Thiên Đồng

Hội viên
  • Số nội dung

    6.278
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    75

Everything posted by Thiên Đồng

  1. @mimimi83 em hỏi vào ngày 16 Th01 2012 09:23 PM giờ Diễn đàn: Em sinh 23/02/1983 1)Hôn nhân chúng em là hợp pháp nhưng vì vài lý do chưa tổ chức đám cưới được... vậy nên em muốn hỏi khi nào chúng em mới làm lễ cưới được ạ? Nhanh thì tháng 2 âm, chậm thì tháng 8 âm năm nhâm thìn. 2)Chúng em đang nợ người thân 1 số tiền khá lớn,khi nào chúng em mới trả được nợ ạ ? nhanh thì tháng 5 năm nhâm thìn, chậm thì 2014. Em cảm ơn anh! @nhugia Gửi anh Thiên Đồng Nhờ anh tư vấn giúp Tuổi : Tân Dậu - Nữ Hỏi vào ngày 17 tháng 01 năm.2012. Lúc 0: 47' dương lịch. Câu hỏi 01: Công việc năm tới như thế nào ? - Hiện tại đang làm chính một nơi nhưng bấp bênh, công việc không ổn định . sếp mở nhiều cty hôm nay điều sang cty này làm, kia lại sang cty khác làm Sẽ có những chuyển biến lớn, nhiều niềm vui nhưng cũng đầy áp lực. Có khả năng đi công tác hay thiên chuyển công tác xa. Câu hỏi 02: Công việc hùm hạp / làm thêm với bạn bè có tiến triển gì không và co nên tiếp tục ? ( làm với nam - Kỷ Mùi, năm rồi làm nhưng không có tiền vào ) sẽ có tiến triển, sẽ có sự giúp đỡ nào đó và nên tiếp tục. Câu hỏi 03: tình cảm với người kỷ mùi có thể đến với nhau duoc ko? ( Tình cảm của em lận đận, em có dịp diện kiến chú Thiên Sứ mấy lần về vấn đề này có làm 1 số thứ chú chỉ để tăng khả năng lương duyên, cũng như dự đoán của chú nhưng em vẫn đứng yên tại chỗ) Được, nhưng phải cố gắng nhiều. Còn nhiều rắc rồi phải gỡ rối. Thiên Đồng
  2. @ajinomoto sinh năm : Mậu Thìn,hỏi lúc 9h39'' ( giờ địa phương),giờ vn - 15h39'' , ngày 9 tháng 1 năm 2012, DL Câu hỏi 01:vậy cháu làm ở đó đc chừng bao lâu chú ? nhanh thì 8 tháng, dài thì 3 năm. @mimimi83, cứ hỏi thì tôi trả lời mà. @giacngo Chào Anh Thiên Đồng, Em sinh khoảng 9h sáng ngày 18/2/1979 âm lịch giờ hỏi 7:56PM ngày 09/01/2012 DLAnh Thiên Đồng xem giúp em 3 câu hỏi sau nhé. 1. Năm 2012 em có lập gia đình không? nếu 2012 chưa lập thì khi nào? Chưa lập gia đình 2012, đầu 2013 thì lập. 2. Người vợ tương lai của em như thế nào hả anh(hihi)? Nói nhiều, sống hướng nội, hơn chậm một tí nhưng biết lo lắng, mở miệng ra là "tiền đâu? Tiền đi!" 3. Năm 2012 công việc của em có thuận lợi không? Không, sẽ có sự thay đổi về vị trí công việc hoặc thuyên chuyển vị trí làm việc. Chạy nhiều hơn. Em cảm ơn anh. @ chauychau Không nên sinh năm 2012, nên chọn đứa 2017. @tieulinh0511 Cháu chào chú Thiên Đồng! Cháu tuổi Đinh Mão Hỏi vào ngày 11 tháng 01 năm 2012(15h05p) Cháu xin được hỏi ba câu như sau: Câu hỏi 01: Cháu không thích công việc hiện tại cho lắm, liệu cháu có thể chuyển công việc khác trong năm nay đượckhông ạ? Mặc dù bạn đã hỏi chuyển, nhưng ng ta không cho, sang năm tháng giêng hoặc tháng 3 âm mới chuyển. Câu hỏi 02: Nếu không chuyển được thì có cách nào để công việc bớt chán nản, áp lực không ạ? Tâm sự với sếp. Câu hỏi 03: Bao giờ thì cháu “chốnglầy” (lấy chồng) ạ? ^^ nhanh thì 2013, chậm 2015. Cháu cảm ơn chú!!! @hk_cmay, Cháu lại làm phiền chú Thiên Đồng ạ, Cháu là nữ, sinh lúc 10h sáng ngày 5/4/1989 (DL) Cháu hỏi lúc 21h48p ngày 11/01/2012 Cháu muốn hỏi là - Từ thời điểm này trở về trước cháu đã gặp được vị hôn phu của cháu chưa ạ? Chưa. Không thấy ai. Cháu cảm ơn chú! @Khechua Kính mong anh Thiên Đồng giúp đỡ ạ! Em hỏi lúc 22h41 ngày 12/01/2012 Câu hỏi 01: Thầy giáo em đang bị bệnh nặng, liệu thầy có qua khỏi được không ạ? Theo quẻ thì qua khỏi, cần bác sĩ theo dõi kỹ. Thầy liên quan đến tai biến hoặc thận suy. Câu hỏi 02: Năm 2012 em có bảo vệ được không ạ? Khoảng tháng mấy âm lịch? Bảo vệ tốt, khoản tháng 4 hay tháng 6 âm lịch 2012 Câu hỏi 03: Năm sau em đã xin đi làm được chưa ạ, nếu rồi thì khoảng tháng mấy ạ? Chưa ai kêu đâu. đi du lịch cho khỏe. nhanh thì tháng 9 âm được việc. Em cảm ơn anh! @datvietnam Gửi anh Thiên Đồng. Em là Nam, tuổi Ất Sửu. Em hỏi vào lúc 16 giờ 34 phút ngày 14 tháng 1 năm 2012 (dương lịch) Câu hỏi 1: Năm 2012 công việc của em như thế nào? có nhiều biến động, vị trí công việc bị lung lay hay thay đổi, đề phòng có người chơi xấu. Câu hỏi 2: Năm 2012 chuyện tình cảm của em ra sao? Cũng nhiều sóng gió, nhưng càng cắn nhau đau càng thương nhau nhiều. Thiên Đồng
  3. Thiếu trận chiến Điện Biên Phủ với chiến thắng lẫy lừng chấn động thế giới.
  4. @nnque, Chữ ký được, người chu đáo, biết tiến thủ, nhanh thì 2014, chậm 2019 được như ý về việc mở công ty. @phamhuu999. Nên đổi chữ ký. Chứ ký này thể hiện người thiếu tập trung trong tổ chức, hay xề xòa. Thiên Đồng
  5. Thiên Anh, Thiên Đồng hát thiệt là nóng!
  6. Thiệt là thật giả khó lường! hic
  7. Ông chủ quán này sẽ giầu to, nếu kinh doanh bán mướp nhũ này và cả hạt giống nữa. Giống như có người kinh doanh bưởi hồ lô vào dịp tết.
  8. Bổ Sung Ngày giờ Xuất Hành Do có những yêu cầu tư vấn phát sinh, Sư Phụ Thiên Sứ đã bổ sung thêm cho ngày giờ xuất hành như sau: Xuất Hành: Ngày tốt theo Việt lịch: mồng 01 tháng Giêng năm Nhâm Thìn, nhằm ngày: thứ ba 23.01. 2012 Tây lịch Đây là ngày giao thừa Giờ tốt trong ngày: Giờ Tý, từ 11g20 đến 01g20 , giờ tốt nhất. theo Quẻ Lạc Việt Độn Toán là Đỗ tiểu cát. tốt nhì: Giờ Thìn, từ 7g20 đến 9g20 , theo Quẻ Lạc Việt Độn Toán là Khai tốc hỷ. Giờ Thân, từ 15g20 đến 17g20, theo Quẻ Lạc Việt Độn Toán là Đỗ đại an. Hướng Xuất Hành: Hướng tốt xuất hành là hướng Tây chếch về Tây Nam
