-
Số nội dung
6.278 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
75
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Thiên Đồng
-
Giải mã bí ẩn của người da xanh Một dòng họ ở bang Kentucky của Mỹ có làn da khác thường, màu xanh dương. Màu da của họ là đề tài của những câu chuyện bí ẩn nhiều năm khiến các nhà khoa học đi tìm lời giải đáp. Trong những năm đầu thế kỷ 19, chàng thanh niên mồ côi Martin Fugate, một người gốc Pháp, tới Mỹ lập nghiệp. Anh định cư trong một ngôi nhà bên bờ sông Troublesome ở phía đông bang Kentucky rồi kết hôn với Elizabeth Smith, một phụ nữ Mỹ có mái tóc hung đỏ và nước da xanh xám. Sự kết hợp của họ về mặt sinh sản tạo nên một đột biến gene liên quan đến màu da. Hai người sinh 7 con, trong đó 4 đứa có làn da màu xanh dương. Khi trưởng thành những người con của họ kết hôn với những người của một gia đình hàng xóm. Do hai gia đình sống ở một nơi quá hẻo lánh, những thế hệ sau của họ lại tiếp tục lấy lẫn nhau. Kết quả là những đứa trẻ da xanh tiếp tục ra đời. Làn da đặc biệt của một người mắc bệnh Met-H. Làn da xanh của dòng họ Fugate chỉ bắt đầu được dư luận chú ý vào năm 1958, khi Luke Combs, một hậu duệ của Martin Fugate, đưa vợ tới chữa bệnh ở bệnh viện Đại học Kentucky. Ngay khi thấy Luke, các bác sĩ cảm thấy ngạc nhiên vì da của anh có màu xanh. Ngoài màu da kỳ lạ, Luke không đối mặt với bất kỳ vấn đề sức khỏe nghiêm trọng nào. Vào năm 1980, một số nhà khoa học nảy ra ý tưởng cho một số hậu duệ của Martin Fugate uống dung dịch có màu xanh dương. Sau khi uống dung dịch da của họ trở nên bình thường như mọi người. Các nhà khoa học thời đó giải thích rằng dung dịch màu xanh dương khiến máu chuyển sang màu đỏ, nhờ đó làn da có sắc trắng hồng. Do dung dịch phát tán trong máu, tác dụng của nó chỉ kéo dài vài ngày. Vì thế những người da xanh phải uống dung dịch thường xuyên để duy trì làn da bình thường, tờ Tri-City Herald của Mỹ mới đây cho biết. Ngày nay giới y khoa xác định dòng họ Fugate mắc bệnh methaemoglobinaemia (viết tắt là met-H). Căn bệnh này làm giảm khả năng vận chuyển oxy của máu. Do đó máu của người mắc bệnh có màu sẫm hơn so với máu của người bình thường. Bệnh phát sinh bởi một gene lặn, song do Martin Fugate và Elizabeth Smith cùng mang gene lặn nên xác suất kết hợp với nhau của chúng trở nên lớn. Hậu duệ của Martin và gia đình hàng xóm lấy lẫn nhau qua nhiều thế hệ (hôn nhân cận huyết) nên các gene lặn kết hợp với nhau nhiều hơn và tính trạng của chúng, tức là da xanh, thể hiện thường xuyên hơn. Dân số ở phía đông bang Kentucky tăng dần theo thời gian nên về sau hậu duệ của Martin Fugate có cơ hội kết hôn với những người khác trong cộng đồng, chứ không phải lấy họ hàng nữa. Vì thế tần suất biểu hiện của những gene lặn gây chứng da xanh giảm dần và những đứa trẻ da xanh ngày càng trở nên hiếm. Tất nhiên, các gene gây chứng da xanh không biến mất hoàn toàn, chúng vẫn lẩn trốn trong cơ thể vài người và rình rập cơ hội. Theo Vnexpress
-
@hmtt Chào anh Thiên Đồng Nhờ anh xem giúp em: Hỏi lúc 14h 29phút ngày 24/2/2012 Lá số tử vi của em : http://www.lyhocdong...w=screen&size=2 Em tuổi Quý Hợi (1983) Chồng tuổi Mậu Ngọ (1978) Con gái Canh Dần (2010) Câu hỏi 1: Năm 2009 em có lưu 1 thai khoảng 3 tháng tuổi. Vậy đứa bé đó là trai hay gái Là con gái. Câu hỏi 2: Em muốn năm nay (Nhâm Thìn) sẽ sinh thêm đứa con nữa. Liệu em có toại nguyện không? Nếu sinh thì sẽ là trai hay gái Không. Nhưng nếu đã lỡ kế hoạch có rồi thì phải sinh đứa nữa. Vợ quý hợi nên sinh con mậu tuất 2018 là út. Câu hỏi 3: Nếu năm nay không sinh thì khoảng mấy năm nữa em sẽ sinh tiếp? XXX Em chân thành cảm ơn anh Thiên Đồng
-
Tài Năng Việt Nam
-
Nếu cứ hiểu theo cái hiểu về "Khổng" của các cụ thì phong thủy chẳng ứng dụng được ở Anh Pháp Mỹ, Châu âu...vì ở đây có ai theo cái "Phu tử tùng tử" đâu nào? Người ta nhầm lẫn giữa một quan niệm đạo đước với một nguyên lý lý thuyết phản ánh thực tại vũ trụ. Đó là sự lẩm cẩm nếu không nói là chả khoa học tí nào!
-
Xác nhận tufithou đóng 1.800.000 đ/ 03 tháng HKI, PTLV cơ bản 09. tufithou vào đây để khai báo danh tính: info@lyhocdongphuong.org.vn
-
Đạo mẫu ở Việt Nam (Ngô Đức Thịnh) Trong tín ngưỡng dân dã của người Việt và một số tộc người khác, tục thờ Nữ thần, thờ Mẫu và Mẫu Tam phủ – Tứ phủ (Đạo Mẫu) có vai trò và vị trí khá quan trọng, nó đáp ứng những nhu cầu và khát vọng của đời sống thường nhật của con người, do vậy, nó phổ biến khá rộng khắp, từ Bắc vào Nam, từ miền xuôi tới miền núi. Từ Đạo Mẫu, ngoài những nghi lễ thờ cúng, nó còn sản sinh và tích hợp nhiều giá trị văn hóa – nghệ thuật, tạo nên một thứ “văn hóa Đạo Mẫu”, chứa đựng nhiều sắc thái văn hóa độc đáo của dân tộc. GS-TS Ngô Đức Thịnh Sau đây, chúng tôi trình bày những nét rất cơ bản của thứ tôn giáo tín ngưỡng này với tên gọi chung là Đạo Mẫu. I. Từ Thờ Nữ Thần Đền Thờ Mẫu và Tam Tòa Thánh Mẫu (Đạo mẫu) 1. Từ thờ Nữ thần đến thờ Mẫu Ở Việt Nam, chưa ai thống kê một cách hệ thống và đầy đủ các Nữ thần được nhân dân tôn vinh và thờ phụng, tuy nhiên, không ngần ngại khi cho rằng việc thờ phụng này đã có từ rất lâu đời và phổ biến ở nhiều dân tộc, ở đồng bang cũng như miền núi, hiện còn quan sát thấy ở cả nông thôn lẫn đô thị. Hãy lấy cuốn sách cổ “Hội chân biên”, in năm 1847 đời Thiệu Trị, do Thanh Hòa Tử tập hợp, thì trong 27 vị thần tiên có nguồn gốc thuần Việt, thì đã có 17 là Tiên nữ. Còn trong cuốn sách “Các Nữ thần Việt Nam” viết đời nay, thì đã tập hợp và giới thiệu bước đầu 75 vị Nữ thần tiêu biểu của nước ta. Trong sách: “Di tích lịch sử văn hóa Việt Nam”, trong số 1000 di tích được giới thiệu thì đã có 250 di tích thờ cúng các nữ thần và danh nhân là nữ. Riêng xung quanh quần thể di tích Phủ Dầy thờ Mẫu Liễu, người ta cũng tìm thấy hơn 20 đền miếu thờ các nữ thần. Trong vốn huyền thoại và truyền thuyết của Việt Nam, các vị nữ thần gần với việc tạo lập bản thể của vũ trụ, như Nữ thần Mặt Trời – Nữ thần Mặt Trăng, Bà Nữ Oa cùng ông Tử Tượng đội đá vá trời, đắp núi, khơi sông. Các hiện tượng: Mây, mưa, sấm, chớp (Tứ Pháp) cũng được thần thánh hóa và mang tính nữ. Các yếu tố mang tính bản thể vũ trụ, như Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ được gắn với các Bà: Bà Kim, Bà Mộc, Bà Thủy, Bà Hỏa… Đến biểu tượng đất nước – quê hương – dân tộc cũng gắn với các Mẹ (Mẫu): Mẹ Âu Cơ của Lạc Việt, Mẹ Quê hương – xứ sở Pô Inh Nưga của người Chăm. Các Mẹ sản sinh ra các giá trị văn hóa: Mẹ Lúa, Mẹ Mía, Mẹ Lửa, các Mẹ là tổ sư các nghề: dệt, tằm tang, làm muối, nghề mộc, làm bánh, ca công… Rồi phụ nữ ra trận “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh’ đứng ra chấp chính quốc gia cũng trở thành các Nữ tướng – Nữ thần: Hai Bà Trưng, Triệu ẩu, Dương Vân Nga, Ỷ Lan, Bùi Thị Xuân, vợ ba Đề Thám. . . Các vị nữ thần kể trên từ bao đời nay đã được nhân dân ta tôn làm Thần, Thánh, được Triều đình ban sắc phong là “Thượng đẳng thần”, là Thành hoàng của nhiều làng, trong đó Liễu Hạnh công chúa được dân gian tôn vinh là một trong “Tứ bất tử” của đất nước. Mẫu Liễu Hạnh Trong các huyền thoại và truyền thuyết kể trên, có những cái xuất phát từ những thực tế lịch sử, tuy nhiên, không ít trường hợp là kết quả của sự thêu dệt hoang đường, phi thực. Nhưng đó lại là thực tế hiển nhiên, đó là vai trò và vị trí hết sức to lớn của người phụ nữ Việt Nam trong lịch sử dựng nước và giữ nước. Thực tế này hoàn toàn có thể lý giải được trên cơ sở xem xét môi trường tự nhiên. đời sống sản xuất, chiến đấu, xã hội cổ truyền của người Việt và các dân tộc khác sinh sống trên đất nước Việt Nam. Trong hàng các nữ thần, một số vị được tôn vinh là Mẫu – Thánh Mẫu - Vương Mẫu - Quốc Mẫu… Như vậy, Mẫu là Nữ thần, nhưng không phải tất cả Nữ thần đều là Mẫu. Về mặt danh xưng “Mẫu’ là từ gốc Hán – Việt, còn thuần Việt là “Mẹ - Mà’. Mẹ, Mụ là danh xưng chỉ người phụ nữ đã sinh thành ra một người nào đó, là tiếng xưng hô thân thiết của con cái với người đã sinh hạ ra mình. Tuy nhiên, Mẹ, Mẫu còn bao hàm nghĩa rộng hơn mang tính tôn xưng, tôn vinh: Mẹ Âu Cơ Mẫu Liễu, “Mẫu nghi thiên hạ”. . . Tuy chưa thống kê đầy đủ, nhưng cách tôn xưng là Mẫu, Quốc Mẫu, Thánh Mẫu, Vương Mẫu thường trên quan hệ tới các trường hợp sau: - Các vị Thánh trong tín ngưỡng thờ Mẫu nhất là Mẫu Tam phủ - Tứ phủ: Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Thượng thiên (có lúc đồng nhất với Mẫu Liễu), Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải, Mẫu Địa (Địa Tiên Thánh Mẫu), Mẫu Thiên Ya Na… - Các Thái hậu (Mẹ vua), Hoàng hậu (vợ vua), Công chúa (con gái vua) có tài năng, công đức, khi mất hiển linh và được tôn xưng là Mẫu: Quốc Mẫu, Vương Mẫu, như Tống Hậu, Thái Hậu họ Đỗ tương truyền là mẹ Lý Thần Tông, ỷ Lan, con gái Vua Hùng Nghị Vương thờ ở đền Cao Mại (Vinh Phú), Ỷ Lan – Mẫu nghi thiên hạ. - Các trường hợp khác cũng tôn xưng là Mẫu, Quốc Mẫu: Diệp Phu nhân – Quốc Mẫu – Thánh ân thờ ở đền Trần lên – Yên Bái. Thần núi Tam Đảo – Quốc Mẫu Sơn Thượng đẳng thần, Mẹ Thánh Gióng – Vương Mẫu. . . Cùng hệ thống này ở miền Trung và nhất là Nam Bộ, một số nữ thần cũng được tôn vinh là Mẫu: Linh Sơn Thánh Mẫu (Bà Đen), “chúa” Bà Chúa Xứ (Núi Sam), Bà Chúa Ngọc, Bà Chúa Sắt… Như vậy các Mẫu – Thánh Mẫu vừa có nguồn gốc thiên thần, vừa có nguồn gốc nhân thần, là hình thức tín ngưỡng. “nâng cao”, “lên khuôn” từ cái nền thờ Nữ thần vốn rất phổ biến và cổ xưa của dân tộc ta. 2. Từ thờ mẫu đến Mẫu Tam phủ ‘ Tứ phủ (Tam Tòa Thánh Mẫu) Không nên đồng nhất hoàn toàn giữa thờ Mẫu với Mẫu Tam phủ – Tứ phủ (Tam Tòa Thánh Mẫu) mà từ thờ Nữ thần, thờ Mẫu đến Mẫu Tam phủ – Tứ phủ là bước phát triển về nhiều mặt. Tác nhân của sự phát triển ấy vừa có nhân tố nội sinh vừa có nhân tố ngoại sinh. Mẫu Tam phủ – Tứ phủ so với tín ngưỡng thờ Mẫu thần nói riêng và thờ thần nói chung đã có bước phát triển đáng kể về tính hệ thống. Trước nhất, vốn là một tín ngưỡng dân gian mang tính tản mạn, rời rạc, nay bước đầu quy về một hệ thống tương đối nhất quán về điện thần với các phủ (Thiên Phủ, Địa Phủ, Thoải Phủ, Nhạc Phủ), các hàng thần (Ngọc Hoàng – Mẫu – Quan – Chầu – ông Hoàng, Cô, Cậu…) tương đối rõ rệt. Một điện thần với trên 50 vị thần lớn nhỏ đều quy về vị Thần chủ cao nhất là Thánh Mẫu, mặc dù trên Thánh Mẫu còn có Ngọc Hoàng, nhưng đó là lớp ảnh hưởng Đạo giáo sau này và nặng về hình thức. Mẫu Tam phủ – Tứ phủ bước đầu đã chứa đựng ‘những nhân tố về vũ trụ luận nguyên sơ, một vũ trụ thống nhất chia thành bốn miền do bốn vị Thánh Mẫu cai quản: Mẫu Thượng Thiên – Miền trời, Mẫu Địa (Địa Tiên Thánh Mẫu) – Miền đất, Mẫu Thượng Ngàn – Miền đồi núi, Mẫu Thoải – Miền nước. Mẫu là một lực lượng sáng tạo và cai quản vũ trụ, đã hóa thân thành bốn, cai quản 4 miền của vũ trụ. Mẫu Tam phủ – Tứ phủ bước dầu đã thể hiện một ý thức nhân sinh, - ý thức về cội nguồn dân tộc, đất nước, chứa đựng lòng yêu nước - một thứ chủ nghĩa yêu nước đã được linh thiêng hóa mà Mẫu là biểu tượng cao nhất. Mẫu Tam phủ – Tứ phủ đã bước đầu hình thành một hệ thống thờ cúng trong các Đền, Phủ, những nghi lễ thờ cúng đã được chuẩn hóa, trong đó nghi lễ Hầu bóng (lên đồng) và lễ hội kháng tám giỗ Cha, tháng ba giỗ Mẹ” là một điển hình. Trong quá trình biến đổi, phát triển từ thờ Mẫu đến Mẫu Tam phủ – Tứ phủ, chúng ta đặc biệt chú ý tới giai đoạn từ thế kỷ XVI trở đi – giai đoạn xuất hiện Mẫu Liễu – quan niệm dân gian thường coi Bà là hóa thân, thậm chí đồng nhất với Mẫu Thượng Thiên, trở thành một vị thần chủ của Đạo Mẫu Tam phủ – Tứ phủ. Tất nhiên, sự xuất hiện của vị Thánh Mẫu này ở vào khoảng thế kỷ XVI vừa xuất phát từ nhu cầu phát triển nội tại của thứ tín ngưỡng thờ Mẫu đã có từ trước, vừa phản ảnh khát vọng của quần chúng nhân dân thời Lê mạt, một xã hội buôn bán, nhất là buôn bán chợ quê phát triển, gắn với vai trò của người phụ nữ; xã hội rối loạn, nhân tâm ly tán, mà một trong biểu hiện của nó là các cuộc khởi nghĩa nông dân triền miên. Với vị Thần chủ này, Đạo Mẫu vốn là một tín ngưỡng gần với thiên nhiên, trời đất, nay được “đời thường hóa”, gắn liền và đáp ứng những khát vọng của con người, thân phận của con người nhất là người phụ nữ trong đời sống hàng ngày. tài lộc, chữa bệnh, ban phúc, giáng họa và chính từ đây, Đạo Mẫu Tam phủ – Tứ phủ có được bộ mặt mới, vừa rất dân tộc, rất truyền thống lại vừa rất cập thời, làm cho nó nhanh chóng phát triển, lan tỏa khắp mọi miền đất nước, theo gót người Việt tiền để “Mẫu hóa” các tín ngưỡng bản địa khác, vừa có cơ hội tập trung thành trung tâm thờ Mẫu lớn, như Phủ Dầy (Nam Định), Hòn Chén (Huê), Phủ Tây Hồ (Hà Nội). Và cùng với sự xuất hiện vị thần chủ này, thì hệ thống điện thần, quan niệm nhân sinh và vũ trụ, đặc biệt là các nghi lễ – lễ hội càng thể hiện tính hệ thống hơn. Tất nhiên, bên cạnh sự “lên khuôn”, hệ thống hóa nói trên, trong Đạo Mẫu Tam phủ – Tứ phủ vẫn còn ẩn chứa nhiều yếu tố tín ngưỡng, ma thuật, những sắc thái và biến dạng địa phương. . . khiến nhiều người mới bước vào tìm hiểu có cảm giác như lạc vào thế giới thần linh hỗn độn, phi hệ thống, tùy tiện. Để từ tục thờ Nữ thần, Mẫu thần phát triển lên thành Đạo Mẫu Tam phủ – Tứ phủ thì ảnh hưởng của Đạo giáo Trung Quốc có vai trò quan trọng. Theo nhiều nhà nghiên cứu, Đạo giáo Trung Quốc du nhập vào nước ta khá sớm, ít nhất là từ thời Bắc thuộc. Thời Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần thì Lão giáo là một trong “Tam giáo đồng nguyên”. Nhà vua đã từng đứng ra phong cho các đạo sĩ, trong các trường thi cũng có các đề nói về Đạo giáo, nhiều người trong Hoàng tộc cũng là Đạo sĩ. Lý thuyết Lão gia đã ăn sâu vào ý thức của nhiều trí thức đương thời, nhiều phương thuật, ma thuật của Đạo Lão lan truyền trong nhân dân. Đến đời Lê Nho giáo thịnh hành, Lão giáo không được coi trọng, nhưng triết lý cũng như pháp thuật của nó không phải không lưu hành rộng rãi. Điển hình là việc vua Lê Thần Tông cho phép Trần Lộc lập ra Nội Đạo Tràng. Đạo Mẫu và các tín ngưỡng dân gian khác tiếp thu ảnh hưởng của Đạo giáo Trung Quốc về nhiều phương diện. Đó là các quan niệm về tự nhiên, đồng nhất con người với tự nhiên, về quan niệm Tứ phủ – Tam phủ, một số vị Thánh của Đạo giáo thâm nhập vào điện thần Tứ phủ, như Ngọc Hoàng, Thái Thượng Lão Quân, Nam Tào, Bắc Đẩu Đó còn là các truyện thần tiên huyền ảo, các phép thuật mang tính phù thủy để trừ ma tà… Ngay lễ Hầu bóng của Đạo Mẫu Việt Nam cũng không phải không chịu ảnh hưởng các hình thức lên đồng của đạo giáo Trung Quốc. Chính những ảnh hưởng này, một mặt giúp Đạo Mẫu “lên khuôn”, hệ thống hóa và bước đầu mang tính phổ quát nguyên lý Mẫu – Mẹ, nhưng mặt khác cũng làm tăng thêm tính ma thuật, phù thủy mà vốn trong dân gian đã từng tiềm ẩn. Như vậy trên cơ sở tín ngưỡng thờ Mẫu dân gian, với những ảnh hưởng đạo giáo Trung Quốc đã hình thành và định hình Đạo Mẫu Tam phủ – Tứ phủ (Tam tòa Thánh Mẫu), một thứ Đạo giáo dân gian đặc thù của Việt Nam, và có thể gọi một cách ngắn gọn hơn và thực chất hơn – Đạo Mẫu. Từ đây, chúng ta có thể đưa ra sơ đồ về Đạo Mẫu
-
Guru yoga và thực hành nghi quỹ Quan Âm Một trong những pháp thực hành quan trọng nhất của Kim Cương thừa là Guru Yoga. Guru Yoga có nghĩa là phương pháp tu tập xây dựng nhịp cầu nối tâm linh với Căn bản Thượng sư. Căn bản Thượng sư là hiện thân của ba đời chư Phật, chư đại Bồ tát. Ví dụ như với đức Phật Di Đà hay Bồ Tát Quán Thế Âm. Trong truyền thống Kim cương thừa, có rất nhiều các pháp thực hành khác nhau nhưng Guru Yoga là một pháp thực hành căn bản, giúp hành giả hợp nhất với tâm giác ngộ của căn bản Thượng sư trong hình tướng của một vị Phật hoặc một vị Bồ tát, như quán tưởng bậc Thầy trong hình tướng đạo sư Liên Hoa Sinh, trong hình tướng đức Phật A Di Đà hay Bồ tát quán thế âm. Bởi vậy Guru Yoga cũng có thể gọi là Thượng sư Tương ưng Pháp. Nghi quỹ thực hành Bồ tát quán thế âm là Guru Yoga hợp nhất với việc quán tưởng Thượng sư trong hình tướng của đức Bồ Tát Quán Thế Âm. Đó là phương pháp giúp mỗi người khai triển trí tuệ và tình yêu thương nơi mình. Trong đời sống này, đặc biệt trong xã hội hiện đại, càng cần có từ bi và trí tuệ. Mọi việc làm chúng ta đều cần tâm từ bi, bằng không việc làm đó không thể đem lại lợi ích. Do đó phát triển từ bi và trí tuệ là rất quan trọng. Guru Yoga là pháp thực hành vô cùng quan trọng trong Kim Cương thừa. Trong truyền thống Thượng tọa bộ và Đại thừa không đề cập tới Thượng sư tương ưng pháp. Tất nhiên, nếu chưa có tri thức căn bản về Phật pháp và về Kim cương thừa thì cũng không dễ gì có thể hiểu được ý nghĩa pháp tu này. Guru nghĩa là gì? Guru bao gồm thượng sư bên ngoài, bên trong và bí mật. Thượng sư bên ngoài chính là Bậc Thầy gốc trong hình tướng loài người, ngài là hiện thân của Tăng già, Thượng sư bên trong chính là Pháp bảo tôn quý của đức Phật, mà chúng ta được đón nhận từ căn bản Thượng sư bên ngoài, Thượng sư bí mật chính là bản tâm giác ngộ của mỗi chúng ta. Guru Yoga là phương pháp tiếp cận với Thượng sư, các ngài là hiện tướng Tăng già, các ngài giúp chúng ta khai mở tuệ giác, chứng đạt bản chất Phật - thể tính của chính chúng ta. Kim cương thừa là pháp thực hành quan trọng và rất thực tiễn. Kim cương thừa nhấn mạnh tới Tăng già. Tăng già là quan trọng nhất. Vị trí của Tăng già được đặt lên hàng đầu. Mà căn bản Thượng sư là đại diện của Tăng già. Đối với Kinh thừa lại khác. Đại thừa Phật giáo đặt tầm quan trọng của giáo pháp lên hàng đầu. Giáo pháp là quan trọng nhất, nếu không có giáo pháp chúng ta không thể tu tập, chứng đạt giác ngộ giải thoát. Còn Phật giáo Nguyên thủy đặt tầm quan trọng tới đức Phật Thích Ca, bậc khai sáng giáo pháp giải thoát. Đây là một vài điểm đặc trưng của ba thừa Phật giáo. Trong tu tập Kim Cương thừa, nhấn mạnh tới bậc thượng sư bên ngoài. Thực tế cuộc sống chúng ta nhấn mạnh quy y bậc Thầy. Bậc Thầy là căn bản thượng sư, là người mà chúng ta trực tiếp đón nhận giáo pháp. Các ngài là người chúng ta có thể diện kiến, giúp chúng ta khai mở trí tuệ và tâm từ bi nơi chính mình. Ngài là bậc Thầy bên ngoài hay còn gọi là Tăng già. Guru hay bậc thầy bên ngoài là vô cùng quan trọng. Tại sao thế? Bởi nói về mặt tuyệt đối, đức Phật chưa từng nhập diệt nhưng vì vô mình che lấp nên chúng ta không thể kết nối trực tiếp được với đức Phật. Giáo pháp của Ngài vẫn thường trụ, nhưng chúng ta không đủ trí tuệ và phẩm hạnh để thấu hiểu được, bởi vậy căn bản Thượng sư của mình trở nên vô cùng quan trọng. Ngài là nhip cầu trung gian giúp chúng ta kết nối được với đức Phật và giáo pháp tinh túy. Thượng sư bên ngoài với đầy đủ phẩm hạnh và trí tuệ nội chứng, giúp chúng ta thấu hiểu và chứng đạt thượng sư bên trong, qua đó chứng đạt được thượng sư bí mật. Đức Pháp vương dạy rằng, trong truyền thống Kim cương thừa, nhấn mạnh tới việc quy y một bậc Thầy đầy đủ sự nội chứng và các phẩm hạnh thanh tịnh, nếu không có hướng đạo của bậc thầy thì chúng ta không thể tu tập, thực hành giáo pháp. Chúng ta hiện giờ đây chưa đầy đủ trí tuệ, nếu chúng ta không có dẫn dắt của bậc thầy chúng ta sẽ không thể có phương hướng trên con đường tu tập tâm linh của mình. Do đó bậc thầy giác ngộ trong hình tướng loài người là vô cùng quan trọng. Một bậc Thầy đủ sự nội chứng và phẩm hạnh có khả năng dẫn dắt, hướng đạo cho chúng ta. Cũng sẽ vô cùng nguy hiểm nếu chúng ta chọn sai một bậc thầy. Chúng ta sẽ bị dẫn sai đường, lạc lối nếu bị dẫn dắt bởi một bậc thầy chưa đủ phẩm hạnh. Một bậc thầy với đầy đủ khả năng nội chứng bên trong sẽ giúp chúng ta tiến từng bước vững chãi trên con đường tu tập tâm linh. Bậc Thầy trí tuệ chính là hóa thân chư Phật, chư Bồ tát. Vì thương xót chúng sinh vô minh nên các ngài đã hóa thân từ cảnh giới giải thoát, đến với thế giới này, để dẫn dắt cứu độ chúng sinh thoát khỏi luân hồi sinh tử. Như vậy, pháp thực hành Guru Yoga giúp hành giả kết nối và có thể nương tựa nơi một bậc Thầy đầy đủ phẩm hạnh giác ngộ. Tại sao thượng sư bên ngoài lại được đặt ở vị trí quan trọng nhất trong truyền thống Kim Cương thừa. Tại sao bậc Thầy bên ngoài lại quan trọng như vậy? Bởi vì bậc thầy là kết tinh của mười phương ba đời chư Phật. Lời của Ngài là Pháp bảo tôn quý, tâm của Ngài là bản chất Phật Đà. Chúng ta cần quy y nương tựa một bậc thầy giác ngộ. Kính ngưỡng căn bản Thượng sư quan trọng hơn cả đức Phật, bởi chỉ thông qua bậc Căn Bản Thượng sư, chúng ta mới có thể tiếp cận được với Phật, Pháp, Tăng. Căn bản Thượng sư là hiện thân của Bồ tát Quán thế âm, là hiện thân của đạo sư Liên Hoa sinh. Mặc dù ngay vào giây phút này đây, chúng ta có thể chưa tin, chúng ta có thể khởi nghĩ rằng ngài là người nữ, người nam, với thân vật chất, vật lý vậy làm sao thầy lại là hiện thân của Bồ tát? Thực sự hiện thân ở đây không phải là về phương diện vật lý mà là hiện thân trí tuệ và sự nội chứng bên trong. Đối với một hành giả Kim cương thừa, cần phải luôn nhấn mạnh về thân giác ngộ, sự nội chứng sâu thẳm bên trong. Do đó, chúng ta phải khắc cốt ghi tâm rằng, dù ở hình tướng nào, các ngài cũng đều là hiện thân của chư Phật. Bậc Thượng sư chính là đối tượng quy y trong Kim Cương thừa. Hành giả phải luôn ghi nhớ và hiểu rõ. Điều tôi đang cố luận giải tới các bạn là thượng sư có nghĩa là lama, một tăng già có đầy đủ phẩm hạnh. Thượng sư bên ngoài có thể trợ giúp phát triển thượng sư bên trong và tiến tới chứng đạt Thượng sư bí mật, tức là sự giác ngộ. Đức Pháp vương có nói tới các truyền thống Phật giáo. Guru Yoga là phương thức thực hành, là đặc trưng của Kim cương thừa. Bậc Thầy là hiện thân trong hình tướng Tăng già. Phẩm chất của ngài là phẩm chất giác ngộ, ta có thể tiếp cận trực tiếp với các ngài, ta có thể lãnh ngộ giáo pháp nơi ngài. Thông qua đó giúp chúng ta nhận biết bậc thầy bên trong, thông qua thực hành giáo pháp, lãnh hội bậc thầy, từ đó chứng đạt phật quả, tức là thượng sư bí mật. Đó là lý do tại sao Kim cương thừa nhấn mạnh tới thượng sư bên ngoài. Bởi vậy chúng ta cần đặt trọn niềm tin vào thượng sư bên ngoài, phẩm hạnh của ngài mở rộng lan tỏa khắp không gian, vũ trụ. Đối với một quan kiến thanh tịnh, chúng ta không được coi ngài là người nam, nữ hay một vị tăng thông thường, mà phải thấy thầy là hiện thân Tăng già, là tinh túy của mười phương Tam thế Phật. Ngài là toàn thể vũ trụ. Đây chính là nghĩa của Guru Yoga, là phương pháp thực hành để khai mở tình yêu thương, mở rộng lòng mình hòa nhập với vũ trụ. GuruYoga là phương cận hợp nhất với tâm giác ngộ của căn bản Thượng sư. Đức Pháp vương dạy rằng có hàng triệu phương cách và phương pháp thực hành Yoga. Guru Yoga là phương cách rất thiết thực và căn bản trong truyền thống Kim cương thừa. Điểm tương đồng trong tất cả các thừa là phát triển từ bi và trí tuệ. Đây cũng là hai phương diện chính trong truyền thống Kim cương thừa. Đức Pháp vương đã dạy rằng, Guru Yoga có nghĩa là lan tỏa, mở rộng tới khắp vũ trụ. Đây là phương pháp thiết thực hàng ngày đối với mỗi người chúng ta, giúp chúng ta mở rộng lòng mình, mở rộng tâm hồn để cảm