Thiên Đồng

Hội viên
  • Số nội dung

    6.278
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    75

Everything posted by Thiên Đồng

  1. tuan-hau viết tuan-hau nhìn kỹ lại bài viết của mình đi. Câu chữ cũng sai chính tả và cú pháp từa lưa.
  2. Kham dư là gì? Từ Kham Dư xuất hiện sớm nhất ở “Sử ký – Nhật giả liệt truyện”, Chử tiên sinh chép: “Thời Hiếu Vũ Đế, triệu tập các chiêm gia lại hỏi ngày nào thì có thể lấy vợ? Nhà Ngũ Hành nói được, Nhà Kham Dư nói không được. Nghĩa gốc của Kham Dư là trời đất. Kham là trời, Dư là đất. Trong “Văn tuyển – Cam tuyền phú chú”, Hoài Nam Tử viết: “Kham Dư hành hùng (sống) để biết thư (mái)”. Hứa Thuận nói: “Kham là thiên đạo (đạo trời), Dư là địa đạo (đạo đất)”. “Sử ký – Tam vương thế gia sách ẩn”, viết: “Gọi đất là Dư, trời đất có cái đức bao trùm (phúc cái), do đó gọi trời là Cái, gọi đất là Dư”. Chu Tuấn Thanh người đời Thanh viết trong “Thuyết văn thông huấn định thanh”: “Cái Kham ở trên cao, Dư ở dưới thấp, nghĩa là trời cao đất thấp”. Kham, ngoài nghĩa là trời, còn có hai nghĩa nữa. Một, nghĩa là đột (xuyên). “Tuyết văn – bộ Thổ” viết: “Kham, nghĩa là đất nhô cao, bộ Thổ, âm Thậm”. Đột nghĩa là xuyên, hoặc nghĩa là chỗ lõm, gọi là địa hãm (chỗ đất trũng). Hai, nghĩa là khám, xem xét (điều tra cơ bản trên thực tế đất đai), hai từ này đồng nghĩa. Dư, từng mượn chữ Dư (thừa) để viết: “Tùy thư – Kinh tịch chí”, phần ba, “Bộ tí, Ngũ hành loại”, chép “Kham Dư (lịch chú)”, “Địa tiết kham dư (thừa)”, đây thực tế là sách lịch. “Hán chí” có chép “Kham Dư kim quĩ” mười bốn quyển (thất truyền). Long Xuyên Tư Ngôn khảo chứng, cho rằng: “Sách nói về phương vị Phong Thủy”. Học giả thời Hán thường bàn luận về Kham Dư, Kham Dư ở đây không hẳn có nghĩa là Trời Đất, mà thường là để chỉ quỷ thần. “Hán thư” quyển 87 dẫn “Cam tuyền phú” của Dương Hùng “thuộc Kham Dư dĩ bích lũy từ, tiêu khôi hư nhi xi cúc mông”. Mạnh Khang chú giải, viết: “Kham Dư là tên thần, làm ra Đồ Trạch thư”. Kham Dư là vị thần làm ra Đồ Trạch thư. Đồ Trạch thư đã thất lạc. Vương Sung đời Hán trong sách “Luận hành – Cáo thuật thiên” đã dẫn nguyên văn một đoạn trong Đồ Trạch thư. Đoan một: “Thuật đồ trạch nói rằng: Trạch có tám thuật, lấy danh số lục giáp mà xếp theo thứ tự, thứ tự lập theo tên gọi, cung thương phân biệt rõ ràng. Trạch có ngũ âm, Tính có ngũ thanh, Trạch không hợp với Tính, thì tính và Trạch chống đối nhau, tất tật bệnh tử vong, phạm tội gặp họa”. Đoạn hai, “Thuật đồ trạch nói rằng: Cửa nhà buôn không mở về hướng nam, cửa quan không mở về hướng bắc”. Qua hai đoạn văn trên đây, thấy rất rõ thuật đồ trạch có liên quan đến những cấm kị về nhà ở trong thuật phong thủy, mà Kham Dư là thần quái sáng tạo ra thuật phong thủy. Các tên gọi của Phong thủy “Hán thư – Nghệ văn chí” có loại Hình pháp. Thế nào là Hình pháp? Sách “hán thư – Nghệ văn chí” viết: “Hình pháp, là lấy cái thể Cửu châu mà dựng cái hình của thành, quách, nhà cửa. Đó là phép đo đếm xương người và lục súc, là hình dáng của khí vật, để cầu thanh khí sang hèn, lành dữ. Cũng như luật (âm luật) có dài ngắn, mà mỗi luật biểu thị một thanh (âm thanh), không phải là do quỉ thần, thì là tự nhiên nó như thế. Vậy hình và khí như đầu với đuôi, cũng có khi có hình mà không có khí, có khí mà không có hình, tinh vi đến thế chỉ có một”. Diêu Minh Huy trong “Hán chí chú giải”, viết: “Lấy cái thế của Cửu Châu mà dựng thành quách, nhà cửa, tức xem đất, xem hình”. Loại hình pháp có sách “Cung trạch địa hình”, hai mươi quyển (thất truyền). Học giả Nhật Long Xuyên Tư Ngôn đã từng khảo chứng về sách này, viết: “Sách viết về phương vị Phong Thủy”. Hình pháp chỉ diện mạo, không chỉ nói riêng về đất. “Tứ khố toàn thư tổng mục – thuật số” nói rất rõ: “Hình pháp đề cập cả tướng người tướng vật, không chỉ riêng tướng mà nhà tướng đất, cùng thuộc loại giả tá (vay mượn từ)”. Ngoài “Hán chí”, trong xã hội rất ít dùng cái từ Hình pháp. Quang Định - biên dịch nguồn: http://chuahieuquang.com/Modules/News/NewDetail.aspx?page=18&moduleId=19&news=466 ======================================== Đọc cái này xong mới hiểu tại sao có những người lại trở nên dở hơi, tưng tửng do nghiêng ngửa cứu âm dương, tử vi, phong thủy, bốc dịch...hic. Loạn thông tin từ đầu! Thiên Đồng
  3. Danh Sách Xác Nhận Đóng Học Phí Lớp PHong Thủy Lạc Việt Cơ Bản 09 1. xuanhylac (Nguyễn Phú Trung) 1.800.000đ/03 tháng 2. tichlichhoa09 (Ngô Thị Hải Yến) 1.800.000đ/03 tháng 3. Huỳnh Lâm 1.800.000đ/03 tháng 4. Lance Nguyễn Tiến Bằng 1.800.000đ/03 tháng 5. chinhtabinhduong 1.800.000đ/03 tháng 6. eagle - Nguyễn Quang Đại 1.800.000đ/03 tháng 7. Chim Chích Bông 1.800.000đ/03 tháng Thiên Đồng
  4. Tài năng Việt Nam http://www.youtube.com/watch?v=TV_4WHS1IM4
  5. Quay đầu về hướng nào khi ngủ sẽ tốt cho sức khỏe? Phụ nữ ngày nay – Ăn và ngủ là điều quan trọng nhất trong dưỡng sinh. Một giấc ngủ tốt có thể bổ sung năng lượng cho cơ thể và giúp tinh thần tỉnh táo. Vì vậy, nắm vững cách ngủ sẽ giúp bạn thực hiện dưỡng sinh bằng con đường ngắn nhất. Cách ngủ đúng và trạng thái giấc ngủ tốt liên quan chặt chẽ tới sức khỏe con người. Theo mạng Tin tức Trung Quốc, một giấc ngủ ngon là con đường ngắn nhất để có thể đạt hiệu quả dưỡng sinh hay đảm bảo một sức khỏe tốt. Trên thực tế, 1/3 đời người dành cho giấc ngủ, cách ngủ đúng và trạng thái giấc ngủ tốt liên quan chặt chẽ tới sức khỏe con người. Ăn và ngủ là điều quan trọng nhất trong dưỡng sinh. Một giấc ngủ tốt có thể bổ sung năng lượng cho cơ thể và giúp tinh thần tỉnh táo. Vì vậy, nắm vững cách ngủ sẽ giúp bạn thực hiện dưỡng sinh bằng con đường ngắn nhất. Trong mùa Thu và mùa Đông, dương khí trong thế giới tự nhiên giảm dần, lúc này bất kể là ăn, ngủ, làm việc hay nghỉ ngơi đều phải chú ý dưỡng âm cho cơ thể. “Mùa Thu ngủ sớm dậy sớm, mùa Đông ngủ sớm dậy muộn” là cách dưỡng sinh chính trong mùa này. Thời gian ngủ tốt nhất nên từ 21h-23h, cố gắng đi vào giấc ngủ từ 23h-1h. Bởi vì trong khoảng thời gian từ 21h-23h, dương khí yếu nhất và âm khí mạnh nhất, ngủ vào giờ này có thể dưỡng âm hiệu quả nhất, chất lượng ngủ cũng tốt nhất. Về hướng ngủ, có nghiên cứu cho rằng, do tác động của từ trường trái đất, nên khi ngủ, đầu quay về hướng Bắc chân hướng Nam, để từ trường đi qua cơ thể một cách ổn định, như vậy có thể giảm tối đa sự can thiệp của từ trường trái đất. Tuy nhiên, các nhà dưỡng sinh cổ đại Trung Quốc thì cho rằng, hướng ngủ của con người nên thay đổi theo 4 mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông. Cụ thể, vào mùa Xuân và Đông chúng ta nên nằm quay đầu về hướng Nam, mùa Hạ quay đầu về hướng Đông và mùa Thu quay về hướng Đông Bắc. Cách khác để đảm bảo có một giấc ngủ sâu và ngon là tránh những lo âu không cần thiết. Các chuyên gia khuyên mọi người, đặc biệt là giới trí thức, nên đảm bảo ngủ đủ giấc, trước khi ngủ nên uống một cốc sữa nóng hoặc nước ấm pha mật ong, hoặc ngâm chân nước nóng cộng thêm mát-xa lòng bàn chân…
  6. @Vaio1988 Anh Thiên Đồng thân mến, Em cầu mong được anh Thiên Đồng thương xem giúp em với ạ... Em xin chân thành cảm ơn anh Thiên Đồng rất nhiều ạ. Em là nữ, sinh năm 1988 tuổi Mậu Thìn Em khấn nguyện thiết tha lúc 12:05 trưa ngày 16 tháng 1 năm 2012 dương lịch ạ. Kính xin anh Thiên Đồng xem giúp em với ạ. Câu hỏi 1 của em: Em và bạn trai em đã chia tay được 1 tháng 3 ngày rồi, em kính xin được hỏi là em và bạn trai em có thể quay lại với nhau không ạ? Quay lại vào cuối xuân năm Nhâm Thìn. Câu hỏi 2: Chúng em có thể nên duyên phu phụ trong cuộc đời này không ạ? Được. Nhưng phải chịu khó một thời gian lâu Câu hỏi 3 ạ: Nếu chúng em không có duyên nợ vợ chồng với nhau thì khi nào em mới gặp được người chồng của em và kết hôn ạ? Em kính xin được anh Thiên Đồng giúp em với ạ. Em xin chân thành cảm ơn anh Thiên Đồng nhiều lắm. Em kính chúc anh luôn luôn khỏe mạnh an lành và hạnh phúc ạ. @ngadong Cháu chào chú! Mong chú giúp cháu 3 câu hỏi này. -Nữ tuổi Canh Ngọ -Hỏi vào 17/01/2012 (DL) 11:46AM ( giờ thủ đô) Câu 1: Cháu vừa mới bị mất việc, năm nay cháu có xin được việc nào khác không ạ? Ăn hết tết. Tháng 2 âm nhâm thìn có việc. Câu 2: Hiện cháu đang để ý 1 người, người ta cũng có tình cảm với cháu, liệu có kết quả gì không thưa chú? Tốt. người ta chờ mình bật đèn để...vượt đèn đỏ. Câu 3: Người chồng sau này của cháu có vẻ ngoài, tính cách ra sao ạ? Ít nói, nhưng vui vẽ, kín kẽ, tướng tròn đầy, da sáng. @datvietnam Gửi anh Thiên Đồng. Em là Nam, tuổi Ất Sửu. Em hỏi vào lúc 0h 47phút (khuya) ngày 18 tháng 1 năm 2012 (dương lịch) Em cám ơn anh rất nhiều vì đã trả lời 2 câu hỏi trước đó của em. Hiện nay em đang gặp 1 vấn đề nan giản, nên cần có sự tư vấn của anh Thiên Đồng. Vừa rồi, ngoài công việc chính em đang làm hiện nay, cơ quan có giao thêm cho em một công việc phụ nữa. Tuy nhiên công việc phụ thêm này khiến em hao tốn sức khỏe rất nhiều và lại gây xích mích với nhiều người nữa. Ở đây em có câu hỏi: Nếu em xin từ bỏ công việc phụ thêm này thì sẽ ảnh hưởng đến công việc chính của em như thế nào? Cơ quan có sa thải em không? Từ chối công việc phụ, lương giảm, không liên quan gì đến chuyện sa thải. Cần phải nói chuyện chí tình thì sẽ thuận. Không lo.Em xin chân thành cảm ơn anh Thiên Đồng. Năm mới sắp đến, em chúc anh Thiên Đồng dồi dào sức khỏe, vạn sự như ý. @Zhuan Tuổi: Đinh Mão Hỏi vào ngày Mười lăm, tháng Mười hai, năm Tân Mẹo,15 giờ33' (dương lịch). 