-
Số nội dung
6.278 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
75
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Thiên Đồng
-
@ Lũy Tre, Nếu cầu thang phạm trung cung thì có những cách hóa giải thường người ta vẫn biết là ốp gạch đỏ, sơn màu đỏ hoặc trải thảm đỏ từ dưới lên các tầng lầu cầu thang đó. Thiên Đồng
-
Tôn giáo với cách của họ, luôn như chiêu bài cây gậy và củ cà rốt, hù dọa và ủy mị, luôn đưa ra những cái hay ho như ơn phúc, phúc lành, hồng ân , thiên đàng và song song đó kèm bên là sự trừng phạt, phúc dữ, giáng họa, địa ngục...luôn hứa hẹn một miền đất hứa, thiên đàng lý tưởng nhưng với điều kiện là...chết đi mới được vào xứ sở ấy. Hic thật là điên rồ biết bao. Thiên Đồng
-
@ Hung Nguyen Ý kiến HN rất có lý phù hợp với Lý học. Những câu trả là lời sẽ dựa trên cơ sở Lý học, do vậy nhưng câu hỏi hỏi làm Thiên Đồng phải gải đầu gải tay 3 ngày nếu mà không bị tróc da rụng tóc thì cũng là thật lý thú. Chân lý sẽ xuất hiện. Yeah! @huybq36 tháp đôi Petronas ở Singapore So sánh các tháp (tính feet): 1. Taipei 101, Taipei, Taiwan 2004 101 1,667 2. Petronas Tower 1, Kuala Lumpur, Malaysia 1998 88 1,483 Petronas Tower 2, Kuala Lumpur, Malaysia 1998 88 1,483 4. Sears Tower, Chicago 1974 110 1,451 5. Jin Mao Building, Shanghai 1999 88 1,381 6. Two International Finance Center, Hong Kong 2003 88 1,362 7. CITIC Plaza, Guangzhou, China 1996 80 1,283 8. Shun Hing Square, Shenzhen, China 1996 69 1,260 9. Empire State Building, New York 1931 102 1,250 10. Central Plaza, Hong Kong 1992 78 Theo suy luận của huybq36, thì nơi nào cũng có kiến trúc chóp nhọn từ cao khiếm tốn đến cao chót vót, từ tháp chăm đến thánh đường hồi giáo, thiên chúa giáo đến các tòa nhà cao tầng...như vậy thì như các cụ trong dân gian thường hay nói "ở đâu cũng có người hiền ở đâu cũng có thằng điên thằng khùng" Thiên Đồng sửa lại chút: ở đâu cũng có người tài ở đâu cũng có những thày lang băm Ở Việt Nam không có kiến trúc chóp nhọn như Nga nhưng vẫn có người tài đánh kẻ địch phải chui vào ống đồng, đánh quân Mông 3 lần tơi giáp, đánh cho Pháp phục, thống nhất giang san liền một dãy. Và các bậc giáo sư tiến sĩ, tấn sĩ đời nào cũng không thiếu, vậy đâu có cái chóp nhọn nào đâu? mà toàn là mái đình ngói đỏ cong vút đầu đao. Thiên Đồng
-
Hùng Nguyên nói đúng theo tinh thần chủ đề. Hỏi như Ha. an thì là một ca tư vấn trọn bộ rùi. Ở đây ưu tiên cho những câu hỏi thường thức. Thiên Đồng
-
@ Bảo Nguyên, Bảo Nguyên nếu là học viên lớp phong thủy Lạc Việt thì sẽ trao đổi vấn đề này sau trong lớp phong thủy nâng cao. Học bàn thảo trong CLB phong thủy Lạc Vệt. Thiên Đồng
-
@lovestory_87 Anh Thiên đồng cho em đăng ký với: Em tuổi Bính Dần (sinh ngày 10/12/1986 - âm lịch). Hỏi vào ngày 28/02/2011, vào 22 giờ 33 phút. Em xin hỏi: 1. Công việc của em năm nay có tốt đẹp, mỹ mãn không? Công việc năm nay vất vả, đôi khi gặp nhiều chuyện kh6ng hay dễ bị mất của hay tiểu nhân quậy phá. Nhưng cơ bản là được. 2. Năm nay em sẽ có người yêu chứ ạ? Nếu có thì tháng mấy sẽ gặp và đây có phải là chồng tương lai của em hay không? Chồng có là người tốt? và nếu có thể anh nói qua về hoàn cảnh gặp gỡ cho em biết với ạ. Ế tình, tháng 8 âm có người để ý. Sau nay lấy chồng khá giả gặp nhau trong lúc cả hai đều ế độ, 3. Tiền bạc của em năm nay có khấm khá không ạ? không khá. Em cám ơn anh nhìu nhìu!!!! Chúc anh và gia đình năm mới vạn sự như ý :) @Hoacucvang Chào anh Thiên Đồng, Mong anh thu xếp để có thể xem giúp Hoacucvang vài câu. Bắt đầu hỏi từ lúc 23h 49 PM ngày 28 tháng 2 năm 2012. (xin lỗi vì đã hỏi anh quá khuya) Nữ: sinh tháng 9 năm 1980 Canh Thân - Thạch Lựu Mộc 1. Hoacucvang đang làm ở một cơ quan nhà nước, và cũng có làm thêm cho một công ty nước ngoài. Công việc làm thêm này rất tốt. Hoacucvang muốn hỏi liệu Hoacucvang có làm công việc này được lâu bền không? Công việc tốt lâu bền và lợi lộc to. 2. Hoacucvang muốn nghỉ/chuyển việc tại cơ quan cũ sang nơi khác. Đã xin nghỉ/ chuyển một lần rồi mà không được. Không biết khi nào có thể xin nghỉ ở đây để đi được? Nếu có thể đi được thì công việc mới có làm công việc chuyên môn đó nữa không, hay làm chuyên môn khác? (Gia đình cha mẹ chỉ thích Hoacucvang làm công việc hiện tại thôi cho đúng chuyên môn đã ăn học, Hoacucvang cũng thích công việc này, nhưng... càng ngày càng chán, mà bỏ thì... tội quá) Không chuyển được. muốn đi thí sang năm mới được. Nhưng cố gắng đi trong năm nay thì trong tháng 4 âm không đi dược thì chắc chắn sang năm. 3. Các con của Hoacucvang có ngoan và học giỏi không? Sau này có thành người có ích cho xã hội không? Con cái thật hiếu động, sáng dạ, thông minh, sau sẽ thành đạt nổi tiếng về một lĩnh vực nào đó. Cám ơn anh Thiên Đồng. Chúc anh vạn sự tốt lành. Hoacucvang. @ Chilam Cháu chào bác Thiên Đồng! Bác có thể trả lời giúp cháu vài câu hỏi được không ạ! Cháu sinh ngày 10/12/1982 và chồng cháu sinh ngày 20/8/1981, cháu có một bé gái sinh ngày 24/3/2011 (dương lịch). Bắt đầu hỏi từ lúc 20 giờ 53 phút ngày 29/2/2012 (nhằm ngày 9/2/2012 al) Bác cho cháu hỏi 1. Khi nào cháu có nhà riêng? nhanh thì 4 nam chậm thì 8 năm 2.Cháu có sinh thêm bé nữa không? Con trai hay gái. Con cháu có ngoan không? nên sinh thêm đứa 2019, trai gái đều tốt. 3. Cuộc sống vợ chồng cháu có hòa thuận không, sống với nhau trọn đời không? tốt đẹp an lành hạnh phúc Cháu cám ơn Bác. Chúc Bác nhiều sức khỏe. Thiên Đồng
-
thiên tai tăng nặng... =================== Cháy rừng ở Sa Pa (TNO) Theo nguồn tin của Thanh Niên Online, tại xã Séo Mí Tỉ, H.Sa Pa (cách TP.Lào Cai khoảng 60km) đang xảy ra vụ cháy rừng khá lớn. Vụ cháy được phát hiện vào khoảng 13 giờ 30 phút trưa ngày 2.3. Tính đến chiều 4.3, vụ cháy rừng đã xảy ra được 3 ngày, nhưng chưa có biện pháp dập lửa hữu hiệu nào được triển khai. Nguyên nhân ban đầu được xác định là do người dân đốt than bất cẩn đã gây cháy. Nguồn tin của chúng tôi cũng cho biết thêm, hiện tại có khoảng 300 người đang gắng sức phát đường băng để ngăn đám cháy lan rộng. Cho đến chiều 4.3, ngoài nỗ lực này thì chưa có biện pháp dập lửa nào được triển khai. Tất cả đang mong chờ đêm nay sẽ có mưa xuống dập tắt đám cháy. Hiện nay gió tại khu vực H.Sa Pa đang rất mạnh khiến đám cháy có nguy cơ lan rộng thêm. Thanh Hội - Lê Quân
-
52 第五二象 乙卯 乾下坤上 泰 谶曰: 慧星乍见 不利东北 踽踽何之 瞻彼乐国 颂曰: 枪一点现东方 吴楚依然有帝王 门外客来终不久 乾坤再造在角亢 金圣叹:此象主东北被夷人所扰,有迁都南方之兆. 角亢南极也。其後有明君出,驱逐外人,再度升平 Đệ ngũ nhị tượng: Ất Mão Kiền hạ Khôn thượng Thái Sấm viết: Tuệ tinh sạ kiến, bất lợi Đông Bắc, củ củ hà chi, chiêm bỉ nhạc quốc Tụng viết: thương nhất điểm hiện Đông phương, Ngô Sở y nhiên hữu đế vương môn ngoại khách lai chung bất cửu, Kiền Khôn tái tạo tại Giác Kháng Kim Thánh Thán: thử tượng chủ Đông Bắc bị di nhân sở nhiễu, hữu thiên đô Nam phương chi triệu, Giác Kháng Nam cực dã, kì hậu hữu minh quân xuất, khu trục ngoại nhân, tái độ thăng bình Lược dịch: Sấm viết: chợt thấy sao Tuệ, chẳng lợi (ich nơi) Đông Bắc, lủi thủi một mình làm chi ?, nhìn xem nước bên cạnh vui thích. Tụng viết: một ngôi sao chổi nhỏ bé hiện ra ở phương Đông, Ngô Sở vẫn cứ như cũ có được đế vương, khách đến ngoài cửa chẳng lâu sau, Kiền Khôn tạo lại (nơi ngôi sao) Giác (Giốc) Kháng (Cang). Kim Thánh Thán: tượng này chủ nơi Đông Bắc bị người (nước) bên cạnh quấy rối, có triệu chứng dời kinh đô về phương Nam, sao Giác Kháng ở cực Nam vậy, về sau có vua sáng xuất hiện, xua đuổi người ngoài, làm cho được yên bình. Các nhà Thiên Văn Học chia bầu trời ra 4 hướng : Đông Tây Nam Bắc . Mỗi hướng gồm có 7 chùm sao . Hay là 4 hướng x 7 chùm sao = 28 chùm sao . Ngày nay chúng ta thường gọi là Nhị Thập Bát Tú Bảy chòm sao hợp lại thành một phương trời và được biểu tượng thành một con vật có mầu sắc theo sự phối thuộc của ngũ hành- Phương Bắc là con rùa đen gọi là Hoa Cái (Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích). - Phương Tây là con hổ trắng gọi là Bạch Hổ (Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Chuỷ, Sâm). - Phương Nam là con phượng đỏ gọi là Phượng Các (Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn). - Phương Đông là con rồng xanh, gọi là Thanh Long (Giốc, Cang, Đê, Phòng Tâm Vĩ, Cơ). 53 第五三象 丙辰 乾下震上 大壮 谶曰: 关中天子 礼贤下士 顺天休命 半老有子 颂曰: 一个孝子自西来 手握乾纲天下安 域中两见旌旗美 前人不及後人才 金圣叹:「此象有一秦姓名孝者,登极关中,控制南北,或以秦为国号,此一治也 Đệ ngũ tam tượng: Bính thần Kiền hạ Chấn thượng Đại Tráng Sấm viết: quan trung thiên tử, lễ hiền hạ sĩ, thuận thiên hưu mệnh, bán lão hữu tử Tụng viết: nhất cá hiếu tử tự tây lai, thủ ác kiền cương thiên hạ an, vực trung lưỡng kiến tinh kì mĩ, tiền nhân bất cập hậu nhân tài Kim Thánh Thán: thử tượng hữu nhất Tần tính danh hiếu giả, đăng cực quan trung, khống chế Nam Bắc, hoặc dĩ tần vi quốc hào, thử nhất trì dã Lược dịch: Sấm viết: vua ở Quan Trung (ở nơi giữa cửa), lấy lễ hiền với kẻ sĩ ở dưới, thuận lòng trời sai khiến mệnh lệnh, đến gần già mới có con. Tụng viết: có một đứa con hiếu nghĩa đến từ phía Tây, cầm nắm lấy kỷ cương thiên hạ yên lành, bờ cõi cờ quạt cả hai thấy đẹp đẽ, người thời trước chẳng theo kịp được sự tài giỏi của người thời sau. Kim Thánh Thán: tượng này có một tên họ Tần hiếu thảo vậy, lên cao ở Quan Trung (chính giữa, đứng đầu ngôi chính giữa …), cầm nắm cai quản Nam Bắc, hoặc là lấy pháp chế (từ thời) nhà Tần làm pháp chế (cai trị nước coi như là) quốc bảo. 54 第五四象 丁巳 乾下兑上 谶曰: 磊磊落落 残棋一局 啄息苟安 虽笑亦哭 颂曰: 不分牛鼠与牛羊 去毛存悺称强 寰中自有真龙出 九曲黄河水不黄 金圣叹:「此象有实去名存之兆,或为周末时,号令不行,尚颁止朔:亦久合必分之徵也 Đệ ngũ tứ tượng: Đinh Tị Kiền hạ Đoái thượng Sấm viết: lỗi lỗi lạc lạc, tàn kì nhất cục, trác tức cẩu an, tuy tiếu diệc khốc Tụng viết: bất phân ngưu thử dữ ngưu dương, khứ mao tồn (cách 革 – hưởng thượng 尚饗 ) xưng cường, hoàn trung tự hữu chân long xuất, cửu khúc Hoàng Hà thủy bất hoàng Kim Thánh Thán: thử tượng hữu thật khứ danh tồn chi triệu, hoặc vi chu mạt thì, hào lệnh bất hành, thượng ban chỉ sóc:diệc cửu hợp tất phân chi trưng dã Tạm dịch: tài cán hơn người, cờ tàn một cuộc, trác tức 啄 息 (than thở, thở ngắn thở dài từng cơn, thở phào ra …) tạm yên, tuy cười lại khóc. Chẳng chia ra trâu (với) chuột cùng với (hay là) trâu (với) dê, nhổ (bỏ, vặt) lông còn 悺? (cách革: da, đổi, bỏ) hoặc là (hưởng 享: hưởng thụ, dâng lên, thết đãi) - thượng hưởng (ngõ hầu mới được hưởng mà) xưng (là) mạnh, trong cõi giữa tự có chân long (thánh quân) xuất hiện, chín khúc hoàng hà nước chẳng vàng. Tượng này có điềm báo chứng thực là bỏ danh (xưng, hiệu …) để tồn tại, hoặc là thời kỳ mạt 末 (cuối cùng) gây nên khắp nơi, hiệu lệnh ban ra chẳng (nơi nào chịu) thi hành, trên mới ban ra ngừng lại (đình chỉ), chứng cớ là ấy (bởi vì) hợp lâu ắt hẳn (có ngày phải) phân chia ra. Đại loạn bình 大乱平, tứ di phục 四夷服, xưng huynh đệ 称兄弟, lục thất quốc 六七国” Bản đồ Trung Quốc nếu phân chia ra 55 第五五象 戊午 乾下坎上 谶曰: 惧则生戒 无远勿届 水边有女 对日自拜 颂曰: 觊觎神器终无用 翼翼小心有臣众 转危为安见节义 未必河山是我送 金圣叹:「此象有一石姓或刘姓一统中原,有一姓汝者谋篡夺之,幸有大臣尽忠王室,戒谨惕励,一切外侮不灭自灭,虽乱而亦治也。 Đệ ngũ ngũ tượng: Mậu Ngọ Kiền hạ Khảm thượng Sấm viết: cụ tắc sanh giới, vô viễn vật giới, thủy biên hữu nữ* , đối nhật tự bái Tụng viết: kí du thần khí chung vô dụng, dực* dực tiểu tâm* hữu thần chúng, chuyển nguy* vi an kiến tiết nghĩa, vị tất hà sơn thị ngã tống Kim Thánh Thán: thử tượng hữu nhất Thạch tính hoặc Lưu tính nhất thống trung nguyên, hữu nhất tính nhữ giả mưu soán đoạt chi, hạnh hữu đại thần tẫn trung vương thất*, giới cẩn dịch lệ, nhất thiết ngoại vũ bất diệt tự diệt, tuy loạn nhi diệc trì dã Lược dịch: Sấm viết: sợ phép tắc pháp luật (nên) sinh ra phòng bị, chẳng xa chớ (nên) đến, ven (bờ) nước có (con) gái, đối (diện) mặt trời (mà) lạy. Tụng viết: (cho dầu có cầu) mong (hay là mong ước) thần (thánh) (rồi) sau (cũng) chẳng (có) tác dụng (hay công dụng gì cả), tâm nhỏ (hoặc là: lòng khinh thường, tâm hẹp hòi mà ôm ấp) che chở (cho) bầy tôi mọi người, (vì) tiết nghĩa (nên) chuyển nguy làm (nên) yên ổn, chưa hẳn (là) sông núi (đã) ấy đưa (tới) (hay là trở về) cho ta. Kim Thánh Thán: tượng này có một danh tánh họ Lưu hoặc là họ Thạch (tập) hợp lại (được) ở giữa (nước, quốc gia), (rồi) có một tên (người khác) người ấy mưu mô soán đoạt (tranh dành quyền lực), may (mắn là) có đại thần hết lòng trung (thành với) nhà vua, đề phòng cẩn thận (cố) gắng (hết) sức, hết thẩy (sự) khinh thường (lấn áp) bên ngoài không tan rã (cũng bị) tự tan mất, tuy loạn mà lại (vẫn được cai) trị (họ Lưu hay họ Thạch ngồi lại được, tại chức không bị truất phế). Đồ hình này là để tiếp diễn đồ hình 54 “thử tượng hữu thật khứ danh tồn chi triệu, hoặc vi chu mạt 末 thì, hào lệnh bất hành”. Một bản Thôi Bối đồ khác bổ xung những chữ bị mất. sấm viết: lỗi lỗi lạc lạc, tàn kì nhất cục, trác tức cẩu an, tuy tiếu diệc khốc. tụng viết:bất phân ngưu thử dữ ngưu dương, khứ mao tồn (cách 革 – thượng hưởng 尚饗) xưng cường, hoàn trung tự hữu chân long xuất, cửu khúc Hoàng Hà thủy bất hoàng Tạm dịch: Sấm viết: tài cán hơn người, cờ tàn một cuộc, trác tức (than thở, thở ngắn thở dài từng cơn, thở phào ra …) tạm yên, tuy cười lại khóc. Tụng viết: Chẳng chia ra trâu (với) chuột cùng với (hay là) trâu (với) dê, nhổ (bỏ, vặt) lông còn? (cách 革: da, đổi, bỏ) hoặc là (hưởng 享: hưởng thụ, dâng lên, thết đãi) – thượng hưởng 尚饗(ngõ hầu mới được hưởng mà) xưng (là) mạnh (cường quốc), trong cõi giữa tự có chân long (thánh quân) xuất hiện, chín khúc hoàng hà nước chẳng vàng. “lỗi lỗi lạc lạc, tàn kì nhất cục, trác tức (thở phào ra) cẩu an (tạm yên), tuy tiếu diệc khốc”. 