thông hơn, bao dung hơn. Guru Yoga có nghĩa là lan tỏa tâm từ bi, tình yêu thương, ôm trọn vẹn vũ trụ trong tình thương và từ bi của chúng ta. Đây không chỉ là mục đích sự phát triển cá nhân, mà là bao trùm toàn bộ vũ trụ. Do đó ta phải nương theo giáo pháp của bậc Thượng sư. Ngài dạy phương pháp tu tập này không chỉ quan trọng đối với đời sống tâm linh, mà quan trọng hơn nữa là giúp chúng ta làm thế nào sống cuộc đời này một cách an bình, trí tuệ trong tình thương yêu của mỗi người. Trong một gia đình, các thành viên trong gia đình cần phải thương yêu, cảm thông, tha thứ lẫn nhau thì gia đình đó mới có hạnh phúc. Như vậy một xã hội muốn có hòa bình, hạnh phúc, con người càng phải mở rộng lòng mình, ban trải tình yêu thương đến với mọi người. Ân phước mà một bậc căn bản Thượng sư ban cho chúng ta không gì hơn là giáo pháp, là kinh nghiệm chứng ngộ của ngài, giúp rộng mở chan trải tình thương với con người cũng như mọi loài. Đức Pháp vương cũng đã dạy lời trì tụng đã được dịch sang tiếng Việt bởi vậy chúng ta hãy cố gắng hiểu những lời trì tụng để có thể tăng trưởng tín tâm hơn đối với giáo pháp. Tiếp đến đức Pháp vương đã luận giải và cử hành nghi thức cúng dường mandala, sám hối tịnh hóa nghiệp chướng. Đức Pháp vương dạy rằng, phương pháp tu tập này giúp tích lũy công đức, cúng dường mang lại sự giàu có về vật chất và tâm linh ở đời này và vô số đời sau. Chúng ta cúng dường lên Tam bảo, lên thượng sư, chư Bách thần hộ Pháp và tới tất cả mọi người và vô lượng chúng sinh. Chúng ta có thể cúng dường pháp thí, như chia sẻ giáo pháp, trợ giúp tâm linh cho người khác, cúng dường tài thí như cúng dường cơm ăn, thuốc men, quần áo, những thứ đơn giản nhất mà chúng ta có để mang lại cho người khác một đời sống bình an. Cúng dường bố thí là một phương pháp chuyển hóa bản ngã vô minh, giúp chúng ta tu tập hạnh bố thí, mở rộng vòng tay của mình, chia sẻ từ vật chất đến tinh thần với mọi người để tích lũy công đức và giảm thiển bản ngã của chúng ta. Tiếp đến đức Pháp vương đã cử hành và luận giải kỹ về phương pháp sám hối tịnh hóa nghiệp chướng. Ngài dạy rằng, trong đời sống của mình, chúng ta rất vô minh, chúng ta phạm rất nhiều tội lỗi trong đời này và vô số đời trước. Nhiều người cho rằng, trong đời này, mình không tạo lỗi, mình hoàn toàn thanh tịnh. Ý nghĩ đó là hoàn toàn sai lầm. Thực chất chúng ta rất dễ dàng phạm và tạo rất nhiều nghiệp bất thiện. Bởi vậy chúng ta cần phải sám hối trước Tam bảo, vũ trụ và quan trọng là sám hối với lương tâm chính mình, để xa lìa nghiệp bất thiện. Chúng ta trì tụng thần chú, thành tâm sám hối và nguyện quyết tâm từ nay không tạo tội lỗi như vậy nữa. Sám hối là một phương pháp vô cùng quan trọng và đầy uy lực trong Kim Cương thừa. Đức Pháp vương cũng đã giảng giải rất kỹ về việc quán tưởng khi trì tụng thần chú Quán Thế âm. Ở đây có điểm khác biệt giữa phương pháp Kim cương thừa và Đại thừa. Trong Phật giáo Đại thừa, chúng ta trì tụng danh hiệu đức Phật, quán tưởng chư Phật là hình ảnh bên ngoài, đối diện trước mặt chúng ta. Đó là hình ảnh chúng ta lấy làm đối tượng tu tập. Cách quán tưởng như vậy là thông thường, chưa phải là tuyệt đối. Trong Kim cương thừa có điểm khác biệt. Ở đây chúng ta cần quán tưởng các ngài không phải là đối tượng bên ngoài, mà phải quán tưởng ngài bất khả phân với căn bản thượng sư của mình. Hành giả cần phải thiền định trong trạng thái tâm bất khả phân với căn bản thượng sư. Ví dụ như: Quán tưởng đức Quán âm trong tâm giác ngộ của mình và thiền định bản thân trong trạng thái bất khả phân với Bồ tát Quán thế âm. Tâm nguyện khi thực hành không phải chỉ để cầu nguyện những mục đích thế gian mà quan trọng là khi thực hành trì tụng thần chú, phải cầu nguyện giúp đỡ cho người khác, mục đích chính là để có trí tuệ và từ bi giác ngộ bất khả phân với Bồ tát Quán thế Âm. Ngài cũng đã dạy mọi người quán tưởng tự thân là đức Bồ tát quán thế âm. Thân ta không còn là thân bằng máu thịt vật chất thông thường nữa mà lúc này là thân thanh tịnh của đức Bồ tát quán thế âm. Phía trên đỉnh đầu, chúng ta hãy quán tưởng, đức Phật Di đà bởi vì ngài là bản thể của tất cả các Bậc Thượng sư. Khi trì tụng chân ngôn, hành giả cũng cần phải an trụ trong trạng thái vô niệm. Pháp vương cũng luận giải rất kỹ về ý nghĩa và mục đích nghi thức cúng dường Ganachakra. Gana có nghĩa là trí tuệ căn bản, chakra có nghĩa là thể hiện bằng hành động qua tình yêu thương và trí tuệ hiểu biết. Nghi thức này thể hiện sự hợp nhất trí tuệ và tình yêu thương. Tất cả các lễ phẩm chia xuống mà hành giả có thọ dụng thể hiện phần trí tuệ và từ bi. Như vậy hành giả phải giữ tâm an tĩnh và thanh tịnh khi thọ dụng phẩm vật cúng dường được ban xuống. Cuối cùng đức Pháp Vương cũng căn dặn rằng, mọi người đã vừa được ngài truyền trao quán đỉnh Quán thế âm, có nghĩa là mọi người đã phép thực hành nghi quỹ này. Tuy nhiên để thành tựu pháp tu tập, mọi người cần thực hành mỗi ngày hoặc cũng có thể trì tụng theo Phương pháp của Phật giáo Đại thừa để phát triển tình thương và trí tuệ, đem ánh sáng trí tuệ cho mọi người và mọi loài. (Bài toát yếu phần giảng pháp về Guru Yoga của Đức Pháp Vương trong chuyến thăm Việt Nam lần thứ ba)
-
“Học sử trên đường” sao cho dễ hiểu? Chú thích biển phố tại Hà Nội cho thấy sự lúng túng về tiêu chí trong cách soạn thảo. Điều này sẽ giảm đi hiệu quả của công việc đang nhận được nhiều thiện cảm này. “Chú thích trên biển phố là một ý tưởng tốt, nhiều ý nghĩa”, PGS-TS Võ Kim Cương - Tổng biên tập Tạp chí Nghiên cứu lịch sử nhận định. “Mặc dù vậy, thông tin gì sẽ được ghi trên một tấm biển với diện tích có hạn là điều cần tính toán. Thậm chí cần có cả một hội đồng khoa học để tính toán”. Hiện mới đang trong giai đoạn thí điểm, những biển phố mới có thêm phụ chú đang nhận được cảm tình của dư luận. Giống như dự án chú giải tên đường trên các banner từng làm tại TP.HCM, chúng được kỳ vọng sẽ nâng cao hiểu biết lịch sử của người dân. Mặc dù vậy, vẫn có những băn khoăn về cách làm, cho dù không ai dám chê tâm huyết cũng như công sức của những người thực hiện. Giải thích tên phố Lê Thái Tổ có đoạn “miếu hiệu của Lê Lợi. Anh hùng dân tộc, lãnh đạo khởi nghĩa Lam Sơn chống quân Minh giành thắng lợi, lên ngôi vua năm 1428”. “Miếu hiệu” là tên của vua được phong, đề trên miếu thờ sau khi mất. Mặc dù vậy, khái niệm không có gì khó với người nghiên cứu lịch sử này lại đánh đố rất nhiều dân thường. Nhưng chỉ riêng sự đánh đố này cũng nhận được phản ứng khác nhau của các nhà nghiên cứu. Một biển tên phố ở Hà Nội - Ảnh: T.N PGS-TS Võ Kim Cương cho rằng từ “miếu hiệu” sẽ gây khó khăn cho người dân khi đọc biển chỉ dẫn nói trên. “Theo tôi nên viết dưới dạng Lê Thái Tổ (Lê Lợi) hoặc Lê Thái Tổ tức Lê Lợi. Điều này cũng giống một biển phố khác ghi Đinh Tiên Hoàng tức Đinh Bộ Lĩnh. Khi đó người dân sẽ thấy dễ hiểu hơn”. Trái lại, TS Nguyễn Hồng Kiên lại cho rằng việc dùng từ “miếu hiệu” trên biển phố hoàn toàn chấp nhận được. “Đinh Tiên Hoàng không hẳn là miếu hiệu của Đinh Bộ Lĩnh, nên có thể viết tức là. Còn viết “tức Lê Lợi” có lẽ hơi mất tôn kính”. Không chỉ riêng từ “miếu hiệu”, một số từ khác cũng có thể gây khó cho người đọc. Chẳng hạn, về Ngô Quyền có đoạn “lập ra nhà nước phong kiến tập quyền đầu tiên ở Việt Nam”. Không phải ai cũng hiểu như thế nào là nhà nước phong kiến tập quyền. Hay, về Trần Nguyên Hãn có đoạn “được phong Tả tướng quốc”. Sẽ có rất nhiều người không rõ Tả tướng quốc là chức vụ như thế nào. Chưa kể, theo PGS-TS Cương, chức vụ này cũng có khác nhau với những triều đại khác nhau. Tiêu chí chưa rõ ràng TS Nguyễn Hồng Kiên cho biết trong thời gian thai nghén dự án chú thích biển phố này, ông cũng được đóng góp một số ý kiến. Để có được đóng góp trên, TS Kiên đã tham khảo kinh nghiệm về chỉ dẫn đường phố của nhiều nước. “Có những nước trên biển phố ghi rất rõ phố này dài bao nhiêu. Cũng để hình dung đường tốt hơn, có biển phố ghi rõ đi theo phố này sẽ dẫn tới phố nào. Thậm chí, tại Tây Ban Nha, biển phố còn ghi rất rõ phố sẽ cắt phố nào là đường một chiều”, TS Kiên cho biết. “Tại Nga, nếu phố từng có nhiều tên qua những thời kỳ lịch sử khác nhau, những tên gọi đó cũng được ghi trên biển phố. Với những phố quá dài, có nước còn ghi rõ trên biển đoạn phố từ ngã tư này tới ngã tư tới có số nhà từ bao nhiêu đến bao nhiêu”, ông Kiên nói. “Đã có những nhà khoa học được hỏi ý kiến. Mặc dù vậy, chính tôi khi được hỏi cũng không rõ Hà Nội lấy tiêu chí nào về độ dài cũng như nội dung để xây dựng các chú thích trên. Chính vì thế, tôi cũng chỉ tư vấn rằng nên có năm sinh, năm mất và công trạng của danh nhân. Cũng vì thế, sắp tới nếu triển khai tiếp ra các phố có tên phố không phải tên danh nhân, chắc chắn sẽ phải có một bộ tiêu chí cụ thể”, một nhà khoa học cho biết. Trinh Nguyễn
-
@bacsy Quẻ này thì không lo. Các bác của đoàn kiểm tra làm việc công minh, nghiêm khắc, nhưng có tình củm lắm. Vui cả làng thôi mà. Không chừng sau buổi kiểm tra có đi nhậu nữa à. Thiên Đồng
-
Tài Năng Việt Nam http-~~-//www.youtube.com/watch?v=nsvEByRc21o
-
LỊCH SỬ THIÊN VĂN HỌC - Phần I Thiên văn học là một trong những môn khoa học ra đời sớm nhất trong lịch sử loài người. Những dấu vết khởi đầu của ngành thiên văn có từ thời tiền sử. Qua quan sát chuyển động biểu kiến của Mặt Trời, Mặt Trăng, con người đã tìm ra những thời điểm thay đổi của thời tiết. Vào cuối thời đại đồ đá (thiên niên kỷ 4 - 3 TCN), ở những nền văn minh cổ đại, quan sát bầu trời là công việc rất quan trọng của giới tăng lữ. Trước khi con người học được cách định vị trên Trái Đất và sáng tạo ra môn địa lý học, họ đã quan sát bầu trời và sản sinh ra những mô hình đầu tiên của nó. Thời điểm thiên văn học trở thành một môn khoa học theo cách nhìn nhận ngày nay đã diễn ra vào thế kỉ 16 nhờ công sức của Nicolaus Copernicus, kế tiếp là Galileo Galilei, Johannes Kepler, Isaac Newton. Một trong những tác nhân quan trọng nhất đối với cuộc cách mạng thiên văn học của Nicolaus Copernicus là phát minh kính viễn vọng. Những bước tiến của thiên văn học hiện đại đã xảy ra vào nửa cuối thế kỷ 19 khi các phương pháp phổ học và chụp hình được sử dụng trong quan sát thiên văn. Những bước nhảy vọt của thiên văn học được ghi nhận vào những năm 40 của thế kỷ 20 nhờ các quan sát thiên văn vô tuyến và tiếp đó là sự kiện con người khắc phục được những cản trở của khí quyển Trái Đất khi quan sát toàn vẹn phổ của vũ trụ từ các vệ tinh nhân tạo. Thời tiền sử Từ buổi hồng hoang của lịch sử, con người đã ngắm nhìn và suy ngẫm về bầu trời sao huyền bí, quyến rũ trên đầu. Người xưa quan sát chuyển động lặp đi lặp lại của Mặt Trời và Mặt Trăng trên bầu trời đêm để nhận biết các thời điểm chuyển mùa. Những hiện tượng thiên văn bí ẩn còn được coi là điềm báo cho những gì sẽ xảy ra trong cuộc sống cũng như củng cố tín ngưỡng của con người. Khi việc trồng trọt và chăn nuôi xuất hiện thì quan sát thiên văn trở nên rất quan trọng. Nông dân, mục đồng, thợ săn và giới tăng lữ quan sát thiên văn để biết được thời vụ đánh bắt, sản xuất. Thời gian trôi đi, dần dần con người nhận ra rằng Mặt Trời, Mặt Trăng và những vì sao di chuyển theo một đường nhất định trên trời còn những hành tinh lại không như vậy. Những ngôi sao sáng ở gần nhau được con người gộp lại thành các chòm sao theo những hình dạng nhất định và thường đi kèm với những truyền thuyết, tín ngưỡng thủa xa xưa. Khoảng 8.000-12.000 năm trước, người tiền sử ở Siberia