-
Số nội dung
6.278 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
75
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Thiên Đồng
-
Khái Niệm Cơ Bản Thất Tinh Đả Kiếp Thất Tinh là Bắc Đẩu vậy. Lại nói cần tương hợp với Ly cung. Đó là Ly lại Ly mở ra Ly vậy. Khái Niệm của nó như sau : Sách nói : Cán đẩu chỉ Đông thiên hạ đều Xuân. Cán Dẩu chỉ Nam thiên hạ đều là hạ. Cán Đẩu chỉ Tây thiên hạ đều là thu. Cán Đẩu chỉ bắc thiên hạ đều là Đông. Đó là Đông Tây Nam Bắc không thể lấy Tý Ngọ mão Dậu để làm phân giới. Mà là lấy Thìn Tuất Sửu Mùi làm phân giới vậy. Cho nên cổ Pháp lấy Dần Thân Tỵ Hợi làm mở đầu của bốn mùa, từ đó bắt đầu Đông Tây Nam Bắc. Cho nên thực tế nói Dần Thân Tỵ Hợi là ám chỉ thời gian vận hành. Đã biết thời khí lưu chuyển không ngừng, mà Phong thủy lập cực lấy dùng không chỉ một lúc. Vừa sau lúc giao vận thì quái khí tất là đảo lộn. Mỗi vận chỉ dùng ước độ 20 năm thôi là vì thế. Dùng quái khí để xem xét tất nên lo nghĩ đến điều này. Nếu như sau khi tách rời bản sơn nguyên vận. Nó tất cần có khí của tương lai tương hợp. Làm sao đề được Phúc Ấm lâu dài ~ Cho nên chữ “Ly” có ý nghĩa là khai mở ~ Đổi câu nói là : Thiên Ngọc Kinh có một câu về Bắc Đẩu Thất Tinh Đả kiếp ~ nghĩa của nó là chỉ sau lúc đã xa rời vận gốc, thì dùng đến Quái Khí để tương hợp với vận đó. Như vận 1 cung Ly nạp Ngọ. Lại vận 3 là cung Đoài Quái nạp Dậu. Ai Tinh đều là đồng khí tương hợp, bởi thế vận 1 lập Tý Sơn Ngọ Hướng. Mà ở Cung Đoài chữ Dậu có nước, tất vận 1 – 3 đều phát. Khẩu Quyết Về Thất Tinh Đả Kiếp Pháp : “Thức đắc Phụ Mẫu Tam Ban Quái, Dĩ thị chân Thần Lộ; Bắc Đẩu Thất Tinh khứ đả kiếp, Ly cung yếu tương hội” Nhất Điểm dịch
-
@ TuyenTrungThuy Tháng 2 âm chỉ có một ngày 26 âm nhằm ngà Chủ Nhật (18/3/2012). Giờ tốt: Thìn: 7g00 đến 9g00 Ngọ: 11g00 đến 13g00 Chúc hạnh phúc. Thiên Đồng
-
Tiếp theo Cứ theo như lịch sử của di tích này thì nguyên thủy phải gọi là "Đền" mới đúng - vì thờ Thánh. Nhưng cũng như bao đình đền khác ở Việt Nam, các vị Tiên Thánh đều thờ trong Chùa. Nhiều nhà nghiên cứu văn hóa Việt cả trong và ngoài nước đều phát hiện ra điều này và ngạc nhiên tự hỏi.... Tôi đã giải thích cho một người bạn Việt kiều rằng: Đạo thờ Tiên thánh - Đạo tu tiên - là đặc thù văn hóa tín ngưỡng của Việt tộc, không phải của người Hán. Nên để bảo tồn những gía trị văn hiến Việt, những bậc trí giả Việt đã đưa những gía trị văn hiến tín ngưỡng ấy núp dưới bóng từ bi của Đức Phật, để tránh sự truy sát, hủy diệt văn hóa của Hán tộc phương Bắc trong hàng ngàn năm đô hộ. Đặc biệt vào thời nhà Minh với 20 năm tàn phá hủy diệt văn hóa Việt. Chính thần tích của ngôi "Chùa" này đã nói lên điều đó: Rất có thể, vào thời gian này, "Đền" đã đổi thành Chùa thờ Phật. Phật giáo là tôn giáo có cả ở Việt Nam và Trung Quốc, cho nên dưới danh nghĩa những ngôi chùa thì những gía trị văn hóa tín ngưỡi Việt được bảo tồn. Nhưng những dấu ấn của văn hiến Việt vẫn thể hiện qua những họa tiết trang trí nổi bật trong các "chùa" này. Đó chính là đồ hình Thái Cực Việt thể hiện minh triết Việt qua hình tương Âm Dương của nó. Cũng như các hình tượng Long, Ly, Quy, Phương cũng chính là biểu tượng 4 phương chính trong minh triết Đông phương và cả trong phong thủy. Những biểu tượng này không có trong Phật pháp. Những pho tượng của các vị La Hán và bồ tát trong chùa cũng vừa là thể hiện sự thay đổi thăng trầm của nền văn hóa sử Việt, vừa là sự bảo hộ của nền văn hiến Việt. Những pho tượng này được thể hiện rất sinh động, có chiều sâu nội tâm qua nét mặt của từng pho tượng. Hàng trăm năm đã trôi qua trong sự trầm tư suy ngẫm nhân tình thế thái của các vị bồ tát an tọa trong chùa này...... Thế gian biến đổi muôn màu vẻ. Đức Phật từ bi mải nghĩ gì? H ình tượng các vị La Hán chùa Bối Khê được tạc rất sinh động. Tất nhiên không thể thoát và tự nhiên như ở Chùa Tây Sơn. Nhưng cũng có thể nói vẫn thuộc bậc thầy của nghệ thuật. Ngắm những pho tượng nơi đây - theo cảm quan của tôi - gần như mỗi pho tượng đều toát ra một linh hồn và tính minh triết sâu sắc của những hình tượng này. Vị bồ tát này đang cầm một cái hốt của vua ban một cách hờ hững. Phải chăng, hình ảnh này như muốn nhắc nhở thế nhân: Danh vọng chỉ như gió thoảng trong kiếp nhân sinh ngăn ngủi.... Một thời danh tướng công hầu. Giờ đây tóc gió pha màu thời gian.... Vị này cầm cái túi rỗng không. Một hình tượng của sự vô thường giữa cái Có & Không ở cõi trần gian. Nam mô a di đà Phật - Hình tượng của sự giải thoát. Thế nào là tiếng vỗ tay của một bàn tay? Nét mặt của bức tượng dường như suy ngẫm, dường như khám phá. Nếu không phải bậc thầy của nghệ thuật điêu khắc, chắc khó có thể miêu tả được thần thái này của chủ đề. Vô tự kinh - Mọi triết lý đều màu xám..... Thế gian biến đổi muôn màu vẻ. Đức Phật từ bi phải bật cười.....* Đây là quẻ Thương Đại An - Thế gian còn chìm trong bể khổ... Cơ trời nắm, mở . Như trong Lý học nói về sự chuyển vận của Âm Dương. An nhiên tự tại. Còn tiếp
-
VIẾNG CHÙA BỐI KHÊ Tiếp theo Từ viên gạch làm nền chùa cũng được đúc những họa tiết tinh vi, như muốn nhắc nhở cho đời sau những giá trị minh triết của nền văn hiến Việt. Những họa tiết trên những viên gạch này, bây giờ chỉ thấy rải rác trong những ngôi chùa tối cổ ở Việt Nam. Nhưng nó cũng đang phôi pha với thời gian. Cũng chẳng còn ai quan tâm đến việc phục chế cho những loại gạch này. Những tấm trang trí trên xà đỡ mái chạm trổ tính vi và cầu kỳ theo hình tượng minh triết cổ long ly quy phương...Nếu như Lý học Việt luôn thể hiện bao quát từ tổng thể đến chi tiết thì điều này cũng thể hiện rất rõ trong các ngôi đình, đền , chùa cổ xưa nổi tiếng của ông cha ta....Từ tổng thể đến chi tiết đều có một bố cục hoàn chỉnh, nhất quán và có tính hệ thống liên kết chặt chẽ. Những họa tiết rất chi tiết không làm chìm chủ thể của một bố cục trang trí. Trong tấm trang trí trên - mặc dù dấu ấn vàng son đã tàn phai - thời gian đã mang ẩm mốc phủ lên bề mặt của nó. Nhưng chúng ta vẫn nhận rõ từng hình tượng trên bức phù điêu . Đầu đao chùa Đại Bi. Những họa tiết