56 第五六象 己未 坤下坎上 比 谶曰: 飞者非鸟 潜者非鱼 战不在兵 造化游戏 颂曰: 海疆万里尽云烟 上迄云霄下及泉 金母木公工幻弄 干戈未接祸连天 金圣叹:「此象军用火,即乱不在兵之意。颂云,海疆万里,则战争之烈,不仅在於中国 也。 Đệ ngũ lục tượng: Kỷ vị Khôn hạ Khảm thượng Bỉ Sấm viết: phi giả phi điểu, tiềm giả phi ngư, chiến bất tại binh, tạo hóa du hí Tụng viết: hải cương vạn lí tẫn vân yên, thượng hất vân tiêu hạ cập tuyền, kim mẫu mộc công công huyễn lộng, kiền (can) qua vị tiếp họa liên thiên Kim Thánh Thán: thử tượng quân dụng hỏa, tức loạn bất tại binh chi ý, tụng vân, hải cương vạn lí, tắc chiến tranh chi liệt , bất cận tại vu Trung Quốc dã Tạm dịch: Sấm viết: cái đó (ấy) bay (được mà) chẳng phải (là con) chim (hoả tiễn, phi tiễn, phi cơ …), cái đó (ấy) ngầm ẩn dấu (bơi lặn được trong nước mà) chẳng phải (là con) cá (tầu ngầm, thuỷ ngư …) chiến tranh chẳng ở tại binh (lính), tạo hoá (trời đất) rong chơi đùa giỡn. Tụng viết: (từ) vạn dặm bờ (cõi trên) biển hết thẩy (tất cả đều) đầy khói lửa mù mịt, (từ) khoảng mây cao trên trời (cho) đến (tận) dưới suối nguồn (trong rừng) (khói lửa mù mịt từ trên trời dưới biển cho đến ở sâu trong rừng), cha gỗ mẹ sắt khéo làm nên sự huyễn lộng (khoa học kỹ thuật đã đến trình độ vô cùng tối tân hiện đại, làm ra những điều tưởng giả mà lại như thật, cứ như tưởng đùa mà hoá ra là thật). Kim Thánh Thán: hình tượng này là quân lính dùng lửa (vũ khí), ý tức là loạn (giặc giã) không ở tại binh lính (đánh nhau không dùng đến binh lính cận chiến), ca tụng rằng: vạn dặm ngoài biển (biên giới, hải giới), chiến tranh thời rất ác liệt (dữ dội), chẳng (đánh cận chiến) ở tại (trên đất) Trung Quốc vậy. (chiến tranh xẩy ra bằng vũ khí hiện đại, từ nơi ở xa đánh tới, dùng phi cơ, phi tiễn, tầu ngầm, tầu chiến… để đánh vào trận địa chiến trên đất nước Trung Quốc, chứ không dùng binh lính để đánh cận chiến vào nước Trung Quốc) . 57 第五七象 庚申 兑下兑上 兑 谶曰: 物极必反 以毒制毒 三尺童子 四夷讋服 颂曰: 坎离相克见天倪 天使斯人弭杀机 不信奇才产吴越 重洋从此戢兵师 金圣叹:「此象言吴越之间有一童子,能出奇制胜,将燎原之火扑灭净尽,而厄运自此终矣,又一治也 Đệ ngũ thất tượng: Canh Thân Đoái hạ Đoái thượng Đoái Sấm viết: vật cực tất phản, dĩ độc chế độc, tam xích đồng tử, tứ di triệp phục Tụng viết: Khảm Li tương khắc kiến thiên nghê, thiên sử tư nhân nhị sát ky, bất tín kì tài sản Ngô Việt, trọng dương tòng thử tập binh sư Kim Thánh Thán: thử tượng ngôn Ngô Việt chi gian hữu nhất đồng tử, năng xuất kì chế thắng, tương liệu nguyên chi hỏa phác diệt tịnh tẫn, nhi ách vận tự thử chung hĩ, hựu nhất trì dã Tạm dịch Sấm viết: sự vật đến cùng cực ắt hẳn (sẽ phải) trở về (trả lại như trước đây), dùng độc (độc kế, cách thức đặc biệt kì lạ) để chế ngự ác độc, đứa trẻ (cao) ba thước (chữ xích 赤 còn có nghĩa là sắc đỏ, phương Nam), bốn bên sợ (mà) bội phục. Tụng viết: Trong cõi bầu trời bé nhỏ (lẽ của tự nhiên) thấy rõ là Li Khảm (nước lửa) khắc lẫn nhau, trời sai khiến Người ấy (Thánh nhân xuống để) khéo léo (làm cho) ngừng thôi (không còn) đánh giết (lẫn nhau nữa), chẳng (thể) tin (được là Người có) tài năng kì lạ (lại) sinh ra ở (nơi đất) Ngô – Việt, (vì) tôn trọng (đức độ của Thánh nhân to lớn) mênh mông (như biển cả cho nên các nơi) tuân theo bèn lui binh lính cất buông vũ khí. Kim Thánh Thán: cảnh tượng này nói ở trong khoảng (đất nước của) Ngô – Việt có một người con trai, có tài năng kì lạ làm ra được (bãi binh, buông vũ khí), coi như là nguồn gốc của lửa bốc cháy (chiến tranh) (được dập tắt) tan mất (các nơi) hoàn toàn tĩnh lặng (được thanh bình), thời vận khốn ách khổ sở bèn tự nhiên mà kết thúc vậy, lại cùng (nhau) sửa chữa (xây dựng lại đất nước). Chú thích: Nước Ngô – Việt: Các nước Việt nho nhỏ ở Hán Đông tan rã, nhưng lại nổi lên hai nước cùng dòng tộc Việt khác rất nổi tiếng thời Đông Châu cũng gọi là thời Xuân Thu hay Chiến Quốc, đó là nước Ngô và nước Việt. Nước Ngô ở vào tỉnh Giang Tô ngày nay. Vua nước Ngô lúc đó là Thọ Mông. Một phản tướng của nước Sở là Khuất Vu chạy trốn qua nước Tấn nên tộc đảng bị vua Sở đem chém hết. Khuất Vu tức giận, đổi tên là Vu Thần, bày mưu cho vua nước Tấn là Tấn Cảnh Công sang giao hiếu với nước Ngô, dạy cho nước Ngô về binh pháp, chế tạo vũ khí để mượn tay nước Ngô đánh phá nước Sở. Vu Thần lại cho con là Hồ Dung sang làm quan ở nước Ngô. Từ đó nước Ngô hùng mạnh lên, chiếm các nước Việt Hán Đông của nước Sở. Nước Ngô nổi tiếng về tài đúc kiếm. Thanh kiếm Can Tương và Mạc Gia rất nổi tiếng được sử Tàu nói đến nhiều. Vì có tài luyện kim, đúc kiếm, chế tạo vũ khí nên kho vũ khí rất dồi dào. Nước Ngô lại được phản tướng nước Sở là Ngũ Viên tự là Ngũ Tử Tư sang đầu, rèn luyện quân binh rất hùng mạnh. Nước Ngô lại được thêm Tôn Vũ là người Việt nước Ngô. Tôn Vũ là một chiến lược gia, viết bộ Binh Thư, thường được biết dưới tên “Tôn Ngô Binh Pháp” nổi tiếng cho đến ngày nay các nhà quân sự vẫn còn áp dụng. Có thể nói nước Ngô là nước mạnh nhất thời đó. Ngũ Tử Tư vì muốn báo thù vua Sở nên xúi vua Ngô đánh nước Sở. Vua Ngô là Hạp Lư đem quân đánh Sở, vào chiếm kinh đô nước Sở là Dĩnh Đô, vua Sở phải bỏ chạy. Vua Ngô Hạp Lư lập con vua Sở là công tử Thắng làm vua rồi rút quân về. Con Hạp Lư là Phù Sai nối ngôi làm vua nước Ngô, thế lực bao trùm cả các nước chư hầu nhà Châu. Ngô Phù Sai triệu tập các nước chư hầu nhà Châu để xưng Bá thay cho nước Tấn. Đây là lần đầu tiên một nước Việt tộc đã làm bá chủ các nước Hoa tộc và sau đó một nước Việt tộc khác là U Việt của Câu Tiển lên làm bá chủ thay Phù Sai. Phía dưới nước Ngô, có nước Việt tức U Việt, nay là tỉnh Chiết Giang. Vua nước Việt là Dõan Thường chăm lo sửa sang triều chính, dùng người hiền lương, thương mến dân nên nước mỗi ngày mỗi cường thịnh. Vua nước Ngô là Dư Sái thấy thế đâm lo lắng sai tướng sang đánh nước Việt, bắt được tướng Việt là Tôn Nhân đem về chặt chân sai giữ thuyền vua. Một hôm Dư Sái ngự chơi thuyền, uống rượu say rồi ngủ quên. Tôn Nhân cởi thanh gươm của Dư Sái, đâm Dư Sái chết. Bọn nội thị xúm lại giết Tôn Nhân. Từ đó giữa nước Ngô và nước Việt có mối thù khiến hai nước cùng chung dòng giống Việt này gây chiến muốn tiêu diệt lẫn nhau. Nước Việt cũng rất giỏi nghề luyện kim đúc kiếm, đúc đồng pha. Tương truyền vua nước Việt có 5 thanh kiếm quý do kiếm sư Âu Gia Tử luyện ra. Vua Ngô là Thọ Mông nghe tiếng muốn lấy nên vua Việt phải dâng 3 thanh kiếm, đó là các thanh Ngư Trường, Ban Dĩnh và Trạm Lư. 58 第五八象 辛酉 坎下兑上 困 谶曰: 大乱平 四夷服 称兄弟 六七国 颂曰: 烽烟净尽海无波 称王称帝又统和 犹有煞星隐西北 未能遍唱太平歌 金圣叹:「此象有四夷来王,海不扬波之兆。惜乎西北一隅尚未平靖,犹有遗憾,又一治 也 Đệ ngũ bát tượng: Tân Dậu Khảm hạ Đoái thượng Khốn Sấm viết: đại loạn bình, tứ di phục, xưng huynh đệ, lục thất quốc Tụng viết: phong yên tịnh tẫn hải vô ba, xưng vương xưng đế hựu thống hòa, do hữu sát tinh ẩn Tây Bắc, vị năng biến xướng thái bình ca Kim Thánh Thán: thử tượng hữu tứ di lai vương, hải bất dương ba chi triệu, tích hồ Tây Bắc nhất ngung thượng vị bình tĩnh, do hữu di hám, hựu nhất trì dã Tạm dịch Sấm viết: loạn lớn được yên bình, bốn bên vui lòng nghe theo, cùng nhau xưng danh là anh em, (Trung Hoa chia ra làm) sáu bẩy nước (Mãn, Mông, Hồi, Tạng, Hán ….). Tụng viết: biển lặng sóng khói lửa tan mất, hết thẩy (mọi nơi) đều được yên tĩnh, (các nước tự) xưng danh vua chúa (Mãn, Mông, Hồi, Tạng, Hán … chia ra tự lập nền chính trị riêng) tất cả lại cùng nhau (sống) hoà thuận, bởi vì sát tinh lui ẩn về phương Tây Bắc, khắp nơi ca hát bài ca thái bình. Kim Thánh Thán: tượng này lại có bốn bên làm vua, có điềm báo biển cả chẳng còn nổi lên sóng dữ, tiếc là đất ngoài nơi phương Bắc còn chưa được bằng phẳng yên tĩnh, còn có sự hối tiếc, lại phải sửa trị một lần nữa vậy. 59 第五九象 壬戍 艮下兑上 咸 谶曰: 无城无府 无尔无我 天下一家 治臻大化 颂曰: 一人为大世界福 手执签筒拔去竹 红黄黑白不分明 东南西北尽和睦 金圣叹:「此乃大同之象,人生其际,饮和食德,当不知若何愉快也。惜乎其数已终,其或反本归原,还於混噩欤。」〈此象乃说是天下大同,地球上再无国家与政府。人种经大混种,使肤色混同,世上再无不同肤色之种族 Đệ ngũ cửu tượng: Nhâm thú Cấn hạ Đoái thượng Hàm Sấm viết: vô thành vô phủ, vô nhĩ vô ngã, thiên hạ nhất gia, trì trăn đại hóa Tụng viết: nhất nhân vi đại thế giới phúc, thủ chấp thiêm đồng bạt khứ trúc, hồng hoàng hắc bạch bất phân minh, Đông Nam Tây Bắc tẫn hòa mục. Kim Thánh Thán: thử nãi đại đồng chi tượng, nhân sanh kì tế, ẩm hòa thực đức, đương bất tri nhược hà du khoái dã, tích hồ kì sổ dĩ chung, kì hoặc phản bổn quy nguyên, hoàn vu hỗn ngạc dư, thử tượng nãi thuyết thị thiên hạ đại đồng, địa cầu thượng tái vô quốc gia dữ chánh phủ, nhân chủng kinh đại hỗn chủng, sử phu sắc hỗn đồng, thế thượng tái vô bất đồng phu sắc chi chủng tộc Tạm dịch Sấm viết: không còn thành trì, không còn quan phủ (ẩn nghĩa là không còn chất chứa oán hận nhau nữa), không (cái này) là của anh hay của tôi, trên dưới một nhà (thế giới đại đồng), sửa chữa trừng trị (những điều sai trái) (tự) cảm hoá to lớn (ở bên trong mọi người). Tụng viết: một người (mà) làm cho thế giới to lớn này được hướng phúc, nắm tay nhau cùng ký kết (hoà ước, thoả thuận, tương trợ …), (mọi sắc tộc) da đỏ vàng đen trắng chẳng chia rẽ (không còn kì thị sắc tộc nữa), Đông Nam Tây Bắc (các châu lục Á, Âu, Phi, Mỹ, Úc) hết lòng sống cùng nhau hoà thuận thân tín kính trọng lẫn nhau. Kim Thánh Thán: tượng này là hình tượng hoà vui cùng nhau, mọi người cùng sống giao tiếp với nhau (hoà ái), ăn uống thuận hoà cùng (sống) nhau đức độ (không tranh giành quyền lợi), đang (ở trong thời này) chẳng biết được sao (những người ở trong thời đó) lại được hưởng vui vẻ sung sướng (đến) như vậy ?, tiếc vậy (tiếc quá) đã hết số rồi, lại ngờ (rằng) phản bản (thể) (để) quay trở về nguồn gốc (cũ), trở lại ở (thời) (mà trời đất còn) hỗn độn (chưa phân chia ra) thật đáng là kinh ngạc vậy thay !. Tượng này nói rằng thiên hạ đại đồng, trên trái dất (này) lại (trở về thời mà) chẳng có quốc gia cùng chánh phủ (cai trị) (giống như ở trên niết bàn, thiên đường hay thiên giới vậy), con người trải qua (thời kì) đại hỗn tạp chủng tộc, khiến cho mọi mầu da sắc tộc cùng hỗn hợp đồng nhất với nhau, trên thế gian này lại trở về (thời kì nguyên thuỷ) (chẳng còn phân biệt) màu da sắc tộc (với nhau nữa). 60 第六十象 癸亥 坤下兑上 萃 谶曰: 一阴一阳 无始无终 终者自终 始者自始 颂曰: 茫茫天数此中求 世道兴衰不自由 万万千千说不尽 不如推背去归休 金圣叹:「一人在前,一人在後,有往无来,无独有偶,以此殿图,其寓意至深远焉。无象之象胜於有象。我以不解解之,著者有知当亦许可。」 Đệ lục thập tượng: Quý Hợi Khôn hạ Đoái thượng Tụy Sấm viết: nhất âm nhất dương, vô thủy vô chung, chung giả tự chung, thủy giả tự thủy Tụng viết: mang mang thiên sổ thử trung cầu, thế đạo hưng suy bất tự do, vạn vạn thiên thiên thuyết bất tẫn, bất như thôi bối khứ quy hưu Kim Thánh Thán: nhất nhân tại tiền, nhất nhân tại hậu, hữu vãng vô lai, vô độc hữu ngẫu, dĩ thử điện đồ, kì ngụ ý chí thâm viễn yên, vô tượng chi tượng thắng vu hữu tượng, ngã dĩ bất giải giải chi, trứ giả hữu tri đương diệc hứa khả. Tạm dịch Sấm viết: một âm một dương, chẳng trước không sau, sau lại tự nhiên sau, trước lại tự nhiên trước. Tụng viết: số (vận của) trời (thật là) mênh mông ấy thế (mà lại) tìm (trở về) sự quân bình, đạo lí của (trần) thế thịnh suy chẳng bởi tự nhiên do (mình làm ra) (mà là đạo lí của trời đất tự nhiên là như vậy), muôn ngàn lời nói chẳng (diễn tả) ra được hết, chẳng bằng (như) thôi bối (đẩy vai nhau) đi (rồi) về (lại) nghỉ ngơi. Kim Thánh Thán: một người đàng trước một người sau, có đi chẳng lại, chẳng đơn có đôi, lấy thế (làm thành) đồ hình, lại ngụ ý rất thâm sâu xa vậy, chẳng tượng hình (mà lại) thành ra hình tượng, có được ở nơi hình tượng, ta chẳng thể giải thích (được hết thấu đáo) vậy, (Thôi Bối Đồ) trứ danh (như vậy) ấy thế (mà) (người) đang (thời) có biết (đến thì cũng chỉ nói) … ừ (cũng tạm) được !!! 61 第六十一象 歲星逆行讖曰: 歲星逆行 諸事不吉 一二九六 換課為宜 頌曰: Đệ lục thập nhất tượng Tuế tinh nghịch hành Sấm viết: Tuế tinh nghịch hành, chư sự bất cát, nhất nhị cửu lục, hoán khóa vi nghi (Tuế tinh “sao Thái Tuế – Mộc tinh” đi ngược, mọi việc chẳng tốt, một hai chín sáu, quẻ thay đổi nên mới gây ra như vậy – )
-
@Hoangnt Người mẹ và lũ điếm thối cùng những chuyện khủ khiếp là các đối tương riêng rẽ khác nhau. Cũng như bà mẹ của thằng ăn cướp thì bà mẹ đó không có tội. Thằng ăn cướp có tội vì đi ăn cướp. Bà không tham gia hay đã chết rồi thì làm sao có tội? Bà mẹ vĩ đại huyền thoại Babylon đã quy tiên rồi, nhưng còn lại những đứa con, không may là chúng trở thành lũ điếm thối và gây ra bao chuyện khủng khiếp. Thiên Đồng
-
Cóc đã được sự tư vấn của SP Thiên Sứ thì đã là rất quý, lại thêm các đệ muội Vusonganh, Tuấn Dương, Tuyết Minh, Phạm Hùng hổ trợ nữa. Cho nên Cóc cứ lóc cóc mà mần. Nhưng mà phong thủy như con người, người rụng răng mà xài răng giả thì ăn cũng được nhưng gặp phải món ngon hơi dai hơi cứng thì đôi khi cũng phiền hoặc tiếc chút vậy thôi. Giải pháp tình thế phong thủy đôi khi cũng như cái hàm răng giả vậy à. Thiên Đồng
-
Ồn! Vốn dĩ sinh ra chằng dại khôn Làm sao chớ dại với chớ khôn Khôn được ích mình đi đôi dại Dại hèn giữ mạng cũng bằng khôn Nhiễm hiểm đáng chi câu khôn dại? Dại hiền chưa hẳn ấy là khôn Như một, cậy khôn hay cậy dại Bàn khôn bàn dại nát thần hồn Thiên Đồng
