài giảng này, trước hết, bạn phải hoàn toàn thư giãn và loại bỏ bất kỳ điều vô nghĩa nào, ít nhất cũng là trong lúc này. Tôi đang nói đến những điều vô nghĩa như: tôn giáo, truyền thống hay văn hóa. Hãy cố gắng hoàn toàn thư giãn và mở rộng tâm mình để đón nhận mọi điều. Bất kỳ vật chứa nào; đơn cử như chiếc va-li, phải được mở ra để tiếp nhận món đồ. Ngược lại, bạn sẽ được gì nếu bạn vẫn đóng kín chiếc va-li đó? Ngay cả khi có đồ vật nào đó dịch chuyển về phía chiếc va-li, cuối cùng chúng sẽ dừng lại trên nắp chiếc va-li đó. Tương tự như vậy, học sinh hay những người muốn lĩnh hội một vấn đề, ví dụ như: một bài giảng, một tri thức hay học vấn, trước tiên tất cả chúng ta phải thực sự thoải mái. Thậm chí chúng ta không nên nghĩ rằng mình đang lĩnh hội một bài giảng quan trọng. Không, tôi cho rằng điều này lại sẽ là một hình thức bảo thủ. Đó là điều bạn cần loại bỏ để thư giãn. Sau đó, nếu muốn, bạn sẽ có thể sử dụng bản chất hoặc trí tuệ của mình để có hiểu biết sâu sắc về vấn đề. Điều này không chỉ đúng trong việc tiếp thu bài giảng trực tiếp mà còn đúng với tất cả các bài giảng. Do vậy, thậm chí nếu bài nói chuyện của tôi là vô nghĩa, thì các bạn vẫn có được thành quả và giá trị cô đọng nào đó hơn là việc chỉ nghe một bài giảng hời hợt.Những bài rao giảng sáo rỗng khá phổ biến. Trong chừng mực nào đó, tất cả các bậc Thầy thuyết giảng cùng một nội dung. Một vài người có năng khiếu về thuyết giảng, một số người thì không. Một số người có năng khiếu diễn thuyết trong khi những người khác thì không có năng khiếu đó. Về phần mình, tôi không khá lắm, chủ yếu là do tiếng Anh của tôi bị sai. Nhưng cho đến nay, tôi đã giảng bằng tiếng Anh nói sai của mình có lẽ đã được hơn hai mươi năm. Tôi cho là dẫu sao việc này cũng vẫn có hiệu quả; vì thế, tôi vẫn can đảm tiếp tục công việc này. Khi ai đó đề nghị tôi thực hiện một bài giảng, một bài nói chuyện hoặc thậm chí là tham dự hội nghị, tôi sẽ thực hiện lời đề nghị đó. Do vậy, tôi nghĩ mình không có nhiều ràng buộc lắm. Như các bạn biết, tôi đang thư giãn để nói về bất kỳ điều gì tôi muốn. Nếu như có người không đánh giá cao điều đó thì phải làm gì đây? Hoặc nếu những người khác tán thưởng, thì tôi xin cảm ơn! Điều đó không thành vấn đề. Tôi chỉ nói ra bất cứ thứ gì xuất hiện trong đầu, bất cứ điều gì chợt hiện ra trong tâm trí. Tôi đoán đó là do có sự thư giãn. Nếu tôi có một thái độ cứng nhắc mang tính truyền thống, ý thức về sự phù hợp hay nghiêm túc thì tôi sẽ không thể làm được điều đó. Tôi sẽ không thể trò chuyện! Thứ nhất, tôi không biết tiếng Anh và thứ hai, tôi không chuẩn bị một chút nào, vậy tôi sẽ nói về vấn đề gì đây? Tôi cũng chưa liệt kê hay chuẩn bị bất kỳ sơ đồ nào, vậy tôi sẽ nói về vấn đề gì đây? Sẽ có quá nhiều khó khăn và tôi sẽ không thể thực hiện được. Hoặc là tôi sẽ làm được, song việc đó đơn thuần chỉ là vô nghĩa. Dẫu sao thì việc đó sẽ rất khó khăn. Thật khó cho tôi, và cũng khó cho các bạn – những thính giả.Vậy, những vấn đề mà tôi đang nói tới là gì? Điểm cốt lõi là thư giãn và mở rộng lòng mình. Thậm chí hiện tại trông chúng ta có vẻ rất nghiêm túc, nhưng từ bây giờ trở đi chúng ta hãy để tâm mình thư giãn tự nhiên. Không nên để bất kỳ sự vô nghĩa nào làm hao tốn năng lượng và làm các bạn mất tập trung. Thông thường, có khá nhiều điều vô bổ xuất hiện và bủa vây