-
Số nội dung
6.278 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
75
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Thiên Đồng
-
Phụ nữ hiện đại, các nàng muốn gì? Yahoo! Nàng – 4 giờ trước Trời Sài Gòn tháng 3 nóng như đổ lửa, nhưng không khí tranh luận trên Yahoo! Nàng trong 1 tháng diễn ra Nàng nói thật càng sôi sục hơn. Gần 2 triệu người, trong đó có đến 1/3 là đàn ông đã nhập cuộc tìm hiểu những quan niệm thực sự của Nàng trong thế giới @ hiện đại. Xôn xao nghe Nàng nói thật Chỉ với 10 chủ đề đưa ra, đã có hơn 11 triệu lượt xem, một cột mốc hầu như chưa từng có cho một diễn đàn. Gần 300.000 phiếu trả lời thăm dò ý kiến, khoảng 20.000 bình luận về các luận điểm của người viết… Những con số ấy tự thân nói lên mức nóng bỏng của các vấn đề muôn thuở trong thế giới của nàng: sắc đẹp, chồng con, quan hệ mẹ chồng – nàng dâu, tham vọng sự nghiệp, nhu cầu tình dục, tiền bạc… Không chỉ dừng lại trên mặt trang Yahoo! Nàng, sự ‘xôm tụ’ còn lan ra cả hàng trăm trang web khác. Chỉ cần search thử câu ‘tuyên ngôn’ dễ ‘xa nhau’ của tác giả nữ trong bài viết Trai nghèo là trai bất tài là đã có danh sách hơn 10 trang kết quả. Từ diễn đàn Web Trẻ Thơ, báo mạng 24h, diễn đàn của các nhóm hội, cho đến những trang cá nhân trên Yahoo! 360plus, facebook, ở tất cả những nơi này, chủ đề lấy lại từ Yahoo! Nàng đều gây xôn xao bàn luận. Tranh cãi, thậm chí ném đá gay gắt tới mức có chủ nhân tạo topic nọ đã phải thanh minh “chỉ copy và paste vào thôi. Có ý kiến gì thì tranh luận, hà cớ gì ‘chém’ người post”. Nàng hiện đại muốn gì? Với những góc tiếp cận đôi khi trái chiều, có phần khác với quan điểm truyền thống, chạm vào tự ái của không ít người, loạt 10 chủ đề của Nàng nói thật đã khắc họa lên phần nào chân dung của người phụ nữ hiện đại thông qua ý kiến phản hồi của cộng đồng. Rút cuộc, bức chân dung ấy, đã hiện lên thế nào? Đứng trước câu hỏi Ngoại hình có quan trọng với phụ nữ hay không, 45%, tương đương với gần 20.000 người đã chọn “Có, nhưng ngoài sắc đẹp vẫn cần đến tâm hồn”. Trước giả thuyết nếu có người giàu hơn theo đuổi, có đến 43% , tương đương hơn 11.000 cô gái đã chọn giải pháp 'sẽ cùng người yêu hiện tại nỗ lực để kiếm tiền" so với chỉ 16% bạn đọc chọn giải pháp "chọn người giàu hơn để đảm bảo tương lai". Với câu hỏi đầy tế nhị về “trinh tiết hay không trinh tiết”, 41% bạn đọc khẳng định "giữ gìn cái ngàn vàng hay không là tuỳ mỗi người, nhưng nếu cởi mở để trao thì phải đủ bản lĩnh". Về quan niệm thỏa mãn tình dục như một nhu cầu chính đáng, gần 40% cho rằng không chấp nhận được kiểu phụ nữ đó, nhưng đến gần 30% lại chấp thuận, miễn là kín đáo để tránh điều tiếng. Câu hỏi về có nên lấy chồng hay không, nhận được 41% các nàng suy nghĩ chưa chắc lấy chồng đã hạnh phúc, nhưng sống độc thân cả đời thì đúng là bất hạnh. Trước cuộc chiến muôn thủa giữa "mẹ chồng, nàng dâu", 44% phụ nữ theo khảo sát của Yahoo! Nàng khẳng định "phải biết lấy lòng mẹ chồng, như thế mới vui cửa yên nhà". Về tình huống chồng ngoại tình, có đến 35% bạn đọc bình chọn giải pháp "Nếu chồng vẫn tốt với gia đình thì thôi", trong khi đó 28% bạn đọc khẳng định "sẽ ly dị ngay nếu chồng ngoại tình". Để đánh dấu sự hiện diện chính thức tại địa chỉ http://vn.nang.yahoo.com/ , trở thành trang web hàng đầu khi tìm hiểu các thông tin cho phụ nữ, Yahoo! Nàng sẽ mời 100 phụ nữ hiện đại, xinh đẹp, đảm đang và thành đạt tham dự ngày hội của Nàng, tổ chức vào ngày 20-4 sắp tới. Nếu bạn là phụ nữ, nếu bạn quan tâm đến phụ nữ và luôn yêu thương, cần đến phụ nữ trong cuộc đời mình, hãy cùng khám phá Yahoo! Nàng để hiểu nhiều hơn về phụ nữ!
-
Dưới đây là bản đồ hệ thống hoá do Ngô Sĩ Liên ghi ra trên giấy. Truyền thuyết của Tàu cho rằng Thần Nông, sáng lập nông nghiệp, là vua trực tiếp của họ. Truyền thuyết Việt Nam lại chỉ nhận Thần Nông là ông tổ lai căn xa xôi mà thôi. Cháu ba đời của Thần Nông là Đế Minh. ĐẾ MINH (Tàu) ↓ ↓ ĐẾ NGHI (Tàu) Mẹ Tàu LỘC TỤC (Tàu lai) Mẹ là Vụ Tiên Nữ (Việt) ↓ ĐẾ LAI (Tàu) LẠC LONG QUÂN (Tàu lai) + cháu gái họ là Âu Cơ ↓ ↓ ÂU CƠ (gái Tàu) TỔ BÁCH VIỆT Truyền thuyết của ta cũng nhiêu khê lắm. Cứ theo truyền thuyết đó thì Lạc Long Quân lấy cháu họ của mình vì bà Âu Cơ là con Đế Lai. Theo chế độ mẫu hệ kia thì được, vì con theo hệ của mẹ chớ không theo hệ của cha, và anh em, chị em nhà chú nhà bác có thể lấy nhau. Nhưng dầu sao, tước bỏ hết những huyền hoặc trong đó, cũng còn lại Việt có lai Tàu rất là xa xôi, chớ không là hậu duệ trực tiếp của Tàu. Nhưng điểm đó lại mâu thuẫn với khoa khảo tiền sử là Mã Lai Hoa Nam lúc di cư là thuần Mã Lai. Như thế thì ta phải tin khảo tiền sử hơn. Nhưng truyền thuyết đã kể như vậy thì ta cũng không thể bỏ qua. Ta giả thuyết rằng kẻ lãnh đạo của Mã Lai đợt II di cư đến Cổ Việt có thể là Tàu lai thật sự, một đứa con rơi không được Tàu chấp nhận nên làm Việt, hoặc làm Việt vì đã nắm được quyền lãnh đạo một nhóm Việt. Mà như vậy thì đó là truyền thuyết của Mường là Mã Lai đợt II gốc Hoa Nam, chớ không phải truyền thuyết của ta vì ta đa số là Mã Lai đợt I. Dầu sao Mã Lai đợt II ở Cổ Việt cũng đã hợp tác lớn lao với vua Hùng Vương và chính họ đã đưa trống đồng tới, thì ta cũng xét tới cùng về truyền thuyết của họ mà ta cũng xem là của tổ tiên ta, vì hiện nay không còn người Việt Nam nào mà biết mình thuộc đợt I hay II nữa cả. Người Mường chỉ bất hợp tác với Mã Viện mà tách riêng ra chớ trước đó, trong nhiều trăm năm, họ đã hợp tác chặt chẽ với vua Hùng Vương, đã lai giống đợt I tại Giao Chỉ rất nhiều, bằng chứng là ngôn ngữ ta đầy dẫy danh từ của Mã Lai đợt II, còn ngôn ngữ Mường thì cũng chứa đựng khá nhiều danh từ của đợt I. Nhượng Tống không biết rằng ta là Mã Lai hỗn hợp nên đã mắng Ngô Sĩ Liên tắt bếp khi Ngô Sĩ Liên đưa truyền thuyết Mường vào sử ta (ta sẽ biết rõ người hơn ở chương Làng Cườm). Nhưng Ngô Sĩ Liên đã có lý hẳn hòi mà làm như vậy vì sự hợp tác quá lớn lao giữa đợt I và đợt II ở Giao Chỉ, trước khi Trung Hoa đến nơi. Họ Nguyễn hay họ Trần là con cháu Hùng Vương, họ Lê hay họ Phạm là con cháu của Mường, thật không còn ai biết nữa cả. Trái lại các nhà ngôn ngữ học biết rằng Việt ngữ tách rời khỏi Mường ngữ không lâu lắm. Họ nói không minh bạch, chớ đáng lý gì phải nói Việt ngữ tách khỏi Mã Lai ngữ đợt II không lâu lắm và riêng chúng tôi sẽ có bằng chứng là tới thế kỷ 17 ta vẫn còn dùng Mã Lai ngữ chưa biến dạng và cho đến thời Minh Mạng, tức đến thế kỷ 19, ta vẫn còn gọi Thuận An là cửa Eo. Eo là danh từ Mã Lai đợt II mà ta dùng không có biến một âm nhỏ nào hết. Vậy