  9. Vậy theo Fu thì cái nào là đúng?
  10. Rồng trong văn hóa Việt & Ứng dụng trong Phong thủy Lạc Việt Thiên Đồng – Bùi Anh Tuấn Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông Phương Rồng, biểu tượng thiêng liêng, là linh ảnh được nhắc nhớ đến dòng tộc Rồng Tiên Lạc Hồng mà truyền thuyết Hồng Bàng Thị còn lưu lại, là biểu tượng của sức mạnh vũ trụ, sự huyền biến âm dương trong Lý học Đông phương áo bí thuộc nền văn hiến Việt 5000 huyền vĩ bên bờ Nam sông Dương Tử. I. RỒNG TRONG VĂN HÓA VIỆT I.1. Nguồn gốc Lạc Việt Theo truyền thuyết, Lạc Long Quân nói với Âu Cơ rằng: “Ta là dòng Rồng, nàng là dòng Tiên…” đấy là dấu ấn văn hóa phi vật thể đầu tiên ghi nhận Rồng là tổ phụ của dân Lạc Việt, một dấu ấn sống động và huyền bí. Cái nôi ngôn ngữ Việt là cơ sở cho mối liên hệ máu mủ chứng minh nơi “chôn nhao cắt rốn” của hình tượng Rồng là từ trong nôi văn hóa Việt với những âm Rồng = Lòng = Nòng = Long = Hồng = Dòng = Sông…cùng một nôi khái niệm. Do vậy chữ Hồng trong hai chữ Lạc Hồng là hình tượng của Rồng đi cùng một đôi với Chim (Lạc), là Tiên, nên câu “Long phụng hòa minh” để chúc hạnh phúc vợ chồng hòa hợp là âm bản của hình tượng của Rồng và Chim, có nguồn gốc từ văn minh Lạc Việt. Hình được trích từ trên trống đồng Sử ký Tư Mã Thiên, một pho ký sử đáng chú ý của Trung Hoa, đã không có một ghi nhận cụ thể nào cho hình tượng Rồng là biểu tượng của vương quyền, của vua từ thời Tần trở về trước. Khi Triệu Chính lên ngôi xưng đế, vào năm 247 trước Công nguyên,lấy hiệu là Thủy Hoàng Đế thì biểu tượng rồng hay hình ảnh rồng đại diện cho vua cũng không thấy đề cập đến như một sự kiện hay yếu tố chứng minh. Ngược lại, hình tượng rồng với mô típ nguyên thủy, thể hiện bằng ngôn ngữ hội họa cách điệu và tối giản, được thấy trên mặt trống đồng, vật khí biểu tượng của nền văn minh Văn Lang, văn hoá Lạc Việt với những ghi nhận niên đại sớm là khoản thể ký thứ V trước Công nguyên là hình tượng chim đi cùng một đôi với hình cá sấu, tức Lạc – Hồng, chim – rồng. Hai mũ chim rồng Mũ ông Táo thể hiện đầu rồng cùng mô típ của họa tiết trên trống đồng Một hình tượng khác được trích từ họa tiết trên trống đồng cho thấy thể hiên hai nhân vật đang đọc văn bản nào đó mà trên đầu hai nhân vật này như mộc ra hai đầu rất lớn hình chim và rồng. Mạch nối cho hình tượng rồng này không gián đoạn khi trong dân gian, cho đến ngày nay, còn lưu giữ mối dây liên hệ của nó khi hình tượng chiếc mũ ông Công ông Táo, một sản phẩm dùng trong lễ nghi cúng tế, được thể hiện đồng mô típ với đầu rồng trên trống đồng. Như vậy, rồng với hình ảnh khởi thủy sơ khai đã là sản phẩm của trí tuệ Việt tộc được thể hiện và ứng dụng từ lâu trong xã hội Hùng Vương mà tính phổ biến của nó dễ dàng tìm thấy ngay trên họa tiết hoa văn trống đồng thuộc nền văn minh Văn Lang, Bách Việt, với lối cách điệu tinh tế. Hình tượng chim rồng, biểu tượng hỷ sự mang dấu ấn Tiên Rồng - Lạc Hồng. I.2. Truyền thống và lưu dấu rồng Việt Tuy lịch sử có những giai đoạn thăng trầm làm gián đoạn hay mai một đi nét truyền thống Lạc Việt nhưng nó trổi dậy một cách tinh tấn và đặc sắc trong những giai đoạn an bình thịnh trị. Rồng thời Hùng Vương: với nguyên thủy là hình ảnh cá sấu và đi chung với hình chim tạo đủ cặp Lạc Hồng (Chim Rồng) Hình cá sấu và chim (rồng và chim) trên trống đồng. Rồng thời Lý: là một hình tượng hiền hòa với nét uốn lượn hình sin đẹp mắt, nhưng không kém phần dũng mãnh, con rồng thời Lý chứa đựng sự hoạt biến của nhu và cương. Rồng thời Lê: Hình thể khỏe mạnh, phần đầu to hơn, trong vẻ cứng cáp và dữ dằn. Rồng thời Nguyễn: Trông vẻ sắc cạnh với những vẫy, vi, mũi sư tử, răng nanh bén sắc, ẩn trong mây nhưng đầy vẻ chủ động và tự chủ. Điều đáng chú ý rằng rồng thời Lý với chiều dài lịch sử hơn 1000 năm được biết đến khá rỏ ràng nhờ vào những phát hiện khảo cổ trong thời gian khá gần đây. Tuy vậy điều lạ lùng chưa từng đề cập đến là khi quan sát những hình tượng rồng ở Lào, Thái Lan thì phát hiện các hình tượng đó đều có chung một mô típ rồng thời Lý! Đặc điểm nổi bật để nhận ra điều này là mỏm rồng có túm lông nhọn thể hiện như một sừng hay ngọn lửa, răng nanh vượt hàm trên và thân hình như thân rắn. Vấn đề đặt ra là nét văn hóa Việt bằng cách nào được lưu dấu ảnh hưởng đến những vùng lục địa và biển đảo như vậy để trở thành một nét truyền thống đặc sắc của các nước này khác hẳn rồng Trung Hoa khi mà trong quá khứ không hề có một sự đô hộ nào của Việt tộc như sự đô hộ ngàn năm của Trung Hoa trên đất Rồng Tiên? Rồng ở chùa Wat Phrasingh, Chiang Mai, Thailand. có cùng mô tip rồng thời Lý. Tượng rồng ở Thailand cùng mô típ rồng thời Lý Rồng ở Lào cùng mô típ rồng thời Lý. I. 3. Biểu tượng trong Lý học Quan niệm Lý học Đông phương cho rằng Rồng là biểu hiện của sự huyền biến không gian thời gian, là sức mạnh uyên áo của vũ trụ, là biểu tượng của hai thế lực Âm và Dương. Trên mái đình miễu, mái chùa của người Việt bao giờ cũng bắt gặp hình tượng quen thuộc lưu truyền âm thầm trong dân gian là hình tượng hai rồng và quả châu rực lửa ở giữa mà người Việt gọi là “lưỡng long chầu mặt nguyệt”. Nhưng thật ra đó là hình tượng của Âm Dương và Thái cực. Điều này được xác định bởi nhà nghiên cứu Lý học Nguyễn Vũ Tuấn Anh, rằng đó là hình tượng thể hiện Âm Dương cân bằng, bởi hai rồng tượng là Âm và Dương, quả châu là Thái cực ở giữa thể hiện không có sự khinh trọng về một thế lực nào trong hai. Hơn nữa đều đặc biệt đặc trưng là chỉ có văn hóa Việt mới thể hiện nét đặc trưng lưỡng long tranh châu, với quả châu luôn là màu đỏ, đỏ rực, thể hiện tính dương của Thái Cực và quả châu với hình tướng đỏ rực với vầng lửa bao quanh là tượng của mặt trời đỏ, tượng theo lý Dịch là quẻ Ly, do vậy Thái cực đỏ thuộc Hỏa là biểu tượng văn minh phương Nam. Đó là điều khác biệt cơ bản của văn hóa Việt với Trung Hoa và chỉ có ở nền văn minh Văn Lang lúa nước rực rỡ 5000 năm, từ bờ Nam sông Dương Tử. Lưỡng Long tranh châu ở chùa Bối Khê. Lưỡng long tranh châu ở một chùa Thái Lan. (còn tiếp)
  11. Âm Dương Việt còn lưu dấu tại chùa Bối Khê ở miền Bắc.