các bạn. Ngay cả khi bạn giỏi hoặc tinh thông về những chuyện đó, tâm trí bạn vẫn bị đắm chìm. Thầy giáo bị bủa vây, học trò bị bủa vây và mọi người bị bủa vây trong những điều vô nghĩa. Mặc dù những điều này thoáng qua nghe có vẻ rất thú vị, mọi thứ chỉ là trò đùa! Chuyện đó giống như chất dẻo; nó không thực sự đem lại kết quả. Bởi vậy, tôi luôn khuyến khích mọi người hãy thư giãn, với nghĩa là hiểu và nhận được bản chất của mọi việc chứ không phải những trò tiêu khiển mang tính hướng ngoại. Không nên xem xét hay thực hành bất kỳ hình thức tôn giáo nào một cách bảo thủ Điều này gợi cho chúng ta về chủ đề mà chúng ta thực sự muốn trao đổi: tôn giáo. Khi vào đền, chùa, hoặc những nơi thờ phụng, chúng ta gò ép mình trong một khuôn khổ bảo thủ vì chúng ta cố gắng tỏ ra cung kính. Dĩ nhiên, cung kính là tốt. Cung kính tốt hơn là không cung kính, nhưng cùng lúc đó, mọi người không nên bị gò ép hoặc bị xao nhãng bởi những điều vô nghĩa. Đó là lý do tại sao tôi luôn nói rằng không nên xem xét hay thực hành tôn giáo, bất kỳ một tôn giáo nào, một cách cứng nhắc. Tôn giáo cần luôn được coi như một loại thực thể tinh thần có cả trái tim và khối óc. Nếu cơ thể của một người không có trái tim thì người đó không tồn tại được cho dù các bộ phận khác của cơ thể vẫn rất khoẻ mạnh. Tương tự như vậy, nếu bạn không có bộ não, cơ thể của bạn sẽ trở thành vô dụng. Cũng giống như thế, tôn giáo phải có tâm linh. Bằng cách nào để có tâm linh? Đó là vấn đề! Đáng tiếc là không có nhiều người biết đến điều này. Trước hết, tôi không rõ về các bạn, nhưng nhiều người giống như tôi tuyên bố rằng mình là những người có tâm tín ngưỡng (có nghĩa là: một người đứng đầu về tôn giáo, một vị sư hay một người thực hành tôn giáo) thực sự không biết mình có tín ngưỡng đến mức nào. Thứ hai là, thậm chí nếu chúng ta là những người theo tín ngưỡng, chúng ta hiểu bao nhiêu về tâm linh, điều trọng tâm hay còn gọi là bản chất của tôn giáo? Chúng ta đang bỏ lỡ hai điểm lớn trong vấn đề này, khiến cuộc sống của chúng ta trở nên vô nghĩa.Về mặt phát triển cho bản thân chúng ta, không chỉ trong cuộc sống tinh thần mà cả trong cuộc sống vật chất hàng ngày, chúng ta không biết mình đang đi về đâu. Chúng ta không rõ mình đang làm gì mặc dù chúng ta có thể đang làm việc một cách cần mẫn đối với các công việc như: việc hàng ngày ở cơ quan và ở nhà. Nói một cách sâu xa, chúng ta không hiểu mình đang tiến về đâu, đang làm gì, chúng ta là ai và tất cả những điều tương tự. Chúng ta không trả lời được những câu hỏi này. Thậm chí, đôi khi chúng ta không đưa ra được bất kỳ câu hỏi nào... Tuyệt thật! Nếu như chúng ta không đặt câu hỏi bản thân mình là ai thì chúng ta sẽ không phải lo lắng! Đơn giản là chúng ta có thể quên mình là ai, đang làm gì và bằng lòng với điều đó. Tôi tin rằng điều đó rất hay nhưng thỉnh thoảng lại khiến mọi người trở nên u tối. Đôi khi, việc không đưa ra câu hỏi là hay nhưng cũng có thể khiến bản thân các bạn đi theo con đường vô minh và liên tiếp bị sự thiếu hiểu biết sai khiến. Mặc dù bạn có thể cảm thấy khá thoải mái và không kiếm tìm thêm bất kỳ điều gì khác; bạn sẽ vẫn chỉ ở trong tâm trạng rối bời. Kết quả là cuối đời hoặc cuối một giai đoạn phát triển nào đó của mình, bạn sẽ nhận ra rằng mình đang ở trong tình trạng khổ ải. Bạn sẽ thấy mình khốn khổ. Chẳng