truyền thuyết Mường có giá trị như là truyền thuyết của ta và xin trở về với ông Tàu lai Việt là Lạc Long Quân. Sự lai giống đó là vua Việt lai giống chớ không phải là dân Việt. Ngay ở chương sau đây, nghiên cứu về chủng Mã Lai, khoa khảo tiền sử cho ta biết rằng Mã Lai không hề có lai giống với Tàu trước khi di cư xuống Cổ Việt. Một người ngoại quốc, nhảy lên làm vua của một dân tộc nào đó, rất thường xảy ra trong lịch sử nhân loại, mà chuyện mới nhứt là chuyện của một tên phiêu lưu Pháp André Marie nhảy lên làm vua của đồng bào Thượng trên Cao nguyên, bị Pháp hạ, anh ta mới xuống, không thôi anh làm vua ở đó và truyền ngôi cho con cho cháu mấy trăm năm cũng chưa thôi. Nhưng, đừng ngộ nhận, đừng lầm lẫn vua và dân. Ông vua có thể là hậu duệ của Thần Nông, nhưng dân thì không. Chớ nên quên điều đó. Phương chi Lạc Long Quân đã bị lai tới ba đời, mẹ ông ta là Việt thuần chủng, còn cha ông ta là Tàu lai Việt, thì còn gì là máu Tàu trong người của ông ta? Tưởng cũng nên nói rằng chữ Âu, các nhà nho ta đọc là Âu, nhưng Quan Thoại đọc là Ngê U, và khi kể truyện Lạc Long Quân và Âu Cơ, người Mường đọc là Ngu Cơ chớ không là Âu Cơ như ta. Thế nghĩa là người Mường còn nhớ lối gọi cổ thời. Chúng tôi không biết danh xưng Âu là danh xưng hay là tên mà Tàu đã đặt để gọi dân đó. Nhưng bằng vào lối gọi của người Mường, họ đọc chữ Âu là Ngu, gần giống Tàu Quan Thoại là Ngê U, ta có thể suy đoán rằng Âu là danh tự xưng. Quả thật thế, người Mường không có chịu ảnh hưởng của Tàu, nhưng họ lại đọc cái danh xưng đó giống người Tàu, vậy thì họ đọc theo sự nghe Âu tự xưng, Tàu cũng thế. Nếu họ đọc qua trung gian của người Tàu như ta, thì họ phải đọc sai, và sai y hệt như ta, vì họ là ta. (Ta sẽ thấy như vậy ở một chương sau) nghĩa là họ phải đọc Âu chớ không là Ngu. Chỉ phiền là trong truyền thuyết đó người Mường lại cho rằng bà Ngu Cơ là bà thánh tổ của họ. Thế thì không còn gì chất Âu tức Thái trong vụ Âu Cơ cả. Thế nên ta mới hiểu rằng truyền thuyết ám chỉ sự tách rời ta với Mường. Có lẽ người Mường không giải thích được sự kiện tách rời đó, và nhân thấy họ và ta quả có tách rời và họ lên núi rừng, nên họ tự đồng hoá với Âu, và đó chỉ là một lầm lẫn mà thôi, vì ở chương người Mường chúng tôi sẽ trình chứng tích rằng họ là Mã Lai đợt II, tức là Lạc bộ Mã. Nước Tây Âu thành lập vào thời nào, không ai biết cả, và đó là nước của người Thái chớ không phải là của người Lạc. Chúng tôi sẽ chứng minh điều đó khi xét lại sai lầm của bao nhiêu là cuốn sử cho rằng Tây Âu = Cổ Việt Nam. Dầu sao nó cũng thành lập cùng lúc với nước Thục và Văn Lang, và rồi ta sẽ thấy rằng khi Thục bị mất nước thì quý tộc Thục chạy xuống nước Tây Âu đồng ngôn và đồng chủng. Tây Âu thu hút tất cả các dân Âu ở Hoa Nam bị Tàu đánh đuổi, nên Âu không hề có di cư đi đâu cả, cho tới ngày bị Tần Thỉ Hoàng diệt quốc. Sau ngày đó họ cũng không có di cư. Chỉ từ thế kỷ thứ 8, 9, 10 tới 13 sau Tây lịch, bị Tàu lấn đất dữ quá, họ mới di cư đến thượng du Bắc Việt mà thôi. Đó là một quốc gia Âu hùng cường bực nhứt trong các quốc gia ở phía trên chạy xuống, và khi Tàu vất vả diệt xong họ, kiểm tra dân số thì thấy Tây Âu 10 lần đông đảo hơn Mân Việt. Âu Lạc, Đông Âu, v.v. Nước ấy hùng cường và bất phục Tàu nên Tần Thỉ Hoàng mới gọi dân Tây Âu là dân Lục Lương, tức dân du côn. Ta có thể tưởng tượng rằng sau khi Cửu Lê vượt Hoàng Hà thì có một nhóm Âu chạy xa nhứt đến Lưỡng Quảng để về sau lập ra nước Tây Âu, và nhờ chạy xa như vậy nên họ mới tồn tại đến đời Tần, khác với các quốc gia Âu và Lạc khác ở Hoa Nam đều bị Sở diệt tất cả. Nhưng học ngôn ngữ Thái, chúng tôi thấy có một số danh từ Mã Lai đợt II, tức Lạc bộ Mã, tức Mã Lai Nam Dương. Thế nghĩa là cái nước của chi Âu đó cũng có chứa dân Lạc Hoa Nam, chớ không thuần Âu, y hệt như cổ Việt Nam không thuần Lạc bộ Trãi tức không thuần Mã Lai đợt I. Hơn thế, ngôn ngữ của họ lại dung túng nhiều danh từ của chủng Mê-la-nê hơn ngôn ngữ Việt Nam, thì hẳn họ đồng chủng với Mê-la-nê nhiều hơn ta. Mê-la-nê là cái chủng đã làm chủ Hoa Nam và Đông Nam Á lục địa, liền trước chủng Cổ Mã Lai. Lạc Việt còn chạy xa hơn họ nữa, nhóm tổ tiên ta chạy bằng đường thuỷ thì đã khác rồi, còn họ thì chạy bộ nên chúng tôi mới bảo đó là nhóm chạy xa nhứt, nghĩa là xa nhứt trong đám chạy bộ. Hơn thế họ lại là Âu chớ không phải Lạc, tức là xa nhứt của đám chạy bộ và của chi Âu, còn xa nhứt của đám chạy bằng đường biển và của chi Lạc là dân của đảo Célèbes, chớ cũng chẳng phải là dân Cổ Việt Nam, như khoa khảo tiền sử đã cho thấy. Tóm lại, Mã Lai đợt I, là Cửu Lê, và chia hai rõ rệt thành Âu và Lạc, sau khi bị Hiên Viên đánh đuổi. Họ thành lập nhiều quốc gia rất cổ, có lẽ đồng thời với nhau là Thục, Tây Âu (chi Âu) và Văn Lang (chi Lạc), còn các quốc gia Việt danh tiếng khác ở Hoa Lạc nằm sẵn tại Hoa Nam chỉ là quốc gia của Mã Lai đợt Iim tức của bộ Mã, tức Lạc nằm sẵn tại Hoa Nam. Lạc bộ Trãi và Âu cũng có lập quốc ở Hoa Nam, nhưng không thọ, trừ một quốc gia độc nhứt là Tây Âu, nhờ ở xa Tàu nhứt. Chúng tôi đi gần lạc đường ở đoạn sau của chương nầy. Nhưng tiện dịp phải nói luôn cho xong, chớ phần chánh yếu của chương sách là chứng minh mấy điều sau đây: 1. Nước Tây Âu là một trong ba quốc gia Thái lớn nhứt trước Tây lịch kỷ nguyên: Ba Thục, Tây Âu và Ai Lao, tức tên xưa của một nước mà nay là tỉnh Vân Nam. Nước nầy mang tên ấy vì trung tâm của nó nằm tại Lao Sơn. Đó là danh xưng mà Tàu đặt ra để gọi nước ấy, chớ nó phải tự xưng khác, nhưng ta chưa truy ra danh tự xưng ấy được. 2. Tây Âu không dính líu gì tới Cổ Việt Nam cả, dân Thái không phải là dân Lạc Việt, mặc dầu đồng tông với nhau. 3. Không hề có sự sáp nhập đất đai của Tây Âu và Lạc Việt, để tạo ra một nước Tây Âu Lạc. Sau Lộ Bác Đức thì có sự sáp nhập đó, dưới cái tên Giao Chỉ, nhưng chỉ sáp nhập hành chánh mà thôi, nhưng rồi nhà Hán cũng tách ra ngay thành hai phần: Giao Châu và Quảng Châu. 4. Tần Thỉ Hoàng chỉ chiếm được Tây Âu mà không bao giờ chiếm được Cổ Việt Nam cả. 5. Vào đầu Tây lịch, Thượng du Bắc Việt là đất gần như là bỏ không, không có người Thái sinh sống ở đó. 6. Người Thái dưới thời Chiến Quốc được Tàu gọi là người Âu, nhưng dưới thời Hiên Viên được gọi là Cửu Lê, nhưng Lê cổ thời ấy lại cùng với Lạc họp thành một khối duy nhứt, trước khi tách hai ra để Lạc di cư đi Nhựt Bổn, Việt Nam, Nam Dương và Mỹ Châu. Còn Thái thì ta sẽ thấy sau là họ không bao giờ di cư bằng đường biển hết vì địa bàn của họ không ở gần biển. Họ vượt sông Hoàng Hà, rồi cũng lập quốc cạnh Lạc ở bình