-
@ Cóc Tại sao phải xây? Bị cái gì mà xây cái gì? TD
-
Hướng nhà và hướng bếp nhất thiết phải trùng nhau thì khỏi cần tư vấn phong thùy. Cứ thế mà đặt. Thắc mắc chi thêm phiền? Nữ 1954 thì quay hướng đông nam hợp, nam 1954 thì Tây Nam rất hợp. Đây là theo Bát trạch của Phong thủy Lạc Việt. Mến Thiên Đồng
-
45 第四五象 戊申 坎下艮上 蒙 谶曰: 有客西来 至东而止 木火金水 洗此大耻 颂曰: 炎运宏开世界同 金乌隐匿白洋中 从此不敢称雄长 兵气全消运已终 金圣叹:「此象于太平之世复见兵戎,当在海洋之上,自此之後,更臻盛世矣。」 Đệ tứ ngũ tượng: Mậu Thân Khảm hạ Cấn thượng Mông Sấm viết: hữu khách tây lai, chí đông nhi chỉ, mộc hỏa kim thủy, tẩy thử đại sỉ Tụng viết: viêm vận hoành khai thế giới đồng, kim ô ẩn nặc bạch dương trung, tòng thử bất cảm xưng hùng trường, binh khí toàn tiêu vận dĩ chung Kim Thánh Thán: thử tượng vu thái bình chi thế phục kiến binh nhung, đương tại hải dương chi thượng, tự thử chi hậu, canh trăn thịnh thế hĩ. Lược dịch: Sấm viết: Có khách đến từ hướng Tây, ở tận cùng phía Đông, mộc hoả kim thuỷ, ấy thời nhẵn nhụi sạch sẽ (hết cái) nhục lớn. Tụng viết: vận số to lớn mở ra ở phương Nam thế giới cùng nhau, mặt trời ẩn trốn ở bên trong biển trắng, đi theo vậy mà chẳng dám xứng đáng là tài giỏi khoẻ mạnh, binh khí tan rã xong hết vận số kết thúc. Kim Thánh Thán: tượng này là thời thái bình (đi qua lại thấy) trở lại áo giáp binh khí, đang ở tại trên biển (căng thẳng eo biển Trung Hoa – Đài Loan ?), bởi vì là sau đó, thay đổi là thời thịnh vượng (Trung Hoa tăng cường quân sự). 46 第四六象 己酉 坎下巽上 涣 谶曰: 黯黯阴霾 杀不用刀 万人不死 一人难逃 颂曰: 有一军人身带弓 只言我是白头翁 东边门 伏金剑 勇士後门入帝宫 金圣叹:「此象疑君王昏 ,一勇士仗义兴兵为民请命,故曰万人不死一人难逃 Đệ tứ lục tượng: Kỷ Dậu Khảm hạ Tốn thượng Hoán Sấm viết: ảm ảm âm mai, sát bất dụng đao, vạn nhân bất tử, nhất nhân nan đào Tụng viết: hữu nhất quân nhân thân đái cung, chích ngôn ngã thị bạch đầu ông, đông biên môn, phục kim kiếm, dũng sĩ hậu môn nhập đế cung Kim Thánh Thán: thử tượng nghi quân vương hôn, nhất dũng sĩ trượng nghĩa hưng binh, vi dân thỉnh mệnh, cố viết vạn nhân bất tử nhất nhân nan đào. Lược dịch: Sấm viết: Đen tối ảm đạm mịt mù, giết chết mà chẳng dùng đến gươm đao, muôn người chẳng chết, một người cũng khó mà trốn được. Tụng viết: Có một người lính đeo cung tên trên người, chỉ nói ta là ông đầu bạc, bên ngoài cửa phía Đông, dấu gươm sắt, dũng sĩ ở cửa sau vào cung điện của nhà vua. Kim Thánh Thán: tượng này nghi ngờ là quân vương hôn ám tối tăm, một dũng sĩ vì nghĩa khí động binh lính, vì dân mà truyền lệnh, cớ sao lại viết rằng muôn người chẳng chết một người cũng khó mà trốn chạy được ?. 47 第四七象 庚戍 坎下乾上 讼 谶曰: 偃武修文 紫薇星明 匹夫有责 一言为君 颂曰: 无王无帝定乾坤 来自田间第一人 好把旧书多读到 义言一出见英明 金圣叹:「此象有贤君下士,豪杰来归之兆,盖辅助得人,而帝不居德,王不居功,蒸蒸然有无为而治之盛。此一治也 Đệ tứ thất tượng: Canh thú Khảm hạ Kiền thượng Sấm viết: yển vũ tu văn, tử vi tinh minh, thất phu hữu trách, nhất ngôn vi quân Tụng viết: vô vương vô đế định Kiền Khôn, lai tự điền gian đệ nhất nhân, hảo bả cựu thư đa độc đáo, nghĩa ngôn nhất xuất kiến anh minh. Kim Thánh Thán: thử tượng hữu hiền quân hạ sĩ, hào kiệt lai quy chi triệu, cái phụ trợ đắc nhân, nhi đế bất cư đức, vương bất cư công, chưng chưng nhiên hữu vô vi nhi trì chi thịnh, thử nhất trì dã. Nghỉ. Như yển vũ tu văn 偃武修文 nghỉ việc võ sửa việc văn. Lược dịch: Sấm viết: nghỉ việc võ sửa trị việc văn, sao Tử Vi sáng sủa, người đàn ông có trách nhiệm gánh nhận, một lời làm vua. Tụng viết: Không vua chúa chẳng đế vương xếp đặt Kiền Khôn (Trời Đất), đến từ đồng ruộng (là) người hạng nhất, yêu thích giữ lấy sách cũ nhiều độc đáo, ý nghĩa lời nói ra thấy thật là sáng suốt. Kim Thánh Thán: tượng này có vua hiền tôi giỏi ở bên dưới, là điềm hào kiệt quay trở về, được người che chở phò trợ, vậy mà vua chẳng ở đức độ, vì sao vương hầu chẳng (vì) việc công, một lũ một bọn như thế làm sao có được thịnh vượng ?, ấy vậy cần phải sửa trị vậy. 48 第四八象 辛亥 离下乾上 同人 谶曰: 卯午之间 厥象维离 八牛牵动 雍雍熙熙 颂曰: 水火既济人民吉 手持金戈不杀贼 五十年中一将臣 青青草自田间出 金圣叹:「此象疑一朱姓与一苗姓争朝纲,而朱姓有以德服人之化,龙蛇相斗,想在辰巳之年,其建都或在南方 Đệ tứ bát tượng: Tân Hợi Li hạ Kiền thượng Đồng Nhân Sấm viết: Mão Ngọ chi gian, quyết tượng duy li, bát ngưu khiên động, ung ung hi hi Tụng viết: Thủy Hỏa Kí Tể nhân dân cát, thủ trì kim qua bất sát tặc, ngũ thập niên trung nhất tương thần, thanh thanh thảo tự điền gian xuất Kim Thánh Thán: thử tượng nghi nhất chu tính dữ nhất miêu tính tranh triêu cương, nhi chu tính hữu dĩ đức phục nhân chi hóa, long xà tương đấu, tưởng tại thần Tị chi niên, kì kiến đô hoặc tại Nam phương. Lược dịch: Sấm viết: vào khoảng Mão Ngọ, hiện trạng khởi lên ràng buộc bám dính lấy, co kéo tám trâu, hoà hợp vui vẻ. Tụng viết: Thủy Hỏa Kí Tể nhân dân tốt, tay cầm nắm vũ khí chẳng giết giặc, trong năm mươi năm rồi sẽ có một bày tôi, cỏ cây sinh ra xanh ngát một khoảng ruộng. Kim Thánh Thán: tượng này ngờ rằng một người họ Chu là một mầm mống tranh giành trong triều cương, vậy mà họ Chu có đức độ cảm phục được lòng người, rồng rắn đánh nhau, nhớ lại ở năm Tị, dựng lên kinh đô hoặc ở phương Nam. 49 第四九象 壬子 坤下坤上 坤 谶曰: 山谷少人口 欲剿失其巢 帝王称弟兄 纷纷是英豪 颂曰: 一个或人口内啼 分南分北分东西 六爻占尽文明见 棋布星罗日月 金圣叹:「久分必合,久合必分,理数然也,然有文明之象,当不如割据者之纷扰也 Đệ tứ cửu tượng: Nhâm tử Khôn hạ Khôn thượng Khôn Sấm viết: sơn cốc thiểu nhân khẩu, dục tiễu thất kì sào, đế vương xưng đệ huynh, phân phân thị anh hào. Tụng viết: nhất cá hoặc nhân khẩu nội đề, phân Nam phân Bắc phân Đông Tây, lục hào chiêm tẫn văn minh kiến, kì bố tinh la Nhật Nguyệt Kim Thánh Thán: cửu phân tất hợp, cửu hợp tất phân, lí sổ nhiên dã, nhiên hữu văn minh chi tượng, đương bất như cát cư giả chi phân nhiễu dã Tạm dịch: Sấm viết: hang núi ít người, tham muốn ăn hớt mất luôn cả tổ chim (tham quá bắt lấy cả tổ chim làm tuyệt giống), đế vương xưng anh em (mỗi địa phương là một ông vua con), rối bời anh hùng hào kiệt (người nào cũng tự xưng là tài giỏi). Tụng viết: một cái (gì đó) hoặc một ngừơi kêu khóc ở bên trong (lòng dân đau xót uất hận ở bên trong), chia Nam chia Bắc chia Đông Tây (chia rẽ trầm trọng), xem (bói) hết thảy cả sáu hào thấy được nền văn minh (mới ló rạng), la liệt cờ vải trăng sao mặt trời. Kim Thánh Thán: chia ra lâu ắt hẳn (có ngày) hợp lại, hợp lâu (rồi) ắt hẳn (có ngày sẽ phải) phân chia ra, lí số tự nhiên (nó là) như vậy (đấy), hiện tượng này (phân chia ra, cửu hợp tất phân …) có như thế (mới) là sự văn minh, cảnh huống (hiện nay) đang chẳng phải là tốt, cái ấy (hiện tượng ấy, cát cứ địa phương), (hiện nay) là ngổn ngang rối loạn nhũng nhiễu. 50 第五十象 癸丑 震下坤上 复 谶曰: 水火相战 时穷则变 贞下起元 兽贵人贱 颂曰: 虎头人遇虎头年 白米盈仓不值钱 豺狼结队街中走 拨尽风云始见天 金圣叹:「此象遇寅年遭大乱,君昏臣暴,下民无生息之日,又一乱也 Đệ ngũ thập tượng: Quý Sửu Chấn hạ Khôn thượng Phục Sấm viết: Thủy Hỏa tương chiến, thì cùng tắc biến, trinh hạ khởi nguyên, thú quý nhân tiện Tụng viết: hổ đầu nhân ngộ hổ đầu niên, bạch mễ doanh thương bất trị tiễn, sài lang kết đội nhai trung tẩu, bát tẫn phong vân thủy kiến thiên Kim Thánh Thán: thử tượng ngộ Dần niên tao đại loạn, quân hôn thần bạo, hạ dân vô sanh tức chi nhật, hựu nhất loạn dã Lược dịch: Sấm viết: nước lửa đánh nhau, thời (đã tới lúc) cùng cực ắt sẽ biến dạng, dưới chính đính mới đầu khởi lên, loài cầm thú thì quỳ loài người thì hèn mọn. Tụng viết: người đầu hổ gặp đầu năm hổ, gạo trắng đầy bao chẳng cầm nắm được tiền, loài lang sói kết thành bầy chạy giữa bốn bên (nơi nào cũng thấy loài lang sói), gió mây (làm u ám) hết sạch mới thấy được trời xanh. Kim Thánh Thán: tượng hình này năm Dần gặp nạn lớn, vua hôn ám bầy tôi tàn bạo, dân ở dưới hàng ngày sống khó thở (bị áp bức uất ức nghẹn ngào đến khó thở), lại sẽ có một sự rối loạn (trong xã hội) vậy. 51 第五一象 甲寅 兑下坤上 临 谶曰: 阴阳和 化以正 坤顺而感 後见尧舜 颂曰: 谁云女子尚刚强 坤德居然感四方 重见中天新气象 卜年一六寿而康 金圣叹:「此象乃明君得贤后之助,化行国内,重见升平,又一治也。卜年一六,或在位七十年 Đệ ngũ nhất tượng: Giáp Dần Đoái hạ Khôn thượng Lâm Sấm viết: âm dương hòa, hóa dĩ chánh, khôn thuận nhi cảm, hậu kiến Nghiêu Thuấn Tụng viết: thùy vân nữ tử thượng cương cường, khôn đức cư nhiên cảm tứ phương, trọng kiến trung thiên tân khí tượng, bặc niên nhất lục thọ nhi khang. Kim Thánh Thán: thử tượng nãi minh quân đắc hiền hậu chi trợ, hóa hành quốc nội, trọng kiến thăng bình, hựu nhất trì dã, bặc niên nhất lục, hoặc tại vị thất thập niên Lược ldịch: Sấm viết: Âm Dương hoà, biến hoá thành chánh đáng, nhu thuận mà cảm hoá, sau thấy được vua Nghiêu Thuấn. Tụng viết: rằng ai là người đàn bà con còn cứng rắn mạnh mẽ, đức của nhu hoà như thế cảm thông được bốn phương, hình tượng mới được xem trọng giữa bầu trời, bói thử yên được lâu trong một sáu năm. Kim Thánh Thán: tượng hình này là vua hiền được vợ giỏi trợ giúp, thi hành chuyển hoá trong nước, coi trọng sự công bằng, lại có một sự sửa chữa vậy, bói thử một sáu năm, hoặc là ở địa vị bẩy mươi năm.
-
Phát hiện mới về khả năng “tiên tri” 03/03/2012 3:39 Nghiên cứu mới cho thấy, những người càng tin vào cảm giác của mình thì càng dự đoán chính xác các sự kiện xảy ra trong tương lai. Đó là nội dung báo cáo đăng trên chuyên san Journal of Consumer Research, do một nhóm chuyên gia Mỹ thực hiện, cho rằng những người tin vào cảm giác của mình có thể liên tục dự đoán những sự kiện trong tương lai chính xác hơn những người không tin vào cảm giác của mình, một phát hiện được gọi là hiệu ứng tiên tri cảm xúc. Phát hiện này được dựa trên 8 nghiên cứu, trong đó những người tham gia được yêu cầu dự đoán nhiều kết quả khác nhau trong tương lai, từ bầu cử tổng thống Mỹ, sự thành công của nhiều bộ phim, cuộc thi American Idol, những biến động của chỉ số Dow Jones, người chiến thắng giải vô địch bóng bầu dục dành cho các trường đại học và thậm chí cả thời tiết Bất kể phương pháp được sử dụng để nghiên cứu là gì, các chuyên gia thuộc Trường kinh doanh Columbia và Đại học Pittsburgh (Mỹ) đều nhận thấy những người tin tưởng vào cảm giác của mình dự đoán chính xác hơn so với nhóm còn lại. Các nhà nghiên cứu giải thích kết quả này thông qua giả thuyết “cửa sổ đặc quyền”. Ông Michel Tuấn Phạm, giáo sư Trường kinh doanh Columbia và là thành viên của nhóm nghiên cứu, giải thích: Khi dựa vào cảm giác của mình, chúng ta đã tóm lược tất cả các kiến thức, thông tin thu thập được một cách có ý thức và vô thức về thế giới xung quanh. “Theo nghĩa nào đó, cảm giác giúp chúng ta tiếp cận được cửa sổ đặc quyền về kiến thức và thông tin. Đó là cửa sổ mà sự lý luận, phân tích sẽ ngăn chúng ta hình thành nó”. Theo giả thuyết cửa sổ đặc quyền, các nhà nghiên cứu lưu ý rằng dường như người tham gia thử nghiệm cần có một số kiến thức liên quan để có thể dự đoán chính xác hơn về tương lai. Chẳng hạn, trong một nghiên cứu, những người tham gia được yêu cầu dự đoán thời tiết. Tuy những người tin vào cảm giác của mình cũng đưa ra dự đoán tốt hơn về thời tiết nhưng họ chỉ có thể làm như vậy trong nơi sinh sống của mình. Giáo sư Leonard Lee giải thích điều này là do họ “không có nền tảng kiến thức giúp thực hiện những dự đoán”. Một ví dụ khác, chỉ những người tham gia có kiến thức nền tảng về mùa bóng bầu dục hiện tại và tin vào cảm giác của mình mới dự đoán chính xác người thắng cuộc tại Giải bóng bầu dục quốc gia dành cho các trường đại học của Mỹ (BCS). Khang Huy ===================================== Các phương pháp cổ xưa của Lý học đông phương đã đề cập đến vấn đề này từ...ngày xửa ngày xưa, gọi chính xác là cảm ứng tiên tri. Nhưng cảm ứng tiên tri này không phải như trò chơi xác suất hay cảm ứng vu vơ, phong long mà đi kèm theo đó là nhiều phương pháp khác nhau làm cơ sở cho khả năng luận đoán để đưa ra lời tiên tri, trong đó Lạc Việt Độn Toán là một ví dụ. chuyên san Journal of Consumer Research nên chịu khó vào sinh hoạt ở diễn đàn này thì sẽ thấy...càng ngạc nhiên hơn với khả năng cảm ứng tiên tri này. Giống như Phật Cồ Đàm nói từ hơn 2500 năm trước " Một con cá quẩy đuôi cũng động tới tam thiên đại thiên thế giới" 2500 năm sau hơn hơn, có một người mới phát hiện ra một lý thuyết và nói: "Có thể nào cái vổ cánh của một con bươm bướm ở Chicago cũng có thể là nguyên do của trận sống thần tại Tokyo?". Đại ý là như vậy. Nhưng so với Phật Cồ Đàm thì câu sau cục bộ hơn. Do vậy khả năng tin vào giác quan thì không có gì là lạ, dân gian Việt còn gọi nó là "điềm" và vận dụng một cách cụ thể, thường xuyên vào một tiên tri thực tế hơn, đó là...đánh số đề. hehe Thiên Đồng
-
Chữ "thôi bối" nghe cũng đồng âm với "Thôi bói!", tức đừng bói nữa!, dừng bói lại!, không cần bói! Y như tiếng Việt. Hông biết có đúng hong? Còn chữ "đồ", nghe cũng giống chữ "đầu". Vậy là "Thoi bói đầu!", bói cái tiếp theo đến cái chót, bỏ cái đầu. Có thể vì vậy mà 64 tượng quẻ lại thiếu 4, chỉ có 60. Vài dòng lạm bàn, vải thưa che mắt Sư Phụ và chú Lãn Miên. Còn cái hình hai ông, một ông sờ lưng một ông đứng yên thì vô nghĩa quá. Nếu hình này minh họa thực cho tương truyền ông này bảo ông nọ dừng bói thì, nếu theo Thiên Đồng minh họa thì sẽ vẽ hình hơi nghiêng một ông đang tay cầm bút, tay bấm độn say sưa, một ông ngồi sau đẩy lưng sốt ruột bảo dừng bói lại. Tóm lại thì nội dung câu truyện thật giống với hai từ: "Thôi bói!" (Đừng bói nữa!)
-
Làm một chai nếp đi anh Gạo. Dô dô dô!!!