hạn, bạn có thể có một cuộc sống gia đình rất hạnh phúc trong một vài thập niên, nhưng cuối cùng, bạn có thể phát hiện ra rằng bạn thật sự chưa bao giờ sống một cuộc sống tốt đẹp hoặc hoàn hảo. Lúc đó, bạn sẽ thấy mình hơi lầm lạc và do đó sẽ cảm thấy rất đau khổ. Điều này thật đáng buồn! Nhiều người gặp phải vấn đề này. Đó là vì họ đang lừa dối hoặc tự đưa mình đi đến chỗ bế tắc. Nhưng họ luôn nói: “Tôi ổn. Tôi không quan tâm”. Sau đó, do thiếu hiểu biết nên họ tạo ra nhiều nghiệp chướng. Những câu hỏi nhỏ thỉnh thoảng được đưa ra là câu hỏi rất quan trọng; bắt đầu bằng câu hỏi là điều rất quan trọng Do sự vô minh của chúng ta, những hành động tiêu cực dẫn đến bầu không khí tiêu cực, nhưng chúng ta lại không hay biết điều đó. Cuối cùng, chúng ta nhận ra, không phải là nhận thức được nguyên nhân, mà là kết quả hoặc hậu quả của những việc mà ta đang làm trong những thập niên qua. Sau đó, chúng ta cảm thấy buồn và chán nản. Chúng ta trở nên tuyệt vọng mặc dù thực sự không đến mức vô vọng. Chẳng có gì là vô vọng cả nhưng mọi người lại cảm thấy thế. Vì vậy, tốt hơn là nên tự vấn một chút. Những câu hỏi nhỏ thỉnh thoảng được đưa ra là những câu hỏi rất quan trọng; bắt đầu bằng những câu hỏi là rất quan trọng. Thỉnh thoảng, những câu hỏi có thể mang tính học thuật quá cao nhưng điều này không quan trọng. Đừng lo lắng, tôi nghĩ rằng chúng ta không gặp phải trường hợp rủi ro này. Nếu như các bạn cảm thấy có sự rủi ro thì lúc đó bạn có thể kiểm soát chính mình và không đặt quá nhiều câu hỏi trừ những câu hỏi nhỏ về lối sống của bản thân. Những câu hỏi đó sẽ giúp các bạn thư giãn hơn, có tâm linh chứ không tạo ra tính cứng nhắc, theo truyền thống và những sự cục cằn. Đó là điều không tốt! Không nên giống như vậy.Có nhiều học giả hàng ngày đưa ra hàng ngàn câu hỏi cho bản thân, thầy cô giáo, bạn bè và đồng nghiệp. Họ chỉ tạo ra thêm căng thẳng cho bản thân mình. Tiếp đó, họ trở nên bực dọc với bộ mặt luôn bừng đỏ vì cau có. Họ không thực tế được vì tinh thần họ luôn lơ lửng. Câu hỏi của họ đưa ra như một cơn gió liên tục thổi, vì vậy họ không có dịp để trở nên thực tế. Đây cũng là sự trải nghiệm của tôi. Hồi tôi còn đi học, tôi rất bảo thủ và có nhiều thắc mắc. Tôi thích tranh luận với bạn học.Tôi rất thích làm điều đó. Đó là một trong những sở thích chủ yếu của tôi. Tôi có thể dành hàng giờ để tranh luận về những điều không đâu, trò chuyện hoặc tranh cãi về màu sắc của các loài hoa hay về bản chất của cây cối, các loại cột và những thứ tương tự như vậy. Tôi có thể thao thao bất tuyệt, tranh luận, gào thét nhiều giờ về một loại vật chất nào đó như một cái cột! Tôi thích điều đó nhưng nó chẳng giúp ích gì cho tôi. Đôi khi điều này khiến bạn viển vông và lạc lối. Bạn sẽ lạc lối giữa vũ trụ mênh mông. Tôi nghĩ rằng đó không thực sự là kết quả mà chúng ta muốn có. Chúng ta muốn có tâm linh. Chúng ta muốn đưa ra bất kỳ câu hỏi và câu trả lời nào về bản thân và bản chất của chúng ta Điều này có nghĩa chúng ta muốn đưa ra bất kỳ câu hỏi và câu trả lời nào về bản thân và bản chất của chính chúng ta. Đó là cách để đặt câu hỏi và nhận được kết quả xác thực. Những câu hỏi đó cần giúp bạn liên hệ với hiểu biết sâu sắc của bản thân. Đó là cách nên thực hiện. Những câu hỏi đó sẽ giúp bạn cảm thấy thư thái. Chẳng hạn, bạn nên đặt những câu hỏi: “Tôi gặp