đã tưởng tượng ra hình một con gấu với cái đuôi dài khi quan sát những ngôi sao sáng trong chòm sao Đại Hùng ngày nay. Nhiều nền văn hóa cổ đại khác cũng gán cho chòm sao này hình con gấu với những truyền thuyết và huyền thoại khác nhau. Có tài liệu cho rằng, những dấu chấm khắc dưới hình con ngựa trong hang động Lascaux ở Pháp có niên đại khoảng 15.000 năm TCN thể hiện những pha của Mặt Trăng. Từ thời đồ đá, con người đã xây dựng những công trình thiên văn. Một trong những kiến trúc cổ nhất liên quan đến thiên văn học ở châu Âu là Newgrange ở gần thủ đô Dublin của Ai len. Công trình khổng lồ bằng đá với niên đại khoảng 3.200 năm TCN này có một hành lang hẹp dẫn vào một căn phòng. Vài ngày cận ngày đông chí, ánh sáng Mặt Trời mọc sẽ chiếu xuyên qua hành lang đó vào tận căn phòng. Một trong những công trình bí ẩn và hoành tráng đã được công nhận là di sản thế giới trên bình nguyên Salisbury của nước Anh là ngôi đền Stonehenge. Ngày nay, hầu hết những nhà nghiên cứu đều nhất trí rằng ngôi đền được xây dựng vào khoảng năm 1900 đến 1600 TCN với 30 cột đá đồ sộ chôn sâu xuống đất và cao hơn mặt đất khoảng 5,5 m; rộng 2 m; nặng khoảng 26 tấn tạo thành một vòng đường kính 29,5 m. Phía trong vòng cột có có 5 "cổng" được tạo bởi một phiến đá xếp chồng lên hai phiến khác; nhóm "cổng" này được xếp theo hình móng ngựa bao quanh trụ đá trung tâm. Phiến đá lớn nhất gọi là "Cột Đá Gót" (Heel Stone) nặng tới 35 tấn được dựng ở cuối một đường hành lang ở hướng Đông Bắc của ngôi đền. Vào ngày hạ chí, khi Mặt Trời mọc ở hướng Đông Bắc gần điểm chính Bắc nhất thì nó mọc lên ở đúng đỉnh Cột Đá Gót. Ngoài ra, có nhà nghiên cứu còn cho rằng các cột đá khác còn có thể được dùng để xác định thiên thực. LỊCH SỬ THIÊN VĂN HỌC Phần II: THIÊN VĂN HỌC CỔ ĐẠI TRONG CÁC NỀN VĂN MINH Ai cập Khoảng 4.000 năm trước Công Nguyên, tại thung lũng sông Nil, một trong những nền văn minh lâu đời nhất đã xuất hiện: nền văn minh Ai cập cùng với ngành thiên văn học gắn chặt với con sông hùng vĩ này. Các vị tư tế nhanh chóng nhận thấy trước khi nước sông dâng cao luôn có hai sự kiện xảy ra: ngày hạ chí và sao Thiên Lang mọc vào lúc bình minh sau 70 ngày vắng mặt. Lúc đó, người Ai Cập cũng đã có âm lịch với 12 tháng, mỗi tháng 29 đến 30 ngày và cứ sau hai đến ba năm, họ lại cộng thêm vào một tháng để luôn phù hợp với các mùa trong năm. Lịch Ai Cập cổ đại lấy ngày bắt đầu của năm là ngày đầu của tuần trăng non sau khi sao Thiên Lang mọc trở lại. Ngoài lịch có tính chất tôn giáo này, người Ai Cập còn có "lịch lược đồ", cũng có 12 tháng, mỗi tháng 30 ngày và cuối năm thêm năm ngày nữa. Bầu trời được chia thành 45 chòm sao và con người đã biết đến các hành tinh như sao Mộc, sao Hoả, sao Thổ, sao Kim, sao Thuỷ. Quan niệm của người Ai Cập về vũ trụ gắn liền với đa thần giáo. Trung tâm của thế giới là thần Geb, vị thần tượng trưng cho Trái Đất, người chị đồng thời là vợ của Geb - thần Nut chính là bầu trời. Nut sinh ra thần Ra - thần Mặt Trời và các vì sao còn Ra sinh ra Thoth - thần Mặt Trăng. Do Nut cứ sáng ra lại nuốt hết các vì tinh tú rồi đến đêm mới thả ra nên thần Shu, cha của bà, đã nâng bầu trời lên khỏi mặt đất. Thần Ra ban ngày bơi trên sông Nil ở thượng giới, chiếu sáng mặt đất còn ban đêm lại du hành dưới sông Nil chốn âm phủ và chiến đấu với những thế lực đen tối để rồi sáng hôm sau lại xuất hiện phía chân trời. Về dụng cụ thiên văn, người Ai Cập đã sáng chế ra đồng hồ Mặt Trời, đó chính là những cột bia thờ thần Ra, nó cho phép xác định độ cao của Mặt Trời so với đường chân trời. Để đo thời gian về ban đêm, các vị tư tế theo dõi vị trí của những ngôi sao. Người Ai Cập cũng đã cống hiến cho nhân loại ý tưởng xác định một giờ bằng 1/24 độ dài của một ngày đêm, thống nhất cho mọi mùa trong năm. Các vị thần Geb và Nut. Nut tượng trưng cho bầu trời với những vì sao bao bọc Trái Đất. Lưỡng Hà Là một trong những cái nôi của văn minh nhân loại, vùng Lưỡng Hà là nơi cư trú của người Sumer, Assyrie và Babylone. Ngay từ đầu thiên niên ký thứ 3 TCN, người Sumer đã biết sao Hôm và sao Mai chỉ là một và đến cuối thiên niên kỷ đó, theo một văn bản ghi trên đất sét tìm được, họ đã có được danh sách các chòm sao cũng như việc phân biệt giữa hành tinh với định tinh. Vào thời kỳ thành phố Babylone bị người Kassite xâm chiếm, bộ sách chiêm tinh Enuma Anu Enlil đã ra đời với gần 7.000 lời tiên đoán. Thời kỳ Cổ Babylone, thiên văn học đã có những thành tựu quan trọng. Đầu thiên niên kỷ 2 TCN, người Babylone đã nhận biết được 5 hành tinh của Hệ Mặt Trời là Sao Kim, Sao Thuỷ, Sao Hoả, Sao Thổ và Sao Hải Vương cũng như đường đi của chúng. Họ cũng phân biệt 12 chòm sao trên hoàng đạo, nghiên cứu về sao chổi, sao băng, tính được nhật thực, nguyệt thực và đặt ra âm lịch. Tới cuối thiên niên kỷ 2 TCN, các vì sao được phân chia vào khoảng 70 chòm sao, trong đó có một số chòm trùng với các chòm sao ngày nay như Song Tử, Con Cua, Sư Tử, Bọ Cạp... Trong thời kỳ của vương quốc Assyrie, bộ sách Mul.Apin có niên đại vào khoảng năm 1100 TCN đã liệt kê danh mục các chòm sao, các sao, ngày tháng chúng mọc lên, 18 chòm sao nằm trên đường đi của Mặt Trăng (tiền thân của các cung hoàng đạo). Ngoài ra nó còn ghi lại lịch Mặt Trời và bằng xác định thời gian ban ngày theo cách đo đội dài bóng cọc tiêu. Dưới triều đại các vị vua Assyrie cuối cùng, chiêm tinh học và thiên văn học được liệt vào những công việc quan trọng của vương quốc, một mạng lưới các đền thờ đồng thời là đài quan sát thiên văn hình thành, kết quả quan sát được báo cáo đều đặn cho quốc vương. Từ giữa thế kỷ 8 TCN, nhật thực, nguyệt thực được ghi lại trong danh sách đặc biệt và nhật ký quan sát thiên văn được lập ra. Ngoài thiên thực, những ngày trăng non, trăng tròn, vị trí của Mặt Trăng so với các vì sao, sự dịch chuyển của các hành tinh, sự xuất hiện của sao chổi, ngày phân, ngày chí... cũng được ghi chép cẩn thận. Sang thời kỳ Tân Babylone, với sự phát triển của toán học, chuyển động của Mặt Trăng và các hành tinh được tính toán với độ chính xác cao hơn. Đóng góp nổi bật của giai đoạn này là sự phát triển khái niệm hoàng đạo: vòng tròn lớn của hoàng đới được chia thành 12 phần bằng nhau, mỗi phần tương ứng với một chòm sao và gọi là cung hoàng đạo. Đó cũng là thang chia độ để xác định vị trí của Mặt Trăng, Mặt Trời, các hành tinh. Cũng vào thời kỳ này, người Lưỡng Hà sử dụng lịch Mặt Trăng và Mặt Trời kết hợp, mỗi tháng có 29 đến 30 ngày và bắt đầu vào buổi tối khi lưỡi liềm của trăng non xuất hiện. Năm bắt đầu từ mùa xuân và gồm 12 hoặc 13 tháng Mặt Trăng. Các tháng phụ được cộng thêm vào sao cho ngày đầu tiên của năm trùng với kỳ lúa đại mạch chín, cứ một chu kỳ 19 năm, bảy tháng phụ lại được thêm vào. Người Babylone cũng tìm ra chu kỳ Saros - chu kỳ 18 năm của nguyệt thực để có thể dự báo nó. Một số nhà thiên văn học của thời kỳ này được nhắc đến là Kidinnu, Naburianus, Sudines và Seleucus thành Seleucia, người ủng hộ thuyết nhật tâm. Các thành tựu thiên văn học của người Babylone "đã trở thành tài sản chung cho các nhà bác học Hy Lạp và đóng vai trò quan trọng trong trong lịch sử ngành khoa học này. Lý thuyết về Mặt Trăng của Hipparchus chẳng hạn, phần lớn là lấy cơ sở từ các các dữ liệu của các nhà bác học Babylone, hệ thống các chòm sao thời cổ Hy Lạp có rất nhiều chòm lấy từ các chòm sao đã biết ở vùng Lưỡng Hà. Và ngày nay, chúng ta vẫn tiếp tục chia thiên cầu thành 360° như các nhà thiên văn cổ đại vùng Lưỡng Hà đã làm." <a style="" href="http://ngocchinhtv.violet.vn/uploads/resources/blog/1352/340px-marduk_and_pet_500.jpg"> Thần Marduk gắn liền với sao Mộc. Hình con dấu quân đội Babylon. Hy Lạp và La Mã Kế thừa những thành tựu của thiên văn học Lưỡng Hà, người Hy Lạp cổ đại đã có bước phát triển quan trọng trong lý thuyết và phương pháp tính toán để đưa thiên văn học tiến một bước dài. Những gì mà họ tạo ra sau này đã được người Ả Rập và châu Âu tiếp tục sử dụng. Vào buổi sơ khai, người Ai Cập cổ đại quan niệm vũ trụ được mặt đất chia thành hai phần, phần trên là bầu trời sáng láng còn phía dưới là địa ngục tối tăm. Ban ngày Thần Mặt trời cưỡi cỗ xe rực lửa chạy khắp bầu trời và ban đêm bơi trên một cái chén vàng theo đại dương bao quanh mặt đất. Vào thế kỷ 6 TCN, Thales (khoảng 624 TCN – khoảng 546 TCN) đã dự báo chính xác nhật thực xảy ra vào ngày 28 tháng 5 năm 585 TCN khi quan sát nhật thực lớn vào 18 tháng 5 năm 603 TCN, một tiến bộ quan trọng lúc đó. Ông chứng tỏ rằng các ngôi sao phát sáng nhờ ánh sáng của mình, trong khi Mặt Trăng được chiếu sáng nhờ ánh sáng Mặt Trời. Theo Thales, mặt đất là một chiếc ván phẳng bơi trên mặt nước. Học trò của ông - Anaximander (khoảng 611 TCN – khoảng 546 TCN) đã đưa ra một mô hình vũ trụ theo thuyết địa tâm đầu tiên trong lịch sử thiên văn học. Theo đó Trái Đất là trung tâm và bao quanh bởi ba vòng cầu lửa, vòng gần Trái Đất nhất có nhiều lỗ thủng nhỏ chính là những ngôi sao, vòng xa hơn có một lỗ thủng lớn - Mặt Trăng và vòng xa nhất có một lỗ thủng lớn nhất - Mặt Trời. Đó là một bước phát triển quan trọng bởi trước ông, những nghiên cứu thiên văn học chỉ dựa trên quan sát chứ không phải suy luận. Không những thế ông còn tìm cách giải thích nguồn gốc của vũ trụ: cái không giới hạn (Apeiron) là khởi đầu của tồn tại; vũ trụ sinh ra, trưởng thành rồi chết đi và lại sinh ra theo vòng tuần hoàn. Nhà triết học Pythagoras (khoảng 580 TCN – khoảng 500 TCN) cũng cho rằng Trái Đất là một quả cầu nằm tại trung tâm vũ trụ và phát hiện ra rằng sao Hôm và sao Mai chỉ là một hành tinh. Sau đó Anaxagoras (500 TCN – 428 TCN) đưa ra mô hình vũ trụ là một quả bóng hình cầu đang nở ra với Trái Đất là trung tâm. Ông cho rằng, Mặt Trời là một tảng đá nóng bỏng lớn hơn bán đảo Peloponnésos. Democritus (khoảng 460 TCN – khoảng 370 TCN) đưa ra ý niệm có vô số thế giới tồn tại trong vũ trụ vô cùng vô tận và được cấu thành bởi vô vàn các hạt nguyên tử. Nhà triết học Philolaus (470 TCN – mất?) coi Trái Đất là một trong những ngôi sao và chuyển động vòng tròn quanh một tâm điểm gây ra ngày và đêm. Vũ trụ của ông quay xung quanh mọt "ngọn lửa thần thánh" và gồm có bầu trời, các hành tinh, sau chúng là Mặt Trời, dưới Mặt Trời là Mặt Trăng, dưới Mặt Trăng là Trái Đất và Đối Trái Đất (Antichtone) giả thuyết nằm ẩn mặt phía sau ngọn lửa thần thánh. Philolaus cho rằng, Trái Đất quay quanh trục của mình.