nguyên Vân Mộng, rồi bị Tàu đẩy họ xuống Hồ Nam rồi xuống Tây Âu. Thái đã có mặt ở Tây Âu vào thời Hiên Viên chưa, cũng như Lạc đã có mặt ở Phúc Kiến vào thời Hiên Viên chưa, không ai biết cả, chỉ biết rằng khi Bách Việt bị đẩy khỏi địa bàn Dương Tử thì nước Tây Âu đã có rồi, và bao nhiêu Thái đều đổ dồn vào đó, kể cả Thái Ba Thục bị mất nước hàng trăm năm trước đó cũng đổ dồn về Tây Âu, thành thử Tây Âu lớn mạnh vô cùng và đa số binh sĩ của Tần Thỉ Hoàng, đông nửa triệu người, chỉ chúi mũi vào Tây Âu mà thôi (Hoài Nam Tử). Qua lịch sử, Âu luôn luôn chiếm địa bàn núi rừng, còn Lạc luôn luôn chiếm địa bàn sông biển. Thế nên chúng tôi mới tin chắc truyền thuyết Âu Cơ và Lạc Long Quân bắt nguồn ở cái tình trạng đó, và Tiên Rồng chỉ là chuyện người đời thêm thắt vào cho hoa mỹ vậy thôi. Chủng Mã Lai gồm có 4 chi, chớ không phải 2, nhưng chỉ có truyền thuyết cho 2 chi Âu và Lạc, vì hai chi kia có địa bàn không dính với Âu và Lạc. Hai chi kia là chi Khơ Me mà Tàu phiên âm là Khương và chi Môn mà có lần Tàu cũng gọi bằng Lạc (nhưng với bộ Chuy) mà chi đó được gọi là Khuyển Nhung thường hơn. Cũng xin thêm rằng danh xưng Lê hiện nay cứ còn được dùng tại Hoa Nam. Ở đó, trừ Miêu tộc ra thì những người Việt chưa biến thành Tàu được gọi bằng lu bù thứ tên, nhưng có một nhóm cứ được gọi bằng Lê, và người Lê đồng nhứt là ở Hải Nam chớ không phải ở Lưỡng Quảng, mà đó là nhóm Lạc-Lê chớ không phải Thái hoặc Lạc. Nhưng dầu gọi bằng Bạch Di, La La, Thổ, Tài gì, họ cũng chỉ là một, tức Thái trắng và Thái đen. Chúng tôi có quen thân với một người Tàu ở Đông Hưng di cư sang đây. Đông Hưng là cái làng đối diện với Móng Cái của Việt Nam. Đó là người Hợp Phố của các đời Chu, Tần, Hán. Ông ấy nói tiếng Tàu, nhưng không sai giọng như người Quảng Đông, mà lại sai y hệt như người Hải Nam. Thế nghĩa là dân Hợp Phố là dân Lạc-Lê chính cống. Sử Tàu chép rằng quận Hợp Phố là quận lập ra bằng cách cắt đất của Nam Hải (Quảng Đông) và Giao Chỉ. Nhưng cái phần đất Giao Chỉ ấy thì dân lại là dân Lạc-Lê chớ không phải là dân Lạc. Thế nghĩa là vua Hùng Vương đã có thuộc địa rồi, vào thuở tiền Triệu Đà, thuộc địa đó là một phần đất Hợp Phố của chi Lạc-Lê, đó là chưa kể Cửu Chơn và Nhựt Nam cũng là thuộc địa mà chúng tôi sẽ chứng minh rằng là của một thứ dân kia tên là Lạc-Lê, một phụ chi của chi Lạc Việt. Ta có thể nói rằng Thái chỉ là chi quan trọng của Mã Lai, nhưng chỉ quan trọng về số lượng mà thôi, còn văn hoá thì không có gì rõ rệt, trong khi đó thì văn hoá Lạc-Lê rất là rõ. Kiến trúc của Lạc-Lê, mãi cho đến ngày nay vẫn còn giống hệt kiến trúc Mã Lai, còn Thái không được như thế, lại dễ bị ngoại lai (Tàu, Ấn Độ) thu hút, còn Lạc-Lê thì nhứt định bám níu vào dân tộc tính Lê cổ thời (Bọn sanh Lê còn sống sót hàng triệu). Sách tham khảo riêng cho chương nầy: Tả Khâu Minh: Tả Truyện, Bản dịch Tư Mã Thiên: Sử Ký, Bản dịch P. K. Benedict: - Thái, Kadai and Indonésian in new alingment in Southeastern Asia. - Ethnolinguistico groups of Mainland Southeastern Asia, Human Relations Area Fules. P. Daulin: Un japonais la cour des Tiang, BSEI 1965
-
@ Thanh Tu Cháu chào chú Thiên Đồng Mong chú giải đáp giúp cháu thêm mấy câu ạ :D Tuổi: Giáp Tý, Nam. Sinh lúc 5h30 ngày 20 tháng 01 năm 1985 Giờ hỏi 08 giờ 05 phút ngày 01 tháng 04 năm 2012 Dương lịch 1/ Lần trước nhờ anh xem nên bi h em đã khoanh lại đc hai người :D. Một sn 1986 một sn 1989. Hồi đầu năm tới giờ thì tình cảm của em với người sn 1989 tiến triển như anh nói. Nhưng mới đây có trục trặc chắc khó tiến xa đc nữa. Vậy nhờ anh xem là người nào? Người này sẽ là vợ em trong vòng 2 năm tới :D? Theo quẻ thì 1989 thấy có chiều hợp. Còn người nào là vợ thì...không biết luôn! 2/ Công ty em hiện đang có điều động nhân sự. Lần trước anh có xem công việc em sẽ có thay đổi, vậy không biết lần này em có bị điều động không, mặc dù khả năng bị điều đi là rất thấp. Sẽ có sự thiên chuyển. @ huyen nhung 1980 Kính gửi anh Thiên Đồng! Cảm ơn anh rất nhiều em vừa nhận được hồi âm của anh. Em có một số việc mong anh giúp đỡ. 1. Hôm qua chồng em cũng vừa qua phỏng vấn vòng 1 , kết quả cũng rất khả quan còn phải qua vòng 2 nữa nhưng cuối tháng này họ mới phỏng vấn tiếp, nên em mong anh xem giúp em có qua vòng 2 được không và lương thưởng có tốt hơn bên bảo hiểm không? Sẽ được mà. Lương khá hơn. 2. Hiện nay chúng em chuẩn bị chuyển về chung cư nhưng em đang mang bầu theo dự tính đến 19/6/2012 (dương lịch) và theo các anh các bác trên diễn đàn tư vấn là nên sinh xong mới chuyển về nhà mới và em cũng dự định như vây. Nên em muốn anh xem giúp em ngày naò có thể chuyển được (có thể chọn ngày gần với ngày sinh của em nhất thì tốt nhất nếu không có thì ngày tốt cho việc này là đươc anh ạ)? 15/5 âm (3/7 dương) 7g20-9g20 hay 11g20-13g20 3. Việc sinh nở và con em có khoẻ mạnh không? Khỏe mạnh bình an. Chớ lo. em hỏi vào lúc 14h05 ngày 13/04/2012. Tuổi chồng em 23/9/1975 (âm lịch) tuổi vợ 20/12/1980 (âm lịch) Cảm ơn anh rất nhiều. Thiên Đồng
-
Còn trước Triệu Đà, dưới thời Tần Thỉ Hoàng thì có di cư hay không? Cũng chắc chắn là không vì sử Tàu cho rằng xứ Tây Âu dư đất cần đem dân Tàu xuống định cư thì dân Tây Âu không mắc chứng gì mà di cư, bỏ quê hương xứ sở của họ. Cuộc di cư của người Miêu tộc vào Bắc Việt cách đây trên hai trăm năm, đã cho thấy như vậy. Họ chịu đựng người Tàu suốt 5 ngàn năm, rồi bị lấn đất dữ quá họ mới phải di cư. Tới Thượng du Bắc Việt, bị người Thái kháng cự không cho nhập cảnh, họ liều chết đổ máu với người Thái, cho đến lúc vua ta can thiệp, họ mới chạy lên các ngọn núi rồi được để yên trên đó từ ấy những nay. Dân bị trị đã chịu đựng được tới 5 ngàn năm không có vấn đề bỏ đất như thời Xy Vưu vì văn hoá đôi bên đã gần gũi nhau rồi. Tóm lại, lúc chia hai nước Nam Việt, nhà Hán phải nhớ đến hai nước cũ là Âu Lạc và Tây Âu, mà dân chúng còn nguyên vẹn vì có mấy trăm năm qua. Nhà Trần, rồi Triệu Đà, có muốn nhập hai thứ dân đó lại cũng không xong. Họ không dại mà cắt đất của nước nầy bỏ vào một châu khác bởi làm như vậy họ khó cai trị hơn, vì một đơn vị hành chánh cần trùng với một nước cũ để mọi biện pháp cải cách mới, được thi hành mà không gây xáo trộn nhiều cho dân phải bất mãn, luật cho Giao Châu phải khác luật cho Quảng Châu. Hơn thế người xưa luôn luôn cần biên giới tự nhiên (Frontières naturelles) vì họ không biết tính kinh tuyến vĩ tuyến như người thời nay, mà giữa Quảng Châu và Giao Châu lại có một thứ Ngũ Lĩnh loại bỏ túi như chúng tôi đã chỉ ở bức dư đồ nói về biên giới thật đúng của