rất nhiều vấn đề như: vấn đề về gia đình, quan hệ, sức khoẻ, và công việc – Cuộc sống của tôi là gì?” Khi bạn đặt những câu hỏi về cuộc đời của mình, câu trả lời sẽ giúp bạn nhận ra những điều nằm trong chính bạn.Bất kỳ trải nghiệm nào trong cuộc đời đều là sự thể hiện của chính bản thân bạn. Điều này có nghĩa là nó phản ánh các quan niệm của chính bạn. Nhưng không nhất thiết có nghĩa là tôi đang nói rằng đó là sự thể hiện do bạn có suy nghĩ sai lầm. Bất kỳ ý niệm nào đều giống như một gương mặt. Nếu như bạn đứng trước một chiếc gương lớn với gương mặt này, bạn sẽ nhận được sự phản chiếu của chính mình. Đôi khi bạn có một ý tưởng tốt, khiến bạn hứng khởi. Thỉnh thoảng bạn có một suy nghĩ tồi và bạn nhận được sự phản chiếu tồi khiến bạn thấy buồn. Bằng cách này, mọi người cứ trở đi trở lại luẩn quẩn từ tốt sang xấu và từ vui đến buồn. Nói cách khác, bạn sẽ khổ sở và trở nên mất niềm tin. Dẫu sao, đó là cách mà chúng ta sống nhưng thực chất lại làm chúng ta rời xa khỏi tâm linh bởi vì nó không tạo cho ta cơ hội để suy ngẫm về bản thân, bản chất của chúng ta và bản chất của thế giới. Liệu các bạn có rõ là tại sao điều đó lại xảy ra với mình không? Đó là vì mọi người quá bận rộn hoặc bị cuốn vào việc suy nghĩ về những điều vô nghĩa. Đó là lý do. Tất cả những điều tích cực hay tiêu cực đều là sự phản ánh trải nghiệm và suy nghĩ của con người Sự phản ánh mà chúng ta đang nói đến là suy nghĩ của các bạn. Suy nghĩ đó tạo ra nhiều loại trải nghiệm khác nhau. Khi bạn cố chấp vào một suy nghĩ thì những trải nghiệm của suy nghĩ này sẽ xuất hiện và nảy sinh bằng những cách khác nhau. Một vài suy nghĩ có thể hiện tích cực và một vài suy nghĩ tạo ra ảnh hưởng tiêu cực. Một số quan niệm dẫn đến những việc làm sai trái như: trộm cắp, lừa gạt và sát sinh.... Nhưng tất cả những điều này dù tốt hay xấu đều là sự phản ánh trải nghiệm và quan niệm của chính các bạn. Tất cả chúng ta phải giữ lý Trung đạo, không thiên lệch về bất kỳ cực nào Vậy, chúng ta với cương vị là những người thực hành giàu kinh nghiệm cần có khả năng duy trì con đường “Trung đạo”. Trong đạo Phật, Nagarjuna (Bồ Tát Long Thọ) là một bậc Thầy vĩ đại. Ngài là người rất từ ái và uyên thâm trong việc thuyết giảng về lý Trung đạo hay còn gọi là Madyamika. Điều cốt lõi của vấn đề mà Ngài thuyết giảng với giọng hùng biện sang sảng được gọi là Madyamika, là việc tất cả chúng ta phải duy trì lý Trung đạo. Điều này có nghĩa là không thiên lệch về bất kỳ cực nào. Trên thực tế, những cực này liên quan đến sự trải nghiệm mà tôi đã nói đến - sự trải nghiệm tiêu cực hoặc tích cực sẽ đem lại cho mọi người những sự phản ánh và thể hiện khác nhau. Chúng ta nên cân bằng buông xả tất cả những điều này, nhưng không nên buông xả những điều này một cách tiêu cực hay thiếu hiểu biết mà nên buông xả một cách tích cực, an lạc và hiểu biết. Mọi người nên tôn trọng những trải nghiệm này nhưng cũng nên buông xả. Vậy, có thể thực hành được điều đó không? Đó là cách tốt nhất.Tôn trọng là điều rất quan trọng. Bạn phải tôn trọng mọi thứ nhưng đồng thời cũng nên buông xả những điều đó. Đó là triết lý còn đang thiếu trong cuộc sống thường nhật của chúng ta; cùng lúc chúng ta vừa tôn trọng vừa buông xả. Đôi khi chúng ta tôn trọng một điều gì đó nhưng không thể thờ ơ với những điều đó...Chúng ta tiếp tục quan tâm và bị cuốn vào điều đó. Cho dù chúng ta có trải nghiệm gì đi chăng nữa thì chúng ta vẫn bị lôi cuốn vào chuyện đó một cách cuồng tín và mù quáng. Đó không phải điều nên làm. Đôi khi, chúng ta buông xả đi nhiều thứ nhưng lại có lòng hận thù và thiếu tôn trọng. Tôi có thể buông xả một chuyện vì tôi không coi trọng hoặc không thích chuyện đó; tôi căm ghét nó. Đó cũng là điều không đúng và không phải là thực h%2