trang trí trên đầu đao này cho thấy nó thể hiện quan niệm thẩm mỹ trong kiến trúc vào khoảng thế kỷ XV. XVI ở Việt Nam. Những dấu ấn thời đại này cho thấy sự thăng trầm của lịch sử ngôi chùa. Vào những thời đại xa xưa hơn, những họa tiết đầu đao thường là những hình tượng những sinh vật huyền thoại há miệng ngậm sống mái. Tương tự họa tiết trang trí các võ khí cổ xưa ở phần nối giữa lưỡi và cán. Có thể vì thế mà gọi là đầu đao chăng? Nhưng dù vào thời đại nào trong quá khứ thì những họa tiết đầu đao này của ông cha ta đều đầy đặn, tình cảm. Còn những họa tiết đầu đao của những ngôi chùa hiện đại thì mỏng manh, khô khan và như chẳng ăn nhập gì với cấu trúc của mái. Nhìn rất vô duyên. Ít nhất đó là cảm quan của tôi. Nét độc đáo là những đầu xà ở chùa này đều thể hiện như một xà kép, khiến nó trông như những lưỡi chĩa đâm ta bốn phương.....Ngôi chùa này quay về hướng chính Tây theo sự đo đạc của chúng tôi. Mái sau của chùa Đại Bi thể hiện một vầng mặt trời đỏ - ngôi Thái Cực. Lâu lắm rồi tôi mới lại nhìn thấy vòng tròn Thái Cực màu đỏ xác định nền minh triết Việt. Hầu hết các đình chùa bây giờ, những biểu tượng trên các mái đều là vòng tròn Thái Cực rỗng. Có thể do sự tàn phá của thời gian và càng về sau, người ta không còn quan tâm đến ý nghĩa miếng kính đỏ trên nóc đền chùa, nên không phục hồi lại nó. Thái Cực đâu phải hư không. Đấy chỉ là sự ngộ nhận của thế nhân với những triết lý "mồm bò, chẳng phải mồm bò, nhưng lại là mồm bò" của mấy nhà nho gàn theo sách cổ chữ Hán. Chính vì sự ngộ nhận này mà tể trướng Tống Vương An Thạch sửa lại Đạo Đức Kinh "Vô - Danh vạn vật chi thủy. Hữu - Danh vạn vật chi mẫu" so với bản nguyên thủy của Chử Đồng Tử - Lão Tử - "Vô danh vạn vật chi thủy, Hữu danh vạn vật chi mẫu". Vớ vẩn! Còn tiếp
-
VIẾNG CHÙA BỐI KHÊ Tiếp theo Tam quan chùa Bối Khê nhìn từ phía trong. Gọi là Tam Quan theo thói quen, chứ cổng chùa này có đến năm cửa lận. Những hình tượng rồng ở chùa này vẫn có tư thế uốn lượn mềm mại như rồng thời Lý, không có sừng, môi trên của rồng không dài như rồng Lý và rồng ở Vương quốc Thái Lan (Di sản của nền văn hiến Văn Lang cổ). Nó đã gần giống với rồng của văn hóa Hán về hình tượng đầu rồng, đã xuất hiện vảy rồng trên thân hình; nhưng vẫn chưa có sừng như rống Hán. Điều này cho thấy vào thời Lý Trần, ảnh hưởng của văn hóa Hán vẫn chưa mạnh mẽ trên đất Việt sau 1000 năm Bắc thuộc. Chỉ có từ thời Hậu Lê, Nho giáo được coi là hệ tư tưởng chính thống thể hiện trong việc thi cử chọn người tài thì những biểu tượng và tư tưởng Hán Nho mới thâm nhập mạnh vào Việt Nam. Những hình tượng rồng sau thời Hậu Lê giống với hình tượng rồng Trung Quốc. Mặc dù Hán Nho và Tống Nho thực tế chính là sự tiếp thu không hoàn chỉnh của một nền văn hiến vĩ đại của giống nòi Bách Việt ở miền nam sông Dương Tử từ hơn hai ngàn năm trước. Chính những hình tượng và các họa tiết trang trí khác như Long Ly Quy Phượng thời Lý trở về trước tìm được, khác hẳn những hình tượng vốn có của nền văn hóa Hán đã cho thấy một giá trị nghệ thuật, văn hóa phi Hán chảy trong lòng truyền thống văn hiến sử Việt qua hơn 1000 năm Bắc thuộc. Hình tượng một con voi đắp nổi chầu vào cổng chùa. Đây là hình tượng phổ biến ở hầu hết các đình chùa cổ Việt Nam và là nét đặc thù của nền văn hiến Việt. Người Hán không có voi. Con voi này có một số họa tiết được cách điệu hình lá ở như tai voi. Đó là một motip nghệ thuật rất phổ biến thời Lý Trần. Bành voi chạm rồng chứng tỏ nó thuộc sở hữu của bậc Quân Vương. Đây là con voi trận. Vì đằng sau lưng voi có mang theo túi đựng tên, lao, kiếm, kích. Tôi nghĩ ngay đến Hai Bà Trung - Vị Thục nữ Quân Vương đầu tiên của nền văn hiến Việt. Quả nhiên, vào chùa bia ký có nhắc đến Hai Bà. Ngựa chiến thuộc sở hữu của bậc Quân Vương căn cứ vào hình tượng rồng trên bạt đệm dưới yên ngựa. Yên ngựa chạm hình chim phượng. Đây cũng là hình tượng khá quen thuộc ở một số chùa cổ Việt Nam. Nếu phân tích sâu mang theo chuyên môn của Lý học Đông phương thì phượng hoàng chính là thể hiện tính tri tuệ của phương Nam - Tả Thanh Long phương Đông; Hữu Bạch Hổ phương Tây, Hậu Huyền vũ phương Bắc, tiền Xích Phượng phương Nam. Đây cũng là phương Ngọ - Ngựa. Bởi vậy hình tượng phương hoàng trên lưng ngựa là sự xác định nền văn hóa phương Nam. Cũng có từ ý nghĩa đó dùng thể hiện sở hữu thuộc phái quần thoa quí tộc. Nhưng chỉ dành cho các bậc quân vương như Bà Trưng, Bà Triệu... Mặc dù trải hơn 600 năm với sự phôi pha của thời gian, nhưng chùa Bối Khê vẫn giữ được phần lớn những nét cổ kình nguyên thủy của nó . Để vào được cổng chùa, du khách phải đi qua một chiếc cầu vắt ngang qua ao sen. Mùa này không có sen nở.... Chùa này có một cây sen đất rất độc đáo. Những bông sen trắng nở trên cây này. Vào đầu hè, du khách đến đây có thể thưởng thức loài sen độc đáo và quí hiếm này. Cứ vào trung tuần tháng 3 âm lịch hằng năm, cây nở nhiều nụ non giống như nụ sen dưới nước. Hai tuần sau thì nụ nở thành hoa, tỏa mùi thơm ngào ngạt khiến du khách tưởng có một hồ sen trong chùa. Trước cổng chính điện của chùa có một cái bàn đá cổ đã phong sương với thời gian. Đây là nơi thí chủ thập phương bày lễ cúng Phật trước khi chiêm bái trong điện. Một điều độc đáo khác: Đó chính là vòng tròn Âm Dương Việt khắc sâu ở mặt bên bàn đá này. Hai áng mây (Âm 2), ba quầng lửa bao quanh vòng tròn (Dương 3) Âm Dương Việt. Tôi chạnh buồn nghĩ đến Việt sử 5000 năm văn hiến. Nhưng những giá trị của Việt sử một thời hoàng kim ấy vẫn âm thầm chảy trong nền văn hóa truyền thống Việt như một niềm an ủi với tôi.... Có những kẻ dốt nát, ngu xuẩn - cố gắng bảo vệ một cách trắng trợn đến vô liêm sỉ trong sự tuyệt vọng của luận điểm phủ nhận văn hóa truyền thống Việt rằng: Thật là một luận điểm phản biện bỉ ổi và chứng tỏ một cái đầu cứng nhắc, ngoan cố đến tận cùng trong việc phủ nhận thực tại khách quan, chống lại nền văn hiến Việt. Bởi vậy từ nay tôi cũng chán nản, không muốn tranh luận thuyết phục nữa. Chân lý sẽ thể hiện những thực tế khách quan và tôi nghĩ họ dễ nhận thức hơn....