[19] Nhà triết học Plato (sinh khoảng 428 TCN- 423 TCN; mất khoảng 348 TCN- 347 TCN) trong tác phẩm Triết học tự nhiên (Timaeus) của mình đã cho rằng vũ trụ là do Đấng Sáng Tạo tạo ra bởi một hỗn hợp gồm hai bản thể: bản thể tinh thần không thể phân chia và bản thể vật chất có thể phân chia. Vũ trụ phân thành 7 vòng với khoảng cách không đều nhau có tâm là Trái Đất. Khoảng cách tương đối từ Trái Đất đến quỹ đạo của các thiên thể theo tỷ lệ gấp đôi hoặc gấp ba, tỷ lệ mà theo ông các vòm cầu của vũ trụ đạt được sự hài hòa. Đến thế kỷ 4 TCN, nền khoa học nói chung và thiên văn học nói riêng của Hy Lạp đã đạt đến trình độ chuyển từ suy luận chung sang nghiên cứu một cách cụ thể và có hệ thống các hiện tượng tự nhiên. Eudoxus (khoảng 408 TCN - khoảng 347 TCN), người cùng thời với Plato đã có những đóng góp tiêu biểu cho khuynh hướng này. Ngoài việc vẽ được hình chiếu của chí tuyến trời và vòng Cực Bắc lên bề mặt Trái Đất cũng như đưa ra tỷ lệ giữa khoảng cách từ Trái Đất đến Mặt Trăng và Mặt Trời, ông đã xây dựng giả thuyết về chuyển động của các hành tinh, còn gọi là giả thuyết về các hình cầu đồng tâm. Đây là mô hình có tính chất hình học đầu tiên về chuyển động của các hành tinh. Lý thuyết của ông cho rằng chuyển động biểu kiến của các hành tinh là tổng của các chuyển động xoay tròn đồng mức. Chuyển động của mỗi hành tinh là một tổ hợp của một số vòm cầu lồng vào nhau, các cực của mỗi vòm được xếp liên tiếp chồng lên nhau. Để mô tả chuyển động của Mặt Trăng, Mặt Trời, cần 3 vòm cầu, cái thứ nhất mô tả chuyển động quay quanh trục của nó; cái thứ hai mô tả các tiết điểm (giao điểm của của hoàng đạo và đường đi của Mặt Trăng trên hoàng đới); cái thứ ba có trục hơi nghiêng so với các cực của vòm cầu thứ hai mô tả độ lệch góc của quỹ đạo so với mặt phẳng hoàng đạo. Các hành tinh có chuyển động biểu kiến phức tạp hơn thì cần tới 4 vòm cầu và hệ thống của ông có tổng cộng 27 vòm cầu. Sau đó Callippus (khoảng 370 TCN - khoảng 300 TCN) đưa thêm vào 6 vòm cầu nữa thành 33 và Aristotle tăng số lượng của chúng lên 55. Aristotle (384 TCN - 322 TCN) cũng cho rằng chuyển động hướng tâm và ly tâm là chuyển động tự nhiên còn những chuyển động khác phải có lực tác động vào. Sở dĩ các thiên thể chuyển động được là do "sức đẩy nguyên thủy" có tính chất thần thánh, nằm ngoài không gian và thời gian. Lý thuyết về vũ trụ của ông có ảnh hưởng sâu sắc đến các học giả thời Trung Cổ và họ đã điều chỉnh nó cho phù hợp với giáo lý Ki - tô. Được hậu thuẫn bởi giới chức tôn giáo, mô hình của Aristotle đã tồn tại nhiều thế kỷ, và thật không may mắn, điều này đã kìm hãm sự phát triển của khoa học bởi lẽ rất ít người dám thách thức quyền lực của nhà thờ.[21] Dùng phương pháp đo góc, Eratosthenes (276 TCN - 194 TCN) đã tính toán được đường kính Trái Đất. Mặc dù độ chính xác của con số này là chủ đề tranh luận của các học giả nhưng chắc chắn rằng nó ở mức cao, thậm chí tuyệt vời. Sau khi La Mã xâm chiếm Hy Lạp, các nhà thiên văn học người Hy Lạp vẫn tiếp tục hành trình khám phá của mình. Ngoài việc dùng phương pháp đo góc để tính toán khoảng cách tương đối từ Trái Đất đến Mặt Trăng và Mặt Trời, Aristarchus (310 TCN - khoảng 230 TCN) còn là người đầu tiên trình bày một cách rõ ràng và có hệ thống về thuyết nhật tâm. Theo đó, Mặt Trăng quay quanh Trái Đất, Trái Đất quay quanh trục của nó và các hành tinh quay quanh Mặt Trời. Hipparchus (khoảng 190 TCN - khoảng 120 TCN) cũng có những đóng góp quan trọng. Ngoài việc xác định hoàng vĩ và hoàng kinh (kinh độ và vĩ độ theo hệ tọa độ hoàng đạo) của 850 ngôi sao, ông đã đưa ra ý niệm về cấp sao biểu kiến. Ông cũng là người khám phá ra hiện tượng tuế sai trong chuyển động của các hành tinh, tính toán độ dài của một năm, khoảng cách từ Trái Đất tới Mặt Trăng với độ chính xác cao. Sử dụng thành tựu của những người đi trước, Ptolemy (khoảng 100 - khoảng 178) đã tiếp tục xây dựng, phát triển lý thuyết về chuyển động biểu kiến của hành tinh. Ông đã sáng chế ra những dụng cụ đo góc để quan sát các vì sao như thước xích cầu, thước ngắm tam giác... và bổ sung vào danh mục các vì sao của Hipparchus đưa tổng số lên đến 1022. Mô hình vũ trụ của ông lấy Trái Đất làm trung tâm, các thiên thể chuyển động quanh đó. Các hành tinh không quanh quanh Trái Đất mà chuyển động đều trên các vòng tròn phụ gọi là ngoại luân và tâm của các ngoại luân mới mới chuyển động đều quanh Trái Đất theo vòng tròn lớn gọi là bản luân. Mô hình của Ptolemy đã được chấp nhận rộng rãi cho đến tận thời Phục Hưng khi Nicolaus Copernicus khẳng định Trái Đất chuyển động quanh Mặt Trời. Ngoài các công trình nghiên cứu thiên văn được tập hợp thành bộ sách đồ sộ Almagest, ông còn để lại những chỉ dẫn về chiêm tinh học trong tác phẩm Tetrabiblos. Trung Quốc Quan niệm về vũ trụ của người Trung Quốc cổ đại chịu ảnh hưởng của Nho giáo và Phật giáo. Vũ trụ buổi hồng hoang ở trạng thái mông lung, mờ mịt gọi là "thái cực" sau đó sinh ra "lưỡng nghi" (âm và dương). "Lưỡng nghi" vừa tương khắc vừa kết hợp với nhau tạo thành năm khí chất chủ yếu (ngũ hành) là kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Từ quan niệm "thiên địa hai tầng", tầng trên là trời - thế giới vô hình, tầng dưới là đất - thế giới hữu hình, đến thế kỷ 5, hình thành ba quan niệm về cấu trúc vũ trụ. Thuyết "cái thiên" hình dung bầu trời như một cái nắp hình bán cầu trùm lên mặt đất hình vuông. Thuyết "hồn thiên" (thiên cầu mênh mông) của Trương Hành (78 - 139) thì cho rằng vòm trời có khí ở trong và bao bọc Trái Đất, chân trời có nước còn Trái Đất nổi trên nước, trời có chín tầng khí với vận tốc và áp lực khác nhau, các vì sao được "cương phong" (gió cứng) nâng lên. Thuyết "tuyên dạ" (đêm tối lan tràn, không trung vô tận) lại coi bầu trời trống rỗng và vô cùng, vô cực; bảy tinh tú (Mặt Trời, Mặt Trăng cùng năm hành tinh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) chuyển động tự do.[26] Các sự kiện thiên văn được ghi chép ở Trung Quốc từ rất sớm và khá cụ thể. Các hiện tượng nhật thực, nguyệt thực, sao mới xuất hiện đã được chép lại từ khoảng 1.500 năm trước Công Nguyên vào đời nhà Thương. Cho đến nay, ghi chép sớm nhất về vết đen Mặt Trời là sách Ngọc Hải , được ghi nhận không lâu sau năm 165 TCN. Hán Thư cũng ghi lại hiện tượng này khi nó xuất hiện ngày 10 tháng 5 năm 28 TCN. Thậm chí, dựa vào những lời ghi trong Kinh Dịch, có tài liệu còn cho rằng người Trung Quốc đã quan sát được vết đen Mặt Trời từ năm 800 TCN. Ở châu Âu, mãi tới đầu thế kỷ 9 mới có ghi chép về vết đen Mặt Trời. Ghi chép sớm nhất về sao chổi Halley nhìn thấy năm 613 TCN cũng được ghi trong Kinh Xuân Thu. Người Trung Quốc cũng ghi lại tỉ mỉ các hiện tượng xuất hiện sao mới, sao siêu mới (mà họ gọi là "sao khách"), sao băng...Hậu Hán Sử nhắc đến sao mới nhìn thấy ngày 7 tháng 12 năm 185. Vào thế kỷ 11 TCN, người Trung Quốc chia bầu trời sao vào hệ thống "tam viên nhị thập bát tú" với 28 chòm sao dựa theo 28 vì sao ở gần hoàng đạo và ba nhóm sao Tử Vi, Thái Vi, Thiên Thị (tam viên) ở xung quanh chòm sao Bắc Đẩu (gồm 7 sao hình cái gàu sòng thuộc chòm Gấu Lớn theo cách chia hiện nay) và thiên cực bắc. Danh mục sao cổ nhất của họ do Thạch Thân đời Chiến Quốc soạn có 122 chòm sao với 809 ngôi sao. Trương Hành thời Đông Hán đã sáng chế ra dụng cụ định vị sao gọi là hỗn thiên nghi và thống kê khoảng 2.500 sao nhìn thấy được ở Trung Quốc, chia thành 124 chòm với 320 sao được đặt tên. Đến thời Tam Quốc, Trần Trác đã lập bản đồ và danh mục sao gồm 283 chòm (tinh quan), 1.465 sao. Kết quả quan sát quy mô lớn của Đài Quan Tượng (xây dựng năm 1442 ở Bắc Kinh) đã thiết lập nên hai danh mục sao đồ sộ là "Nghi tượng khảo thành" liệt kê vị trí của của 3.083 ngôi sao và "Nghi tượng khảo thành tục biên" với vị trí của của 3.240 ngôi sao. Hiện tượng tuế sai cũng được Ngu Hỷ phát hiện vào thế kỷ 4 và ghi lại trong sách "An thiên luận". Người Trung Quốc cũng có nhiều phát minh về dụng cụ thiên văn như cọc tiêu Mặt Trời, la bàn, đồng hồ mặt trời, đồng hồ nước... Khoảng năm 1100 TCN, Chu Công đã quan sát và đo bóng Mặt Trời lúc giữa trưa để xác định độ nghiêng của hoàng đạo so với xích đạo. Tuy nhiên, những thành tựu quan trọng nhất của thiên văn học Trung Quốc thể hiện ở lĩnh vực soạn lịch. Theo truyền thuyết và dã sử thì người Trung Quốc đã có lịch cách đây từ 3.000 đến 4.000 năm. Từ khoảng 600 năm trước Công Nguyên, họ đã có lịch âm dương kết hợp để phục vụ sản xuất nông nghiệp nên còn gọi là nông lịch. Cùng với Ai Cập, Trung Quốc là nơi sử dụng âm dương lịch sớm nhất. Tháng âm lịch (tuần trăng) bắt đầu từ ngày trăng non và có 29,5 ngày và cứ hai năm lại thêm một tháng nhuận cho phù hợp với năm dương lịch (365,25 ngày). Chu kỳ 19 năm (một chương) có bảy tháng nhuận ở các năm thứ 3,6, 8 (hoặc 9), 11, 14, 17 và 19. Những ngày khí được đưa vào để thuận lợi cho thời vụ nông nghiệp. Cùng với tiến bộ về thiên văn học, toán học, lịch Trung Quốc thường xuyên được cải tiến với những nhà soạn lịch nổi tiếng: Lưu Hồng, Hạ Thửa Thiên, Tổ Xung Chi, Lưu Chước, Quách Thủ Kính... Vào triều đại nhà Tần, Trung Quốc cũng đã có dương lịch với tháng tiết khí trung bình dài 30,44 ngày. Lịch sử dụng phổ biến trong dân gian là lịch can chi, dùng 10 can (Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý) và 12 chi (Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi), 60 năm thì tên gọi của một năm (gồm can và chi) lặp lại, chu kỳ đó gọi là 1 hội. Việt Nam và một số nước Đông Á, Đông Nam Á hiện vẫn đang dùng loại lịch sử dụng hệ đếm Can Chi ra đời cách đây khoảng 2.600 năm này. Ấn Độ Trong bộ Kinh Vệ Đà ra đời cách đây trên 3.000 năm, người Ấn Độ quan niệm rằng khởi thuỷ của vũ trụ là trạng thái hỗn độn, rồi nước được sinh ra đầu tiên, tiếp đến là lửa. Hơi nóng chứa đựng sức mạnh vô biên của lửa sinh ra "quả trứng trời đất", nửa trên là bầu trời, nửa dưới là mặt đất còn ở giữa là khoảng không phân cách. Bộ kinh này cũng cho rằng hoàng đạo là con đường của thần Surya (thần Mặt Trời) và người Ấn Độ cổ xưa chia hoàng đạo ra làm 28 chòm sao, đó là những "trạm nghỉ của Mặt Trăng" (Mặt Trăng đi trọn một vòng hoàng đạo hết 27,3 ngày đêm). Toán học của Ấn Độ có những thành tựu rực rỡ và nhiều nhà toán học đồng thời cũng là nhà thiên văn học. Aryabhatta I (476-550) đã khẳng định rằng Trái Đất tự quay quanh trục của nó và chuyển động xung quanh Mặt Trời, đồng thời xác định độ dài của một năm dương lịch là 365 ngày 6 giờ 12 phút và 30 giây, một giá trị rất sát với tính toán hiện nay cũng như tính toán chu vi Trái Đất là 24.835 dặm Anh (số liệu hiện nay là 24.902 dặm). Varahamihira (505 - 587), một nhà thiên văn Ấn Độ khác đã tổng kết nhiều thành tựu kiến thức của Hy Lạp và La Mã vào bộ sách Pancha-Siddhantika với năm luận thuyết của thiên văn học. Brahmagupta (598 - 670) có những nghiên cứu về hiện tượng thiên thực, vị trí của các hành tinh trong tác phẩm Brahmasphutasiddhanta. Thiên văn học của các nền văn minh Trung Mỹ Nền văn minh Maya mà những gì cổ nhất ngày nay biết về nó là vào khoảng 1000 năm trước Công nguyên. Ở những thành bang của họ như Chichen Itza, Tical, Copan..., đều có đài quan sát thiên văn. Đó là những công trình bằng đá gọi là caracol (vỏ hến), một trong số đó, được xây dựng rất uy nghi ở Chichen Itza có những cửa sổ nhỏ nhìn thẳng vào vị trí Mặt Trời mọc và lặn trong ngày xuân phân và thu phân. Quan sát thiên văn là công việc dành riêng cho giới tư tế và các vị này dựa vào đó để đưa ra các chỉ dẫn về thời vụ trong sản xuất nông nghiệp. Thành tựu đáng kể của họ là bộ lịch Maya, mặc dù chỉ với những dụng cụ quan sát thô sơ, người Maya xác định năm dương lịch một cách chính xác nhất so với các bộ lịch cổ đại. Lịch Julius Ceasar sai 1 ngày sau 128 năm, lịch mà chúng ta đang dùng sau 3000 năm, lịch của Omar Khayyam sau 8000 năm còn lịch Maya phải sau 10.000 năm. Người Aztec cũng có bộ lịch rất hoàn thiện, mỗi tháng của họ có 20 ngày, năm có 18 tháng và cộng thêm 5 ngày cuối cùng thành 365 ngày, chu kỳ 52 năm của họ cũng tương tự như thế kỷ. 5 ngày cuối của năm, đặc biệt là khi kết thúc chu kỳ 52 năm là những ngày mà người Aztec cho là bất hạnh và phải cúng tế thần Lửa Mới với nghi lễ dùng con người làm vật hiến tế. Năm 1790, người ta đã tìm thấy tảng đá Mặt Trời nặng trên 20 tấn, được chạm các ký hiệu tượng hình biểu hiện 20 ngày trong tháng và hai con rắn đeo kính tượng trưng cho bầu trời theo quan niệm của họ. So với lịch sử dụng ở châu Âu cùng thời thì lịch Aztec cũng chính xác hơn. Sưu tầm.
