Thiên Đồng

Hội viên
  • Số nội dung

    6.278
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    75

Everything posted by Thiên Đồng

  1. CON CÓC LÀ CẬU ÔNG TRỜI Nguyễn Xuân Quang Bài viết này trả lời hai câu câu hỏi chúng ta thường đặt ra là tại sao con cóc là cậu ông trời? Và các tượng lưỡng cư ngồi ở mé trống đồng âm dương Đông Nam Á là những tượng cóc hay ếch? Mặt khác cũng cho thấy Tiếng Việt (thật là) Huyền Diệu có thể giúp người đọc Học Anh ngữ Bằng Tiếng Việt và ngược lại người ngoại quốc có thể học Tiếng Việt bằng Anh ngữ. Chúng ta có bài đồng dao Con cóc là cậu ông trời, Ai mà đánh nó thì trời đánh cho. Câu hỏi được đặt ra là tại sao con cóc lại là cậu ông trời? Trước hết ta hãy đi tìm bản thể của cóc qua Việt ngữ. Có người cho rằng con cóc có tên là cóc vì nó ở trong hang, trong hóc tối tăm, bẩn thỉu. Có bài hát: Trông kìa con cóc, nó ngồi trong hóc, nó đưa cái lưng ra ngoài, ấy là cóc con. Theo biến âm c=h như cùi = hủi, cóc = hóc. Con cóc là con sống trong hóc, trong góc. Theo tôi, giải thích con cóc là con hóc, con góc này mới chỉ là một diện, một phiến diện. Vì tên loài vật thường được gọi theo một đặc tính thể xác, sinh lý học của con vật hay một đặc tính biểu tượng theo vật tổ trong tín ngưỡng của loài người. Qua từ đôi điệp nghĩa gai góc, ta có góc = gai. Gai là những mấu nhọn, vật nhọn. Những cục, những hột nổi cộm lên ở da cũng được gọi là gai như nổi gai ốc ở da (gai da cộm lên như những con ốc, ốc đây là những con ốc nhỏ, ốc gạo). Ở đây cho thấy hột, hạt, cục cùng nghĩa với gai là vật nhọn, nọc nhọn và cùng mang dương tính như gai nhọn là những dạng nguyên tạo của nọc nhọn của gai. Nhìn dưới diện chữ nòng nọc (vòng tròn-que), âm dương thì hột, hạt, nhân, cục và gai đều thuộc về nọc. Hột hạt, là nọc ở dạng nguyên thể của nọc nhọn gai và gai mũi nhọn là nọc sinh động. Nọc hột, hạt là mầm dương diễn tả trong chữ nòng nọc là một dấu chấm (.), tôi gọi là nọc chấm hay chấm nọc nguyên tạo. Chấm nọc tách ra hai chấm, nối hai chấm lại thành nọc que (I). Hai nọc que hợp lại thành nọc mũi nhọn, mũi mác, răng sói, răng cưa (>) ở dạng sinh động (xem chương Chữ Nòng Nọc Trên Trống Đồng Âm Dương Đông Nam Á). Như thế con cóc là con góc, con gai, con vật có da sần sùi có những gai, những cục, những hột nổi lên. Con cóc là con cục, con hột. Chứng mụn nổi lên ở da to bằng hột cơm gọi là mụn cơm trông giống như những cục mụn ở da cóc nên cũng gọi là mụn cóc. Anh ngữ wart, mụn cóc. Theo biến âm w=h (như Mường ngữ wa = hoa), ta có wart = hạt. Wart là mụn hạt, mụn hột, mụn cơm, mụn cóc như ở da cóc. Mường ngữ cục là côc. Con cóc con cục là con cốc. Ta thấy rất rõ cóc biến âm với cọc [nọc, vật nhọn, gai, sừng (con cọc là con sừng, con hươu đực có sừng, xem Việt Dịch Bầu Cua Cá Cọc)], với cục, cốc (trái cốc = trái cóc, thứ quả có hột sần sùi như da cóc), liên hệ với Tầy ngữ coộc, sừng (vật nhọn, vật nhọn như gai), Quảng Đông ngữ coọc, sừng, với Hán Việt cốc là hột, hạt như các nông phẩm có hạt, hột gọi là cốc (mễ cốc, ngũ cốc). Rõ như ban ngày con cóc là con cọc, con cốc là loài có da sần sùi nổi gai, nổi cục, nổi côc, nổi hột (có chất) sừng mang dương tính. Điểm lý thú là da cóc mọc những hạt như lúa gạo mà lúa gạo cần có nước có mưa nên hiển nhiên con cóc liên hệ với nước, mưa, sấm. Chắc có nhiều người đọc còn nghi ngờ chưa tin. Tôi xin chứng minh thêm. Ta thấy Hán Việt giác là góc như tam giác và giác cũng có nghĩa là sừng (vật nhọn như gai) như tê giác. Giác là gai góc nên dùng vật sắc nhọn như gai để lể, để giác. Anh ngữ corner có nghĩa là góc và corn có nghĩa là sừng như Latin cornu, corna, sừng, Anh ngữ corneous, bằng sừng, giống sừng, cornea, màng sừng ở mắt và corn cũng có nghĩa là cục, hột chai cứng do lớp sừng ở da dầy lên vì cọ xát. Ta cũng thấy rõ Anh ngữ corn có nghĩa là hột, hạt, qua từ corn chỉ những hạt nông phẩm như lúa, ngô (bắp). Corn có một nghĩa là bắp, ngô. Acorn là hột, hạt cây sồi. Hiển nhiên, corn ở đây ruột thịt với Hán Việt cốc (mễ cốc, ngũ cốc). Điểm này giải thích tại sao người Bắc gọi xôi bắp là xôi lúa. Lúa ở đây hiểu theo nghĩa tổng quát có nghĩa là một thứ hột, hạt, một thứ mễ cốc cùng nghĩa với corn, ngô, bắp (cũng có một nghĩa là hột, hạt, hột ngô, bắp gọi là kernel). Ta cũng thấy có sự biến âm giữa Việt ngữ góc, hóc và Anh ngữ corner, góc. Corner có cor- = (coóc) = hóc = góc. Corner ruột thịt với Việt ngữ góc, hóc. Tiến xa hơn, cóc, corn liên hệ với gốc Aryan-Phạn ngữ gar-. Ta thấy gar liên hệ với Việt ngữ gã (con trai, đàn ông, người có nọc, cọc, c…c), Pháp ngữ garçon (con trai), với gharial loài cá sấu mõm dài như dao có cục u ghar trên mũi (cũng vì thế mà từ crocodile thường nói tắt là croc chính là từ cọc của Việt ngữ, croc là cá cọc mang dương tính biểu tượng cho ngành dương của loài cá, tộc nước. Cá sấu là cá sậu (sậu có nghĩa là cứng như ngô sậu là ngô cứng), cá sẩu (sẩu là sừng biến âm với sậu, cứng như xin khúc đầu những xương cùng sẩu), cá sào (cọc), cá gar, cá gạc (cá sừng), cá cọc, cá cóc (vì có vẩy sần sùi da cóc, có vi sừng), cá ngạc (Hán Việt ngạc ngư là cá sấu, theo g=ng như gấm ghé = ngấm nghé, gạc = ngạc) và theo g=h, gar = hạt (grain có gốc gar-), gar- = hart (hươu gạc, hươu sừng, hươu nọc), gar- liên hệ với gác, với góc… Tiến xa thêm tới tận nguồn cội của ngôn ngữ của con người được ghi lại bằng chữ nòng nọc thì con cóc là con cục, con cốc (có một nghĩa là cóc và một nghĩa là hột, hạt) diễn tả bằng chữ dấu chấm nọc (.) nguyên tạo có hình hột, hạt và con cóc là con cọc được diễn tả bằng chữ nọc mũi mác, răng cưa, răng sói (>) có nghĩa là nọc, đực, bộ phận sinh dục nam (xem bài viết Da Vinci Code và Chữ Viết Nòng Nọc Trên Trống Đồng Âm Dương Đông Nam Á). Ta thấy rõ như ban ngày chữ nọc mũi mác (>) có hình mũi nhọn (>), hình gai nhọn (>) và hình góc nhọn (>). Góc nhọn (>) có hình chiếc gai nhọn (>) đúng như thấy qua từ đôi điệp nghĩa gai góc, gai (>) = góc (>). Qua chữ nọc mũi mác, răng sói, răng cưa (>) trong chữ nòng nọc, ta giải thích được tại sao gai cùng nghĩa với góc, tại sao ta có từ đôi điệp nghĩa gai góc, tại sao Hán Việt giác là sừng (cùng nghĩa với nọc nhọn, gai nhọn) cũng là góc, tại sao corn- là sừng cũng là góc, tại sao gar- là gạc và cũng là góc. Gai góc, giác (sừng, góc), corn- (sừng, góc) gar- (gạc, góc) đều có gốc cội là nọc mũi nhọn (>). Chữ nọc trong chữ nòng nọc viết dưới ba dạng: dạng nọc chấm (.) nguyên tạo, dạng nọc que (I) và dạng nọc mũi nhọn mũi mác, răng sói, răng cưa. Những hạt, hột nổi cộm, nổi gai trên da cóc là dạng nọc chấm nguyên tạo. Con cóc có một khuôn mặt chính là con cọc mang dương tính có da nổi hột nọc gai sừng. Điểm này cũng cho thấy rõ dưới diện nòng nọc, âm dương, những hình thể có dạng que nọc, có góc cạnh, gai góc, hột hạt mang dương tính trong khi những hình thể có nét cong tròn mang âm tính (Chữ Nòng Nọc Trên Trống Đồng Âm Dương Đông Nam Á). Trên trống đồng âm dương những con vật lưỡng cư ngồi ở mé trống có mõm hình nọc mũi mác (>) và trên người có chấm nọc (.) cho biết rõ những con vật này là những con cóc (chứ không phải là con ếch). Tóm lại con cóc có một khuôn mặt chính là con cọc mang dương tính thuộc ngành dương của loài lưỡng cư, có da nổi hột nọc chấm gai sừng sần sùi và ở trong hóc, trong hang (ta cũng thấy Hán Việt cốc ngoài nghĩa là hột, hạt còn có nghĩa là hang, động như tịch cốc). Ta cũng thấy rõ ràng nghĩa hóc, hang là nghĩa phụ không phải là một đặc tính thể xác của con cóc, có nhiều loài vật sống trong hang trong hóc nhưng không gọi là con cóc. Một đặc tính nữa của con cóc là nhẩy. Cóc thuộc loài ếch nhái. Từ nhái biến âm với nhẩy. Cóc, ếch thuộc cùng loài con nhái là những con nhẩy. Con cóc là con nhẩy thấy rõ qua bài thơ con cóc: Con cóc trong hang, Con cóc nhẩy ra, Con cóc nhẩy ra, Con cóc ngồi đó, Con cóc ngồi đó, Con cóc nhẩy đi. Theo biến âm c=p (ở cuối chữ) như chóc, chốc (đầu) = chóp (đầu), bắn trúng ngay chóc (ngay chốc) = bắn trúng ngay chóp, ta có cóc = cóp. Theo c=h, cóc = hóc = cóp = Anh ngữ hop (nhẩy). Con cóc là con hop. Anh, Mỹ cũng gọi cóc, ếch là con nhẩy. Ta có thể dùng Việt ngữ để truy tầm nguồn gốc nghĩa ngữ của hai từ frog (ếch) và toad (cóc) của Anh ngữ (1). Theo biến âm f=b=ph như fỏng = bỏng = phỏng, ta có frog = f®og = phốc, phóc (nhẩy). Ta có từ đôi điệp nghĩa nhẩy phốc, nhẩy phóc với phốc, phóc = nhẩy. Vậy frog là con phốc, con phóc, con nhẩy, cùng loài con nhái. Ngoài ra cũng có một loài ếch nhái nhưng có mầu nâu vàng gọi là con chão chuộc, chẫu chuộc, cũng có nghĩa là nhẩy, ruột thịt với Phạn ngữ ças, nhẩy. Theo ç = ch, ças = chạc, choạc, chuộc, chẫu. Hán Việt tẩu (chậy) phát âm theo giọng Quảng Đông là “chẩu” liên hệ với chẩu, chẫu là nhẩy như thấy qua từ đôi chậy nhẩy. Con châu chấu cũng liên hệ với từ Phạn ngữ này, có nghĩa là con “ças ças“, con chẩu chẩu, con nhẩy nhẩy đúng với nghĩa của từ grasshopper. Từ cào cào cũng có thể là một dạng biến âm của “ças ças“ và con sạch sành (sạch sành là anh kẻ trộm), con chanh chách (thuộc loài châu chấu) có sạch, chách biến âm với ças. Còn toad phát âm là /tót/, Trung cổ Anh ngữ tode, con toad, con tode là con “tót”. Tót chính là Việt ngữ tót, thót có nghĩa là nhẩy. Ta có từ đôi điệp nghĩa nhẩy tót với nhẩy = tót. Đầu trọc lóc bình vôi, Nhẩy tót lên chùa ngồi. Ê a kinh một bộ, Lóc cóc mõ ba hồi. (không nhớ chắc chắn tên tác giả). Tót, thót là nhẩy cũng thấy qua câu nói “mới đó mà nó đã tót đi đâu rồi! “ hay “tót (thót) một cái, nó đã biến mất”. Con bò tót là con bò nhẩy tức bò đực dùng nhẩy cái, là con bò đực. Con toad là con tót, con thót, con nhẩy thuộc cùng loài con nhái. Theo t=d, tót = dọt, nhẩy, chạy nhanh như nó dọt đi mất rồi, chiếc xe rất dọt. Theo d=v, dọt = vọt, có cùng nghĩa. Theo d=nh, dọt = nhót có nghĩa nhẩy như nhẩy nhót. Do đó ta có từ nhẩy = nhót. Theo d=nh, dọt = nhót. Một lần du lịch đến Nga, một tối người hướng dẫn du lịch mời chúng tôi “lets go for a zhok”, Thổ ngữ Moldavian ở Nga zhok, dance. Zhok chính là Việt ngữ dọt, nhót. Chúng tôi đã được xem trình diễn vũ khúc Zhok của vũ sư I. Moisegev, giám đốc đoàn vũ Moisegev Dance Company of Moscow sáng tác theo âm nhạc của G. Fedov. Ta cũng thấy cóc, ếch ngồi ở tư thế sẵn sàng nhẩy tới trước, chồm tới trước nên thường nói con cóc, con ếch ngồi chồm chỗm. Từ đôi chồm chỗm ruột thịt với chồm có nghĩa là nhẩy tới như con chó chồm tới = con chó nhẩy tới. Theo ch=j như chà và = java, ta có chồm, chồm chỗm = Anh ngữ jump, chồm, nhẩy chồm lên, nhẩy chồm chồm, nhẩy. Anh ngữ tadpole là con nòng nọc có tad- là toad và -pole là poll, đầu người, người, đầu phiếu, biểu quyết, đếm theo đầu người, thăm dò dư luận. Theo p=b=m, poll = môn, mông, mống, mường. Mông, Mán, Mường có nghĩa là người. Mống là người như không có một mống = không có một người. Mông, mống, Mán, Mường liên hệ với Pháp ngữ monde, người. Tadpole là con (cá) có