  24. @ Tuyền trung Thủy, Năm nay và năm sau không cưới gả được vì người nam bị tam tai. Nếu năm sau cưới thì không lên đèn, không bái gia tiên, không rước dâu. Tháng cưới tốt nhất là tháng 2 hay 8, tốt nhì là tháng 3 hay 9. Các tháng khác đều xấu. Thiên Đồng
  25. Tài liệu tham khảo: Thần thoại các dân tộc Việt Nam, thể loại và bản chất Nguyễn Thị Huế I. Khái niệm thần thoại Thần thoại là gì? Thần thoại theo Mác nói đó là vẻ đẹp “một đi không trở lại” của loài người khi xã hội nguyên thuỷ kết thúc. Sự thực thì trên thế giới, bất cứ dân tộc nào cũng có thần thoại. E.M. Mêlêtinxki đã định nghĩa thần thoại như sau: Thần thoại có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, nghĩa đen là truyền thuyết, huyền thoại. Thường người ta hiểu đó là những truyện về các vị thần, các nhân vật được sùng bái hoặc có quan hệ nguồn gốc với các vị thần, về các thế hệ xuất hiện trong thời gian ban đầu tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc tạo lập thế giới cũng như vào việc tạo lập nên những nhân tố của nó – thiên nhiên và văn hoá(1). Thần thoại là hình thức sáng tác của con người thời đại xa xưa, nó thể hiện ý thức muốn tìm hiểu vũ trụ, lý giải vũ trụ và chinh phục thế giới tự nhiên của con người. Luôn tiếp xúc với thiên nhiên kỳ vĩ, bí ẩn, con người đã hình dung, lý giải thiên nhiên bằng trí tưởng tượng của mình, tạo ra cho các hiện tượng xung quanh mình những hình ảnh sáng tạo, những câu chuyện phong phú, hình dung ra các vị thần lớn lao, những lực lượng siêu nhiên, hữu linh. Bằng cách đó, con người đã làm ra thần thoại. II. Tiền đề xã hội – cơ sở hình thành và lưu truyền thần thoại Theo quan điểm của Mác thì thần thoại gắn liền với thời kỳ ấu thơ của nhân loại “trong những điều kiện xã hội vĩnh viễn không bao giờ trở lại nữa”, nó là thứ “nghệ thuật vô ý thức”. Cũng theo Mác thì “Thần thoại nào cũng chinh phục, chi phối và nhào nặn những sức mạnh tự nhiên ở trong trí tưởng tượng và bằng trí tưởng tượng”. Nghĩa là không thể nào hiểu và lý giải đúng thần thoại nếu tách nó ra ngoài xã hội nguyên thuỷ, thế giới quan thần linh và nhu cầu lý giải, chinh phục tự nhiên, xã hội của con người thời cổ đại. Dùng trí tưởng tượng để hình dung, giải thích và chinh phục thế giới, người nguyên thuỷ đã tạo ra thần thoại và thần thoại là một hình thái ý thức nguyên hợp đa chức năng (là khoa học và nghệ thuật vô ý thức, đồng thời còn là tín ngưỡng, tôn giáo của người nguyên thuỷ). Với Việt Nam, chắc chắn thần thoại cũng đã ra đời khá sớm, được thoát thai từ triết lý sống tự nhiên của con người, được sáng tạo ra trong thời kỳ các thị tộc, bộ lạc đã sớm có ý thức về địa vực cư trú và ý thức về giống nòi. Đi sâu vào nội dung thần thoại chúng ta sẽ thấy sống lại không khí sinh động của một thời kỳ mà tài liệu chính sử đã không nói đến. Thần thoại gợi lên cho chúng ta sự cảm thông với dân tộc thuở nguyên vẹn, tươi trẻ của con người buổi ban