  12. (tiếp theo) Lưỡng long tranh châu trên mái ở một chùa Malaysia. Trong phương pháp ứng dụng của Lý học Đông phương là Phong thủy, rồng là thể hiện của năng lượng tồn tại và vận động của tự nhiên, của môi trường trái đất, có tác động trực tiếp hay gián tiếp đến con người trong mối tương tác mang tính quy luật giữa con người đối với tự nhiên, gọi là Long mạch (mạch rồng). Đó là năng lượng là sức mạnh của vũ trụ ẩn tàng trong lòng đất và thể hiện ra bằng ngoại cảnh bên ngoài được gọi là Loan đầu. Như vậy Long và Loan là một cặp hình tượng Âm Dương, một cái miêu tả sức mạnh của hình tướng bên ngoài, một cái miêu tả năng lượng tiềm lực bên trong của trái đất. Và Long và Loan là một cách khác của hình tượng Chim – Rồng, Lạc – Hồng, hình tượng tổ mẫu và tổ phụ của Lạc Việt, cho thấy dấu ấn nguồn gốc văn hóa Việt trong phong thủy. II. RỒNG TRONG PHONG THỦY LẠC VIỆT Hình tượng rồng có hiệu quả tương tác mang tính khí tốt lành nên là một trong nhiều hình tượng được ứng dụng phổ biến trong phương pháp trấn yểm của phong thủy Lạc Việt nhằm kích hoạt sinh khí cát tường cầu tìm may mắn, lộc lợi phục vụ cho cuộc sống con người. II. 1. Chọn Hình Tượng Rồng Kim khí là loại rất nhạy bén khi kích hoạt khí, nhất là đồ đồng. Do vậy, hình tượng rồng bằng kỹ thuật chế tác đồng của người Việt luôn là vật khí phong thủy mang hiệu ứng cao nhất so với tranh vẽ, tranh thêu, tượng gỗ, tượng đá… Hình tượng rồng thời Lý Hình tượng rồng thời Lý Rồng thời Lý, vật khí phong thủy lý tưởng theo Phong thủy Lạc Việt. Tiêu chuẩn để đánh giá hình tượng rồng gọi là tốt phục vụ cho mục đích trấn yểm theo Phong thủy Lạc Việt là hình tượng đó không được phép mang tính sát khí, hung nộ khí hay ác khí. Mà hình thể rồng phải cân đối, nhẹ nhàng thanh thoát nhưng ẩn tàng sức mạnh cuồn cuộn bên trong, khí thế mãnh liệt nhưng không phẩn nộ, nhu mềm hòa nhã nhưng không kém khí oai nghi. Vì thế, con rồng thời Lý với nét uyển chuyển thanh tao, thanh thoát với đường cong Omega uốn lượn nhẹ nhàn, hiền hòa nhưng không kém vẽ oai nghiêm, nhu mềm nhưng ẩn tàng sức mạnh, những râu, lông chân, đám mây thể hiện như những ngọn lửa ẩn tàng tiềm lực, là hình tượng tiêu biểu cho vật khí phong thủy hình rồng. Như vậy những hình tượng rồng với hình tướng hung hãn, dữ dằn, lộ vẻ trấn áp, hung hiểm đều không là hình tượng tốt cho việc trấn yểm theo Phong thủy Lạc Việt. Hình tượng kiêng kị: 03 rồng và hình tướng hung hãn Chỉ có thể chọn hình tượng một rồng với trái châu trong miệng là tốt. Nếu là hai rồng thì trái châu phải ở giữa hai rồng, gọi lại lưỡng long tranh châu. Rất kiêng kỵ hình tượng ba rồng, vì là hình tượng không may mắn. Và những hình tượng rồng với thân thể uốn éo, xoắn thắt hay rối loạn đều không phải là hình tượng tốt đẹp cho việc kích hoạt tạo cát khí. Rồng là chi Thìn thuộc hành thổ trong ngũ hành, mang sắc vàng, vì vậy đồng khí màu vàng phù hợp cho việc thể hiện rồng – Thìn hành thổ. II. 2. Vị trí đặt hình tượng rồng và hiệu quả phong thủy Một phòng khách hay đại sảnh hoặc phòng làm việc của người đứng đầu cơ quan được thiết kế bố trí hình tượng rồng sẽ kích hoạt khí cát lành trong các mối quan hệ ngoại giao, tạo cơ hội thuận lợi cho việc tương kiến những quý nhân hỗ trợ hay hợp tác. Theo quan niệm Phong thủy Lạc Việt, nên đặt tranh phù điêu rồng hay tượng rồng ở bên trái, bên phải của đại sảnh hay phòng khách hay phòng làm việc của người lãnh đạo cao nhất của cơ quan hay là gia chủ của ngôi nhà. Bởi khi bố trí hình tượng rồng như vậy là cách thể hiện quyền uy của người đứng đầu và là điềm tốt lành trong các mối quan hệ ngoại giao, hay hợp tác, tránh tai tiếng thi phi. Nên đặt tranh phù điêu rồng phía tường đối diện người ngồi với đầu rồng quay sang một phía là sự trấn yểm thể hiện quyền uy, tạo những may mắn trong các quan hệ hay tạo lại mối liên hệ thuận lợi tốt đẹp với người cấp dưới, người làm công, nhân viên thuộc cấp. Rồng xoắn thắt là hình tượng xấu. Rồng xoắn thắt là hình tượng xấu. Kiêng kị rồng thân thể uốn xoắn Nhằm kích hoạt dương khí tạo một nguồn năng lượng tích cực cho vị trí nơi làm việc, một tượng hình rồng bằng đồng được đặt để trên bàn làm việc là một cách bố trí theo phong thủy, tạo hiệu quả tác động tăng cường tâm lý tín nhiệm hay quyền uy của người lãnh đạo được tốt hơn. II. 3. Vị trí kiêng kị Vì hình tượng của uy lực vũ trụ và với hình tướng hùng khí cho nên việc đặt hình tượng rồng sau lưng người ngồi là một điều kiêng kị, bởi sự tương tác vô hình gây hậu quả đáng lo ngại cho vấn đề quyền lực bị lấn áp hay khống chế một cách phi ý thức. Do vậy, theo quan niệm Phong thủy Lạc Việt, việc bố trí như thế là điều không tốt cho việc sử dụng lợi ích phong thủy vào mục đích tốt lành. Tất cả hình tường rồng từ xưa cũng như nay đều ở vị thế rồng chầu ra cổng mà không bao giờ có hình tượng rồng nhìn đối diện người ngồi, tức rồng chầu ngược vào chính diện của người chủ hay người lãnh đạo, bởi theo quan niệm học thuyết Âm dương ngũ hành thuộc nền văn hiến Việt 5000 năm huyền vĩ, nếu rồng ở vị thế nghịch này thì đây dấu hiệu gây bất lợi cho người phải ngồi đối diện với hình tượng ấy. Tp HCM, ngày 04/01/2012. Thiên Đồng ================================= Tham khảo: - Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại, tg Nguyễn Vũ Tuấn Anh, NXB Tổng Hợp TpHCM 2003 - Hà Đồ trong văn minh Lạc Việt, tg Nguyễn Vũ Tuấn Anh, NXB Tổng Hợp TpHCM 2007 - Tính minh triết trong tranh dân gian Việt Nam. - Phong thủy Lạc Việt, tg Nguyễn Vũ Tuấn Anh, lưu hành nội bộ. - Nhập môn chu dịch dư đoán học, tg Thiệu Vĩ Hoa, NXB Văn Hóa Thông Tin, 1996. - Các bài nghiên cứu ngôn ngữ Việt của tác giả Lãn Miên. - các trang web liên quan.
  13. Rồng trong văn hóa Việt & Ứng dụng trong Phong thủy Lạc Việt Thiên Đồng – Bùi Anh Tuấn Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông Phương Rồng, biểu tượng thiêng liêng, là linh ảnh được nhắc nhớ đến dòng tộc Rồng Tiên Lạc Hồng mà truyền thuyết Hồng Bàng Thị còn lưu lại, là biểu tượng của sức mạnh vũ trụ, sự huyền biến âm dương trong Lý học Đông phương áo bí thuộc nền văn hiến Việt 5000 huyền vĩ bên bờ Nam sông Dương Tử. I. RỒNG TRONG VĂN HÓA VIỆT I.1. Nguồn gốc Lạc Việt Theo truyền thuyết, Lạc Long Quân nói với Âu Cơ rằng: “Ta là dòng Rồng, nàng là dòng Tiên…” đấy là dấu ấn văn hóa phi vật thể đầu tiên ghi nhận Rồng là tổ phụ của dân Lạc Việt, một dấu ấn sống động và huyền bí. Cái nôi ngôn ngữ Việt là cơ sở cho mối liên hệ máu mủ chứng minh nơi “chôn nhao cắt rốn” của hình tượng Rồng là từ trong nôi văn hóa Việt với những âm Rồng = Lòng = Nòng = Long = Hồng = Dòng = Sông…cùng một nôi khái niệm. Do vậy chữ Hồng trong hai chữ Lạc Hồng là hình tượng của Rồng đi cùng một đôi với Chim (Lạc), là Tiên, nên câu “Long phụng hòa minh” để chúc hạnh phúc vợ chồng hòa hợp là âm bản của hình tượng của Rồng và Chim, có nguồn gốc từ văn minh Lạc Việt. Hình được trích từ trên trống đồng Sử ký Tư Mã Thiên, một pho ký sử đáng chú ý của Trung Hoa, đã không có một ghi nhận cụ thể nào cho hình tượng Rồng là biểu tượng của vương quyền, của vua từ thời Tần trở về trước. Khi Triệu Chính lên ngôi xưng đế, vào năm 247 trước Công nguyên,lấy hiệu là Thủy Hoàng Đế thì biểu tượng rồng hay hình ảnh rồng đại diện cho vua cũng không thấy đề cập đến như một sự kiện hay yếu tố chứng minh. Ngược lại, hình tượng rồng với mô típ nguyên thủy, thể hiện bằng ngôn ngữ hội họa cách điệu và tối giản, được thấy trên mặt trống đồng, vật khí biểu tượng của nền văn minh Văn Lang, văn hoá Lạc Việt với những ghi nhận niên đại sớm là khoản thể ký thứ V trước Công nguyên là hình tượng chim đi cùng một đôi với hình cá sấu, tức Lạc – Hồng, chim – rồng. Hai mũ chim rồng Mũ ông Táo thể hiện đầu rồng cùng mô típ của họa tiết trên trống đồng Một hình tượng khác được trích từ họa tiết trên trống đồng cho thấy thể hiên hai nhân vật đang đọc văn bản nào đó mà trên đầu hai nhân vật này như mộc ra hai đầu rất lớn hình chim và rồng. Mạch nối cho hình tượng rồng này không gián đoạn khi trong dân gian, cho đến ngày nay, còn lưu giữ mối dây liên hệ của nó khi hình tượng chiếc mũ ông Công ông Táo, một sản phẩm dùng trong lễ nghi cúng tế, được thể hiện đồng mô típ với đầu rồng trên trống đồng. Như vậy, rồng với hình ảnh khởi thủy sơ khai đã là sản phẩm của trí tuệ Việt tộc được thể hiện và ứng dụng từ lâu trong xã hội Hùng Vương mà tính phổ biến của nó dễ dàng tìm thấy ngay trên họa tiết hoa văn trống đồng thuộc nền văn minh Văn Lang, Bách Việt, với lối cách điệu tinh tế. Hình tượng chim rồng, biểu tượng hỷ sự mang dấu ấn Tiên Rồng - Lạc Hồng. I.2. Truyền thống và lưu dấu rồng Việt Tuy lịch sử có những giai đoạn thăng trầm làm gián đoạn hay mai một đi nét truyền thống Lạc Việt nhưng nó trổi dậy một cách tinh tấn và đặc sắc trong những giai đoạn an bình thịnh trị. Rồng thời Hùng Vương: với nguyên thủy là hình ảnh cá sấu và đi chung với hình chim tạo đủ cặp Lạc Hồng (Chim Rồng) Hình cá sấu và chim (rồng và chim) trên trống đồng. Rồng thời Lý: là một hình tượng hiền hòa với nét uốn lượn hình sin đẹp mắt, nhưng không kém phần dũng mãnh, con rồng thời Lý chứa đựng sự hoạt biến của nhu và cương. Rồng thời Lê: Hình thể khỏe mạnh, phần đầu to hơn, trong vẻ cứng cáp và dữ dằn. Rồng thời Nguyễn: Trông vẻ sắc cạnh với những vẫy, vi, mũi sư tử, răng nanh bén sắc, ẩn trong mây nhưng đầy vẻ chủ động và tự chủ. Điều đáng chú ý rằng rồng thời Lý với chiều dài lịch sử hơn 1000 năm được biết đến khá rỏ ràng nhờ vào những phát hiện khảo cổ trong thời gian khá gần đây. Tuy vậy điều lạ lùng chưa từng đề cập đến là khi quan sát những hình tượng rồng ở Lào, Thái Lan thì phát hiện các hình tượng đó đều có chung một mô típ rồng thời Lý! Đặc điểm nổi bật để nhận ra điều này là mỏm rồng có túm lông nhọn thể hiện như một sừng hay ngọn lửa, răng nanh vượt hàm trên và thân hình như thân rắn. Vấn đề đặt ra là nét văn hóa Việt bằng cách nào được lưu dấu ảnh hưởng đến những vùng lục địa và biển đảo như vậy để trở thành một nét truyền thống đặc sắc của các nước này khác hẳn rồng Trung Hoa khi mà trong quá khứ không hề có một sự đô hộ nào của Việt tộc như sự đô hộ ngàn năm của Trung Hoa trên đất Rồng Tiên? Rồng ở chùa Wat Phrasingh, Chiang Mai, Thailand. có cùng mô tip rồng thời Lý. Tượng rồng ở Thailand cùng mô típ rồng thời Lý Rồng ở Lào cùng mô típ rồng thời Lý. I. 3. Biểu tượng trong Lý học Quan niệm Lý học Đông phương cho rằng Rồng là biểu hiện của sự huyền biến không gian thời gian, là sức mạnh uyên áo của vũ trụ, là biểu tượng của hai thế lực Âm và Dương. Trên mái đình miễu, mái chùa của người Việt bao giờ cũng bắt gặp hình tượng quen thuộc lưu truyền âm thầm trong dân gian là hình tượng hai rồng và quả châu rực lửa ở giữa mà người Việt gọi là “lưỡng long chầu mặt nguyệt”. Nhưng thật ra đó là hình tượng của Âm Dương và Thái cực. Điều này được xác định bởi nhà nghiên cứu Lý học Nguyễn Vũ Tuấn Anh, rằng đó là hình tượng thể hiện Âm Dương cân bằng, bởi hai rồng tượng là Âm và Dương, quả châu là Thái cực ở giữa thể hiện không có sự khinh trọng về một thế lực nào trong hai. Hơn nữa đều đặc biệt đặc trưng là chỉ có văn hóa Việt mới thể hiện nét đặc trưng lưỡng long tranh châu, với quả châu luôn là màu đỏ, đỏ rực, thể hiện tính dương của Thái Cực và quả châu với hình tướng đỏ rực với vầng lửa bao quanh là tượng của mặt trời đỏ, tượng theo lý Dịch là quẻ Ly, do vậy Thái cực đỏ thuộc Hỏa là biểu tượng văn minh phương Nam. Đó là điều khác biệt cơ bản của văn hóa Việt với Trung Hoa và chỉ có ở nền văn minh Văn Lang lúa nước rực rỡ 5000 năm, từ bờ Nam sông Dương Tử. Lưỡng Long tranh châu ở chùa Bối Khê. Lưỡng long tranh châu ở một chùa Thái Lan. (còn tiếp)
  14. Đi tìm bản sắc văn hóa dân tộc qua thế giới biểu tượng TS. Nguyễn Văn Hậu Trường ĐHVH Hà Nội (ĐHVH)- Bàn về bản sắc Văn hoá dân tộc quả là một việc làm hết sức khó khăn. Biết bao nhiêu công trình và bút mực nhằm tập trung vào câu hỏi “bản sắc dân tộc là gì?”, nhưng cuộc hành trình truy tìm này vẫn còn tiếp tục. Không thể nói việc làm này là viển vông và không có thật. Bản sắc văn hoá dân tộc bao hàm những mặt được hình thành và gắn bó với dân tộc từ thưở xa xưa, các mặt này được duy trì theo quá trình của lịch sử. Đó là các kiểu quan hệ hay một kiểu lựa chọn riêng của một cộng đồng về một phương thức ứng xử nào đó, khiến cho mỗi dân tộc hiện ra với những nét độc đáo nhằm phân biệt với các dân tộc khác. Có thật nhiều cách trả lời khác nhau về bản sắc dân tộc, và mọi người cũng mặc nhiên công nhận rằng bản sắc dân tộc là cái có thật, nên rất nhiều công trình gắng công tìm hiểu. Nhưng truy tìm theo hướng nào và bằng cách nào là điều cần bàn đến. Bởi một lẽ ngay trong bản thân khái niệm văn hoá cho đến nay vẫn còn nhiều tranh cãi do đứng ở nhiều góc độ khoa học khác nhau để nghiên cứu. Song ở đây chúng ta không sa đà vào việc truy tìm một cách kiệt cùng về định nghĩa của văn hoá, vì càng đi sâu tìm hiểu khái niệm này thì càng thêm phức tạp. Tựu chung, xét về mặt biểu hiện, văn hoá là một hiện tượng xã hội mà không phải là hiện tượng tự nhiên, và nó thuộc về giá trị tinh thần. Theo nghĩa chung nhất, văn hoá được xem là toàn bộ những hoạt động sáng tạo của con người trong quá khứ cũng như trong hiện tại tạo thành những chuẩn mực - giá trị, thị hiếu và truyền thống, gọi chung là hệ giá trị - xã hội, một thành tố cơ bản làm nên bản sắc riêng của mỗi cộng đồng dân tộc. Hệ giá trị xã hội nào cũng đều nhằm vào sự thoả mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của con người, nó được biểu hiện trở thành các biểu tượng văn hoá - các khuôn mẫu và chuẩn mực văn hoá. Theo toàn thư quốc tế về phát triển văn hoá (International Thesaurus on Cultural Development) của UNESCO: “Văn hoá là một tập hợp các hệ thống biểu tượng, nó quy định thế ứng xử của con người và làm cho một số đông người có thể giao tiếp với nhau, liên kết họ lại thành một cộng đồng riêng biệt” [1]. Sự hình thành và phát triển văn hoá luôn dựa vào năng lực của con người trong việc nhận thức và sáng tạo ra các loại hình ngôn ngữ kí hiệu - biểu tượng ( Symbol). Bởi lẽ, biểu tượng luôn chứa đựng trong nó những giá trị, mà đằng sau các giá trị thường ẩn dấu một nhu cầu nào đó của con người. Trong mọi nhu cầu của đời sống xã hội thì nhu cầu văn hoá là nhu cầu cao nhất - nhu cầu giải trí và sáng tạo ra các tác phẩm văn hoá. Sự đa dạng của văn hoá biểu hiện tính phong phú và tính nhiều vẻ của thế giới biểu tượng. Khi nhấn mạnh đặc trưng cơ bản của văn hoá là mang tính biểu tượng (Symbolic) thì đó cũng là lý do khiến phải xem xét kĩ hơn về loại hình ngôn ngữ - kí hiệu tượng trưng này. Biểu tượng là gì? Để tạm hiểu, ta có thể gọi nó là cái được dùng để biểu thị một cái gì đó. Nó là hình ảnh tượng trưng được phô bày ra khiến người ta cảm nhận một giá trị trừu suất tức là thế giới của ý nghĩa, cũng là thế giới của văn hoá. Từ điển Petit