1: Cháu muốn hỏi sang năm cháu công việc của cháu có ổn định lâu dài không ạ? Cũng còn bấp bênh. nhưng ổn định lâu dài. 2: Cháu đang yêu một người, cho cháu hỏi sau này có tiến đến hôn nhân với người này thì cuộc sống gia đình hòa hợp không? và sống với nhau có lâu dài không ạ? Được. tranh thủ đi. Bật đèn là tới liền à. 3: Tài chính sau này của cháu như thế nào ạ? chỉ đủ, không dư. Cháu xin cảm ơn chú Thiên Đồng! @hoangvu Nhờ anh Thiên Đồng xem giúp em vấn đề này.Em là nữ Tân Dậu,Hỏi vào lúc 0h52 phút ngày 21/1/2012 dương lịch (Hà Nội). Hiện em có anh bạn đồng nghiệp trước giờ vẫn rất quý, tuy nhiên dạo gần đây em thấy anh ấy có biểu hiện lạ. 1- Vậy xin hỏi đó chỉ là tình cảm bạn bè khác giới hay có tình cảm nào khác? Coi chừng bị cưa! 2- Nếu là bạn bè thì về lâu dài có sinh chuyện không hay không? Có. Và có thể kết thân được không? Có. Người này chắc đang muốn có người nâng khăn kiểm ví dài lâu nè! Mong anh xem giúp để biết ứng xử em đang rất phân vân. Xin cảm ơn anh nhiều. @Zingme Năm cũ qua đi , năm mới sắp tới cháu xin kính chúc Chú Thiên Đồng và các cô chú cùng mọi người trên diễn đàn một năm Hạnh phúc - An khang Thịnh vượng, niềm vui phơi phới - Bình an Tấn tới . Cháu lại xin làm phiền chú TĐ xem giùm cháu 1 quẻ cho năm mới. Đặt câu hỏi như sau:Tuổi gì: Kỷ Tỵ Hỏi vào 14h 13 phút ngày 22..tháng.1..năm 2012..giờ (bao nhiêu phút) dương lịch. Câu hỏi 01: Cháu đang có tình cảm với 1 người. Xin cho cháu biết tình cảm của người đó đối với cháu như thế nào? Chưa phải là lúc. Bạn bè thôi. Nhưng cố gắng vì có sẵn vốn rồi. Câu hỏi 02: Chồng cháu sau này có phải là người cháu đã từng gặp, hay quen hay ko? Không phải là người từng gặp, mà là người quen khác lạ. Câu hỏi 03: Trong năm 2012, cháu có thể sẽ phải trải qua 1 đợt phẫu thuật? Sẽ là một cuộc phẩu thuật thành công tốt đẹp. Vậy xin cho cháu biết kết quả có tốt đẹp ko? Liệu có để lại di chứng xấu hay ko? Không hề gì. An toàn. Bình an. Xin cảm ơn chú! @acet Tuổi gì: Giáp Tý Hỏi vào ngày 22 tháng 1 năm 2012 giờ 20g20 dương lịch. Câu hỏi 01: cháu có tình cảm với 1 người tuổi Nhâm Tý, nhưng vì nghịch cảnh nên chia tay. Cháu đang cố gắng níu kéo. Xin cho cháu biết cháu và người đó có thể nên duyên được không ạ. Tạm xa nhau ngắn, sẽ tái hợp vào xuân nhâm thìn Câu hỏi 02: tình hình sức khỏe của cháu năm Nhâm Thìn có xấu lắm không ạ? Không, chú ý huyết áp hoặc gan yếu. Câu hỏi 03: Tình hình công viêc năm Nhâm Thìn sẽ thế nào ạ? Cháu có nên thay đổi công việc không? Tệ. Sẽ thay đổi công việc vào phút 90. tháng 4 hoặc 5 âm. Cháu xin cảm ơn. Chúc chú và mọi thành viên trong diễn đàn năm mới sức khỏe, hạnh phúc và bình an ạ. @Mẹcoca Chào chú Thiên Đồng, nhờ chú luận giúp cháu một quẻ đầu năm ạ. Cháu sinh 26/09/1986, nữ Bính Dần. Hỏi vào lúc 21h40 phút ngày 25/01/2012 (nhằm ngày mồng 3 Tết AL) 1. Con trai cháu sinh 27/06/2011, chồng 26/03/1983. Con trai cháu rất hay bênh lặt vặt, cụ thể 2 tháng tuổi, 4 tháng tuổi , 6 tháng tuổi, 7 tháng tuổi ..bệnh ạ. Lúc 4 tháng và 7 tháng có hiện tượng tím môi, tím mặt... cháu rất sợ và mọi người nói sợ bệnh tim, đi khám bác sĩ chỉ đặt ống nghe thì nói không có gì...cháu chưa cho cháu đi khám chuyên khoa. Bác xem giúp con cháu có bị bệnh nghiêm trọng không ạ, và có cách nào khắc phục về phong thủy không ạ? Theo quẻ thì nhà bạn hoặc tù túng, hoặc trong ngỏ hẹp và có thể bạn có bỏ một đứa con trước đó. Nếu có thì, về mặt tâm linh nên giai3 quyết theo tâm linh mặt khác chỉnh sửa nhà theo phong thủy. 2. Công việc trong năm 2012 của vợ chồng cháu có gì tiến triển không ạ? vẫn khó khăn, nhưng ổn vào phút chót. Cứ vậy thôi. 3. Trong cuộc sống gia đình có tốt đẹp hay có gì không tốt xảy ra không (về tình cảm, tiền bạc), tháng nào ạ? Tháng 7, 8 âm thì tốt. Tình cảm có nhiều chuyện phiền lòng vô duyên. Tiền cứ vừa tới thì bốc hơi. May mà cũng kịp trang trải nhu yếu. Và cuối cùng năm mới cháu chúc chú cùng gia đình một năm mới " AN KHANG THỊNH VƯỢNG, PHÁT TÀI PHÁT LỘC". Cám ơn chú rất nhiều ạ. @bi2007 Cháu chào chú Thiên Đồng. Đầu xuân năm mới cháu kính chúc gia đình chú mạnh khỏe làm ăn phát đạt Chau tuổi Tân Dậu Hỏi vào ngày 26tháng01năm2012 tức ngày 04/1 AAL Hỏi vào 13giờ 15 phút Câu hỏi 01:Cháu và chồng cháu đang làm đơn ly hôn, liệu chúng cháu có ly hôn được không? Không Câu hỏi 02: Con trai cháu sinh năm Bính Tuất liệu sau này có thành đạt không? Thằng nhóc này hiếu động, thông minh, tốt. Câu hỏi 03:Năm nay kinh tế của gia đình cháu có được cải thiện nhiều không? Công việc của cháu có bị thuyên chuyển không? Ráng chịu khó, sẽ cải thiện được, tranh thủ 3 tháng đầu năm. Không thuyên chuyên đâu cả. (Cháu xin chú trả lời giúp cháu với ạ. Cháu xin cảm ơn chú nhiều ạ @Phạm trung Chào bác Thiên Đồng! Mong bác xem giúp! Tuổi gì: Tân Dậu Hỏi vào ngày 27 tháng 01 năm 2012 giờ 03 phút 41 (theo múi giờ tôi đang sống, còn giờ Việt Nam là 15h41) Câu hỏi 01: Tôi có thể tiếp tục làm việc với người hướng dẫn hiện tại không? Được. Tết xong sẽ tốt trở lại. Câu hỏi 02: Công việc của tôi với người hướng dẫn ấy có đi đến kết quả cuối cùng được không? Câu hỏi 03: Nếu có thể đi đến đích, xin hỏi năm 2012 này có thể xong không? Nhanh thì tháng 5 xong, chậm tháng 9 âm xong Xin cảm ơn bác Thiên Đồng! Thiên Đồng
  7. Sự khác nhau giữa bồ và vợ 12/02/2012 3:38 Đàn ông nào cũng có bồ hoặc vợ. Một số người có cả hai. Cùng là phụ nữ, nhưng bồ và vợ nhiều lúc cư xử rất khác nhau một cách lạ kỳ. Dưới đây, chúng tôi xin thống kê ra vài điểm để bạn đọc tiện so sánh và rút ra kinh nghiệm cho mình. 1. Bồ thích rủ ta đi chơi khuya. Vợ luôn bắt ta về sớm. 2. Vợ đưa ta về nhà bà ngoại. Bồ muốn đưa ta tới cửa hàng. 3. Bồ muốn ta mặc quần áo đẹp. Vợ muốn ta mặc quần áo bền. 4. Bồ thích ta mua quà. Vợ thích ta mua đồ dùng trong nhà. 5. Khi ta đưa thứ gì ra, vợ hỏi giá tiền, còn bồ hỏi bao giờ đưa món tiếp theo. 6. Đi du lịch xa, vợ mong ngày về, còn bồ sợ hãi ngày đó. 7. Vợ nhăn nhó khi thấy bạn của chồng. Bồ nhăn nhó khi ta giấu bạn. 8. Vợ dọa ly dị. Bồ dọa cưới. 9. Vợ chê ta ít tắm. Bồ chê ta phải tắm một mình. 10. Bồ thích đi xem phim. Vợ thích đi chợ. 11. Vợ lục ví ta. Còn bồ lục ví mình đưa cho ta thấy. 12. Khi ta bảo ta là một đàn ông vĩ đại, vợ không tin, còn bồ sẽ vờ tin. 13. Ngày lễ tình yêu, ta đi với vợ, còn bồ đi với ai chỉ có quỷ sứ biết. 14. Vợ khen ta khỏe mạnh, còn bồ khen ta đẹp trai. 15. Bồ đưa ta đi uống rượu. Còn vợ đưa đi uống thuốc. 16. Vợ hay nói về quá khứ, bồ hay nói về tương lai. 17. Khi cùng nhau chạy dưới mưa, bồ bảo như thế là lãng mạn. Vợ bảo như vậy là điên. 18. Vợ thích dậy sớm. Bồ thích dậy muộn. 19. Bồ thích lấy áo ta mặc. Vợ thích lấy áo ta đi giặt. 20. Vợ nhìn đường phố ban đêm nhăn nhó bảo là đông. Bồ nhìn và reo lên bảo là vui. 21. Khi ta bị bệnh, vợ mang cơm, còn bồ mang hoa. 22. Khi ta say, vợ nhăn nhó, còn bồ cùng say. 23. Vợ hay kể đêm qua có trộm định vô nhà. Bồ hay kể đêm đêm có chàng trai đi qua. 24. Ta gọi vợ là bà xã, ta gọi bồ là em yêu. 25. Ta khen vợ trẻ, còn bồ thì khen đẹp. 26. Đang đi với bồ nhìn thấy vợ ta quay đi. Đang đi với vợ nhìn thấy bồ ta cười bí hiểm. 27. Đi công tác xa, ta điện thoại bảo vợ: “Nhớ khóa cửa nhà”, còn điện thoại bảo bồ: “Nhớ đi ngủ sớm”. 28. Với bồ ta không tiếc tiền. Với vợ ta không tiếc thân thể. 29. Bồ thích chó con hoặc mèo con. Vợ thích gà vịt đã làm sẵn. 30. Xem phim, vợ khóc khi thấy những cảnh đói khổ. Còn bồ khóc khi thấy các cảnh chia tay. 31. Bồ hay nói về tình yêu. Vợ hay nói về cuộc sống. 32. Bồ nhí nhảnh. Vợ đường bệ. 33. Vợ nói yêu ta vì ta đứng đắn. Bồ nói yêu ta do ta hấp dẫn. 34. Ta và vợ kỷ niệm ngày cưới, ta và bồ kỷ niệm ngày làm quen. 35. Ta hô to với vợ: “Anh yêu gia đình” và thì thầm với bồ: “Anh yêu em”. Lê Hoàng
  8. Hay! http://clip.vn/watch/Clip-Trai-tim-xanh-xuc-dong-xon-xao-dan-cu-mang,hPfk?fm=rel-c
  9. @ winbej 11g19 coi là biên của hai giờ, gọi là giờ khe, tính sang giờ sau, tức ngọ, quẻ sinh tốc hỷ. Chuyển việc nữa. tháng 3 hay 4 âm chuyển. Nhanh thì gần hết tháng giêng chuyển. Thiên Đồng