-
Lịch sử Thiên văn học Phần 4: Thiên văn học thời Phục Hưng Thiên văn học châu Âu thời Phục hưng chứng kiến cuộc cách mạng của những tên tuổi lớn như Tycho Brahe, Copernicus, Kepler, Galileo... Tuy nhiên, trước đó phải nhắc đến Johannes Müller (còn gọi là Regiomontanus), người đã dịch tác phẩm vĩ đại Almagest từ tiếng Ả Rập và đưa ra những bình luận có giá trị trong cuốn sách Epitome of the Almagest (Tóm lược về Almagest) mà sau này được Copernicus, Galileo sử dụng.[47] Và rồi cuộc cách mạng đã bùng nổ với nhà thiên văn học người Ba Lan Nicolaus Copernicus, "người đã bắt Mặt Trời dừng lại và đẩy cho Trái Đất quay" như những lời ghi trên tượng đài của ông ở Warsaw. Sau những năm tháng làm việc ở giáo đường Frombork, ông cho ra đời tập Tiểu luận (Commentariolus) trình bày những ý niệm ban đầu về thuyết nhật tâm của mình. Kết quả của hàng thập kỷ lao động của ông được thể hiện trong bộ sách Về chuyển động quay của các thiên thể (De revolutionibus orbium coelestium) xuất bản lần đầu tiên năm 1543. Bộ sách gồm sáu cuốn trong đó trình bày quan điểm và những lý giải của ông về hệ thống nhật tâm đồng thời đưa ra danh mục các ngôi sao (định tinh) cũng như mô tả chuyển động biểu kiến của Mặt Trời, Mặt Trăng và các hành tinh. Tuy nhiên do coi rằng các hành tinh chuyển động tròn đều nên hệ thống của Copernicus còn chưa đạt độ chính xác cao và sau này Kepler, Newton tiếp tục hoàn thiện. Do Copernic trì hoãn việc công bố học thuyết của mình nên Georg Joachim Rheticus, người học trò và là bạn vong niên của ông đã giới thiệu nó năm 1540 bằng cách cho xuất bản cuốn Tường giải ban đầu (Narratio prima). Lý thuyết của ông đã thách thức hệ thống của Ptolemy tồn tại hàng ngàn năm và là khởi đầu cho cuộc cách mạng trong khoa học, thần học và cả triết học. Tycho Brahe (1546 - 1601), nhà quan trắc thiên văn học người Đan Mạch đã xây dựng một đài thiên văn lớn và đặt tên là Uraniborg (nghĩa là "Lâu đài trời"). Với kết quả quan trắc, ông lập được một bản danh mục gồm 788 ngôi sao với độ chính xác cao mà sau này là cơ sở dữ liệu cho những công trình của Kepler.[48] Ông cũng có những nghiên cứu về sao chổi và đưa ra lý thuyết về chuyển động của Mặt Trời, Mặt Trăng. Tuy nhiên, Brahe vẫn cho rằng Trái Đất đứng yên, Mặt Trời, Mặt Trăng chuyển động quanh nó còn các hành tinh chuyển động quanh Mặt Trời. Mô hình hệ Mặt Trời của Kepler. Sử dụng những kết quả quan sát của Brahe, Johannes Kepler, người kế nhiệm ông ở đài thiên văn Prague, đã nghiên cứu và tìm ra quy luật chuyển động của các hành tinh. Ba định luật nổi tiếng mang tên ông đã được trình bày trong các tác phẩm Astronomia nova (Thiên văn học mới, xuất bản năm 1609) và Hamonices Mundi (Sự hài hoà của thế giới, xuất bản năm 1619). Những công trình của ông không những mô tả chuyển động của các hành tinh mà còn đề cập đến nguyên nhân của những chuyển động ấy. Theo mô hình của Kepler, động cơ tiên khởi của chuyển động của các hành tinh là Mặt Trời, nó quay và nhờ "trường lực" của mình khiến cho các hành tinh khác quay theo. Mặt khác các hành tinh còn hút lẫn nhau, lực hút này giống như từ tính và càng gần nhau thì cường độ càng lớn. Ông cũng đưa ra giả thuyết về nguyên nhân của thuỷ triều là do lực hấp dẫn của Mặt Trăng. Thiên văn học giờ đây đã chuyển từ những mô hình thuần tuý toán học sang bản chất vật lý mà sau đó Newton đã làm cho hai môn khoa học này gắn bó chặt chẽ với nhau. Với những đóng góp đó, Kepler được coi là một trong những người đặt nền móng cho thiên văn học hiện đại.[49] Sống cùng thời và đã có trao đổi thư từ với Kepler là một nhà thiên văn học vĩ đại khác - Galileo Galilei. Được biết về phát minh ra ống nhòm của người Hà Lan ông đã chế tạo ra kính viễn vọng và cuối năm 1609, bắt đầu quan sát bầu trời bằng dụng cụ này. Ông đã nhìn thấy những mỏm núi trên Mặt Trăng, quan sát các vết đen Mặt Trời, biết rằng Ngân Hà là được tạo bởi những ngôi sao nhỏ li ti, phát hiện ra bốn vệ tinh (Galileo gọi chúng là hành tinh và sau đó Kepler mới đề nghị dùng từ vệ tinh) của sao Mộc...Ông cũng nhận thấy các pha của sao Kim rất giống với Mặt Trăng và do đó nó phải quay quanh Mặt Trời chứ không phải Trái Đất. Những khám phá của Galileo đã chứng minh cho học thuyết của Copernicus. [50] Ông đã tìm cách thuyết phục Giáo hội La Mã về tính đúng đắn của thuyết Copernic nhưng ý kiến phán quyết của Toà án Giáo hội đã cho rằng nó là giả dối, phi lý, tà đạo và chống lại Kinh Thánh và chính ông đã phải tuyên thệ từ bỏ quan điểm của mình. Một nhà triết học và vũ trụ học người Ý khác là Giordano Bruno đã tán thành và phát triển học thuyết của Copernicus về vũ trụ. Ông cho rằng không chỉ Trái Đất mà cả Mặt Trời cũng tự quay quanh trục của nó và còn có nhiều hành tinh quay quanh Mặt Trời mà con người chưa biết tới. Trong vũ trụ có vô số những ngôi sao tương tự Mặt Trời cũng như những thế giới khác giống như Trái Đất. Vì những quan điểm này mà Bruno đã bị toà án giáo hội thiêu trên giàn lửa.[51] Tham khảo: 47 ^ . Regiomontanus.; University of Cambridge. 48 ^ Tycho Brahe.; University of Cambridge. 49 ^ Trần Mạnh Thường, Tr. 266. 50 ^ Galileo.; University Of St Andrews, Scotland. 51 ^ Giordano Bruno.; University Of St Andrews, Scotland. Wikipedia.org Phần 5: Thiên văn học thế kỷ 17 - 18 Thời cận đại đánh dấu bước chuyển của thiên văn học sang những nhận thức khoa học và hiện đại về vũ trụ, thiên văn học và vật lý học trở nên thống nhất với sự ra đời của môn cơ học thiên thể. Isaac Newton, nhà khoa học vĩ đại đã có những đóng góp to lớn trong sự phát triển của thiên văn học thời kỳ này. Ông đã chế tạo chiếc kính thiên văn phản xạ đầu tiên, phân tích ánh sáng thành một chuỗi các vạch quang phổ, đặt nền móng cho quang phổ học, một phương pháp quan trọng để nghiên cứu các thiên thể. Tuy nhiên thành tựu quan trọng nhất của ông trong thiên văn học là ba định luật của động lực học và định luật vạn vật hấp dẫn được trình bày trong phần thứ ba (thiên văn học) của tác phẩm Những nguyên lý toán học của triết học tự nhiên (tiếng Latin: Philosophiae Naturalis Principia Mathematica). Với quan niệm rằng chuyển động của các thiên thể cũng tuân theo các quy luật như chuyển động của các vật thể khác trên mặt đất. Newton đã hợp nhất các định luật của Kepler và cơ học của Galileo tạo bước ngoặt cho sự phát triển của môn cơ học thiên thể.[52] Chân dung Isaac Newton của Godfrey Kneller (1702). Những người kế tục Newton đã tiếp tục chứng minh tính đúng đắn của định luật vạn vật hấp dẫn cũng như phát triển môn cơ học thiên thể. Edmund Halley đã phát hiện ra gia tốc thế kỷ của Mặt Trăng mà sau này Euler, Lagrange và Laplace đã giải thích nó bằng lý thuyết vạn vật hấp dẫn. Ông cũng tới đảo St. Helena và lập bản đồ với 341 ngôi sao ở thiên cầu Nam (không nhìn thấy được ở châu Âu) và cũng trong khi ở đây, ông đo được sự khác biệt về độ dài của giây do con lắc dao động tạo ra khi ở những vĩ độ khác nhau do lực hấp dẫn khác nhau (bởi khoảng cách đến tâm Trái Đất thay đổi) mà Newton đã chỉ ra. Halley cũng tạo ra bước ngoặt trong quan niệm về sao chổi. Trước đó sao chổi được cho là có quỹ đạo parabol và sẽ vĩnh viễn đi vào vũ trụ bao la sau khi đi ngang qua Trái Đất. Từ quy luật xuất hiện của một số sao chổi đã quan sát thấy là 75-76 năm hoặc bội số của nó, ông đã áp dụng định luật của Newton và cho rằng quỹ đạo sao chổi có dạng hình elíp nhưng kéo dài đến mức ở những đoạn trông thấy được, nó giống như hình parabol. Từ đó ông khẳng định rằng sao chổi đã nhìn thấy năm 1682 sẽ quay trở lại vào năm 1758 hoặc 1759 và khi nó xuất hiện như dự báo vào Giáng Sinh năm 1758, sau khi Halley đã mất, sao chổi này đã được đặt tên là Halley[53]. Alexis Clairaut đã xây dựng lý thuyết về cấu tạo và hình dạng Trái Đất trong tác phẩm Lý thuyết về hình dáng Trái Đất (Théorie de la figure de la Terre, 1743) khẳng định quan điểm của Newton và Huygens là Trái Đất bị dẹt ở hai cực. Ông cũng nghiên cứu xây dựng lý thuyết chuyển động của Mặt Trăng, giải thích các hiện tượng quân sai (inequality - sự sai lệch trong chu kỳ chuyển động); xuất sai (evaction - sự nhiễu loạn có chu kỳ trong chuyển động so với các định luật Kepler do lực hấp dẫn của Mặt trời gây ra); nhị quân sai (variation - sự thay đổi vận tốc dưới tác dụng của lực hấp dẫn từ Mặt Trời); chu niên sai (annual equation - sự thay đổi khoảng cách đến Mặt Trời theo chu kỳ do quỹ đạo elíp gây ra). Lý thuyết chuyển động của Mặt Trăng tiếp tục được Euler phát triển và sau đó là Laplace tổng kết trong tác phẩm Bàn về cơ học thiên thể (Traité de Mécanique Céleste ). Tiếp tục hoàn thiện lý thuyết của Lagrange, Laplace đã chỉ ra rằng sự không đều trong chuyển động của các hành tinh có tính chu kỳ và tác động của lực hấp dẫn giữa các hành tinh không gây ra gia tốc vĩnh viễn trong chuyển động trung bình của chúng, có nghĩa là hệ Mặt Trời bền vững. Năm 1796, ông cho xuất bản tác phẩm Trình bày hệ thống thế giới (Exposition du systeme du monde) trong đó tập hợp tất cả những kiến thức chủ yếu về thiên văn học và đưa ra giả thuyết về nguồn gốc của hệ Mặt Trời.[54] Trong lĩnh vực quan trắc, giai đoạn này cũng có những thành tựu nổi bật. Giovanni Cassini, giám đốc Đài thiên văn Paris đã khám phá ra 4 vệ tinh của sao Thổ là Iapetus (1671), Rhea (1672), Tethys (1684), Dione (1684) và khoảng tối giữa vành đai của hành tinh này (gọi là vạch chia Cassini). Bằng phương pháp quan sát sao Hoả ở hai điểm Cayenne và Paris rồi từ hiệu toạ độ giữa chúng, ông đã xác định được khoảng cách tương đối chính xác từ Trái Đất đến Mặt Trời (đơn vị thiên văn).[55] Ở Nga, Mikhail Lomonosov tìm ra khí quyển của sao Kim còn ở Anh, James Bradley phát hiện hiện tượng tinh sai do chuyển động của Trái Đất và tính hữu hạn của vận tốc ánh sáng; hiện tượng chương động (sự lắc của trục Trái Đất với chu kỳ 18,6 năm đồng bộ với hiện tượng quay đảo của quỹ đạo Mặt Trăng).[56] Nhà quan trắc xuất sắc và tiên phong trong giai đoạn này là Friedrich Wilhelm (William) Herschel với những chiếc kính thiên văn phản xạ khổng lồ của mình. Trong 20 năm quan sát, ông đã phát hiện được khoảng 2500 tinh vân và sao chùm đồng thời đưa ra mô hình các tinh vân dạng Ngân Hà. Herschel đã tìm ra một hành tinh mới trong hệ Mặt Trời - sao Thiên Vương (1781) mà thoạt đầu ông nghĩ đó là sao chổi rồi 2 vệ tinh của nó là Titania và Oberon, phát hiện 2 vệ tinh thứ sáu và thứ bảy của sao Thổ (Enceladus, Mimas) năm 1789. Herschel còn chỉ ra rằng hệ Mặt Trời cũng chuyển động giữa các ngôi sao gần đó và điểm hướng trong chuyển động của nó (điểm Apex) là sao Lambda Herculis trong chòm Vũ Tiên. Nhà thiên văn này cũng là người phát hiện ra tia hồng ngoại khi nhận thấy nhiệt kế để ở ngoài phạm vi phổ nhìn thấy được của ánh sáng Mặt Trời về phía màu đỏ cũng nóng lên.[57] Kính thiên văn khổng lồ của Friedrich Wilhelm (William) Herschel. Về sự hình thành của vũ trụ và Hệ Mặt Trời, vào đầu thế kỷ 18, giả thuyết tinh vân do Emanuel Swedenborg đề xuất cho rằng mọi cơ cấu trong tự nhiên đều được tạo thành theo những nguyên lý như nhau. Các nguyên tử cũng như những ngôi sao đều được tạo ra bởi luồng xoáy cố hữu của vật chất. Nguyên tử là một cơ cấu phức tạp của các hạt tương tự như Hệ Mặt Trời. Tuy nhiên ông không công nhận lực hấp dẫn của Newton mà cho rằng các ngôi sao, hành tinh được từ lực giữ. Nhà triết học nổi tiếng Immanuel Kant đã tiếp tục phát triển giả thuyết này nhưng theo thuyết vạn vật hấp dẫn của Newton, chính lực hấp dẫn đã làm cho vật chất ở trạng thái loãng lúc ban đầu chuyển động xoáy. Dần dần, lực hoá học đã tạo ra được sự cô đặc ban đầu của vật chất nguyên thuỷ và dưới tác dụng của lực hấp dẫn, khối lượng cô đặc ở tâm tăng lên. Tinh vân chuyển động xoáy ngày càng đặc và phần trung tâm hình thành nên Mặt Trời còn vành khuyên tạo thành các hành tinh. Độc lập với Kant, Laplace cũng có một số ý tưởng trùng hợp trong tác phẩm Trình bày hệ thống thế giới.[58] Tham khảo: 52 ^ Sir Isaac Newton; University Of St Andrews, Scotland. 53 ^ Edmond Halley; University Of St Andrews, Scotland. 54 ^ Laplace; University Of St Andrews, Scotland. 55 ^ Giovanni Domenico Cassini. 56 ^ James Bradley (1693—1762), Third Astronomer Royal from (1742—1762); UK National Maritime Museum. 57 ^ Friedrich Wilhelm (William) Herschel; SEDS data base. 58 ^ Nguyễn Việt Long, Tr. 213 Wikipedia.org
-
Nếu muốn thảo luận thì trước tiên quanghung14 phải đưa ra quan điểm của mình trước. Nếu muốn hỏi để biết thì phải xin hay nhờ người khác đáp. Nếu muốn học hỏi thì có thể đăng ký học lớp Phong thủy Lạc Việt, vì đây là một lý thuyết hơn dài và có nhiều liên quan.
-
Theo bạn thì lấy tuổi ai?