đầu (pole, poll) cóc (tad). Vì cóc liên hệ với cọc, nọc với chữ nòng nọc, âm dương, bây giờ ta đi tìm ý nghĩa biểu tượng của hai từ ếch và cóc trong Vũ Trụ giáo, trong Dịch lý dựa trên căn bản nòng nọc, âm dương. Việt ngữ ếch biến âm với ách, át, ạch đều liên hệ với nước. Ách là nước như óc ách là tiếng nước, át là nước như thấy qua từ đôi điệp nghĩa ướt át, ạch là ngã (ngã ạch một cái), ngã thường do trơn trượt vì mưa, nước. Ạch là ngã vì trơn trượt lúc có mưa biến âm với ếch nên khi ngã mới nói là vồ ếch. Ách, át, ạch, ếch liên hệ với Phạn ngữ ak-, aka nước. Ta thấy rất rõ Tây Ban Nha ngữ aqua- nước, ruột thịt với Phạn ngữ aka. Con ếch là con ách, con át có nghĩa là con nước. Hán Việt ếch gọi là oa. Từ oa vẫn cho là từ cóc gốc Hán ngữ, thật ra chưa hẳn là vậy vì ta thấy Maya ngữ ou là con ếch (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt). Oa có nhiều nghĩa trong đó có nghĩa là nước, là con ếch. Oa là ếch là nước, rõ ràng ếch liên hệ với nước. Ếch là con ách, con nước, loài nhái sống dưới nước, biểu tượng cho nước, cho mưa: Ếch kêu uôm uôm, Ao chuôm đầy nước. (ca dao) Như thế con ếch có một khuôn mặt thái âm, nước âm, Khôn âm nghiêng về dòng nữ. Còn cóc có nghĩa là gì trong vũ trụ tạo sinh? Trong ngôn ngữ Việt cóc có một nghĩa là không như cóc cần là không cần, cóc biết là không biết, cóc có ai là không có ai… Ta có thể kiểm chứng lại bằng cách giải phẫn từ KHÔNG. Mổ xẻ từ KHÔNG cũng cho thấy rõ cóc = không: -Cắt bỏ chữ C đầu của KHÔNG còn lại HÔNG. Hông, hổng, hỏng cũng có nghĩa là không như đi mau mà về nghe hông?, hông biết, hỏng biết, hổng thèm, hổng có. . . Hỏng, hổng là rỗng, trống không như lỗ hổng ruột thịt với Hán Việt khổng là lỗ. Ta có hỏng, hổng, hông = khổng, không. -Cắt bỏ chữ H còn lại KÔNG. Kông, cong, còng có một nghĩa là tròn, vòng tròn O, ruột thịt với không có nghĩa là số không 0 như thấy qua từ cong vòng tức cong = vòng, cái cong, cái cóng (gạo) hình tròn vo, cái còng = cái vòng (đeo tay) có hình vòng tròn O. -Cắt bỏ chữ N còn lại KHÔG. Khog = cóc, cũng có nghĩa là không như đã nói ở trên. -Cắt bỏ chữ G cuối cùng còn lại KHÔN có một nghĩa là không như khôn lường, khôn dò, khôn nguôi. Từ Khôn này chính ta từ Khôn dùng trong Dịch nòng nọc. Quẻ Khôn viết bằng ba hào âm, viết theo chữ nòng nọc là ba vòng tròn nòng O tức OOO. Khôn là không, hư không. Khôn cũng có âm dương, Khôn O thái dương II là gió là Tốn OII. Khôn O thái âm OO là Khôn nước không gian, vũ tru âm OOO. Các tác giả Việt Nam khi viết về Dịch thường dựa theo Dịch Trung Hoa cho rằng Khôn là Đất. Càn Khôn là Trời Đất. Khởi đầu vũ trụ tạo sinh bắt nguồn từ âm dương càn khôn (lửa nước nguyên thể) chưa có đất. Dựa vào giải phẫu tiếng Việt ta thấy rõ gốc nghĩa của Khôn không có dính dáng gì tới đất cả. Hiểu Khôn là đất là hiểu theo Dịch Trung Hoa là thứ Dịch rất muộn màng, là thứ Dịch duy tục, vị nhân sinh dùng nhiều trong bói toán phong thủy, một thứ Dịch do những kẻ thống trị dùng như một thứ đòn phép để cai trị đám dân bị trị. Ta thấy rất rõ giải phẫu cắt bỏ bớt từ KHÔNG còn lại những từ đều có nghĩa là không và từ khog, cóc nằm trong từ không hiển nhiên cũng có nghĩa là không. CÓC là không, là cong, còng (O, số 0) là khôn. Không có một khuôn mặt là hư không, không gian, không khí. Khôn có hai mặt âm dương. Không dương là khí gió, Khôn âm là nước vũ trụ. Con cóc, con cọc mang dương tính vì thế cũng có hai khuôn mặt. Khuôn mặt dương tức Khôn dương biểu tượng cho khí gió, sấm dông. Khuôn mặt dương của âm tức dương của Khôn âm biểu tượng cho nước dương, sấm mưa. Cả hai khuôn mặt đều liên hệ với sấm. Mường Việt ngữ rạc: con cóc. Rạc là lạc (l=r) là lác là (nước dương), L là dạng dương hóa của N (Tiếng Việt Huyền Diệu), là nác, là nước dương. Con rạc là con nước-lửa, con nước dương. Cổ ngữ Việt rạc, rặc (dùng nhiều ở vùng đất tổ Phú Thọ) là nước như ‘ruộng rặc’ là ruộng nước. Ruộng “rộc” cũng là ruộng nước. Con rạc (con cóc) là con nước mang dương tính. Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, cóc rạc, cóc Lạc là con cóc biểu của Mặt Trời Nước Lạc Long Quân. Cóc mang dương tính như đã thấy và vì sống nhiều trên cạn nên cũng mang nhiều dương tính hơn ếch vì thế cóc biểu tượng cho nước dương, nước lửa. Trong khi đó ếch sống nhiều dưới nước nên biểu tượng cho nước âm. Điều này đã thấy rõ qua tên ếch. Nhìn chung cóc với nghĩa là không, Khôn là thuộc ngành nòng, âm, Khôn. Theo duy dương, con cóc mang dương tính là thú biểu cho Khôn dương khí gió liên hệ với sấm dông và theo duy âm, cóc biểu tượng cho Nước Lửa, liên hệ với sấm mưa, Chấn. Trong khi đó ếch mang âm tính nhiều có biểu tượng chính cho nước thái âm, dòng nữ. Khuôn mặt dương của ếch (ếch-lửa, ếch đực) biểu tượng cho khuôn mặt dương của nước thái âm, dòng nữ. Hiểu rõ bản thể của cóc ếch rồi bây giờ ta thử đi tìm hiểu tại sao Con cóc là cậu ông trời, Ai mà đánh nó thì trời đánh cho? Trước hết tại sao tổ tiên chúng ta gọi con cóc là cậu ông trời, mà không nói con cóc là chú ông trời, là cô, là dì ông trời? Dĩ nhiên phải có nguyên cớ. Cậu là gì? Cậu là em trai của mẹ. Mẹ là phía ngoại, âm, Khôn. Cậu là em trai mang dương tính. Rõ ràng con cóc là Cậu nên mang dương tính, là khuôn mặt dương của Khôn. Khôn dương là khí gió. Qua từ Cậu cho thấy con cóc có khuôn mặt Khôn dương khí gió mang tính trội. Trong Việt ngữ từ Trời có nhiều nghĩa. Ông Trời ở đây đánh người tức ông Trời có búa thiên lôi, có lưỡi tầm sét. Bị trời đánh là bị sét đánh. Ông Trời đánh người là ông Trời có một khuôn mặt là Thần Sấm Sét. Vậy con cóc là cậu ông thần sấm sét ruột thịt với ông sấm sét. Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, Lạc Long Quân là Mặt Trời Nước, Nước-lửa, mưa-chớp, có một khuôn mặt là Thần Sấm Mưa, ứng với Chấn trong Dịch, có hậu thân là ông Thần Sấm Dông Phù Đổng Thiên Vương (xem bài viết Ý Nghĩa Ngày Vía Phù Đổng Thiên Vương Mồng Chín Tháng Tư Âm Lịch). Con cóc là cậu Lạc Long Quân tức là em mẹ của Lạc Long Quân tức là em bà Thần Long, vợ của Vua Mặt Trời Đất-Lửa Kì Dương Vương sinh ra Lạc Long Quân. Bà Thần Long là Rồng Nước có mạng Khảm là nước, mây viết theo chữ nòng nọc là quẻ Khảm OIO (giải tự OIO là nòng O thiếu âm IO, Nàng Gió, trong khi Vụ Tiên OOO là Nàng Nước, Âu Cơ OII là Nàng Lửa, vợ Hùng Vương OOI là Nàng Đất). Tại sao Thần Long Khảm, nước, mây lại là Nàng Gió. Thần Long mang dòng máu (gene) Nước vũ trụ của mẹ Vụ Tiên Khôn. Nước vũ trụ cộng với dòng máu Lửa vũ trụ của cha Đế Minh Càn. Di thể gene Nước được gene Lửa đốt bốc thành hơi, khí, gió, do đó mà Thần Long là Nàng Gió. Ta thấy rất rõ con cóc là em Thần Long, Nàng Gió nên Cậu cóc có cùng bản thể Không, khí, Gió với chị. Rõ như ban ngày con cóc có một nghĩa là không là con Không, Khôn với khuôn mặt Khôn dương mang tính trội như đã thấy. Ta có thể kiểm chứng lại qua một vài khuôn mặt cóc của Lạc Long Quân trong văn hóa Việt Nam. Thần Sấm mưa Lạc Long Quân là cháu Cậu Cóc nên cũng có dòng máu cóc trong người vì thế Lạc Long Quân có nhiều khuôn mặt cóc. Trước hết ta có từ cóc cụ. Cóc cụ là hình bóng Lạc Long Quân. Ta đã biết Lạc Long Quân là mặt Trời Nước, Mặt Trời Lặn (Lạc Dương), Mặt Trời Hoàng Hôn là một cụ già, có râu dài, thường mặc quần áo thụng trắng (trong khi Hùng Vương là Mặt Trời Mọc là chàng trai Lang, Đế Minh là Đế Ánh Sáng có một khuôn mặt thế gian là Mặt Trời Buổi Sáng, là một người trưởng thành và Kì Dương Vương là Vua Mặt Trời Giữa Trưa là một người đứng tuổi (xem Việt Dịch Bầu Cua Cá Cọc). Cùng hình bóng với Lạc Long Quân là Thần Osiris của Ai Cập cổ, vị thần này có một khuôn mặt là Mặt Trời Nước cũng là một người già có râu dài và Aztec cũng có một vị thần tổ râu dài mang hình bóng của Lạc Long Quân. Vì sao? Aztec có nghĩa là “Heron people” (Người Cò, Tộc Cò) liên hệ với cò Lang của Lang Việt Hán Việt (nên nhớ thổ dân Mỹ châu là những tộc có gốc gác từ vùng duyên hải Nam Á qua Mỹ châu). Khi chia tay Lạc Long Quân dặn dò các con khi hữu sự cứ gọi bố là Lạc Long Quân sẽ trở về cứu giúp. Mỗi lần gặp nguy khốn các con thường gọi “bố ở đâu, xin về cứu giúp chúng con”. Người Aztec cũng có một vị thần tổ da trắng râu dài, họ cũng tin vào lời dặn là vị thần tổ râu dài của họ sẽ về cứu giúp khi họ gặp nguy khốn. Cả một đế quốc Aztec đã sụp đổ vào tay một người da trắng Hernandez Cortez có râu dài với một nhóm lính viễn chinh Tây Ban Nha cũng chỉ vì họ cho rằng Cortez là vị thần da trắng râu dài của họ trở về cứu giúp họ (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt). Tóm lại Lạc Long Quân là ông trời già và cóc cụ là vật biểu của trời già Lạc Long Quân. Theo duy dương ngành dương, Lạc Long Quân là Mặt Trời Hoàng Hôn, theo duy âm, ngành âm, Lạc Long Quân là Mặt Trời Đêm tức Ông Trăng. Vì thế mà ta có câu ca dao: Ông giăng mà lấy bà giời, Mồng năm dẫn cưới, mồng mười rước dâu. Ông trăng ở đây là Cha Tổ Lạc Long Quân và bà trời là Mẹ Tổ Âu Cơ. Tại sao lại chọn ngày năm và ngày mười? Số năm theo Dịch là số Li (Lửa đất, núi lửa, núi dương) tức là chọn theo bản thể Lửa, Núi của Mẹ Tổ Âu Cơ trong khi đó chọn số 10 là số Khảm, nước là chọn theo bản thể Nước, Biển của Cha Tổ Lạc Long Quân. Nước đi đôi với trăng, trăng nước. Chọn ngày 5 Li hôn phối với 10 Khảm là ngày hôn phối âm dương, nước lửa làm ngày dẫn hỏi và ngày cưới của ông trăng Lạc Long Quân với nàng non Âu Cơ hợp với bản thể hai người thật là chí lý. Người Việt chúng ta cũng thường gọi ông trăng là trăng già: Trăng bao nhiêu tuổi trăng già, Núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non. (cadao). Non là núi âm, nổng(gò nổng) là núi nống (trụ chống) tức núi dương. Từ núi chỉ chung cả núi âm non và núi dương nổng. Ngày nay núi thay thế cho nổng (Tiếng Việt Huyền Diệu). Rõ ràng trăng Lạc Long Quân có một khuôn mặt già, là một người già. Ta cũng thấy trăng già Lạc Long Quân đi đôi với núi âm non Âu Cơ. Trăng nước liên hệ với cóc như theo truyền thuyết Trung Hoa trên mặt trăng có con cóc ba chân. Con cóc có ba chân là khuôn mặt đối nghịch với con quạ ba chân thấy trên mặt trời. Ba chân là ba cọc, ba hào dương là siêu dương, càn, lửa, ngành dương. Trăng già Lạc Long Quân có vật biểu là con cóc già. Con cóc ba chân cũng cho thấy rõ con cóc là con cọc mang siêu dương tính. Ba chân là ba nọc tức Càn. Điểm này cho thấy người Trung Hoa theo phụ hệ cực đoan, họ có con cóc ba chân Lửa thái dương Càn đối nghịch với con ếch là con Nước thái âm Khôn. Chúng ta, nghiêng về dòng âm, nên khuôn mặt dương của ngành âm Khôn là khí gió Đoài vì thế con cóc có một nghĩa là không và được gọi là Cậu (em trai của mẹ, dương của Khôn). Tóm lại, Lạc Long Quân Mặt Trời Lặn là một cụ già, là trời già, trăng già nên cóc cụ chính là cóc Lạc Long Quân. Cũng nên biết thêm trong Việt ngữ cóc thì gọi là cóc cụ (có thể là cụ ông hay cụ bà) còn ếch thì chỉ gọi là ếch bà, không bao giờ gọi là ếch ông hay ếch cụ, điều