  10. Tự chữa bệnh bằng tĩnh tọa Châu thiên pháp Lương y Võ Hà Nhiều phương pháp luyện tập khí công đã phối hợp khai thông kinh lạc có ý thức với tĩnh tọa vô thức. Những nhà khí công cổ đại cho rằng trong điều kiện nhập tĩnh vô thức, con người và vũ trụ sẽ tiến đến sự hòa hợp. Khi "Thiên Nhân hợp nhất", nội khí và trường khí năng lượng bên ngoài sẽ được giao hòa và hệ thống kinh lạc trong cơ thể sẽ tự động vận hành khế hợp nhất cho yêu cầu khử trược lưu thanh, diên niên ích thọ. Tĩnh tọa châu thiên pháp là một phương pháp khí công mang tính tổng hợp cao qua phối hơp giữa ngồi thiền với việc khai thông Nhâm Đốc, hai kinh mạch lớn nhất và là hai biểu tượng quan trọng nhất của hai thành tố Aâm Dương trong cơ thể. Ý nghĩa dưỡng sinh và chữa bệnh của vòng Tiểu Châu thiên Vòng Tiểu Châu thiên bao gồm mạch Nhâm và mạch Đốc. Mạch Nhâm ở phía trước thân người, dưới da, nằm trên đường dọc giữa cơ thể, từ huyệt Hội âm phía dưới bộ phận sinh dục, chạy lên Đan điền, Đản trung, Thiên đột và kết thúc ở huyệt Thừa tương ở chỗ lõm dưới môi dưới. Mạch Đốc ở phía sau cơ thể, bắt đầu từ huyệt Trường cường ở đỉnh xương cùng, chạy dọc theo cột sống đi lên Mệnh môn, Chí Dương, Đại chùy, vòng lên Bách hội, Thần đình, Nhân trung và chấm dứt ở huyệt Ngân giao gần nướu răng trên. Y học truyền thống và khí công cổ đại đều cho rằng mạch Đốc là chủ quản của các kinh Dương và mạch Nhâm là bể chứa của các kinh Aâm. Theo quan điểm chỉnh thể của y học phương Đông, một tạng hoặc một phủ khi phát sinh bệnh biến sẽ có biểu hiện trên đường tuần hành của kinh lạc đi qua nó và cả những điểm phản xạ tương ứng trên hai kinh chính là Nhâm và Đốc. Ngược lại, ta có thể thông qua những huyệt vị trên kinh lạc tương ứng và chung nhất là qua hai mạch Nhâm Đốc để điều chỉnh những rối loạn bệnh lý ở toàn thân. Nói cách khác, nếu hai mạch Nhâm Đốc thông thì trăm mạch đều thông, các tạng phủ sẽ hoạt động điều hòa và cơ thể sẽ khỏe mạnh. Việc công phu vòng Tiểu Châu thiên còn có một ý nghĩa quan trọng khác. Đó là việc làm cân bằng Aâm Dương. Đông y cho rằng bệnh tật xảy ra là do sự chênh lệch thái quá giữa hai yếu tố Aâm và Dương trong cơ thể. Do đó nếu có thể làm cho hai bể khí Aâm và Dương, tức mạch Nhâm và mạch Đốc có thể thông nhau và giao hóan nhau, luân chuyển tuần hòan thành một Tiểu Châu thiên thì con người sẽ khó xảy ra bệnh tật. Trên thực tế, việc luyện tập vòng Tiểu Châu thiên có tác dụng tự chữa bệnh, gia tăng nội khí, tăng cường sức khỏe. Ngoài ra, tập khí công còn giúp con người dễ thích ứng với môi trường, hoàn cảnh, hòa hợp với cuộc sống, tự tin và yêu đời hơn. Sự tương quan giữa hơi thở, xúc cảm tâm lý và vòng nội tức Từ hàng ngàn năm trước, y học cổ đã ghi nhận con người và vũ trụ thăng giáng, giao hòa thông qua hô hấp: "hô tiếp thiên căn, hấp tiếp địa khí". Hơi thở không chỉ có tác dụng giúp cơ thể tiếp nhận dưỡng khí và đào thải thán khí qua đường mũi mà còn kích hoạt để tạo ra sự trao đổi một loại năng lượng có công năng cao hơn mà những nhà khí công Trung hoa gọi chung là khí, thiên khí hoặc địa khí; những nhà Yogi Aán độ gọi là Prana. Sự trao đổi có thể được thực hành khắp bề mặt của cơ thể, đặc biệt là thông qua một số huyệt vị quan trọng trên hai mạch Nhâm Đốc ở vùng xương cùng và vùng đỉnh đầu. Sự trao đổi này diễn ra khác nhau giữa một người bình thường và một người đã tập luyện khí công. Ở mỗi người, sự trao đổi này cũng luôn thay đổi do bị chi phối bởi nhịp thở và điều kiện tâm lý. Chẳng hạn khi ta quá tức giận thì nhịp thở sẽ gấp gáp, kinh khí sẽ nghịch chuyển và rối loạn. Khoa học ngày nay cũng đã xác nhận rằng ở những người bị căng thẳng thần kinh, nếu điều hòa được nhịp thở sẽ điều hòa được thần kinh giao cảm thì tâm lý sẽ được ổn định và hoạt động nội tạng, nội tiết cũng được cải thiện. Các đạo gia thời cổ còn tiến xa hơn khi chiêm nghiệm và quan sát hoạt động khí hóa của những thai nhi cũng như của các đạo sĩ và các nhà khí công ở tình trạng nhập tĩnh sâu. Khi cảm xúc không còn, niệm tưởng đã dứt thì hơi thở cũng êm nhẹ như có như không. Trong điều kiện này, sự trao đổi chất và tiêu hao năng lượng trong cơ thể sẽ ở mức tối thiểu nhưng sự hòa hợp giữa nội khí và trường năng lực ở bên ngoài sẽ ở mức tối đa, các kinh lạc sẽ tự khai thông và vòng Tiểu Châu thiên tự khắc phát động giống như đã từng xảy ra lúc bào thai còn trong bụng mẹ, khi mà con người – tức thai nhi – thuần phát tự nhiên, không hô không hấp, chỉ có một luồng Châu thiên triền chuyển không ngừng. Do sự tương đồng này, vòng Tiểu Châu thiên còn được gọi là vòng thai tức, chơn tức hay nội tức. Từ những quan sát trên, những đạo gia thời cổ đã khám phá ra quy luật "phàm tức đình, chơn tức tự phát động." Từ điều này ta có thể hiểu tại sao những nhà Yogi Aán độ có thể nằm trong quan tài được chôn xuống đất nhiều ngày, không ăn, không thở mà vẫn có thể sống được. Cũng vì lý do này, luyện khí công thường kết hợp với ngồi thiền để vươn tới nội tức. Phương pháp tập luyện Để tiện thực hành, trong phạm vi bài này, khi đề cập đến hít vào nên hiểu là hít thiên khí hay Prana vào từ huyệt Thần đình ở chân tóc hoặc Bách hội ở đỉnh đầu. Chuẩn bị: Tìm một nơi yên tĩnh thoáng mát. Mặc quần áo rộng rãi. Ngồi trên ghế, chân buông thỏng chạm mặt đất hoặc ngồi xếp bằng kiểu bán già hoặc kiết già. Miệng và mắt khép hờ, lưng thẳng, vai hơi thu lại, buông lỏng phần bụng, cằm hơi đưa vào, đầu lưỡi chạm nướu răng trên, hai bàn tay úp trên hai đùi hoặc đan chéo nhau để trước bụng, hai đầu ngón cái chạm nhau, miễn sau thấy thoải mái, dễ giãn mềm cơ bắp Khai thông mạch Nhâm: Hít vào từ huyệt Thần đình. Khi hít vào hãy nghĩ rằng ta đang hít một luồng thiên khí từ Thần đình chạy dọc theo đường giữa dưới da, trước mặt và trước ngực dần xuống Đan điền. Đan điền là một huyệt vị ở vùng dưới rốn, cách rốn khoảng 3cm. Ngưng thở một chút để tụ khí tại Đan điền. Thời gian ngưng thở khoảng từ vài tiếng đếm đến mười tiếng đếm tùy theo khả năng mỗi người. Trong thời gian ngưng thở vẫn tập trung sức chú ý tại Đan điền. Thở ra từ từ, chậm, nhẹ và đều. Trong khi thở ra nên tự ám thị chân khí phát sinh tại Đan điền lan tỏa ra toàn thân và khắp tay chân, xua tan tất cả trược khí. Trược khí, sự căng thẳng, mệt mõi đang theo hơi thở thoát hết ra ngoài. Đến đây là xong một chu kỳ thở. Tiếp tục tập trung tư tưởng tại huyệt Thần đình để hít vào cho chu kỳ thở tiếp theo. Chỉ cần thực hành từ 7 đến 9 lần. Thời gian đầu, một số người chưa quen với ý nghĩ "lan tỏa ra toàn thân" thì chỉ cần thở ra từ từ, chậm, nhẹ và đều khi đến Đan điền là đủ. Hơi thở cần tự nhiên, không thô, không khựng nên chỉ cần thở bình thường. Không cần hít vào sâu, cũng không cần nín hơi lâu để dễ tạo được cảm giác thư giãn. Cách thở này không những giúp khai thông mạch Nhâm, sinh nội khí ở Đan điền, tạo nguồn lực khai thông mạch Đốc mà còn là phương pháp ngắn nhất, đơn giản nhất để giải toả "stress". Những nghiên cứu về hiệu ứng "stress" của hai bác sĩ H.S. Liddell và A.V. Moore đã đưa đến kết luận rằng nếu những cảm xúc khó chịu có điều kiện ngắt khoảng, tức không xảy ra liên tục dù chỉ trong giây lát thì những cảm xúc này sẽ không dẫn đến bệnh tật. Do đó một vài hơi thở thỉnh thoảng xen kẽ trong thời gian làm việc, sẽ không tốn kém thời gian nhưng có thể giúp ta giải tỏa "stress", duy trì được cân bằng của hệ giao cảm trước những áp lực và căng thẳng trong cuộc sống công nghiệp. Khai thông mạch Đốc, nối vòng Tiểu Châu thiên: Sau khoảng 7 đến 9 hơi thở theo mạch Nhâm thì bắt đầu tập nguyên vòng Tiểu Châu thiên. Hít vào từ Thần đình, theo mạch Nhâm xuống Đan điền. Ngưng thở nhưng không cần dừng lại một chút ở Đan điền như cách thở trước mà dùng ý chầm chậm đưa khí sang huyệt Trường cường ở xương cùng. Khi đến Trường cừơng nên nhíu hậu môn lại để vừa kích hoạt khai mở hai huyệt Trường cường và Hội âm ở hai bên của hậu môn, vừa tạo thế để chuyển khí từ Trường cường theo mạch Đốc đi lên dọc cột sống lưng. Khi ý và khí đến khoảng nữa sống lưng thì bắt đầu thở ra. Thở ra. Trong lúc thở ra, tiếp tục dùng hơi thở đẩy khí đi lên mạch Đốc, qua Đại chùy, Bách hội, trở lại Thần đình là xong một vòng Tiểu Châu thiên. Tiếp tục hít vào từ Thần đình xuống mạch Nhâm để vận hành vòng Châu thiên kế tiếp. Cuối cùng, trước khi chấm dứt giai đoạn này nên tập trung ý tưởng tại Đan điền vài phút để tụ khí tại Đan điền. Có thể tập khoảng 21 vòng Châu thiên trước khi đến giai đoạn tĩnh tọa. Lưu ý: Không cần phải hít vào hoặc thở ra trong suốt quá trình vận hành vòng Châu thiên mà chỉ hít vào ở phần đầu và ở mạch Nhâm, thở ra ở phần cuối của mạch Đốc. Đoạn còn lại từ Đan điền sang Trường cường đến quá nữa lưng là giai đoạn ngưng thở, dùng ý để chuyển khí để tránh hụt hơi hoặc đuối hơi. Do đó không cần thở sâu, chỉ cần thở nhẹ, thở bình thường cũng sẽ dễ dàng đi hết đường dài của vòng Châu thiên. Lâu dần, người tập chỉ cần dùng hơi thở thật nhẹ và dùng ý lướt từ Thần đình hoặc Bách hội, theo hơi thở đi suốt vòng Châu thiên mà không cần phân biệt hít vào, ngưng thở hay thở ra. Càng thở nhẹ càng dễ chuyển khí và dễ tiến vào nhập tĩnh. Trên thực tế, có nhiều người sẽ "cảm thấy" luồng khí bị gián đoạn hoặc không thẳng mà chạy vòng khi đi qua một điểm nào đó trên mạch Đốc. Điều này cho biết ở vị trí đó và vùng tạng hoặc phủ tương ứng với nó đang có một rối loạn bệnh lý nhất định. Cứ tiếp tục tập luyện, qua thời gian kinh mạch sẽ được thông, đường khí sẽ thẳng. Trường hợp này có thể tự hỗ trợ bằng cách dùng hai ngón tay trỏ và giữa vuốt nhẹ dọc theo chiều đường kinh mỗi lần vận khí đi qua điểm bế tắc đó. Đừng ngại rằng bạn sẽ không thể tự mình khai thông được kinh mạch. "Đả thông Nhâm Đốc nhị mạch" không quá huyền thoại như trong phim "chưởng". Trước hết, gọi là kinh mạch nên vốn dĩ nó là những con đường đã có sẵn. Nhâm Đốc lại là hai đại mạch nên có thể ví như những con kênh lớn, những đại lộ chớ không phải những hẻm nhỏ khó tìm, khó đi. Công việc chỉ là qua thời gian cần nạo vét hoặc làm thông thoáng đường kênh mà thôi. Mặc khác, vì "thần đâu khí đó", ở đâu có ý tất ở đó có khí, nên tập trung tư tưởng ở đâu hoặc dẫn đi đâu thì chắc chắn khí sẽ ở đó, sẽ theo đến nơi ta muốn. Chữa bệnh từ xa cũng không nằm ngoài nguyên tắc này. Ngồi thiền Một trong những nguyên tắc căn bản của việc luyện tập khí công là thuận tự nhiên. Việc luyện tập không những phải thuận theo những quy luật vận hành chung của vũ trụ và con người mà còn phải thuận theo sự phát triển tự nhiên cá biệt cho từng cá nhân. Mỗi cá nhân có căn cơ và bẩm thụ khí