đầu. Trong những công trình nghiên cứu về nghệ thuật nguyên thuỷ, các nhà khoa học đã nhận thấy rằng trong giai đoạn phát triển đầu tiên của lịch sử loài người, cũng như những hoạt động tinh thần khác, nghệ thuật không tồn tại dưới dạng độc lập, mà gắn bó và hầu như hoà làm một với hoạt động thực tiễn của con người. Thần thoại là một bộ phận của nền nghệ thuật ấy, nó cũng phát sinh và nảy nở trên cơ sở đời sống lao động và những sinh hoạt của người xưa. Các nhà nhân chủng học cổ điển châu Âu thế kỷ XIX đã nhìn thấy trong các thần thoại phương thức hồn nhiên, tiền (hayphản) khoa học khi giải thích thế giới xung quanh nhằm thoả mãn “sự tò mò” của người nguyên thuỷ vốn bị đè nặng bởi những sức mạnh hung bạo của tự nhiên. E.M. Mêlêtinxki đã từng chỉ rõ: “Trong thần thoại có sự đan kết những yếu tố phôi thai của tôn giáo, triết học, khoa học và nghệ thuật. Quan hệ hữu cơ của thần thoại với lễ nghi vốn được thực hiện qua các phương tiện âm nhạc, vũ đạo, các phương tiện “tiền sân khấu” và ngôn từ...”. Ông cũng chỉ ra rằng người nguyên thuỷ chưa tách mình ra khỏi môi trường tự nhiên và xã hội bao quanh và tư duy nguyên thuỷ còn giữ những đặc điểm của sự chưa phân tách, nó hầu như chưa tách khỏi môi trường ấn tượng, tự phát. Hệ quả của điều này là sự nhân hoá hồn nhiên toàn bộ thiên nhiên, sự đối chiếu “ẩn dụ” các đối tượng thiên nhiên, xã hội, văn hoá. Người nguyên thuỷ hình dung các hiện tượng tự nhiên như với con người, gán cho chúng tâm hồn, lí trí, tình cảm con người...(2). Theo Đinh Gia Khánh, thì ở nước ta “Thần thoại đã nảy sinh từ cuộc sống của người nguyên thuỷ và phát triển theo yêu cầu của xã hội Lạc Việt”(3), có nghĩa là thần thoại có từ trước công nguyên, trước thời Bắc thuộc, và vì những lý do riêng, những thiên thần thoại đó đã không còn giữ lại hình thức lúc đầu của chúng nữa và thậm chí cốt truyện cũng đã thay đổi đi nhiều. Đồng quan điểm như trên, các nhà nghiên cứu Đỗ Bình Trị, Chu Xuân Diên cũng đưa ra các ý kiến: “Nói một cách đơn giản thần thoại là một loại truyện nói về thần, mang yếu tố thiên nhiên và xuất hiện vào thời kì khuyết sử”(4) và “Thần thoại chỉ có thể xuất hiện trong trong giai đoạn thấp của sự phát triển xã hội và của sự phát triển nghệ thuật. Trong giai đoạn đó, thần thoại đã có một vai trò tích cực trong đời sống tinh thần của con người: đó là phương tiện nhận thức quan trọng của người nguyên thuỷ, cũng là một trong những nguồn hình thành những giá trị tinh thần truyền thống đầu tiên của dân tộc”(5). Con người thời kỳ nguyên thuỷ trong khi tiếp xúc với thiên nhiên, tiếp xúc với các hiện tượng vũ trụ kỳ bí, họ đã muốn cố gắng tìm hiểu, xuyên qua cái bề ngoài để nhận thức thế giới, nhận thức tự nhiên. Sự nhận thức thế giới của con người lúc đó là hoang đường và ấu trĩ. Con người tưởng tượng ra và đặt niềm tin vào sự tưởng tượng ấy, rằng thế giới là do các vị thần linh tạo ra. Thế giới đó luôn bí ẩn và to lớn, nó chế ngự con người và luôn luôn đe doạ đời sống của họ. Trong quá trình lao động, sản xuất, con người nguyên thuỷ đã vận dụng lý trí non nớt, sự nhận biết thô sơ của mình về thiên nhiên, vũ trụ để tìm câu trả lời cho những gì xảy ra xung quanh như: Tại sao lại có ngày? Tại sao lại có đêm? Tại sao lại có bầu trời? Tại sao lại có mặt đất? Tại sao lại có mặt trời, mặt trăng và các vì sao? Tại sao