-
@Tinh Tâm Lúc trước chú có xem cho cháu quẻ nghiệm thấy chính xác thật, hôm nay cháu mạo mụi nhờ chú xem giúp cháu quẻ nữa. Nam, ngày sinh 23/06/1986 dương lịch, sinh lúc 8h 45". 1. Khi nào em lấy được vợ? Vợ tương lai của em tính tình thế nào ? tình cảm vợ chồng thế nào? Nhanh thì 1 năm sau, chậm sau 5 năm, vợ cực kỳ khó chịu, tình cảm khắn khít. 2. Sức khỏe, tiền bạc và công việc của em cuối năm thế nào? Gia đình em cuối năm nay có gì biến động lớn ko (Sức khỏe, tiền bạc và công việc)? Sẽ có đủ dùng cuối năm. Kh6ng có gì biến động lớn sức khỏe bình thường. 3. Nhà em có mấy mảnh đất liệu năm nay có kiếm được ít ko hay phải chờ sang năm? Chờ sang năm, chưa rục rịch gì đâu. Cảm ơn chú nhiều nha, làm phiền chú bỏ ít thời gian xem giúp cháu ạ. @ Về Nguồn, Chào anh Thiên Đồng, nhờ anh xem giúp em. Tuổi: Ất Sửu, Nam. Hỏi vào lúc 2 giờ 12 phút PM, dương lịch ngày 22/11/2011 Hiện nay em đang chuẩn bị học một môn học liên quan đến phật học. Nhưng vì đây là một môn học huyền bí, nên em có điều băn khoăn. Câu hỏi: Em học môn học này sẽ có kết quả như thế nào? Tốt hay xấu? Có gặp trở ngại gì không? Không biết kết quả. Có chuyển biến lớn trong tâm thức. Không gì đáng lo. @kennguyen0 Cháu chào chú Thiên Đồng, cháu muốn hỏi chú mấy câu ạ,Tuổi gì: CHáu tuổi Nhâm THân Hỏi vào ngày 22 tháng..11.năm.2011..20giờ 12(bao nhiêu phút) dương lịch Câu hỏi 01:thế sau này ra trường cháu có được bằng khá và có xin việc dễ dàng không ạ? Cũng khá, nhưng xin việc trầy trật. Câu hỏi 02: không biết là bao nhiêu tuổi thì có nhân duyên và người đó trông thế nào, cả ngoại hình lẫn tính cách ấy ạ, sau này cháu và làm việc gần nhà không ạ? 28 tuổi. người đó nói nhiều hơi kiêu, đi làm xa. Câu hỏi 03: Hiện cháu đang ở trọ cùng một em nữa, thế 2 đứa có ở trọ được lâu dài không ạ( 2-3 năm) ấy ạ? Sau này có xảy ra mâu thuẫn gì ko ạ? Sẽ ở không lâu dài. Vài chuyện lùm xùm không nghiêm trọng. Cháu cảm ơn chú nhiều nhiều, mong chú giải giùm cháu! @HHH Cháu kính nhờ bác Thiên Đồng xem giúp cháu với ạ. Là Nam Tuổi: Canh ngọ HỎi vào ngày 03/12/2011 dương lịch lúc 14h:06 phút câu hỏi : thứ 3 tuần sau tức ngày 6 tháng 12 cháu có đi phỏng vấn xin việc, cháu ko bik phỏng vấn có thuận lợi ko ạ, và liệu cháu có được tuyển ko ạ? Đi tới phỏng vấn cho biết kinh nghiệm, chờ dài cổ thôi! Cháu chỉ có một câu hỏi đó thui, mong là bác có thể giải đáp giúp cháu, cháu gần đi xin việc rùi mà ko bik có thuận lợi ko nữa, cháu cám ơn bác trước ạ! Bạn đã được danh hiệu "Người hỏi ít nhất". Hic Thiên Đồng
-
Một Số Điểm Đặc Thù Của Huyền Không Phép Dùng La Bàn Đặc Biệt: Hầu hết các La Bàn hiện nay đều có ba bàn. Chính châm (Vòng trong) là Địa Bàn; Trung châm (Vòng giữa) là Nhân Bàn; Phùng châm (Vòng ngoài) là Thiên Bàn. Phái Tam Hợp lấy Chính châm Cách Long, Lập Hướng; Trung châm Tiêu Sa; Phùng châm Nạp Thủy. Cũng có người lấy Trung châm và Phùng châm để lập hướng, đó là nhầm lẫn. Huyền Không Địa Lý nhất luật chỉ dùng Chính châm. (Chính châm là kim nam châm cảm ứng với từ trường trái đất). (Thực ra Nhân Bàn và Thiên Bàn cũng chính là sử dụng nguyên tắc Thuận Tử và Nghịch tử của Huyền Không Địa Lý) Phương Pháp Thu Sơn, Thu Thủy Đặc Thù: Huyền Không Địa Lý chú trọng đến Sơn tinh được sinh vượng Khí đi đến Sơn (Nơi tọa, lưng của Trạch), thoái, tử, sát Khí phi đáo thủy; Còn Hướng tinh được sinh vượng Khí phải phi đáo thủy (Nơi hướng, cửa của Trạch), thoái, tử, sát Khí phí bài đến Sơn. Như thế tức là thu được sơn, lại xuất được sát đi. Chính Thần ở chính vị trí, đẩy nước nhập vào Linh Đường (Chính Thần Tọa Chính Vị, Bát Thủy Nhập Linh Đường). Giải Thích Về Phản Phục Ngâm: Huyền Không Địa Lý lấy trường hợp Đương Sơn Hướng Ai tinh với Nguyên Đán Bàn giống nhau, gọi là Phục Ngâm, trái nhau là Phản Ngâm. Phản, Phục Ngâm lúc đương lệnh (Đang còn trong khoảng thời gian của vận tinh) còn tạm dùng được, thất lệnh tất phát ra tai ách, họa hoạn. Trường hợp này chỉ dùng lý luận của Huyền Không Địa Lý mới giải thích được. Trong Đạo học phương Đông nói chung và trong lý thuyết Kinh Dịch nói riêng tư tường Trung Dung (Ở giữa bình yên) luôn được coi trọng. Vì thế nhiều quá cũng không tốt, ít quá cũng không hay. Đây chính là nhận thức cơ bản về Phục Ngâm và Phản Ngâm. Phép Phân Kim Đặc Biệt : Tất cả có 120 phân kim, tức là mỗi Sơn có 5 phân kim. 24 Sơn cộng lại là 120 phân kim. Huyền Không Địa Lý ở giữa mỗi Sơn trong phạm vi 4,5 độ ( Phải, trái ) gọi là Hạ Quái, lệch quá 1 độ gọi là Thế Quái hoặc Khởi Tinh. Trong phép dùng, Hạ Quái và Thế Quái có sự sai biệt rất lớn, đó là sự sáng tạo của Huyền Không Địa Lý. A Tư Tiểu Khang
-
Khấn hồn người mất về chi vậy? Sao không để cho người ta yên? TD
-
Huyền Không Minh Kính Ca Không luận Lai Sơn mạch nghìn dặm, song theo nhập thủ xem chân Long. Nên xem Lai Sơn đi xuống nước, Âm Dương Linh Chính thông cả hai. Chính phối Sơn Long Linh phối Thủy, quản khiếu thế đại vĩnh xương long. Trước theo trên Huyệt biện Lai Long, Âm Dương thư hùng diệu vô cùng. Âm đến Dương Tọa Dương lai Âm, Âm Dương giao thác cần phân rõ. Một sáu là Thủy, ba tám Mộc, hai bảy bốn chín tìm cho kỹ. Qua bốn vị lập hướng có Thiên Cơ, Tiên Hiền đã lưu diệu kinh văn. Một quái thuần thanh là đại cát, sơn hướng thủy khẩu hợp thành môn. Sơn quy Sơn lai Thủy quy Thủy, Âm Dương hai lộ thuận nghịch hành. Không để Sơn Long xuống dưới nước, chẳng để Thủy Long trèo lên non. Điên đảo đắc vận là châu bảo, thuận nghịch thất vận là Hỏa Khanh. Nếu gặp Chính Thần Tọa Chính vị, lại đem Thủy Khẩu phối Linh Thần. Cha mẹ con cháu không bác tạp, đó là nhân gian địa Long tinh, tam nguyên cửu vận thường bất bại, sinh lai đại địa hợp Thiên Tâm. Trời tạo đất bày đại công lực, Thiên Tử lâm triều quản vạn dân, cũng là bù đắp địa mạch nhỏ, định nhiên phú quý danh vang xa. Chân Long Huyệt Đích vận chưa đến, cũng làm đại sư phí tâm cơ, khiến người chưa được âm phúc trợ, họa đến bất ngờ hỏng gốc căn. Tam nguyên cửu vận tương giao tiết, cần đem vô hình phối hữu hình. Cha mẹ con cháu trười đất người, địa nguyên một quái tối nên thuần. Không được kiêm trái hoặc kiêm phải, xuất quái không vong là gốc họa. Cha mẹ hoặc có thể trái phải kiêm, kiêm địa kiêm nhân cần minh bạch. Kiêm địa không thể quá 5 độ chuyên, kiêm nhân quá sáu cũng không yên. Chớ oán đất trời không tình nghĩa, âm sai dương thác họa không sai. Nếu là Lai Long hợp kiêm độ, Tọa Hướng thuận kiêm cũng hợp tình. Sơn cần hợp hướng, hướng hợp Thủy, trái phải âm dương chia hai bên. Kiêm trong 3 độ được Hạ Quái, Kiêm quá 3 độ tìm Thế Tinh. Nếu thành phụ mẫu Tam Ban Quái, tiền thế hưu lai có phúc phần. Huyền Không Diệu Quyết không ở lắm, Long Hướng Sa Thủy đã nói tinh. Có người biết được Phi Tinh diệu, Thiên Địa Càn Khôn nắm trong tay. Bài ca này là để cảnh tỉnh người sau, để người học sau có được chính lộ, không bị mê hoặc bởi ngụy pháp. Đọc thông hiểu hết bài ca này tuy không gọi là tinh thông hết cái học của Huyền Không. Song ẩn ở trong bài ca cũng có trùng trùng các nghiên cứu học tập của Huyền Không Học. Người học sau nên tinh tế tham khảo. Đồng thời thỉnh các vị cao nhân dạy bảo thêm. A Tư Tiểu Khang .