-
Đầu xuân Tân Mẹo, Thiên Đồng kinh chúc các hội viên và quan khách xa gần Tài Lộc Kim Tiền đầy kho Khỏe Mạnh - May Mắn, khò khò ngủ ngon Đầu xuân, Đồng bói quẻ đầu xuân tặng các hội viên, quan khách xa gần gọi là "cho thêm xuân". Lưu ý:đặt câu hỏi theo quy định sau: Tuổi gì: ? Hỏi vào ngày ...tháng...năm...giờ (bao nhiêu phút) dương lịch. Câu hỏi 01: Câu hỏi 02: Câu hỏi 03: (Chỉ được 3 câu hỏi thôi) khai bút, mồng một tháng Giêng xuân Tân Mão. :rolleyes: Thiên Đồng :unsure:
-
@milulan Cháu chào bác! Tuoir: Canh Ngọ Hỏi vào ngày 23/2/2012 vào lúc 9:32AM Cháu có mấy câu hỏi này ạh. Mong bác xem giúp cháu Câu 1: Cháu chưa kết hôn nên muốn hỏi là mộ ông bà nội cháu đã bốc được chưa ạh? Ông cháu mất năm 2007 bà mất năm 2009 Theo quẻ thì chưa được. Câu 2: Cháu đang yêu 1 người hơn cháu 6 tuổi liệu người này có phải là chồng cháu không ạh? Có thể như vậy lắm Câu 3: Cháu sau này có thành công không ạh? Cháu đi làm nhà nước hay kinh doanh thì hợp hơn ạh? Thành công. Kinh doanh thì hợp hơn. Cháu cảm ơn bác rất nhiều Thiên Đồng
-
Lịch sử Thiên văn học Phần 3: Thiên văn học thời Trung cổ Thiên văn học của người Hồi giáo Sau khi Vương quốc Hồi giáo Ả Rập hình thành và mở rộng lãnh thổ vào thế kỷ 8, thế kỷ 9, người Hồi giáo đã tiếp thu những thành tựu của nền văn hoá Byzantine, nơi gìn giữ tinh hoa của khoa học Hy Lạp cổ đại. Ngoài ra, họ còn tiếp cận kho tàng văn hoá, khoa học cổ đại thông qua Ấn Độ. Dưới triều đại của vua Al-Ma'mun (trị vì từ 813 đến 833), người ta đã xây dựng ở Baghdad một Viện Hàn lâm khoa học và một đài quan trắc thiên văn. Việc nhà bác học Thabit Ibn Kura (806 - 901) dịch tác phẩm đồ sộ của Ptolemy và đổi tên nó thành "Almagest" đã có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy nghiên cứu thiên văn học của người Ả Rập. Từ cuối thế kỷ 10, đã hình thành những trung tâm khoa học trong thế giới Hồi giáo. Một "Nhà Tri thức" và một đài quan trắc trực thuộc triều đình được lập ra ở Cairo, nơi đây nhà thiên văn học Ibn Yunus (khoảng 950 - 1009) đã làm việc và để lại tác phẩm Hakimi Zij trong đó mô tả 40 trường hợp giao hội của các hành tinh và đưa ra bảng chuyển đổi giữa các loại lịch được dùng trong khu vực Trung Đông lúc bấy giờ...[37]. Tại Isfahan, nhà triết học, nhà thơ, nhà toán học đồng thời cũng là nhà thiên văn học Omar Khayyám (1048 - 1122) đã cùng một số nhà thiên văn học khác lập một đài quan trắc thiên văn lớn. Ông cũng đã cải cách lịch Hồi giáo thành Lịch Ba Tư, loại lịch mà sau một thời gian việc sử dụng bị gián đoạn khi những người Hồi giáo Chính thống nắm quyền ở Iran đã được dùng lại từ năm 1925.[38] Độ dài của năm dương lịch được ông xác định là 365.24219858156 ngày, chính xác đến số thập phân thứ 6.[39] Nền thiên văn học Hồi giáo mang đậm khuynh hướng quan trắc, họ đã học được cách chế tạo kính lục phân, kính tứ phân từ người Hy Lạp cũng như phát triển đĩa trắc cao thiên văn để quan sát bầu trời. Di tích đài thiên văn của Ulugh Beg tại Samarkand. Hình minh hoạ các pha của Mặt Trăng trong tác phẩm Kitab al-Qanun al-Mas'udi của Abū Rayhān al-Bīrūnī. Ngoài khu vực Trung Đông, vùng Trung Á cũng tồn tại những trung tâm thiên văn học của người Hồi giáo. Gazni (Afghanistan) là một trong số đó, nơi đây nhà bác học nổi tiếng Abū Rayhān al-Bīrūnī (973 - 1048) đã làm việc và để lại nhiều thành tựu. Di sản của nhà bách khoa này là gần 150 công trình nghiên cứu trong đó có hơn 40 tác phẩm về toán học và thiên văn học. Tác phẩm "Tường giải cơ sở của thiên văn học" và "Kitab al-Qanun al-Mas'udi" trình bày các bảng biểu thiên văn, danh mục các ngôi sao của ông hàng thế kỷ được dùng làm sách giáo khoa thiên văn chính trong thế giới Ả Rập[40]. Ông cũng chế tạo một kính tứ phân với bán kính vòng cung 4m nhờ đó có thể nhìn thấy vị trí của Mặt Trời và các hành tinh với độ chính xác 2' đồng thời hoàn thiện kính trắc cao thiên văn, tính toán độ nghiêng của hoàng đạo so với xích đạo, ước lượng khoảng cách tối đa đến Mặt Trăng... Vào giữa thế kỷ 13, Marāgha một thành phố ở miền Bắc Iran cũng là một trung tâm thiên văn học, tại đây, nhà bác học Nasīr al-Dīn al-Tūsī (1201 - 1274) cùng các cộng sự đã làm việc tại đài thiên văn Rasad Khaneh xây dựng năm 1259. Trong số các dụng cụ quan trắc tại đây có chiếc kính tứ phân có bán kính vòng cung lên tới 6,5 m. Sau 12 năm lao động, ông đã lập được hệ thống bảng biểu về chuyển động của Mặt Trăng, Mặt Trời và các hành tinh đồng thời đưa ra danh mục các ngôi sao trong cuốn sách Zij-i ilkhani.[41] Ở Samarkand (Uzbekistan), nhà thiên văn học Ulugh Beg (khoảng 1393/1394 - 1449) đã xây dựng một đài quan sát hình vòm có đường kính hơn 50 m và cao 35 m[42] và chiếc kính lục phân Fakhri khổng lồ có bán kính của vòng cung tới hàng chục mét. Bản danh mục sao Zij-i Sultani của ông xuất bản năm 1437 mô tả vị trí của 992 ngôi sao, ông còn tính toán khá chính xác độ dài của 1 năm là 365 ngày 49 phút 15 giây.[43] Châu Âu Thời Trung Cổ, châu Âu bận rộn tiến hành những cuộc thập tự chinh liên tiếp và miệt mài với giả kim thuật để biến kim loại thành vàng. Các học giả cũng hướng sang thế giới Ả Rập và những kiến thức thiên văn học được truyền bá ở châu Âu thông qua việc dịch thuật, biên soạn các tác phẩm từ tiếng Ả Rập sang tiếng Latin tạo tiền đề cho những bước phát triển có tính chất cách mạng trong giai đoạn Phục Hưng sau này.. Johannes de Sacrobosco, trong tác phẩm De Sphaera đã trình bày những kiến thức cơ bản về hình học cầu mà cốt lõi là thiên văn toán học của Ptolemy cũng như những chú giải của các học giả Ả Rập.[44] Một số người khác như Hermann of Reichenau... cũng tích cực chuyển tải những kiến thức khoa học nói chung cũng như hiểu biết, các dụng cụ thiên văn từ Ả Rập tới châu Âu.[45]. Cuối thế kỷ 14, trước Copernicus khoảng 200 năm, Nicole d' Oresme, trong một tác phẩm đã đi ngược lại quan điểm Trái Đất đứng yên của Aristotle và khẳng định nó chuyển động quay, tuy nhiên, ở cuối tác phẩm đó ông đã chối bỏ chính ý kiến của mình.[46] Tham khảo: 37 ^ Ibn Yunus Biography.; University Of St Andrews, Scotland. 38 ^ Omar Khayyám.; Pegasos 39 ^ Khayyám Biography.; University Of St Andrews, Scotland. 40 ^ Nguyễn Việt Long, Tr. 85 41 ^ Nasīr al-Dīn al-Tūsī.; University Of St Andrews, Scotland. 42 ^ Ulugh Beg.; University Of St Andrews, Scotland. 43 ^ Dr. A. Zahoor Ulugh Beg Biography.; Muslim Scientists, 700 - 1500 C.E. 44 ^ Johannes de Sacrobosco.; University of Cambridge. 45 ^ Hermann of Reichenau.; University Of St Andrews, Scotland. 46 ^ Oresme biography.; University Of St Andrews, Scotland. Wikipedia.org
-
@cattrang Cách đây gần 2 tháng, em có lăp topic riêng mong diễn đàn xem giúp tình hình công việc, gia đạo của gia đình em trong năm 2012, nhưng chờ hoài không thấy ai luận giúp, nên hôm nay em đưa nội dung này vào chuyên mục luận tuổi của anh nhờ anh xem giúp gia đình em 1 quẻ: Nữ, Tuổi giáp dần (1974) Hỏi vào ngày 22 tháng 2 năm 2012 giờ 11:00 dương lịch Câu hỏi 01: năm nay có xin được việc làm không? vào khoảng thời gian nào? công việc có tiến triển tốt không? nhanh tháng 3, chậm tháng 8 là có việc, công việc vừa ý, nhiều áp lực, tiến triển tốt. Câu hỏi 02: Công việc mới ( vừa xin được việc về làm gần nhà) của ông xã năm nay như thế nào? cần chú ý điều gì? công việc có vẽ ngon, nhưng chua ăn, nhưng như tưởng, lắm rắc rối bực mình, con chừng kẻ dòm ngó. Câu hỏi 03: Tình hình trong gia đạo, con cái (01 gái, 01 trai). Hai con có ngoan, có hiếu với cha mẹ không? tình hình học hành sau này như thế nào các con ngoan hiền hiếu thuận, hơi ù lì. Thiên Đồng
-
@tuong_vi Em cảm ơn anh nhiều lắm ạ. Cho em hỏi thêm tí nữa nha anh. hehe. Em đang phân vân ạ. 1. Nếu chuyển ra ở riêng thì khi nào hả anh (tháng nào năm nào ạ)? Ở gần nhà ba mẹ ko hay xa ạ? 2. Tháng 9 âm nay hoặc tháng 2 âm năm sau. Anh nói dậy theo em nghĩ là tháng 9 âm lịc năm nay, còn ko thì tháng 2 âm năm sau đúng ko ạ hay tháng 9 năm sau luôn ạ? 3. Câu cuối cùng khi nào cuộc sống của em mới ổn định, tốt đẹp ạ (năm nào)? Nếu anh nói em có bốn con dậy theo em nghĩ là 3 gái 1 trai đúng ko ạ? đọc kỹ lại năm nay liệu vợ chồng em có thêm cháu nữa ko ạ hay năm khác? chắc không Cảm ơn anh nhiều lắm lắm ạ. Chúc anh có buổi sáng gặp nhiều may mắn ạ. Em chào anh và cảm ơn anh lần nữa ạ. @Star1 Cảm ơn Anh Thiên Đồng đã tư vấn giúp em. Vợ em sinh năm 1982, vậy sinh con vào năm nào thì tốt ? Anh cho em lời khuyên ạ. Khó chọn con, nên chọn 2015 và 2018. Em xin chân thành cảm ơn.