này cho thấy rõ ếch nghiêng về dòng nữ, thái âm. Ta cũng có từ cóc tía, gan cóc tía, gan như gan cóc tía. Trước hết, tía hiểu là mầu tím. Tím là mầu hoàng hôn, mầu chiều tím, mầu mặt trời lặn, mầu của Vua Mặt Trời Lặn Lạc Long Quân. Cũng vì là Mặt Trời lặn, Mặt Trời Hoàng hôm chiều tím nên có vương hiệu là Lạc Long Quân, được gọi là Quân chứ không gọi là Vương. Quân là màu huân, màu hôn, màu hoàng hôn. Theo q= h (quả phụ = hóa phụ), huân = quân. Hán ngữ huân là ‘khói lửa bốc lên’ như thế huân là màu lửa pha màu khói đen. Huân ruột thịt với Việt ngữ hun (xông khói, đốt lửa), hùn. Màu hùn hùn là màu thâm thâm (Lê Ngọc Trụ, Giải Nghĩa Một Hai Tiếng Nói Trại, in lại trong Dòng Việt số 3 tr.103). Rõ hơn nữa ta thấy màu ‘quân’ trong tên quả hồng quân hay mồng quân (Flacourtia cataphracta, Roxb.), Huỳnh Tịnh Paulus Của, trong Đại Nam Quốc Âm Tự Vị ghi: “mồng quân, thứ cây có nhiều gai, có trái tròn mà nhỏ, người ta hay ăn, trái nó chín đỏ đen như màu huân cho nên cũng kêu là hồng huân…”, ở nơi từ huân ghi: ”huyền huân, màu đen tím”, ở đây huân là màu tím và “trái hồng huân, tiếng tục gọi là trái mùng quân”. Trái hồng quân, mùng quân, mồng quân được gọi theo màu da của quả màu tím đen, đỏ tím đen. Vậy quân là màu tím đen, màu mặt trời đêm, mặt trời hoàng hôn. Lạc Long được gọi là quân vì là vua Mặt Trời màu ‘quân’, màu tím đỏ Như thế qua từ Quân ta cũng thấy rõ Lạc Long Quân có khuôn mặt Mặt Trời Lặn, Mặt Trời Hoàng Hôn. Tóm tắt lại về mầu sắc có hai màu biểu của Mặt Trời Hoàng Hôn Lạc Long Quân là mầu vàng, mầu hoàng (chiều vàng) và màu tím đen ‘quân’ , mầu huân, mầu hôn (chiều tím) tức hai mầu hoàng hôn. Điểm này giải thích tại sao trước đây ở thành Thăng Long, nhà thường dân bị cấm không được sơn hay quét vôi mầu tím và mầu vàng vì được coi đó là hai mầu của vua và của rồng. Đây chính là hai mầu hoàng hôn của Vua Rồng Lạc Long Quân, Vua Mặt Trời Lặn Hoàng Hôn. Nếu hiểu tía là bố, là cha (Tía em hừng đông đi cầy bừa, má em hừng đông đi cầy bừa…) thì như đã biết dân Việt coi Lạc Long Quân là tổ phụ thường gọi là ‘bô’, là bố. Cóc tía là cóc bố! cóc Lạc Long Quân! Tuy nhiên từ tía gốc từ Quảng Đông ngữ thường được dùng nhiều trong Nam, người Bắc không dùng, nên giải thích theo tía là bố không được phổ quát như tía là mầu tím. Tóm lại dù hiểu cóc tía là cóc tím hay cóc bố thì cóc tía cũng là cóc Lạc Long Quân. Ca dao tục ngữ có câu “con cóc nghiến răng chuyển động bốn phương trời” cho thấy rất rõ cóc là cậu của Thần Sấm nên mỗi lần nghiến răng là nhắc nhở Thần Sấm làm ra sấm chuyển động bốn phương trời. Mỗi lần cậu cóc nghiến răng là nhắc cóc cháu Lạc Long Quân làm sấm, làm mưa. Cóc và Vũ Trụ Tạo Sinh. Nhìn dưới lăng kính Vũ Trụ giáo, Dịch lý, cóc mang trọn vẹn ý nghĩa của Vũ Trụ luận. .Vô Cực: qua nghĩa cóc là Không, cóc có một khuôn mặt biểu tượng cho hư không, không gian. .Thái Cực: Cóc mang nghĩa thái cực nghĩa là âm dương còn ở dưới dạng nhất thể thấy qua bản thể lưỡng cư, vừa sống trên cạn mang tính dương vừa sống dưới nước (lúc còn là nòng nọc) mang tính âm. Trứng cóc có nhân đen hình “vòng tròn nòng có chấm nọc” mang nghĩa nòng nọc, âm dương, thái cực, hình ảnh của Trứng Vũ Trụ. Con nòng nọc hiển nhiên có thân hình nòng và đuôi hình nọc mang tính âm dương thái cực. .Lưỡng Nghi: -Cực dương: cóc có một khuôn mặt là cọc (dương, lửa vũ trụ, mặt trời, bộ phận sinh dục nam, cực dương) thấy rõ qua từ cóc biến âm với cọc, qua các hột mọc ở da mang hình ảnh những chấm nọc, qua vai vế cậu ông trời. Khuôn mặt cực âm thấy rõ qua từ cóc biến âm với hóc, hốc. Hang hóc có một khuôn mặt âm, bộ phận sinh dục nữ. .Tứ Tượng -Tượng Lửa vũ trụ Càn: như trên đã thấy cóc biến âm với cọc. Cọc biểu tượng cho cực dương dĩ nhiên có một khuôn mặt biểu tượng cho tượng Lửa. Ta đã thấy rất rõ con cóc ba chân của Trung Hoa biểu tượng cho lửa Càn. -Tượng Đất dương tức Lửa thế gian Li. Cọc có một khuôn mặt biểu tượng cho núi nổng (núi dương), núi trụ, núi lửa biểu tượng cho tượng đất, đất dương thế gian. Con cóc có sừng (horned toad) có thể dùng làm biểu tượng cho tượng Đất dương. -Tượng Nước dương Chấn. Con cóc nghiến răng chuyển động bốn phương trời, là cậu ông trời sấm sét, liên hệ với với mặt trăng nên có một khuôn mặt biểu tượng cho mưa, sấm (lửa trong nước, chớp-mưa), Chấn (Chấn vi lôi, Chấn là sấm). Trong các tranh dân gian thường vẽ cóc ếch đôi lá che mưa, cóc đánh trống. Trống có một khuôn mặt biểu tượng cho Sấm. -Tượng Gió dương. Cóc có một nghĩa là không, theo duy dương, có một khuôn mặt biểu tượng cho gió. Trong các tranh dân gian thường thấy vẽ cóc đội dù, ô. Nếu dù ô, lọng có những chi tiết mang dương tính thì là những biểu tượng cho gió. . . . . . Tiến xa đến chữ viết cổ nhất của loài người, ta có thể kiểm chứng với chữ nòng nọc. Như trên đã biết Cóc biến âm với cọc nên có gốc nọc mũi mác, răng sói, răng cưa (>) trong chữ nòng nọc. Chữ nọc mũi mác (>) này mang trọn nghĩa vũ trụ luận của ngành dương (Chữ Nòng Nọc Trên Trống Đồng Âm Dương Đông Nam Á). Kết luận Tóm lại con cóc là con có da sần sùi nổi cục, nổi hột, nổi gai trông như những hạt mễ cốc thường ở trong hóc, trong hang, trong cốc, là con không, thuộc ngành Khôn, là con cọc mang dương tính, là loài con nhái, con nhẩy. Con cóc là cậu ông Trời sấm sét có búa thiên lôi. Con cóc liên hệ với nước, mưa, sấm. Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, cậu cóc em bà Thần Long Nàng Gió thuộc ngành Không, Khôn, có mạng Khôn dương, khí gió là cậu của con cóc cụ, cóc tía, thú biểu của Lạc Long Quân, Vua Mặt Trời Nước có một khuôn mặt Thần Sấm mưa Chấn. Cóc Và Trống Đồng .Qua Việt ngữ, với nghĩa biểu tượng, cóc có nghĩa là không. Không có một nghĩa là trống (trống không). Trống có một nghĩa là trống (drum). Vậy cóc ruột thịt với với trống (drum). Trống (drum) là tiếng nói của hư không (tiếng trống thu không). Như thế con cóc là con không con trống, con cóc liên hệ với với hư không và với trống (drum). .Con cóc là con cọc, con nọc, con đực, con trống. Trống là đực và trống cũng là nhạc cụ bộ gõ nên cóc cũng ruột thịt với trống (drum). Trống là biểu tượng của ông thần sấm. Ông Thần Sấm thường cầm chiếc trống trong tay là vậy. .Trong khi đó ếch không biến âm với trống nên không ruột thịt với trống. .Cóc là cậu ông Thần Sấm nên cũng ruột thịt với trống. Như thế các tượng lưỡng cư trên trống đồng âm dương Đông Sơn là những tượng cóc. Trong khi đó, các trống đồng muộn của các tộc khác ở Đông Nam Á làm vào thời nông nghiệp mang biểu tượng cho mưa hay thuộc các tộc thái âm, mẹ có thể có những tượng ếch (xem Thế Giới Loài Vật Trên Trống Đồng Âm Dương trong Giải Đọc Trống Đồng Âm Dương Đông Nam Á). ————————————– Ghi Chú (1) Ta có thể dùng Việt ngữ để truy tầm nghĩa ngữ của Anh ngữ nói riêng và của Ấn Âu ngữ nói chung. Tôi dùng Việt ngữ để học và nghiến cứu Ấn Âu ngữ nói riêng và ngôn ngữ loài người nói chung và ngược lại. Dựa vào Việt ngữ đi tầm nguyên nghĩa ngữ của ngôn ngữ loài người có thể khác với tầm nguyên nghĩa ngữ của các nhà tầm nguyên nghĩa ngữ thế giới. Bởi vì tầm nguyên nghĩa ngữ, ở mỗi ngôn ngữ, tùy theo mỗi nhà tầm nguyên nghĩa ngữ nhìn theo một góc cạnh khác nhau, có thể khác nhau. Ở đây ta thấy tầm nguyên của cóc ếch khác nhau. Con nhái, chẫu chuộc cùng nghĩa là con nhẩy với frog và toad là nhìn theo con mắt của dòng Ấn Âu ngữ. Trong khi tầm nguyên nghĩa ngữ của cóc và ếch của Việt ngữ nhìn theo chữ nòng nọc, theo Dịch lý lại khác. Ta thấy rõ nhất là con tadpole theo Anh ngữ là con (cá) đầu cóc nhưng trong Việt ngữ tadpole rõ ràng là con nòng nọc, con có thân hình vòng tròn nòng và đuôi hình nọc, gọi theo âm dương, Dịch lý. Theo tôi dựa vào chữ nòng nọc là thứ chữ cổ nhất của loài người ghi lại âm, tiếng nói cổ của loài người là đáng tin cậy nhất. Tôi giải tự linh tự Ai Cập cổ, chữ khoa đẩu thánh hiền của người Trung Hoa, hình ngữ Aztec, Maya… bằng chữ nòng nọc còn viết trên trống đồng âm dương Đông Sơn dĩ nhiên sẽ khác với lối giải tự hiện nay. Sự khác biệt này là chuyện dễ hiểu. Xin đừng quá tin vào các nhà ngôn ngữ học khoa bảng thế giới hiện nay mà đã vội vã cho rằng tôi sai.
  2. Tám chuyện... Thời kinh tế chưa mở cửa, khoản chừng thập niên 90 trở về trước người rất nể sợ và né tránh đến kinh hãi hai số 7 và 8. Thời đó không có một công ty nào, cơ sở nào, hàng quán nào...thấy dám dùng biển hiệu có số 7 hay số 8, và nhất là số 8. Người ta kiêng số 8 như là phương tây kiêng số 13 hay ngày nguyệt kỵ "mồng năm mười bốn hăm ba"! Bởi số 7 là cây cuốc và số 8 là cái còng, còng số 8! Cả hai số đều biểu hiện cho hình ảnh...tù tội. Đố ai thấy được bảng hiệu 888 hay 8888 hay 777 như bay giờ! Ấy vậy mà khi làng gió kinh tế thổi mạnh vào qua cánh cổng mở toang thì bổng nhiên số 8 trở nên đẹp đẽ, may mắn làm sao! Chỉ tội số 7 còn kẹt lại, bị lọt sổ, bởi người ta theo "phong thủy" tàu nói rằng 7 là thất, thất là thất lạc, cũng như thất tình...nghĩa là mất (!) nên không dùng. Tàu Đài Loan hay Tàu lục địa đều không dùng vì số xấu nên Ta cũng nhất quán không dùng và chịu chấp nhận 7 là "thất" = "mất" mà dễ dàng bỏ qua hình ảnh 7 là cây cuốc Made in Việt Nam trước đó...vì nó...vô lý...không có "cơ sở pha học"! May cho con số 8, được số phận lên hàng Vơ - đét, là con số may mắn nhất theo phong thủy Tàu, bởi 8 là âm "bát" theo Tàu đồng âm Phát. Vậy là hình ảnh cái còng số 8 được "giải phóng", không còn ai sợ tra tay vào còng nữa! Bát là Phát!! Ô hô!! Vậy nên số xe, số điện thoại, số nhà, bảng giá, số...cái gì có số thì phải có Bát = Phát mới là số đẹp! cho nên số điện thoại hay số xe cứ 88 hay 8888 hay 8888888 càng tốt! máy cửa hàng bán vật khí phong thủy thì cũng để giá theo "phong thủy" vd 168 (nhất lộc phát), 688 (lộc song phát), 689 (lộc phát cữu)... hầm bà lằng ba cái nhì nhằng! Nghĩ cũng lạ! 8 là "bát", người cứ nghĩ đồng âm phát, nhưng chẳng ai chịu nghĩ "bát" cũng đồng âm với "bác" trong "bác bỏ", "bác nháo", nghĩa là không nên, cũng chẳng được và bác nháo hầm bà lằn! Mà dân thường dùng từ bình dân dùng từ "bà tám" để chỉ ai đó nói nhiều hay nhiều chuyện, tàu lau. Vậy mà với số 8 cho bảng hiệu công ty thì không ai dám nói là "công ty tám"! Hay cho số xe thì cũng không gọi là "xe tám", cho điện thoại thì không ai dám phạm húy gọi là "điện thoại tám"! Thiệt là "tám"! Nói ra thì người ta cho rằng nói gỡ, nếu số 8 đọc đúng Made in Việt Nam là "Tám" thì nó dễ trùng với âm "dám" trong "dám làm", và cũng trùng với âm "khám" nghĩa là phòng giam trong trại giam hay là hình ảnh cả trại giam như Khám Chí Hòa. Chết dữ! Theo Ta thì 8 là "dám", là "khám", nghĩa là liều lĩnh để kết cuộc vào khám, tức vào tù! Ôi trời ôi, thế thì phải theo Tàu thôi, phải sính ngoại thôi! Ngoại lúc nào cũng đúng cũng hay hơn nội! (sic!) Nếu thế thì chọn thử một "ngoại" nào xa xa hơn chút để thử tham khảo xem sao?! Tiếng Tây Francais, số 8 là Huit đọc là "uýt", nghe đồng âm quýt (quýt xéo!), cút (cút xéo!), huýt (huýt gió), huyết (máu me!). Ây chà chà! Theo ngoại Tây phăng xè thì còn ghê hơn! Thôi, theo ngoại Ăng le thử xem? Tám là Eight, đọc như là "ây", giống như ngạc nhiên thốt ra "ây!", hay có ý chưa đồng ý "ậy!". Cũng không được. Thử thêm tiếng của nước bè bạn là Cambochia xem sao? số 8 đọc là "b'ram bay", phân âm ra là bờ ram bay hay bờ ram bày, nghe như ram bày. Nghe như "làm bậy"! Thế thì chết dữ! Bạn cũng không chơi được! Vây đó, thiên hạ cứ nhào theo cái gọi là "chọn số theo phong thủy" cho nên mới có chuyện điện thoại số đẹp giá hàng tỷ. Thiệt là khỉ! Vài dòng lạm bàn, không dám gọi là mê tín vì người ta tin 8, bát là phát theo 'cơ sở pha học Tàu" (Đính chính: Tàu lau mía lau!) Thiên Đồng