đất Ngũ Lĩnh. Hẳn Hùng Vương rồi An Dương Vương và Trạch Hu Tống đều dùng cái tiểu Ngũ Lĩnh đó để làm biên giới giữa hai nước Tây Âu và Văn Lang rồi Âu Lạc, không sao khác hơn được, bằng không, hoá ra giữa Tây Âu và Văn Lang không có biên giới tự nhiên mà như vậy là trái với quan niệm các quốc gia cổ thời, trái với chánh sách quốc phòng của họ. Tới đây, ta thấy rằng ông O. Jansé đã lầm khi nói rằng chính người Thái di cư đã khai hoá ta nhờ họ đã nhiễm văn minh Tàu. Tây Âu với ta đồng văn hoá thì không thể có việc họ khai hoá ta. Họ mà có theo văn minh Tàu để đủ sức khai hoá ta, theo văn minh Tàu, họ cũng phải mất 500 năm nhưng cho tới thời Triệu Đà họ vẫn chưa theo Tàu khi nhìn vào cổ vật Đông Sơn, sau Triệu Đà không bao lâu, mà ông O. Jansé viết như thế là viết liều. Và đây là bằng chứng thật đích xác rằng vào đầu Tây lịch người Thái không có mặt ở Thượng du Bắc Việt. Dưới đời Đường, một viên thứ sử (hay thái thú) ở Giao Chỉ là người Nhựt Bổn (theo sử Tàu). Ông ấy có công lớn với nhà Đường vì đã đánh dẹp được cuộc xâm lăng của dân Thái vào thượng du Giao Chỉ. Thế là rõ, đến nhà Đường họ mới xâm lăng, nhưng không thành công. Họ lại xâm lăng lần thứ nhì nữa, thành công, nhưng rồi cũng bị Cao Biền tiêu diệt. (Mà đó là Thái Vân Nam, khác với Thái Tây Âu). Nhưng tại sao hiện nay họ có mặt đông đảo tại thượng du? Ấy là vì vào thế kỷ XIII thì Tàu lấn đất quá khốc liệt, họ liều chết mà xâm lăng bất kỳ đất của ai, vì Tàu rượt theo họ bén gót. Họ lập ra hai quốc gia Xiêm và Lào chính vào thời đó. Còn ta thì không chống xâm lăng được vì dân ta không lên trên ấy được bởi sợ khí hậu ở đó, nên ta đành để vậy, dụ dỗ họ và cho quan thổ ty lên cai trị họ mà thôi. Và chứng tích vững như trụ đồng là người ta vừa đào được cổ vật loại Đông Sơn ở Thượng du Bắc Việt mà chúng tôi đã nói đến ở chương trước, đồng tuổi và đồng loại với cổ vật lưu vực Hồng Hà và khác cổ vật Lưỡng Quảng. Hai dân tộc Việt Thái đều có chung văn hoá trước Tây lịch và đều Mã Lai với nhau cả, nhưng chính vì họ chia thành hai dân tộc nên cổ vật Lưỡng Quảng mới có tánh cách khác cổ vật Việt Nam. Thế là rõ. Trước Tây lịch và liền sau Tây lịch, Thái vẫn chưa có mặt ở Thượng du Bắc Việt và nước Tây Âu với nước Âu Lạc là hai nước phân minh đồng chủng tộc, nhưng khác dân tộc. Và không có lý do để lẫn lộn Tây Âu và Âu Lạc nữa. Nhưng nếu chủ trương theo chúng tôi thì làm sao cắt nghĩa nổi sự kiện người Thái Thượng du Bắc Việt thờ hai bà Trưng? Quả thật thế, người Pháp đã tìm thấy đền thờ hai bà Trưng trong vùng đất Thái thượng du ngày nay, đền rất nhỏ và việc phụng tự cũng lôi thôi, nhưng chứng minh được sự có mặt của Thái vào thời ấy ở xứ ta, nhưng đồng thời cũng lại chứng minh rằng họ chỉ là kẻ hợp tác chớ không phải là Lạc Việt, chính nhờ sự nhỏ nhoi của đền thờ và việc thờ phượng lôi thôi cho thấy như vậy, khác xa với đền Hát Môn của ta và những nghi lễ vĩ đại của ta vào ngày lễ hai Bà. Đã bảo chủng tộc nầy có thể vay mượn thần thánh và cả phong tục toàn bộ của chủng tộc khác, nhưng không vay mượn anh hùng, thì đền thờ hai Bà trên đất Thái thượng du có ý nghĩa gì? Đó là người Lạc Việt gốc Tây Âu, họ vốn là lính của An Dương Vương và đã bị đồng hoá với Lạc Việt. Chúng ta đã thấy rõ ở một nơi khác là sau khi bị diệt quốc, hậu duệ của vua nước Thục, cũng là một nước của dân tộc Thái ở Tây Trung Hoa, di cư xuống Tây Âu, ở đó họ mộ lính Tây Âu để cướp nước Văn Lang của Hùng Vương. Thắng trận, lên ngôi, tự xưng An Dương Vương, họ không cho ba vạn quân Tây Âu đánh giặc mướn hồi hương, vì sẽ không còn ai để củng cố nền thống trị của họ. Dĩ nhiên bọn lính Tây Âu đó lấy vợ Lạc Việt và 110 năm sau, đến năm hai bà Trưng khởi nghĩa thì đã có ít lắm là 5 thế hệ dân Lạc Thái, nhưng bị đồng hoá với Lạc vì họ là thiểu số. Nhưng vua Tự Đức chỉ thạo văn thơ, không biết gì khác hết thì còn cho qua được, chớ những ông H. Maspéro, L. Aurousseau thì không thể tha thứ về sự sai lầm nầy, phương chi ông H. Maspéro đã sang Tàu để nghiên cứu Thái và Miêu thì sao ông lại không biết hai điều nầy: 1. Cái địa bàn Thái đã nói trong bức dư đồ kia, tuy ông không vẽ ra được, nhưng hẳn ông có quan sát, có thấy. 2. Địa bàn đó từ xưa đến nay không hề thay đổi, hay có mà chỉ thay đổi có một phần sáu là đồng bằng Quảng Đông nay đã bị người Tàu gốc Âu chiếm hết, người Thái còn lại ở Quảng Đông rất là hiếm hoi. Các ông không được phép không biết rằng dân Tây Âu là dân Thái để viết liều rằng Tây Âu = Bắc Kỳ. Các ông cũng không được phép không biết rằng Thượng du Bắc Việt không thể nào đương đầu nổi với Tần Thỉ Hoàng suốt một thời gian dài từ 7 đến 10 năm mà thắng lợi trong 3 năm đầu, để hiểu rằng: Tây Âu = Thượng du Bắc Kỳ Ta lại thử đặt ra câu hỏi thứ nhì. Sử Tàu chép rằng họ xén đất của quận Nam Hải (Quảng Đông) và của quận Giao Chỉ (Bắc Việt) để lập ra quận Hợp Phố. Quận Hợp Phố ngày nay thì thuộc vào tỉnh Quảng Đông. Vậy ta có mất đất vào tỉnh Quảng Đông chăng? Ai cũng cứ tưởng là có. Nhưng không. Cái phần đất bị xén ấy chỉ là thuộc địa mới của vua Hùng Vương mà thôi. Quả thật thế, người Tàu ở Đông Hưng - Móng Cáy (Hợp Phố xưa, thuộc đất Giao Chỉ) nói tiếng Tàu sai giọng, nhưng không phải sai như người Quảng Đông hay người Việt Nam, mà sai y hệt người Hải Nam. Ở nơi khác, chúng tôi sẽ chứng minh rằng dân Hải Nam là dân Lạc-Lê thời kỳ Xy Vưu, chớ không phải là dân Lạc bộ Trãi. Ở Cửu Chơn cũng thế. Vậy Hợp Phố và Cửu Chơn là đất của người Lạc-Lê mà vua Hùng Vương mới chinh phục, chưa kịp khai hoá rồi bị mất nước, nên hai đất ấy lọt vào tay Triệu Đà, rồi Lộ Bác Đức, rồi Mã Viện. Có chứng tích vững vàng về cuộc chinh phục của vua Hùng Vương (xin xem chương Không có đế quốc Việt Nam). * * * Ta thử tìm xem người Thái cổ thời còn địa bàn nào khác nữa hay chăng và liên hệ giữa họ và ta ra sao. Lúc đánh vào Ngũ Lĩnh, sử Tàu không còn phân biệt gì nữa hết. Đông Âu, Tây Âu, Mân Việt gì cũng bị gọi là Việt hết thảy. (Chính vì vậy mà nhiều sử gia ta mới lầm; hễ sách Tàu nói gì về dân Việt ở đó, thì họ đều cho là nói đến ta, thí dụ Lưu An nói đến việc chạy lên núi của dân Việt, thì các ông liền cho rằng Việt đó là Việt Nam). Chẳng những Tàu không phân biệt, họ còn nhập lại, vì trong thư tịch Trung Hoa vào thời ấy danh xưng Âu Việt xuất hiện, thay cho Tây Âu. Ngày nay khoa chủng tộc học đo sọ thì thấy sọ Thái và sọ Việt Nam là một, ngôn ngữ của hai dân tộc gần giống nhau thì hẳn người Trung Hoa, mặc dầu không biết chủng tộc học, ngôn ngữ học vào thuở ấy, vẫn biết quan sát rất là giỏi. Âu là một chi của