lại có sự sống, sự chết? Con người sinh ra từ đâu? Tại sao lại có mưa gió, bão lụt, hạn hán?...Và còn rất nhiều câu hỏi khác. Chính vì thế, họ đã làm ra thần thoại. Và Mác đã gọi thần thoại là thứ nghệ thuật được người xưa sáng tạo ra một cách không tự giác. Người cổ đại đã coi thần thoại là những thiên lịch sử. Họ biết trân trọng trong việc lưu truyền và thần thoại đều được đặt thành văn vần cho dễ nhớ. Ở các dân tộc Mường, Tày, Thái hay các dân tộc Tây Nguyên... thì việc hát thần thoại, anh hùng ca là có, như Đẻ đất đẻ nước của người Mường, sử thi - khan Đam San, Xing Nhã của người Êđê, Djông của người Bana... Nhưng ở người Việt do hoàn cảnh lịch sử mà các thần thoại đã không giữ lại được nguyên vẹn, chỉ còn những truyện riêng rẽ, ngắn gọn mà thôi... Như vậy, có thể nói, mỗi dân tộc thời cổ đều có một kho thần thoại riêng. Ở những dân tộc sớm có điều kiện phát triển thì nền văn hoá của họ cũng được xây dựng sớm hơn những dân tộc chậm phát triển, chữ viết được hình thành đã là phương tiện giúp các dân tộc ghi lại được sớm và có hệ thống những thần thoại truyền tụng đương thời. Ngược lại, ở các dân tộc chậm tiến, thần thoại của họ trong một quá trình lâu dài được lưu truyền bằng miệng. Nhiều nguyên nhân như chế độ xã hội thay đổi, thần thoại bị biến tướng, hoặc do văn hoá bên ngoài xâm nhập, thần thoại bị pha trộn, hay do không có chữ viết, thần thoại không được ghi giữ lại nên chỉ còn từng mảnh rời rạc, thiếu hụt... Đến nay, do hoàn cảnh lịch sử, thần thoại Việt Nam đã bị mất mát khá nhiều, nhưng số truyện được sưu tầm, ghi chép cũng có tới hàng trăm đơn vị. Kết cấu phần lớn đều ngắn gọn, cốt truyện đơn giản, ít chặt chẽ. Nó phản ánh xã hội, tư tưởng, tâm hồn và thể hiện được những vấn đề cơ bản của nhiều dân tộc ViệtNam. Thần thoại các dân tộc thiểu số người Việt Nam đã phản ánh một cách kỳ diệu nhận thức của con người về vũ trụ, về công cuộc chinh phục thiên nhiên và về các sinh hoạt xã hội của các dân tộc trong thời kỳ xa xưa. Hình thức biểu hiện cơ bản của thần thoại các dân tộc là những hoạt động trình diễn mang tính tổng hợp, phong phú và phức hợp. “Thần thoại có quan hệ với tín ngưỡng và tôn giáo... Nhiều thần thoại gắn với các nghi lễ tôn giáo, ma thuật và dường như có mục đích giải thích nguồn gốc và nội dung ý nghĩa của các nghi lễ đó”(6). Nó bao gồm các hình thức nghi lễ cổ sơ, các phong tục và các hình thức diễn xướng, nhảy múa, ca hát, v.v... Thí dụ, ở dân tộc Việt, những lời ca cổ cũng là những thiên thần thoại còn sót lại: “Ông Đếm cát, ông Tát bể, ông Kể sao, ông Đào sông, ông Xây rú...” Ở dân tộc Mường, khi tiến hành các nghi lễ tang ma cũng chính là lúc họ diễn kể thần thoại(7). Toàn bộ hệ thống mo Đẻ đất đẻ nước, áng mo thần thoại, đã được hát kể trong mười mấy ngày đêm liền (có nơi là 12 ngày đêm). Trong không khí tiễn đưa người chết, người ta được ông mo hát kể cho nghe về việc sinh ra Trời, sinh ra Đất, về việc đẻ Nước, đẻ Mường, về việc sinh ra Người và vạn vật cùng muông thú. Qua lời mo trong Đẻ đất đẻ nước, người Mường đã kể rằng: Ông Thu Tha, bà Thu Thiên Ra truyền: làm ra Đất ra Trời. Mo Đẻ đất đẻ nước đã phản ánh nhân sinh quan, thế giới quan nguyên thuỷ và phản ánh về quá trình hình thành dân tộc của người Mường. Nội dung chính của áng mo này là những mẩu chuyện thần thoại được liên kết với nhau bởi