  3. Chuyện những doanh nhân 'trót' mê phong thủy Thứ năm 26/01/2012 20:43 Ở nhà một vị giám đốc, người mạng nào thì đi xe màu đó. Vợ mạng Hỏa nên đi xe Vespa LX màu đỏ, dù chị không thích màu này. Con trai mạng Thủy đi xe màu đen... Phong thủy là học thuyết chuyên nghiên cứu sự ảnh hưởng của hướng gió, hướng khí, mạch nước đến đời sống, công việc, phúc họa của con người. Có lẽ vì vậy mà giới doanh nhân ngày càng quan tâm, tìm hiểu về phong thủy, để mong sức khỏe luôn dồi dào, tăng trưởng tài lộc kinh doanh, sự nghiệp thăng tiến... Theo kiến trúc sư Nguyễn Quang Định, điều hành Công ty CP kiến trúc và xây dựng ASPACE (chuyên tư vấn và thi công kiến trúc, xây dựng, phong thủy), khi nói về sự thành đạt của một đời người, người Trung Quốc xưa thường quan niệm: “Nhất phúc, nhì phận, tam phong thủy, tứ đức, ngũ giáo” (thứ nhất là vận may, thứ hai là phận số, thứ ba là phong thủy, thứ tư là đức hạnh, thứ năm là học vấn). Như vậy để thấy phong thủy quan trọng như thế nào trong cuộc sống con người. Triết lý phong thủy thường được đón nhận bởi những ai hiểu ra rằng khung cảnh sống xung quanh có liên quan mật thiết đến họ và cần phải làm điều gì đó để cải thiện cuộc sống của mình. Đây là một suy nghĩ tích cực nhưng việc áp dụng đúng thuật phong thủy vào thực tế đời sống đòi hỏi người thực hiện phải am hiểu về lĩnh vực này, bởi các nguyên lý của phong thủy không thể vận dụng một cách qua loa, đại khái. Hiểu biết về phong thủy có thể giúp chúng ta tự đặt mình vào những vị trí có lợi nhất trong môi trường sống của mình. Việc chọn nơi làm nhà và văn phòng cũng như cách thiết kế nội thất sẽ ảnh hưởng đối với mỗi chúng ta theo chiều hướng tích cực hoặc tiêu cực. Một doanh nhân trong lĩnh vực kinh doanh vàng kể, khi ông xây nhà biệt thự chỉ quan tâm tới việc chọn hướng nhà theo phong thủy, mà quên mất việc bố trí các cửa chính, cửa phụ, nội thất có phù hợp hay không. Ở nhà mới được một thời gian thì trong nhà có người ốm, công việc kinh doanh của ông cũng không thuận lợi như trước. Thiết kế cửa chính đối diện với cửa sổ và cửa phụ là lỗi thường thấy trong các ngôi nhà hiện đại, theo phong thủy không tốt cho vận mệnh gia chủ. Ảnh minh họa. Tâm sự với bạn, bạn ông giới thiệu một thầy phong thủy có tiếng tới xem nhà. Vừa bước vào phòng khách, thầy phong thủy nói, ngôi nhà có một điều bất ổn là cửa chính đối diện ngay với cửa sổ, trong khi cửa sổ cũng khá lớn. Theo quan niệm phong thủy, cửa chính là lối ra vào của tất cả mọi người trong gia đình, khi cửa chính đặt đúng vào cát phương (hướng mang lại may mắn) thì gió và không khí từ cửa chính thổi tới đều mang theo may mắn. Khi cửa sổ lớn đối diện với cửa chính sẽ ngăn không cho những cát khí này tụ lại trong ngôi nhà. Do đó, sẽ ảnh hưởng đến vận mệnh của ngôi nhà, bất lợi đối với tài vận gia chủ. Đây là lỗi mà rất nhiều ngôi nhà hiện đại khi thiết kế đều phạm phải, nhưng sẽ hỏng cả ngôi nhà nếu lấp cửa sổ cũ vào và đục tường làm cửa sổ khác. “May cho tôi là sai lầm trong thiết kế này vẫn có cách hóa giải đơn giản. Sau khi nghe lời khuyên của thầy phong thủy và nghiên cứu sách, tôi đã để một vài chậu cây xanh (loại cây không có gai) trước cửa sổ để ngăn không cho cát khí phát tán ra ngoài. Sau một thời gian, tôi thấy công việc kinh doanh của mình thuận lợi hơn, không biết có phải nhờ thuật phong thủy trên hay không, nhưng có chút cây xanh trong nhà ít ra cũng khiến tinh thần mọi người thư thái hơn”, vị doanh nhân này nói. Doanh nhân Nguyễn Mạnh Hùng, Chủ tịch HĐQT Công ty CP sách Thái Hà, là người rất coi trọng phong thủy trong công việc và đời sống. Ông đã mất hàng chục năm để nghiên cứu sâu về lĩnh vực này. Ông quan niệm thiên nhiên giữ một vai trò quan trọng và tin rằng mỗi hiện tượng tự nhiên đều chịu sự chi phối của một thần linh. Trong phòng làm việc của ông thường treo một bức tranh sơn thủy, mà theo ông, nó mang đến cảm giác mát mẻ, thư giãn, dễ chịu, giảm bớt sự bực bội, nóng tính. Bên cạnh đó, vì phòng làm việc có máy tính, mà theo quan niệm phong thủy, máy tính mang tính kim nhiều, dễ gây cho con người bức bối và tinh thần khó tập trung. Thế nên để hòa giải, ông thường đặt một cốc thủy tinh đựng nước bên cạnh, vì nước mang tính thủy sẽ giải bớt tính kim của máy tính, giúp chủ nhân có tâm trạng bình an, tỉnh táo. Theo ông Hùng, quan niệm về phong thủy cho biết, chỗ ngồi làm việc của lãnh đạo một doanh nghiệp cũng rất quan trọng, ảnh hưởng tới tài vận công ty. Ông không chọn chỗ ngồi mà cửa ra vào chọc thẳng vào, bởi dòng năng lượng hướng từ cửa vào rất mạnh, nhiều người có thể không đủ khả năng kháng lại. Ông cũng không chọn chỗ ngồi quay lưng ra cửa chính, bởi chủ nhân có thể bị chiếu hậu, soi mói, chọc khóe. Ngồi ở vị trí này, từ trường của bản thân bạn sẽ dần bị mất đi, vận khí và trí óc sẽ không giữ được sự ổn định. Chỗ ngồi lý tưởng nhất cho sếp là nên ngồi dựa lưng vào tường và quay ra cửa, chếch với hướng cửa chính. Ông Hùng chia sẻ: “Việc sắp xếp văn phòng làm việc, cách bố trí nơi công sở tạo ra những điều kiện tốt cho người lãnh đạo. Áp dụng phong thủy vào cuộc sống và kinh doanh cũng giúp doanh nhân sự thoải mái, có những niềm tin mãnh liệt. Điều này hoàn toàn phù hợp với khoa học hiện đại, vì khi có niềm tin, con người sẽ sống vui, sống khỏe, và dễ đạt được mục đích hơn. Sau thời gian đọc và nghiên cứu một loạt các sách về phong thủy, tôi thấy rằng hiểu biết đúng đắn về môn khoa học này giúp cho mỗi con người, mỗi doanh nhân, doanh nghiệp nhận được sự ảnh hưởng tốt nhất của hướng gió, khí, mạch nước để mình có điều kiện tốt nhất đạt đến đỉnh cao nhất trong thiên thời, địa lợi và nhân hòa. Từ đó họ luôn được khỏe mạnh, minh mẫn, công việc tốt, cuộc sống thư giãn và bình an”. Có nhiều doanh nhân chỉ áp dụng phong thủy trong những chuyện lớn, nhưng có những người lại quan tâm đến yếu tố phong thủy từ A đến Z. Anh Nguyễn Xuân Bách, giám đốc một công ty về dịch vụ xây dựng ở Hà Nội là một ví dụ. Ở nhà anh, người mạng nào thì đi xe màu đó. Vợ anh mạng Hỏa nên đi xe Vespa LX màu đỏ, dù chị không thích màu này. Con trai mạng Thủy đi xe màu đen. Anh Bách cũng mạng Thủy nên khi có ý định mua ô tô, anh đã phải đợi 3 tháng trời để cửa hàng nhập về một chiếc Toyota màu đen, vì xe liên doanh hãng này không còn màu đó. Ngoài việc chọn hướng nhà, vị trí văn phòng, bày biện nội thất, màu sắc… liên quan tới phong thủy, việc xem ngày lành tháng tốt để khai trương, hay đặt tên, bảng hiệu cho công ty cũng rất cần “nghe ngóng” qua phong thủy. Trong phong thủy, tên và bảng hiệu của một công ty rất quan trọng, ảnh hưởng tới tài lộc kinh doanh vì nó biếu tượng cho công ty. Vì vậy tên phải nói lên ý nghĩa “vận may”, dễ đọc, bảng hiệu phải cân bằng về kích thước, tỷ lệ và nghệ thuật vẽ trên đó. Để chọn cho công ty một cái tên có ý nghĩa và mang điềm lành, may mắn, cần lưu ý đến tính âm, dương và ngũ hành của từng chữ, từng từ. Người Trung Hoa khi đặt tên cho công ty bằng tiếng Hán tự, họ thường chú trọng đến số nét của từng chữ. Theo phong thủy, chữ nào có số nét chẵn là âm, số nét lẻ là dương. Khi kết hợp, tên đầy đủ công ty phải đi theo tuần tự dương, dương, âm, dương, âm, âm hoặc âm, âm, dương, âm, dương, dương… Ngũ hành cũng ảnh hưởng đến tên của doanh nghiệp. Những âm bắt đầu bằng các chữ cái như C, Q, R, S, X hoặc Z thì thuộc âm Kim, âm G hoặc K thuộc Mộc, âm B, F, M, H hoặc P thuộc Thuỷ, âm D, J, L, N, T thuộc Hỏa và âm A, W, Y, E hoặc O thuộc Thổ. Theo ngũ hành tương sinh thì Kim phải đi với Mộc, Mộc với Hỏa, Hỏa với Thổ, Thổ với Kim, Kim với Thuỷ. Không nên ghép tên theo ngũ hành tương khắc như Thổ với Thuỷ, Thuỷ với Hoả, Hoả với Kim, Kim với Mộc và Mộc với Thổ. Quân bình về ngũ hành cũng quan trọng như âm dương. Cách phối hợp hay nhất của ngũ hành đối với một nhóm chữ như sau: Thuỷ, Mộc, Hỏa Hoả, Thổ, Kim; Hỏa, Mộc, Thủy Thổ, Hỏa, Mộc; Mộc, Thủy, Kim Mộc, Hỏa, Thổ… Theo Đất Việt ======================================== Hic. Theo bài này thì phong thủy thiệt là mốt (mode). Thiên Đồng
  4. Đo đẳng cấp đại gia bằng vật phẩm phong thủy (Nguoiduatin.vn) - Không bỏ lỡ khách hàng là các bậc đại gia, nhiều cửa hàng ra sức mời chào các VIP mua các loại vật phẩm phong thủy để trang hoàng cho phòng làm việc của mình. Bỏ ra hàng chục triệu đồng nhưng sự thực không phải ai cũng biết nó có tác dụng phong thủy ra sao? Đại gia là phải mua hàng khủng?! Có thời người ta ra đường nhìn vào chiếc xe một người đi hay chiếc điện thoại họ dùng ít nhiều đoán được đẳng cấp của chủ nhân. Nhưng khi đến phòng làm việc của một người thì những vật dụng trong phòng lại là thứ để biết tính cách và ít nhiều biết được "độ" đại gia của chủ nhân. Không những bài trí phòng làm sao khoe được tiền mà nhiều đại gia còn tin rằng những vật phẩm phong thủy có giá trị sẽ giúp họ thăng tiến địa vị xã hội và kinh doanh phát đạt. Theo chân một người bạn làm giám đốc một công ty chuyên xuất nhập khẩu thiết bị may mặc đi tìm mua vật phẩm phong thủy cho phòng làm việc, mới thấy hàng phong thủy cũng lắm đẳng cấp. Vật phẩm phong thủy là tỳ hưu đang được nhiều người tìm mua Mới 10h sáng ngày thứ 7, tại một cửa hàng bán vật phẩm phong thủy trên phố Xã Đàn đã khá đông người. Bước gần gian tủ trưng bày hàng khủng mới thấy chắc chắn nó không có chỗ cho những ai mỏng túi khi mà giá các vật phẩm đều tính bằng tiền triệu. Theo lời giới thiệu của người bán hàng thì tỳ hưu là mặt hàng được nhiều đại gia ưa dùng để cải thiện phong thủy của các phòng VIP. Những con tỳ hưu được làm từ đá và ngọc, có 3 cấp bậc là hàng chuẩn, hàng trung và hàng khủng với 3 màu đen, xanh, trắng tượng trưng cho tài lộc, công danh và sức khỏe. Nhanh thoăn thoắt người bán hàng lấy ra một sản phẩm kèm lời giới thiệu đây là loại hàng chuẩn chủ yếu được nhập từ Bắc Kinh và được nhiều doanh nhân vừa và nhỏ ưa chuộng vì giá cả hợp lý, kích thước phù hợp với việc để trong bàn thờ thần tài, thổ địa, tủ kệ nhỏ hay bàn làm việc. Giá nguyên bộ là 6.680.000 đồng. Người bạn tôi chưa kịp phát biểu ý kiến gì về sản phẩm này thì người bán hàng chuyển ngay sang giọng vồn vã săn đón chào mời loại hàng tỳ hưu có giá