chất khác nhau nên sự phát triển khí hóa cũng không giống nhau. Do đó Tĩnh toạ Châu thiên pháp ngoài việc khai thông Nhâm Đốc còn phối hợp với tĩnh toạ để đưa cơ thể tiến dần đến vô thức hoặc nhập tĩnh. Chính trong điều kiện nhập tĩnh hệ thần kinh trung ương sẽ phục hồi khả năng tự điều chỉnh, tự hoàn thiện, tối ưu nhất cho từng cá nhân và vòng Tiểu Châu thiên, tức nội tức cũng sẽ tự động luân chuyển với tốc độ và hiệu quả cao nhất. Từ đó nội khí sung mãn có thể lan tỏa tự nhiên sang các kinh mạch và tạng phủ toàn thân thành vòng Đại Châu thiên theo một trình tự khế hợp với sự phát triển sức khỏe và tâm linh riêng cho mỗi người. Ngồi thiền là con đường đưa đến nhập tĩnh. Có nhiều phương pháp thiền khác nhau, tựu trung vẫn là giúp người tập tập trung sức chú ý về một điểm, một hình ảnh, một đề tài hoặc một câu ám thị nhất định nhằm dẫn cơ thể tiến dần đến tình trạng nhập tĩnh, khi tâm không còn bám víu vào bất cứ ý niệm nào. Như vậy ngồi thoải mái, lặng lẽ, tập trung sức chú ý vào hơi thở lên xuống ở mạch Nhâm hoặc vào ra ở Đan điền, hoặc theo dõi luồng chân khí triền chuyển trên vòng Tiểu Châu thiên, hoặc chỉ tập trung quán chiếu Đan điền,… đều là những phương pháp thiền. Điều quan trọng là nếu đã chọn phương pháp nào để thiền thì nên giữ mãi phương pháp đó để từ thế ngồi, thế tay, cách thở, lời ám thị, đường khí vận luyện,… được bộ não ghi nhận qua thời gian sẽ hình thành nên những mã khóa, những cung phản xạ có điều kiện để đưa người tập tiến nhanh vào trạng thái nhập tĩnh. Trong quá trình ngồi sẽ có những lúc tâm bị phân tán, các tạp niệm xen vào. Điều này là bình thường. Chỉ cần tiếp tục phương pháp hoặc tập trung vào đề tài là đủ. Lâu dần những tạp niệm sẽ thưa dần, thời gian tập trung sẽ được dài hơn, hơi thở sẽ điều hòa hơn, chậm hơn, đến lúc không còn ý niệm và quên luôn cả hơi thở. Đây là một quá trình lâu dài. Tùy theo khí chất của mỗi người, mức độ nhập tĩnh đạt được sẽ khác nhau. Tuy nhiên để tự chữa bệnh bằng khí công tĩnh toạ, việc duy trì tình trạng bám víu vào đề tài hoặc vào điểm tập trung một thời gian nhất định là đủ. Điều quan trọng là nên tập đều đặn hàng ngày, mỗi ngày một hoặc hai lần, mỗi lần từ 15 phút trở lên. Nếu không thiền bằng cách quán chiếu Đan điền thì trước khi xã thiền cũng cần tập trung ý vài phút tại Đan điền để tụ khí lại nới đây. Đan điền còn gọi là Khí hải hoặc Khí huyệt, vì là nơi ở của khí, nguồn gốc của sự sống. Tụ khí về Đan điền để tránh tình trạng khí nghịch, khí trệ do chân khí còn lưu đọng ở kinh lạc ở tạng phủ, vùng đầu hoặc vùng ngực trong quá trình luyện công. Nếu thời gian ngồi thiền lâu, cần quan tâm đến việc xã thiền để giúp khí huyết lưu thông bình thường trở lại. Trước khi đứng dậy nên co duỗi tay chân, xoay người qua lại nhiều lần. Xoay ở vùng eo, vùng cổ. Dùng cả hai tay vuốt nhẹ hai bên sống mũi, từ đầu mũi đến tận chót cằm. Vuốt ấm hai vành tay. Xoa nóng hai lòng bàn tay rồi áp vào hai mắt. Dùng hai bàn tay xoa bóp dọc theo hai chân từ đùi ra đến bàn chân. Xoa ấm hai lòng bàn chân. Cuối cùng áp lòng bàn tay phải vào bụng dưới xoa vòng tròn quanh rốn 36 vòng, xong lại xoa 36 vòng theo chiều ngược lại. Những hiệu ứng khi luyện công Luyện tập khí công có thể mang đến những kết quả chữa bệnh rất kỳ diệu. Tuy nhiên kết quả này không thể sinh ra trong ngày một ngày hai mà phải thông qua một quá trình cần mẫn lâu dài. Tuần tự tiệm tiến là một nguyên tắc cần tuân thủ trong khi luyện công. Thông thường, việc "đánh thức" Đan điền, sinh nội khí có thể xảy ra từ vài ngày đến vài tuần. Những hiệu quả tích cực đối với sức khỏe như giảm hoặc hết bệnh, ăn ngon hơn, ngủ dễ hơn (nếu khó ngủ) hoặc ngủ sâu hơn, tăng cân (hoặc giảm cân nếu trước đó béo phì)… có thể thấy được từ 3 đến 6 tháng. Những cảm nhận về khí cũng khác nhau ở mỗi người. Những cảm nhận này có thể là cảm giác nóng ở một huyệt vị hoặc cảm giác về luồng khí di chuyển theo đường kinh, hoặc về màu sắc của khí… Có nhiều người không hề cảm nhận được những dấu hiệu này dù sức khỏe được cải thiện và việc luyện tập vẫn tiến bộ. Do đó không nên lo lắng, mong cầu. Lòng tin và quyết tâm tất sẽ đưa đến kết quả. Quá trình tập có thể xảy ra đau, tức, ngứa ngáy, co giật do việc khai mở một sốâ huyệt vị trên đường kinh hoặc công phá một tổ chức bệnh trước khi những bế tắc này được thải trừ hết. Thông thường những phản ứng này sẽ tự chấm dứt sau đó. Một số ít trường hợp luyện công xảy ra tức ngực, khó thở, tim đập nhanh hoặc căng nặng ở đầu. Những trường hợp này thường do hít vào sâu quá hoặc ngưng thở quá lâu. Cần điều chỉnh lại hơi thở và tăng cường buông lỏng cơ thể trong quá trình luyện công. Có một số người, nam hoặc nữ, sau một thời gian luyện công thì tính dục xung động, gia tăng cảm giác ham muốn tình dục. Đây không phải là một hiệu ứng xấu mà là một dấu hiệu của tập luyện có hiệu quả dẫn đến nội lực sung mãn. Vấn đề chỉ là điều tiết chuyện phòng the và tận dụng nguồn nội lực ấy để tái bổ sung cho cơ thể như thế nào. Để tái bổ sung, chỉ cần ngồi yên tĩnh, lặng lẽ vận hành vòng Tiểu Châu thiên cho đến khi có cảm giác bình thường trở lại. Điều này sẽ khiến năng lực tính dục thông qua Nhâm Đốc phân bố lại để nuôi dưỡng cơ thể. Đây là điều mà các đạo gia gọi là luyện tinh hóa khí, luyện khí hóa thần, chuyển năng lực tính dục theo mạch Đốc lên đầu để phát triển trí não và huy động những chức năng còn tiềm ẩn. Trên thực tế, sau một thời gian luyện tập tốt Tỉnh toạ châu thiên pháp, chỉ cần ngồi vào tư thế, nhập tỉnh hoặc lặng lẽ quan sát vùng bụng dưới thì việc "hoá khí" sẽ tự động diễn ra và hoàn tất trong vòng vài phút mà không cần phải tác ý hay vận luyện gì. Ngoài ra người tập cũng có thể tập trung tư tưởng tại Mệnh môn thay vì Đan điền khỏang 10 phút trước mỗi lần xả thiền. Mệnh môn là chỗ ở của chân Hỏa. Tập trung ý tại Mệnh môn để dẫn Hỏa về đây sẽ giải tỏa được áp lực ở vùng sinh dục hoặc Đan điền. Nói đến Hỏa, không thể không đề cập đến Trường cường. Trường cường là nơi xuất phát chân Hỏa, tương ứng với luồng hỏa xà Kundalini của khí công Aán độ. Sự khai mở và vận dụng hợp lý trung tâm lực này có thể mang lại một nguồn nội lực to lớn cho việc chữa bệnh và dưỡng sinh. Ngược lại, nếu không kiểm soát được, nguồn năng luợng này có thể gây tác hại. Sự khai mở Trường cường phải tiến hành đồng thời với sự khai mở hai huyệt Thần đình và Bách hội và cả sự khai thông mạch Đốc. Khai mở Thần đình, Bách hội không những để thu nhận ngoại khí, bổ sung cho chân khí mà còn để tạo một van an toàn để tiết bớt chân Hỏa trong quá trình vận hành Châu thiên qua vùng đầu. Việc khai thông Nhâm Đốc là điều kiện để chân Hỏa ở Trường cường cũng như nội khí sinh ra ở Đan điền có thể luân lưu tuần hòan tạo ra sự giao hóan, cân bằng giữa Aâm và Dương, giữa ngủ tạng và lục phủ. Thỉnh thoảng nếu có những biểu hiện dương Hỏa quá vượng như ù tai, nhức đầu, nổi mụn, sưng nướu răng… do phong nhiệt hoặc do sự phát tác của những ổ nhiễm khuẩn cũ thì nên tạm ngưng kích hoạt Trường cường. Trường hợp này, khi chuyển vận Châu thiên đến Đan điền nên đưa thẳng từ Đan điền sang Mệnh môn đi lên mạch Đốc mà không cần qua Trường cường. Ngoài ra, sử dụng tư thế kiết già khi vận hành Châu thiên hoặc ngồi thiền cũng là một biện pháp để cân bằng với chân Hỏa. Ở tư thế này, xương mác của một chân đã tạo một sức ép khá mạnh lên đúng vị trí của huyệt Tam Aâm giao của chân còn lại. Như vậy trong suốt thời gian ngồi kiết già, những đường kinh Aâm và huyệt Hội âm liên tục được kích hoạt, có tác dụng tăng cường Âm khí và tạo thêm một kênh an toàn để trung hòa với chân Hỏa và khí Dương ở mạch Đốc. nguồn: http://www.ykhoanet..../voha/vh018.htm
  11. Dân gốc bản địa Đài Loan có chữ viết không? Trích:Hà Hiển Vinh,hội khoa học Đĩa Bay Đài Loan Theo cách nhìn của các nhà sử học, khảo cổ học, ngôn ngữ học hiện đại thì họ đều khăng khăng một luận điệu rằng không. Nhưng những năm 70, một học giả nổi tiếng chuyên nghiên cứu văn hóa cổ đại Đài Loan là giáo sưVệ Tụ Hiền衞聚賢đã viết cuốn “Quan hệ đồng bào miền núi Đài Loan và Việt Mân”, “Khảo cổ hang dơi của đồng bào miền núi Đài Loan” và nhiều cuốn sách khác.Trong các cuốn sách của ông đã sưu tập được nhiều tiêu bản về ký hiệu ghi sự việc, chữ tượng hình và chữ khoa đẩu của các sắc dân bản địa Đài Loan. 1.Ví dụ ký hiệu ghi sự việc của người Bố Nông: *布農族的符號記事 2.Hoa văn xăm mình của người sắc tộc Bài Loan: *排灣族紋身花紋的圖騰 So sánh với chữ tượng hình của người Lungo Lungo hệ ngữ Nam Đảo cư trú ở hòn đảo cực đông Polinêxia Nam Thái Bình Dương thuộc châu Nam Mỹ (đánh dấu E trong bảng so sánh) cùng chữ tượng hình của người Ấn Độ (đánh dấu I trong bảng so sánh) thì thấy tương tự nhau đến kỳ diệu: *印度文字I與復活節島倫哥倫哥文字E相比較 Nhưng chữ tượng hình của người Ấn Độ rõ ràng tiến hóa hơn theo hướng trở thành ký tự chứ không còn là ký hiệu.Vậy mà văn tự ấy của Ấn Độ có cách nay hơn 4000 năm. Nếu so bảng so sánh này với hình hoa văn vằn thân của sắc tộc Bài Loan bản địa của đảo Đài Loan thì thấy nó cũng lại tương tự với hai loại chữ tượng hình của người Ấn Độ và người Lungo Lungo Polinêxia, có điều là nó còn nặng chất ký hiệu hơn, tức theo logic nó phải có sớm hơn chữ tượng hình của người Ấn Độ, ít nhất nó cũng phải có cách nay từ 6000 đến 12000 năm, vậy mà thứ hình hoa văn đó của người bản địa Đài Loan vẫn tồn tại