-
@ Tịnh Tâm Cháu chỉ hỏi thêm câu cuối thui...con cháu sau này có hiếu thảo, thương cha thương mẹ ko? Có thành đạt ko? có. 3 thành đạt 1 bình thường. @hongvt Kính gửi anh Thiên Đồng, Kính nhờ anh xem giúp em với ah Nữ sinh năm Quí Hợi (1983) Hỏi vào ngày 21 tháng 02 năm 2012 lúc 11:45 AM Câu hỏi 1: Vợ chồng em sẽ có được mấy con ah? Năm Nhâm Thìn 2012 có sinh được con trai không ah? 4 con. Nhâm thìn không hợp tuổi, nếu đang có bầu thì sẽ là con trai. Câu hỏi 2: Con cái sau này có mạnh khỏe, thành đạt không ah? Tốt. Thành đạt. Câu hỏi 3: Vợ chồng em có sống hạnh phúc đến đầu bạc răng long không ah? đầu bạc trọc răng lưa thưa. Trân trọng cảm ơn anh nhiều! @còi cọt Anh Thiên Đồng ơi cho em hỏi với ạ: Em là Nữ sinh năm Kỉ Tỵ, theo đồng hồ của em giờ là 16h07 ngày 21/02/2012 DL Hôm nay em đi thi về nhưng làm bài không được tốt, và nêu môn này không qua thì năm nay em chưa tốt nghiệp được. Em muốn hỏi xem em có qua môn này được không và tháng 6 DL có ra trường được không ạ? Không qua được môn này, nhưng tháng 6 DL ra trường. Mong anh xem giúp em. Em cảm ơn nhiều. @ tuong_vi Mới vào diễn đàn đọc được nhiều bài em cảm thấy rất ấn tượng ko biết anh dùng cách nào mà xem cho mọi người chính xác dữ vậy, em cũng mạo mụi nhờ anh xem giúp mấy việc. Em là con trai, sinh năm bính dần 1986. 1. Vợ chồng em đang sống với ba mẹ, cho em hỏi sau này em có sống gần với ba mẹ em ko hay chuyển đi nên khác ở ? (Em thương ba mẹ em lắm nên cũng muốn ở gần ông bà để chăm sốc nhưng do em là con thứ nên sau này nhà dao cho ông anh nhưng tính ông anh khó chiệu lắm nên em và vợ em rất khó sống khi có ổng). Sau này hai anh em có hòa thuận sống vui vẻ ko hay như bây giờ cứ cãi cọ nhau...? Chuyển ra ở riêng. Anh em vẫn hòa thuận không gì căng. 2. Do công việc đi làm hơi xa với lại thỉnh thoảng phải về quê vợ nên hai vợ chồng em tính mua chiếc xe để đi nhưng tích góp bấy lâu mà vẫn chưa đủ tiền để mua anh xem khi nào em mới mua được (tháng nào, năm nào)?. Tháng 9 âm hoặc tháng 2 âm năm sau. 3. Khi nào ba mẹ em mới có cuộc sống sung sướng, ba mẹ em khổ từ khi còn trẻ đến giờ? Ko biết sau này em có nuôi dưỡng ông bà ko (đó là tâm nguyện của em)? nhanh thì 3 năm nữa, chận thì 6 năm. Cảm ơn anh trước nha, chúc anh có một buổi tối vui vẻ. Hỏi lúc 20h33" PM @Star1 Kính nhờ Anh Thiên Đồng xem quẻ giúp em ạ Em là Nam, sinh năm 1980 xin quẻ vào hồi 22h42 ngày 21 tháng 02 năm 2012 Câu hỏi thứ nhất: em sinh con năm nào thì tốt ạ? Phải có tuổi vợ mới xem được. Câu hỏi thứ hai: Công việc của em năm nay có gì đáng quan tâm ạ? công việc tốt, bận rộn nhiều, cơ hội tốt, đi xa nhiều. Câu hỏi thứ ba: Vợ chồng em liệu có sống với nhau đến khi rụng tóc bạc đầu không ạ? đầu bạc trọc răng lưa thưa. Em mong anh trả lời giúp em. Em chân thành cảm ơn. Thiên Đồng
-
Chữ Nôm hay chữ quốc ngữ mới là thuần Việt? - Trong khi nhà nghiên cứu văn học Lại Nguyên Ân phủ nhận nguồn gốc của chữ Nôm thì một số ý kiến tại hội thảo về chữ quốc ngữ lại cho rằng đó mới chính là Tiếng Việt thực sự. “Sẽ rất đáng tiếc khi các ngành, các nghề đều có ngày kỉ niệm còn chữ quốc ngữ thì không!” – Ông Nguyễn Lân Bình chia sẻ. Tại hội thảo, bên cạnh những vấn đề liên quan đến chữ quốc ngữ, ảnh hưởng của nó đối với đời sống và văn hóa của người Việt, vai trò của nhà tân học, nhà báo, nhà văn Nguyễn Văn Vĩnh trong việc “bắc cây cầu nối hai nền văn minh Đông – Tây” bằng sợi dây ngôn ngữ, các diễn giả Nguyễn Lân Bình, Lại Nguyên Ân, Mai Thành Chung, và nhà sử học Dương Trung Quốc đã đề xuất việc xác lập ngày kỉ niệm Chữ quốc ngữ nhằm tôn vinh ngôn ngữ của dân tộc. Cần Luật hóa ngôn ngữ Qua những phân tích cụ thể cùng dẫn chứng có tính khoa học, các nhà nghiên cứu đã khẳng định vai trò to lớn và sức sống mãnh liệt của chữ quốc ngữ trong dòng chảy thăng trầm của lịch sử. “Chữ quốc ngữ là điểm đến của những nỗ lực, những quá trình tìm tòi nhằm xác lập chữ viết riêng cho cộng đồng người Việt với tư cách một dân tộc - quốc gia. Tôi đồng tình với đề xuất cần có ngày kỉ niệm chữ viết của dân tộc”. – Nhà phê bình văn học, nghiên cứu ngôn ngữ Lại Nguyên Ân khẳng định. Diễn giả Nguyễn Lân Bình (cháu nội ông Nguyễn Văn Vĩnh) nhấn mạnh: “Xuất phát từ yêu cầu cấp thiết của thực tiễn, việc có một ngày để tôn vinh chữ quốc ngữ là điều nên làm. Sẽ rất đáng tiếc khi các ngành, các nghề khác đều có ngày kỉ niệm còn chữ quốc ngữ thì không. Bởi lẽ, nguồn gốc của lòng yêu nước là văn hóa, đối với mỗi người dân Việt Nam không chỉ một mảnh ruộng, một con trâu là đã thể hiện tình yêu quê hương mà tình yêu ấy còn thể hiện qua chữ quốc ngữ, hay nói cách khác là qua nền văn học, thơ ca của dân tộc”. Người có công rất lớn trong việc truyền bá và phát triển chữ quốc ngữ phải kể đến Nguyễn Văn Vĩnh. Ông không sáng tác nhiều nhưng các tác phẩm dịch và những hoạt động ý nghĩa của ông đã góp phần vào quá trình tạo nên ngôn ngữ thuần Việt, chính là chữ quốc ngữ chúng ta sử dụng bây giờ. Tuy nhiên, ông là người không thích được ca ngợi nên những việc ông đã làm ít ai được biết đến, công nhận. Như trong hồi ký của mình, nhà văn Vũ Bằng đã viết: “Nguyễn Văn Vĩnh từng nói rằng, nếu cuộc đời này có một cái nhà kính để sống, để quan sát thì tôi sẽ đứng trong nhà kính đó” – Ông Nguyễn Lân Bình chia sẻ thêm. Nhà phê bình văn học Lại Nguyên Ân cho biết, nếu có ngày kỉ niệm Chữ quốc ngữ, có thể lấy ngày ra đời tờ báo tiếng Việt đầu tiên (Gia Định báo, ngày 15/4/1865). Nói về vấn đề này, ông Dương Trung Quốc (Tổng Thư ký hội Lịch sử Việt Nam) cho rằng bên cạnh việc xác định ngày kỉ niệm chữ viết dân tộc, cần có thêm Luật về ngôn ngữ vì có rất nhiều vấn đề đặt ra: “Tôi cho rằng ý tưởng về ngày chữ viết của dân tộc rất hay và cần thiết. Nhưng vấn đề bức xúc hiện nay là nước ta có hơn 54 dân tộc, có rất nhiều loại ngôn ngữ, chữ viết khác nhau. Tại sao không đưa chữ Hán Nôm vào đời sống, tất nhiên không phải là sự trở lại mà là để gìn giữ văn hóa nước nhà? Có nhiều loại chữ nhưng chữ nào chuẩn hóa? Vì vậy, cần phải có Luật ngôn ngữ”. Quốc ngữ: đâu mới là tiếng mẹ đẻ? Hội thảo tranh luận sôi nổi với nhiều quan điểm đa chiều về chữ quốc ngữ. Theo ông Lại Nguyên Ân, chữ Nôm không thuần Việt, vì đó là sản phẩm vay mượn của người Hán nên chịu ảnh hưởng nhiều của văn hóa Trung Hoa. Ông khẳng định: “Chữ quốc ngữ mới là của người Việt”. Nhà sử học Dương Trung Quốc: “Ý tưởng ngày kỉ niệm chữ quốc ngữ rất hay. Nhưng cần có Luật để giải quyết những vấn đề bức thiết”. Diễn giả, thạc sỹ Mai Thành Chung cũng hình tượng hóa chữ quốc ngữ một cách khéo léo: “Chữ quốc ngữ là chữ ghi thanh (nói như thế nào, viết như thế đấy), được Việt hóa hoàn toàn, nó xuất xứ từ tiếng La tinh nhưng do người Việt hoàn thiện. Việc tạo ra ngôn ngữ cũng giống như quá trình làm bánh, chúng ta chỉ dựa trên những nguyên liệu có sẵn để chế tạo ra sản phẩm cuối cùng, đó là chữ quốc ngữ”. Nói về nguồn gốc và ảnh hưởng của chữ Nôm, anh Mai Thành Chung cũng giải thích, đó không phải do người Việt sáng tạo như nhiều người vẫn nghĩ. Thêm vào đó, chữ Nôm khó sử dụng để giao tiếp, tư duy nên đã bị loại bỏ, và lùi xa so với chữ quốc ngữ trong tiến trình phát triển của xã hội. Bên cạnh đó, một số ý kiến lại cho rằng, chữ Nôm mới chính là sản phẩm thuần Việt, mang tính dân tộc và chứa đựng bản sắc dân tộc. Quốc ngữ có từ khi người Việt còn dùng chữ Nôm để sáng tác thơ văn, ghi lại sử ký. Tiến sỹ Nguyễn Xuân Diện (Phó Giám Đốc Thư viện, Viện nghiên cứu Hán Nôm dẫn chứng: “Từ thời Nguyễn Bỉnh Khiêm đã có Bạch Vân am Quốc ngữ thi tập, hay như Quốc Âm thi tập của Nguyễn Trãi với hàng trăm bài thơ Nôm”. Trao đổi trong cuộc thảo luận, có sự tham gia của rất nhiều nhà nghiên cứu, nhà phê bình văn học. Nhiều vấn đề nảy sinh xoay quanh chữ quốc ngữ được đưa ra tranh luận, phân tích, và mổ xẻ. Trong khi Giám đốc Viện nghiên cứu Minh Triết Việt Nam, Nguyễn Khắc Mai đặt ra câu hỏi: “Tại sao lại gọi là chữ quốc ngữ?”, thì nhà nghiên cứu văn học Huệ Chi lại trăn trở: “Điều gì để chữ quốc ngữ trở thành độc tôn của dân tộc?”. Các nhà nghiên cứu cho biết, liên quan tới việc xác định ngày kỉ niệm chữ quốc ngữ còn rất nhiều vấn đề cần bàn bạc để đi đến thống nhất. • Thu Thảo ========================================== Sao không ai quan tâm đến Chữ Khoa Đẩu vậy? Nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền đã uổng công tìm lại di chỉ hằng ngàn năm, một di chỉ mà liên quan đến mọi vấn đề của văn hóa Việt. Trong khi nội dung nói về CHỮ thì đề mục bài báo lại...đi lạc đề Trong khi người ta đang muốn truy tìm nét đẹp, tiện ích và ý nghĩa của chữ để đặt chữ lên bục tôn vinh giống như tìm ý nghĩa của chiếc bánh khi đem ra triển lãm thì một người lại lo thuyết minh về kỹ thuật làm bánh!
-
Trung Tâm xác nhận đã nhận được chuyển khoản của bạn Tr***G***Đức, bạn nào có nick này đề nghị vào đây xác nhận và gửi hông tin về email info@lyhocdongphuong.org.vn như yêu cầu ở trên. Danh sách đã đóng tiền nhưng chưa hoàn thành việc cung cấp thông tin học viên : 1. chinhtabinhduong 2. eagle 3. Panda Hien 4. Bảo Nguyên 5. Lại Thành Công * 6. Tr***G*** Đức Các bạn có 2 tuần để hoàn thành việc cung cấp thông tin trước khi được vào lớp. Trân trọng
-
Ai không nên ăn cua đồng (Phụ nữ ngày nay )Cua đồng là món ăn dân dã quen thuộc của người Việt Nam và là món ăn được ưa chuộng trong những tháng cuối hè, đầu thu - thời điểm cua ngon béo nhất. Tuy nhiên, không phải ai cũng có thể ăn nhiều. Món bổ, thuốc hay Về dinh dưỡng: sách Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam do viện Dược liệu (bộ Y tế) ấn hành cho biết, trong 100g thịt cua đồng chứa 12,3% protid; 3,3% lipid; 5.040mg% Ca; 430mg% P; 4,7mg% Fe; 0,01mg% vitamin B1; 0,51mg% vitamin B2; 2,1mg% vitamin PP; 0,12mg% vitamin B6; 125mg% cholesterol; 0,25mg% melatonin... Đặc biệt, mai cua có nhiều chất chitin. Theo kinh nghiệm dân gian, để trẻ nhỏ cứng cáp, nhanh biết đi, người ta dùng cua đồng làm sạch, bỏ chân, càng, mai, yếm, chỉ lấy mình cua, rang nhỏ lửa cho vàng và khô. Giã nhỏ, rây lấy bột mịn. Hàng ngày, dùng bột cua quấy với bột gạo cho trẻ ăn, mỗi lần 1 - 2 thìa nhỏ. Về dược tính: trong Lĩnh nam bản thảo, Hải Thượng Lãn Ông ghi: “Điền giải là tên gọi cua đồng. Ngọt lạnh, ít độc hay sinh phong. Nối gân, tiếp xương, chữa phong nhiệt. Trừ mụn độc lở, huyết kết thông”. Sách Namdược thần hiệu của Tuệ Tĩnh ghi: điền giải có vị mặn, mùi tanh, tính hàn, hơi độc, tác dụng liền gân, nối xương, trị nhiệt tả, ngộ độc, máu kết cục, lở ghẻ. Sách Dược tính chỉ nam của ông ghi: điền giải có tác dụng tán tà nhiệt trong lồng ngực, thông được kinh mạch, làm cho năm tạng khỏi buồn phiền, giải được độc do thức ăn, liền được gân, thêm sức cho xương, bổ ích khí lực, tống được các vật kết đọng trong người, phá được chứng ứ huyết do vấp ngã hoặc bị đánh chấn thương, sốt rét... xMột số thử nghiệm trong phòng nghiên cứu ở Nhật ghi nhận, dung dịch trích bằng ether hay ethanol từ cua đồng có hoạt tính làm hạ huyết áp ở mèo, làm co thắt bắp thịt tử cung nơi chuột, đồng thời kích thích sự bài tiết của các hạch nội tiết. Những người không nên ăn cua đồng Do cua đồng có tác dụng phá khối u, tống xuất khối cục tồn đọng nên đông y khuyên phụ nữ có thai tránh ăn cua đồng. Người đau ốm mới khoẻ, hệ thống tiêu hoá còn yếu cũng không nên ăn. Người có biểu hiện tỳ vị hư hàn (cảm giác sợ lạnh) cũng cần hạn chế. Nếu bị tiêu chảy, không ăn cua đồng. Gạch cua có nhiều cholesterol, nên người huyết áp cao, bệnh tim mạch cần hạn chế dùng. Khi ăn cua, nên ăn cùng lá tía tô, gừng để làm giảm bớt tính hàn. Cua đồng cũng chứa nhiều sodium và purines nên không thích hợp cho người bị bệnh gút.
-
@hoangvu Nhờ anh Thiên Đồng xem giúp em vấn đề này.Em là nữ Tân Dậu,Hỏi vào lúc 0h52 phút ngày 21/1/2012 dương lịch (Hà Nội). Hiện em có anh bạn đồng nghiệp trước giờ vẫn rất quý, tuy nhiên dạo gần đây em thấy anh ấy có biểu hiện lạ. 1- Vậy xin hỏi đó chỉ là tình cảm bạn bè khác giới hay có tình cảm nào khác? Coi chừng bị cưa! 2- Nếu là bạn bè thì về lâu dài có sinh chuyện không hay không? Có. Và có thể kết thân được không? Có. Người này chắc đang muốn có người nâng khăn kiểm ví dài lâu nè! Mong anh xem giúp để biết ứng xử em đang rất phân vân. Xin cảm ơn anh nhiều. Thiên Đồng Cảm ơn anh Thiên Đồng rất nhiều. Nhưng nghe xong câu trả lời của anh em không biết phải cười hay khóc nữa :( . Vì cả e và anh đồng nghiệp đều có gia đình rồi em sơ xuất không nói trước khi hỏi anh. Chính vì vậy em rất nóng lòng muốn hỏi anh. Vậy anh cho em xin hỏi thêm câu này nữa nhé. Nữ Tân Dậu hỏi vào lúc 20h00 ngày 15/2/2012 Dương lịch.1- Nếu tiếp tục giữ mối quan hệ bạn bè với anh đồng nghiệp trên liệu sau này có phát sinh tình cảm lăng nhăng ảnh hưởng đến gia đình không? Có. rắc rối. 2- Có 2 cái nhà gđ em định mua, 1 ở Thái Thịnh và 1 ở Xuân Thủy. Anh xem giùm em xét tổng thể thì cái nhà nào hơn, nên mua cái nào? (cái nào ở tốt hơn và giả sử sử sau này muốn bán đi thì cái nào tốt hơn) Cái nào xa hơn thì xấu, cái nào ở phía nam Hà nội thì tốt. Mong được anh trả lời giùm em. Chân thành cảm ơn anh.Chúc anh cùng gia đình một năm mới mạnh khỏe vạn sự như ý! @Tịnh Tâm nam, bính dần 1986 Lúc trước cháu có hỏi vợ tương lai của cháu chú nói rất chính xác, lấy nhau mới biết cô ấy rất khó chiệu, cứng đầu...thui nói gì thì nói cũng là vợ mình chon mà...hehe Hôm nay cháu xin nhở chú xem giúp cháu mấy việc nữa làm phiền chú nha 1. Với tính cách của vợ cháu như vậy liệu vợ chồng có ăn ở được với nhau đến đầu bạc răng long không ạ? Cô ấy có thương cháu nhiều như cháu thương cô ấy ko ạ? Hạnh phúc dài lâu đến răng sâu đầu bạc trọc. 2. Sau này sự nghiệp của cháu cô ấy có giúp có nhờ vợ ko ạ ít nhất cũng được tí chứ ạ( hay gia đình phía vợ cũng hộ trở chứ ạ)? Nhờ nhiều thứ. 3. vợ chồng cháu sau này có mấy đứa con ạ, đứa đầu là trai hay gái ạ? Có đủ gái trai chứ ạ, chúng có thông minh học giỏi hiếu thảo cha mẹ ko ạ? 4 đứa, gái đâu, thông minh năng động. Hơi nhiều câu hỏi mong chú xem giúp ạ...đó là những thắc mắc của cháu mong chú thông cảm. Cảm ơn chú nhiều Thiên Đồng
-
Xác nhận Bảo Nguyên đóng 1.800.000đ HKI, 03 tháng, PTLV CB 09. Bảo Nguyên khai báo danh tính về địa chỉ này: info@lyhocdongphuong.org.vn