-
KIM TỰ THÁP AI CẬP BÀI 2 :Các Kim Tự Tháp ở Ai Cập Biên khảo: Đức Chính E.- Quần thể Kim Tự Tháp ở Fayoum: Nhìn chung các Kim Tự Tháp ở quần thể này bị hư hại nhiều, không còn vẻ uy nghi như Kim Tự Tháp kỳ quan Khufu ở Gizard. Tại đây những di tích còn tương đối là các Kim Tự Tháp Amenemhet I, Amenemhet III, Senusret I, Senusret II, và Meydum. 1.- Kim Tự Tháp Amenemhet I: Amenemhet I là vị pharaoh khai sáng vương triều thứ 12 của Ai Cập cổ đại, cũng là người mở đầu thời vương quốc giữa (năm 1975-1640 trước Công nguyên) nối thời kỳ chuyển tiếp thứ nhất (năm 2100-1975 trước Công nguyên). Nhà khảo cổ đầu tiên đi sâu vào Kim Tự Tháp này là Maspero, vào năm 1882. Đến khoảng năm 1894 – 1895, Gautier và Jequier dẫn một đoàn khảo sát Pháp đến tiếp tục nghiên cứu và đến những năm 1902-1934 lại có thêm đoàn của Viện Bảo Tàng Metropolitan Museum, New York, dưới sự lãnh đạo của Albert Lythgoe và Arthur Mace. Ở phức hợp Kim Tự Tháp có một đền thờ nhưng đáng tiếc bị một khu nghĩa trang Hồi giáo xây dựng chồng lên trên nên không thể khai quật được. Miếu đường nằm ở phía Đông Kim Tự Tháp, nhỏ và đơn giản hơn miếu đường thời vương quốc cổ. Đường đắp cao chạy thẳng tắp vào Kim Tự Tháp, qua trung gian một sân chầu. Đặc biệt sân chầu này không có mái như nhiều Kim Tự Tháp khác. Vật liệu xây dựng chủ yếu là gạch bùn nên khó bền vững với thời gian, hiện chỉ còn cao 20 m so với mặt đất. Lõi Kim Tự Tháp làm bằng đá vôi lấy tại địa phương và mài thô với cát. Tuy nhiên lại có những khối đá granit trang trí hình ảnh thu hồi từ các công trình thời vương quốc về để xây dựng. Hình như ở phức hợp này không có Kim Tự Tháp phụ để thờ cúng, cũng không có tường bao, như ở nhiều Kim Tự Tháp khác. Nhưng các khai quật tìm thấy trong khu có 22 ngôi mộ của những công nương và bà hoàng. Góc tây nam Kim Tự Tháp có ngôi mộ nghi là của tể tướng Antefiker. Còn phía đông bắc có nhà mồ chưa rõ của ai. 2.- Kim Tự Tháp Amenemhet III: đây là Kim Tự Tháp thứ 2 của Pharaoh Amenemhet III. Sauk hi công trình Kim Tự Tháp ở Dahshur bị sụp lở sau 15 năm xây dựng, ông cho xây dựng Kim Tự Tháp mới ở Fayoum. Vào năm 1843 Lepsius đã thử thám hiểm vào trong Kim Tự Tháp, tiếp đến Luigi Vassalli (1883) và Petrie (1889). Sau nhiều đợt cố công cuối cùng Petrie đi vào đến phòng quàn xác ướp trong đột thám hiểm gia khổ với Wainwright và MacKay. Kiến trúc này hiện hư hại nhiều, đến mức nền của phức hợp cũng khó xác định chính xác. Nguyên nhân vào thời La Mã cai trị xứ này các vật liệu của Kim Tự Tháp bị lấy đi dùng cho mục đích khác. Lúc ban đầu Kim Tự Tháp này tiêu tốn rất nhiều đá, ước tính khoảng 28.000 mét khối; chính vì điều này nên lọt vào tầm chú ý của quân viễn chinh La Mã. Hiện có nhiều đền thờ cổ ở rải rác Ai Cập lấy đá từ đây để xây dựng. Kim Tự Tháp này là kiến trúc tiêu biểu cho triều đại thứ 12, lõi xây bằng đá bùn bên ngoài bao bằng đá vôi. Lối vào bằng đá vôi trắng xây ngầm dưới đất, đặt ở mặt Nam Kim Tự Tháp, hơi chếch về góc Đông Nam. Nó dẫn đến một gian phòng nhỏ và kết thúc bằng ngỏ cụt. Trên nóc hian phòng nhỏ này có một cửa bí mật đi lên hành lang thứ 2 (gọi là hành lang bí mật). Cí một cơ quan vận dụng sức chảy của cát để mở cánh cửa này. Chính hành lang thứ hai này dẫn đến phòng quàn xác ướp của Pharaoh. Lối bố trí độc đáo này khiến các nhà nghiên cứu mất nhiều công sức mới khám phá ra. 3.- Kim Tự Tháp Senusret I: noi theo phụ vương Amenemhet I, Senusret I cho xây Kim Tự Tháp của mình ở Lisht, gần ốc đảo Fayoum. Từ thời cổ Kim Tự Tháp này từng bị đào trộm, đến năm 1882 Maspero nương theo những đường hầm đào trộm này đi vào thám hiểm Kim Tự Tháp. Theo thư tịch ghi chép, Kim Tự Tháp này xây dựng suốt 22 năm trị vì của vĩ Pharaoh này. Phức hợp Kim Tự Tháp Senusret I cũng có một ngôi đền thờ nhưng về sau bị người La Mã làm nghĩa trang chồng lên. Từ nơi này có con đường đắp cao theo trục Nam-Bắc dẫn đến miếu đường; nó được lót bằng những khối đá vôi nhưng bên trên không lợp mái. Tiếp tục nữa là sân chầu (ở phía Bắc) nằm ngay cổng vào bên trong Kim Tự Tháp. Sân chầu có mái che, đở bằng 24 cột đá vôi. Đặc biệt xung quanh có rất nhiều kim tự tháp nhỏ, một trong số đó là Kim Tự Tháp thờ. Tuy nhiên khôngt như Kim Tự Tháp của phụ vương xây bằng gạch bùn, Kim Tự Tháp Sunusret I sử dụng đá vôi địa phương. Lõi cũng dùng loại đá vôi này, bao bọc xung quanh là 8 bức tường bố trí xuyên tâm với lõi. Tường xây thô bằng những tảng đá lớn thô kềnh, các khe được tram bằng đá vôi và cát. Các vách có nhiều bức phù điêu chạm các tích truyện theo tín ngưỡng Ai Cập cổ đại. Cũng theo phong cách thời vương quốc cổ, lối vào cũng ngầm dưới Kim Tự Tháp, nhưng lát đá granit. Nó không đi thẳng mà chệch về hướng Đông Nam như kiểu một vài Kim Tự Tháp của triều đại thứ 5. Buồng quàn xác ướp nằm sâu dượi mặt đất 22-25 m nên đã ngập nước. 4.- Kim Tự Tháp Senusret II: Senusret II chọn địa điểm xây ktt cho mình ở Hawara gần Fayoum, chứ không phải ở Dahshure của phụ vương (Amenemhet II). Đền thờ và miếu đường của Senusret II chỉ còn lại những mảnh phế tích, cho thấy nó nằm ở phía đông Kim Tự Tháp và được trang trí bằng đá granit. Phía Đông Nam Kim Tự Tháp tìm thấy nhiều ngôi mộ của các bà hoàng. Khi xây dựng, các kiến trúc sư đã khéo léo khai thác nguồn đá vôi vàng tại chỗ làm lõi Kim Tự Tháp. Phần bên trên lõi xây bằng đá bùn thành những bức tường đan chéo nhau thành khung cho Kim Tự Tháp. Mặt ngoài được ốp đá granit đen. Cũng theo truyền thống phức hợp này cũng có sân chầu nằm ở cực Nam mặt Nam Kim Tự Tháp. Nơi đây tìm thấy một vài bi ký nói lên tín ngưỡng thờ cúng thần Diêm vương Orisis Từ thời xưa Kim Tự Tháp này bị đào trộm và phá hủy nhiều dấu vết để nghiên cứu nên mất nhiều tháng ròng Petrie mới tìm ra hành lang dẫn vào trong Kim Tự Tháp. Hành lang dẫn vào có trần vòm, có vẻ quá hẹp so với chiếc quách để trong phòng quàn xác ướp. Điều này khiến các nhà nghiên cứu cho rằng có một hành lang khác ở mặt nào đó của Kim Tự Tháp. Phòng quàn xác ướp có trần vòm và lát đá granit. Phía trong có chiếc quách bằng đá granit đỏ kê ở đầu cuối phía tây. Góc Đông-Nam phòng quàn có hành lang nhỏ dẫn đến một căn phòng nhỏ khác có bộ hài cốt mà người ta phỏng đoán của vị Pharaoh này. 5.- Kim Tự Tháp Meydum: còn gọi là Kim Tự Tháp Sneferu Maidum. Nguyên thủy cao 93,5 m; chu vi đáy 147 m; góc nghiêng 51050’35” và xây dựng vào triều đại thứ 3 hay thứ 4. Kim Tự Tháp Maidum là loại Kim Tự Tháp bậc thang có 7 bậc, do thời gian có sự sụp lở lấp các bậc ở bên dưới nên khá giống Kim Tự Tháp hình chóp. Báo Fox news số 13 tháng 4 năm 2000 có bài viết về Kim Tự Tháp này. Trong đó có đoạn viết: “Cấu trúc ban đầu là Kim Tự Tháp bậc thang, các mặt bậc thang giống như chiếc bánh cưới khổng lồ, theo kiểu “kim tự tháp đầu tiên” nổi tiếng của Pharaoh Djoser ở Saqqara. Sau đó các bậc được mở rộng thêm bằng cách nới nền. Cuối cùng, các bậc thang của nó được bọc bằng lớp vỏ láng trông giống như Kim Tự Tháp đúng nghĩa”[1]. Chủ nhân của Kim Tự Tháp này vẫn chưa kết thúc sự tranh cãi nhưng đa số cho là của Pharaoh Sneferu của triều đại thứ 4 (triều đại này kéo dài từ năm 2613 – 2494 trước Công Nguyên) nên còn gọi là Kim Tự Tháp Sneferu Maidum. Nhưng cũng có học giả cho rằng của vì vương cuối cùng triều đại thứ 3, Pharaoh Huni. Lối dẫn vào Kim Tự Tháp nằm ở mặt Bắc, có 30 bậc thang. Còn hành lang bên trong dẫn đến phòng quàn xác ướp bằng đá vôi, nằm ngang với mặt nền Kim Tự Tháp. [1] The structure began as a step pyramid, with stair-step sides like a giant wedding cake, in the style of the famous “first pyramid” built at Saqqara for Pharaoh Djoser. Then the steps were expanded by adding another layer. Finally, its steps were encased in a smooth shell to create one of the first true pyramids.