các lời ca mang nội dung tự sự. Đẻ đất đẻ nước là tác phẩm mang đậm tính chất sử thi - thần thoại của dân tộc Mường(8). Một số các dân tộc khác cũng có truyền thống hát kể thần thoại như dân tộc Mường, đó là dân tộc Thái, Tày và các dân tộc Tây Nguyên, thần thoại không những chỉ được tồn tại, lưu truyền ở dạng những truyện kể đơn lẻ, sơ khai mà còn được gia nhập vào hệ thống hát kể mo, then, sử thi-khan của các dân tộc đó. Sử thi - thần thoại Ẳm ẹt luông ở dân tộc Thái gồm ba phần chính: Ẳm ẹt luông (Khai sinh ra cái Lớn), Ẳm ẹt nọi (Khai sinh ra cái Nhỏ) và Khay phắc phạ (Mở họng Trời). Tác phẩm với những câu mở đầu như sau: Mo xin kể năm kể tháng mới có Mo xin kể năm kể tháng trời mới làm ra Ngày xưa thời trước, ngày xưa thời lâu Họ hỏi: Cái gì có sau Trời? Cái gì có sau Đất? Các tác phẩm này thường được các thày mo đọc trong các buổi cúng lễ, thực chất là những áng văn vần dài kể lại nguồn gốc sinh ra trời đất và muôn loài, kể lại quá trình đấu tranh gian khổ của loài người nhằm để sinh tồn và phát triển. Các tác phẩm này cũng giống như tác phẩm Đẻ đất đẻ nước của người Mường. Đối với các dân tộc Tây Nguyên, nhiều thần thoại và nhân vật thần thoại đã gia nhập và tái hiện vào các sử thi - khan. Sinh hoạt hát kể sử thi - khan là một nhu cầu sinh hoạt tinh thần không thể thiếu trong đời sống người dân Tây Nguyên hàng ngàn đời nay. Trong vốn từ vựng của các dân tộc này, sử thi - khan được người Bana gọi là Hmon, người Êđê gọi là Khan, người Giarai gọi là Hri, người Mnông gọi là Ot Ndrông. Sử thi được các nghệ nhân dân gian diễn xướng theo phương thức kết hợp các yếu tố hát, kể, đối thoại và làm điệu bộ diễn xướng. Theo ngôn ngữ của người Mnông: Ot có nghĩa là hát, kể. Còn Ndrông là những câu chuyện xa xưa. Người Mnông hát kể Ot Ndrông sau những ngày phát rẫy, tra hạt, làm cỏ và thu hoạch mùa màng. Người Êđê sinh hoạt hát kể sử thi- khan trong các buổi uống rượu cần, trong các lễ hội và những đêm sau mùa gặt hái. Người Bana có thể hát, kể Hmon bên bếp lửa, trong gia đình dòng họ, khi lên rẫy, đi rừng... Trong những tác phẩm sử thi - khan, những thiên thần thoại cùng các nhân vật của nó đã là những phần chính yếu tạo nên cốt lõi của các tác phẩm(9). Những hình thức sinh hoạt này đã giúp cho thần thoại được bảo lưu một cách bền vững và có hệ thống. Gắn bó với các hoạt động nghi lễ, phong tục, tuân thủ theo những bước, những quy định chặt chẽ của các nghi thức tang ma, cúng tế, hay hội lễ, thần thoại của các dân tộc nói trên được diễn đi diễn lại, được thực hành thường xuyên từ năm này sang năm khác, đời này sang đời khác, từ thế hệ này tới thế hệ khác. Cũng nhờ vậy mà các tác phẩm thần thoại luôn được lưu truyền, bổ sung, thêm bớt và ngày càng hoàn chỉnh, hấp dẫn, đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ của người kể, người nghe. Ở đây phải kể tới vai trò của các thế hệ thầy mo, thầy cúng, các ông then, bà then, các nghệ nhân kể sử thi ở các dân tộc ít người Việt Nam. Họ đã đóng vai trò là những người lưu giữ tích cực kho tàng thần thoại các dân tộc. Trong điều kiện kể trên, hệ thống thần thoại các dân tộc đã là những chứng tích, những tài liệu sống, giúp chúng ta hình dung lại được diện mạo sinh hoạt, cách thức tư duy và sáng tạo văn hoá, sáng tạo nghệ thuật của các dân tộc ít người từ thời xa xưa cho tới ngày nay.