rất lâu dài, nó chỉ mới bị tiêu diệt cách nay vài trăm năm. Sự tương tự của chữ tượng hình chứng tỏ những tộc người trên đã có giao lưu với nhau qua đại dương, mà thời cổ đại khả năng vượt đại dương thì duy nhất chỉ có người Polinêxia là có thể. Hay họ đã là người đưa ký hiệu của người Đài Loan sang cho người Ấn Độ, để rồi người Ấn Độ nâng cấp lên thành ký tự? Khi nghiên cứu về gien, các nhà khoa học đã cho biết DNA của người Polinêxia minh chứng họ là xuất xứ từ Đài Loan. 3.Chữ Khoa Đẩu ở Đài Đông: Nhà ông Lâm Đăng Thái thị trấn Vĩnh Hòa Đài Bắc có cất giữ rất nhiều bản khắc gỗ của đồng bào miền núi Đài Đông. Ông Thái thời Nhật trị cư trú ở Đài Đông, sau độc lập mới di cư về Đài Bắc dựng vài căn nhà lá và một vườn hoa nhỏ, trong nhà và đình của ông treo và xếp đống rất nhiều bản khắc gỗ của đồng bào miền núi Đài Đông, trong đó có bốn bản khắc chạm nổi loại chữ hình rắn. Do người sắc tộc Bài Loan thờ rắn nên vẫn dùng hình tượng rắn làm thành văn tự vì rắn và nòng –nọc (ấu trùng của ếch) tương tự nhau, cho nên mới gọi là chữ khoa đẩu. Ông Lâm Đăng Thái từng đồng ý cho giáo sư Vệ Tụ Hiền chụp mấy bức ảnh bản phù điêu gỗ dưới đây: *台東排灣族凸刻木雕蛇紋 4.Chữ Khoa Đẩu ở đầm Nhật Nguyệt: Ngày 1-9-1959 ông Hoắc Bồi Hoa trước trú ở thị trấn Vĩnh Hòa Đài Bắc cùng vài người bạn đi thăm danh thắng đầm Nhật Nguyệt, phát hiện một số mảnh đá vỡ cạnh lều cỏ. Sau khi tìm hỏi và ngả giá xong ông mua hai tấm lớn nhất đem về cất ở nhà. Khoảng 1966 có tiệm “đặc sản Đài Loan”ở đầm Nhật Nguyệt thu mua văn vật miền núi, từng có dân miền núi đem những hòn đá có khắc chữ vằn vện đến ký gửi. Lâu không thấy ai mua, họ lại đến lấy về, từ đó mất tăm luôn. Hai tảng đá mà ông Hoắc Bồi Hoa mua về có khắc chìm chữ Khoa Đẩu. Sau nhiều nghiên cứu mà cũng chưa ai giải mã được. Sau đó trong buổi nói chuyện của giáo sư Vệ Tụ Hiền giới thiệu cuốn sách của ông “Quan hệ đồng bào miền núi Đài Loan và Việt Mân” trong đó có một tiêu bản điêu khắc chữ Khoa Đẩu ở bia đá Vũ Vương trong lục địa mà chữ tương tự như chữ ở đầm Nhật Nguyệt, mà bia Vũ Vương thì đã có cách nay 4200 năm. Chữ trên bia Vũ Vương là loại chữ đặc hữu của Hoành Sơn nên người ta lấy tên đỉnh cao nhất của Hoành Sơn là Câu Lâu để gọi loại chữ này là Câu Lâu văn: *日月潭的蝌蚪文(chữ khoa đẩu ở đầm Nhật Nguyệt) *衡山禹王碑岣嶁文(chữ khoa đẩu ở bia Vũ Vương trên núi Hoành Sơn,loại chữ ấy gọi là Câu Lâu văn岣嶁文vì đỉnh Câu Lâu là đỉnh cao nhất của núi Hoành Sơn) 5.Thái cổ văn ở đảo Cơ Long Xã Liêu: (tên đảo đã cho thấy thuộc hệ ngữ Nam Đảo, “cơ long” là từ chữ “cù lao”, “pulao”mà ra - người trích) còn gọi là đảo Hòa Bình. Ở đảo này khai quật được bia đá có thái cổ văn là loại chữ con dơi, có sớm hơn bia Vũ Vương, tức khoảng 5000 năm trước. Bia này phát hiện được thời Nhật trị nên đã bị thu đưa về trưng bày ở viện bảo tàng đế thất ở kinh đô Nhật Bản. 基隆和平島出土的太古文石碑 Cổ thư chữ Hán có nhắc nhiều đến chữ khoa đẩu. Hậu Hán thư - Lô Thực truyện có nói: Cổ văn khoa đẩu. Nhan Sư ngày xưa đã chú: Cổ văn là sách trong vách nhà Khổng Tử. Văn tự ấy hình nó giống con khoa đẩu (nòng nọc) nên lấy con ấy mà đặt tên, gọi là chữ khoa đẩu. Tấn thư-Vệ Hằng truyện có nói: Thời Hán đế, Lỗ Cống Vương phá nát nhà Khổng Tử, lấy được Thượng thư, Xuân thu, Luận ngữ, Hiếu kinh. Người đương thời không biết khôi phục lại chữ cũ của họ Hùng , nên họ gọi là chữ khoa đẩu (nguyên văn:時人不知復有古文,謂之蝌蚪文 “thời nhân bất tri phục Hữu cổ văn, vị chi khoa đẩu văn” - ở đây người trích cho rằng chữ Hùng có thể đã bị cạo mất thời nhà Thanh, “Hữu Hùng cổ văn” nghĩa là “chữ cũ họ Hùng”). nguồn: http://ufo.twup.org/study/fk104.htm
  12. Xôn xao vụ "3 chú mèo lạ" trên tờ 100 tệ (TNO) Mấy ngày gần đây, cộng đồng mạng Trung Quốc liên tục nóng sốt với câu chuyện "3 chú mèo lạ" trên tờ 100 tệ, theo Nhân dân nhật báo ngày 7.2. Một loạt bức ảnh được phát tán trên mạng, trong đó có một ảnh phóng to họa tiết có hình "3 chú mèo lạ" trên tờ 100 tệ, đã tạo nên làn sóng tranh luận dữ dội trên internet. Ảnh phóng to này cho thấy 2 mèo con đang quỳ và bái lạy một chú mèo to ở giữa. Chú mèo to có 2 mắt là 2 đồng tiền cổ của Trung Quốc và mở miệng thật to, nhìn thẳng về phía trước. Đặc biệt, cả 3 chú mèo này có cả… ria mép. Chi tiết này khiến cộng đồng mạng bàn tán xôn xao vì tò mò. Họa tiết trong khung vuông màu đỏ trên tờ 100 tệ được phóng to tạo thành ảnh 3 chú mèo (ảnh nhỏ bên dưới mũi tên) - Ảnh: Nhân dân nhật báo Rất nhiều cư dân mạng tỏ ra thích thú và khâm phục người đã phát hiện ra chi tiết rất khó nhận biết bằng mắt thường nói trên. Đồng thời, không ít người cũng thắc mắc ai là người vẽ chi tiết đó và có ý nghĩa như thế nào. Tuy nhiên, một chuyên gia tiền tệ cho biết, đó không phải là hình mèo, mà là một kỹ thuật thiết kế nhằm chống làm tiền giả. Ông Viên Ngân Long, chuyên gia tiền tệ tỉnh Hà Nam (Trung Quốc) khẳng định: “Tất cả đều do mọi người tưởng tượng ra và ai đó đã cố ý vẽ thêm ria mép cho các họa tiết để biến các họa tiết đó thành… mèo. Chứ thực tế không có bất kỳ hình chú mèo hay mèo bái lạy nào trên tiền giấy nhân dân tệ”. Chuyên gia trên nói thêm, trước khi phát hành tờ tiền nào đó thì bản phác thảo phải được kiểm duyệt qua nhiều khâu khắt khe, nên họa tiết 3 chú mèo trên tờ 100 tệ không thể nào được thông qua. “Họa tiết mà người ta gọi là hình 3 chú mèo đó chẳng qua là kỹ thuật thiết kế chống làm giả và kỹ thuật này là bí mật quốc gia”, ông Viên nói với Nhân dân nhật báo. Ông Viên còn thông tin thêm, vào năm 1944, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc có phát hành tờ 200 tệ và trên mặt của tờ này có ghi chữ tiếng Anh “US-AC”, cũng thuộc một dạng kỹ thuật thiết kế bí mật. Sau này, dòng chữ trên đã được giải mã. “Đó là ký hiệu ngầm, có nghĩa “Nước Mỹ đã tới”, vì thời điểm đó, Mỹ và Trung Quốc là đồng minh cùng chống Nhật”, ông Viên lý giải. Trí Quang ==================================== Thiên Đồng giải mã: Một con mèo với cặp mắt là 2 đồng tiên cổ, đứng ở tư thể gòng tay như lực sĩ gòng diễn tả sức mạnh, nghĩa là biểu tượng của sự ranh ma (mèo) và sức mạnh của...đồng tiền. Hai con còn lại chầu hai bên và quỳ lại chứng tỏ sự đầu phục. Thông điệp quá rỏ ràng: chỉ có sức mạnh đồng tiền và những cuộc đi hoang trong đêm tối là sức mạnh bá chủ. Nhớ một câu nói của ông nào đó bên sứ Trung Quốc nói rằng: "Mèo trắng mèo đem đều tốt cả", nhưng hình ảnh này thì rỏ ràng là mèo trắng với con mắt tiền và chiếc mão vua (3 tam giác nhọn trên đầu), chứng tỏ sự thượng tôn sức mạnh đồng tiền.
  13. Lóng Việt - Lời Nhật Anh:ANI(anh)An tim:ANXIN(yên tâm)An toàn:ANDÊN(an toàn)Đóai kia:ĐARÊKA(ai) Đó nào thằng:ĐÔNATA(ai)Bon bon:ĐÔNĐÔN(ào ạt)Tay bê giữ:TABÊRƯ(ăn)Mời xơi ăn gà rán:MỄXIAGARƯ(ẩm thực)Ừ rác tai:ƯRƯXAI(ồn ào)Trọ mà rứa:TÔMARƯ(ở trọ)Ấy muội tôi:YMÔÔTÔ(em gái)Do oải:DÔ OAI(yếu) Xíu có xí:XƯCÔXI( ít)Ý mà:Y MƯ(ý )Ái:AY(yêu)Ý kiến:Y KÊN(ý kiến)Hãy dí mũi:HADIMÊ(bắt đầu)Ý cần răng?:Y CƯRA ( bao nhiêu)Y sĩ:Y sha(y sĩ)Y chừng mô:YCHƯMỐ(bao giờ cũng)Ymặt:YMA (bây giờ)Ưng rao:YRƯ(bán)Vẽ:Ê(bức tranh)Diễn xuất:ÊNXÔ(biểu diễn)Ông to bạn :ÔTÔXAN(bố bạn)Có dọn gì được:GÔDÔNDIĐÊS(biết)Giữ bền nào:GIÔBƯNA(bền) Xó to:XÔTÔ(bên ngoài)Xó rộng:XÔRA(bầu trời)Chỗ xe đỗ:CHÔSAGIÔ(bến xe)Tôi nằm rìa:TÔNARI(bên cạnh)Tót bật:TÔBƯ(bay)Nêu ra bày rồi:NARABÊ RƯ(bày ra)Nê mắt:NÊMƯI(buồn ngủ)Bệnh viện:BIÔIN(bệnh viện)Bệnh nhân:BIÔNIN(bệnh nhân)Phủi hắt:FƯHÊY(bất bình)Phiền não:FƯBÊNNA(bất tiện)Phi mãn:FƯMAN(bất mãn)Phì rò:FƯRÔ(bồn tắm)Mau mà giữ:MAMÔRƯ(bảo vệ)Dơ gớm ra rứa:DÔGÔRÊRƯ(bẩn) Dự hóng:DÔHÔÔ(báo trước)Uốn tắt xéo:OATAXƯ(băng qua)Oang ra ồn:OATAƯ(cười) Dắtt tột:YATTÔ(cuối cùng)Tột tót:TỐTÔÔ(cuối cùng)Mụ xứ mệ:MUXƯMÊ(con gái) Mãnh xửng cồ:MƯXƯCÔ(con trai)Mí nước to:MINATÔ(cảng)Mảnhgió:MAĐÔ(cửa sổ)Phù rồi ý:FƯRƯI(cũ kỹ)Ham chọn dồ:HICHƯDÔ(cần thiết)Bữa cơm ăn: BANGÔHAN(cơm tối)Nới gút:NÊGƯ(cởi)Chờ rớ:CHƯ RƯ(câu cá)Cảnh ngộ:CHƯGÔ Ô(cảnh ngộ)Đó ru:ĐARÔÔ(có lẽ)Dí mần:DIMƯ(công việc)Xem cá này:XACANA(con cá)Gặp dàn mặt:GÔDAIMAXƯ(có mặt)Cầm tíu ri:CÔTÔRI(con chim con)Công tác:CÔTÔ(công tác)Kèn cựa:KÊNKA(cãi cọ)Cữ tối:CƯRAI(cỡ tối)Cấm ngọn:KINÊN(cấm lửa)Coi chừng kẻo rụng:KIỐCHƯKÊRƯ(cẩn thận)Cắt rời:KIRƯ(cắt) Cóc nghĩ:KIƯNÍ(không ngờ)Có mó chắc:KIMÔCHI(cảm giác)Cảm gì rõ:CANDIRƯ (cảm thấy)Con tem:KITÊ(con tem)Cây:KI(cây)Gắng bằng rồi:GANBARƯ(cố gắng) Cặp bán:CABAN(cái cặp sách)Cảm gió:CADÊ(cảm gió)Ô thằng cò nó có:ÔTÔCÔNÔCÔ(con trai)Ý rõ:YRÔ(cần)À rứa:ARƯ(có)Cơm ăn:GÔHAN(cơm)Nào nấy:NANNÍ(cái gì)Đâu có đằng kia:ĐÔCÔĐACA(chỗ nào đó)Ẩy xôbồ:AXÔBƯ(chơi)Ả này:ANÊ(chị)Ưa sao cần mẫn:YSÔKÊNMÊI(chăm chỉ)Úp chụp xuống:ƯCHƯXƯ(chụp)Càng nặng ra giữa:CANARADƯ(chắc chắn)Cứ để xài:CƯĐAXA(cho phép)Cốt xỏ:CÔXÔ(chính)Gả chia xớt:GÔCHIXÔÔ(chiêu đãi)Xin nằm:XINƯ(chết)Giao tế:SÔTAI(chiêu đãi)Chuẩn bị:GIƯNBI(chuẩn bị)Xẻ với:XÊWA(chăm sóc)Chuyên môn:XÊNMÔN(chuyên môn)Đáng có:ĐAKÊ(chỉ có)Chậm cò cưa:CHICÔCƯ(chậm)Cha chú:CHICHI(cha)Tôi có rồi:TÔCÔ RÔ(chỗ)Tẩm rưới:TÔRƯ(chụp)Hích cột xà:HÍTCÔXƯ(chuyển nhà)Dạ rồi:YARƯ(cho)Ọc ạch ri:ỨTCHCƯRƯ(chậm chạp)Ôm cái rẽ rời:OACARÊRƯ(chia tay) Ra vẻ:RAXII(dường như)Dò tính:DÔTÊI(dự định)Dễ tẩy:DÔTÊI(dễ dàng)Nó dài:NAGAI(dài)Đỗ mãi rứa:TÔMARƯ(dừng)Chừng mô ri:CHƯMÔRI(dự định)Cho keo rồi:CHƯKÊRƯ(dính)Dần dần:ĐANĐAN(dần dần)Xong dẹp:XÔDI(dọn dẹp)Cứa rằn ri:KIƯƯRI(dưa leo)Cứt ta này:KITANAI(dơ bẩn)Ông xem rồi:ÔXIÊRƯ(dạy)Ừ xạo:Ư XÔ(dối)Ăn