-
Bí Mật Đi Xuyên Tường http-~~-//www.youtube.com/watch?v=ZUEXB1_XrNU&feature=related
-
Quẻ Hàm - Cái Nhìn Về Tình Yêu Của Cổ Nhân Quẻ Hàm là nói về nam nữ trẻ tuổi cảm ứng nhau mà kết thành vợ chồng, nó chính là Quẻ Tượng nói về cái Đạo Luyến Ái của Nam Nữ. Đương nhiên ở đây Lý Quẻ nói về một hiện tượng chung trong tạo hóa, chứ không chỉ nói riêng về Nam Nữ luyến ái. Bởi tuy duy Toàn Tức là tư duy chủ yếu của Chu Dịch. Không dùng chữ Cảm (Gồm chữ Hàm trên chữ Tâm) mà bỏ đi chữ Tâm chỉ lấy chữ Hàm, đó tức nói "Vô Tâm Mà Cảm" đó cũng là để nói, nam nữ hấp dẫn lẫn nhau, cảm động lẫn nhau vốn căn bản là vô Tâm. Nam Nữ tương thân tương ái cần có sự Hòa Tâm Thông Ý. Sự cố ý, cưỡng cầu có nhiều lúc lại thành ngược lại. Đó như người xưa nói: "Cố ý trồng hoa hoa chẳng nở, vô tình cắm liễu liễu lên xanh". Quẻ Hàm Nữ trên Nam dưới, trên là tích cực chủ động, dưới là tiêu cực bị động. Đó ý nói Nữ vốn thuộc về Âm nên cần khai mở thông đạt; Còn Nam vốn thuộc Dương nên có sự khắc chế tiết độ, có như vậy thì sự Cảm mới lâu bền. Quẻ Hàm nếu Thượng Quái không động, sơ hào động biến thành Quẻ Cách, hào hai biến thành Quẻ Quái, hào ba biến thành Quẻ Đoài. Nếu Quẻ Dưới không động hào bốn động biến thành Quẻ Kiển, hào năm động biến thành Quẻ Khiêm, hào sáu động biến thành Quẻ Cấn. Ý nói một người Nam quá tích cực chủ động sẽ đưa đến "Bị Bách Biến Cách" hành động võ đoán, tự mình quyết định, tức nói bị Tình Cảm bị áp bức phải thay đổi...Cũng có nói người nữ như nếu quá tích cực chủ động, sẽ biến thành đường đi gập nghềnh (Kiển là chân đi thậm thọt) kín đáo thúc đẩy và cuối cùng là có được kết quả. Nếu như là Sơ Hào và Tứ Hào cùng biến tức thành quẻ Ký Tế tức đã hoàn thành, Hào Hai và Hào Năm cùng biến tức thành Quẻ Thái tức sự thông thoáng, Hào Ba và Hào Sáu cùng biến thì thành Quẻ Tổn ý chỉ sự tổn thất...Ý nói cả hai bên đã có sự cùng chủ động tiến bước thì sẽ đạt được Luyến Ái Thành Công, mọi sự thông thoáng qua lại, cuối cùng là cả hai cùng Tổn (Mất một ít trong Tâm) đó là sự hòa đồng của Tình Yêu vậy. A Tư Tiểu Khang dịch.
-
KIM TỰ THÁP AI CẬP BÀI 2 :Các Kim Tự Tháp ở Ai Cập Biên khảo: Đức Chính D.- Quần thể Kim Tự Tháp ở Dahshur: Nằm phía Nam quần thể Saqqara. Nhiều Kim Tự Tháp ở quần thể này chỉ còn lại những phế tích như Kim Tự Tháp Sesostris III hay Kim Tự Tháp Ameny Kemau (phát hiện năm 1957). Người ta chỉ biết chúng qua những nghiên cứu những dấu vết còn sót lại và qua đó biết được quy mô lúc ban đầu. Tại quần thể này có một Kim Tự Tháp mặt cong và một Kim Tự Tháp khác được mệnh danh là Kim Tự Tháp đỏ: Kim Tự Tháp Snefru. Đặc biệt, Dahshur có hai Kim Tự Tháp mang tên Amenemhet III: một màu trắng và một màu đen. 1.- Kim Tự Tháp Cong: Được xây dựng cho Pharaoh Snefru (2680-2565 trước Công nguyên), người khai sáng triều đại thứ IV. Kim Tự Tháp này chỉ là 1 trong 3 (thậm chí là 4) Kim Tự Tháp được xây dành cho vị đế vương này. Một trong 2 Kim Tự Tháp còn lại là Kim Tự Tháp Đỏ (nằm phía bắc) sẽ nói ở dưới. Kim Tự Tháp này đánh dấu một bước chuyển tiếp từ Kim Tự Tháp bậc thang qua Kim Tự Tháp hình chóp. Nhưng có giả thuyết cho rằng hình cong đó là do muốn hoàn thành nhanh công trình nên thu nhỏ phần ngọn. Cũng có giả thuyết cho rằng vì Kim Tự Tháp xây trên nền địa chất không vững (nền cát và đá phiến sét) nên giữa chừng phải giảm khối lượng. Kim Tự Tháp này có hai độ dốc: phần dưới độ dốc 520, phần uốn cong bên trên là 4305. Công trình kéo dài hơn 20 năm và huy động nhân lực và vật lực rất lớn. Theo tài liệu cổ thời Pharaoh Snefru thuế má rất nặng nhằm đáp ứng sự ham thích xây nhiều Kim Tự Tháp của ông. Có hai lối vào bên trong Kim Tự Tháp. Lối thứ nhất nằm ở mặt phía Bắc, cách mặt đất khoảng 12 m dẫn đến gian phòng ở trên. Lối thứ 2 nằm ở mặt phía Tây chỉ cao hơn mặt chút út, dẫn xuống gian phòng bên dưới. Cả hai gian phòng này có kết cấu sàn bằng đá khối dày 4 m. 2.- Kim Tự Tháp Đỏ Snefru: Nếu màu đỏ củ kỳ quan Kim Tự Tháp Khufu do lớp đá graphit đỏ ốp bề mặt, thì Kim Tự Tháp Snefru khiêm tốn hơn do xây dựng bằng loại đá vôi màu đỏ và hồng nhạt. Công trình này rất đồ sộ, chỉ thua Kim Tự Tháp Lớn Khufu chút ít. Nó cao 104 m, dốc nghiêng 43022” và được đánh giá là Kim Tự Tháp hình chóp ó niên đại cổ nhất hiện nay còn tồn tại. Cửa vào bên trong cũng ở mặt Bắc như bao Kim Tự Tháp khác, nối với một hành lang dài khoảng 80 m dẫn đến hai gian phòng nằm tách biệt nhau. Ngoài ra còn có một lối đi khác dẫn vào gian phòng thứ 3. Nhưng trong các gian phòng đó không có dấu vết cho thấy từng quàn xác vị Pharaoh này. 3.- Kim Tự Tháp Amenemhet III đen và trắng: Kim Tự Tháp Amenemhet III đen cao 81,5 m, chiều dài đáy 105 m, góc nghiêng của vách 57°15’50″. Được xây bằng gạch ép đất sét không nung và đá basalt. Ngày nay chỉ còn phần đáy nằm trơ trọi giữa sa mạc. Kim Tự Tháp Amenemhet III trắng có chiều cao và độ nghiêng không rõ, đáy dài 50 m. Đây là Kim Tự Tháp mặt cong (bent pyramid) và là Kim Tự Tháp xây trên vùng đất tháp nhất so với các Kim Tự Tháp khác (khoảng 10 m trên mực nước biển). Cộng thêm có một số sai lầm khác về mặt kiến trúc nên Pharaoh Amenemhet III không chọn nơi này làm nơi gửi thi hài: xây một Kim Tự Tháp khác ở Hawara. Tác phẩm đầu tiên viết về Kim Tự Tháp này được thực hiện bởi nhà nghiên cứu Perring, người đã bỏ nhiều thời gian và công sức vào đây. Công trình cho biết miếu đường nối với Kim Tự Tháp bằng một lối đi nhỏ hẹp. Bên cạnh miếu đường có một sân rộng với 18 cột bằng đá granit. Lối vào bên trong cũng nằm mặt bắc và nối với một hành lang. Hành lang này kết thúc ở khu dự kiến dành cho các hoàng hậu. Phía bên phải hành lang này có một hành lang ngắn khác dẫn đến tiền sảnh và phòng dự kiến quàn xác ướp Pharaoh. 4.- Kim Tự Tháp Ameny Kemau: Được đoàn nghiên cứu Mỹ phát hiện năm 1957. Nó là một Kim Tự Tháp nhỏ và trong tình trạng hư hại nặng nề, nằm phía Đông Nam bờ hồ cổ Dahshure. Khi khai quật các bình chứa hài cốt mới biết đây là Kim Tự Tháp của Pharaoh Ameny Kemau, một vì vua ít tên tuổi thuộc triều đại thứ 13 (thời kỳ trung gian thứ 2, đất nước Ai Cập suy yếu). Đến năm 1968, Maragioglio và Rinaldi mới nghiên cứu sâu thêm về cấu trúc của Kim Tự Tháp này. Kim Tự Tháp Ameny Kemau cao 50 m, phần trên của kiến trúc gần như bị phá hủy toàn bộ. Dấu vết còn lại cho thấy lối vào nằm ở mặt Đông hơi chếch về hướng Bắc, nối với một hành lang dẫn đến nhiều gian phòng nhỏ trước khi được tiếp nối bằng lối đi có bậc thang dẫn ra hướng Bắc. Cuối lối đi này là phòng quàn xác ướp vị Pharaoh. 5.- Kim Tự Tháp Senusret III: Được Morgan phát hiện vào khoảng thời gian 1894-1895. Nằm về phía Đông Bắc Kim Tự Tháp Đỏ Snefru. Kim Tự Tháp này có nhiều dị biệt tôn giáo với các Kim Tự Tháp khác và là mốc đánh dấu một xu hướng xây dựng Kim Tự Tháp mới. Thường miếu đường và đền thờ được dựng phía Đông Kim Tự Tháp, nhưng trường hợp này nằm ở phía Nam. Lõi Kim Tự Tháp thường là khối đá nhưng với Senusret III xây bằng gạch bùn ép tạo thành những bậc thềm rộng. Lối vào lại nằm ở sân lát gạch phía tây Kim Tự Tháp, chếch về phía góc Tây Bắc. Từ đó có một hành lang dốc xuống dẫn vào Kim Tự Tháp theo hướng Đông Tây. Sau đó hành lang này quẹo sang hướng Nam và dẫn đến tiền sảnh và phòng quàn xác ướp Pharaoh. Phía Bắc Kim Tự Tháp ông Morgan còn phát hiện thêm các ngôi mộ của các bà hoàng. Người ta cho rằng phần trên các ngôi mồ đó (nay đã hư mất) là gò mộ có hình Kim Tự Tháp.