chủng Mã Lai. Địa bàn đầu tiên của Âu tức là Thái ở Hoa Bắc, Âu có lẽ là nhóm dữ tợn nhứt trong Cửu Lê. Tại sao ta biết rằng Thái là một chi của Mã Lai Cửu Lê? Vì cái sọ Thái, sọ Việt và sọ Mã Lai y hệt như nhau, và vì ngôn ngữ Thái, Mã Lai và Việt là một. Người Thái tự xưng là gì hồi cổ thời? Có lẽ là Lai, như tám chi khác. Tàu phiên âm sai là Lê. Nhưng rồi họ lại tự xưng khác đi, tự xưng là Âu, khi họ lập ra quốc gia Đông Âu và Tây Âu. Ta biết chắc Âu là danh tự xưng chớ không phải là danh xưng mà Tàu đặt ra cho họ, nhờ người Mường, mà ta sẽ thấy lát nữa đây. Nhưng tại sao đồng chủng Mã Lai với nhau mà Mã Lai, Thái lại vừa có Thái trắng, vừa có Thái đen, và vài nhóm Thái khác, được ta và Tàu gọi là Thổ và Lô Lô cũng rất trắng? Đó là một bí mật tưởng không thể cắt nghĩa trôi, nhưng cũng có thể cắt nghĩa được. Trước khi dân Mã Lai di cư sang nước Nhật thì nước đó là của người Ai Nô mà Nhật gọi là Hà Di. Người Ai Nô thuộc chủng da trắng. Giữa Trung Hoa và Nhựt Bổn có một dãy đảo nhỏ, các đảo Lau Cầu. Người Ai Nô làm chủ nước Nhật thượng cổ hẳn cũng có mặt ở Trung Hoa, và một cuộc hợp chủng giữa Mã Lai, Trung Hoa và Ai Nô hẳn có xảy ra. Mã Lai Nhựt Bổn rất trắng, chính nhờ sự hợp chủng đó. Một địa bàn Âu nữa ở phía Tây nước Tàu xưa. Đó là Tứ Xuyên ngày nay và Cổ Thục xưa. Các nhà chủng tộc học cho biết rằng người Tàu Tứ Xuyên là người Hoa gốc Thái. Chúng tôi học cổ ngữ Ba Thục và cũng thấy như vậy. Đó là không kể địa bàn Vân Nam mà ai cũng biết. Thế thì địa bàn của Thái liên tục và lớn hơn địa bàn Lạc, nhưng chỉ toàn vùng núi rừng. Lúc mới đi học cổ ngữ Ba Thục tại Sài Gòn, chúng tôi thấy danh từ Cổ Thục quá giống danh từ Việt, chúng tôi ngỡ họ là hậu duệ của lính của An Dương Vương, nhưng xét kỹ ra thì không phải. Người Hẹ di cư tới Sài Gòn là di cư thẳng từ Quảng Tây chớ không phải là hậu duệ của lính An Dương Vương. Hơn thế, cổ ngữ Ba Thục, cổ ngữ Tây Âu và kim Việt ngữ đều giống kim Mã Lai ngữ. Như vậy là đồng gốc Mã Lai mà ra, chớ không phải Khách Gia bên Tàu nhờ là hậu duệ của An Dương Vương nên biết tiếng Việt, hậu duệ nầy của An Dương Vương ở lại Cổ Việt để thành Lạc Việt hoặc để thành Thái thượng du, trước cuộc xâm lăng Thái đời Đường. Khách Gia đó là con cháu thẳng dòng của dân nước Ba và nước Thục. Ta cần đặt ra câu hỏi nầy: “Khi An Dương Vương bị Triệu Đà diệt, có thể nào mà lính của ông ta chạy thối lui về Quảng Tây để hai ngàn năm sau di cư tới Chợ Lớn hay không?”. Ta trả lời dễ dàng rằng không có, vì sử chép rằng ông ấy trị vì tới 49 năm. Sau 49 năm không còn người lính nào mà còn tại ngũ được cả. Ông ta đã thu nạp các Lạc Tướng của Hùng Vương được rồi thì hẳn ông ta cũng không có mộ thêm người Ba Thục trẻ di cư xuống Tây Âu để bổ sung cho lính già mà có vấn đề chạy thối lui. Như vậy người Khách Gia ở Chợ Lớn không hề biết tiếng Việt Nam trước khi di cư tới Nông Nại Đại phố hay Chợ Lớn và họ không phải là con cháu của lính An Dương Vương. Nếu có những người lính quá già còn sống sót vào đời Triệu Đà, họ cũng không chạy đi đâu cả vì cái lẽ là họ đã quá già, đã thành người Lạc Việt rồi. Con cháu của họ cũng đã bị đồng hoá với Lạc Việt nên chẳng chạy đi đâu hết. Thế thì Ba Thục là Âu tức Thái, mà Thục, Âu, Lạc gì cũng là Mã Lai tuốt hết. Nếu việc đối chiếu sọ không nói lên gì được đối với những người không chuyên môn thì chương đối chiếu ngôn ngữ sẽ cho thấy cổ ngữ Ba Thục, cổ ngữ Tây Âu là một với kim ngữ Việt Nam, tất cả đều là Mã Lai. Chúng tôi lại tìm ra một địa bàn khác của cái chi Âu nầy vào thời Chiến quốc, ở dưới sông Dương Tử một chút. Tả Khâu Minh có nói đến một nước La, một dân tộc La dưới đời Chiến quốc, lập quốc đối diện với một nước của dân tộc Bộc Việt, tại cái nơi tên là bình nguyên Vân Mộng, ở gần hồ Động Đình. Danh xưng La ấy, ngày nay cũng còn và Tàu dùng để chỉ dân Lô Lô, tức cũng là dân Âu, tức Thái (xin xem chương sau về địa bàn cổ thời của chi Lạc). Địa bàn Quý Châu thì khỏi phải thắc mắc vì Nam Quý Châu hiện nay là địa bàn của dân Thái. Một ông cố đạo Pháp cho rằng dân Thái ở Nam Quý Châu là lính Thục của Tần Thỉ Hoàng, họ tàn sát hết đàn ông Miêu ở đó, rồi lấy đàn bà Miêu, sanh con đẻ cháu đến ngày nay. Đó là một ức thuyết sai hoàn toàn. Quý Châu là địa bàn Lạc Thái từ thời thượng cổ, bằng vào một quốc gia mà sử nhà Thương cho biết tên là nước Quỹ Phương. Sử Tàu cho biết nước Quỹ Phương ở phương Nam của họ, cái phương Nam đó, rất là đích xác, nhưng các sử gia của ta chỉ giữ có một chữ Nam, rồi phỏng đoán lung tung. Nước Quỹ Phương nầy được họ nói đến hồi thời nhà Thương, chớ không phải về sau nầy, mà như thế thì cái phương Nam ấy là phương Nam của địa bàn thứ nhứt của Hoa chủng ở đất Việt đời Hạ mà chúng tôi đã có trình bày rõ ở chương “Nguồn gốc Hoa chủng” tức chương “Chủng Trung Mông Gô Lích”, đó là phương Nam của đất Kinh Man, nơi mà đến đời Chu người Tàu lai Việt ở đó lập ra nước Sở. Tuy nhiên, vẫn chưa biết nước Quỹ Phương ở đâu. Sử Tàu chép rằng họ có đánh giặc với nước Quỹ Phương đó dưới đời nhà Ân, tức mạt diệp của đời Thương. Không nghe thắng bại sao cả, Tuy nhiên, cuộc chiến tranh đó cũng cho ta đoán biết rằng nước Quỹ Phương hẳn phải văn minh và tài giỏi, vì có bằng chứng rằng sau chiến tranh, họ còn y nguyên là một nước, chớ không có bị Trung Hoa tiêu diệt y như bất kỳ nước nào đã đánh nhau với Trung Hoa, trừ Đại Hàn và Việt Nam. Quả thật thế, đến đời Chu thì sử Tàu lại chép rằng một dòng quý tộc Trung Hoa đã cưới con gái nước Quỹ Phương làm vợ, sanh con, và cháu của y, về sau là Hùng Dịch, được vua nhà Chu phong cho ở nước Sở. Sử Tàu không hề nói phong cho Hùng Dịch về quê ngoại hay quê cố ngoại y, tức nước Quỹ Phương không phải là nước Sở. Đó là bằng chứng Quỹ Phương không ở trong đất Việt Kinh Man, mà ở dưới nữa. Và đó là dấu hiệu văn minh thứ nhì của nước Quỹ Phương; vì quý tộc Trung Hoa hẳn đâu có cưới gái Miêu quá xấu xí để làm vợ. Kể ra thì cổ sử Tàu có nói đến hàng trăm nước mà nhiều nước nay không biết ở đâu, nhưng ta thích tìm biết Quỹ Phương vì nước đó bị tình nghi là nước Việt Nam cổ thời, bởi trong truyền thuyết của ta, có chuyện Phù Đổng Thiên Vương đánh giặc Ân, và có truyền thuyết nói tên nước ta xưa là Xích Quỷ. Sách địa lý Tàu Tối tân Trung Quốc phân tỉnh đồ ngày nay, khẳng định rằng nước Quỹ Phương đích thị là tỉnh Quý Châu, Quỷ biến ra Quý. Xét ra thì không đúng. Bên Tàu có câu tục ngữ tả tỉnh Quý Châu, na ná như thế nầy: “Xứ đi ba thước thì gặp núi, đã ba ngày không thấy mặt trời một lần”. Một vùng đất như vậy, khó lòng mà giúp cho