-
NGỌC HẠP CHÁNH TÔNG Tháng đại lợi (gái xuất giá về nhà chồng) TUỔI GÁI XUẤT GIÁ THÁNG ĐẠI LỢI PHÒNG MAI NHƠN TIỂU LỢI PHÒNG ÔNG – CÔ PHÒNG NỮ PHỤ MẪU PHÒNG PHU CHỦ PHÒNG NỮ THÂN Tý, Ngọ 6 – 12 1 – 7 2 – 8 3 – 9 4 – 10 5- 11 Sửu, Mùi 5 – 11 4 – 10 3 – 9 2 – 8 1 – 7 6 - 12 Dần, Thân 2 – 8 3 – 9 4 – 10 5 – 11 6 – 12 1 – 7 Mẹo, Dậu 1 – 7 6 – 12 5 – 11 4 – 10 3 – 9 2 – 8 Thìn, Tuất 4 – 10 5 – 11 6 – 12 1 – 7 2 – 8 3 – 9 Tỵ, Hợi 3 – 9 2 – 8 1 – 7 6 – 12 5 – 11 4 – 10 Phàm dùng Tháng Đại Lợi thì đặng tròn tốt. Như muốn dùng Tiểu lợi thì “Phòng Ông – Cô” mà không có cha mạ bên chồng thì được. Như “Phòng nữ phụ mẫu” mà không có cha mẹ bên gái thì được. “Phòng phu chủ” là kỵ chánh người trai “Phòng nữ thân” là kỵ chánh người gái “Phòng ông - cô” là kỵ cha mẹ bên chồng “Phòng nữ phụ mẫu” là kỵ cha mẹ bên gái Năm hung niên Trai không nên cưới vợ, Gái không nên lấy chồng TUỔI CON TRAI NĂM HUNG NIÊN TUỔI CON GÁI NĂM HUNG NIÊN Tý Mùi Tý Mẹo Sửu Thân Sửu Dần Dần Dậu Dần Sửu Mẹo Tuất Mẹo Tý Thìn Hợi Thìn Hợi Tỵ Tý Tỵ Tuất Ngọ Sửu Ngọ Dậu Mùi Dần Mùi Thân Thân Mẹo Thân Mùi Dậu Thìn Dậu Ngọ Tuất Tỵ Tuất Tỵ Hợi Ngọ Hợi Thìn Phàm trai hay gái mà gặp năm hung niên, thì không nên thành hôn vì năm ấy rất khắc kỵ. Qúi vị xem Bảng lập thành sẵn trên đây thật đúng chẳng sai. Thiên Can Và Địa Chi từng tháng: Năm nào cũng: Tháng Giêng là tháng Dần Tháng Hai là tháng Mẹo Tháng Ba là tháng Thìn Tháng Tư là tháng Tỵ Tháng Năm là tháng Ngọ Tháng Sáu là tháng Mùi Tháng Bảy là tháng Thân Tháng Tám là tháng Dậu Tháng Chín là tháng Tuất Tháng Mười là tháng Hợi Tháng Mười Một là tháng Tý Tháng Chạp là tháng Sửu Những tháng nhuần thì 15 ngày trên thuộc về Địa Chi của tháng trước, còn 15 ngày dưới thuộc về Địa Chi của tháng sau. Còn Thiên Can thì cứ 5 năm là đủ 60 tháng (không kể tháng nhuần) lại bắt đầu trở lại. Lục Hại (lấy nhau không hạp) Tuổi Tý kỵ tuổi Mùi Tuổi Dần kỵ tuổi Tỵ Tuổi Thân kỵ tuổi Hợi Tuổi Sửu kỵ tuổi Ngọ Tuổi Mẹo kỵ tuổi Thìn Tuổi Dậu kỵ tuổi Tuất Tứ Tuyệt (lấy nhau không hạp) Tuổi Tý kỵ tuổi Tỵ Tuổi Dậu kỵ tuổi Dần Tuổi Ngọ kỵ tuổi Hợi Tuổi Mẹo kỵ tuổi Thân Bào Thai (những tháng sanh của trai kỵ tháng sanh của gái. Lấy nhau không hạp) Trai sanh tháng Giêng, tháng Bảy, kỵ gái sanh tháng Tư, tháng Mười Trai sanh tháng Hai, tháng Tám, kỵ gái sanh tháng Hai, tháng Mười Một Trai sanh tháng Ba, tháng Chín, kỵ gái sanh tháng Sáu, tháng Chạp Trai sanh tháng Tư, tháng Mười, kỵ gái sanh tháng Hai, tháng Mười Trai sanh tháng Năm, tháng Mười Một, kỵ gái sanh tháng Hai, tháng Tám Trai sanh tháng Sáu, tháng Chạp, kỵ gái sanh tháng Ba, tháng Chín. Mười Thiên Can kỵ và hạp, lấy nhau tốt hay xấu Bảng lập thành dưới đây chỉ trai có chữ gì thì nên lấy vợ có chữ gì, hay là không nên lấy vợ có chữ gì. TUỔI TRAI CÓ CHỮ NÊN LẤY VỢ CÓ CHỮ KHÔNG NÊN LẤY VỢ CÓ CHỮ Giáp Kỷ Canh Ất Canh Tân Bính Tân Nhâm Đinh Nhâm Quý Mậu Quý Giáp Kỷ Giáp Ất Canh Ất Bính Tân Bính Đinh Nhâm Đinh Mậu Quý Mậu Kỷ Phép xem tuổi cưới gả khắc hay hạp (chọn sẵn Thiên Can tuổi trai so xuống tuổi gái) Khi xem tuổi thì phải lựa Thiên Can của tuổi trai coi xuống 12 Địa Chi của tuổi gái, như hợp thì đặng hòa thuận suốt đời và sanh con cũng mạnh khỏe, thông mình hay là ít bịnh tật: 10 Thiên Can là: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý 12 Địa Chi là: Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi Dưới đây tôi lựa sẵn những tuổi trai có chữ gì, cưới tuổi gái trong 12 chi nào, tốt hay xấu, khắc hay hợp. Và tôi có lựa sẵn năm Dương Lịch, đối chiếu với năm Âm Lịch, tôi cũng có lựa sẵn những năm, những tuổi đang hiện tại và những tuổi về tương lai sau này và cũng có cả năm Dương Lịch và Ấm Lịch đối chiếu. Trai (Thiên Can) lấy vợ (Địa Chi) tốt hay xấu Trai có chữ Giáp lấy 12 tuổi như dưới đây: Giáp lấy vợ Tý: có con cái đều đặng danh dự và quyền thế, nhưng không có âm đức về sau Giáp lấy vợ Sửu, Dần: có con không đặng nhờ vì con không đặng hiếu hạnh Giáp lấy vợ Mẹo: vợ chồng không an toàn, hoặc có hư thai Giáp lấy vợ Thìn: có con cháu không toàn vẹn Giáp lấy vợ Tỵ: cuộc tình chồng nghĩa vợ dỡ dang, chẳng đặng bền lâu Giáp lấy vợ Ngọ, Mùi: có con khó nuôi đến lớn Giáp lấy vợ Thân: con cháu thi đỗ được nhiều khoa, nhưng rồi cũng không bền Giáp lấy vợ Dậu, Tuất: cửa nhà vẻ vang, con cái thi đỗ thành công, con quý, rể hiền Giáp lấy vợ Hợi: con cháu đặng thi đỗ, nhưng trước vinh sau nhục, trước giàu sau nghèo Trai có chữ Ất lấy 12 tuổi như dưới đây: Ất lấy vợ Tý: con cái đặng thi đỗ, nhưng phải chịu gian nan thưở nhỏ, sung sướng về tuổi già Ất lấy vợ Sửu, Dần: sanh con cháu thi đỗ nhiều, nhưng cũng phải trước giàu sau nghèo Ất lấy vợ Mẹo: nếu không có con thì mới đặng an toàn Ất lấy vợ Thìn, Tỵ: sanh con sang trọng, đặng công thành danh toại Ất lấy vợ Ngọ: vợ chồng được song toàn đại lợi, nhưng sau cũng sanh buồn phiền Ất lấy vợ Mùi: được giàu sang vinh hiển, sanh con cháu thi đỗ đặng nhiều khoa Ất lấy vợ Thân: có thi đỗ nhưng sau cũng không lợi Ất lấy vợ Dậu: vợ chồng khó đặng toàn vẹn, từ 30 tuổi trở lên mới biết sự hay dở Ất lấy vợ Tuất, Hợi: vợ chồng trước nghèo sau giàu Trai có chữ Bính lấy 12 tuổi như dưới đây: Bính lấy vợ Tý: người vợ sanh sản khó, nhưng nuôi được thì được danh thơm, trước sau cũng được giàu sang đại lợi. Nếu được vợ lẽ thì người vợ lẽ ấy sẽ sanh con trai. Bính lấy vợ Sửu: vợ chồng làm ăn khó nhọc, sau sẽ có lợi, sanh con trai thi đỗ, nhưng con phải có tật bịnh mới có thể nuôi đặng đến lớn Bính lấy vợ Dần: vợ chồng khi lìa khi hiệp, rồi sau cũng đặng sum vầy, sanh con trai thi đỗ vì đặng chữ “Phùng Xuân” ứng. Bính lấy vợ Mẹo, Thìn: làm ăn lúc thạnh lúc suy, nhiều con chẳng thành đạt, dầu có lúc phong lưu cũng vô ích Bính lấy vợ Tỵ: đặng phú quý vinh hoa, sung sướng đến trọn đời, con cháu cũng đặng hiển đạt Bính lấy vợ Ngọ, Mùi: vợ chồng đặng giàu sang đại lợi, từ 40 tuổi trở lên sẽ có tiểu tật, con đặng thi đỗ Bính lấy vợ Thân: vợ chồng làm ăn trước phải chịu gian nan, sau sẽ phú túc, tích nhiều thành đa, cần kiệm sẽ khá Bính lấy vợ Dậu: vợ chồng đặng song toàn, trước nghèo sau giàu, con cái ít. Bính lấy vợ Tuất, Hợi: có con khó nuôi, vợ chồng trước hiệp sau lìa Trai có chữ Đinh lấy 12 tuổi như dưới đây: Đinh lấy vợ Tý, Sửu: vợ chồng rất gian truân, chẳng đặng yên ổn, con cái cũng khó nuôi, hoặc nghèo nàn Đinh lấy vợ Dần: trước lành sau dỡ, khó được bén duyên tơ tóc Đinh lấy vợ Mẹo: cuộc tình duyên vui vầy và hạnh phúc, có con cháu đông Đinh lấy vợ Thìn: có hai đứa con đặng thi đỗ, quan tước hiểng vang, nếu có vợ lẽ cũng đặng giàu sang Đinh lấy vợ Tỵ: trước sau cũng đều đặng sang giàu, con cái đặng thi đỗ thành danh và đại lợi Đinh lấy vợ Ngọ, Mùi: sanh con gái đầu lòng thì không đặng lợi, cửa nhà ắt bị hao tổn, phải nuôi con nuôi thì nuôi con ruột mới dễ được, hay là lấy vợ lẽ mới đặng toàn hảo thuỷ chung Dinh lấy vợ Thân, Dậu: được quyền cao tước trọng, nhưng sau cũng bị mất chức, trước hay sau dỡ Đinh lấy vợ Tuất: vợ chồng phải tha hương xứ người mới được hào phú đại lợi, có quyền quý, sanh con gái đặng song toàn Đinh lấy vợ Hợi: trước có nhà cửa huy hoàng, sau gặp lúc phong ba, nếu là quan quyền thì lận đận lắm. Trai có chữ Mậu lấy 12 tuổi như dưới đây: Mậu lấy vợ Tý: vợ chồng đặng sum vầy hòa hiệp, phú quý vinh hoa, trước sau đều đại lợi, con cháu cũng đặng giàu sang Mậu lấy vợ Sửu, Dần: trai gái đều đặng toàn vẹn, vợ chồng cũng đặng song toàn hạnh phúc Mậu lấy vợ Mẹo: vợ chồng làm ăn đủ dùng, nếu tha phương làm ăn lại càng hay, thuở đầu hơi gian nan, về sau sung sướng Mậu lấy vợ Thìn: trước phải chịu cảnh gian truân, về sau đặng vinh hiển, lại e cuộc tình duyên chẳng đáng vẹn toàn. Mậu lấy vợ Tỵ, Ngọ: khó bề đặng phú quý, nếu trai gái đều toàn thì sanh biến, không biến thì nhà cửa phải tiêu tan, dầu cho có quan lộc cũng phải biến Mậu lấy vợ Mùi, Thân: trước sau đều đặng đại lợi, sanh con nhiều và tròn vẹn Mậu lấy vợ Dậu: lúc đầu đại lợi sau rồi vô ích, nếu lấy vợ lẽ sẽ sanh con trai được trọng quyền Mậu lấy vợ Tuất, Hợi: không nhờ con cái, đi tha phương lại càng tốt. Trai có chữ Kỷ lấy 12 tuổi như dưới đây: Kỷ ly vợ Tý: vợ chồng làm ăn đặng thịnh vượng, nhưng trước phải đặng nghèo, rồi sau mới đặng giàu Kỷ lấy vợ Sửu, Dần: sanh con trai khó nuôi được đến lớn, đi làng khác mới được yên, vợ lẽ sanh con dễ nuôi hơn Kỷ lấy vợ Mẹo, Thìn: phải tha phương mới nên sự nghiệp, giàu sang mà sanh con trai, sau không có con gái là khí âm tiêu hết Kỷ lấy vợ Tỵ, Ngọ: gặp thời thì thạnh lỗi mùa thì suy, vợ chồng cách trở tha phương, chẳng chết thì cũng lìa xa đôi ngã, đời sau vợ chồng mới sanh con trai Kỷ lấy vợ Mùi, Thân: vợ chồng được trường cửu hạnh phúc song toàn, nhiều con thi đỗ cao, và vinh quang trọn đời Kỷ lấy vợ Dậu: vợ chồng khó đặng bền lâu, phải ly biệt, nếu ăn ở với nhau được thì cũng thường ốm đau bịnh tật Kỷ lấy vợ Tuất: sanh con chẳng đặng nhờ vì con bất hiếu, nến con có đỗ cao cũng phải chịu khó về sau Kỷ lấy vợ Hợi: vợ chồng đặng song toàn hạnh phúc, nhà cửa phú túc, con cháu đông đúc và thi đỗ cao Trai có chữ Canh lấy 12 tuổi như dưới đây: Canh lấy vợ Tý, Sửu: lấy nhau gặp thời thì tốt, nếu không thì dù trai hay gái cũng trọn đời chẳng có gì là vinh hiển Canh lấy vợ Dần, Mẹo: trước phải gian truân, sau mới sung sướng giàu sang, có con thi đỗ cao Canh lấy vợ Thìn, Tỵ: vợ chồng ăn ở hiền lương thì đặng phú quý và nhiều con, nếu thất đức thì ắc phải nghèo nàn Canh lấy vợ Ngọ: tự mình lập thân chẳng cậy nhờ ai, khoa danh hiển đạt, lộc hưởng tự nhiên Canh lấy vợ Mùi, Thân: đời vợ trước không đặng vẹn bền, đời vợ sau mới đặng giai lão Canh lấy vợ Dậu: lúc đầu hòa hiệp, về sau có phần khó khăn, trước nghèo sau khá Canh lấy vợ Tuất, Hợi: đời vợ trước chẳng đặng trọn tình, lấy vợ sau mới đặng vững bền và sanh đặng quý tử (con thảo) Trai có chữ Tân lấy 12 tuổi như dưới đây: Tân lấy vợ Tý: nếu có vợ sớm thì dẫu có con cũng không thành đạt, hay là sanh con khó nuôi đến lớn, lấy vợ sau mới đại lợi Tân lấy vợ Sửu, Dần: không được hào con, sự làm ăn trước thành sau suy Tân lấy vợ Mẹo: tự nhiên phú quý, nhưng có con thi đỗ thì chết, trước nghèo sau giàu Tân lấy vợ Thìn, Tỵ: sanh con gái dễ nuôi hơn con trai, đặng của cải quan lộc Tân lấy vợ Ngọ: sự làm ăn hoàn toàn thạnh vượng, sanh con gái thì đặng hiếu thảo Tân lấy vợ Mùi, Thân: trước giàu sang sau lại hóa ra nghèo, con cái khó nuôi, lúc tuổi già có bịnh tật liên miên Tân lấy vợ Dậu: công danh toại nguyện, được giàu sang nhưng vất vả, có con khó nuôi đến lớn Tân lấy vợ Tuất, Hợi: có vợ gặp sanh sản khó, vợ chồng bất chánh Trai có chữ Nhâm lấy 12 tuổi như dưới đây: Nhâm lấy vợ Tý: vợ chồng sẽ có bịnh tật, thường gặp sự thưa kiện, dẫu sanh con trai hay con gái cũng không vẹn toàn Nhâm lấy vợ Sửu, Dần: sanh nhiều con gái, nếu có con trai dẫu có thi rồi cũng thất chức Nhâm lấy vợ Mẹo: sanh con trai hay gái cũng đều vẹn toàn, song chẳng nhờ con, có thi đỗ cao cũng không đặng chức phận Nhâm lấy vợ Thìn: về sau phải chịu cảnh nghèo khổ, mặc dầu thuở trước đã giàu sang, trở về già thường mắc bịnh tật Nhâm lấy vợ Tỵ: dầu đặng giàu sang nhưng sanh con cũng khó nuôi được (thất hào con), từ 40 tuổi trở lên lập nghiệp khó khăn, lấy vợ sau mới yên vui được Nhâm lấy vợ Ngọ: tuổi trẻ làm ăn được thạnh vượng, con gái hay trai đều song toàn, nhưng từ 40 tuổi trở về sau thì mắc bịnh tật không toàn Nhâm lấy vợ Mùi: tự nhiên có lộc và quan chức, tuổi già có mắc tật bịnh Nhâm lấy vợ Thân: sanh con chẳng toàn, được giàu sang song chẳng đặng thọ Nhâm lấy vợ Dậu: tình vợ chồng không toàn vẹn, có nhiều sự gây gỗ trong gia đình Nhâm lấy vợ Tuất, Hợi: được phú quý thịnh vượng, đông con cái và nhiều lộc trời ban Trai có chữ Quý lấy 12 tuổi như dưới đây: Quý lấy vợ Tý: đặng giàu sang, con cái thi đỗ cao, nếu tha phương thì có nhiều đại lợi Quý lấy vợ Sửu, Dần: có vợ ở xa xứ, đặng phú quý đại lợi, học hành thi đỗ Quý lấy vợ Mẹo: ăn ở lúc nhở thì hợp nhau, lớn ắt phải xa lìa, có chức vị quan tước Quý lấy vợ Thìn, Tỵ: đặng phú quý đại lợi, lấy vợ ở xa xứ rất tốt Quý lấy vợ Ngọ: trước nghèo nàn, sau sẽ đặng phú quý, đại lợi, nhiều của cải, con cháu thi đỗ cao Quý lấy vợ Mùi, Thân: đặng quan tước cao, công thành danh toại Quý lấy vợ Dậu: dầu có chức tước cũng không đặng trọn vẹn, chẳng việc gì đặng toại nguyện Quý lấy vợ Tuất, Hợi: trước tốt sau xấu, trước thành sau hại, dầu có hay một lúc rồi cũng gian nan BẢNG SO ĐÔI TUỔI VỢ CHỒNG THUỘC CUNG, MẠNG (Gọi là Bát San) Chồng cung Càn lấy vợ cung gì, tốt hay xấu: Chồng cung Càn lấy vợ cung Càn : đựơc Phục vị (tốt vừa) Chồng cung Càn lấy vợ cung Cấn : được Phước đức (thật tốt) Chồng cung Càn lấy vợ cung Khôn : được Sanh khí (thật tốt) Chồng cung Càn lấy vợ Đoài : được Duyên niên (thật tốt) Chồng cung Càn lấy vợ cung Khảm : bị Lục sát (thật xấu) Chồng cung Càn lấy vợ cung Chấn : bị Ngũ quỉ (thật xấu) Chồng cung Càn lấy vợ cung Tốn : bị Họa hại (thật xấu) Chồng cung Càn lấy vợ cung Ly : bị Tuyệt mạng (xấu vừa) Chồng cung Khảm lấy vợ cung gì, tốt hay xấu: Chồng cung Khảm lấy vợ cung Khảm : được Phục vị (tốt vừa) Chồng cung Khảm lấy vợ cung Chấn : được Thiên y (thật tốt) Chồng cung Khảm lấy vợ cung Tốn : được Sanh khí (thật tốt) Chồng cung Khảm lấy vợ cung Ly : được Phước đức (thật tốt) Chồng cung Khảm lấy vợ cung Càn : bị Lục sát (thật xấu) Chồng cung Khảm lấy vợ cung Cấn : bị Ngũ quỷ (thật xấu) Chồng cung Khảm lấy vợ cung Khôn : bị Tuyệt mạng (xấu vừa) Chồng cung Khảm lấy vợ cung Đoài : bị Họa hại (thật xấu) Chồng cung Cấn lấy vợ cung gì, tốt hay xấu: Chồng cung Cấn lấy vợ cung Cấn : được Phục vị (tốt vừa) Chồng cung Cấn lấy vợ cung Càn : được Thiên y (thật tốt) Chồng cung Cấn lấy vợ cung Khôn : được Sanh khí (thật tốt) Chồng cung Cấn lấy vợ cung Đoài : được Duyên niên (thật tốt) Chồng cung Cấn lấy vợ cung Khảm : bị Ngũ quỉ (thật xấu) Chồng cung Cấn lấy vợ cung Chấn : bị Lục sát (thật xấu) Chồng cung Cấn lấy vợ cung Tốn : bị Tuyệt mạng (xấu vừa) Chồng cung Cấn lấy vợ cung Ly : bị Họa hại (thật xấu) Chồng cung Chấn lấy vợ cung gì, tốt hay xấu: Chồng cung Chấn lấy vợ cung Chấn : được Phục vị (tốt vừa) Chồng cung Chấn lấy vợ cung Khảm : được Thiên y (thật tốt) Chồng cung Chấn lấy vợ cung Ly : được Sanh khí (thật tốt) Chồng cung Chấn lấy vợ cung Càn : bị Lục sát (thật xấu) Chồng cung Chấn lấy vợ cung Cấn : bị Ngũ quỉ (thật xấu) Chồng cung Chấn lấy vợ cung Khôn : bị Họa hại (thật xấu) Chồng cung Chấn lấy vợ cung Tốn : bị Họa hại (thật xấu) Chồng cung Chấn lấy vợ cung Đoài : bị Tuyệt mạng (xấu vừa) Chồng cung Tốn lấy vợ cung gì, tốt hay xấu: Chồng cung Tốn lấy vợ cung Tốn : được Phục vị (tốt vừa) Chồng cung Tốn lấy vợ cung Khảm : được Sanh khí (thật tốt) Chồng cung Tốn lấy vợ cung Chấn : được Phước đức (thật tốt) Chồng cung Tốn lấy vợ cung Ly : được Thiên y (thật tốt) Chồng cung Tốn lấy vợ cung Càn : bị Họa hại (thật xấu) Chồng cung Tốn lấy vợ cung Cấn : bị Tuyệt mạng (xấu vừa) Chồng cung Tốn lấy vợ cung Khôn : bị Ngũ quỉ (thật xấu) Chồng cung Tốn lấy vợ cung Đoài : bị Lục sát (thật xấu) Chồng cung Ly lấy vợ cung gì, tốt hay xấu: Chồng cung Ly lấy vợ cung Ly : được Phục vị (tốt vừa) Chồng cung Ly lấy vợ cung Khảm : được Phước đức (thật tốt) Chồng cung Ly lấy vợ cung Chấn : được Sanh khí (thật tốt) Chồng cung Ly lấy vợ cung Tốn : được Thiên y (thật tốt) Chồng cung Ly lấy vợ cung Càn : bị Tuyệt mạng (xấu vừa) Chồng cung Ly lấy vợ cung Cấn : bị Họa hại (thật xấu) Chồng cung Ly lấy vợ cung Khôn : bị Lúc sát (thật xấu) Chồng cung Ly lấy vợ cung Đoài : bị Ngũ quỉ (thật xấu) Chồng cung Khôn lấy vợ cung gì, tốt hay xấu: Chồng cung Khôn lấy vợ cung Khôn : được Phục vị (tốt vừa) Chồng cung Khôn lấy vợ cung Càn : được Duyên niên (thật tốt) Chồng cung Khôn lấy vợ cung Cấn : được Sanh khí (thật tốt) Chồng cung Khôn lấy vợ cung Đoài : được Thiên y (thật tốt) Chồng cung Khôn lấy vợ cung Chấn : bị Hoạ hại (thật xấu) Chồng cung Khôn lấy vợ cung Khảm : bị Tuyệt mạng (xấu vừa) Chồng cung Khôn lấy vợ cung Tốn : bị Họa hại (thật xấu) Chồng cung Khôn lấy vợ cung Ly : bị Lục sát (thật xấu) Chồng cung Đoài lấy vợ cung gì, tốt hay xấu: Chổng cung Đoài lấy vợ cung Đoài : được Phục vị (tốt vừa) Chổng cung Đoài lấy vợ cung Càn : được Phước đức (thật tốt) Chổng cung Đoài lấy vợ cung Cấn : được Duyên niên (thật tốt) Chổng cung Đoài lấy vợ cung Khôn : được Sanh khí (thật tốt) Chổng cung Đoài lấy vợ cung Chấn : bị Tuyệt mạng (xấu vừa) Chổng cung Đoài lấy vợ cung Khảm : bị Họa hại (thật xấu) Chổng cung Đoài lấy vợ cung Tốn : bị Lục sát (thật xấu) Chổng cung Đoài lấy vợ cung Ly : bị Ngũ quỉ (thật xấu) HÔN NHƠN THUỘC NGŨ HÀNH, TỐT HAY XẤU Chồng mạng Kim, lấy vợ mạng gì, tốt hay xấu Chồng Kim vợ Kim, Thì ăn ở nhau sanh đẻ bất lợi, hay cãi lẩy, có khi phải lìa nhau, trừ khi đúng vào quẻ “Lưỡng Kim, Kim Khuyết”, hoặc Lưỡng Kim thành khí Chồng Kim vợ Mộc, thì Kim khắc Mộc, khắc xuất khổ sở nghèo nàn, chồng Nam vợ Bắc Chồng Kim vợ Hỏa, thường hay cãi vã nhau, sanh con khó nuôi, nhà cửa túng nghèo Chồng Kim vợ Thủy, là thiên duyên tác hợp, con cháu đầy đàn, vợ chồng hoà thuận Chông Kim vợ Thổ, vợ chồng hòa thuận, con cháu đầy đàn, gia đình vui vẻ, lục súc bình an Chồng mạng Mộc, lấy vợ mạng gì, tốt hay xấu Chồng Mộc, vợ Mộc, quan lộc tốt, con cháu đông đủ, gia đình hoà hiệp Chồng Mộc, vợ Thủy, Một với Thủy tương sanh, tiền tài phú túc, con cháu đông, vợ chồng bách niên giai lão Chồng Mộc, vợ Hỏa, Mộc, Hoả tự nhiên sanh, tiền tài quan lộc đặng thạnh vượng, con cháu đông đủ Chồng Mộc, vợ Thổ (1) Thổ Mộc tương sanh, con cháu đông và làm nên đại phú Chồng Mộc, vợ Kim Hai mạng đều khắc nhau, trước hợp sau lìa, con cháu bất lợi Chồng mạng Thủy, lấy vợ mạng gì, tốt hay xấu Chồng Thuỷ, vợ Thủy Hai Thuỷ tuy không tốt nhưng điền trạch (đặng) khá yên, ăn ở nhau được Chồng Thuỷ, vợ Kim Kim Thuỷ sanh tài, sung sướng đến già, con cháu đặng khá Chồng Thủy, vợ Mộc Thủy Mộc nhân duyên, vợ chồng ăn ở đặng bá niên giai lão Chồng Thủy, vợ Hỏa Thuỷ Hỏa tương khắc, vợ chồng chẳng đặng bền duyên, con cháu bất lợi, gia đạo an nguy Chồng Thủy, vợ Thổ hai mạng khắc nhau, vui vẻ bất thường, làm việc gì cũng khó Chồng mạng Hỏa, lấy vợ mạng gì, tốt hay xấu Chồng Hỏa, vợ Hỏa hai Hỏa giúp nhau, có khi hưng vượng, con cháu đầy đàn Chồng Hỏa, vợ Kim Hỏa Kim khắc nhau, hay cải lẩy và kiện cáo, gia đình không an Chồng Hỏa, vợ Mộc Hỏa Mộc hợp duyên, gia thất bình an, phước lộc kiêm toàn Chồng Hỏa, vợ Thủy Thuỷ Hỏa tương khắc, vợ chồng chẳng đặng bền duyên, con cháu bất lợi, gia đạo an nguy Chồng Hỏa, vợ Thổ Hỏa Thổ hữu duyên, tài lộc sung túc, con thảo dâu hiền Chồng mạng Thổ, lấy vợ mạng gì, tốt hay xấu Chồng Thổ, vợ Thổ lưỡng Thổ tương sanh, trước khó sau dễ, lắm của nhiều con Chồng Thổ, vợ Kim vợ chồng hòa hiệp, con cháu thông minh, tài lộc sung túc Chồng Thổ, vợ Mộc Thổ Mộc bất an, vợ chồng phải phân ly, mỗi người mỗi ngã Chồng Thổ, vợ Thuỷ Thổ Thuỷ tương khắc, trước hiệp sau lìa, sanh kế bất lợi Chồng Thổ, vợ Hỏa Thổ Hỏa đắc vị, quan vị dồi dào, con cháu đông đủ và giàu sang NGŨ HÀNH TƯƠNG SANH (Tốt) Mạng Kim sanh Thủy Mạng Thủy sanh Mộc Mạng Mộc sanh Hỏa Mạng Hỏa sanh Thổ Mạng Thổ sanh Kim NGŨ HÀNH TƯƠNG KHẮC (Xấu) Mạng Kim khắc Mộc Mạng Mộc khắc Thổ Mạng Thổ khắc Thủy Mạng Thủy khắc Hỏa Mạng Hỏa khắc Kim Phụ giải: Ngũ Hành là năm thể chất giao nhau mà sanh tồn, dầu cho quý vị có tôn trọng khoa học đến đâu thì nhà khoa học ngày nay đã tìm thấy trong bản thật con người cũng không ngoài năm thứ thể chất ấy, mà ta gọi là “Ngũ Hành”. Cho nên sự khắc hợp rất là quan trọng. TAM HẠP HỘI THÀNH CUỘC Thân, Tý, Thìn hội thành Thủy cuộc Tỵ, Dậu, Sửu hội thành kim cuộc Dần, Ngọ, Tuất hội thành Hỏa cuộc Hợi, Mẹo, Mùi hội thành Mộc cuộc ============================= Còn nhiều điểm phải bàn, bởi chỉ không thể dựa trên đi chi hay cung phi không thôi mà quyết định tốt xâu! Thiên Đồng
-
MẸO HAY - CÁCH LẠ - THUỐC QUÝ Trong dân gian, tồn tại nhiều mẹo hay, cách lạ mà hiệu quả rất đáng kinh ngạc. Có những cách dựa trên cơ sở khoa học, y học, kể cả cổ truyền lẫn hiện đại, nhưng có những cách, những mẹo, không thể giải thích được mà còn phải "chờ khoa học chứng minh". Thiên Đồng Lượm lặt được vài thứ mạo muội trưng lên đây để mọi người tham khảo. HOA QUẢ Trái Ổi: ăn ổi có thể làm giảm bớt nguy cơ bị bệnh nhồi máu cơ tim, vì ổi có tác dụng giảm bớt mỡ trong máu, giữ mỡ lại trong ruột, làm giảm độ li - pít. Trái Ô Mai: Lấy một trái ô mai, một củ gừng, một ly sữa bò, một trứng gà, nấu cháo ăn thường nhật, trị được bệnh đau màng phổi (phế thống). Trái Chanh: Ngoài việc dùng mang tính chất gia vị, chanh tươi còn là một vị thuốc. Để trái chanh vào than nướng trong 10 phút, lấy ra vắt váo nước nguội có pha đường, uống liên tục trong 01 tháng trị được chứng tê thấp. Trái Gấc: Dùng gấc nấu xôi rất ngon. Cho trẻ em ăn thường xôi gấc, sẽ chửa trị được bịnh chậm lớn. Hao Lài : Dùng để ướp với trà, tạo nên mùi thơm dễ chịu, có tác dụng trị chứng nhứt đầu mất ngủ. Hoa Đại: Tức là hoa sứ, gọi là hoa sứ cùi. Cũng dùng để ướp trà, pha uống hắng ngày, có hiệu quả nhất vào mùa hè, trị được kiết lị và hạ huyết áp. Bông Trà: Pha uống hằng ngày, tạo cho cảm giác sảng khoái, dễ chịu, giải độc, phòng trị nhồi máu cơ tim, giảm nhẹ quá trình tiêu hóa, phòng bệnh sâu răng. Articho: Dùng như trà, trị được chứng yếu gan, đau gan. (còn tiếp)
-
(tiếp theo) 2. SỰ HOÀN CHỈNH CỦA HẬU THIÊN LẠC VIỆT PHỐI HÀ ĐỒ Trên cơ sở phân tích những bất hợp lý về hai trục Thiên Địa và Quỷ Môn từ đồ hình và tư liệu ghi lại từ cổ thư chữ hán, được dịch ra chữ Quốc ngữ ngày nay, người viết đi tìm một sự hợp lý cho những vấn đề tồn nghi. Và, người viết nhận thấy rằng những bí ấn, nghịch lý và tồn nghi được giải trừ, thay vào đó bằng sự lý giải hoàn toàn hoàn chỉnh trên cơ sở Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ, một nguyên lý được hiệu chỉnh dựa trên các cơ văn hóa phi vật thể thuộc nền văn hiến Việt có bề dày lịch sử 5000 năm huyền vĩ, nguyên lý ấy được giải thích và công bố trong các tác phẩm “ Tìm về cội nguồn Kinh Dịch”, “Hà Đồ trong văn minh Lạc Việt”, “Tính minh triết trong tranh dân gian Việt Nam”(*)…tác giả công trình nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh. Với sự phục hồi hệ thống lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành, nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh đã công bố một nguyên lý lý thuyết được hiệu chỉnh và phục hồi, từ những mật ngữ tồn tại trong văn hóa phi vật thể của Việt tộc, đó là nguyên lý căn để Hậu thiên Lạc Việt phối Hà đồ. Theo tiêu chí khoa học hiện đại quyết định rằng: “Một giả thuyết khoa học được coi là đúng, nếu nó giải thích hợp lý hầu hết những vấn đề liên quan đến nó một cách nhât quán, hoàn chỉnh, có tính hệ thống, tính khách quan, tính quy luật và có khả năng tiên tri.”. Nguyên lý lý thuyết căn để Hậu thiên Lạc Việt phối Hà đồ chứng tỏ tính nhất quán và hợp lý của nó trong việc giải mã những bí ấn và nghịch lý của khái niệm trục Thiên – Địa và trục Quỷ Môn. Đầu tiên, hãy xem qua đồ hình Hậu thiên Lạc Việt với sự hoán vị hai vị trí Tốn – Khôn, đã được luận giải và chứng minh trong các tác phẩm đã nêu (*), xin miễn chứng minh, cùng với đồ hình Hậu thiên Lạc Việt phối Hà đồ như sau: Hậu thiên Lạc Việt với hoán vị Tốn - Khôn. Hậu thiên Lạc Việt phối Hà đồ. Từ đồ hình Hậu thiên Lạc Việt do nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh phục hồi, người viết họa lại đồ hình với hai trục khái niệm Thiên – Địa và Quỷ Môn như sau: Một sự phân hơp lý có thể nhân ra rằng phương Cấn – Đông Bắc vẫn là Quỷ môn với định danh là Nam quỷ môn có được sự đồng nhất giữa danh và quái khí là Nam quỷ môn với quái Cấn là tượng thứ nam trong nghĩa về tượng quái của 8 quái dịch, đồng thời đối lập, đối xứng cân bằng trong mối tương quan cân đối Âm dương với phương Tây Nam là quái Tốn, đăng đối với danh vị Nữ quỷ môn, bởi quái Cấn tượng là thiếu nam hợp, con trai út với định danh Nam quỷ môn lại đồng đẳng và đối xứng âm dương với quái khí Tốn tượng là trưởng nữ, con gái cả. Tiếp theo, xét cặp khái niệm Thiên Môn - Đại Hộ với căp quái Càn - Khôn trong Hậu thiên Lạc Việt. Giống như thế, phương Càn – Tây Bắc gọi là Thiên Môn nghĩa là cổng trời đồng nhất giữa danh và quái khí là Càn, tượng là trời là cha là lão ông trong nghĩa về tượng quái của 8 quái dịch môn đăng hậu đối với phương Đông Nam chủ quái là Khôn, được hoán vị hoàn toàn tương hợp với danh vị là Địa Hộ. Hai định danh Thiên Môn và Địa Hộ trong mối quan hệ đồng trục với ngôi nhà mới là Hậu thiên Lạc Việt đã cho thấy rỏ ràng tính đối lập, đối xứng, cân bằng âm dương trong mối tương quan trên bát quái thể hiện chặt chẻ tính đồng đẳng tương quan, bởi quái tượng Càn là trời, là cha, là lão ông với định danh Thiên môn đăng đối với quái khí Khôn tượng là đất, là mẹ, là lão bà hoàn toàn xứng hợp với định danh Địa hộ. Vì vậy tính đồng đẳng, tương quan so sánh được thể hiện ngay và hoàn chỉnh hợp lý với phương trục Thiên Địa mà cổ thư chữ không thể hiện được điều này! Ở phần chi tiết hơn, tính đối xứng, cân bằng âm dương thể hiện rỏ ràng qua từng hào của quái, ở các hào sơ, hào trung, hào thượng giữa hai quái Càn – Khôn. Bản thân ngay tượng quái Càn và Khôn cũng đã thể hiện đối lập âm dương và cũng hiển nhiên cũng là một cặp phạm trù thể hiện tính âm dương. Còn lại, ở hai trục Khảm – Ly, Chấn – Đoài thì không cần phải bàn đến, bởi đã thể hiện đầy đủ tính tương quan cân đối âm dương. Với nguyên lý lý thuyết Hậu thiên Lạc Việt phối Hà đồ, tính nhất quán còn thể hiện ngay trong quy luật tương phối quái khí thể hiện trong phương pháp Bát trạch Lạc Việt và Phiên tinh Lạc Việt. Theo phương pháp Bát trạch Lạc Việt, một phần ứng dụng của khoa Phong thủy Lạc Việt, cũng xác định phi cung mệnh chủ của con người được chia thành hai phe, phe Đông trạch và phe Tây trạch. Nhưng do sự hoán vị Tốn – Khôn nên Đông trạch sẽ gồm bốn phương tốt là Bắc, Nam, Đông và Tây Nam và quái khí không đổi là Khảm, Ly, Chấn, Tốn, ngược lại Tây Bắc, Đông Nam, Đông Bắc và Tây tương ứng với quái khí không đổi là Càn, Khôn, Cấn, Đoài thuộc Tây trạch. Từ đồ hình, vẫn nhận thấy trục Phúc Đức của phe Đông trạch vẫn là trục Khảm – Ly, Bắc – Nam theo phương pháp Bát trạch Lạc Việt và sơn hướng phối quái của phiên tinh Lạc Việt. Chính do sự chuyển đổi Tốn – Khôn, Hậu thiên Lạc Việt cho thấy sự xuất hiện trục Phúc Đức của người Tây trạch, ngay ở trục Thiên – Địa, trục Càn – Khôn, thể hiện một trục đồng tính chất quái khí tốt nhất của người Tây trạch mà Bát quái cổ thư không thể hiện được điều này. Một sự hoàn chỉnh hơp lý khác được mở ra khi quán xét hai trục còn lại trên đồ hình Hậu thiên Lạc Việt. Trục Đông Bắc – Tây Nam với hai quái Cấn – Tốn là trục Quỷ môn với định danh Nam quỷ môn và Nữ quỷ môn, khi được xét theo phương pháp Bát trạch Lạc Việt thì mệnh cung Tốn nhà hướng Cấn hay mệnh cung Cấn mà nhà hướng Tốn thì đều được Tuyệt Mạng và theo phương pháp Phiên tinh Lạc Việt, sơn hướng phối quái sơn hậu Cấn phối Tốn hướng hoặc sơn hậu Tốn phối Cấn hướng đều là Tuyệt Mạng, gọi là Tuyệt Mạng trạch và rỏ ràng đây là trục Tuyệt Mạng. Khái niệm trục Quỷ Môn đến lúc này trở nên thật tương xứng với tính chất nội tại của nó là trục Tuyệt Mạng và như vậy giữa danh và tính đã có sự hợp lý hoàn hảo mà Bát quái cổ thư cho đến thời điểm này vẫn không có thể nào tỏ rỏ tính hợp lý như vậy. Cùng một cách như vậy, trục Đông – Tây , Chấn – Đoài vẫn thể hiện là trục Tuyệt Mạng trên Bát quái Hậu thiên Lạc Việt. Một cách tổng thể nhận xét Hậu thiên Lạc Việt, lúc này phối với Hà đồ về việc phân bố trạch quái sẽ thấy rằng: Với hai trục trung tâm, hay gọi là đường trung tâm thì trục Thủy (Khảm) – Hỏa (Ly) hợp thành trục Phúc Đức vuông góc trục trung tâm Đông – Tây, Chấn – Đoài là trục Tuyệt Mạng thể hiện tính đối lập âm dương giữa một trạch – trục mang tính chất tốt nhất với một trach – trục mang tính chất xấu nhất. Cũng như vậy với trục tứ ngung Thiên – Địa là trục Phúc Đức vuông góc, đối lập với trục trục tứ ngung, là trục Quỷ môn với nội tính là trục Tuyệt Mạng thể hiện sự đối lập âm dương trên tổng thể đồ hình. Mặt khác, xét về tương quan quan ngũ hành giữa từng cặp phương đối xứng đồng trục thì tất cả đều tuân thủ theo nguyên lý ngũ hành tương khắc, như Thủy ( Khảm) – Hỏa (Ly), Kim (Đoài) – Mộc (Chấn), Cấn thuộc Mộc tương khắc với Tốn thuộc Kim, theo