Larousse cho rằng: “Biểu tượng là dấu hiệu hình ảnh, con vật sống động hay đồ vật biểu hiện một điều trừu tượng, nó là hình ảnh cụ thể của một sự vật hay một điều gì đó”. [2] C.G.Jung - nhà phân tâm học người Thuỵ Sỹ cũng quan niệm về biểu tượng như sau: “Biểu tượng là một danh từ, một tên gọi hay một đồ vật, ngay cả khi là quen thuộc ở trong đời sống hàng ngày, nhưng vẫn chứa đựng những mối liên hệ về mặt ý nghĩa, bổ sung vào cái ý nghĩa ước định hiển nhiên và trực tiếp của chúng”. [3] Trong Dịch thuyết cương lĩnh của Chu Hy, nhà triết học đời Tống cũng giải thích: “Tượng là lấy hình này để tỏ nghĩa kia” [4] , tức là dùng cái tri giác để nói lên cái khó có thể tri giác, hay dùng cái tĩnh để nói cái động, dùng cái cụ thể để nói cái trừu tượng, dùng cái hữu hình để nói cái vô hình v.v… Biểu tượng là loại hình “kí hiệu” rất cổ xưa ra đời từ buổi bình minh của lịch sử hình thành nhân loại. Biểu tượng được coi như là công cụ của tư duy trong tiến trình nhận thức của con người. Nó là con đẻ của sự liên tưởng và tưởng tượng, giúp cho con người khám phá ra thế giới đầy ý nghĩa. Nhiều nhà nhân học văn hoá còn cho rằng “đơn vị cơ bản” của văn hoá chính là biểu tượng - vật hàm chứa thông tin, và là hạt nhân “di truyền xã hội” đầu tiên của loài người. Thế giới biểu tượng là thế giới của ý nghĩa. Quá trình sáng tạo ra hệ thống các biểu tượng cũng là quá trình “khách thể hoá” những “năng lực bản chất người” để tạo nên thế giới văn hoá. Có thể xem văn hoá là toàn bộ thế giới thông tin, không kể di truyền sinh vật, là biện pháp nhằm tổ chức, bảo vệ và truyền bá thông tin. Như vậy, biểu tượng chính là hình thức ngoại hiện của văn hoá, còn hệ thống ý nghĩa nằm bên trong mỗi biểu tượng là nội dung cơ bản của nó. Văn hoá được coi như là một “văn bản” các hệ thống biểu tượng. Biểu tượng bao gồm mọi dạng thức hình ảnh tác động chủ yếu đến thính giác và thị giác gây cho con người những rung động, những cảm xúc về chúng theo nhiều mức độ khác nhau. Biểu tượng có mặt hầu hết trong các mặt biểu hiện của đời sống từ lĩnh vực tôn giáo, nghệ thuật, chính trị, văn hoá - xã hội… cho đến cả trong giấc mơ của con người. Thực chất cuộc sống ngoài những nhận thức bằng tư duy lý tính mang tính khoa học thông qua những hệ thống khái niệm và phạm trù v.v… thì còn biết bao điều không thể hiểu biết trực tiếp được, nên người ta đã dùng một “vật môi giới” làm trung gian nhằm để hiểu được những điều khó có thể tri giác, ta gọi đó là biểu tượng như: “Rồng” biểu tượng cho quyền uy tối cao; “Rùa” biểu tượng cho sự trường tồn, phúc thọ; “Bồ câu” biểu tượng cho hoà bình; “Hoa sen” biểu tượng cho sự thanh cao; “Cái bắt tay” biểu tượng cho sự thân thiện v.v… Biểu tượng là phương thức nhận thức của con người, nó biểu thị toàn bộ tâm cách cũng như tính cách của một dân tộc, tính phong phú của biểu tượng cũng là sự tương ứng với tính đa dạng của cuộc sống, mà con người cần truy tìm và nắm bắt lấy nó, nhằm thoả mãn mọi nhu cầu của con ngưới trong đời sống xã hội. Thế giới biểu tượng là một vùng mù đầy ý nghĩa mà con người là một động vật có năng lực biểu trưng và biết sử dụng các biểu tượng (Homo - Symbolius). Biểu tượng sống tiềm ẩn từ cõi vô thức, mà sự sáng tạo ra các biểu tượng lại ở thế giới hữu thức, tức nó ra đời trong lòng đời sống của con người. Do đó biểu tượng có những chức năng mà qua đó con người có thể khám phá cũng như nhận thức sâu sắc cuộc sống của mình, từ đó tạo ra những biến đổi rất lớn trong sự phát triển toàn diện về nhân cách của mỗi con người, nói khác biểu tượng có chức năng chung nhất là điều chỉnh và định hướng trở lại đời sống xã hội. Nó có vai trò làm động lực thúc đẩy cho xã hội phát triển. Đó cũng là tính văn hoá của biểu tượng. Về chức năng của biểu tượng như đã biết, chức năng đầu tiên của nó là chức năng khám phá ra những giá trị, tức tri giác những điều khó có thể tri giác bằng khái niệm. Đó là sự truy tìm của trí tuệ vào cõi vô minh, nhằm tìm cách biểu hiện ra những ý nghĩa nào đó mà lý trí khó nắm bắt được. Biểu tượng mở rộng trường ý thức trong mọi lĩnh vực, điều mà không thể xảy ra được nếu như đòi hỏi ở biểu tượng một sự chính xác, cụ thể, theo kiểu tư duy logic - khoa học. Vì khoa học là sự biểu hiện bằng các kí hiệu mang tính chính xác như dấu hiệu của toán học. Còn biểu tượng không mang tính cụ thể, chính xác mà nó là cái trừu tượng, đa nghĩa như các biểu tượng Âm - Dương trong Kinh Dịch: Vạch liền (-) là tượng Dương, còn hiểu là cha, mặt trời, lửa, ngày, hoà bình v.v…; Vạch đứt (--) là tượng Âm còn hiểu là mẹ, mặt trăng, nước, đêm, chiến tranh v.v… Ngoài ra, biểu tượng còn có chức năng thay thế, nhằm trả lời những câu hỏi hay thoả mãn một ước vọng nào đó của con người, và chức năng siêu nghiệm để tiếp cận các yếu tố thuộc lĩnh vực tâm linh. Chức năng giao tiếp nhằm giúp cho con người liên kết lại với nhau. Song quan trọng hơn cả là chức năng liên kết xã hội và chức năng giáo dục của biểu tượng. Chức năng liên kết xã hội của biểu tượng thể hiện tính liên kết của cộng đồng. Nó làm cho người ta hoà đồng với môi trường xã hội và nhóm như: biểu tượng “Rồng”, “Tiên” khiến chúng ta nhớ về cội nguồn dân tộc, biểu tượng “Cờ Tổ quốc” cho ta nghĩ mình là người dân đất Việt. Biểu tượng trở thành ngôn ngữ chung của toàn nhân loại, nó biểu thị được những giá trị mang tính chất toàn cầu như những biểu tượng “Hoà bình”, “Tự do” v.v… Ngoài ra, biểu tượng còn có khả năng phát ra những tín hiệu và lập khắc sau đó nó trở thành mệnh lệnh, thúc đẩy mọi người hành động theo mệnh lệnh của trái tim một cách tự nguyện, tự giác mà không cần một sự áp đặt nào của quyền lực. Đó chính là chức năng giáo dục của biểu tượng. Về vai trò của biểu tượng thì nó là nhân tố gợi mở cho ta phát hiện và sáng tạo ra các giá trị mới - giá trị văn hoá. Bởi biểu tượng luôn ở vị trí trung tâm của đời sống văn hoá. Nó là hạt nhân tâm lý cho sự tưởng tượng, làm bộc lộ ra những bí mật của cõi vô thức và trở thành động lực cho sự sáng tạo của thế giới hữu thức… Biểu tượng thực sự vén mở cho ta thấy chân trời của trí tuệ bằng sự cảm nhận những giá trị đúng đắn của cuộc sống. Sau cùng, biểu tượng còn hình thành nên các “khuôn mẫu văn hoá” - khuôn mẫu hành vi trong mọi ứng xử của con người. Các khuôn mẫu này được lắp đi lắp lại nhiều lần trong đời sống xã hội, theo chiều dài lịch sử đã trở thành nếp sống, lối sống, phong tục, tập quán của mỗi cộng đồng dân tộc khác nhau. Thực chất, biểu tượng đã thể hiện được sắc thái riêng của mỗi nền văn hoá và đã tạo thành “cái gen” di truyền của nền văn hoá đó, và biểu tượng đã trở thành “khuôn mẫu gốc” (Archetype) và chuẩn mực văn hoá của mỗi cộng đồng. Sự tìm hiểu biểu tượng cũng là sự nỗ lực của con người muốn vươn tới sự “giải mã” các biểu tượng. Biết bao nhiêu giá trị của biểu tượng đang còn chìm khuất trong huyền thoại, trong nếp sống, cả trong kho tàng văn học - nghệ thuật và lễ hội truyền thống chưa được khám phá. Nói khác đi, các giá trị chuẩn mực xã hội được đúc kết và được biểu hiện trở thành các biểu tượng và đến lượt nó biểu tượng là sự thị hiện ra bên ngoài các giá trị xã hội. Có thể hiểu biểu tượng là hình thức biểu đạt các giá trị, ý nghĩa mà con người đã tìm kiếm và chọn lựa theo một kiểu ứng xử nào đó, một quan hệ nào đó với tự nhiên và xã hội, và các giá trị đó được biểu hiện ra bằng các biểu tượng. Nhận thức các hệ thống biểu tượng và “giải mã” nó để hiểu về những giá trị, những