một dân tộc nào đó dựng lên một nước khá văn minh được tại nơi ấy. Bắc Quý Châu, hiện nay là địa bàn của người Miêu, mà có lẽ xưa kia cũng thế. Người Tàu không sống nơi đó được, trừ ở tỉnh lỵ và các huyện lỵ, thì họ không giành làm gì với người Miêu, và nhờ thế mà cho đến nay, qua năm ngàn năm rồi mà Miêu tộc cứ còn đất rất nhiều. Đó cũng là đất của chủng Thái nữa, Thái, Miêu sống lẫn lộn ở đó. Dầu sao, nước Quỹ Phương cũng không thể là của Miêu tộc vì theo các cuộc nghiên cứu dân tộc học thì cho đến ngày nay mà người Mèo vẫn còn bán du mục, chăn nuôi giỏi hơn là làm ruộng, thì cách đây trên ba ngàn năm, họ không thể đánh giặc với Trung Hoa mà còn giữ được nước, cũng không thể có con gái gả cho quý tộc Trung Hoa được. Nước Quỹ Phương không thể là của người Mèo, mà cũng không thể nằm tại Bắc Quý Châu, vì hầu hết các sử gia đều truy ra được rằng dưới đời Tần tỉnh Quý Châu tên là đất Dạ Lang, đất chớ không phải nước, như vài sử gia đã viết. Nếu nước Quỹ Phưng là ở đó, thì nước ấy bị tiêu diệt đi hồi nào không thấy sử Tàu chép, mà chỉ còn đất không có tổ chức và bị Tàu đặt tên là quận Kiện Vi? Quả đúng Dạ Lang không phải là tên nước và mãi cho đến cuối thế kỷ 17, Trung Hoa mới vào được vùng ấy, không phải vì ở đó có một nước rất mạnh mà vì nơi đó là núi rừng nhiều sơn lam chướng khí, đất lại quá xấu nên người Tàu không nỗ lực quân sự ở đó làm gì, với lại nó nằm trọn vẹn trong lãnh thổ Trung Hoa, không phải ở biên giới nên họ không vội. Có thể nào mà là một nước của người Thái hay không? Chắc là không vì Thái không có truyền thuyết đánh giặc Ân như ta, truyền thuyết thì ngày nay, đến cả nhà bác học cũng không dám xem thường. Truyền thuyết ấy lại ăn khớp với sử Tàu là nhà Ân tức nhà Thương quả có đánh nhau với nước Quỹ Phương. Cảm giác của người Việt rằng nước Quỹ Phương là nước của ta, có căn cứ chớ không phải là không, vì truyền thuyết của dân tộc, luôn luôn chứa đựng ít nhiều sự thật trong đó. Còn tại sao Quỹ Phương lại biến thành Xích Quỷ trong truyền thuyết của ta thì ta sẽ biết ở một chương sau, chỉ có điều là những học giả không tin truyền thuyết của dân tộc nói rằng lẽ nào tổ tiên ta lại đặt tên nước xấu đến thế: “Con quỷ đỏ” (Nhượng Tống). Nhưng chúng tôi có bằng chứng rằng nhiều quốc gia lấy quốc hiệu 10 lần xấu hơn Xích Quỷ nữa, chẳng hạn như nước Xiêm. Xiêm là biến thể Việt Nam của Syăm. Mà Syăm là tiếng Mã Lai có nghĩa là tù binh, đúng ra là Săm bu. Tại sao ngày xưa người Thái Lan lại đặt tên nước họ là nước “Tù Binh” thì chúng ta sẽ thấy ở một chương sau. Dầu sao sự kiện ấy cũng cắt nghĩa được tại sao ta lại có tên nước là “Quỷ đỏ” rất xấu xí. Như vậy nước Quỹ Phương có thể là một quốc gia Thái Việt ở Nam Quý Châu, ở đó, đất ít núi rừng hơn Bắc Quý Châu, và ta đã mất nước đó trong tay người Thái hiện tồn tại ngày nay ở đó, không rõ vào thời nào. Hoặc nước Quỹ Phương có lẽ tự diệt. Trong lãnh thổ Việt Nam có hai nước tự diệt đó là nước Xá của người Gia Rai và nước của người Mạ. Họ đã thống nhứt các bộ lạc rồi thì vì một lẽ gì không ai biết, lại tan rã và trở lại chế độ bộ lạc như cũ. Trở lại giả thuyết của ông cố đạo khi nãy. Nước Sở bành trướng ra phía Đông chớ không có ăn xuống đất Quý Châu, và tướng nước Tần là Vương Tiễn, diệt Sở ở Hồ Bắc và Hồ Nam rồi thì rượt tàn quân của Sở ra An Huy, không bao giờ có xuống Quý Châu cả. Đành rằng trong quân đội Tần Thỉ Hoàng hẳn phải có người Thục bị bắt đi lính, nhưng lính đó không bao giờ bị đưa xuống Quý Châu, vì Quý Châu ở nhiều địa bàn của nước Sở, mà dân Mèo chưa lập quốc nên nhà Tần không có bao giờ đánh vùng núi rừng mà Tàu ở không được ấy làm gì. Dưới đời Hán, Trung Hoa gọi nơi đó là đất Dạ Lang chớ không phải nước Dạ Lang. Có lẽ nước Quỹ Phương ở phía Nam địa bàn Miêu tộc, đã bị diệt rồi, không biết vì sao. Nhà Hán có đánh chiếm Dạ Lang, nhưng rồi cũng bỏ vì người Tàu không ở được vùng núi rừng, và thổ dân ở Quý Châu giữ được một thứ độc lập trên thực tế cho tới năm Mao Trạch Đông lên cầm quyền, nỗ lực triệt để để trị họ, bằng cách ban cho họ một chế độ đặc biệt mệnh danh là tự trị, nhưng không rõ thực trạng ở đó nay ra sao. Như vậy thì chi Âu có địa bàn liên tục từ Tây Bắc đến Đông Nam và Tây Nam nước Tàu, sát với địa bàn của chi Lạc. Xem cái địa bàn liên tục của Cửu Lê ra sao: Âu Thục: Tứ Xuyên Lạc Lê: Hồ Nam La: Hồ Bắc, Hồ Nam Dạ Lang: Quý Châu (Âu + Lạc + Miêu) Đông Âu: Nam Triết Giang, Bắc Phúc Kiến Tây Âu: Quảng Tây, Quảng Đông Điền: Vân Nam Địa bàn ấy liên tục và chiếm đến 8 tỉnh của Trung Hoa ngày nay. Địa bàn của chi Lạc nằm sát đó, nhưng chi Lạc chiếm các đồng bằng phì nhiêu và các vùng ven biển, còn chi Âu thì chỉ chiếm các vùng núi non hiểm trở. Xem địa bàn của chi Lạc ở chương sau, ta thấy chi Lạc chiếm đến 12 tỉnh rưỡi của Tàu, mà toàn là đất tốt không mà thôi, nhưng diện tích thì nhỏ hơn. Nhưng địa bàn của chi Lạc bị chi Âu ngăn làm đôi, tại cái quốc gia tên là Đông Âu (Nam Triết Giang và Bắc Phúc Kiến). Ta nên nhớ rằng (chương III) dân Phúc Kiến, tức dân Mân, cũng là “rợ Lạc”. Thế thì chi Âu đã thọc ra bờ biển, ngăn đôi Lạc Cối Kê với Lạc Thất Mân. Có lẽ đó là một nhóm Âu đi lập quốc riêng, nhưng âm thầm vâng lệnh một ý chí tiềm ẩn của dân tộc là tìm một con đường ra biển Đông, mặc dầu họ cũng đã có bờ biển rồi ở Quảng Đông. Nhưng bờ biển giữa U Việt và Mân Việt giúp họ giao thương với Trung Hoa tiện hơn là bờ biển Quảng Đông, bọn Âu ly khai đi dựng nước Đông Âu, có lẽ chỉ ly khai vì bất đồng quan điểm chánh trị với toàn khối nhưng sự thật bên trong thì đó là bản năng tiềm tàng của cả toàn khối, cố tìm một đường sống tốt hơn. Hai chi Âu và Lạc lập quốc gần với nhau và chi Lạc hùng cường hơn, nhưng văn minh thì như nhau. Thí dụ nước Thục và nước U Việt ở Cối Kê có mặt cùng lúc dưới thời Chiến quốc, nhưng nước U Việt được làm Bá, còn nước Thục thì bị diệt quá sớm. Nhưng nước U Việt không có phát minh nghề sơn mài như nước Thục. Trái lại U Việt giỏi nghề đúc đồng pha và nổi danh về kỹ thuật đúc gươm và đúc trống. Chi Lạc nổi danh giỏi thuỷ vận chỉ nhờ chiếm được địa bàn có nhiều sông ngòi nhứt ở Trung Hoa, và chính họ phát minh ra kỹ thuật dẫn thuỷ xuất điền và nhập điền cho toàn cõi Á Đông gió mùa (Asie des moussons) mà cổ sử Trung Hoa nhìn nhận rằng đã phải học với họ (H. Maspéro). Và cả hai địa bàn đều có biên giới chung với nhau ít lắm cũng từ Hà Nam, Sơn Đông cho tới Phúc Kiến. Tới đây ta mới thấy tài của trí thức Trung Hoa vào cổ thời. Họ làm việc rất là ý thức, mặc dầu sách của họ có vẻ hỗn loạn lắm. Nhưng ta phải biết