khủng. Cô này vồn vã: "Thường loại hàng chuẩn phù hợp với túi tiền của những khách hàng bình thường chứ riêng với anh em nghĩ là anh nên chọn loại hàng đẳng cấp nhất ở chỗ em. Loại này nói thật là kể cả anh sang tận Bắc Kinh cũng chưa chắc đã thỉnh được. Vì chủ yếu chỉ có khách du lịch cực VIP mới được dẫn đến xem". Chúng tôi liếc nhanh giá cả bộ 3 con cũng lên tới hơn 50 triệu. Anh bạn tôi đã có nhiều chuyến đi công du nước ngoài cũng không quá xa lạ với những loại tỳ hưu từ Trung Quốc khi nói rằng bên Trung giá rẻ hơn rất nhiều. Cô bán hàng liền bảo: "Anh thích hàng nhái thì bọn em cũng có. Nhiều mẫu tỳ hưu bằng bột đá, thủy tinh, đồng được nhập từ Quảng Đông với giá rất mềm chỉ vài trăm ngàn. Tuy nhiên loại này không có tác dụng phong thủy là bao. Anh mà mua nó về chủ yếu dùng để trang trí thôi. Mà các đại gia đều dùng hàng khủng và họ đều nói từ ngày thỉnh các ông về họ đều làm ăn tốt. Nhiều người còn giới thiệu bạn bè đến mua vật phẩm phong thủy bên em" cô nói vớt thêm. Choáng với chiêu "dương đông kích tây" của cô bán hàng. Thoáng thấy sự ngần ngại của khách mua, cô bán hàng nhanh miệng nhìn chiếc dây chuyền có khánh thạch anh của bạn tôi và phán: "Anh đeo khánh thạch anh có giá vậy không lẽ lại xài hàng tỳ hưu nhái". Bấm bụng sau câu "lăng xê" của cô bán hàng anh bạn tôi bảo cô bán hàng cho số điện thoại về suy nghĩ lại và xin tư vấn của chuyên gia phong thủy rồi quay lại mua sau. Ra khỏi cửa hàng người bạn của tôi bấm bụng cười vì khả năng phán của cô gái bán hàng hơi lố, chiếc khánh thạch anh này một người bạn làm ở công ty khai thác khoáng sản tặng. Giá trị của nó ngoài thị trường cũng chỉ đến khoảng 1 triệu là cùng. Chỉ có tác dụng trang trí Trong khi những người bán thao thao bất tuyệt về phong thủy của các loại đá, thì các nhà nghiên cứu thực thụ về phong thủy lại cho rằng nhiều người mù mờ về phong thủy đang giúp cho những người buôn bán các vật phẩm này giàu lên dễ dàng. Theo chuyên gia nghiên cứu phong thủy Đặng Đức Truyền thì các loại đá không phải là một yếu tố trong phong thủy. Phong thủy chủ yếu bao gồm các yếu tố gồm khí, được hiểu là các bức xạ từ vũ trụ đến trái đất. Hai là dòng khí, đó là không khí. Không khí chuyển động thì tạo thành gió. Yếu tố tiếp theo là quang, tức là ánh sáng, tia nắng mặt trời. Ánh sáng tạo thành bởi các hạt và sóng. Bốn là thủy, tức là nước, nước hấp thu khí của vũ trụ. Năm là phương vị, tức là 8 phương vị trong kinh dịch. Đó là thuộc tính của trường không gian, cùng phương hướng và cường độ của từ trường. Các loại đá mà họ quảng cáo có giá trị phong thủy chủ yếu là giúp căn phòng tăng cường yếu tố mỹ thuật và tạo hình. Theo một chuyên gia phong thủy thì người xưa vẫn có câu là "gần đá xa bệnh" bởi những viên đá đều có từ trường nhất định, đặc biệt là những loại đá quý và bán quý, nhất là đá thạch anh, hay các loại ngọc quý. Từ rất lâu, người phương Đông sử dụng đá trong việc bổ trợ sức khỏe, nếu biết dùng đúng cách, chứ không phải là loại đá trị bách bệnh, công hiệu trong mọi trường hợp. Chính vì thế nhiều nơi được mệnh danh là thiên đường của các loại đá quý như Thái Lan thậm chí họ còn có trung tâm nghiên cứu rất kỹ về chúng. Tại xưởng chế tác đá quý của của Hoàng Gia Thái Lan họ còn chia từng loại màu đá phù hợp với người sinh từng tháng trong năm. Ví dụ như người sinh tháng 12 sẽ đeo lại đá có màu xanh ngọc bích... Tất cả những điều đó thể hiện sự kỳ công trong việc chế tác và sử dụng chứ không phải cứ đắt là tốt. Cũng theo các chuyên gia này thì phong thủy cho một phòng làm việc phải dựa vào tuổi chủ nhân để chọn chỗ ngồi cùng với kết hợp các yếu tố trong phong thủy. Như người sinh năm Ất sửu (1985) là hải trung kim (vàng dưới biển) cung tốn. Những người sinh năm này nên đặt bàn làm việc ngồi theo hướng Đông nam. Kèm theo việc đặt bàn làm việc là vị trí sắp xếp các đồ đạc trang trí cho căn phòng như đặt trên bàn làm việc một cột thủy tinh, có tác dụng ngưng tụ năng lượng trong không gian về một điểm, tăng khả năng tư duy. Hay đặt các tượng giả cổ màu đỏ hoặc màu tía ở góc Đông nam của bàn tượng trưng cho sự giàu có. Không rõ cuộc chạy đua chứng tỏ đẳng cấp đại gia phải tốn bao nhiêu tiền, nhưng chắc chắn các đại gia sẽ chẳng thể làm việc hiệu quả nếu một bàn làm việc không sạch sẽ, gọn gàng. "Nơi làm việc thông thoáng, để sinh khí luân chuyển, tránh các dòng khí bị ngưng trệ và có tác động tích cực đến tâm lý cũng như hiệu suất làm việc của mỗi cá nhân đó mới là điều quan trọng ông" Truyền thẳng thắn chia sẻ. Hoàng Mai ======================================= Để càng nhiều thì hao càng nhiều thôi. Nghề chơi chịu lắm hao tiền mờ. Hic. Thiên Đồng
  5. Quả châu giữa hai rồng ngoài biểu tượng là Thái cực ra, còn là dấu ấn văn minh, văn hóa phương Nam, Lạc Việt. Dịch viết "Ly vi nhật...", quái Ly có nhiều nghĩa như trung nữ, lửa...trong đó có nghĩa là mặt trời. Hình tượng vòng tròn đỏ hay quả cầu đỏ bên trong với vòng rực lửa bao quanh là hình tượng mặt trời thể hiện rỏ ràng nội dung của quái Ly, quái Ly thuộc phương Nam, trong bát quái Hậu Thiên Lạc Việt hay Hậu thiên Văn Vương. Và chính cái di chỉ phương Nam trơ gan cùng tuế nguyệt này là chứng cứ hùng hồn cho cội nguồn của thuyết Âm Dương Ngũ Hành thuộc nền văn hiến Việt 5000 năm huyền vĩ. Đây là những giải thích từ Sư Phụ Thiên Sứ, Nguyễn Vũ Tuấn Anh. . Lưỡng long tranh châu ở chùa Bối Khê Lưỡng long tranh châu ở một chùa tại Malaysia, dấu ấn Việt tộc.
  6. Chỉ cần trực quan nhìn hình thì thấy rằng với vòng lửa xung quanh và vòng tròn là mặt nguyệt thì không tương thích một tý nào. Mặt trăng ánh sáng lạnh hòa dịu, chỉ có mặt trời là rực lửa. Và rỏ ràng đó là tròn đỏ với hình rực lửa. Ở Tiên Thiên phương nam là quái Càn, dân gian Việt là hay có câu "Trời Nam đất Bắc", đúng với Tiên Thiên phương Nam Càn (Trời), phương Bắc Khôn (Đất), đến độ khi dân Việt tiến về phương Nam mở cõi thì cũng thấm nhuền mà nói: Tự thưở mang gươm đi mở cõi Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long. Theo tôi hai câu này là hợp lý, không phải là "ngàn năm thương nhớ...", vì nó không có tính đối lập. Và viền lửa hỏa cũng là tượng quái Ly trong Hậu Thiên cũng là phương Nam. Như vậy có sự nhất quán của hình tương tương thích mặt trời và vòng rực lửa là đều có hình tượng , hay tượng nghĩa là phương Nam dầu là Tiên Thiên hay Hậu Thiên. Như vậy rỏ ràng đó là dấu tích là minh chứng ghi dấu ấn văn minh văn hóa Văn Lang, Lạc Việt phương Nam. Thiên Đồng mạo muội nói thêm những gì được học, được giải thích từ Sư Phụ Thiên Sứ, Nguyễn Vũ Tuấn Anh. Thiên Đồng
  7. @ phạm trung, Xét về mặt khả năng, tôi cho rằng một là cụ tuyệt đối giỏi, nhưng thời gian dành cho chuyện giải lá số cho bạn chỉ là đến đó để khỏi mệt mỏi giải tiếp, cái thời hạn tiếp theo là chỉ sơ sơ thôi nên nó sai; hai là trình độc cụ cũng tương đối nên giải lá số có cái trùng có cái trật. Xét về mặt phương pháp thì cũng có thể cụ chỉ giải được tới đó... Việc đổi tên, đổi mạng (hai cái này chỉ là hai yếu tố quá nhỏ!)mà đánh lệch được quỷ đạo cuộc đời, nghĩa là đổi mệnh thì luật nhân quả như bị báng bổ, định mệnh không có thật và ông phật phải nhảy khỏi tòa sen để trở lại làm vua! Bạn hãy thử đặt một ly nước trước mặt, ngồi yên lặng 49 ngày, niệm bất cứ danh xưng nào...Phật, Chúa, Thánh, Mohamed, Shiva, Phù Thủy...xin rằng "Xin cho dịch cái ly nước này qua bên phải (hay trái) 3cm". Liên tục niệm như thế 49 ngày, nếu chỉ cần sau một ngày mà ly nước tự dịch chuyển được 1 cm thì tôi tin là bạn đã được đổi mệnh, và người ta có thể phù phép đổi mệnh. Lưu ý: tôi loại trừ trường hợp bạn có một công năng nào đó như khí công, công năng đặc dị... mà dịch chuyển. Không chơi trò này! Điều kiện là bạn chị gọi tên, niệm danh các vị ấy. Thiên Đồng
  8. Chỉ tiếc rằng ý tưởng con hẻm lại là một trong nhiều yếu tố góp phần làm xấu thêm phong thủy nhà chú Hỏa. Năm 2008 Thiên Đồng cùng Sư Phụ vài anh Công Minh, Hatgao đi quan sát ngôi nhà này. Quả là có nhiều điều thú vị. Cấu trúc bên trong không hài hòa âm dương và những thứ khác. Nhưng dẫu sao cũng một thời hiển hách. Thiên Đồng
  9. Người đọc thông viết thạo chữ Việt cổ! (VTC News) - Sau 50 năm nghiên cứu chữ Việt cổ, thời đại Hùng Vương, ông giáo già Đỗ Văn Xuyền giờ đã đọc thông, viết thạo chữ Việt cổ. Ông có thể nói luôn cả tiếng của người Việt cổ xưa. Ông Xuyền nói vui rằng, nếu có phép thần thông quảng đại, hoặc cỗ máy vượt thời gian, đưa ông về thời Đông Sơn, ông có thể dễ dàng giao tiếp với người Việt thời kỳ đó. Giờ đây, thầy giáo Đỗ Văn Xuyền, với bút danh Khánh Hoài, vẫn sáng tác thường xuyên. Bản thảo truyện ngắn, công trình nghiên cứu lịch sử, văn hóa của ông xếp thành chồng. Tuy nhiên, không ai đọc được những bản thảo đó ngoài ông, vì chúng được viết bằng chữ… Việt cổ. Tôi đưa cuốn sổ cho ông Xuyền, nhờ ông viết mấy chữ tặng tôi. Chẳng cần suy nghĩ, ông cầm bút viết nhanh như viết chữ Quốc ngữ. Ông Xuyền viết tặng phóng viên bằng chữ Việt cổ. Cho đến lúc này, một số người vẫn coi việc làm của ông là điên rồ, rỗi hơi, bởi dù thứ chữ Việt cổ đó có được khôi phục lại, cũng chẳng ai dùng nữa, vì đã có chữ Quốc ngữ rồi. Ông Xuyền thì không nghĩ như vậy. Với ông, chỉ cần trả lời được câu hỏi: Thời kỳ Hùng Vương tổ tiên chúng ta có chữ hay không, đã là một thành công ngoài sức tưởng tượng của ông rồi. Với việc chứng minh thời kỳ đó có chữ viết, ông Xuyền càng tự hào về tổ tiên mình, là những người có trình độ, tri thức cao, chứ không phải là những người tiền sử, đóng khố, ở trần như sử sách vẫn nói. Giải mã chữ Việt cổ giúp công tác nghiên cứu lịch sử, khảo cổ thời kỳ Hùng Vương thuận lợi hơn. Các nhà khoa học phương Tây đã làm được một việc vĩ đại, đó là giải mã được chữ viết đã thất truyền của người Ai Cập cổ đại. Dù xã hội hiện đại không dùng thứ chữ đó phục vụ cuộc sống, nhưng nó là phương tiện cực kỳ thuận lợi để các nhà khoa học nghiên cứu lịch sử. Có vô vàn những tài liệu bí ẩn thời Ai Cập, mà nếu không giải mã được chữ viết, sẽ bế tắc trong việc nghiên cứu. Nghĩ vậy, nên ông Xuyền đã dày công tìm cách giải mã loại chữ Việt cổ thất truyền này. Ông giáo già Đỗ Văn Xuyền bảo rằng, tài năng khảo cổ, lịch sử, nhất là chữ Việt cổ của ông, không thể so với những “núi Thái Sơn” như Hà Văn Tấn, Lê Trọng Khánh, Phạm Thận Duật, Vương Duy Trinh… Thế nhưng, ông lại có may mắn hơn các vị tiền bối, là được tiếp thu những công trình nghiên cứu vĩ đại của người đi trước, vô tình có được nhiều tài liệu quý và may mắn khi tìm ra được phương pháp giải mã loại chữ cổ này. Rất nhiều tài liệu cổ còn lưu giữ ở vùng sâu, vùng xa chờ các nhà khoa học giải mã. Sau khi sưu tầm đầy đủ ký tự chữ Việt cổ, nắm được giọng nói, ngôn ngữ của người cổ, ông Xuyền nghiên cứu ngôn ngữ, chữ viết tuần tự theo thời gian từ thời hiện đại trở về trước. Ông đã vô cùng ngạc nhiên khi đọc được một tài liệu cổ, mà nhà truyền giáo