quan niệm Phong thủy Lạc Việt và Càn là âm kim đới thủy tương khắc với Khôn là âm hỏa đới thổ vẫn thể hiện lý tương khắc cho một căp hành quái trên nguyên lý bát quái Hậu thiên Lạc Việt phối Hà đồ. Và chính ngay khi phối các các quái lên cung vị của Hà đồ thì tính chất tương khác về ngũ hành cung vị Hà đồ vẫn thể hiện được tính đồng nhất và tương hợp với bát quái, một cách tổng quát các quái khí đồng trục đều theo một lý tương khắc hoàn toàn nhất quán và hoàn chỉnh. Tính quy luật cân đối âm dương còn thể hiện trên Hậu thiên Lạc Việt phối Hà đồ khi cho thấy hai trục, âm Phúc Đức với độ số Hà đồ là 6-2 và dương Phúc Đức với độ số là 1-7 cho phe Đông trạch và Tây trạch, cùng với hai trục âm Tuyệt Mạng với độ số 8-4 và dương Tuyệt Mạng với độ số 3-9 cho hai phe Đông – Tây trạch. Đây là thể hiện tính cân đối âm dương, có cặp có đôi trong nội hàm Phúc Đức và Tuyệt Mạng và cũng thể hiện lý âm dương trong ngay trên cặp phạm trù Phúc Đức và Tuyệt Mạng. Như vậy sự hoàn chỉnh tuyệt vời cho việc giải mã bí ẩn, nghịch lý trục Quỷ Môn và trục Thiên Môn – Địa Hộ tồn tại từ trong cổ thư và sư phân bố tổ chức hợp lý các phương quái thì không nguyên lý nào bằng nguyên lý Hậu thiên Lạc Việt phối Hà đồ thuộc nền văn hiến Việt 5000 năm huyền vĩ. Hơn nữa, xét theo trục từ trường Trái Đất, trục Khảm - Ly trùng với trục từ trường Bắc - Nam của quả đất dành riêng cho phe Đông trạch. Trục Tây Bắc - Đông Nam tương hợp với trục nghiêng của Trái đất cũng thể hiện là một trục chính với chiều tương tác quan trọng đồng chất dành riêng cho phe Tây trạch. Một lần Hậu thiên Lạc Việt phối Hà đồ thể hiện tính ưu việt của nó. 3. LỜI KẾT Để hiệu chỉnh một nguyên lý đã có sẳn thì cần phải đi từ một lý thuyết hoàn chỉnh và nếu như thế thì chỉ có chủ nhân đích thực của hệ thống lý thuyết đó mới thực hiện được điều này, với sự phục hồi học thuyết Âm Dương Ngũ Hành thuộc nền văn hiến Việt 5000 năm rực rỡ thì việc giải quyết tính bất hợp lý của những khái niệm như trục Thiên – Địa, trục Quỷ Môn cho thấy tính hoàn chỉnh của nguyên lý lý thuyết Hậu thiên Lạc Việc phối Hà đồ, được công bố bởi nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh, thể hiện tính nhất quán, tính quy luật và có thể giải thích được nhưng hiện tượng hiên quan đã cho thấy sự hoàn chính và phù hợp với tiêu chí khoa học của nguyên lý lý thuyết ấy. 19 tháng Dậu năm Tân Mẹo (2011) Thiên Đồng ================================= Tham khảo: - Hà Đồ trong văn minh Lạc Việt, tg Nguyễn Vũ Tuấn Anh, NXB Tổng Hợp TpHCM 2007 - Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại, tg Nguyễn Vũ Tuấn Anh, NXB Tổng Hợp TpHCM 2003 - Tính minh triết trong tranh dân gian Việt Nam. - Phong thủy Lạc Việt, tg Nguyễn Vũ Tuấn Anh, lưu hành nội bộ. - Dịch học ngũ linh, tg Cao Từ Linh, NXB Văn Hóa Thông Tin, 2006. - Nhập môn chu dịch dư đoán học, tg Thiệu Vĩ Hoa, NXB Văn Hóa Thông Tin, 1996. - Phong thủy toàn thư, tg Thiệu Vĩ Hoa, NXB Thời Đại, 2009
-
NGHỊCH LÝ TRỤC QUỶ MÔN, BÍ ẨN THIÊN MÔN ĐỊA HỘ VÀ SỰ HOÀN CHỈNH CỦA HẬU THIÊN LẠC VIỆT PHỐI HÀ ĐỒ Thiên Đồng - Bùi Anh Tuấn Trung tâm Nghiên cứu Lý học Đông Phương. Tiêu chí khoa học hiện đại quyết định rằng “Một giả thuyết khoa học được coi là đúng, nếu nó giải thích hợp lý hầu hết những vấn đề liên quan đến nó một cách nhât quán, hoàn chỉnh, có tính khách quan, tính quy luật và có khả năng tiên tri.” Trong những tri thức liên quan đến phương pháp của học thuật cổ Đông phương, cụ thể là phương pháp Bát trạch trong phong thủy, tồn tại những khái niệm bất biến như Thiên Môn, Địa Hộ, Quỷ Môn, Nhân Môn, Nam Quỷ Môn, Nữ Quỷ Môn…nhưng đi kèm với những định danh này thì không có sự tương hợp, tương xứng cho từng định vị hay sự tương thích trong cùng mối liên hệ để tạo nên sự nhất quán cho một hệ thống lý thuyết mang tính hoàn chỉnh. Do vậy, điều nghịch lý tồn tại hằng ngàn năm được mặc khải như một chân lý cần được giải linh, khơi sáng nỗi tồn nghi. 1. NGHỊCH LÝ TRỤC QUỶ MÔN VÀ BÍ ẨN THIÊN MÔN - ĐỊA HỘ: Sách Phong Thủy Toàn Thư, tác giả Thiệu Vĩ Hoa, nhà xuất bản Thời Đại ấn hành năm 2009, trang 128, hướng dẫn về cách xem tướng nhà và phương vị nhà cửa, có tái hiện phương vị la bàn bằng đồ hình như sau: Trang 176, sách cùng tựa, có đoạn như sau: Cuốn Phong Thủy Toàn thư của Thiệu Vĩ Hoa. Nxb Thời Đại 2009. Đây là lời giải thích trong sách của tác giả Thiệu Vĩ Hoa cho việc xác định đường Tứ ngung, đường Trung tâm, đường Quỷ môn. Người viết một lần nữa ghi nhận rõ hơn rằng: Đường trung tâm, có hai đường, được xác định trên la bàn, là đường kéo dài từ 0 độ qua tâm đến 180 độ và đường kéo dài từ 90 độ qua tâm đến 270 độ. Người viết gọi là Trục trung tâm. Đường tứ ngung, nghĩa là đường bốn góc, có hai đường, được xác định trên la bàn, là đường kéo dài từ 45 độ qua tâm đến 225 độ và đường kéo dài từ 315 độ qua tâm đến 135 độ. Người viết gọi là Trục tứ ngung. Trong đó, đường Quỷ môn là đường kéo dài từ 45 độ qua tâm đến 225 độ, người viết gọi là Trục Quỷ môn. Xin xem hình sau: Cũng sách Phong Thủy Toàn Thư, tác giả Thiệu Vĩ Hoa, trang 33, 34 có đoạn giải nghĩa như sau: Từ những chú giải trên, trích từ sách, một tư liệu còn ghi lại từ cổ thư chữ Hán mà chính tác giả Thiệu Vĩ Hoa đã trưng ra và dẫn giải, người viết vẽ lại đồ hình tổng hợp sau: Dễ dàng nhận thấy rằng hai đường trung tâm (Trục trung tâm) vuông góc của bốn phương vuông góc là Nam – Bắc và Đông – Tây, còn lại là hai đường tứ ngung (Trục tứ ngung), nghĩa là đường bốn góc, như cái tên của nó, vuông góc nhau ở bốn phương góc Tây Bắc – Đông Nam và Đông Bắc – Tây Nam. Từ đây, đều nghịch lý và những bí ẩn được trưng như từng được chấp nhận như một lẽ đương nhiên trên bát quái Hậu Thiên cổ thư, thường gọi là bát quái Hậu thiên Văn Vương. Phương Cấn – Đông Bắc gọi là Quỷ môn với danh cụ thể là Nam quỷ môn chứng tỏ được sự đồng nhất giữa danh và quái khí là Nam quỷ môn với quái Cấn là tượng thứ nam trong nghĩa về tượng quái của 8 quái dịch. Nhưng ngược lại, phương Tây Nam có chủ quái là Khôn lại không đồng danh vị với danh Nữ quỷ môn. Bởi lẽ, hai định danh Nam quỷ môn và Nữ quỷ môn đã thể hiện sự đối lập, đối xứng cân bằng trong mối tương quan đối xứng trên bát quái, nhưng về quái khí thì hoàn toàn không có tính đối xứng, cân bằng âm dương và không mang tính đối lập đồng đẳng. Quái Cấn tượng là thiếu nam, trai út hợp với định danh Nam quỷ môn, nhưng không đồng đẳng hay đối xứng âm dương với quái khí Khôn tượng là mẹ, đàn bà, bà lão, là lão âm và chính quái Khôn cũng không thể tương hợp với định danh Nữ quỷ môn. Lẽ ra phải gọi là Lão quỷ môn thì mới hợp với danh và quái. Nhưng như thế cũng không đồng đẳng với mối tương quan so sánh giữa hai phương Đông Bắc và Tây Nam, tức giữa Cấn và Khôn, tức giữa lão bà và con trai út (con nít!). Vì thế, dĩ nhiên là không có sự đối xứng âm dương, cân bằng âm dương thể hiện qua từng hào của quái, nghĩa là đối lập âm dương giữa các hào sơ, hào trung, hào thượng giữa hai quái Cấn - Khôn hoàn toàn không có thể hiện để tạo sự đối lập, đối xứng nào. Xin xem hình. Cũng như vậy, phương Càn – Tây Bắc gọi là Thiên môn có sự đồng nhất giữa danh và quái khí là Càn, tượng là trời là cha là lão ông trong nghĩa về tượng quái của 8 quái dịch. Nhưng ngược lại, phương Đông Nam có chủ quái là Tốn lại không đồng danh vị với danh Địa hộ. Hai định danh Thiên môn và Địa hộ trong mối quan hệ đồng trục, thể hiện sự đối lập, đối xứng cân bằng trong mối tương quan đối xứng trên bát quái, nhưng về quái khí thì hoàn toàn không có tính đối xứng, cân bằng âm dương và không mang tính đối lập đồng đẳng. Bởi, quái Càn tượng là trời với định danh Thiên môn (cửa trời), nhưng không đồng đẳng hay đối xứng âm dương với quái khí Tốn tượng trưởng nữ, người con gái cả và ngay cả chính quái Tốn cũng không thể tương hợp với định danh Địa hộ.Như thế, có việc không đồng đẳng với mối tương quan so sánh giữa hai phương Tây Bắc và Đông Nam, tức giữa Càn và Tốn, tức giữa lão ông và con gái cả, giữa trời và gió! Do vậy mà cũng không có sự đối xứng âm dương, cân bằng âm dương thể hiện qua từng hào của quái, nghĩa là đối lập âm dương giữa các hào sơ, hào trung, hào thượng giữa hai quái Càn – Tốn hoàn toàn không có thể hiện để tạo sự đối lập, đối xứng nào. Xin xem hình. Tuy vậy, ở hai trục trung tâm thì sự đối lập đối xứng âm dương giữa tượng quái Khảm – Ly, Chấn – Đoài thể hiện một mối tương quan hài hòa cân đối giữa 2 phương đối lập, cùng trục, thể hiện một quy luật rỏ ràng. Tuy nhiên, xét trên tổng thể 8 quái, mối tương quan của từng cặp về quái khí và danh tính của phương vị thì tổng thể bát quái Hậu thiên cổ thư không thể hiện được tính nhất quán trong quy luật, do vậy mà sự bất hợp lý cũng như bí ẩn về hai cặp phạm trù đối lập Thiên môn và Địa hộ, Nam quỷ môn và Nữ quỷ môn vẫn tồn tại một cách khó hiểu. Tính thiếu nhất quán còn thể hiện ngay trong quy luật tương phối quái khí thể hiện trong phương pháp Bát trạch và Dương trạch tam yếu về phần Phiên tinh phối quái. Phương pháp Bát trạch cổ thư, một phần ứng dụng của khoa Phong thủy, xác định phi cung mệnh chủ của con người được chia thành hai phe, phe Đông trạch và phe Tây trạch. Đông trạch gồm bốn phương tốt là Bắc, Nam, Đông và Đông Nam tương ứng quái khí Khảm, Ly, Chấn, Tốn, ngược lại Tây Bắc, Tây Nam, Đông Bắc và Tây tương ứng với quái khí Càn, Khôn, Cấn, Đoài thuộc Tây trạch. Theo đó người mệnh cung Ly nhà hướng Khảm hay ngược lại người cung mệnh là Khảm nhà hướng Ly thì đều phương Phúc đức. Cũng tương tự như vậy, theo phương pháp Phiên tinh phối quái thì nhà hướng Ly, sơn hậu là Khảm hay ngược nhà hướng Khảm mà sơn hậu là Ly thì theo nguyên tắc lấy sơn phối hướng đều được Phúc Đức, gọi là Phúc Đức trạch. Như vậy, đều đương nhiên trên bát quái 8 phương tồn tại một trục tốt nhất của phe Đông trạch gọi là trục Phúc Đức. Điều này dễ nhận biết ngay trên bát quái với trục Bắc - Nam, chính trục từ 0 độ đến 180 độ, gọi là trục trung tâm, tức trục Khảm – Ly, tức là Phúc Đức trạch hay gọi là trục Phúc đức, bởi Phúc đức là phương vị tốt nhất đứng đầu trong các phương còn lại là Thiên Y, Sinh Khí, Phục Vị, Ngũ Quỷ, Lục Sát và Tuyệt Mạng, cho nên một trục chính với hai quái tượng đối xứng, đối lập âm dương, tương quan đồng đẳng về hình tượng Trung nam đối Trung nữ, tạo một trục đồng khí Đông trạch, đương nhiên gọi là trục Phúc Đức. Bát quái cổ thư do vậy vẫn thể hiện được một trục Phúc Đức với đường trung tâm, của phe Đông trạch. Tuy vậy, ở phe Tây trạch, chính ở tương quan Tây trạch xuất hiện sự bất nhất, bất hợp lý được hiển hiện ngay trên đồ hình tám cung quái. Trục Đông Bắc – Tây Nam với hai quái Cấn – Khôn là trục Quỷ môn với định danh nam quỷ môn và Nữ quỷ môn, tuy vậy theo phương pháp Bát trạch của cổ thư, mệnh cung Khôn nhà hướng Cấn hay mệnh cung Cấn mà nhà hướng Khôn thì đều được Sinh Khí. Vẫn như vậy, nếu hướng nhà là Cấn, sơn hậu là Khôn hoặc là nếu hướng nhà là Khôn mà sơn hậu là Cấn thì theo nguyên tắc lấy sơn phối hướng thì đều đước Sinh Khí, gọi là Sinh Khí trạch hay là trục Sinh Khí. Rỏ ràng, có sự không đồng nhất giữa định danh phương trục và tính chất của phương vị, cung quái của hai phương Cấn – Tốn này, bởi gọi là trục Quỷ môn nhưng khi xét tính chất phối quái hai phương đồng trục thì lại được trục Sinh Khí, tính bất nhất là ngay ở điểm này. Đồng một lý như vậy với trục tứ ngung, trục Thiên – Địa, Càn – Tốn; nếu nhà hướng Càn, mệnh cung Tốn hoặc dã, nhà hướng Tốn mà mệnh cung Càn thì đều được phương Họa Hại; cũng như vậy với phối quái phiên tinh, nếu hướng là Càn, sơn hậu là Tốn hay hướng là Tốn mà sơn hậu Càn thì đều được Họa Hại, gọi là trục Họa Hại hay Họa Hại trạch. Từ những điểm trên, xét một cách tổng quát về phân bố trạch quái của bát quái Hậu thiên cổ thư dễ thấy rằng: Với hai trục trung tâm, hay gọi là đường trung tâm thì tương quan quan ngũ hành giữa hai phương đối xứng đồng trục là tương khắc Thủy (Khảm) – Hỏa (Ly) và Kim (Đoài) – Mộc (Chấn) theo tính chất hành quái, nghĩa là theo lý tương khắc của ngũ hành thuộc hành quái. Với trục tứ ngung là Thiên – Địa, Càn – Tốn thì với tính chất hành quái của Càn là kim đới thủy đối xứng với Tốn thuộc hành quái Mộc, theo cổ thư, thì tính chất tương quan đồng trục giữa hai phương Càn – Tốn là tương sinh về ngũ hành. Trong khi đó, với trục Quỷ môn Đông Bắc và Tây Nam, Cấn đối Khôn thì tương quan của ngũ hành là tương hòa với Cấn và Khôn đều thuộc hành thổ theo cổ thư. Như vậy, ở bốn trục cho tám phương thì quan hệ ngũ hành đồng trục về tương khắc biểu hiện hai lần, về ngũ hành tương sinh đồng trục biểu hiện một lần và tương hòa thì biểu hiện một lần, xét một cách tổng thể thì ngay ở điểm này, các trục quái của Hậu thiên cổ thư không thể hiện một tính quy luật và nhất quán trong cách bố trí cung quái và phương trục, bởi tính chất ngũ hành tạp loạn. Hơn nữa, với cái nhìn tổng quan, trạch Phục Đức là trạch tốt nhất trong điều kiện Bát trạch và Dương trạch thì theo đồ hình tổng thể trên thấy rằng chỉ có phe Đông trạch mới có Phúc đức trạch hay trục Phúc Đức, ngược lại phe Tây trạch chỉ có Sinh Khí trạch hay trục Sinh Khí. Do vậy đây cũng chính là sự biểu hiện tính không đồng đẳng, tính mất cân xứng và tính bất cân bằng trong quy luật Âm Dương. Từ những phân tích trên về hai cặp khái niệm Thiên - Địa, Nam quỷ môn và Nữ quỷ môn với tính chất bất tương hợp và không nhất quán của nó về định danh và quái khí cho thấy một sự nghịch lý hay một bí ẩn trong quy luật sắp xếp của tám quái cần phải được chỉnh lý hay hiệu chỉnh để trở về với một trật tự hoàn hảo và nhất quán của bát quái. Bởi vậy, bát quái Hậu thiên cổ thư không thể là một nguyên lý hoàn chỉnh mà ngược bộc lộ những căn cứ mơ hồ, bất nhất đầy tồn nghi.
-
Người xưa bảo là cẩn ngôn. Chỉ có người trình độ lớp 12 mới nhận xét người lớp 12. Người lớp 12 không thể nhận xét được thấu đáo các giáo sư, bác học... Cũng như vậy, muốn bảo rằng ngài Trần Nhân Tông "không thể đạt đến cảnh giới của Thích Ca Mâu Ni" thì người đưa ra nhận xét này chí ít cũng phải đạt đến cảnh giới của Thích Ca Mâu Ni" hay cảnh giới Trần Nhân Tông thì mới được. Bởi vậy...thiệt là....!!!!