dùng tài liệu rắc rối của họ, mới thấy được sự thật. Đã nói rằng chữ Việt nguyên thỉ là cái đuôi của chữ Việt bộ Nguyệt mà ta gọi là bộ Mễ. Chữ Việt thứ nhì là Việt bộ Mễ, dùng để chỉ dân Việt ở nước Sở, tức là thứ dân Việt hỗn độn trong đó có chi Âu mà cũng có chi Lạc. Nhưng đến thời Việt Câu Tiễn thì họ biết rõ là có hai chi, nên lại dùng chữ Việt thứ ba là Vượt, để chỉ dân Câu Tiễn. Lúc đánh dẹp hai bà Trưng, họ cũng lại biết dân ta thuộc chi Lạc, tức chi ở Cối Kê, nên lại dùng chữ Việt thứ ba cho dân ta. Còn với dân Âu ở Quảng Đông thì họ dùng chữ Việt thứ nhì là chữ Việt xô bồ, với mục đích phân biệt chi Lạc với chi Âu. Sự phân biệt ấy không cho phép ta lầm lẫn nước Nam Việt của Triệu Đà với nước Âu Lạc của ta vì Việt Quảng Đông viết với bộ Mễ ngay từ thuở đó, chớ không phải mới được sửa đổi từ ngày vua Quang Trung đòi hỏi cái đất Nam Việt ấy mà nghi rằng họ sửa đổi để dễ chối cãi. Việt và Thái cùng một gốc mà ra, là hai chi của Mã Lai chủng thì có tương đồng giữa Việt và Thái, không cần phải cắt nghĩa, hơn thế, không nên cắt nghĩa sai như các nhà bác học Âu Châu. Thấy ngôn ngữ Việt và Thái giống nhau, họ cứ nói là ngôn ngữ ta do gốc Thái mà ra, trong khi đó thì sọ của ta lại gần gốc tổ Mã Lai hơn là sọ của Thái thì đáng lý ra họ phải nói ngược lại. Và như thế thì cuộc sắp loại các ngôn ngữ Á Đông của các nhà ngôn ngữ học quốc tế đã sai cả, phải thay tên “Nhóm ngôn ngữ Thái” bằng tên “Nhóm ngôn ngữ Việt Nam” mới đúng. Chủ trương của chúng tôi chỉ vì sự thật khoa học mà thôi chớ không có mục đích tranh ăn trên ngồi trước với một dân tộc đồng chủng làm gì Vả lại, như sẽ chứng minh, Âu hay Thái hay Việt Nam gì cũng đều là Mã Lai hết thì không có ai ở trên ai cả. Nhưng các ông không biết điều đó, ngỡ Thái và Việt Nam thuộc hai chủng riêng thì cũng cho qua đi, nhưng tại sao họ cứ bắt ta làm học trò của Thái, của Cao Miên, mà không bắt trái ngược lại trong khi Thái và Cao Miên còn ăn cơm bằng tay, mà ta thì đã dùng đũa từ lâu đời lắm rồi. Các nhà bác học Âu Châu quả có ăn hiếp dân Việt Nam thật sự về khoản nầy. Tổng số dân Thái ở Đông Nam Á hiện nay thấp hơn tổng số dân Việt Nam, thế mà họ lại nghĩ Việt Nam từ Thái mà ra, mà không hề nghĩ Thái từ Việt Nam mà ra. Chẳng qua là hồi tiền 1945 ta bị trị, còn Thái thì có một đại diện độc lập là nước Xiêm. Họ được cầm cờ vì họ có đời sống quốc tế, ta phải chịu làm đàn em vậy. Mà như thế là phản khoa học. Việt Nam đồng ngữ vựng và ngữ pháp với Thái vì cùng một gốc mà ra, chớ không phải là ta vay mượn như các nhà ngôn ngữ học đã nói, mà lại nói rằng vay mượn của Thái Vân Nam nữa (sao lại đích xác quá thế trong khi không có bằng chứng, hơn thế, có bằng chứng ngược lại). Lá cây, cổ Thục, cổ Tây Âu và hiện nay Khách Gia và Quảng Đông đều nó là La, Lá, còn Thái Vân Nam thì nói là Bai. (Người Quảng Đông dùng song song hai danh từ, danh từ Tàu đọc sai là Dịp, tức Diệp của Hán Việt, và danh từ cổ Tây Âu là Lá). Địa bàn Thái ở Quảng Tây và Bắc Việt liên tục với nhau, còn địa bàn Thái ở Vân Nam không được liên tục suôn sẻ như Quảng Tây và Bắc Việt chút nào. Thái Bắc Việt và Thái Quảng Tây chớ không phải Thái Vân Nam. Sự kiện có nhiều cổ vật bằng đồng ở Vân Nam vì có dịp tìm kiếm ở đó, họ chưa hề tìm kiếm ở Quảng Tây nhiều được. Nhà bác học ngôn ngữ danh tiếng Benedict, vì không biết chủng tộc học, nên đã lầm, gọi Miêu tộc ở Hoa Nam là Indonésien. Theo quan niệm của ông, hễ ai kém mở mang là ông bỏ vào cái bị Indonésien chớ không riêng gì Miêu tộc. Vài nhà bác học khác cũng thế. Vì vậy mà ông P. Benedict mới chủ trương rằng Thái Hoa Nam có lai giống với Indonésien!!! Hẳn ông không biết rằng Indonésien là Cổ Mã Lai và hẳn ông cũng không biết Thái thuộc Cổ Mã Lai. Nếu ông biết mà còn nói thế thì hoá ra Thái có lai giống với Thái là nghĩa làm sao? Sọ và ngôn ngữ Miêu khác hẳn sọ và ngôn ngữ của Mã Lai, không nên thấy Miêu kém mở mang mà gọi họ là Cổ Mã Lai được. Tóm lại, đọc sách của các ông Tây ngày nay, ta vẫn phải cẩn thận y như đọc sách các ông Tàu có đã hai ngàn năm vì cả hai ông thầy ấy của ta đều ăn nói lộn xộn. Tác phẩm của Benedict được giới khoa học xem là một khám phá quan trọng về chủng Thái, nhưng tác giả chỉ đúng về mặt ngôn ngữ để làm cái việc khám phá đó. Công của ông có lớn thật, nhưng ông cứ còn gây ngộ nhận với danh xưng Indonésien mà ông biến thành danh từ với cái nghĩa “man di”. Riêng nhà bác học G. Coedès thì dùng danh xưng Indonésien để chỉ Lạc trong câu: “Người Thái và người Indonésien, trước khi Nam thiên, bị chủng Cơ Me chọc thủng vào giữa khối và chia họ ra làm hai, một cánh đi về phía Bắc đến Quý Châu, đó là cánh Thái, một cánh đi về phía Nam, đó là cánh Indonésien. Ở đây danh xưng Indonésien của ông G. Coedès rõ ràng là ám chỉ chi Lạc không còn ngờ gì nữa. Tuy nhiên, ông vẫn sai về sự kiện, vì thật ra thì không hề có việc Cơ Me chọc thủng cái khối đó. Cơ Me, từ Tây Khương tiến ra ngoài, rồi thì rẽ ngay tay phải, xuống Vân Nam để tràn vào xứ Lào ngày nay mà lập quốc ở đó, chớ không có bao giờ ra tới Quảng Tây nữa, chớ đừng nói là ra tới biển thì việc tách hai cái khối Thái Việt đó không bao giờ có xảy ra. (Nước Chơn Lạp ban đầu nằm tại đất Lào ngày nay). Nhóm bác học Viễn Đông Bác Cổ gồm người nghiên cứu văn minh Cao Miên đông hơn nghiên cứu văn minh Trung Hoa, vì người Âu Châu có khuynh hướng mê say kiến trúc đồ sộ mà họ cho là dấu hiệu văn minh cao, còn cơ cấu tế nhị của văn minh Trung Hoa, họ không thấy. Mặc dầu vậy, sử Việt vẫn được biết rõ hơn sử Cao Miên, ít lắm cũng từ năm 330 T.K. cho tới nay. Ông G. Cocdès chỉ là người chuyên môn về Ấn học (Indianiste) chớ không là Hoa học (Sinoloque) nên mới lầm như thế. Sự thật thì Quý Châu là đất của Thái từ cổ chí kim, và họ không hề bị Cơ Me đẩy lên đó. Và sự thật thì nếu tiếng Việt có giống tiếng Cao Miên là vì lý do đồng chủng Mã Lai, y hệt như nó giống tiếng Thái, tiếng Miến Điện, tiếng Tây Tạng, tiếng Thượng Cao nguyên chớ không có gì lạ hết. Ta sẽ thấy như vậy ở các biểu đối chiếu trong chương ngôn ngữ. Theo lời cụ Vương Hồng Sển, nguyên quản thủ Bảo tàng viện Sài Gòn, thì chính các nhà bác học phái Sinologie đã than rất tiếc rằng đa số các ông Tây đều nhảy sang phái Indianisme vì mê chuyện ngoạn mục, trong khi môn Sinologie cần người hơn vì văn minh Trung Hoa tuy kém ngoạn mục, nhưng trái lại sâu sắc tế nhị hơn và vì thế mà khó nhọc hơn, cần phải đông người, mà than ôi, lại chỉ có quá ít người. Khi khai quật những ngôi cổ mộ bằng gạch ở Lạch Trường, nhà khảo cổ O. Jansé rất ngạc nhiên mà