nói:ANNAI(dạy)Mải đang:MAĐA(đang)Anh rảo cuốc:ARƯCƯ(đi bộ)Anh cứ:ACƯ(đi)U tấy:Y TAI(đau)Ị bãi:YCHBAI(đầy)Ì Để rứa:YRÊRƯ(để)Út chị cực xinh:ƯCHƯCƯXII(đẹp)Ký rồi này:KIRÊINA(đẹp)Ối dân:ÔÔDÊI(đông đúc) 1 Khả ái:KAOAII(đáng yêu)Xi mạ rồi:XIMARƯ(đóng)Đến già:DINGIA(đền thờ)Dồi chứ:DƯCHƯ(đã từng)Đầy đủ:TARIRƯ(đầy đủ)Đại khái:ĐAITAI(đại khái) Chính đúng:CHIÔÔĐÔ(Đúng)Đặt xuống:ĐAXƯ(đưa ra)Chiếc cầu:CHIKIƯƯ(địa cầu)Chỉ dõ:CHIDƯ(địa đồ)Chuyêncần:CHƯƯKIN(đi làm)Tên:TÊN(điểm)Điện với:ĐÊNWA(điện thoại)Tọt rồi:TÔÔRƯ(đi qua)Tốt cực nị:TÔCƯNÍ(đặc biệt)Đạo cụ:ĐÔGƯ(đạo cụ)Đáng bắt chứ:ĐÔÔBƯCHƯ(động vật)Đằng nào:ĐÔNNA(đằng nào)Ngái:NIGAI(đắng)Hai chiếc:HAXI(đôi đũa)Hẵng mới:HADIMÊ(đầu tiên)Phập mềm:PHƯMƯ(đạp)Mải chờ:MACHƯ(đợi)Mau đến:MAĐÊ(đến)Mòn chi:MICHI(đường đi)Dò miệng:DÔMƯ (đọc)Dò dằn cọc:DÔDACƯ(đặt trước)Lóc cóc:RIÔCÔÔ(đi du lịch)Rỗi xéo:RƯXƯ(đi vắng)Ừ tống ra:OATARƯ(đưa)Kẻng ghê ý:KIRÊI(đẹp)Hẹn cái xẽ rõ,Hội kiến:HAIKÊN XƯRƯ(gặp)Chắn tốt:CHIANTÔ(gọn gàng)Chỗ cận kề:CHICACƯ(gần)Tối cận:XAIKIN(gần nhất)Cơm:KÔMÊ(gạo)Cỡ này gần rồi:CÔNÔGÔRÔ(gần đây)Kẻ gặp mi:KAGAMI(gương)Gặp gỡ:AƯ(gặp gỡ)Căm rõ này:KIRAINA(ghét)U mê:ƯMÊ(giấc mơ)Ưu suất:ƯƯSÔÔ(giảinhất) Hồigia:HÊGIA(gian nhà)Nhận đáng:NÊĐAN(giá bán) Giặt giũ:XÊNTACƯ(giặt giũ)Giỏi giang nào:GIÔDƯNA(giỏi)Giản đơn:KANTAN(giản đơn)Kẻ nứt mỏ chì:KANÊMÔCHƯ(giàu có)Giải quyết:KAIKẾTCH(giải quyết)Cả giống cơ:CADÔCƯ(gia tộc)Ồ này giống:ÔNADI(giống nhau)Ông cáu rồi:ÔCÔRƯ(giận dữ) Ổn cả rồi:OACARƯ(hiểu)Cữ gần tối:ƯƯGATA(hoàng hôn)Ước xong cứ:YACƯXÔCƯ (hẹn hò)Mãn rồi đó:MARƯĐÊ(hoàn toàn)Biết cách:BÊNKIÔÔ(học)Hoa này:HANA(hoa) Hộp:HACÔ(hộp)Xờ ri tỏ mô:XÔRÊTÔMÔ(hay là)Khe mọi:XÊMAI(hẹp)Dất tốt:DỨTCHTÔ(hơn hẳn)Sách rồi:SƯRƯI(hồ sơ)Cũ quá sét rỉ:CÔOARÊRƯ(hư hỏng) Cận giềng:KINGIÔ(hàng xóm)Ừta ca:ƯTAƯ(hát)Em cứ gặp gỡ:ƯCAGAƯ(hỏi thăm) Ấy tất xong:YTAXƯ(hoàn tất)Ôm ăn rồi:ÔOARƯ(kết thúc)Ôm cắn xí:ÔCAXI(kẹo bánh) Cách chi:CATACHI(kiểu)Kiốt trà điếm:KICHXATÊN(tiệm trà)Kết cuộc:KẾTCHSÔCƯ (kết cục)Kết hôn:KẾTCHCÔN(kết hôn)Kiểm tra:KÊNXA(kiểm tra)Đồ rờ bùn:ĐÔ RÔBÔÔ(kẻ trộm)Nạt cáu:NACƯ(kêu la)Mắt gắn:MÊGANÊ(kính đeo)Dò kỹ:DÔCƯ(kỹ càng)Hô bảo:YÔBƯ(kêu gọi)Mần gì khó xử:MƯDƯKAXI(khó khăn)Mau mau nữa cứ: MAMÔNACƯ(không lâu nữa)Miệt chợ:MACHI(khu phố)Hơi độ:HÔĐÔ(khoảng)Nhọc cực:NICƯI(khó nhọc)Nức nở:NACƯ(khóc)Thường khi:TÔKI(khi)Được mô:ĐAMÊ(không được)Đại bộ:ĐAIBƯ(khá nhiều)Dở nì:DƯNI(không) Dày bộn:DƯIBƯN (khá nhiều)Khác khi:XACHKI(khi nãy)Quyết xa té:KÊCHXITÊ (không bao giờ)Kết quả:KẾTCHCA(kết quả)Cỡ rày:CƯRAI(khoảng)Không khí:KƯƯKI (không khí)Khoác rồi:KIRƯ(mặc áo)Khách:KIYACƯ(khách)Có mô như thế này:CAMÔ XIRÊNAI(không chừng)Khá nặng ri:KANARI(khá nhiều)Tôi ngợi:ÔIOAI(khen)Ấy xong gấp:YXÔGƯ(khẩn cấp)Lát tôi để:ATÔĐÊ(lát nữa)Cố tỏ bày:CÔTÔBA(lời nói)Í ới:YƯ(nói)Hay nói xì:HANAXƯ(nói)Mỏ xía:MÔÔXƯ(nói)Khó mà xử:KÔMAXƯ(lúng túng)Còn đó:CÔNĐÔ(lần này)Se mướt:XAMƯI(lạnh) Sẽ gặp ngay:XƯGƯNI(lập tức)Mau xát gút:MÔÔXƯGƯ(lập tức)Xử rồi:XƯRƯ(làm)Chế ra:CHƯCƯRƯ(làm)Cho dô kịp:CHƯDƯCƯ(lien tục)Đó răng tề:ĐÔÔYATTÊ(làm thế nào)Tóm rồi:TÔRƯ(lấy)Hai tay ra cuốc:HATARACƯ(lao động)Hiu hiu:HI(quẻ ly-lửa)Hơi xa xí buồn ri:HIXAXIBƯ RI(lâu lắm không gặp)Hèn nạ:HÊNNA(lạ lùng)Mất chì chài:MACHIGAI(lầm lẫn)Mải chơi ri:MACHƯRI(lễ hội) Ừ rẽ rời:ƯRÊRƯ(lắc lư)Lịch kịch sách:RIRÊKISÔ(lý lịch)Liên lạc:RÊNRACƯ(liên lạc) 2 Đồ nhâm nhi:RIÔÔRI(món ăn)Mục đích:MÔCƯTÊKI(mục đích)Mắt:MÊ(mắt)Mọi người:MINNA(mọi người)Mỗi nhật:MAINICHI(mỗi ngày)Ham xơi:HÔXII(muốn)Phùn ướt:PHƯƯ(mùa đông)Phì to ri:PHƯTÔRI(mập)Bị ốm cơ:BIÔÔKI(mắc bệnh) Hé ra cơ:HIRACƯ(mở)Hơi có cánh:HICÔÔKI(máy bay)Bán phần:HANBƯN(một nửa)Má:HAHA(mẹ)Hỉ nước:HANA(mũi)Nỏ nì:NÔNÍ(mặc dù)Nó ôi:NIÔI(mùi)Nắng chết:NACHƯ(mùa hè)Nữa cơ nữa cơ:NACƯNACƯ(mãi mãi)Chọi:CHƯDÔI(mạnh)Cho ướt:CHƯƯ(mùa mưa)Chừ càng run dữ:CHƯCARÊRƯ(mệt)Chút tí:CHỐTTÔ(một chút) Xòe cởi:XACƯ(nở)Cứ mưa:CƯMÔ(mây)À mưa:AMÊ(mưa)Cày rẽ ru:CARIRƯ(mượn)U của bạn:ÔCAA XAN(mẹ bạn)Ưa mặn:ƯMI(mặn)Ăn xổi:ƯXƯI(mỏng)Nhứt độ:ICHIĐÔ(một lần)À kéo ra:AKÊRƯ(mở ra)À cứ rọi:ACA RÊI(minh bạch)Í ới:YƯ(nói)Mồ:MÔ(nào,cũng)Giới xinh:GIÔXÊI(nữ tính)Xôi đút cho:XÔĐACHƯ(nuôi nấng)Đàn xửng:ĐANXÊI(nam tính)Nội dung:NAIDÔÔ(nội dung) Mưa dột:MIDƯ(nước)Mồồ:MÔÔ(nữa nào)Ước mình nổi:ƯƯMÊINA(nổi tiếng)Trọ quán:RIÔCAN(nhà trọ)Mau rước:MÔRAƯ(nhận)Ấy tao được:YTAĐACƯ(nhận)Hít cứt:HICƯ(nhiễm)Hay chạy:HADAI(nhanh)Nhật ký:NICHKI(nhật ký)Coi này nè:CÔNNANI(như thế này)Cứ tỏ:KICHTÔ(nhất định)Ông cắn ghé:ÔCAGHÊ(nhờ vả)Có ối:ÔÔI(nhiều)Í rầm í rộ:Y RÔYRÔ(nhiều thứ)Nhứt hạng:ICHIBAN(hạng nhất)Đi về:YÊ(nhà)Anh biết gay:ABƯNAI(nguy hiểm)Ô mai:AMAI(ngọt)Ồ xơi nhỉ:ÔIXII(ngon)Quen gợi ra:CANGAÊRƯ(nghĩ)Có chỉnh tề:KICHINTÔ(ngay ngắn)Có bị xích:KIBIXII(nghiêm khắc)Nghiên cứu:KÊNKIƯ(nghiên cứư)Cố ý bị tóm:CÔYBITÔ(người yêu)Nghê rỗi:NÊRƯ(ngủ nghê)Nghê mắt:NÊMATS(ngủ)Hay mắc cỡ:HADƯCAXII(ngượng)Hoa nào mê:HANAMI(ngắm hoa)Bức kinh ri:BICHKƯRIXƯ RƯ(ngạc nhiên)Dạ xả mình:DAXƯMƯ(nghỉ ngơi)Dạ mệt rồi:DAMÊRƯ(ngừng lại)Oắt con mô nớ:OACAMÔNÔ(người trẻ tuổi)Mắt rờ:MIRƯ(xem)Mãi cổ xưa:MƯCAXI(xưa kia)Mang chắc:MÔCHƯ(xách)Ủ rũ ý:OARƯY(xấu xí)Cách thức:CATA(phương pháp)Xó chi:XÔCHCHI(phía đó)Hai ta xử:HATAXƯ(phân phối)Hãy dậy:HADƯ(phải làm)Hát ồn:HACHƯÔN(phát âm)Hơi ngờ nhé:HIGIÔNÍ(phi thường)Phong tờ:PHƯTÔ Ô(phong bì)Phức tạp nạ:PHƯCƯDACHNA(phức tạp)Hắt xung:HÔÔXÔÔ(phát sóng) Uả xong rồi ru:OAXƯRÊRƯ(quên)Mắc đầu rồi:MÔĐÔRÔ(quay lại)Mini cam:MICAN(quýt)Thông giặc:HÔNGIACƯ(phiên dịch)Phủ quấn:PHƯCƯ(quần áo)Hết rét rồi:HARÊRƯ(quang đãng)Quá niên:KIÔNÊN(năm ngoái)Ký mạnh rồi:KIMA RƯ(quyết định)Quá cổ:KACÔ(quá khứ)Ở rạp bán:ƯRƯBA(quầy hàng)Xin xỏ:XAXÔ Ô(rủ rê)Xong xuôi tề:XÔXITÊ(xong rồi thì)Đi ra:ĐÊRƯ(ra)Hỏi kỹ ri:HACHKIRI(rõ ràng)Hơi rộng ý:HIRÔI(rộng)Lá dại:YAXAI(rau)Rằng dùng:RIDÔÔ(dùng)Mới giờ:MADƯ(sớm trước)Hồn:HÔN(sách)Phải câu:PHƯCAI(sâu)Nhọc:NÊCHƯ(sốt)Cho xài:CHƯCAƯ(sử dụng)Sự cố:DICÔ(sự cố)Sợ hãi:CÔOAI(sợ hãi)Nguyên khí:GÊNKI(sức khỏe)Cữ sáng:KÊXA(sáng nay)Cử ra bì rõ:CƯRABÊRƯ(so sánh)Khỏi rác này:KIRÊINA(sạch sẽ)U mày đẻ ra:ƯMARÊRƯ(sinh ra)Y mắt ni mà:YMANIMÔ(sắp sửa)Ánh xáng:AXA(sáng)Suốt tuần:SƯƯCAN(tuần lễ)Kể rày:KA RA(từ đây)To cực ý:ÔÔKIY(to lớn)Ồ kim này:ÔKANÊ(tiền)Kề mi:KAMI(tóc)Chỉ nõn:KINƯ(tơ)Cấp cố:KIƯCÔÔ(tốc hành)Cạo xóa:KÊXƯ(tẩy xóa)Cổ é:CÔÊ(tiếng)Cữ rày cứ ra:CÔRÊCARA(từ bây giờ)Tuổi:XAI(tuổi)Tản bộ:XANBÔ(đi bộ)Tạp chí:DAT XI(tạp chí)Xem còn chi:XICAXI(tuy nhiên)Xất cả rồi:XƯCHCARI(tất cả)Supper:XƯBARAXII(tuyệt vời)Toàn bộ:DÊNBƯ(toàn bộ)Xốt nghiệp:XÔCHƯKIÔ(tốt nghiệp)Chực cập:CHƯCƯ(tới)Tay:TÊ(tay) 3 Tức là:TÔCA(tức là)Đó xao thế:ĐÔXITÊ(tại sao)Phát ế ra:PHƯÊRƯ(tăng)Bền ri nạ:BÊNRINA(tiện lợi) Hơn gái ý:HÔÔGAIY(tốt hơn)Ngôi xao:HÔXI(tinh tú)Hồn đầy nặng:HÔNĐANA(tủ sách)Bữa năm cuối:BÔÔNÊNCAI(tiệc tất niên)Bố cả:BÔCƯ(tao) Mua xỉ:MI XÊ(tiệm buôn)Màng nhĩ:MIMI(tai nghe)Nhọ rồi:DÔRƯ(tối) Dô rồi xị:DÔRÔXII(tốt)Rèn sửa:RÊNSƯƯ(tập luyện)Oắt con ý:OACAIY(trẻ)Gĩa mưa:GIAMƯ(trời lạnh)Mắc xử:MÔXI(trong trường hợp)Hẹn giờ:HÊNDI(trả lời)Hãy trả đủ:HARAƯ(trả tiền)Triển lãm:TÊNRÊN(triển lãm)Xẹp mãi:XƯMƯ(trú)Thi tài:XIAII(trận đấu)Kẻ đỏ mỏ:KÔĐÔMÔ(trẻ con)Có đáp:CÔTAÊ(trả lời) Ghế sử ngủ:GHÊSƯCU(trọ bình dân)Cố căng ra:CAKÊRƯ(treo)Ông cứ rề rà:ÔCƯRÊRƯ(chậm trễ)Ừ khi ni:ƯCHINI(trong khi)Ý giời:YGIÔÔ(trở lên)Anh có cháu:ACACHAN(trẻ sơ sinh)Ô kìa rậy:ÔKIRƯ(thức dậy)Ôm bài em ru:ÔBAÊRƯ(thuộc lòng)Ốm mới mời:ÔMIMAI(thăm viếng)Quen coi:CANCÔ(tham quan)Giờ còn:GICAN(thời gian)Thi kiểm:XIKÊN(thi)Thất bại:XICHBAI(thất bại)Thất lễ:XICHRÊI(thất lễ)Xin kết nạp:XƯKINA(thích)Xờ rờ xờ rờ:XÔRÔXÔRÔ(thong thả)Tản mạn nị:TAMANÍ(thỉnh thoảng)Có khi có khi:TÔKITÔKI(thỉnh thoảng)Chăng kỳ:CHƯKI(tháng)Nhục cục:NICƯ(thịt) Thế là:ĐÊOA(thế là)Béo ních:BƯTANICƯ(thịt heo)Hồn tỏ:HÔNTÔ(thật là)Mất két rồi:MAKÊRƯ(thua)Một to:MÔCHTÔ(thêm nữa)Dô rồi có bữa:DÔRÔCÔBƯ(vui) Dấu diếm:DÔÔDI(việc riêng)Dạ bệt ri:DACHBARI(vẫn thế)Dạ hay rứa:DAHARI(vẫn là) Món bài:MÔNĐAI(vấn đề)Món đồ:MÔNÔ(vật dụng)Mù ri:MƯRI(vô lý)Mai đến mai đến:MAĐAMAĐA(vẫn chưa)Mải đợi:MAĐA(vẫn còn)Ven:HÊN(vùng)Bãi chỗ:BA SÔ(vị trí)Hãy còn bưng:HACÔBƯ(vận chuyển)Đó cứ ra:ĐACARA(vì thế)Ta nó xin mừng:TANÔXIMƯ(vui mừng)Xem ra để là:XÔRÊĐÊOA(vậy thì)Xem ra để:XÔ RÊĐÊ(vì thế)Vẻ:XÊ(vóc người)Xuất té rồi:XƯTÊRƯ(vứt đi)Dạ:DA(vậy thì)Giá nên:GIANNÊN(thật tiếc)Vận động:ƯNĐÔÔ(vận động)Vận chuyển:ƯNTÊN(vận chuyển) Xả rỗi càng tốt:XƯRƯCÔTÔ(việc làm)Quay về rồi:CAIÊRƯ(về)Ăn tươi:AÔI(xanh)Ôi cách ngăn:ÔKINI(xa)Ồ có xảy:ÔCÔXƯ(xảy ra)Ông nhờ cậy:ÔNÊGAI(xin nhờ)Cắt đặt giữ kỹ rồi:CATAGIƯKÊ RƯ(xếp đặt)Cỗ rong mã:CƯRƯMA(xe)Khổ cực rồi ông xá mà:GÔCƯRÔÔXAMA(xin bỏ quá)Cố nhìn này:GÔRANNAXAI(xem)Xử mi mà xin:XƯMIMAXEN(xin lỗi)Tột cực:TÔÔCƯ(xa)Được dô:ĐÔÔDÔ(xin mời). Lãn Miên
  14. Danh Sách Xác Nhận Đóng Học Phí Lớp PHong Thủy Lạc Việt Cơ Bản 09 1. xuanhylac (Nguyễn Phú Trung) 1.800.000đ/03 tháng 2. tichlichhoa09 (Ngô Thị Hải Yến) 1.800.000đ/03 tháng 3. Huỳnh Lâm 1.800.000đ/03 tháng 4. Lance Nguyễn Tiến Bằng 1.800.000đ/03 tháng 5. chinhtabinhduong 1.800.000đ/03 tháng 6. eagle - Nguyễn Quang Đại 1.800.000đ/03 tháng Thiên Đồng