tư tưởng được chìm ẩn trong thế giới của biểu tượng. Đó là một cách thức để chấp nhận, để khám phá ra được tâm lý, tính cách cũng như tinh thần của một dân tộc. Và đó cũng là phương thức để nhận biết về “bản sắc dân tộc”. Để làm rõ quan hệ này, ta có thể tìm hiểu thêm về tính biểu tượng trong huyền thoại truyền thống của mỗi dân tộc. Huyền thoại của nhiều cộng đồng người được bảo lưu cho đến nay thường bị coi là hoang đường và thần thoại, nếu so với cái hiện đại. Nhưng nếu so sánh với quá khứ của lịch sử nhân loại thì chúng ra đời ở một thời điểm đã khá muộn mằn, tức trình độ tư duy và nhận thức con người đã được phát triển. Con người có thể ghi lại những suy ngẫm của mình về vũ trụ, về thế gian mình đang sống và huyền thoại ra đời như một sản phẩm tinh thần thông qua sự cảm thụ, sự nhận thức của con người về hiện thực khách quan và được phản ánh vào trong huyền thoại. Do đó những chất liệu làm nên huyền thoại là có thật chứ không huyền. Có chăng phương pháp sáng tác huyền thoại là phương pháp khái quát hoá, mô hình hoá bằng một loại hình ảnh tượng trưng gọi là biểu tượng và chính các biểu tượng đã chứa đựng trong nó những giá trị, tư tưởng mà cả cộng đồng dân tộc gửi gắm vào đó như biểu tượng mặt trời, một biểu tượng được suy tôn ở hầu hết các dân tộc Đông Nam Á, mà phương Đông là phương của mặt trời mọc. Nó nói lên ý nghĩa là ánh sáng đem lại sự sinh tồn cho vạn vật. Hay biểu tượng “Con Hồng - Cháu Lạc” đã trở thành biểu tượng về nguồn gốc của dân tộc Việt. Ở đây, Hồng Bàng có nghĩa là “chim ngỗng trời lớn”, và như vậy cũng có thể hiểu thêm về một dân tộc được hình thành bởi nền văn hoá sông nước và trở thành nền văn minh lúa nước sau này. Vậy “Hồng Bàng” ở đây không chỉ định một dòng họ mà là một đặc trưng của một thị tộc được dùng để định tên tộc ấy và nó đã trở thành một biểu tượng chung của cả một cộng đồng - dân tộc. Từ những phân tích trên đây, nếu giả định có thể chấp nhận là biểu tượng ra đời trước hết từ nhu cầu sở thuộc xã hội và tính cấu kết cộng đồng. Chúng ra đời trên cơ sở của môi trường sinh tồn tự nhiên mà chỉ các thành viên cộng đồng đó mới cảm nhận được theo cách nghĩ riêng và cách lựa chọn của mình để biến nó thành giá trị tinh thần của cả cộng đồng, như “Rồng” và “Chim” là biểu tượng của tính cộng đồng Bách Việt. “Rồng” và “Chim” đẻ ra trứng là biểu tượng của sự nảy nở, sự phồn sinh, tràn đầy viên mãn. Biểu tượng đã được xác định bằng chính lý do ra đời của nó. Biểu tượng là dấu hiệu biểu hiện ra bên ngoài để nhận biết sở thuộc cộng đồng. Chính biểu tượng đã tồn tại trong lòng cộng đồng và mỗi thành viên trong cộng đồng đó. Biểu tượng buộc người ta thừa nhận nó nếu như người ta muốn tồn tại và mỗi thành viên sẽ là người tự nguyện chấp nhận nó, bởi trong nó luôn chứa đựng những giá trị và nó điễn đạt được những điều mong muốn cũng như những khát vọng của mọi thành viên trong cộng đồng. Ta thấy biểu tượng có một giá trị đối với nhóm, đối với cộng đồng và xã hội, nó có quyền năng tập hợp hay đồng tình về một giá trị, một tư tưởng của cả cộng đồng. Biểu tượng luôn mang xã hội tính vì nó có sức mạnh liên kết xã hội như khi nói: “Con Hồng - cháu Lạc”, hay “Tóc dài - răng đen” thì đó là sự kêu gọi ý thức cộng đồng. Có thể nói bản sắc văn hóa dân tộc chính là sự thể hiện của tâm lý dân tộc, được biểu hiện ra ở lối sống, nếp sống, ở phong tục và tập quán, ở sự ưa thích, cách suy nghĩ và ở cả thang bảng giá trị xã hội, bao gồm cả sở trường và sở đoản. Tất cả cùng hiện ra những nét độc đáo, đặc sắc nhằm phân biệt giữa dân tộc này với dân tộc khác. Bản sắc văn hóa dân tộc là sự biểu hiện về bản lĩnh sáng tạo của mỗi dân tộc. Nó được kết tinh thành những biểu tượng văn hóa và thông qua các hệ thống biểu tượng, ta có thể hiểu được tính cách của dân tộc đó. Để tìm bản sắc dân tộc Việt Nam ta có thể tìm thấy một vài biểu hiện của những giá trị truyền thống thông qua các biểu tượng văn hóa cụ thể như: Trống đồng, Cồng, Chiêng, Rượu cần, Trầu cau v.v… Tất cả biểu hiện này đã nói lên một nền văn hóa Nam Á bản địa. Và các biểu tượng khác thuộc về văn hóa ứng xử như: “Một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ”, “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”, “Tối lửa tắt đèn có nhau”, “Bán anh em xa mua láng giềng gần” hay “Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao” v.v… Ở đây nội dung của chúng đã thể hiện được tính cộng đồng của cả dân tộc. Qua một số ví dụ trên, ta nhận thấy các hệ thống biểu tượng văn hóa - dân tộc đã hàm chứa trong lòng nó những giá trị tư tưởng hết sức sâu sắc và đầy hàm súc, nó thể hiện được tâm lý dân tộc trong quá trình chọn lựa một kiểu ứng xử, một kiểu quan hệ với nhau trong đời sống văn hóa - xã hội. Từ đó, ta có thể hiểu thêm phần nào về bản sắc văn hóa cổ truyền Việt Nam được định hình ở một nền văn minh lúa nước và một nền văn hóa làng xã. Để có thể nắm bắt một cách đầy đủ và chuẩn xác về bản sắc của một nền văn hóa nói chung cũng như bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam nói riêng, chúng ta không chỉ thông qua một vài biểu tượng đơn lẻ mà có thể kết luận ngay điều đó, mà còn phải đi sâu nghiên cứu một cách nghiêm túc toàn bộ các hệ thống biểu tượng truyền thống từ trong các huyền thoại, lễ hội, văn hóa và nghệ thuật dân gian cho đến các khuôn mẫu ứng xử v.v… Có như vậy, mới có thể khái quát một cách chính xác về bản sắc văn hoá dân tộc. Cuộc sống luôn thay đổi, biểu tượng cũng có những đổi thay, nhưng nếu xác định kiểu lựa chọn về những giá trị nào đó, thông qua hệ thống biểu tượng của cả cộng đồng, ta sẽ nhận ra sự khác biệt về mặt tâm cách cũng như tính cách của một dân tộc. Chính sự khác nhau này đã làm nên sự đặc sắc của mỗi nền văn hóa và đó cũng chính là sự thể hiện bản sắc riêng của mỗi dân tộc. Có thể nói, muốn tìm được bản sắc văn hóa dân tộc một cách chính xác thì cần phải tìm thông qua các hệ thống biểu tượng có trong lòng mỗi dân tộc. Tài liệu tham khảo Bộ Văn hóa thông tin (1972) “Mấy vấn đề văn hóa và phát triển ở Việt Nam hiện nay”, NXB Hà Nội, trang 164. Đoàn Văn Chúc (1997) “Văn hóa học”, Viện Văn hóa, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội, trang 78. Jean Chevalier, Alain Gheerbran (1997) “Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới”, NXB Đà Nẵng, Trường Viết văn Nguyễn Du, Hà Nội, trang XXIX. Đoàn Văn Chúc (1997) “Xã hội học Văn hóa”, Viện Văn hóa, NXB Văn hóa thông tin, trang 215.
  15. Tài năng! http-~~-//www.youtube.com/watch?v=S0OKiinF9uA&feature=related
  16. Thiếu Thiên Đồng nữa nè! Hic
  17. Sai lầm của lối tư duy bây giờ là phát triển não bằng mọi phương tiện, bằng mọi chất hóa họa, chất kích thích. Phát triễn não chẳng khác nào là phương thức tra tấn não, cưỡng áp não, cưỡng ép tâm thần, tinh thần con người, đưa con người vào sự tự kỷ từ ngay trong tiềm thức. Cũng như hiện nay, các sách phương tây và ta bắt chước theo dạy người trẻ làm giầu và thăng tiến đều cùng một chủ trương "Hãy nói như người thành đạt, ăn mặc như người thành đạt, ứng xử như người thành đạt...bạn sẽ là người thành đạt". Thật là nguy hại hết sức! Thiên Đồng
  18. Theo Lý học Lạc Việt, nếu âm dương không được điều hòa thì xã hội sẽ bất ổn, do vậy Đạo Mẫu với sự kiện triển lãm như trên cho thấy sự khởi sắc cho một giá trị văn hóa, là dương tinh thần được chăm sóc. Có thể nói lần đầu tiên một hệ thống tín ngưỡng được đầu tư đem ra triển lãm và phổ biến.