Alexandre de Rodes đã viết: “Đối với tôi, người dạy tài tình nhất là một thiếu niên bản xứ. Trong vòng 3 tuần, anh ta đã hướng dẫn cho tôi tất cả các thanh của ngôn ngữ ấy và cách đọc các từ”. Như vậy, rõ ràng một thiếu niên bản xứ đã dạy cho nhà truyền giáo người Bồ Đào Nha này một loại ngôn ngữ tượng thanh. Ông ta chỉ học có 3 tuần là biết cách đọc các từ, thay vì phải học ít nhất 10 năm như chữ Hán. Ông Xuyền tin rằng, thứ chữ mà người thanh niên đó dạy nhà truyền giáo Bồ Đào Nha là chữ Việt cổ! Điều đó có nghĩa, những nhà truyền giáo người Bồ Đào Nha đã tiếp thu bộ chữ cổ của người Việt, và có công Latin hóa nó, để ra được chữ Quốc ngữ. Những văn bản Quốc ngữ thời kỳ đầu rất khó đọc, nhưng ông Xuyền có thể đọc dễ dàng. Ngoài ra, có một tài liệu lưu ở Tòa thánh La Mã. Sau khi chép lại nhiều trang giấy tập viết chữ Quốc ngữ, đoạn cuối, chủ nhân của tập tài liệu viết thế này: “Đây là tài liệu tập chuyển thể từ chữ Việt cổ sang chữ Quốc ngữ (năm 1625 – tài liệu)”. Nghĩ theo hướng đó, ông Xuyền lục tìm những tài liệu liên quan đến các nhà truyền giáo, đến chữ Quốc ngữ vào thế kỷ 17, 18. Ông Xuyền giở một đống tài liệu phôtô các văn bản chữ Quốc ngữ từ cách nay vài chục năm, cho đến 350 năm trước cho tôi xem. Những văn bản này còn lưu lại rất nhiều trong các thư viện ở Lisbon, Pari, Roma... Tôi quả thực hết sức ngạc nhiên về những văn bản này. Những văn bản từ đầu thế kỷ 20 còn đọc được khá trôi trảy, nhưng ngược đến thế kỷ 19, tương đối khó đọc, và nhiều chữ không đọc nổi. Lần giở các văn bản chữ Quốc ngữ của thế kỷ 17 thì gần như không đọc được. Tôi chỉ có thể đọc được một vài chữ trong một văn bản cả ngàn chữ vào thời kỳ mà chữ Quốc ngữ mới ra đời. Giờ đây, ông giáo Xuyền ít sử dụng chữ Quốc ngữ, mà toàn sử dụng chữ Việt cổ vào công việc ghi chép, sáng tác. Theo ông Xuyền, vì ông đã nghiên cứu chữ Việt cổ rất lâu rồi, 50 năm nay rồi, và đã hiểu được tương đối, nên khi cầm những văn bản chữ Quốc ngữ thời kỳ đầu, trong khi các nhà khoa học chưa chắc đã đọc được, thì ông đọc vanh vách, không bị vấp bất cứ một chữ nào. Điều ngạc nhiên mà ông Xuyền nhận thấy, đó là nhiều ký tự mà các nhà truyền giáo người Bồ Đào Nha sử dụng trong những buổi đầu tương đối giống với chữ Việt cổ. Càng về sau này, qua cả trăm lần cải tiến, thay đổi, những chữ tương đối giống chữ Việt cổ đã dần biến mất và mất hẳn bóng dáng trong các văn bản Quốc ngữ ngày nay. Mặc dù, về hình dáng, chữ Việt cổ không còn nét nào giống chữ Quốc ngữ, nhưng lại cùng có cấu trúc ghép vần. Theo ông Xuyền, bí quyết để giải mã được chữ Việt cổ, là phải hiểu được ngôn ngữ thời xưa và nắm được quy luật thay đổi vị trí nguyên âm theo đạo lý người Việt (ví dụ từ “trời” nguyên âm đặt phía trên, từ “đất” nguyên âm đặt phía dưới. Tương tự các từ “cha, con” nguyên âm đặt phía trước hoặc sau…). Khi đã nắm được quy luật ghép vần, hiểu được ngôn ngữ Việt cổ, thì chỉ cần học chưa đầy 10 ngày, có thể đọc, viết được loại chữ này! Con rùa đá có khắc chữ Việt cổ đặt tại miếu Hai Cô. Ảnh nhân vật cung cấp. Khi đã giải mã được chữ Việt cổ, ông Xuyền có thể dễ dàng phiên dịch từ chữ Việt cổ sang chữ Quốc ngữ và ngược lại. Chữ Việt cổ không ghi âm được phần lớn ngôn ngữ hiện đại, nhưng khi chuyển ngôn ngữ hiện đại về ngôn ngữ Việt cổ, thì việc dịch diễn ra dễ dàng. Từ ngày giải mã được loại chữ mà ông Xuyền khẳng định là chữ Việt cổ, chính quyền, nhân dân Việt Trì đã góp công sức, tiền bạc xây dựng lại ngôi miếu Hai Cô. Các hoành phi, câu đối đều được viết bằng thứ chữ Việt cổ do ông Xuyền thực hiện. Mới đây, Trung tâm Văn hóa người cao tuổi Việt Nam đã dâng tặng ngôi miếu một “quy thần” bằng đá, lưng khắc chữ Việt cổ. Rùa đá này biểu thượng cho quy thần mà Hùng Quốc Vương dâng tặng cho Vua Nghiêu vào năm 2357 trước công nguyên. Có thể nói, sự tồn tại của chữ Việt cổ là một sự thật, đã được các học giả trong và ngoài nước thừa nhận. Đó là niềm tự hào dân tộc. Việc giải mã được chữ Việt cổ, giúp chúng ta và thế hệ sau sẽ có điều kiện tốt hơn trong việc nghiên cứu lịch sử nước nhà. Công trình giải mã chữ Việt cổ của nhà giáo già Đỗ Văn Xuyền đã đúng hướng hay chưa, đã thành công được mức độ nào, cần có rất nhiều sự đầu tư của các nhà khoa học và các cuộc hội thảo mang tầm quốc gia, thậm chí là quốc tế. Phạm Ngọc Dương Phản ánh của đọc giả: Nhà nghiên cứu lịch sử: Cây đại thụ hay bonsai?- 26/04/2011 Viết thì phải biết lách! Không lách dễ mích lòng và đôi khi còn gặp nguy hiểm bởi bọn tiểu nhân. Nhưng thôi, hôm nay đành chịu mích lòng để nói thẳng nói thật không lách. Khi nghiên cứu lịch sử về những nền văn minh cổ đại trên thế giới, chúng ta đều nhân thấy rằng các nền văn minh ấy thường lụi tàn theo bước chân xâm lược để rồi tinh hoa của nền văn minh ấy lại được quân xâm lược mang đi phát triển ở một vùng đất khác. Khi quân xâm lược đến họ thường cướp phá và xóa hết mọi tàn tích dấu vết của nền văn minh hiện hữu, cho nên nó chỉ còn lại một đống hoang tàn, đổ nát… Tôi không cần thiết phải dẫn chứng, vì trong tay các bạn hiện nay đã có công cụ internet, các bạn có thể vẽ đường dịch chuyển của các nền văn minh. Và hãy chú ý rằng, tinh hoa của nền văn minh đi sau bao giờ cũng bao gồm một phần lớn của nền văn minh đi trước cùng với các biến thể khác. Cứ thế hưng thịnh rồi suy tàn, rồi theo vó ngựa trường chinh đi về phát triển ở nơi khác. Kể ra sự phát triển văn minh của loài người thời cổ đại thật quá nghiệt ngã! Trở lại vấn đề của chúng ta, chúng ta có hơn 1000 năm bị người Tàu đô hộ, thì tinh hoa dân tộc đâu còn lại những gì? Khi người Tàu cố tình đồng hóa dân Giao Chỉ thì sách vở tư liệu đâu còn để cho con cháu sau này nghiên cứu viết lịch sử nước nhà. Cái phá hoại, cố tình xóa bỏ cội nguồn của Giao Chỉ để đồng hóa trong khoảng hơn 1000 năm thì quá ư là khủng khiếp! Nhưng vẫn còn lại đấy, còn rất nhiều nữa là khác. Còn những kí tự khắc ở Hoàng Liên Sơn và các vùng núi đá khác ở Bắc Việt Nam. Tổ tiên chúng ta muốn nói gì khi khắc lên đá? Còn chúng ta, con cháu cứ để đá mòn theo thời gian? Thật kinh khủng khi vừa cai trị vừa đồng hóa trên 1000 năm! Như vậy mấy thế hệ nhỉ?-Trên 10 thế hệ! Nhưng đáng nói là cái thâm độc khi bắt lớp sĩ phu của dân ta phải học chữ Tàu, sử Tàu và thi kiểu Tàu! Nói chung sĩ phu ta ngày ấy giỏi sử Tàu hơn sử ta. Thêm vào đó là tâm lý ta tự coi ta là nhược tiểu mọi cái phải hướng về thiên triều. Cũng may, cha ông ta đã quật cường dành lại độc lập. Nhưng sau độc lập đến thời kì phong kiến thì cái di chứng về sự đồng hóa trong tâm thức của lớp sĩ phu vân còn. Không trách được vì bị đồng hóa quá lâu cho nên dù yêu nước nhưng vẫn có tâm lý hướng ngoại, tức là huớng về thiên triều! bằng chứng là tổ chức các cuộc thi, người Việt Nam mà lại đi thi tứ thư, ngũ kinh? Các cụ nói chuyện văn chương với nhau lại thường lấy điển tích, điển cố bên Tàu, lấy truyện Tàu ra dẫn chứng để cho thiên hạ thấy rằng mình có học. Ôi! Sĩ phu thời phong kiến! Các cụ lấy sử Tàu để dệt sử ta! Và khi viết thì ai cũng phải lách để giữ sĩ diện cho các cụ. Mong các cụ tha tội, cháu chỉ phạm tội dẫn chứng mà thôi. Cháu vẫn kính các cụ. Sau di chứng của các cụ lại đến di căn của lớp sau! Viết sử Việt Nam mà tổng hợp trích dẫn từ cứ liệu Tàu! Vào thời điểm hiện nay mà người Tàu còn dám vẽ đường lưỡi bò trên biển Đông để dành chủ quyền. Rùa Hoàn Kiếm của ta lại dám chứng minh lại giống con giãi Thượng Hải? Đấy!Nếu còn tin thì cứ lấy cứ liệu đường lưỡi bò và giãi Thượng Hải ghi vào sử đi? Ôi! Nhà nghiên cứu lịch sử Việt Nam! Tôi cũng như bạn, chúng ta luôn trân trọng tình đoàn kết với tất cả các dân tộc các anh em trên toàn thế giới, chúng ta trân trọng hòa bình và độc lập dân tộc, nhưng cái nào ra cái đó. Chúng ta phải giữ văn hóa và bản sắc của lịch sử chúng ta, không vì mở cửa ra với thế giới để rồi mình tự đánh mất mình. Tôi tin rằng, nếu chúng ta nghiên cứu lại lịch sử của chúng ta một cách bài bản, có chứng cứ khoa học rõ ràng để giải mã những oán khúc của Giao Chỉ trên bốn ngàn năm, thì tổ tiên của chúng ta sẽ ngậm cười nơi chín suối và bạn bè khắp thế giới sẽ trân trọng chúng ta hơn. Xin những cây bonsai hãy thôi tạo dáng và rũ bỏ những sĩ diện hảo huyền, bước ra khỏi chậu sành để mọc những chùm rễ thực trên dất mẹ Giao Chỉ rồi hòa cùng với các loài cỏ cây khác, reo trong gió hai tiếng “VIỆT NAM” (anhphong) Một phát hiện vô cùng quan trọng cần mở rộng, phát huy- 25/04/2011 Tôi cũng như rất nhiều bạn đọc ở đây đồng ý rằng đây là một khám phá hết sức quan trọng. Vì sao? Vì chữ viết, ngôn ngữ bất kỳ dân tộc nào đều cho chúng ta biết rõ hơn về lịch sử của dân tộc đó; mà chúng ta đến nay hoàn toàn không có thông tin gì về quá khứ, lịch sử của dân tộc (một cách đáng tin cậy). Chúng ta rõ ràng có quá khứ, có ngôn ngữ nhưng chữ viết đâu? Văn bản đâu? Tron 1000 năm bắc thuộc dân tộc chúng ta như thế nào? Thời Vua Hùng thực hư giữa truyền thuyết và hiện thực ra sao? Không thể tin toàn dân tộc chúng ta đều dùng chữ Hán, và càng không có cơ sở để nói chúng ta dùng chữ Hán trước cả thời kỳ bắc thuộc! Đó chỉ là tuyên truyền của bọn Hán xâm lăng hòng mưu đồ xóa sạch lịch sử của chúng ta, đồng hóa dân tộc ta. Vì thế lịch sử, địa danh trong Hán thư mới bị xóa, sửa đổi như nghiên cứu của Trần Quốc Vượng và các nhà sử học khác đã chỉ ra. Tôi kêu gọi thành lập quỹ nghiên cứu chữ Việt cổ. Trước mắt ít nhất cũng có thể hỗ trợ để nhà giáo Xuyền đưa các thông tin và tài liệu có được lên mạng; nếu không chúng có nguy cơ bị mất hết!! Việc giáo sĩ Bồ Đào Nhà chuyển thể từ chữ Việt cổ sang chữ Latinh có lỹ hơn rất nhiều chuyển từ chữ Hán vì dân thường (là đối tượng truyền giáo) mấy ai biết chữ Hán! Đừng để phát hiện vô cùng quan trọng này mất đi! (Anh Minh) Nghiên cứu, khám phá lịch sử, huyền sử? chúng ta thiếu những cái bắt tay và những góc nhìn khác nhau- 23/04/2011 Sau loạt bài của bạn Phạm Ngọc Dương viết về thầy giáo Đỗ Văn Xuyền đang tự nghiên cứu về chữ việt cổ cùng với những ý kiến bàn luận của bạn đọc, tôi xin nói thêm vài điều. Tôi không phải là nhà nghiên cứu lịch sử, tôi chỉ là một bạn đọc nói từ hàng ghế độc giả mặc dù thật sự không có chuyên môn. Theo tôi, khi nghiên cứu hay khám phá một sự kiện lịch sử nào đó thì chúng ta phải hiểu rằng sự kiện đó xảy ra bao hàm rất nhiều vấn đề trong cùng một thời điểm. Và cảm nhận được sự kiện đó là do ý thức của từng con người với những góc nhìn hoàn toàn khác nhau. Không thể tách riêng từng vấn đề ra để xác định sự kiện đó được vì nó sẽ phiến diện. Nhiều vấn đề cùng hội tụ lại mới làm cho sự kiện đó xảy ra trong khoảng thời gian đó. Nếu tách ra để nghiên cứu thì như kiểu người mù sờ voi rồi tả voi! Ôi! Nếu tả voi như thế thì con voi sẽ như thế nào nhỉ? Đó là tôi chưa nói đến chuyện là tình trạng nghiên cứu lịch sử của chúng ta hiện nay đa số là lấy nguồn trích dẫn từ sách cổ của trung quốc, viết theo ý thức của các thời kỳ như