-
(tiếp theo) Bên trong các toà nhà có kết cấu bằng kính và thép ở Đức, các kiến trúc sư luôn chú ý đến các khoảng cây xanh, nhằm tạo cảm giác thư thái và cố gắng giảm bớt tính “lạnh” của chất liệu kính. Ảnh chụp bên trong tổ hợp Sony Center ở Berlin: Toà nhà bằng kính mang tên Pei-Bau là phần mở rộng của Bảo tàng Lịch sử Đức, được thực hiện theo ý tưởng của kiến trúc sư mang hai dòng máu Mỹ-Trung I.M.Pei, tác giả toà kim tự tháp bằng kính ở bảo tàng Louvre Paris. Công trình có phần cầu thang cuốn trong suốt này là nơi diễn ra các triển lãm đương đại của bảo tàng: Nhà ga chính của Berlin được đưa vào sử dụng toàn bộ hai ngày trước lễ khai mạc World Cup năm 2006. Công trình có dáng vẻ hiện đại với kết cấu kính và thép này cũng là nhà ga đường sắt lớn nhất châu Âu, mỗi ngày đón 1.800 lượt tàu và khoảng 350.000 hành khách. Đây là đồ án đoạt giải nhất trong cuộc thi tìm thiết kế nhà ga của nhóm kiến trúc sư Gerkan, Marg và Partners đến từ Hamburg: Trụ sở của Bộ Nội vụ Liên bang Đức soi bóng xuống dòng sông Spree ở thủ đô Berlin. Công trình có dáng vẻ vững trãi như một pháo đài, nhưng vẫn tạo được sự thanh thoát nhẹ nhàng nhờ ứng dụng chất liệu kính ở bề mặt: Hai toà nhà văn phòng của quốc hội Đức cách nhau bằng dòng Spree. Tòa bên trái mang tên Paul Löbe House dành cho các uỷ ban và Marie Elisabeth Lüders House (bên phải) dành cho thư viện và các hoạt động nghiên cứu. Cả hai đều nằm sát trụ sở quốc hội Reichstag và được nối với nhau bằng những cây cầu mảnh mai để người đi bộ và xe đạp qua lại: Toà nhà Victoria Haus cao 108 m ở thành phố Duesseldorf. Toà nhà văn phòng hình tròn có kết cấu bên ngoài bằng kính và thép này gồm 29 tầng được hoàn thành vào năm 1998 và là toà nhà cao thứ ba tại thành phố công nghiệp Duesseldorf: Khách sạn Park Inn trên quảng trường Alexanderplatz. Công trình cao 125 m này khi khánh thành vào năm 1970 đã trở thành toà nhà cao nhất ở cả hai phần đông và tây Berlin thời điểm đó. Sau khi nước Đức thống nhất, toà nhà này đã được thay đổi chủ và được thiết kế thêm phần ngoại thất bằng kính hiện đại: Phòng đọc của thư viện Anna Amalia ở Weimar, nơi lưu giữ nhiều tài liệu quý của nền văn học và lịch sử Đức với hơn một triệu đầu sách. Sau vụ hoả hoạn nghiêm trọng năm 2004, thư viện được xây dựng lại, trong đó nổi bật là phòng đọc có mái vòm bằng kính, giúp độc giả có thể đọc bằng ánh sáng tự nhiên ngay cả khi ngồi dưới tầng hầm: Tổ hợp World Trade Center ở Dresden rộng 80.000 m2, bao gồm các văn phòng, phòng hội nghị, khu vực triển lãm và cả khách sạn. Đây là một trong những nơi thường diễn ra các hoạt động quan trọng của thành phố cổ Dresden: Hai mảng đối lập về kiến trúc tại thành phố tài chính Frankfurt am Main. Các cao ốc bằng kính và thép của những ngân hàng lớn nhất thế giới nhìn từ phía một con phố tương đối cổ nằm gần nhà ga chính của thành phố (Hauptbahnhof): Tổ hợp văn phòng, trung tâm thương mại và giải trí Neues Kranzlereck ở Berlin do kiến trúc sư Helmut Jahn thiết kế. Công trình có phần ngoài bằng kính này được xây dựng trong hai năm từ 1998 đến 2000: Kính được ứng dụng làm cả tường ngăn (hàng rào) rất ấn tượng. Đây là ý tưởng thiết kế độc đáo thuộc tổ hợp văn phòng của quốc hội Đức Jakob Kaiser Haus, nằm cạnh sông Spree: 3. Nhận Xét Của Phong Thủy Lạc Việt Đối Với Những Kiến trúc Bằng Kính. Bằng cái nhìn của Lý học Đông Phương và trên quan điểm của Phong Thủy Lạc Việt thừa hưởng những tri thức của Văn hiến 5000 năm của tổ tiên Lạc Việt, dù kiến trúc xây dựng thay đổi đa dạng về hình thức hay phong cách kiến trúc cũng không nằm ngoài phạm vi quán xét của Phong Thủy. Dựa trên hệ thống lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành, Phong thủy Lạc Việt có thể nhận xét những mặt tích cực và tiêu cực của các công trình kiến trúc từ truyền thống đến hiện đại, miễn sao đó là kiến trúc. Trong một phạm vi nhỏ hẹp, người viết chỉ dùng một phần nhỏ của tri thức Phong Thủy Lạc Việt để nhận xét mô hình Kiến trúc hiện đại bằng kính tại Đức, một trào lưu tiêu biểu của nghệ thuật kiến trúc đương đại. Theo học thuyết Âm Dương Ngũ Hành, cho rằng do sự vận động và tương tác từ khởi nguyên của vũ trụ, tự nhiên phân ra thành hai loại khí Âm và Dương. Hai loại khí này tương tác lẫn nhau tạo nên sự phát triển của vạn vật. Vạn vật lại tương tác và trùng trùng khởi sinh. Phong Thủy Lạc Việt khẳng định rằng sự tương tác của vật chất tạo là Âm động tạo ra Dương khí và sự vận động nội tại của vật chất là Dương tịnh tạo ra Âm khí. Mỗi loại khí đều có mặt tích cực và tiêu cực trong từng trường hợp và trong mục đích cụ thể. Quán xét trên cơ sở học thuyết Âm Dương Ngũ Hành, ánh sáng mặt trời được gọi là Dương quang, thuộc về khí Dương. Kính do tính chất trong suốt và thấu thị, tạo điều kiện cho ánh sáng đi qua, xuyên qua, nghĩa là ánh sáng đi qua một môi trường trong suốt và ít nhiều bị gãy khúc hoặc biến tính tạo một trường năng lượng dương. Cơ sở thực nghiệm khoa học cũng xác nhận rằng ánh tác động lên thấu kính sẽ tạo nên năng lượng dương. Đó là tương tác. Học thuyết thuyết âm dương Ngũ hành xác định sự tương tác của vật chất tạo nên khí Dương. Từ đây có thể nhận thấy rằng các kiến trúc hiện đại bằng kính tại Đức được kiến trúc và xây dựng trên phương tiện vật liệu chủ yếu là kính với khung sường kết cấu bằng sắt thép là những mô hình kiến trúc mang khí dương rất dồi dào và cường thịnh, điển hình cho các kiến trúc cần có khí Dương vượng. Mặt khác, cũng theo học thuyết âm dương Ngũ Hành, những khái niệm thuộc về tinh thần là Dương. Do vậy tư duy, ý thức, khả năng sáng tạo, tuy duy logic, ý chí phấn đấu, nhiệt huyết năng động, nói năng diễn thuyết, tư tưởng bay bổng, tinh thần hướng thượng, chủ nghĩa sáng tạo…thuộc Dương. Theo như Nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh, khái niệm rằng Phong Thủy là sự tương tác, đó là sự tương giữa con người và môi trường, mà sự tương tác trực tiếp nhất, tế vi nhất là Khí, Dương khí và Âm khí. Vì thế với những công trình kiến trúc làm bằng kính, như kiến trúc tại Đức thì đó là môi trường mà khi con người hoạt động và làm việc tại đó, sẽ chịu sự tác động chủ yếu và hầu hết cúa khí Dương. Cũng như đã nói ở trên, do sự tác động của Dương khí lên đối tượng là con người nên con người ở đây trở nên luôn tích cực, năng động, nhạy bén, sáng tạo, hoạt động, hành động, suy tư, tư duy…tóm lại luôn trong trạng thái hoạt động của cả thể chất lẫn tinh thần. Do đó, những công trình kiến trúc làm bằng kính luôn là mô hình lý tưởng cho một môi trường cần sự hoạt động về tinh thần và năng động về thể chất, một môi trường hữu ích cho việc đầu tư, trau dồi khai thác trí tuệ, tìm năng của con người đưa vào phục vụ lợi ích xã hội. Vì thế, mô hình kiến trúc làm bằng kính luôn thích hợp cho làm nơi hoạt động trí tuệ như công nghệ thông tin, văn phòng kinh doanh, văn phòng dịch vụ, những nơi diễn thuyết họp hành, bảo tàng nghệ thuật mỹ thuật, thư viện, triễn lãm…bởi những nơi đây cần có sự hoạt động chủ yếu của tinh thần và cũng bởi do tính chất dương khí của công trình nên nó cũng thích hợp với công năng sử dụng để làm nơi trụ sở công quyền hay là cơ quan hành chánh quốc gia, cho nên, kiến trúc làm bằng kính, có thể nói là mô hình kiến trúc hữu ích trong việc khai thác năng lực và năng lượng của con người , đáng là những kiểu trúc tiêu biểu. Tuy vậy, cũng theo học thuyết Âm Dương Ngũ Hành, khi Dương khí hay Âm khí quá vượng thì bao giờ cũng sinh bất cập. Sự vượng phát thái quá của khí Âm hay khí Dương đều dẫn đến hiện tượng mất cần bằng Âm Dương, lại trở nên tiêu cực. Trong trường hợp cụ thể đối với kiến trúc làm bằng kính này thì do chính bởi cấu trúc vật liệu làm cho công trình tạo nên nhiều dương khí và Dương khí quá dồi dào, do vậy dể dàng đưa đến những thái quá trong hoạt động. Điều này thật dể dàng nhận thấy qua những con người hoạt động và làm việc lâu dài trong những công trình kiến trúc bằng kính này là thường dể bị căng thẳng, mỏi mệt, cáu gắt, uể oải, suy nhược về tinh thần và thể chất. Cũng do tính chất Dương khí thái quá nên môi trường ở những khu kiến trúc làm bằng kính thường có bầu không khí khí làm việc dưới những áp lực căng thẳng vô hình, những áp lực luôn tạo sự năng động cho con người hoạt động và làm việc nơi đây nhưng thường thì thời gian gắn bó của các cá nhân ở nơi đây không được lâu dài và bền vững. Sự thái quá của Dương khí thể hiện sự mất cân bằng cơ bản, xét trên quan điểm Lý học, do đó thông qua những hoạt động sống của con người thì từ cơ sớ lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành có thể đưa đến một nhận xét, cũng như một sự tiên tri rằng đây là một mội trường mà trong đó mọi hoạt động luôn biến đổi trong sự mất cân đối và sự biến đổi đó là do sự tác động trực tiếp bởi Dương khí, cho nên tính bất an hay đột biến được biểu hiện cụ thể qua thực tế hoạt động hay hiệu quả của sự hoạt động là hiển nhiên, phản ánh đúng tính quy luật khách quan của cơ sở Lý Thuyết Âm Dương. Mặt khác, do vật liệu chủ yếu là chính nên thường vật liệu kết cấu chính là sắt thép tạo khung sường, vì vậy các kiến trúc làm bằng kính thường có hình thể mà trong phong thủy gọi là “lộ cốt”, có thể là lộ cốt trong hoặc cũng có thể là lộ cốt ngoài. Thêm nữa, các kiến trúc đôi khi có hình thù tổng thể lạ mắt hay kỳ dị, cho nên theo quan điểm xấu – tốt của Hình Lý Khí thì cũng góp phần vào làm tăng thêm tính chất xấu của công trình. Tính tự do sáng tạo trong kiến trúc hiện đại và việc vận dụng đầy sáng tạo vật liệu làm bằng kính để tạo một phong cách đặc thù kiến trúc dể đưa đẩy các mô trình kiến trúc đến những hình thể xấu theo quan điểm Phong thủy Lạc Việt. Hơn nữa, bởi kính là vật liệu chủ yếu thay tường vách bằng bê tông nên ít nhiều cũng tạo những ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe của con người hoạt động trong đó, do tính phản quan một phần hay tính thấu thị của kính. Do vậy, chính hiệu ứng giữa ánh sáng và kính dể làm cho con người bị bệnh mất ngủ, căng thẳng, tress, dẫn đến những bệnh về tiêu hóa, bao tử hay tim mạch. Có thể nói rằng kiến trúc làm bằng kính là một trong những phong cách kiến trúc đặc thù của trường phái kiến trúc hiện đại (modernisme) với chất liệu chủ yếu là kính và sắt thép tạo nên một phong cách tiêu biểu đặc biệt và ấn tượng. Tuy nhiên, khi quán xét trên quan điểm Phong thủy Lạc Việt thì do chính yếu tố thiết kế kiến trúc bằng kính đã tạo nên những hiệu ứng tốt xấu lên đối tượng là con người hoạt động trong các công trình kiến trúc này. Dù cho sự phát triển, biến đổi về mặt kiến trúc, cũng như kết cấu trong xây dựng thì kiến trúc xây dựng cũng vẫn là đối tượng quán xét của phong thủy và cũng chỉ là một phần trong nhiều yến tố của phong thủy. Kiến trúc xây dựng phát chuyển theo từng thời kỳ cũng chỉ thực hiện và đáp ứng bốn (4) tiêu chí chính là Bền Bỉ - Kinh Tế - Tiện Ích – Thẩm Mỹ, nhưng không thể đáp ứng một tiêu chí có tính tiên quyết là Tốt và chỉ có Phong thủy và chỉ với Phong Thủy Lạc Việt mới đáp ứng thỏa mãn tiêu chí này. Như đã nói trên, phong thủy không phải yếu tố riêng phần đối lập với kiến trúc mà ngược lại kiến trúc là một bộ phận của phong thủy. Vì vậy phong thủy là sự tổng hòa của các yếu tố nhằm mang lại Chân - Thiện - Mỹ phục cho mong muốn an lạc và phát triển của con người, của cộng đồng và xã hội. III. Kết Luận: Tóm lại, việc xây dựng các công trình trong trào lưu kiến trúc đượng đại thì đa phần hoặc chọn phong cách kiến trúc Hiện Đại hoặc theo phong cách kiến trúc Hậu hiện đại hoặc đôi khi Hitech (Kỹ thuật công nghệ cao) đều lấy tính hình tượng hay chú trọng việc vận dụng vật liệu kết cấu là phương tiện thể hiện ý tưởng hay phong cách, đều không những không ngoài sự quán xét của Phong thủy Lạc Việt mà còn là cơ sở cần xét đến để xác định chiều tương tác tích cực tốt xấu đi đến sự nhận định thành bại hay thịnh suy của một công trình. Xét cho cùng, khi một công trình kiến trúc được dựng nên không chỉ đơn thuần hướng đến sự tồn tại bền bỉ, công năng sử dụng tiện lợi tiện nghi, yếu tố thẩm mỹ thu hút và giá trị hiện kim đáng quan tâm của công trình mà tất cả đều nhắm đến sự phát triển thành hay bại, thịnh hay suy, cho dù đó là sự tâm huyết hay đầu tư hướng đến lợi nhuận hay phi lợi nhuận thì sự phát triển hay không phát triển của một thực thể kiến trúc là mối quan tâm trong tâm khảm và hàng đầu. Phong thủy Lạc Việt với ý nghĩa là sự tổng hòa các mối tương tác, bao hàm yếu tố kiến trúc thì mọi cơ sở quán xét đều đi đến nhận định tốt xấu bảm bảo tính định hướng của sự phát triển của công trình đem lại lợi ích phục vụ xã hội. Viết xong, ngày 16 tháng 11 năm 2009 Thiên Đồng =========================================== Tham Khảo: -Phong thủy trong Bất động sản, tg Jo Incheol, NXB Tổng Hợp Tp HCM. -Hà đồ trong văn minh Lạc Việt, tg Nguyễn Vũ Tuấn Anh, NXB Tổng Hợp TpHCM 2007 -Phong thủy Lạc việt, tg Nguyễn Vũ Tuấn Anh, lưu hành nội bộ. -Kiến trúc hiện đại, tg Tôn Thừa Nguyên, NXB Xây Dựng. -Nguyên lý thiết kế nhà dân dụng: Nhà ở và nhà công cộng, tg Gs, Ts, Kts, Nguyễn Đức Thiềm, NXB Khoa học kỹ thuật. -www.google.com
-
(tiếp theo) II. CÁI NHÌN PHONG THỦY LẠC VIỆT VỀ KÍNH TRONG KIẾN TRÚC HIỆN ĐẠI CỦA ĐỨC 1.Trào Lưu Phát Triển và Phong Cách Kiến Trúc Bằng Kính. Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trào lưu kiến trúc hiện đại ở các nước Châu Âu được khai sinh và bùng nổ, mở ra một “kỷ nguyên mới” đoạn tuyệt với kiến trúc truyền thống cổ điển với nhiều chi tiết rườm rà với những quy định chặt chẽ về không gian kiến trúc, đưa kiến trúc nhân loại tiến đến một bước phát triển mới. Trào lưu kiến trúc hiện đại có thể được xem là luồng sinh khí mới tạo điệu kiện cho tư duy sáng tạo kiến trúc được bay bổng và tự do hơn về khả năng sáng tạo những giải pháp hữu hiệu về mặt không gian kiến trúc, khai thác tối đa về phương pháp sử dụng vật liệu, biện pháp thi công, đa dạng trong quan điểm thẩm mỹ, khởi sướng một một kỷ nguyên rực rở của kiến trúc hiện đại vào những thập niên đầu của thế kỷ XX. Giữa những sự đa dạng về loại hình kiến trúc của trào lưu Kiến trúc hiện đại thì vật liệu kiến trúc cũng được đưa lên thành đối tượng chính quyết định cả về cấu trúc, xây dựng, thẩm mỹ và biểu tượng. Đó là những công trình như Tháp Eiffel do hai kiến trúc sư Koechlin và Nouguier thiết kế, Biệt Thư Gạch Đỏ (The Red House) của Phillip Wedd thiết kế, Cung Thủy Tinh (Crystal Palace) ở Hyde Park, (London, Anh) năm 1851 do Joseph Paxton thiết kế, Trường Bauhaus, Đức do KTS Walter Gropius thiết kế, Biệt thự Savoye ở Poissy, Pháp- Le Corbusier thiết kế, Toà nhà Quốc hội của Brasil do Oscar Niemayer thiết kế…đã tạo nên những ấn tượng đậm nét, đầy tính cách và tạo ảnh hưởng mạnh mẽ trong trào lưu kiến trúc thế giới. Tháp Eiffel xây dựng năm 1889 Biệt thự Gạch đỏ (The Red House) Cung Thuỷ Tinh (Crystal Palace) Biệt thự Savoye ở Poissy, Pháp- Le Corbusier Trường Bauhaus, Đức do KTS Walter Gropius thiết kế Toà nhà Quốc hội của Brasil do Oscar Niemayer thiết kế Và sự ảnh hưởng lang tỏa đó tạo hứng khởi sáng tạo kiến trúc cho việc vận dụng vật liệu bằng kính trong kiến trúc hiện đại, một phong cách kiến trúc mới tại Đức. Kính được dùng làm vật liệu phổ biến trong phong cách kiến trúc hiện đại tại một quốc gia công nghiệp với những nét vừa lạ lẫm vừa hoàng tráng, xuất hiện rất nhiều cao ốc văn phòng với kết cấu thép và kính gần như trong suốt. Nhìn từ bên ngoài, có thể thấy rõ sự đi lại, hoạt động, của các nhân viên của từng con người trong tòa nhà. 2. Những kiến trúc tiêu biểu: Mái vòm bằng kính của toà nhà quốc hội Đức (Reichstag). Đây là tác phẩm của kiến trúc sư Anh, Norman Foster, có chiều cao 23,5 m, làm từ 800 tấn thép và 3.000 m2 kính. Bên trong mái vòm còn có 360 tấm gương để phản chiếu ánh sáng tự nhiên vào phòng họp chính. Người dân có thể tự do leo lên thăm mái vòm và theo dõi các nghị sĩ họp bên dưới: Reduced: 98% of original size [ 583 x 843 ] - Click to view full image Bahn Tower, trụ sở hiện đại của hãng đường sắt Đức Deutsche Bahn trên Quảng trường Potsdamerplatz ở Berlin. Toà nhà có kết cấu bằng thép và kính cao 94 m với 26 tầng được khánh thành vào năm 2000. Cao ốc văn phòng có hình tam giác trong suốt này là một trong những biểu tượng của Berlin hiện đại: Một góc của quần thể hiện đại Sony Center bao gồm cả tháp Bahn Tower. Tổ hợp do kiến trúc sư Helmut Jahn thiết kế có trị giá xây dựng 800 triệu USD gồm nhiều cửa hiệu, nhà hàng, văn phòng, trung tâm hội nghị, khách sạn, rạp chiếu phim và cả bảo tàng về điện ảnh. Toàn bộ phần bên trong tổ hợp này được hỗ trợ Wi-Fi miễn phí.