-
Tặng BabyWolf một cái bánh sinh nhật Sinh Nhật Vui Vẽ!!!
-
Qua một lượt Thiên Đồng thấy rằng, pháp Ngũ Quỷ Vận Tài thường dùng cho trạch nhà có hướng xấu. Tuy là hướng xấu nhưng mờ đường Tài Lộ vẫn được. Đôi khi lại dùng tọa sơn phiên quái để mổ Tài Lộ. Nhưng bản chất là trạch nhà xấu phạm Ngũ quỷ, Lục Sát, Tuyệt Mạng hay Họa Hại nên có câu giáo đầu: nghĩa là trong cái xấu cũng có cái tốt, nhưng cái tốt này là "phát giả như lôi", dùng thì phải biết dừng! Nói là "cứu nghèo" nhưng thật ra là "hốt hụi sớm" cho nên khi được rồi phải dừng ngay, kẻo họa đi kèm tới, bởi bản chất trạch xấu thì cái xấu vẫn là chủ đạo. Lại thêm mở thủy pháp cầu tài, cũng là một cách hoạt náo âm khí, dùng dao cẩn thận kẻo đứt tay! Thiên Đồng
-
Bảy Mươi Hai Long Thấu Địa Dương Công ( Dương Quân Tùng ) lúc đầu chuyên sử dụng địa bàn 24 sơn âm dương Long cùng thuộc tính ngũ hành . Song qua quá trình tham khảo thực tế , Dương Công phát hiện dùng âm dương Long cách là quá thô thiển , trong tình huống thực tiễn rất dễ sai khác . Trải qua quá trình nghiên cứu , lúc đã cao tuổi Dương Công lấy 60 hoa giáp nạp âm ngũ hành biểu thị cho thuộc tính của Long , Long có âm dương ngũ hành từ 4 mặt tám phương đến , điều này phù hợp với thực tiễn . Bát quái vốn phản ánh các phương vị ngũ hành , đó là trạng thái của vũ trụ lúc hình thành . Tất cả đều do âm dương bát quái giao cấu mà biến hóa không ngừng tạo thành thế giới vật chất với các thuộc tính ngũ hành . Ngũ hành là một hệ thống liên quan chặt chẽ đến nhau , vừa khắc vừa sinh , không có hành nào đứng một mình . Bắc phương là Khảm quái thuộc thủy , nhưng tại phương Bắc nơi nơi đều có cây mọc , có kim loại , có đất , có lửa , Đông tây nam cũng vậy . Âm dương ngũ hành tại thực tế không thể có sự phân bố , tồn tại riêng biệt có chăng chỉ là sự ít nhiều , hoặc mạnh yếu hơi khác mà thôi . Kham Dư vốn là triết học Dịch ứng dụng vào thực tế , nó là thực địa khách quan không hề mang tính áp đặt . Đó là sự tương hợp chặt chẽ giữa ngành Kham Dư học với cuộc sống . 72 Long tương ứng với 360 độ chia làm 72 phần bằng nhau , mỗi Long chiếm 5 độ . Mỗi sơn đầu có 3 Long , mỗi quái có 9 Long . Tại chỗ Nhâm sơn giáp với Tý sơn khởi Giáp Tý theo chiều thuận an 1 vòng , tại vị trí 8 can và tứ duy có 3 độ không cách gọi là “Không Vong Long” . Đến chỗ Nhâm sơn tựa hợi sơn là đầy đủ 60 hoa giáp . Không vong Long là căn cứ theo sự di chuyển của Long khí trên thực địa mà xác định . La bàn 24 sơn trên ứng trời , dưới ứng đất , bao hàm hết trời đất . Tứ duy 8 can thuộc Thiên hệ , phản ánh các quy luật của Thiên hệ ; 12 địa chi là Địa hệ , phản ánh các quy luật Địa hệ . Địa có thể tàng chứa Thiên hệ , sở vì có thể tàng chứa can , tức địa chi tàng can , cho nên nói trong địa bao hàm cả thiên can ; thiên ở trong bụng địa , thiên can ngược lại không thể hàm chứa địa khí . Thiên khí mà thuộc dương , khí chất rất nhẹ nổi lên rất cao , không thể lắng xuống đất , do đó thiên khí không nhập vào đất . Long đi dưới đất , ứng dụng lý của 12 địa chi làm quy luật . Phong thủy cơ bản lấy “Thừa sinh khí” làm chính yếu , tứ duy bát can không có Long khí nên không có “Sinh Khí” vận chuyển trong lòng đất nên gọi là “Không Vong Chi Địa” . Dương Công dùng 72 Long gọi là Ai Tinh , lấy 72 Long ngũ hành gọi là “Điên dảo ngũ hành” . “Điên điên đảo , 24 hữu châu bảo” tức là 72 Long ngũ hành . Sau khi phối 72 Long với ngũ hành , trong tám quái , mỗi quái đều có đầy đủ ngũ hành , so với nguyên lai bát quái thì hoàn toàn không giống . Vì vậy Dương Công mới viết trong “Thiên Ngọc Kinh” là : “Phiên Thiên Đảo Địa Đối Bất Đồng , Bí Mật Tại Huyền Không” 72 Long Phân Bố : Khảm cung 9 Long : Nhâm sơn hạ y thứ thị Quý Hợi thủy Long , Không vong Long , Giáp Tý kim Long ; Tý sơn hạ thứ thị Bính Tý thủy Long , Mậu Tý hỏa Long , Canh tý thổ long : Quý sơn hạ y thứ thị nhâm tý mộc long , không vong long , ất sửu kim long . Kỳ trung , kim long nhị , mộc long nhất , thủy long nhị , hỏa long nhất , thổ long nhất , không vong long nhị . Cấn Cung Cửu Long : Sửu sơn hạ y thứ thị đinh sửu thủy long , kỷ sửu hỏa long , tân sửu thổ long ; Cấn sơn hạ y thứ thị quý sửu mộc long , không vong long , bính dần hỏa long ; Dần sơn hạ y thứ thị mậu dần thổ long , canh dần mộc long , nhâm dần kim long . Kỳ trung , kim long nhất , mộc long nhị , thủy long nhất , hỏa long nhị , thổ long nhị , không vong long nhất . Chấn Cung Cửu Tinh : Giáp sơn hạ y thứ thị giáp dần thuỷ long , không vong long , đinh mão hoả long ; Mão sơn hạ y thứ thị kỷ mão thổ long , tân mão mộc long , quý mão kim long ; Ất sơn hạ y thứ thị ất mão thuỷ long , không vong long , mậu thìn mộc long . Kỳ trung , kim long nhất , mộc long nhị , thuỷ long nhị , hoả long nhất , thổ long nhất , không vong long nhị . Tốn Cung Cửu Long : Thìn sơn hạ y thứ thị canh thìn kim long , nhâm thìn thuỷ long , giáp thìn hoả long ; Tốn sơn hạ y thứ thị bính thìn thổ long , không vong long , kỷ tỵ mộc long ; Tỵ sơn hạ y thứ thị tân tỵ kim long , quý tỵ thuỷ long , ất tỵ hoả long . Kỳ trung, kim long nhị , mộc long nhất , thuỷ long nhị , hoả long nhị , thổ long nhất , không vong long nhất . Ly Cung Cửu Long : Bính sơn hạ y thứ thị đinh tỵ thổ long , không vong long , canh ngọ thổ long ; Ngọ sơn hạ y thứ thị nhâm ngọ mộc long , giáp ngọ kim long , bính ngọ thuỷ long ; Đinh sơn hạ y thứ thị mậu ngọ hoả long , không vong long , tân Mùi thổ long , Kỳ trung , hữu kim long nhất , mộc long nhất , thuỷ long nhất , hoả long nhất , thổ long tam , không vong long nhị . Khôn Cung Cửu Long: Khôn sơn hạ y thứ thị kỷ mùi hoả long , không vong long , nhâm thân kim long , Thân sơn hạ y thứ thị giáp thân thuỷ long , bính thân hoả long , mậu thân thổ long . Hữu kim long nhị , mộc long nhất , thuỷ long nhị , hoả long nhị , thổ long nhất , không vong long nhất . Đoài Cung Cửu Long : Canh sơn hạ y thứ thị canh thân mộc long , không vong long , quý dậu kim long ; Dậu sơn hạ y thứ thị ất dậu thuỷ long , đinh dậu hoả long , kỷ dậu thổ long ; Tân sơn hạ y thứ thị tân dậu mộc long , không vong long , giáp tuất hoả long . Hữu kim long nhất , mộc long nhị , thuỷ long nhất , hoả long nhị , thổ long nhất , không vong long nhị . Càn Cung Cửu Long : Tuất sơn hạ y thứ thị bính tuất thổ long , mậu tuất mộc long , canh tuất kim long ; Càn sơn hạ y thứ thị nhâm tuất thuỷ long , không vong long , ất hợi hoả long ; Hợi sơn hạ y thứ thị đinh hợi thổ long , kỷ hợi mộc long , tân hợi kim long . Hữu kim long nhị , mộc long nhất , thuỷ long nhất , hoả long nhất , thổ long nhị , không vong long nhị . A Tư Tiểu Khang - phongthuy123.co.us