Sỹ Nhiếp là cố tình xóa bỏ, bẻ cong lịch sử văn hóa người Việt, triệt tiêu văn hóa Việt để đồng hóa. và như vậy thì rỏ ràng rằng là người mù lại sờ voi giấy để tả voi! Ai tin chuyện bà Âu Cơ là con của Đế Lai bên tàu đi tuần thú phương Nam rồi để lại bà Âu cơ cho Lạc Long Quân? Vì nếu như vậy thì vô tình trong chúng ta có một nửa là người phương bắc. Đây có phải là thâm ý của người viết sử tàu cố tình để đồng hóa từ cội nguồn chúng ta hay không? Trong khi đó nếu nghiên cứu về nhân chủng học thì cũng không thấy cơ sở nào chứng minh là người Việt di tản từ phương bắc xuống hoặc có nét tương đồng với người phương bắc? Mà rõ ràng là người Việt sống ổn định rất lâu ở bắc Việt Nam. Tôi chưa nói đến chuyện chúng ta là người Giao Chỉ mà người phương bắc đã từng mô tả. Chính vì thế mà cá nhân tôi không tin chuyện bà Âu Cơ là con của Đế Lai. Huyền sử phải được nghiên cứu rõ ràng và viết lại. Chúng ta cần phải có nhiều góc nhìn lịch sử khác nhau, và các nhà khoa học của các ngành khác nhau cùng tham gia bắt tay để viết sử mới mong vén lên được bí mật huyền sử. Nghiên cứu lịch sử kiểu gì mà cứ trích dẫn, trích dẫn,... theo sách ,... không phân tích, không hiểu được thâm ý của kẻ viết sử? Không am hiểu khoa học tự nhiên, cứ miệt mài nói theo, dẫn theo,... rồi truyền lại. tôi nói như vậy chắc chắn là động đến tự ái của các nhà nghiên cứu lịch sử trích dẫn. Nhưng có lẽ phải nói. Tôi muốn hỏi rằng vật liệu nào để người Việt khắc lên trên đá cứng ở Sapa, Hoàng Liên Sơn? Ký tự đó nói lên điều gì? Vào khoảng thời gian nào? Tại sao chúng ta lại có tên Giao Chỉ? Phân tích DNA của chúng ta thì thế nào? Tại sao đại hồng thủy lại xảy ra gần trùng với thời kỳ Hùng Vương để từ đó có truyền thuyết năm mươi con lên non, năm mươi con xuống biển? Tại sao chúng ta biết tinh luyện đồng để đúc trống? Trống đồng để làm gì? Tại sao? Tại sao?... Và như vậy thì rõ ràng để giải quyết một sự kiện lịch sử phải cần giải đáp nhiều vấn đề và một người đơn độc như thầy Xuyền thì khó có thể làm hết được, phải có một sự chung tay của nhiều người. Xin hãy thôi đi kiểu nghiên cứu lịch sử trích dẫn ba hoa, mà hãy xem đó như là một nguồn tham khảo để rồi phân tích nó dưới nhiều góc nhìn khác nhau cùng với các chứng cứ khoa học. Và câu chuyện “ Biết đâu nguồn cội” mà tôi đã gữi trước đây là một trong những góc nhìn sau khi đọc loạt bài phát hiện các vết trầm tích khảo cổ( thời kỳ đại hồng thủy) gần trùng với thời điểm của các vua Hùng đang trên báo Thanh Niên 2010. Mời các bạn đọc qua và hy vọng rằng trong tương lai đây sẽ là một kịch bản của một bộ phim về huyền sử mẹ Âu Cơ. Trong phim các nhân vật sẽ nói và viết tiếng Việt cổ của thầy Xuyền cùng với các chứng cứ khoa học để cho lớp trẻ có cách nhìn khác về cội nguồn dân tộc Việt Nam. Đây chỉ là một góc nhìn của tôi và hy vọng rằng sẽ còn nhiều góc nhìn khác của các bạn về huyền sử của chúng ta. (anhphong)
  10. Cái này mà gọi là thư pháp thì quả là củ chuối không gì bằng. Quả là lừa đảo mang danh nghệ thuật! Thiên Đồng
  11. Khi Tết Việt trở thành... công nghiệp hóa Tác giả: Hoài Hương Nếu muốn giữ truyền thống thì có nên "công nghiệp hóa" Tết Việt như hiện tại. Và nếu cứ "công nghiệp hóa" như thế, Tết Việt trong tương lai sẽ ra sao? Truyền thống hay không còn mang bản sắc nguyên thủy của Tết Việt? Tết Nguyên Đán với người Việt từ thời lập quốc mấy ngàn năm nay, đã trở thành một nghi lễ đầu năm mới mang nhiều ý nghĩa cho sự trường tồn, phồn thịnh, an bình. Đặc biệt, những phong tục trong "ba ngày Tết" như một tập quán văn hóa truyền thống, một trong những cái gốc rễ để giữ được bản sắc Việt. Nhưng có lẽ bước sang thế kỷ 21, khi các khái niệm "tòan cầu hóa", "thế giới phẳng", "công nghệ cao", "kinh tế thị trừơng"... bao trùm lên mọi mặt cuộc sống xã hội, thì những gì thuộc về truyền thống, di sản, văn hóa dân tộc hay "bản sắc Việt"... cũng bị lây nhiễm làm cho phai nhạt, mất màu, lai tạp và thậm chí biến chất hòan tòan. Truyền thống và... công nghiệp hóa Kể từ cái bánh chưng Lang Liêu thời Vua Hùng Vương thứ 6, thì những phong tục trong "ba ngày Tết" truyền thống dân tộc Việt đã trở thành một mặc định của nền văn hóa Việt. Được giữ gìn, lưu truyền và như một di sản văn hóa của cha ông để lại cho muôn đời sau. Để như một cái gốc rễ tạo nên bản sắc Việt, không thể bất kỳ thế lực nào đồng hóa, thay đổi hay phá hủy. Tục gói bánh chưng, giã bánh dầy, như một ý niệm về vũ trụ, sự sống, tồn sinh và phồn thịnh của nền văn minh lúa nước, bánh chưng hình vuông, màu xanh, tượng trưng trái Đất- âm. Bánh dầy hình tròn, màu trắng, tượng trưng Trời- dương. Bánh chưng, biểu tượng cho Mẹ, bánh dầy biểu tượng Cha. Bánh chưng bánh dầy là thức ăn trang trọng, cao quí nhất để cúng Tổ tiên, thể hiện tấm lòng nhớ công ơn sinh thành dưỡng dục to lớn, bao la như trời đất của cha mẹ. Nhưng rồi, Tết bây giờ không phải nhiêu khê rắc rối, bận rộn những nếp, đậu, thịt, măng, miến, giò chả, bánh trái... Tất cả chỉ cần một buổi chợ, ra siêu thị hay các cửa hàng là có thể có đủ những gì gọi là món ăn truyền thống trong ba ngày Tết. Những "bốn bát, sáu đĩa", hay "sáu bát, tám đĩa" với các cao lương mỹ vị cũng đều có đủ, chỉ cần ra chợ một lúc, là có thể bày lên mâm, không phải ninh, nấu, gói, hấp... mất cả ngày mệt nhọc. Bây giờ thật hiếm có cảnh nhà nhà đua nhau đi chợ mua nếp, đậu, thịt, lá dong..., rôi ngâm đậu đãi vỏ, ngâm nếp, ướp thịt, cắt lá... để gói bánh chưng. Đêm 30, cả nhà xúm xít quanh nồi bánh, đợi bánh chín, vớt ra, nén, rồi trang trọng đặt lên bàn thờ Tổ tiên. Họa hoằn chỉ còn ở mấy miền quê "vùng sâu vùng xa" và ở mấy làng truyền thống làm bánh chưng cho cả thành phố ăn Tết. Tấm bánh được sản xuất như một món hàng thực phẩm đóng gói ăn liền, bày bán đại trà trong siêu thị với công nghệ làm bánh "tự động hóa". Vẫn là lá dong gói bên trong, nhưng mỗi cái bánh được ép trong một lớp nhựa polimer. Giò chả cũng tình trạng y như thế. Không phải là lá chuối truyền thống, mà được gói bằng một lớp nhựa polimer trong, bọc ngòai một lớp polimer nhuộm màu xanh tạo hình như lá chuối. Giò chả không phải giã thịt bằng chày trong cối đá, mà được xay nhuyễn trong một cối máy công nghiệp, mỗi mẻ giò được tính hàng tấn thịt, chứ không phải vài chục kg. Rồi thì bánh mứt các lọai, ê hề tràn lan, thậm chí ở dọc vỉa hè cũng bày bán.... Ai cần gì những bàn tay khéo của các cô gái, các bà nội trợ cắt cắt, gọt gọt, tỉ mẩn bên những khay bí, gừng, quất, dừa.... Ra chợ, mứt gì cũng có, vừa đẹp vừa không tốn công. Và Tết Việt bây giờ, còn có những "của lạ", xuất xứ từ các quốc gia lân bang. Trên bàn thờ có khi không có thứ gì "made in Việt Nam" mà mang tòan tên ngọai, từ bánh, rượu Tây, cam, nho, lê, táo đều của Úc, Mỹ, Trung Quốc..., (không biết tổ tiên có đọc được chữ để biết mình đang thưởng thức món gì?) Dường như cái sự "công nghiệp hóa" đó đã làm hỏng tính chất đẹp đẽ thi vị nhiều ý nghĩa của các món ăn truyền thống trong ngày Tết. Người kinh doanh thì lấy lợi nhuận là trên hết, nên bất chấp những gì gọi là an tòan vệ sinh thực phẩm. Có Tết nào mà không có chuyện rượu giả, bánh thiu, thịt ươn, mứt bẩn. Có Tết nào mà không có những vụ ngộ độc thực phẩm thừa sống thiếu chết do những hóa chất tẩm ướp trong thực phẩm cho bắt mắt. Và khi truyền thống bị biến chất Phong tục ngày Tết xuất phát từ ước nguyện một năm mới mưa thuận gió hòa, ấm no, hạnh phúc cho bản thân, gia tộc, đất nước... Nhưng rồi, do những xô đẩy du nhập của nhiều luồng văn hóa khác nhau, không có chọn lọc, lại thêm chính sự tha hóa của con người, không đủ kiến văn để cho bản thân một cái "font" đạo đức, đã tạo nên sự biến chất của những tập tục văn hóa truyền thống tốt đẹp trong ba ngày Tết. Hái lộc đầu xuân, hay "tống cựu nghênh tân", là một phong tục đẹp mang ý nghĩa một sự mới mẻ, một niềm tin vào sự sinh sôi nảy nở phát đạt trong năm mới. Nhưng vài năm trở lại đây, phong tục này bị biến tướng thành một trò phá họai đêm giao thừa của những người thừa học vấn mà thiếu văn hóa. Qua một đêm, cây cối xơ xác, các cây hoa trong công viên trơ trụi, những cây non bị bẻ cành gãy gục chết yểu ngay trong mùa xuân.... bởi tục hái lộc. Tục lì xì chúc thọ ông bà, hay mừng tuổi con cháu, món tiền chỉ là tượng trưng, không nặng về vật chất, miễn sao đồng tiền mới, phẳng phiu, không dùng tiền cũ nát... Ngày nay, đây có lẽ là phong tục bị "thương mại hóa" nhiều nhất, biến tướng thành phong bao cho các sếp lớn với giá trị "không đếm được". Như báo chí đã phản ánh, "mốt' đi quà năm nay là "hàng nóng"- (tiền mặt - không phải rượu, trà, bánh, mứt). Lì xì biến thành một thứ hối lộ công khai, tạo tiền đề cho sự tham nhũng trong năm mới. Liệu có còn Tết Việt? Câu hỏi tưởng chừng rất dễ để trả lời, vì hiện thực xã hội đã thấy "Tây hóa" khá nhiều. Như một nghịch lý, trên truyền thông hàng ngày thừờng có những chuyên mục để hướng mọi người hãy luôn giữ gìn bản sắc truyền thống dân tộc, quảng bá những tinh hoa của văn hóa dân tộc cả vật thể- phi vật thể... Nhưng có lẽ chỉ có cộng đồng người Việt ở nước ngòai thì mới chú tâm, và luôn có ý thức về vốn di sản văn hóa truyền thống. Họ tìm về nguồn cội, trân trọng từng tập tục, nghi lễ... Trong khi người Việt tại Việt Nam thì cứ muốn lai tạp mọi thứ, biến dạng nhiều thứ, làm cho những phong tục Tết truyền thống càng ngày càng biến tướng, mất đi ý nghĩa thiêng liêng. Đã có nhiều ý kiến của các nhà văn hóa học, dân tộc học... cho rằng Tết Việt chỉ nên như một ngày lễ cổ truyền, như các ngày lễ dân gian khác, không nên rình rang, kéo dài, lãng phí ... tòan tập. Hãy noi gương một số quôc gia châu Á lân bang, họ đã "toàn cầu hóa" ăn Tết dương lịch như nhiều nước văn minh. Cũng có nhiều ý kiến phản bác, Tết Việt là một truyền thống, một nghi lễ linh thiêng của dân tộc Việt mang nhiều ý nghĩa. Nhưng, nếu muốn giữ truyền thống thì có nên "công nghiệp hóa" Tết Việt như hiện tại. Và nếu cứ "công nghiệp hóa" như thế, Tết Việt trong tương lai sẽ ra sao? Truyền thống hay không còn mang bản sắc nguyên thủy của Tết Việt? Lúc đó có còn là Tết Việt? nguồn: http://tuanvietnam.vietnamnet.vn ============================================== Không sợ cái gọi là "công nghiêp hóa" Tết Việt bằng cái tư tưởng "mấy ngàn năm", cứ mấy ngàn năm lấp lững như cá vàng lững lơ, lơ tơ mơ, lờ tờ mờ thế này thì thấy đâu ra và lấy gì tự hào mà giữ bản sắc dân tộc? Mấy ngàn năm là mấy ngàn năm? Khoa học thì phải chính xác , trong hoàn cảnh này thì không thấy được sự chính xác dù là trên lý thuyết. Thiên Đồng
  12. @ Linh3000 Quẻ khai vô vong là không có gì. Chúc Mừng Linh không bị gì. Zingme bốc quẻ khá thiệt. Thiên Đồng
  13. Qua những gì Sư Phụ phân tích thiệt là "sáng mắt sáng lòng". Ước gì...ước gì...những câu truyện cổ tích và dân gian được đưa nhiều hơn vào chương trình học của các cấp, cho học sinh bình luận phân tích để thấy cái hay cái đẹp của văn học dân tộc.