  15. @bacsy Sao Bát bạch, Nhị Hắc.v.v. chỉ là những khái niệm của một phương pháp ứng dụng của Phong thủy, phải biết hướng nhà thế nào mới phán đoán được, không thể nói phong long. Còn sao Kế Đô, La Hầu...cũng là khái niệm của một phương pháp tính hạn tuổi, gọi là cửu diệu, nhưng cũng chỉ là một yếu tố quán xét trong nhiều yếu tố khác; cũng như xét hoa hậu đẹp thì không thể một cô nào đó chỉ có đôi mắt đẹp thôi, còn lại là miệng sún, mũi tẹt...mà vẫn cho là hoa hậu! Uống nước cam là tốt, nhưng uống có đường với không đường và giờ nào lúc nào... mới tốt thì cần nên phải biết điều này. Vì vậy để quả cầu hay cái gì phải cần sự tư vấn cụ thể! Thiên Đồng
  16. Danh Sách Xác Nhận Đóng Học Phí Lớp PHong Thủy Lạc Việt Cơ Bản 09 1. xuanhylac (Nguyễn Phú Trung) 1.800.000đ/03 tháng 2. tichlichhoa09 (Ngô Thị Hải Yến) 1.800.000đ/03 tháng 3. Huỳnh Lâm 1.800.000đ/03 tháng 4. Lance Nguyễn Tiến Bằng 1.800.000đ/03 tháng 5. chinhtabinhduong 1.800.000đ/03 tháng Thiên Đồng
  17. Nguyên tắc là chọn hoa trang nhã. Trong các loài hoa thì người đời còn phân biệt Mẫu vương chi hoa, quân tử chi hoa...nhưng trong phong thủy Lạc Việt thì ngoài sắc ra, còn chú trọng về tướng hoa, rất phức tạp và lằng nhằng. Do vậy mọi người để hoa gì cũng phải lưu ý, phải có con mắt tinh đời...và nên tránh loại hoa này: Hoa Hồng Môn Hoa này mới du nhập vào Việt Nam không lâu đã phổ biến và không ít người cho nó hiện diện khấp mọi nơi không chỉ riêng trên giỏ hoa mà thôi. Với tính hoang dã của nó, tôi cho rằng nó chỉ phù hợp với xứ Châu Phi. Riêng cá nhân tôi, tôi xếp hoa này vào loại "Dâm tục chi hoa", theo cái nhìn phong thủy. Dĩ nhiên tốt hay xấu còn tùy vào mục đích người sử dụng. Hehe. Thiên Đồng
  18. @huong binh tan, Biết đọc, biết viết, chịu khó, ưa thích là học được. Thiên Đồng
  19. Danh Sách Xác Nhận Đóng Học Phí Lớp PHong Thủy Lạc Việt Cơ Bản 09 1. xuanhylac (Nguyễn Phú Trung) 1.800.000đ/03 tháng 2. tichlichhoa09 (Ngô Thị Hải Yến) 1.800.000đ/03 tháng 3. Huỳnh Lâm 1.800.000đ/03 tháng Thiên Đồng
  20. Thục Phán không ít hơn 3 lần đem binh đánh vua Hùng, lần cuối cùng Tảng Viên Sơn Thánh cũng không ít hơn 3 lần đánh bại, đẩy lùi Thục Phán, nhưng lần cuối cùng Ngài khuyên vua Hùng nhường ngôi cho Thục Phán. Không có chuyện Sơn Tinh khuyên vua Hùng nhường ngôi cho Thục Phán. Sơn Tinh chỉ là nhân vật hư cấu mà thôi. Thiên Đồng
  21. Để đi, không chết đâu mà sợ! Cái quạt máy nó còn động hơn! Thiệt là ba láp ba sàm!.
  22. Lên đồng (Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)Lên đồng hay còn gọi là hầu đồng, hầu bóng, đồng bóng là một nghi thức trong hoạt động tín ngưỡng dân gian (dòng Saman giáo) của nhiều dân tộc, trong đó có tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Về bản chất, đây là nghi thức giao tiếp với thần linh thông qua các tín đồ Saman giáo (ông đồng, bà đồng). Người ta tin rằng các vị thần linh có thể nhập hồn vào thân xác các ông đồng, bà đồng nhằm phán truyền, diệt trừ tà ma, chữa bệnh, ban phúc, ban lộc cho các con nhang, đệ tử. Khi thần linh nhập vào đồng thì lúc đó các ông đồng, bà đồng không còn là mình nữa mà là hiện thân của vị thần nhập vào họ. Ở Việt Nam, lên đồng là nghi thức không thể thiếu trong các thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ, tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần, (Được gọi là Thanh Đồng)… Về hình thức, nghi thức lên đồng hầu về Hội Đồng Thánh Trần mang tính saman nặng hơn khi lên đồng hầu về Tứ Phủ bởi hầu về Hội Đồng Thánh Trần có các hành động trực tiếp lên thể xác Thanh Đồng (người ở ngoài nhìn đôi khi thấy sợ)như đi trên than hồng, xiên lình(dùng thanh sắt sắc nhọn đâm xuyên qua hai má và xuyên qua quả cau trong miệng thanh đồng), ăn lửa,lên đai (1 hình thức thắt cổ,có người được gọi là sát căn,có khi lên 3 đai)… Người đứng giá hầu đồng gọi chung là Thanh Đồng ,Thanh Đồng là nam giới và được gọi là “cậu” ,nữ giới được gọi là “Cô hoặc Bà Đồng”. “Cậu” thường mặc bộ quần áo lụa, mặt tô son điểm phấn (tóc có thể để dài như con gái). Thường có hai hoặc bốn phụ đồng (được gọi là nhị trụ hoặc tứ trụ hầu dâng ) đi theo Thanh Đồng để chuẩn bị trang phục, lễ lạt…Trong một buổi lên đồng thì có rất nhiều “giá”. Mỗi lần thay giá, người ta lại phủ lên “cậu” một tấm khăn lụa đỏ, sau đó bỏ ra và lúc này Thanh Đồng đang ở một “giá” mới và phải thay bộ trang phục xống áo, khăn chầu, cờ quạt, đồ hầu dâng… sao cho tương xứng với “giá” này. Khi thì Thanh Đồng hóa thân thành một vị tướng, khi thì là một quan lớn uy nghiêm oai vệ, lúc lại hóa thân thành một cô gái đang tung tăng nhảy múa..Điệu múa của Thanh Đồng cũng được thay đổi theo đặc điểm của “giá”. “Giá” quan thường múa cờ, múa kiếm, long đao, kích; giá các chầu bà thì múa quạt, múa mồi, múa tay không; giá ông hoàng thì có múa khăn tấu, múa tay không,múa cờ ; giá các cô múa quạt, múa hoa, chèo đò, múa thêu thùa ,múa khăn lụa ,múa đàn , múa tay không; giá các cậu thường múa hèo, múa lân … Nghi lễ Thánh giáng phải theo thứ tự từ cao đến thấp từ Thánh Mẫu đến hàng Quan, Chầu, ông Hoàng, hàng Cô và Cậu. Số lượng giá trong một buổi lên đồng có khi lên tới 36 giá. Một buổi lên đồng Trong lúc Thanh Đồng đang hoá thân thì bốn phụ đồng ngồi quỳ chân ở dưới cũng nghiêng ngả và múa may hưởng ứng Thanh Đồng theo nhịp câu hát.Những nắm tiền lẻ sau khi được Thanh Đồng tung ra, ban phát cho những người xung quanh được coi là tiền lộc và được những người dứng xem xung quanh nhặt lấy cất giữ để lấy may. Nhạc hát thông thường là điệu chầu văn hoặc là hát nói có nội dung ca ngợi sự linh thiêng của thần thánh và vẻ đẹp tiên giới. Nhạc khí chủ đạo là đàn nguyệt, bên cạnh nó là phách, cảnh, sênh, trống chầu, chuông, trống…Ở miền Bắc Việt Nam có Phủ Giầy là noi hay tổ chức lên đồng nhiều nhất. Với các giá ông Hoàng thì nhóm đàn hát (được gọi là “Cung văn”) sẽ ngâm các bài thơ cổ. Lúc này, Thánh biểu hiện sự hài lòng bằng động tác thưởng tiền cho Cung văn và dùng những thứ người hầu đồng dâng như: rượu, thuốc lá, trầu nước…Tới giai đoạn cao trào của Thánh thì người đứng giá thường múa gươm hoặc bơi thuyền. Do vậy, ở Việt Nam có câu hát “cậu bắn súng lục, cô bơi thuyền rồng” là để chỉ sự này. Một số dân tộc thiểu số ở Việt Nam cũng có nghi thức giao tiếp với thần linh như tín ngưỡng Mỡi của người Mường, tín ngưỡng Then của người Tày, Nùng. Tuy nhiên, khác với nghi thức lên đồng của người Việt, sự giao tiếp với thần linh ở Mỡi và Then chủ yếu thông qua hình thức xuất hồn, tức là các ông Mỡi, bà Then có khả năng thoát hồn khỏi xác bay đi gặp gỡ, cầu xin thần linh phù hộ cho dân chúng. Ngày nay, lên đồng vẫn còn là nhu cầu tâm linh, là hình thức sinh hoạt tín ngưỡng dân gian của một bộ phận người Việt. Các nghi lễ này thường được tổ chức nhiều lần trong một năm vào các dịp lễ tiết, thường là tại các lễ hội đền thánh, phủ mẫu… Ngoài việc lên đồng để giao tiếp với thần linh, truyền thống tín ngưỡng Việt Nam còn tin tưởng rằng sau khi chết, linh hồn người chết vẫn còn và theo dõi cuộc sống của người thân đang sống. Do đó, khi lên đồng, linh hồn của người chết có thể nhập vào đồng cô, đồng cậu (người gọi đồng) để trò chuyện với thân nhân đang sống. Thông qua cuộc trò chuyện âm-dương này, người sống sẽ biết được những yêu cầu của người thân quá cố về mỗ mả để điều chỉnh và cúng xin cho phù hợp. Đồng thời, thông qua cuộc đối thoại này, người sống cũng biết được vận mạng tương lai của mình. Tại Việt Nam hiện nay, hoạt động lên đồng bị chính quyền xem là hoạt động mê tín dị đoan do nhiều trường hợp việc lên đồng đã bị nhiều người lợi dụng vào mục đích xấu. Tuy nhiên, nhiều hội thảo khoa học nghiên cứu về tín ngưỡng dân gian Việt Nam, trong đó có lên đồng đã được tổ chức, nhiều ấn phẩm của các học giả đã được xuất bản. Tú Xương đã viết 1 bài thơ “Lên đồng” : Khen ai khéo vẽ sự lên đồng Một lúc lên ngay sáu bảy ông Sát quỉ, ông dùng thanh kiếm …gỗ, Ra oai, bà giắt cái …khăn hồng. Cô giương tay ấn, tan tành núi, Cậu chỉ ngọn cờ cạn rốc sông. Đồng giỏi sao đồng không giúp nước ? Hay là đồng sợ súng thần công ? Phản hồi bài thơ của Tú Xương : Chẳng ai vẽ được sự lên đồng Năm tòa Quan Lớn gọi Tôn Ông Sát quỉ, Tôn Ông dùng thanh kiếm Thánh Ra oai, Chầu Bà Chiếu Hào Quang. Cô giương tay ấn, ban Gia lộc , Cậu chỉ ngọn cờ trăm nhà vui . Đồng giỏi nhưng không thể giúp nước ? Vì Đồng còn dở việc cứu dân!! gửi cụ Tú Xương Thiên sinh tạo hoá phép ảnh đồng Hội đồng quan lớn hiệu tôn ông sát quỷ hô thần thanh kiếm thánh ra uy tạo gió phép hô phong Cô ra tay cứu bao người sống cậu ứng phép thần đục hoá trong ai bảo là đồng ko giúp nước âm phù dương trợ chẳng kể công bao đời nay.quyền trời phép thánh quyền sơn lâm phép sơn trang cứu nhân độ thế âm phù dương trợ bao triều đại dc gia phong gia tặng uy nghiêm tôn kính trong cách mạng các đền phủ ko chỉ là nơi hương khói phụng sự mà nhiều nơi là căn cứ cách mạng nơi cứu dân đọ thế “ai bảo là đồng ko giúp âm phù dương trợ chẳng kể công” Nhập đồng...hút thuốc Lên đồng là một nét đẹp trong văn hóa dân gian của dân tộc việt chúng ta cần bảo tồn và phát triển đấu tranh với những hành vi lợi dụng văn hóa hầu đồng để hành nghề mê tín dị đoan. trong nhiều năm trở lại đây đảng và nhà nước ta đã có nhiều chính sách về phát triển văn hóa đặc biệt từ khi có ánh sáng của NQTW5 khóa VIII vè phát triển nền văn hóa trong tình hình mới thì thật sự công tác văn hóa ngày thêm rộng mở và đwowcj phát triển bên cạnh quan họ bắc ninh, hát xầm, hát ả đào . . . thì Hầu đồng đã đwowcj quan tam. mà gần đây nhất là lễ hội hầu đồng đã được bộ Văn hóa TD TT và UBND tình Hà Nam tổ chức tại Đền Lảnh – Duy Tiên – Hà Nam.