-
Tài liệu tham khảo: Khám Phá Quái Lý Của Phái Bát Trạch Phong ThủyTrong thuật Kham Dư Địa Lý của Trung Quốc, đối với sự kết hợp tốt xấu của nhà ở, lý luận của phái Bát Trạch có chỗ đứng rất quan trọng, các tác phẩm kinh điển của môn phái này như “Dương Trạch Tam Yếu” , “Bát Trạch Chu Thư” , “Bát Trạch Minh Kính” ( “Bát Trạch Minh Kính” được dịch giả Thái Kim Oanh dịch ở Việt Nam với cái tên là “Bát Trạch Minh Cảnh” ) do các tác giả thời xưa viết vẫn được lưu hành rộng rãi và đều được các nhà nghiên cứu hiện nay lấy nó làm căn cứ. Phái Bát Trạch tương truyền do một vị cao tăng đời nhà Đường có Pháp Hiệu là Đường Nhất Hạnh tổng hợp sáng tạo ra. Ngài là một thiền sư thông hiểu Phật Pháp lại rất giỏi về Kinh Dịch, thuật số. Lý luận căn bản của nó là lấy Dịch Lý Tiên Thiên Hà Đồ làm lý luận căn bản, lấy phương vị Hậu Thiên Bát Quái làm ứng dụng. Ngoài ra nó còn phảng phất một số tri thức của phái Phong Thủy Mũ Đen trong Phật Giáo Tây Tạng Mật tông.Bát Trạch phái được các thuật sĩ hành nghề trong dân gian ứng dụng rất nhiều, nó phân ra làm hai loại trạch ( Nhà hoặc Mồ mả) : Đông tứ trạch và Tây tứ trạch rồi phối theo người mà phán định tốt xấu. Càn Khôn Cấn Đoài là Tây tứ trạch, Khảm Ly Chấn Tốn là Đông tứ trạch. Tọa sơn lập hướng là Tây tứ trạch thì dùng bốn phương vị Tây làm cát để kê đặt bếp, mở cửa, dùng cho người ở, còn bốn phương vị Đông thì là hung, không thể mở cửa, làm bếp, người ở càng không nên. Đông tứ trạch cũng suy như thế. Cần nhắc lại một lần nữa nguyên tắc chủ yếu là lấy phương vị hậu thiên bát quái để đoán định, tuy nhiên thực tế là Lý Luận Bát Trạch lại xuất phát từ Tiên Thiên Bát Quái. Nó dựa trên quy luật của sự âm dương phối hợp, giao cấu, sinh thành. 1. Sự phối hợp của Đông, Tây tứ trạch phù hợp với quy luật tương sinh của Ngũ Hành : Theo Bát Quái Tiên Thiên phối hợp với lạc thư ta sẽ thấy : Tây tứ trạch Càn Khôn Cấn Đoài trong Lạc thư có số là : 9, 1, 6, 4 Đông tứ trạch Khảm Ly Chấn Tốn trong Lạc Thư có số là : 7, 3, 8, 2 Ngũ Hành tiên thiên vốn là : 1 – 6 là thủy ở phương Bắc; 4 – 9 là Kim ở phương Tây. 2 – 7 là hỏa ở phương Nam; 3 – 8 là Mộc ở phương Đông. 1 – 6 – 4 – 9 tổ hợp thành Kim Thủy tương sinh . 2 – 7 – 3 – 8 tổ hợp thành Mộc Hỏa tương sinh. Bởi thế Tây tứ trạch là các cục Kim Thủy tương sinh; Đông tứ trạch là các Cục Mộc hỏa tương sinh. 2. Sự phối hợp bốn trạch Đông hoặc tây phù hợp quy luật hợp ngũ , hợp thập, sinh thành của Hà Lạc: Tây Tứ Trạch ( Càn Khôn Cấn Đoài ) : Càn 9 với Đoài 4 , Khôn 1 với Cấn 6 tức là 1 – 6 , 4 – 9 sinh thành Cục của Hà Đồ. Càn 9 với Khôn 1 , Đoài 4 với Cấn 6 tức là hợp lại thành 10. ( 10 tức là một mang ý nghĩa quay về với Đạo ) Càn 9 với Cấn 6 , Khôn 1 với Đoài 4 là hợp thành 15, hợp thành 5 tức là Lạc Thư âm dương giao cấu Cục. Đông Tứ Trạch ( Ly Khảm Chấn Tốn ) : Khảm 7 với Tốn 2 , Ly 3 với Chấn 8 tức là 2 – 7 , 3 – 8 Hà Đồ sinh thành Cục. Khảm 7 với Ly 3 , Chấn 8 với Tốn 2 , hợp lại thành 10 đối đãi, Thủy Hỏa tương xạ, Lôi Phong tương bạc Cục. Khảm 7 với Chấn 8 , Ly 3 với Tốn 2 , hợp lại thành 15 , 5 tức là Lạc Thư âm dương giao cấu Cục. 3. Đông Tây Trạch phù hợp quy luật Âm Dương tương phối : Theo Tiên Thiên Bát Quái có thể thấy : Càn Đoài là lão Dương; Khôn Cấn là lão Âm. Tốn Khảm là thiếu Dương; Chấn Ly là thiếu Âm. Tây tứ trạch Càn Khôn Cấn Đoài là lão Dương phối lão Âm. Đông tứ trạch Ly Khảm Chấn tốn là thiếu Dương phối thiếu Âm. Phù hợp quy luật “Lão phối lão , thiếu phối thiếu, âm dương tương phối là ý tốt” Tổng hợp lại các diều phân tích ở trên chúng ta có thể thấy Bát Trạch phái lý luận xuất phát từ Tiên Thiên Hà Đồ Bát Quái, nhưng ứng dụng vào phương vị Hậu thiên bát quái. Nó rất có Dịch lý! Có thể nói trong Phong Thủy Học thì ứng dụng ở tầng 1 là dùng Bát Trạch Pháp. Tầng thứ hai là dùng Tam Nguyên long Tam Nguyên Quái để tiến hành. Tầng thứ 3 là dùng thuyết Nguyên Vận, Linh Chính, Giao cấu cùng Long Sơn Hướng Thủy phối hợp để làm. Mỗi bước tiến qua một tầng lại ẩn chứa nhiều điều bí mật. Ở tầng thứ 2 và 3 thường là mật truyền , thế nhân biết được rất ít. Bát Trạch phái là một học phái phong thủy rất cổ lưu truyền rất rộng rãi, là tầng thứ nhất khi tác pháp. Thông thường khi truyền pháp trong Bát Trạch thường truyền kỹ thuật mà không truyền nguyên lý khiến cho người học sinh ra nghi ngờ, vu cho là ngụy pháp. Hiện nay xã hội thật giả lẫn lộn, cỏ lúa cùng mọc , cho nên tôi mạnh dạn chia sẻ bí mật nguyên lý của Bát Trạch Phái cho mọi người được rõ . Trước hết trợ duyên cho các học giả có thêm niềm tin và kiến thức tiếp tục nghiên cứu sâu thêm về Bát Trạch Phái ( Còn rất nhiều bí mật xung quanh các pháp ứng dụng của Bát Trạch ). Thứ nữa chiêu tuyết án oan nghìn năm “Ngụy Pháp” cho Tổ Sư Đường Nhất Hạnh của phái Bát Trạch. Chú Thích : Ngụy Pháp là từ được “Thẩm Thị Huyền Không Học” dùng để chỉ lý luận Bát Trạch của Đường Nhất Hạnh thiền sư. A Tư Tiểu Khang
-
Như chú Lãn Miên nói nghe hợp lý. Vậy vặt long hay tròng cổ thì cũng bị ăn hiếp như nhau! Khổ thân con Cốc!