  14. Nhân dịp xuân mới năm con rồng Kính chúc Sư Phụ hầu bao phồng Sức khỏe mạnh như lực sĩ gồng Vinh hiển văn hiến rạng núi sông Thiên Đồng
  15. Thưa Sư Phụ, đệ từ khinh suất. Nhìn lạii thì thấy cấu tứ câu chuyện rất khác, từ ngữ trong đó cũng không ổ, không phù hợp với những câu truyện của thời Hùng Vương, xin Sư Phụ giải thích rỏ hơn cho để tử tường tận, nhân dịp đầu năm khai bút? Thiên Đồng
  16. Nội công của Trung Quốc cần phải học hỏi them tại Ấn Độ. http-~~-//www.youtube.com/watch?v=JnSFWNWqvic&feature=related
  17. Năm Rồng 2012 - Năm vượng cho bất động sản Trung Quốc? Đối với nam giới tại một đất nước thiếu phụ nữ, anh ta sẽ “có giá” hơn nếu đã sở hữu một ngôi nhà. Tỷ lệ kết hôn tăng cao hơn, nhiều người kỳ vọng vào sự phục hồi của thị trường. Liệu tình hình thị trường bất động sản Trung Quốc có sáng sủa hơn trong năm Rồng 2012? Khi năm mới đến gần, hàng chục nghìn cặp đôi Trung Quốc chuẩn bị kết hôn, nhiều người kỳ vọng thời kỳ tốt đẹp hơn của thị trường bất động sản Trung Quốc sẽ đến. Đối với nam giới tại một đất nước thiếu phụ nữ, anh ta sẽ “có giá” hơn nếu anh ta đã sở hữu một ngôi nhà. Các công ty bất động sản Trung Quốc cần sự hỗ trợ từ nhiều phía. Trong nỗ lực hạ nhiệt thị trường bất động sản nội địa, chính phủ Trung Quốc đã hạn chế người dân mua nhiều nhà, yêu cầu tỷ lệ chi trả cao hơn với từng căn nhà được mua và hạn chế cơ hội đầu cơ. Chính phủ Trung Quốc còn chặn đường tiếp cận với tín dụng ngân hàng và hạ hạn mức tăng trưởng tín dụng. Chính phủ Trung Quốc khuyến khích đánh thuế bất động sản tại nhiều thành phố như Thượng Hải hay Trùng Khánh trong năm 2011. Cho đến nay, chính phủ Trung Quốc vẫn cam kết thực hiện những chính sách trên. Hàng loạt các biện pháp trên đã “dội gáo nước lạnh” vào thị trường. Tăng trưởng giá bất động sản đã chững lại tính từ đầu năm 2010. Phân tích từ Soufun Holdings, trang web bất động sản lớn nhất tại Trung Quốc, cho thấy trong tháng 12/2011, giá bất động sản tại 60/100 thành phố của Trung Quốc. Giá đất giảm nhanh. Tính toán của ngân hàng Standard Chartered cho thấy rằng giá bất động sản tại Trung Quốc hiện thấp hơn 30% so với mức đỉnh cuối năm 2010. Ngoài ra các phiên đấu giá đất của chính quyền nhiều tỉnh ở Trung Quốc liên tục thất bại. Khả năng ngành bất động sản cơ cấu lại rất lớn. Hiện có khoảng 30.000 công ty bất động sản tại Trung Quốc. Rất nhiều trong số công ty trên đều là các công ty địa phương không thể tiếp cận được tín dụng dễ dàng như nhóm công ty lớn có phạm vi hoạt động rộng. Chuyên gia phân tích tại Citibank ước tính khoảng 100 công ty lớn nhất kiểm soát tới 25% thị trường bất động sản, ngoài ra còn 500 công ty khác nắm được khoảng từ 10% đến 15%. “Kẻ thua cuộc” trong quá trình ngành tái cơ cấu lại chính là nhóm công ty đang vay nợ nhiều. “Người chiến thắng” chính là nhóm công ty bất động sản hoạt động tập trung vào các thị trường tăng trưởng tốt chứ không phải thị trường có quy mô lớn nhất như Thượng Hải hay Bắc Kinh. Mọi chuyện cũng có thể diễn biến theo hướng khác. Thị trường bên ngoài các thành phố lớn thường dễ chịu đổ vỡ, số người mua thứ cấp ít, hoạt động đầu tư từ nhiều lĩnh vực khác ở Trung Quốc kém. Giá giảm, niềm tin đi xuống, thị trường có thể xuống dốc nghiêm trọng. Những căn nhà tại nhóm thị trường khó khăn dễ bị người mua bỏ qua bởi nguồn cung nhà ở xã hội của chính phủ Trung Quốc quá lớn. Nói đến việc thị trường Bắc Kinh hồi phục sau thời kỳ thị trường đi xuống vào năm 2008, các chuyên gia phân tích tại Citibank khẳng định các thị trường hàng đầu có mức giá sàn ngay cả trong điều kiện tồi tệ nhất. Như vậy, các công ty như China Resources, Longfor và COLI, hiện đang có vị thế vững chắc tại thành phố lớn sẽ trụ vững hơn sau bão. Điều này đặc biệt đúng khi thị trường chuộng hàng có chất lượng. Trong bất kỳ thời kỳ suy giảm nào, nhóm công ty quy mô lớn và hoạt động đa dạng, không nợ nần nhiều sẽ vẫn vững nhất. Như vậy, “kẻ chiến thắng” chủ yếu sẽ là công ty nhà nước có mối liên hệ chặt chẽ với chính phủ. Trong nhóm 20 công ty bất động sản lớn nhất Trung Quốc, tính theo doanh số bằng đồng nhân dân tệ, 10 công ty chịu sự kiểm soát hoàn toàn của nhà nước. Tỷ lệ này sẽ tăng lên. Đình Hảo Theo TTVN Quẻ ngày 29/chạp/ tân mão, giờ mùi, sinh lưu niên. Bất động sản Trung Quốc sẽ…bất động đậy. các tay đầu cơ nhà nước hay tư nhân sẽ khốn đốn trong những phi vụ hàng lang. Các công ty hàng đầu như sẽ có ít nhất với vào rắc rối lien quan luật phát, dự đoán là công ty Lonfor. các phiên đấu giá đất của chính quyền nhiều tỉnh ở Trung Quốc vẫn tiếp tục thất bại. Sẽ có đấu tranh của người dân liên quan đến đất đai gay bất ổn an sinh xã hội. vài cá nhân nhà nước sẽ bẻ ghế về hưu sớm hay nặng hơn, lien quan đến đất đai. Thiên Đồng
  18. Đi chùa nhiều cũng là tham. Làm công quả cho nhiều để mong cầu cũng là tham. Làm gì mà có ông Phật nào tối ngày ở đâu đó giải quyết đơn xin? Giả sử có ông Thượng Đế ở đâu đó, hai đội bóng Manchester va Barcelona, cầu thủ cả hai đội đều cầu cho mình được thắng, nhưng trớ trêu thay cuối cuàng cũng chỉ có một đội thắng mà thôi. Vậy thì sao? Ông phật hay thượng đế thích đội này và ghét đội kia sao? Hay quy luận thắng – thua là quy luật duy nhất tuyệt đối? nếu thế thì phật, thương đế không phải là toàn năng, vì vẫn phải bó tay với quy luật này, nói một cách rỏ hơn là không toàn năng. Làm gì có đấng nào ban phát xin
  19. Xác nhận Ngô Thị Hải Yến đóng học phí HK I PTLV CB 09: 1.800.000đ/3 tháng Thiên Đồng
  20. Chị Tuyết ở Canada góp cho trường hợp này 1.000.000 đồng Em gái của Chị Tuyết góp cho trường hợp này 1.000.000 đồng Tổng cộng là 2.000.000 đ (hai triệu đồng) Nhờ Thiên Đồng chuyển giúp.
  21. Các anh chị cứ chuyển khoản hay đóng tiền rồi vào đây thông báo là đã chuyển khoản hay đóng để ban giảng huấn xác nhận. Qua tết học trể vài ngày cũng không sao. Thiên Đồng
  22. Nam mô tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật, Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát.
  23. Trương Chi & Mỵ Nương Mỵ Nương là một cô gái xinh đẹp tuyệt trần, con của một vị quan đại thần thời xưa. Nàng sống mà như con chim bị giam lỏng bởi chiếc lồng khổng lồ chính là quan phủ nên lúc nào cũng tỏ vẻ buồn bã. Cha nàng thấy vậy liền cất cho nàng một ngôi nhà nhỏ ở bên con sông cạnh nhà để nàng ra đó hàng ngày cho đỡ ngột ngạt mà sinh bệnh nặng. Nàng vẫn thường ra căn nhà đó thêu thùa, đọc sách nhưng nàng thích nhất là một tiếng sáo bí ẩn. Tiếng sáo tuyệt hay, lúc bổng khi trầm làm nàng Mị Nương say mê. Tiếng sáo ấy là của Trương Chi-một anh thanh niên ở làng chài ven sông. Trương Chi tài thổi sáo rất hay như vậy nhưng tướng mạo thì lại vô cùng xấu xí. Mị Nương thì không biết tướng mạo của người nghệ sĩ, nhưng nàng lại yêu say đắm tiếng sáo ấy, nàng không thể không nghe nó dù chỉ là một ngày thôi. Bỗng có một thời gian tiếng sáo không còn xuất hiện trên con sông kia nữa, và nàng Mị Nương do quá thương nhớ tiếng sáo mà sinh bệnh. Đã rất nhiều vị đại phu được cha nàng mời đến mà vẫn không tìm ra nguyên nhân căn bệnh nên họ không dám kê đơn thuốc. Bệnh tình của nàng ngày một nặng thêm. Một hôm, vô tình cha nàng biết được chuyện về tiếng sáo của anh thanh niên tên Trương Chi chính là nguyên nhân của căn bệnh của con gái. Ông liền mời chàng đến để chữa bệnh cho Mị Nương. Nhưng khi chàng đến phủ, ông thấy chàng xấu xí thì lệnh chỉ được thổi sáo từ ngoài sân vọng vào chứ không được ra mắt Mị Nương để tránh cho nàng phải thất vọng. Và cứ chiều chiều, chàng lại cất tiếng sáo, Mỵ Nương nghe thấy tiếng sáo quen thuộc thì hồi phục nhanh chóng như uống thuốc tiên. Rồi nàng khỏi bệnh và xin cha cho mời người nghệ sĩ ngoài sân vào để nàng cảm ơn. Bất đắc dĩ, cha nàng đành cho gọi chàng Trương Chi vào. Vừa thấy Trương Chi, Mị Nương đã vô cùng thất vọng vì dung mạo của chàng vô cùng xấu xí, toát lên vẻ nghèo hèn, đói khổ. Nàng bảo Trương Chi đi ra, và từ đó mất luôn tình cảm đối với tiếng sáo của chàng. Trương Chi thì khi về nhà lòng luôn nhớ đến Mỵ Nương, chàng đem lòng yêu Mỵ Nương. Một hôm chàng tìm đến căn nhà nhỏ của Mỵ Nương và thổ lộ nỗi lòng mình với nàng. Nhưng, nàng từ chối. Trương Chi quá thất vọng liền ra bến sông tự vẫn. Những người bạn cùng làng chài vớt xác chàng và đem chôn. Đến khi bốc mộ mọi người thấy một khối cầu, to bằng quả cam, trong suốt như pha lê bèn đem gắn vào mạn chiếc thuyền cũ của chàng. Một lần tình cờ, cha Mị Nương đi ra bến sông, thấy có một viên hình cầu đẹp và sáng như ngọc ở mạn một chiến thuyền câu liền mua về rồi sai thợ ngọc làm thành chiếc chén uống trà. Nghe nói cha vừa đặt làm chiếc chén mới rất đẹp Mị Nương đòi cha cho dùng thử. Nhưng vừa rót trà vào, nàng thấy trong chén trà hiện lên hình bóng người xưa và tiếng sáo văng vẳng vang lên đâu đây. Bất giác, hai dòng lệ tuôn rơi trên má nàng, và khi nước mắt rớt vào lòng chén, chiếc chén vỡ tan... Ghi chú: Thiên Đồng sửa lại tiếng hát = tiếng sáo, vì bao lâu nay người đời biết đến câu truyện là "tiếng sáo Trương Chi".
  24. Trạch cát xuân Nhâm Thìn Tất niên, xuất hành, khai trương, động thổ. Trung tâm nghiên cứu Lý Học Đông Phương Tiễn năm cũ đi đón xuân mới đến, người Việt ta, theo phong tục Đông phương cổ truyền, có tục ăn Tất Niên, xuất hành, xông đất, chọn ngày khai trương và chọn ngày xây sửa nhà để cầu may mắn, tài lộc, tránh hung tìm cát. Ban biên tập diễn đàn Trung Tâm Nghiên Cứu Lý Học Đông Phương sưu tầm, tìm hiểu so sánh, đối chiếu đề xuất về các ngày gọi là tốt để quý vị bạn đọc tham khảo. Tất Niên: Đây là ngày kết thúc một năm làm việc vất vả, ngày nhìn lại những thành quả lao động của năm cũ. Ngày tốt theo Việt lịch: 28 . 12 năm Tân Mão, nhằm ngày thứ bảy 21. 01. 2012 Tây lịch. Đây là ngày Tư Mệnh Hoàng Đạo sẽ là một kết thúc tốt đẹp cho trăm nghiệp trăm nghề để chuẩn bị cho một năm mới vạn sự an lành. Giờ tốt nhất trong ngày: Giờ Tỵ. Từ 9g20 đến 11g20 Xuất Hành: Ngày tốt theo Việt lịch: mồng 09 tháng Giêng năm Nhâm Thìn, nhằm ngày: thứ ba 31.01. 2012 Tây lịch Đây là ngày Bảo Quang Hoàng Đạo là ngày tốt cho cầu quan, cầu tài, cầu lộc, thăng tiến và phát triển trong mọi sự. Giờ tốt trong ngày: Giờ Thìn, từ 7g20 đến 9g20 Giờ Ngọ, từ 11g20 đến 13g20 Giờ Thân, từ 15g20 đến 17g20 Giờ Dậu, từ 17g20 đến 19g20 Hướng Xuất Hành: Hướng tốt xuất hành là hướng Tây chếch về Tây Nam Hướng được coi là tốt thì cũng kén người hùng chí và có bản lãnh. Hướng Tốt Để Động Thổ: Theo Huyền Không Lạc Việt, niên tinh 6 nhập trung, sao Ngũ Hoàng và Nhị Hắc giao lâm tại hai phương Nam Bắc, phương Đông Nam gặp Thái Tuế, phương Tây Tây Bắc xung Thái Tuế, tam sát ở Đông Nam, Nam và Nam Tây Nam, do vậy phương động thổ an toàn nhất là hướng Tây chếch Tây Nam. Cụ thể là phương Dậu Canh. Ngày Tốt Khai Trương: Ngày tốt theo Việt lịch: Mồng 09 tháng Giêng năm Nhâm Thìn, nhằm ngày: thư ba 31.01. 2012 Tây lịch Đây là ngày Bảo Quang Hoàng Đạo là ngày tốt cho cầu quan, cầu tài, cầu lộc, thăng tiến và phát triển trong mọi sự. Giờ tốt trong ngày: Giờ Thìn, từ 7g20 đến 9g20 Giờ Ngọ, từ 11g20 đến 13g20 Giờ Thân, từ 15g20 đến 17g20 Giờ Dậu, từ 17g20 đến 19g20 Hoặc ngày 16 tháng Giêng năm Nhâm thìn, nhằm ngày thứ ba 07.02.2012. Đây là ngày Tư Mệnh Hoàng Đạo là ngày phúc đức tôt cho những người bền chí, cầu tiến. Giờ tốt trong ngày: Giờ Tỵ, từ 9g20 đến 11g20 Giờ Mùi, từ 13g20 đến 15g20 Giờ Dậu, từ 17g20 đến 19g20 Tuổi Tốt Để Xông Đất và Mở Hàng Khai Trương: Chọn tuổi: Đinh Tỵ, Đinh Dậu, Mậu Dần. Tân Dậu, Nhâm Ngọ, Giáp Dần, Kỷ tỵ Các tuổi mang chữ Canh cũng tốt nhưng tốt hơn nếu gia chủ đã có gia đình, là: Canh Dần, Canh Ngọ, Những tuổi như trên được mời mua mở hàng khai trương đầu năm,động thổ xây sửa nhà, dự lễ về nhà mới, đi đón cô dâu về nhà chồng, tiễn đưa người thân đi làm ăn xa, đón em bé từ bảo sanh viện về nhà, dự lễ cúng đầy tháng, dự lễ cúng thôi nôi cho em bé, dự lễ cúng đáo tuế, cúng thất tuần cho gia chủ sẽ được cát tường đại lợi. Nhưng hãy chọn người tử tế đàng hoàng, nhân cách đầy đủ, trí tuệ thông minh, hiền hậu nhân từ. Phúc lộc đầy đủ. Lưu ý là họ phải không trong thời gian thọ tang. Nam nữ đều tốt. Người được mời xông đất, khai trương đâù năm kiêng mặc áo trắng hoặc đen. Áo mặc tông màu xanh lá cây là thuận nhất với năm tới. Năm nay có lẽ là năm mà lý học Đông phương và các nhà khoa học dễ nhất trí về một nền kinh tế toàn cầu còn khó khăn hơn.. Cầu chúc quý vị một năm mới LỘC LỢI THÔNG TỨ HẢI – TÀI NGUYÊN ĐẠT TAM GIANG
  25. Ngày Tốt Theo Lý Học Đông Phương Những ngày tốt của các tháng trong năm Nhâm Thìn 2012 sau đây được dùng trong mọi sự: Tháng Giêng: 01, 9, 15, 16, 17, 28, 29, sát chủ giờ Dần. Tháng hai: 26, sát chủ giờ Tỵ Tháng ba: 4, 6, 10, 21, 28, sát chủ giờ Thân Tháng tư: 9, 17, 21, 29, sát chủ giờ Thìn. Tháng tư Nhuận: 8, 15, 20, sát chủ giờ Thìn. Tháng năm: 15, sát chủ giờ Dậu Tháng sáu: 4, 16, 28, sát chủ giờ Mão Tháng bảy: 11, 15, 25, sát chủ giờ Dần. Tháng tám: 8, 17, 29 sát chủ giờ Tỵ. Tháng chín: 2, 12, 15, sát chủ giờ Thân. Tháng mười: 8, 9, 10, 20, 21 sát chủ giờ Thìn. Tháng Một: 4, 17, 21, 28, sát chủ giờ Dậu. Tháng Chạp: 01, 9, 10, 11, 25, sát chủ giờ Mão.