  19. Hình tượng rồng lý tưởng theo quan niệm Phong thủy Lạc Việt
  20. LẠC VIỆT TRÁNG (CHOANG), ZHUANG, NAM TRUNG QUỐC. Tác giả Nguyễn Xuân Quang đứng trước bảng hiệu Làng Tráng Zhuang trong Trung Tâm Văn Hóa Sắc Tộc Quảng Tây tại Nam Ninh. (ảnh Michelle Mai Nguyễn). Như chúng ta, Tráng Việt Zhuang là một thứ Lạc Việt trong Bách Việt, Người Mặt Trời, như đã thấy họ thờ Mặt Trời còn vẽ lại trên vách đá Hoa Sơn, Quảng Tây cách đây trên dưới 2.700 năm (Đạo Mặt Trời Của Bách Việt, bacsinguyenxuanquang.wordpress.com). Cảnh Tế Lễ mặt trời, thờ mặt thời của Lạc Việt Tráng Zhuang vẽ trên vách đá Hoa Sơn, Quảng Tây (ảnh của tác giả). Vì thế hiển nhiên họ có văn hóa Lạc Việt ngành Thần Nông Lạc Long Quân như nhánh Lạc Việt Việt Nam. Họ cũng như nhánh Lạc Việt Việt Nam nhận mình là con cháu của Rồng. Bước vào một làng Tráng Zhuang thường thấy các trụ cổng làng thờ Rồng: Trụ cổng làng thờ thần Rồng, thần tổ của người Tráng Zhuang tại Làng Tráng Zhuang (ảnh của tác giả). Lưu ý trụ tròn mang âm tính (khác với trụ vuông có góc cạnh mang dương tính) biểu tượng của ngành nòng nước giống như ta đã thấy ở Đền Động Đình thờ Long Vương, ông ngoại của Lạc Long Quân ở hồ Động Đình (xem Hồ Động Đình). Giống như Việt Nam, văn hóa của họ cũng có cốt lõi dựa trên lưỡng hợp Chim-Rắn, Tiên Rồng. Hai vị thần tổ của họ là một vị thần Chim và một vị Thần Rồng: Thần tổ đầu chim ở Làng Tráng Zhuang (ảnh của tác giả). Lưu ý Thần tổ chim đầu có sừng. Ta đã biết chim sừng (hornbill) mỏ cắt, chim khướng, chim Việt là chim biểu của thần mặt trời Viêm Đế họ Khương (Sừng), thần tổ của ngành Nọc mặt trời Viêm Việt. Quanh cổ thần có vành sóng nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) mang nghĩa dương, lửa, mặt trời. Tấm che ‘hạ bộ’ hình cờ nọc mũi tên có các tua viền hình sóng lưỡi lửa. Tay cầm kiếm nhọn, thẳng biểu tượng cho nọc, dương, mặt trời nọc thái dương. Bao quanh người có những ngọn lửa… Vị thần chim sừng này là hình bóng của thần mặt trời Viêm Đế. Mẹ Tổ Âu Cơ của chúng ta mang hình ảnh chim Tiên thuộc ngành chim Sừng Mỏ Cắt, Chim Việt thần mặt trời Viêm Đế. Ngành rắn, nước, mặt trời âm (theo duy dương) hay không gian (theo duy âm) ứng với Thần Nông thấy rõ qua vị thần tổ đầu rồng: Thần tổ đầu rồng (ảnh của tác giả). Lưu ý thần tổ rồng có sừng là thần tổ của ngành Nòng Thần Nông. Rồng là dạng thần thoại hóa của rắn sừng (Rắn Việt ), theo duy âm là biểu tượng cho Thần Nông không gian. Viền trên áo có hình sóng nước. Tấm che ‘hạ bộ’ cũng có viền tua sóng nước. hai tay cầm kiếm đầu cong vòng cung mang âm tính biểu tượng cho không gian. Vì là thần âm, nước nên thần hai tay cầm hai cây kiếm. Số 2 là số chẵn, số âm trong khi đó vị thần Chim ngành lửa, dương chỉ cầm có một cây kiếm thẳng. Số 1 là số lẻ, số dương. Dưới chân có hình sóng cuộn bạc đầu… Đây là hình bóng của Thần Nông không gian của ngành Rắn, Rồng. Lạc Long Quân thế gian thuộc ngành nòng Thần Nông không gian này. Rõ như ban ngày Tráng Zhuang có hai vị thần tổ chim-rắn, Tiên-Rồng giống hệt Việt Nam chúng ta. Việt Nam có một gốc Lạc Việt. Lạc Việt Tráng Zhuang ruột thịt với gốc Lạc Việt Việt Nam. Hiển nhiên văn hóa Tráng Zhuang có cốt lõi là Vũ Trụ Tạo Sinh, Vũ Trụ giáo dựa trên nguyên lý lưỡng hợp Chim-Rắn, Tiên Rồng như văn hóa Việt Nam. Họ cũng có ngôi nhà thờ phượng ngày nay gọi là nhà cộng đồng giống như nhà Lang Mường, nhà đình Việt Nam: Nhà cộng đồng kiểu nhà sàn Tam Thế (ảnh của tác giả). Những ngôi nhà cộng đồng, nhà hội kiểu nhà sàn này giống hệt nhà làng, nhà đình của Việt Nam, ngày nay dùng làm nơi hội họp, gặp gỡ của giới trẻ. Lưu ý mái cũng có đầu đao nhưng ở giữa nóc nhà có một kiến trúc hình thuyền cho thấy rõ họ thuộc đại tộc nước Rồng Lạc Long Quân. Họ còn giữ được truyền thống cổ không như các đình làng dòng Lạc Long Quân của chúng ta hiện nay trên nóc bây giờ toàn thấy hình rồng kiểu rồng long Trung Hoa. Người Lạc Việt Tráng Zhuang ruột thịt với nhánh Lạc Việt Việt Nam nên họ cũng có trống đồng thuộc đại tộc trống đồng nòng nọc, âm dương Đông Sơn. Hình trống đồng còn thấy vẽ trên vách đá Hoa Sơn, Quảng Tây có tuổi cùng thời với trống đồng âm dương Ngọc Lũ I. Hình trống đồng vẽ trên vách đá Hoa Sơn, Quảng Tây (Đạo Thờ Mặt Trời Của Bách Việt, bacsinguyenxuanquang.wordpress.com). Trống đồng là tộc biểu, tộc bảo của người Tráng Zhuang (hình chụp tại Làng Tráng Zhuang). Trống đồng Tráng Zhuang thuộc loại trống đồng tượng Nước Nguyễn Xuân Quang IV tức trống chệt Heger IV hình cái âu hay nồi úp thuộc đại tộc mặt trời Nước Lạc Long Quân. Trống đồng tượng Nước Tráng Zhuang chỉ là một tộc trong đại tộc trống đồng nòng nọc, âm dương Đông Sơn có trống biểu là trống Đông Sơn hình Cây Nấm Vũ Trụ Nguyễn Xuân Quang VI hay Heger I (xem Cơ Thể Trống Đồng). Trung Quốc hiện nay dốc hết toàn lực ra quảng bá trống đồng Tráng Zhuang nói riêng, trống Nam Trung Hoa nói chung để lôi cuốn du khách và cố tình nói cho thế giới là văn hóa trống đồng phát gốc từ Vân Nam (họ cho là trống Vạn Gia Bá ở Chử Hùng là trống cổ nhất) rồi truyền qua Việt Nam (sic). Họ cố tình chiếm đoạt văn hóa đại tộc Đông Sơn của Việt Nam để dễ bề đồng hóa Việt Nam về mặt văn hóa. Khắp Nam Trung Hoa nhất là ở Nam Ninh, thủ đô của người Tráng Zhuang, chỗ nào cũng thấy những điêu khắc, kiến trúc về trống đồng đồ sộ. Đặc biệt nhất là Bảo Tàng Viện Sắc Tộc Quảng Tây, Nam Ninh xây theo hình trống đồng. Bảo Tàng Viện Sắc Tộc Quảng Tây, Nam Ninh Lưu ý tên Bảo Tàng Viện được viết bằng chữ ‘quốc ngữ’ ABC Tráng Zhuang ở dưới chữ Hán giống như Việt Nam ngày nay người Tráng Zhuang dùng chữ Quốc ngữ ABC. Tráng Zhuang là Lạc Việt có gốc hay ruột thịt với Tai (thái) vì thế ngôn ngữ Tráng Zhuang ruột thịt với Tầy Thái. Họ có một thứ chữ tượng hình cổ một ngàn năm dựa trên Hán ngữ (một thứ chữ ‘nôm’ Tráng Zhuang) và hiện nay chữ viết chính thức được viết bằng mẫu tự ABC (giống như Việt Nam ngày nay dùng chữ Quốc ngữ). Ta đã biết trống đồng nguyên khởi là trống biểu của Vũ Trụ giáo là họ biễu, quốc biểu, tộc biểu (như thấy qua các trống Quảng Xương, Hòa Bình, Phú Xuyên, Trống Miếu Môn I…) về sau ở các trống muộn thường có tượng cóc/ếch gọi là trống ếch trống mưa, mang khuôn mặt thờ sấm mưa nổi trội lên làm lu mờ đi ý nghĩa biểu tượng nguyên thủy của trống. Các trống Nam Trung Hoa và các quốc gia khác như Lào, Campuchia, Thái Lan… gọi trống đồng là trống ếch trống mưa. Ở tộc Tráng Zhuang cũng vậy, họ coi trống đồng là trống biểu tượng cho sấm, mưa. Trống tiêu biểu mà họ hãnh diện nhất là Trống Đại Lôi (Great Thunder Drum). Thờ trống sấm mưa nên họ thờ thần sấm mưa: Miếu thờ Thần Sấm qua biểu tượng ‘đĩa sấm’ Lửa-Nước Càn-Khôn vũ trụ giao hòa (ảnh của tác giả). Trang phục cũng thấy có những nét giống trang phục cổ truyền ViệtNam rang phục nam nữ của một tộc