-
(tiếp theo) 5. Nhận xét theo quan niệm Hình Lý Khí đối với một số kiểu kiến trúc hay công trình: 5.1 Tòa nhà Royal College of Physicians Tòa nhà Royal College of Physicians thiết kế bởi Denys Lasdun ở Regent Park được cho là công trình Kiến trúc Hậu hiện đại đầu tiên, nếu xét trên cái nhìn Hình Lý Khí thì sẽ được miêu tả như hình tượng miệng một con cá sấu đang hả miệng nhưng lại bị chống bởi ba cây gậy và nếu xét sự vững chãi của tòa nhà theo cảm quan thì công trình tỏ ra bị mất cân đối ngay phần đầu, hai khối kiến trúc trắng phía trên như hai miếng phô mai để chênh venh trên một nền và được chống chỏi bằng ba que tăm bé tí. Một hình tượng đầy khó khăn hay trở ngại. 5.2 Học viện Nghệ thuật Châu Á Lasalle Học viện Nghệ thuật Châu Á Lasalle Sia - College of the Arts tại Singapore, được chọn thay mặt cho phong cách kiến trúc Hậu hiện đại. Ý tưởng xây dựng một cộng trình từ hình tượng của sự “tan vỡ” của một tảng băng trôi khổng lồ đã là một hình tượng mang ý nghĩa không tốt trong phong thủy. Nếu theo chiều cảm quan khác trên tổng thể mô hình thì kiến trúc như một khung cảnh của một góc chiến địa với 3 tường chắn và những lổ châu mai, những khe núi để luồn lách ẩn mình và những đường chiến hào dọc ngang phía sau. Hoặc cũng có thể hình dung kiến trúc như một con hổ bị nhốt trong tường đá và bị căng ra tư phía để lột da và cuối cùng là mảnh da căng dưới đất. đi vào phần bên trong của công trình thì kết cấu toàn bằng kính với những khu đà một màu đen của nham thạch, kết cấu xiêu vẹo tạo cảm quan thiếu sự vững chắc, tuy vạm vỡ và được nối kết bởi những cầu nối giữa 6 khối nhà, nhưng cũng thấy vẽ trống trãi và hình tượng “lộ xương” bên trong, hơn nữa cũng vì việc thể hiện bằng sự rộng mở của không gian, không có cổng trường, các lối đi thông suốt tạo nên những cách của sự thoái khí. Xét tổng thể hình tượng và kết cấu thì học viện Lasalle thì công trình này mang hình tượng âm khí nặng nề và dương khí suy thoái. Ý nghĩa và cũng như hình tượng cấu trúc đều dẫn đến nhưng ý nghĩa không tích cực và như vậy xét theo quan niệm Hinh lý Khí trong Phong Thủy lạc Việt thì tất nhiên cũng không thuộc cách tốt. 5.3Công trình Bảo tàng Milwaukee Công trình Bảo tàng Milwaukee - “Đôi cánh hải âu quyền năng”, nằm kề bên hồ Michigan, được cho rằng đã tạo một bước đột phá trong thiết kế kiểu dáng và công năng và được xem là tác phẩm đỉnh cao của loại hình kiến trúc động ảo, một phong cách Kiến trúc Hậu hiện đại do chính Calatrava khởi xướng từ cuối thế kỷ 20, đem lại thành công lớn và là biểu tương cho tiểu bang Wisconsin. Công trình bằng kiến trúc động ảo với đôi cánh bay lên là một hình tương đẹp mang ý nghĩa đẹp và cũng do sự vận động của đôi cánh nên đây là một công trình duy nhất tự tạo được dương khí chế ngự được phần âm khí và sát khí nặng nề của tổng thể kiến trúc lộ cốt bên trong và hình tượng lối vào như hàm cá mập hả họng nuốt chửng mọi thứ. 5.4 Sân Vận Động Bắc Kinh. Đây là một công trình điển hình cho hình tượng “lộ cốt” (trơ xương) mà Phong thủy Lạc Việt thường đề cập. Một hình tượng hoàn toàn xấu về mặt hình thể kiến trúc theo quan niêm phong thủy. Có lẽ vì thế báo chí thường đề cập đến sân động tổ chim này thường gọi nôm na là “cái bát trống rỗng”. Nếu nhìn với một cảm quan khác thì công trình như chiếc nón chẳng những thủng ở đỉnh đầu mà còn bị rách bươn hay có đường chỉ vá chằn vá đụp. Công trình này lúc đầu gây được sự chú ý của dư luận và công chúng cả nước, thu hút khách tham quan, nhưng sau đó và cho đến nay lượng khách tham đã không được như mong muốn của nước chủ nhà tưởng tượng và hy vọng như ban đầu. “Sân vận động Tổ chim - với chi phí xây dựng 450 triệu USD - giờ cần đến 15 triệu USD bảo trì hàng năm. Tuy nhiên, nguồn thu duy nhất là từ khách du lịch, với 9 USD/người cho mỗi lần vào chụp ảnh chiếc "bát" trống rỗng. Số du khách tới đây đã giảm từ 80.000 người/ngày trong tháng 10/2008 xuống chỉ còn 10.000 vào tuần cuối tháng 3. Với tình trạng này, các nhà chức trách ở Bắc Kinh khó có thể đạt được doanh thu 30 triệu USD/năm như mục tiêu đã đề ra đối với sân vận động này.” Trích báo điện tử baomoi.com (11/4/2009) 5.5 Nhà hát lớn quốc gia tại Bắc Kinh Nhà hát lớn quốc gia tại Bắc Kinh của kiến trúc sư (KTS) Paul Andrieu, chuyên gia hàng đầu người Pháp, được chọn trong một cuộc thi quốc tế, công trình Kiến trúc Hậu hiện đại được thể hiện là khối bán cầu bằng kính vĩ đại đặt trên một mặt nước vuông nằm ở vị trí trung tâm quảng trường Thiên An Môn. Công trình muốn thể hiện ý tưởng “trời tròn đất vuông”, nhưng trên thực tế mô hình kiến trúc lại dẫn đến một cảm quam khác. Toàn bộ phần vuông thể hiện là đất lại được thiết kế thành thủy, phần công trình tròn ở giữa dẫn đến hình tượng như một đĩa bay bị nạn ngập dần trong nước hay bị mắc cạn và người phương Tây thì gọi công trình này tên là “The Egg”, tức là quả trứng chim, nhưng tiếc thay quả trứng này lại bị úng ngập trong nước hay cũng có thể liên tưởng như một trứng trứng khủng long bị úng trong vũng nước tù. Do thiết kế mái vòm trong suốt và nước xung quanh, nên công trình mang nét vượng của dương khí phù hợp với những nơi mang tính chất cộng đồng hay hoạt động văn hóa nghệ thuật, nhưng tổng thể hình tượng lại không thể hiện được ý nghĩa tích cực nên sự phát triển cũng hay mong muốn hiệu quả cho nhiều lợi ích khác chắc hẳn cũng hạn chế hay trì trệ, bởi hình tượng một quả trứng trong nước không dẫn đến sự hình thành một sự sống hay sự phát triển. 5.6 Sân bay quốc tế Bắc Kinh “Một biểu tượng mới của Bắc Kinh-Sân bay quốc tế thủ đô với hệ mái vòm không gian lớn được lấy ý tưởng từ hình ảnh Rồng bay…”. Đó là miêu tả của báo giới cho một hình tượng. Phong thủy Hình Lý Khí cũng có cái nhìn tương đồng và sâu sắc hơn, nghĩa là một con rồng với thân bị đoạn thành ba khúc. Nhìn dưới góc độ khác, tổng thể công trình như một bộ xương cá bị đứt đoạn hay một ngọn “thiết hỏa trường thương” bị đứt khúc. Bản thân công trình như thể một cách vô tình tạo ra sát khí cho môi trương xung quanh và chính tính hình tượng của công trình đã tạo nên một trường khí xấu có tác động đến vận mệnh của công trình và sự tồn tại và phát triển của công trình sẽ như thế nào thì còn dựa trên nhiều tiêu chí quán xét khác của Phong thủy Lạc Việt. Tuy vậy theo website của tạp chí Forbes cho rằng sân bay quốc tế Bắc Kinh là tồi tệ thứ nhì thế giới, xét về chuyện muộn chuyến. Sân bay Bắc Kinh cay mũi vì bị dán nhãn 'dở ẹc' Thành phố chủ nhà của Olympic 2008 bực bội phản bác thông tin trên website của tạp chí Forbes cho rằng sân bay quốc tế Bắc Kinh là tồi tệ thứ nhì thế giới, xét về chuyện muộn chuyến. Tổng giám đốc sân bay Dong Zhiyi cho biết các số liệu chính thức của họ cho thấy 86,28% số chuyến cất cánh từ đây đúng giờ, cao hơn nhiều so với mức mà Forbes nêu ra là 33%. Trên trang web của mình, tạp chí Mỹ viết: "Tại sân bay quốc tế ở thủ đô Bắc Kinh - nơi đang mở rộng để đón Olympic mùa hè tới, chỉ 33% số chuyến bay cất cánh đúng giờ năm 2007. Sân bay này chỉ kém Brasilia một bậc xét về mức độ tồi về chuyện muộn chuyến". Forbes đã khảo sát hơn 100 sân bay, lấy số liệu từ FlightStats - một cơ quan chuyên theo dõi thông tin về các chuyến bay. Các sân bay được khảo sát đều thuộc loại có thể phục vụ ít nhất 10 triệu hành khách trong năm 2006 trở lên. Ông Dong nói sân bay Bắc Kinh không đáng bị xếp hạng xấu thế. Theo con số mà ông đưa ra, thì sân bay của thành phố này tốt hơn nhiều so với ga hàng không tệ nhất châu Âu - Charles de Gaulle - với 50% số chuyến đúng giờ. Tuy thế, nó vẫn phải ngượng ngùng trước sân bay Osaka Itami của Nhật, với 97% đúng giờ. Trung Quốc đang nỗ lực cải thiện hạ tầng các sân bay để chuẩn bị đón lượng khách dự kiến sẽ tăng vọt trong hè này. Tuy thế hành khách vẫn thường phải chờ hàng giờ ở nhà chờ và chỗ lấy hành lý. Nhà chức trách cũng ra một loạt quy định nhằm buộc các hãng hàng không và nhà ga phục vụ hành khách tốt hơn. Sân bay Bắc Kinh đã phục vụ hơn 50 triệu khách trong năm ngoái, sẽ mở thêm cổng thứ ba vào cuối tháng hai này. T. Huyền (theo Reuters) 5.7 Trụ sở truyền hình Bắc Kinh, Trung Quốc (CCTV) Ảnh chụp trụ sở mới của CCTV (trái) và tòa nhà khách sạn Mandarin Oriental sau khi bị cháy - Ảnh: AFP Công trình được xây dựng theo hình thế hai chữ V ngược nhau. Toàn bộ công trình đều phạm cách “lộ cốt” (trơ xương), nếu liên tưởng đến một cái rọ thì đây là cái rọ bắt cá hình ống vuông. Khối kiến trúc tạo ra cảm giác mất cân bằng như có xu hướng đổ ập về phía trước. Thông thường hình dạng lộ cốt thể hện cho một kết cuộc không mấy tốt đẹp, báo trước sự thất bại và những khó khăn bất ngờ, những biến cố têu cực hay có hại cho công trình đó, nghĩa là những ai tồn tại trong công trình trình đó đều phải chịu sự tương tác có trường khí tiêu cực. Và đây là thông tin liên quan đến TTCV: Trích từ nguồn: www.baomoi.com Một cán bộ đài CCTV bị bắt trong vụ cháy KS Mandarin Oriental TTO - Cảnh sát Bắc Kinh ngày 12-2 cho biết đã bắt giữ một nhân viên cấp cao của Đài truyền hình trung ương Trung Quốc (CCTV) và 11 người khác do có liên quan đến vụ đốt pháo hoa bất hợp pháp làm cháy khách sạn Mandarin Oriental. Trong số những người bị bắt, còn có Xu Wei, 50 tuổi, phụ trách xây dựng trụ sở mới cho CCTV, nằm cách khách sạn Mandarin Oriental khoảng 200m. Trong khi đó, dẫn nguồn tin cảnh sát, Tân hoa xã cho hay ba nhân viên khác của CCTV và 8 người nữa cũng đã bị tạm giữ, tuy nhiên không cung cấp thêm thông tin chi tiết. Vụ cháy lớn tối 9-2 đã thiêu hủy gần như toàn bộ tòa nhà khách sạn Mandarin Oriental, dự kiến sẽ là một trong những khách sạn hạng sang bậc nhất Bắc Kinh, khiến một nhân viên cứu hỏa thiệt mạng và bảy người khác bị thương. Tranh Cãi Về Logo của CCTV Nguồn: www.xaluan.com Một cuộc tranh cãi đang nổi lên khắp Trung Quốc sau khi một quan chức cấp cao yêu cầu Đài truyền hình Trung ương Trung Quốc (CCTV) phải thay đổi logo đã được CCTV sử dụng từ 30 năm qua vì nó phá vỡ nhiều nguyên tắc trong bộ luật của nước này. Wang Dengfeng, Vụ trưởng Vụ ứng dụng và Quản lý Ngôn ngữ tiếng Trung, cho rằng những logo mà 20 đài truyền hình, trong đó có 12 kênh của CCTV, “đang vi phạm nhiều quy tắc, do đó cần phải được thay đổi”. Các logo này hoặc là dùng tiếng Anh viết tắt hoặc là sự hòa trộn của tiếng Anh và tiếng Trung. Luật về Ngôn ngữ viết và nói tiếng Trung được ban hành hồi tháng 1/2001 quy định rõ các logo điện ảnh và truyền hình nhất thiết phải mang ngôn ngữ cơ bản của Trung Quốc, tức là tiếng Quan thoại. "Ngôn ngữ được sử dụng trên các logo truyền hình nên tuân theo luật để quảng bá văn hóa quốc gia", tờ Beijing Times trích đăng lời ông Wang. Nhưng một quan chức của CCTV cho rằng, đài truyền hình đang sử dụng logo rất dễ nhận biết và biểu tượng đó đã quen thuộc với khán giả từ hàng chục năm qua, thế nên “sẽ khó khăn nếu thay đổi” và “logo này sẽ chỉ được thay đổi nếu như các nhà chức trách cấp cao hơn thấy cần thiết phải làm như vậy”. Ông Jiang Zhipei, nguyên Chánh án của Tòa án Nhân dân Tối cao, cũng nhận thấy logo của CCTV không cần phải thay đổi. “Đài truyền hình Trung ương đã sử dụng nó trong 30 năm và bộ luật được ban hành sau đó rất lâu. Nhiều logo truyền hình, trong đó có cùa CCTV, có những giá trị thị trường nhất định. Nếu không được phép sử dụng thì các logo đó sẽ bị mất đi giá trị mà chúng đã tạo nên”. Tuy nhiên, có nhiều người lại ủng hộ việc thay đổi logo. Một cư dân mạng có nickname là Minshanxue viết rằng: “Là một đài truyền hình Quốc gia thì logo nên dùng hoàn toàn tiếng Trung vì nó ảnh hưởng tới hình ảnh quốc gia”. Đài truyền hình Trung ương Trung Quốc được thành lập vào năm 1958 và tên viết tắt tiếng Anh là CCTV được sử dụng từ năm 1978. 5.8 Tòa nhà REN: Tòa nhà REN được đề xuất làm khách sạn, trung tâm hội nghị và giải trí vào dịp Triển lãm thế giới World Expo tổ chức năm 2010 tại thành phố Thượng Hải. Đây là một công trình tầm cỡ của Trung Quốc. Công trình này cũng được nhà thiết kế cố giải thích theo hình tượng Ngũ Hành trong nguyên lý học thuật cổ đông phương ở mọi góc độ nhìn. Tuy vậy những giải thích hay gợi ý đó không thật sự phù hợp với cai nhìn Hình Lý Khí. Tổng thể công trình như một nửa dưới con người bị dựng thành bia đỡ đạn với hậu quả là trên thân hằng lên những vết lổ chổ của vết tích bị đạn băm và thân thể bị kiệt lực với đôi chân không đứng nỗi, chuẩn bị ngập sâu và chìm dần trong biển nước. Có thể nhìn ở một cảm quan khác thì công trình như một mảnh vải bị xé toạc ra làm đôi. Một mảnh vải cũ rách loan lỗ. vì vậy đậy cũng là một hình tượng mang khí vận không mấy khả quan cho một công trình được trù tính là nơi vui chơi giải trí, trung tâm hội nghị hay khách sạn cao cấp trong tương lai. 5.9 Khách sạn 5 sao Lotus – Hoa sen của Tập đoàn Riviera (Nhật Bản), tại Mễ Trì. Công trình khách sạn 5 sao Lotus tại Mễ Trì là sự hoài vọng của các chủ đầu tư. Nhưng với một Hình Lý Khí tiêu cực, ngay từ đầu tiến độ đầu tư và hiện quả kinh doanh đã có nhiều trắc trở. Tổng thể công trình được thể hiện theo phong cách Hậu hiện đại, nhưng bằng cái nhìn cảm quan Hình Lý Khí trong Phong thủy Lạc Việt thì đây như hình tượng của một đoàn xa lửa với những toa tàu bị chìm trong biển cả hay có thể liên tưởng đến một hình tượng rỏ hơn, như một cổ quan tài bị chìm trong biển nước. Và dù cho nhìn ở cảm quan nào hay dù là hình tượng đơn giản nhất với mái nhà lượn sóng hình tượng của thủy và khối công trình bên trong vuông dài tượng hình Mộc thì mộc này bị chìm ngập trong nước cũng đã thể hiện tính xấu trong ý nghĩa của Ngũ Hành. Và hiệu quả của nó được kiểm chứng qua các thông tin liên quan sau: Công ty CP phát triển Đô thị Kinh Bắc sẽ là chủ đầu tư dự án khách sạn Hoa Sen Theo Kinh tế đô thị - 23/10/2009 KTĐT - Chiều ngày 21/10, tại Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội, Tổng công ty CP XNK Xây dựng VN (Vinaconex) và Công ty Sản xuất thương mại và xây dựng Thiên Thanh đã xin rút lui khỏi dự án khách sạn 5 sao Lotus (Hoa Sen). Như vậy, chỉ còn lại Công ty CP phát triển Đô thị Kinh Bắc (KBC) là nhà đầu tư duy nhất được Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội lựa chọn để trình UBND Thành phố Hà Nội quyết định. Dự án khách sạn Hoa Sen (cạnh Trung tâm Hội nghị Quốc gia, xã Mễ Trì, huyện Từ Liêm, Hà Nội) có diện tích khoảng 4,3 ha với thiết kế gồm 550 phòng sang trọng. Vốn đầu tư dự kiến khoảng 500 triệu USD. Đây là dự án khách sạn lớn nhất tại Hà Nội. Theo yêu cầu của thành phố Hà Nội, nhà đầu tư cần phải chứng minh được tài chính. Cụ thể, phải nộp bảo lãnh thực hiện dự án bằng 10% tổng mức đầu tư (25 triệu USD) trong vòng 15 ngày kể từ khi nhận được quyết định lựa chọn chủ đầu tư; 30 ngày sau khi nhận giấy chứng nhận đầu tư - chủ đầu tư nộp 5,5 triệu USD tiền ủng hộ không hoàn lại cho ngân sách TP Hà Nội. Trước đó, Tổng công ty CP Kinh Bắc đã làm việc với nhà đầu tư Nhật Bản để nhận lại tài liệu thiết kế và các tài liệu liên quan và có nhiều cam kết trong đó có cam kết về nộp ngay tiền bảo lãnh và tiền thuê đất. Đây là dự án qui mô đầu tư lớn, thuộc lĩnh vực Thành phố chủ trương khuyến khích kêu gọi đầu tư, thuộc danh mục đăng ký khuyến khích hoàn thành đúng dịp kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội, có vị trí thuận lợi, giá trị thương mại cao vào bậc nhất hiện nay tại khu vực cửa ngõ phía Tây vào trung tâm Thủ đô - nếu trì hoãn lâu không triển khai sẽ lãng phí tài nguyên đất đai. V.B 5.10 Tòa nhà Thuận Kiều Plaza. Tọa lạc ngay trung tâm quận 5 Tp HCM, nơi hoạt động kinh tế nặng động và sầm uất nhất Sài Gòn. Vậy mà cho đến hiện nay, các hoạt động nơi đây đều kém hiệu quả. Riêng đa phần các căn hộ của ba tòa nhà đều như bỏ hoang. Tổng thể công trình như hình ảnh con tàu Titanic nổi tiếng với 3 cột khối tàu quá khổ cao vút và con tàu bị cắt đôi bởi con đường băng ngang ngay đoạn giữa thân tàu. Ba ống khói lớn hơn tổng thể thân tàu thể hiện sự mất cân đối, lại thêm con đường cắt ngang thân thể hiện một hình tượng không mấy tốt đẹp. Nếu nhìn bằng một cảm quan khác, ba tòa nhà như ba nén nhang to tướng cắm trên mộ bia. Mặt khác nếu chỉ xét riêng ba tòa nhà thì hình thể cả ba đều thuộc cách xấu, vì không những khuyết góc mà còn bị phạm vẻ góc cạnh xương xẩu. Ba khối công trình lớn ở giữa cân đối với khối công trình nằm ngang có hai đầu nhô tạo cách “ Nhị quỷ đài kiện” (hai con quỷ chửi nhau). Và khi nhìn bên trong tòa nhà thì một lối chi chính ở giữa giao với các lối đi ngang tạo thế “Bại hổ phân thây” ( như con hổ bị căn ra lột da xẻo thịt). Hoặc có thể tưởng tượng được hình ảnh của ba mũi khoan khoan vào một khối bê tông giữa chừng bị đứt đoạn và dính chặt. Tóm lại, đây là một công trình còn có khá nhiều yếu tố khác và nhiều điểm khác thất bại về mặt phong thủy. 5.11 Dự án cao ốc văn phòng - trung tâm thương mại - căn hộ cao cấp tại 289 Trần Hưng Đạo, Quận 1. Đây là một công trình dân dụng tư nhân, theo dự án sẽ khởi công vào ngày 1/11/2009. hình thể công trình mang phong cách Hậu hiện đại thể hiện một ý tưởng táo bạo và lạ lẫm trong hình tượng kiến trúc. Hai khối kiến trúc hình tam giác chồng lên nhau thuộc hỏa hình thể hiện một ý chí mạnh mẽ muốn đạt được mọi thành quả trong kinh doanh khi công trình này hoàn tất. Hai khối tam giác chồng lên nhau thành hình ảnh như một cây búa hay lưỡi rìu với đầu rìu bên trên chém về một hướng hể hiện ý chí san bằng mọi thử thách và cản trở trên bước đường kinh doanh, vô hình trung tạo một luồng sát khí đủ lớn và đủ mạnh làm phương hại cho môi trường phong thủy mà hướng lưỡi rìu này chém tới, chứng tỏ một tinh thần độc đoán và ít khi tạo được sự thân thiện với môi trường xung quanh hay những đối tác xung quanh. Hơn nữa, tổng thể khối kiến trúc tạo một cảm quan mất thăng bằng khi phần dưới, tầng trệt, không thể hiện được sự vững chãi với cấu trúc chênh vênh. Và nhìn như thế nào đi chăng nữa thì khối kiến trúc cũng phạm phải cách “lộ cốt” giơ xương trên toàn diện công trình thể hiện những gian truân có thể đưa đến một thất bại nặng nề khi khí vận xấu phát tác. Nếu xét với một cảm quan nhẹ nhàn hơn thì khối công trình như hai phần bánh bông lan hay hai phần phô mai bị chuột gậm được xếp chồng lênh nhau rất chênh vênh. Đây là sự phân tích các yếu tố xấu đối với bản thân công trình, nhưng đều nguy hại không kém là chính hình tượng công trình tạo một trường sát khí lớn ảnh hưởng đến môi trường xung quanh mà khí sát của công trình này hướng tới. 6. Tạm kết Qua những nhận định và phân tích trên theo quan niệm Hình Lý Khí trong Phong Thủy Lạc Việt, cho thấy rằng sự thể hiện bằng hình tượng của công trình kiến trúc mang yếu tố của tính dự báo cho xu hướng tồn tại của thực thể đó trong không thời gian và sự đo lường về mức độ nhanh chậm nặng nhẹ của tương tác còn phải dựa trên những yếu tố khác của phong thủy. Cho dù có sự nghi ngờ về tính xác thực cũng như phương pháp luận của Hình Lý Khí so với các trường phái khoa học thực nghiệm hay thí nghiệm thì tính vận mệnh được quán xét trên đối tượng tương tác theo lý “hình nào khí đó” vẫn tồn tại theo quy luật khách quan. Trong khi kiến trúc Hậu hiện đại xem tính hình tượng chỉ như sự thể hiện ý tưởng trong thiết kế kiến trúc để thỏa mãn tính sáng tạo, thỏa mãn tiêu chí gọi là phong cách và dừng lại ở mục đích này thì quan niệm Hình Lý Khí luôn xét đến ý nghĩa đó có mang lại ý nghĩa tích cực hay không và hình tượng đó có tạo ra khí vận xấu hay không đó là tiêu chí hàng đầu cũng như mục đích cuối cùng khi tư duy hình tượng. Bởi vậy hình khí mang ý nghĩa quan trọng trong kiến trúc, vì đây là một trong những yếu tố tạo nên tiêu chí gọi là Tốt, cát tường trong phong thủy.