  23. Người Việt chinh phục đại dương TT - Từ xa xưa, người Việt đã giỏi thủy chiến với nhiều chiến thắng hiển hách. Đến triều Nguyễn, hải quân được nâng tầm chiến lược. Nhiều hải đội Hoàng Sa, Bắc Hải được thành lập, các dự án đóng tàu hơi nước, tàu bọc đồng, đặc biệt đưa người ra nước ngoài học hỏi kỹ thuật hàng hải và kỹ nghệ đóng tàu. Đó là hành trình dài đầy ý chí tiến ra đại dương của người Việt và minh chứng xác thực chủ quyền biển của quốc gia đã được thực thi từ lâu đời... Kỳ 1: Khát vọng tàu hơi nước “Tàu này mua bên Tây cũng được, nhưng muốn khiến cho công tượng nước ta tập quen máy móc cho khéo, vậy nên chẳng kể lao phí gì”. Từ năm 1839, lời phán của vua Minh Mạng đã lưu truyền chính sử, khi ông thân chinh đến dự lễ hạ thủy tàu hơi nước đầu tiên do chính người Việt đóng. Loại thuyền đi biển quan trọng nhất của nhà Nguyễn trong thế kỷ 19 được khắc trên cửu đỉnh ở Huế - Ảnh: THÁI LỘC Ai đóng tàu hơi nước đầu tiên? Từ nội thành Huế, tôi tìm về quê hương Hoàng Văn Lịch đã lưu danh trong công trình đóng tàu hơi nước đầu tiên ở làng Hiền Lương, huyện Phong Điền. Đây là làng Việt cổ có tên là Hoa Lang, huyện Quảng Điền, phủ Triệu Phong, xứ Thuận Hóa. Triều Minh Mạng đổi Thuận Hóa làm phủ Thừa Thiên và đặt lại tên làng Hoa Lang thành Hiền Lương. Trải bao biến động thời cuộc, làng luôn nổi tiếng với nghề rèn. Đặc biệt không chỉ rèn nông cụ, danh tiếng Hiền Lương còn gắn liền việc chế tạo vũ khí. Người làng đỗ đạt cao, làm quan triều đình. Khi vua Minh Mạng thực hiện cách mạng hàng hải, khởi đóng những chiếc tàu hơi nước của nước Việt thì chính Hoàng Văn Lịch, người Hiền Lương, được giao làm giám đốc công trình đặc biệt này. Bao vương triều hưng thịnh rồi suy vong, nhưng Hoàng Văn Lịch vẫn mãi lưu danh trong ký ức nhiều đời người Hiền Lương. Nhà nghiên cứu Huế Dương Phước Thu là người làng này hồi tưởng: “Dân làng tôi truyền đời kính trọng cụ Hoàng Văn Lịch. Đến giờ vẫn còn phần mộ, nhà thờ ghi công đức cụ cho hậu thế không quên...”. Theo nghiên cứu của ông Thu, Hoàng Văn Lịch sinh năm giáp ngọ 1771 ở làng Hiền Lương, hưởng thọ 77 tuổi. Công đức ông rõ nhất có lẽ chính là nội dung bản sắc phong của vua Thiệu Trị được khắc trên bia mộ: “Năm Thiệu Trị thứ sáu. Cáo thọ Minh Nghĩa đô úy Võ khố đốc công sở chánh giám đốc thủy tráng dực Lương Sơn Hầu Hoàng Văn Lịch... Nay ban tờ chiếu này trước là để cho tận lực của người được phấn chấn mà tỏ lòng cường lĩnh, trung kiên, sau là để thưởng cho người nhiều công lao đốc thúc, đảm đang phòng ngự, bảo vệ vương triều...”. Đặc biệt, mặt sau bia mộ còn được con cháu đời sau ông ghi cụ thể: “Hiển cao tổ khảo Hoàng Văn Lịch... trí tuệ thông minh, kỹ nghệ tinh xảo, học thông chữ tốt, võ vẫn kiêm văn. Triều Gia Long bổ vào Thạch Cơ Tượng. Triều Minh Mạng thăng thọ chánh giám đốc ở sở Võ khố kiêm quảng bá công cuộc... đốc suất chế tạo ra mấy chiếc hỏa thuyền...”. Đầu đông 2011, nắng hanh hao đường làng Hiền Lương. Tôi lần lại dấu vết người xưa. Phó giáo sư Hoàng Dũng, hậu duệ họ Hoàng làng Hiền Lương, kể rằng ông đã được nghe các bậc cao niên truyền kể cụ Hoàng Văn Lịch là người đặc biệt, mang lại tiếng thơm cho làng. Học hành đỗ đạt làm quan thì nhiều làng đều có, nhưng từ người làng rèn trở thành “công trình sư trưởng” đóng tàu hơi nước đầu tiên ở Việt Nam như cụ Hoàng Văn Lịch làng Hiền Lương này là rất hiếm để đời sau tôn vinh. Hỏa thuyền Đại Nam Những ngày ở Huế, tôi cố gắng tìm dấu vết còn lại của những chiếc tàu hơi nước đầu tiên. Quốc triều sử toát yếu của Cao Xuân Dục kể rằng triều Minh Mạng năm thứ 19 (1838) đã cho Võ khố đóng tàu hơi nước theo nghiên cứu kiểu cách tàu máy mua của Tây Dương. Năm sau, công trình đặc biệt này hoàn thành. “Tháng 4, ngài (vua Minh Mạng) ngự chơi Bến Ngự, xem thí nghiệm tàu chạy máy hơi. Khi trước khiến sở Võ khố chế tạo tàu ấy, đem xe chở ra sông, giữa đàng vỡ nồi nước, máy không chạy, người đốc công bị xiềng, quan bộ công là Nguyễn Trung Mậu, Ngô Kim Lân vì cớ tâu không thiệt đều bị bỏ ngục. Bấy giờ chế tạo lại, các máy vận động lanh, thả xuống nước chạy mau. Ngài ban thưởng giám đốc là Hoàng Văn Lịch, Võ Huy Trinh mỗi người một cái nhẫn pha lê độ vàng, một đồng tiền vàng Phi Long hạng lớn, đốc công và binh tượng được thưởng chung 1.000 quan tiền. Ngài truyền rằng: Tàu này mua bên Tây cũng được, nhưng muốn khiến cho công tượng nước ta tập quen máy móc cho khéo, vậy nên chẳng kể lao phí gì”... Tác giả Huỳnh Hữu Hiến viết cuốn Hiền Lương chí lược, kể thêm sau cuộc thử nghiệm thất bại, giám đốc Hoàng Văn Lịch cùng cộng sự tại Võ khố nghiên cứu, sửa chữa được hỏng hóc và chạy thử thành công ở sông An Cựu. Sự kiện này đánh dấu mốc lịch sử trong nỗ lực của ngành đóng tàu nước Việt. Sử nhà Nguyễn ghi chép rõ ý chí nắm bắt kỹ thuật đóng tàu máy của nước Việt từ cách đây gần hai thế kỷ: “... Kiểu thuyền ấy nhờ hơi mà chuyển động, không cần gió nước thuận hay nghịch, không bắt sức người chèo chống mà thuyền tự phóng nhanh, máy móc thực là tinh xảo. Phải thu mua bằng giá đắt để phỏng theo cách thức đóng thuyền lớn khác để dùng mãi mãi”. Sau đó, ít nhất hai tàu hơi nước khác được tiếp tục đóng mới. Đặc biệt, Hoàng Văn Lịch còn chỉ huy thợ thuyền chế tạo thành công bộ máy tàu lớn. Ngoài thợ kinh thành và làng Hiền Lương, 90 thợ rèn, đúc ở Hà Tĩnh, Bắc Ninh cũng được trưng dụng. Kỹ thuật đóng tàu được nghiên cứu, cải tiến, kể cả cỡ tàu, mớm nước lẫn động cơ. Để nâng vận tốc và độ linh hoạt, những bộ phận quan trọng như thùng hơi nước, bánh xe quay đều được tăng kích cỡ trong khi ván thuyền sử dụng nhiều loại gỗ nhẹ hơn. Từ đây, ngành đóng tàu hơi nước triều Minh Mạng tiến dần đến quy thức công nghiệp. “Lần này, đóng thuyền cơ khí, vật kiện máy móc làm ra kích thước to nhỏ đã có đồ thức làm bằng cứ, không ví như một lần đầu làm thử... Hạn trong tháng 12 nay hiện đã hoàn chỉnh, quả có linh hoạt, tinh xảo nên công hiệu rõ ràng”. Theo Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, ít nhất triều Minh Mạng đã đóng thành công mấy chiếc tàu hơi nước. Chiếc Yên Phi lớn nhất, dài 8 trượng 5 thước 2 tấc, rộng 2 trượng 6 tấc và sâu 8 thước 6 tấc 1 phân (1 trượng = 10 thước mộc, một thước mộc = 0,425m). Hai chiếc khác là Vân Phi và Vụ Phi. Đặc biệt, tàu hơi nước người Việt đóng đã có cải tiến so với tàu mua. “Chiếc thuyền cơ khí mua của Tây Dương cũ, trước đã có chỉ giao Vệ long thuyền nhận giữ để chạy thử. Hiện nay thuyền cơ khí đã có những chiếc mới đóng, còn chiếc cũ ấy ngắn nhỏ, xét ra không dùng vào việc gì”. Thời vua Thiệu Trị tiếp tục cho đóng mới tàu hơi nước tên Hương Nhi và cải tiến các tàu đã đóng. Ngoài đóng mới, triều đình cũng mua thêm tàu hơi nước và tiếp tục học hỏi kỹ thuật đóng tàu hiện đại bấy giờ. QUỐC VIỆT
  24. Người Pháp nói về Phong Thủy "Phong thủy thường thức" [media]http-~~-//www.youtube.com/watch?v=hWRY3Zq8KFU
  25. Rất cảm ơn Hue3Phuc. Đã lâu lắm rồi hiếm có những bài viết như thế này của ai đó như TS Nguyễn Huy. 10.000 năm trước với nền văn hóa Hòa Bình biết thuần phục cây giống thì dân cư đó sẽ không thể nào "ở trần đóng khố" những hơn 7.700 năm! (tức đến 2300 trước CN) theo như "hầu hết các nhà khoa học trong nước" và "cộng đồng khoa học thế giới" nghĩ vậy. Và công án cho rắng trà thuộc nền văn minh Trung Hoa với huyền tích Bồ đề đạt ma bứt trụi lông mi, hay cắt đứt mí mắt liệng xuống đất rồi từ đó mọc lên cây trà đều tan biến bốc hơi, khi chính sách ghi lại rằng Khổng Tử khẳng định dân phương Nam trồng lúa ăn cơm và uống trà! Nhưng chính Khổng Tử cũng...ăn cơm! Bởi cụ là người Nam Dương, tức phía nam sông Dương Tử, tức con dân Bách Việt. Hic. Thiên Đồng