Tráng Zhuang (ảnh của tác giả chụp tại Bảo Tàng Viện Sắc Tộc Quảng Tây, Nam Ninh). Đa số các chi tộc Tráng Zhuang mặc trang phục mầu đen (rõ nhất là chi tộcNapo). Mầu đen là mầu của nước thái âm của tộc Nước, mặt trời Nước ứng với Rắn (Rồng) Lạc Long Quân. Tộc nước Lạc Việt nhuộm răng đen là vậy. Lưu ý khăn đội đầu của người nam mang hình ảnh khăn đóng của Việt Namvà khăn trùm đầu của người nữ mang hình ảnh chiếc khăn vuông đen cổ truyền của phụ nữ Việt Nam. Họ cũng có tục ném còn (ném một trái cầu tròn qua lỗ của một đĩa tròn) giống như một vài sắc tộc ở miền Bắc ViệtNam. Ném còn (ảnh của tác giả). Ném còn, tung còn là trò chơi nòng nọc, âm dương. Quả cầu tròn và đĩa tròn mang hình ảnh chữ viết nòng nọc vòng tròn-que là chữ chấm nọc nguyên tạo (.) và chữ nòng vòng tròn (O). Chữ chấm nọc dương biểu tượng cho nọc, dương sinh tạo, bộ phận sinh dục nam nguyên tạo. Vòng tròn có lỗ là chữ nòng O có một nghĩa là bột phận sinh dục nữ nguyên tạo. Ném trái còn lọt vào vòng tròn để cho nòng nọc, âm dương giao hòa. Trong lễ cưới một vài sắc tộc ở miền Bắc Việt Nam (trong đó có người Mường?), chú rể cầm quả cầu, cô dâu cầm một cái vòng tròn có dán giấy kín biểu tượng cho màng trinh, họ đứng cách nhau một khoảng xa về phía hai họ. Chú rể phải ném cho tới khi quả cầu lọt vào được vòng tròn chọc thủng tờ giấy màng trinh mới chính thức trở thành người chồng. Trò chơi nòng nọc, âm dương giao hòa này là một nét của cốt lỗi văn hóa lưỡng hợp Chim-Rắn, Tiên Rồng. Vân vân… nguồn: http://bacsinguyenxu...06/img_3467.jpg
  21. (tiếp theo) http-~~-//www.youtube.com/watch?v=qBdh3bRHbAo&feature=related VanHoaNBLV với Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích đã được Viet Roots cho xem một số cổ vật Lương Chữ và cuộc khảo sát sơ khởi này được thực hiện vào ngày 22 tháng 07 năm 2011 tại Thành phố Santa Ana, Southern California, Hoa Kỳ. "Kinh Dương Vương cai trị nước Xích Quỷ truyền đến đời Hùng Vương lập nước Văn Lang với bờ cõi rộng lớn Đông giáp Nam Hải, Tây đến Ba Thục, Bắc đến Động Đình Hồ, Nam đến nước Hồ Tôn Tinh (Chiêm Thành) chia nước làm 15 bộ..." Câu chuyện nói trên tưởng như huyền thoại được ghi trong sách Dã sử Lĩnh Nam Chích Quái của Trần Thế Pháp (1370-1400) bỗng nhiên được minh chứng bằng cổ vật thời Đồ Đá Mới, được ông Shi Xingeng đào được ở làng Lương Chữ (Liangzchu), Chiết Giang vào năm 1936. Từ sự khai quật này các học giả Hoa Kỳ và Trung Hoa đã gọi tên là Văn Hóa Lương Chữ. Điều lạ lùng là các cổ vật Lương Chữ đã trải rộng khắp Miền Gió Mùa, gắn liền với Văn Minh Luá Nước và chăn nuôi gia súc là đất cũ của nước Cổ Việt (Bách Việt) tương ứng với việc Sử gia Tư Mã Thiên (145 năm trước Công Nguyên) mô tả "Năm Tân Mão (1109 trước Công Nguyên) đất Việt là Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Châu, Nam Hải, Nhật Nam đều là phần đất của dân Việt xâm mình, cắt tóc để tránh giao long làm hại..." Về Văn Minh Lúa Nước, lý thuyết của Tiến sĩ Madeleine Colani khai quật thóc hóa thạch ở Hòa Bình Việt Nam từ năm 1920 đến 1927 nói rằng nền Văn Minh Hòa Bình có từ hàng ngàn năm trước Công Nguyên. Lý thuyết của Colani tiếp đó được Tiến sĩ Solheim II của Đại Học Hawaii của Hoa Kỳ xác nhận năm 1971 là Văn Minh Hòa Bình có từ 15 ngàn năm trước Công Nguyên; hai nền Văn Hóa Long Sơn (Longshan) và Ngưỡng Thiều (Yangshao) đều có gốc ở Văn Hóa Hòa Bình. Văn minh Lương Chữ(3400-2250 BC) Giai đoạn nền văn minh Bách Việt thời vương quốc Xích Quỷ chuyển giao sang thời vương quốc Văn Lang nguồn: http://hoangsa.org/
  22. Vương quốc Xích Quỷ của dân Bách Việt đâu chỉ là truyền thuyết. Xích Quỷ (chữ Hán: 赤鬼) tục truyền là quốc hiệu của đất nước, được xem là cội nguồn của Việt Nam, vào thời Kinh Dương Vương. Xích nghĩa là đỏ, chỉ phương Nam. Theo Kinh Dịch, Phương Nam là nơi văn minh. Theo truyền thuyết, nước Xích Quỷ của các bộ tộc Việt cổ (Bách Việt) được hình thành vào trước năm 2879 TCN . Từ năm 2879 TCN đổi quốc hiệu là Văn Lang, có lãnh thổ rộng lớn nằm ở phía nam sông Dương Tử (Trung Quốc), phía bắc giáp hồ Động Đình (Hồ Nam - Trung Quốc), phía tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên - Trung Quốc), phía đông là biển và phía nam là nước Hồ Tôn (Chiêm Thành sau này). http-~~-//www.youtube.com/watch?v=BEdYAbLSmeM&feature=related
  23. Tên "hóa rồng" cho bé tuổi Nhâm Thìn - 2012 Bạn băn khoăn về việc đặt tên cho bé yêu sinh năm Nhâm Thìn sao cho hợp với tuổi của bé và giúp bé có sự phát triển tốt đẹp trong tương lai? Bạn có thể tham khảo thêm các thông tin về bản mệnh, Tam hợp hoặc nếu kỹ lưỡng có thể xem Tứ Trụ, Tử Vi (nếu bé đã ra đời mới đặt tên). Có nhiều thông tin hữu ích có thể giúp cho cha mẹ chọn tên hay cho bé. Xét theo bản mệnh Tuổi Nhâm Thìn 2012 mang mệnh Trường Lưu Thủy (nước sông dài). Rồng gặp nước có thể nói là biểu tượng tốt, chính vì vậy nếu được khai thác hết tiềm năng thì hoàn toàn có thể “vùng vẫy” và thành đạt trong xã hội. Bản mệnh Trường Lưu Thủy là yếu tố quan trọng để xác định tên phù hợp cho con, vì vậy các chữ thuộc hành Kim, Thủy hay Mộc có thể chọn làm tên cho con. Ngược lại các bộ chữ gắn với Thổ, Hỏa thì ít nhiều khắc kỵ với tuổi Nhâm Thìn, hoặc bản ngã quá lớn khó dung hòa, hoặc tâm thần mệt mỏi bất định. Lưu ý, chữ ở đây là xét theo chữ Hán, một loại chữ tượng hình. Xét theo Địa Chi Tuổi Thìn thuộc Tam hợp Thân - Tí - Thìn và Lục hợp Thìn - Dậu. Vì vậy, các tên thuộc bộ chữ có liên quan đều có thể coi là tốt đẹp. Ngược lại, nếu liên quan tới Mão (lục hại), Thìn (tự hình), Tuất (lục xung) thì đều không hợp và nên tránh. Xét theo đặc tính Theo quan niệm Á Đông, Rồng được coi là biểu tượng của vua, chính vì vậy những tên gọi thể hiện sự dũng mãnh, can đảm, vị thế tột bậc… sẽ rất hợp với người tuổi Thìn. Ngược lại, các tên gọi làm hạ thấp vị thế của con Rồng thì nên tránh. Các nguyên tắc khác Để chọn tên hay và hợp lý cho bé, các yếu tố về ý nghĩa, thuận ngũ hành (Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ) hay âm luật cũng nên được lưu ý. Các yếu tố này không chỉ giúp cho tên gọi hay hơn mà còn tạo nên những thuận lợi không ngờ cho tương lai sau này. Một cái tên có ấn tượng tốt sẽ giúp con được may mắn, thời vận dễ dàng và thành công vượt bậc. Kỹ lưỡng hơn, việc tham khảo Tứ Trụ và Tử Vi cũng ít nhiều giúp cho bố mẹ đặt cho con tên gọi hay và hợp lý. (Theo Eva.vn) ========================= Nếu là Mậu Thìn là mạng Mộc, vậy gọi là Rồng gì? Rồng Leo cây à? Tốt không? Nếu là Bính Thìn mạng Thổ vậy là rồng nằm đất, là con giun sao? Thiêt Tàu lau mía lau! Thiên Đồng
  24. Nói với người Trung Quốc rằng đất xưa của Bách Việt, tức đất nước của vua Hùng là phía Bắc giáp Động Đình Hồ, Đông giáp Đông Hải, Tây giáp Ba Thục, Nam giáp Hồ Tôn và dân tộc Việt tự hào có nền văn hiến gầm 5000 năm rực rỡ.Thiên Đồng