-
Không hợp lý! Câu ca dao nói là "Vặt long con mụ cốc cho tao! Tao nấu tao nướng tao xào tao ăn." Vậy mục đích là "nấu nướng xào ăn" chứ đâu phải là tròng vòng vô cổ để bắt cá! Từ câu ca dao, rồi liên tưởng đến hiện tượng, như câu ca dao nói vặt long làm thịt còn hiện thực là tròng vòng vô cổ để bắt cá. Chẳng ăn nhập gì cả. Thiên Đồng
-
HỆ THỐNG TƯỢNG Ở CHÙA TÂY PHƯƠNG Bộ tượng tam thế Phật với ba pho tượng Phật : Quá Khứ , Hiện Tại , Vị Lai ( còn gọi là Tam Thân : Pháp Thân , Ứng Thân và Hóa Thân ) ngồi ở tư thế tọa thiền , y phục gập nếp đơn giản phủ kín cơ thể , được coi là có niên đại đầu thế kỷ 17 . Bộ tượng Di Đà Tam Tôn : gồm tượng Đức Phật A Di Đà , đứng hai bên là Quan Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát Tượng Tuyết Sơn miêu tả Đức Phật Thích Ca trong thời kỳ tu khổ hạnh : mỗi ngày ăn một hạt kê , một hạt vừng ,tự hành xác để vươn lên thế giới tinh thần sáng láng . Tượng màu đen thẫm khoác áo cà sa mỏng , tay chân gầy khẳng khiu , xương nổi lên trước ngực . Toàn bộ cơ thể chìm trong suy tưởng , mắt trũng sâu , hướng về nội tâm . Hai bên tượng Tuyết Sơn có tượng A Nan và Ca Diếp đứng đầu . Tượng Đức Phật Di lặc tương trưng cho vị Phật của thế giới cực lạc tương lai . Người mập mạp , ngồi hơi ngả về phía sau , toàn thân toát ra sự thỏa mãn , sung sướng . Tượng Vă Thù Bồ Tát : Đứng chắp tay , chân đi đất , các ngón chân bấm móng xuống mặt bệ . Tượng Phổ Hiền Bồ Tát : Chắp tay trước ngực , khuôn mặt sáng rộng nổi lên trên tấm thân phủ đầy y phục . Tượng Bát Bộ Kim Cương , thể hiện trình độ rất cao về nghệ thuật lắp ghép gỗ và cách bố cục , chuyển động của một thân thể mang giáp trụ trong các thế võ . Mười sáu pho tượng tổ với phong cách hiện thực : Đó là Ưu –Ba-Cầu-Đa ,Đê-Đa-Ca, Di-Trà-Ca ,Bà-Tu-Mật, Phật Đà Nan Đề ,Phục-Đa-Mật-Đa, Hiếp Tôn Giả,Thương Na Hòa Tu ,Mã Minh ,Ca-Tỳ-Ma-Na , Long –Thụ -Tôn-Giả , La-Hầu-La-Đa , Tăng Già nan Đề ,Già Gia Xá Đa ,Cưu Ma La Đa ,Chà Dạ Đa .Theo một danh sách tên các nhân vật được tạc tượng trong một tài liệu còn lưu truyền ở chùa thì đây là tượng các vị tổ Ấn Độ trong quan niệm của thiền tong Trung Quốc . Mười sáu vị tổ người đứng kẻ ngồi , pho thì ngước mặt lên trời chỉ vào mây khói , pho thì hững hờ với ngoại vật , tì cằm trên đầu gối nhếch môi cười một mình nửa tinh nghịch nửa mỉa mai ,có pho vẻ mặt hân hoan tươi tắn , khổ người đầy đặn tròn trĩnh , pho khác có vẻ mặt đăm chiêu lạ thường , lại có pho như đang đắn đo phân bua hay đang thì thầm trò chuyện cùng ai .
-
…Các Vị ngồi đây trong lặng yên Mà Nghe giông bão nổ trăm miền Như từ vực thẳm đời nhân loại Bóng tối đùn ra trận gió đen …mặt cúi , mặt nghiêng , mặt ngoảnh sau Quay theo tám hướng hỏi trời sâu Một câu hỏi lớn . không lời đáp Cho đến bây giờ mặt vẫn chau . Chùa Kim Liên có từ thế kỷ 17 , được dựng trên dải đất của làng Nghi Tàm , bên bờ Hồ tây , nay thuộc phường Nghi Tàm , quận Tây Hồ .Tương truyền nơi dựng chùa là nền cũ của cung Từ Hoa có từ thời Lý . Từ Hoa là con gái vua Lý Thần Tông ( 1128-1138). Vua dựng cung Từ Hoa cho công chúa và các cung nữ ở đó để thấu hiểu thêm công việc đồng áng vất vả mà thấy rõ hơn giá trị ngôi tôn quí của mình .Đến đời Trần , trại Tằm Tang đổi thành phường Tích Liên . Dân làng dựng chùa Đống Long trẹn nền cung Từ Hoa cũ . Đến năm 1771, đời Lê Cảnh Hưng , chúa Trịnh sâm sai quan quân dỡ chùa Bảo Lâm ở phía tây Thăng Long đem về tu sửa thêm vào chùa , đặt tên mới là chùa Kim Liên .năm 1792 , đời vua Quang Trung , chùa được tu bổ lại , về diện mạo cơ bản giống như hiện nay . Tam quan chùa Kim Liên là một công trình kiến trúc hết sức độc đáo , trông như bông sen đang độ nở trên mặt nước Tây Hồ bốn mùa phủ sóng .các chi tiết trên gỗ đều được chạm nổi , chạm lộng hình rồng , hình hoa lá tinh xảo , uyển chuyển .Đầu đao mái uốn cong , gắn hình tứ linh bằng gốm nung . ba chữ sơn son ‘’Kim Tự Liên ‘’nghĩa là ‘’Chùa Sen Vàng ‘’nằm ở chính giữa cửa chùa . Từ tam quan vào chùa , du khách phải đi qua một cái sân rộng . tại sân này , hiện còn lưu giũ tấm bia đá cỡ 0,8m x 1,2m có nhiều hình chạm nổi rất đẹp . theo các nhà nghiên cứu , đây là một trong những bia cổ còn lại ở Hà Nội , được dựng vào năm Thái Hòa thứ 1, đời vua Lê Nhân Tông năm 1443 . Diện mạo chùa như hiện nay là do lần trùng tu vào năm 1792 với bố cúc theo kiểu chữ tam, gồm 3 nếp nhà chạy song song nhau . ba nếp nhà đều có hai tầng mái theo kiểu chồng diềm , ngói vảy , đầu đao bằng gỗ mềm mại , chạm khắc tinh xảo . Nhìn từ phía hông chùa , hai tầng mái tỏa ra bốn phía với 24 lá mái cao vút vươn lên không trung tạo ra 24 đầu đao , phô diễn sự tài tình trong kiến trúc của người xưa . TAM QUAN CHÙA KIM LIÊN CHùa hình chữ tam gồm 3 nếp nhà song song với nhau , tường gạch bao quanh tới tận rìa mái , Ở các đầu hồi nhà có cửa sổ tròn với những dấu hiệu sắc sắc không không mang đậm ý nghĩa triết lý Phật Giáo . nét kiến trúc của chùa Kim Liên gợi nhớ tới chùa tậy Phương( 1794) nổi tiếng . Các pho tượng Phật được bày thành hai lớp , trên cùng là bộ Tam Thế , tiếp theo là tượng A Di Đà , tượng Quan Thế Âm và tượng Đại Thế Chí ở hai bên cùng Anam , Ca Diếp là hai đại đệ tử của Đức Phật . Lớp dưới là Quan Ậm Chuẩn Đề , tượng Ngọc Hoàng , dưới cùng là tòa Cửu Long . Đáng chú ý nhất là tượng Quan Âm Nam Hải 42 tay ,các bàn tay xếp so le trông rất tinh xảo , tượng cao 1,2m đặt trên tòa sen gỗ hình lục lăng . lại có cả tượng Tôn Ngộ Không phủ sơn cao 1,1m khá sinh động . Chùa có tượng Trịnh Sâm ( đứng đội mũ miện , cầm hốt , mặc áo cổ tràng , râu mày như vẽ ,chân không mang giầy ) người đã cấp tiền hưng công tu tạo chùa năm Cảnh Hưng thứ 32 (1771). Chùa kim liên còn lưu giữ một tấm bia cổ , nay dựng phía bên phải cổng chùa , trên bệ đá hình vuông ,dù năm tháng đã làm phai mờ nhiều nét chữ nhưng còn xem được niên hiệu : Thái Hòa Tam niên Ất Sửu –tức năm 1445 thời Lê Nhân Tông . Đây là tấm bia cổ nhất ở hà nội hiện nay . các pho tượng đều mang phong cách điêu khắc thế kỷ XVIII-XIX , mang tính hỗn hợp thàn Phật . Bức hoành ‘’hoằng uốn ‘’( đạo lý sâu rộng )làm năm 1870 Sưu tầm
-
@geotech, Năm nay bố có tuỗi cất nhà, động thổ là lúc phá dở nhà cũ. Nên động thổ 17/11 âm, trong khoản 11g40 đến 12g40. 29/11 âm , trong khoản 8g40 đến 10g40. Thiên Đồng
-
Tượng La Hầu La đúng là chân dung cụ già Việt Nam , thân hình gầy gò , mặt dài nhỏ , gò má cao ,môi mỏng vừa phải . Chưa thấy pho tượng nào diễn tả y phục một cách hiện thực mà lại đẹp đến thế . Dáng điệu một tay cầm gậy , một tay để trên gối rất thoải mái , đôi bàn tay trông rõ từng đốt xương bên trong .Những nghệ nhân dân gian vô danh thời nhà hậu Lê , thời nhà Tây Sơn đã là tác giả của những kiệt tác tuyệt vời ấy của nền mỹ thuật Việt Nam . Năm 1960, nhà thơ Huy Cận đến thăm chùa , đã làm những câu thơ rất sống động và gợi cảm về hình tượng những con người đắc đạo mà lòng vẫn trầm ngâm suy tưởng về những khổ đau quằn quại của chúng sinh . nguồn: http://khanhhoathuynga.wordpress.com
-
Có phải nhà Moitruong xanh nền nhà thấp hơn đường và có bờ bao ngoài cửa không? TD
-
Cô Wild cho Thiên Đồng mạng phép hỏi để hiểu rỏ hơn là tiêu chuẩn nào để các vị trên được liệt vô hàng thánh khi còn hiện hữu ở cõi sa bà này? Thiên Đồng