thấy mộ ấy giống mộ cổ ở Tứ Xuyên, cả hai đều cổ lối 2 hoặc 3 trăm năm T.K., tức không phải là mộ Trung Hoa rồi vậy. Thế nên rồi ông O. Jansé gọi “Việt Nam là cái ngã ba của các dân tộc và các nền văn minh”. Ông O. Jansé đã lầm to, chỉ vì ông không biết những đẳng thức sau đây mà quý vị sẽ thấy qua các chương sách nầy: Tứ Xuyên = Thục Thục = Âu Âu = Việt Như vậy nếu cổ mộ Tứ Xuyên giống hệt cổ mộ Lạch Trường thì còn là lạ nữa, và có gì đâu mà là “Ngã ba của các dân tộc và nền văn minh”? Chúng tôi đã đề cao tài quật thám của ông O. Jansé, nhưng ngoài cái tài đó, ông đã đi từ sai lầm nầy đến sai lầm khác. Đó cũng là một nhà bác học không tinh thông môn Hoa học, nhưng lại bị biệt phái oan uổng sang khu vực ảnh hưởng Trung Hoa. Thái và Việt giống nhau cho đến đỗi trông cứ như là một. Bốn tượng đồng gắn trên nắp bình đồng Đào Thịnh cho ta thấy những Cổ Việt mặc sà rong, một thứ sà rong ngắn của nông dân Lào ngày nay, sà rong mặc tạm để làm việc trong nhà hoặc ngoài đồng, khác với sà rong đi chùa hay đi chơi. Còn người Việt Khê thì thổi kèn, một cây kèn giống hệt cây Khène của Lào và Kèn và Khène chắc chắn là hai danh từ đồng gốc mà ra, chỉ có khác là người Đông Sơn bịt khăn, còn người Thái thì không. * * * Tới đây thì truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ của dân tộc phải được hiểu lại. Đó là chuyện Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ đẻ ra 100 cái trứng, nở ra 100 người con, 50 theo cha xuống biển, 50 theo mẹ lên rừng. Cho tới nay, người ta cứ xem đó là sự ám chỉ đến sự ly khai giữa Việt Nam và Mường + Thượng. Nhưng thật ra thì không phải thế. Truyền thuyết nầy ăn khớp với hai danh tự xưng Âu và Lạc và đặc điểm của hai chi đó. Chi Âu chiếm toàn địa bàn (Âu Cơ là tiên, đem con lên rừng mà ở) còn chi Lạc thì chiếm toàn địa bàn sông ngòi ở ven biển (Lạc Long Quân là rồng nên đem con xuống biển). Truyền thuyết nầy không cho thấy dây liên hệ nào của người Mường và người Thượng với hai nhơn vật của truyền thuyết, mà chỉ có sự kiện lên núi rừng, mà sự kiện nầy cũng ăn khớp với chi Âu, nhưng với chi Âu thì nó lại ăn khớp hơn vì còn dây liên hệ ở danh tự xưng Âu và Lạc. Như ta vừa thấy, địa bàn của chi Âu của chủng Mã Lai toàn là địa bàn núi rừng, còn địa bàn của chi Lạc thì toàn là địa bàn sông biển. Lạc Long Quân ở đây là chi Lạc, còn Âu Cơ là chi Âu, cả hai đều ở trong chủng Mã Lai. Và ta có thể đoán được thời điểm ra đời của truyền thuyết. Truyền thuyết ra đời từ ngày dân Cửu Lê tách ra làm hai chi rõ rệt, chi Âu và chi Lạc. Sự ly khai ấy có lẽ xảy ra sau khi Cửu Lê bị Hiên Viên đánh đuổi, toàn thể Âu vượt sông Hoàng Hà, nhưng Lạc thì chia hai, một số vượt Hoàng Hà, một số theo đường biển sang Đại Hàn, Nhựt Bổn, Đài Loan, Hải Nam và Đông Nam Á lục địa, tức Đông Dương. Ta sẽ thấy khoa khảo tiền sử chứng minh như vậy. Rời đồng bằng Hoa Bắc rồi thì Âu chiếm địa bàn núi rừng ở Hoa Nam cho tới ngày nay, còn Lạc thì vừa chiếm địa bàn sông ngòi Hoa Nam vừa chiếm địa bàn sông ngòi ở các đất mới. Và danh xưng Âu có lẽ xuất hiện ngay từ thời Hiên Viên đó. Truyền thuyết trên đây bị ai đó không rõ, hệ thống hoá quá rõ ràng đích xác, làm như đó là sự thật, và Âu Cơ lại hoá ra là cháu năm đời của vua Thần Nông là vua Tàu. Nhưng trong thư tịch Trung Hoa cũng có ghi chép về thế phả Thần Nông, lại không hề có cái tên Âu Cơ nầy. Sự kiện đó không có nghĩa là họ sai, vì họ có thể chỉ chép con trai mà bỏ con gái. Nhưng truyền thuyết của ta, bị lịch-sử-hoá, thấy rõ là sai. Ở hai châu Kinh và Dương có hàng trăm ông vua vừa Tàu vừa Việt chớ không hề có một ông vua độc nhứt là Tàu lai Việt mà ta gán cho cái hiệu là Kinh Dương Vương và tên là Lộc Tục. Tóm lại, truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ của ta chỉ là truyền thuyết, đừng tưởng rằng đó là sử. Nhưng cũng nên nhớ rằng truyền thuyết luôn luôn chứa đựng sự thật nào đó, nó chỉ chiếm một phần trăm của toàn truyện mà thôi. Cái sự thật đó là Lạc và Âu sống chung với nhau, Âu chiếm địa bàn núi rừng, Lạc chiếm địa bàn sông ngòi, ven biển, hai nhóm đó xưa kia là một, được Tàu gọi là Cửu Lê, và họ tách ra làm hai, chính từ ngày mà Lạc làm cách mạng, theo phụ hệ, còn Âu thì giữ mẫu hệ cố hữu. Tách hai xong, họ vẫn còn sống cạnh nhau hoài cho đến ngày nay. * * *
-
Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam Bình-nguyên Lộc Chương III. Cổ Thục, Tây Âu và chi Thái Ở đây chúng tôi nhảy vọt. Ta chưa xét đến chi Mã Lai Lạc mà lại xét về chi thứ nhì là chi Âu tức Thái. Nhưng chúng tôi cần làm sai nguyên tắc cho trí nhớ người đọc không bị đứt đoạn, khi ta vừa nói sơ đến nước Tây Âu ở chương trước. Nước Tây Âu bí mật nầy, từ xưa đến nay, chưa có quyển sử nào viết rõ về nó, nhứt là về dân của nước ấy, xưa tên gì, nay tên gì, và đây là lần đầu mà một chi lớn của nhóm Mã Lai ở Trung Hoa được nghiên cứu với ba quốc gia hùng mạnh của chi đó, vào cổ thời. Tần xua quân xuống đánh vùng Ngũ Lĩnh, tức ở ngoài đất Dương Việt (theo Khổng Tử) và nói đến ba nước; đó là nước Đông Âu, nước Mân Việt và nước Tây Âu. Thắng trận xong, họ chia cả ra thành quận huyện của họ. Đông Âu là quận nào, Mân Việt là quận nào thì ai cũng đồng ý rồi, và đồng ý cả về địa bàn ngày nay của các nước xưa đó nữa là: Đông Âu = Nam Triết Giang + Bắc Phúc Kiến Mân Việt = Phúc Kiến và mấy phủ ở Quảng Đông (các phủ Triều Châu) Tới đây thì mọi việc đều rõ, và bắt đầu từ đây, rối loạn xảy ra, mặc dầu sử Tàu cũng đã nói rõ. Phần đất còn lại là đất của nước Tây Âu, và đất đó, Tàu chia ra thành ba quận: Quế Lâm, Nam Hải và Tượng Quận. Rối loạn, như đã nói, và xin nhắc lại một lần nữa, bởi điểm nầy rất quan trọng, vì ta và Tây hiểu lầm sử Tàu. Sử Tàu viết rằng: Tượng Quận = Giao Chỉ Tây Âu = Giao Chỉ Nhưng cái Giao Chỉ đó phải hiểu là Giao Chỉ bộ, có ngay sau Lộ Bác Đức và gồm tất cả các thuộc địa mới của Tàu ở phương Nam. Nhưng ta và Tây cứ hiểu rằng đó là Giao Chỉ quận mà Giao Chỉ quận thì chỉ là Bắc Việt mà thôi, cái Giao Chỉ thứ nhì nầy, mãi đến đời Tam Quốc mới có vì Tàu tách Giao Chỉ bộ làm hai, phía trên đặt tên là Quảng Châu, phía dưới đặt tên là Giao Châu. Trong Giao Châu có ba quận: Giao Chỉ, Cửu Chơn và Nhựt Nam. Vì Giao Chỉ bộ chỉ thọ có vài trăm năm còn Giao Chỉ quận (Bắc Việt) tồn tại mãi cho đến đời nhà Đường, nên cả ta lẫn Tây cứ bị ám ảnh về Giao Chỉ II, hễ sử Tàu nói đến giản dị là nghĩ ngay đến Bắc Việt cũng như hễ họ nói đến Việt là ta nghĩ ngay đến ta mà quên mất rằng có đến Bách Việt. Có rất nhiều nhà trí thức Việt Nam lại còn tưởng rằng họ không có lầm, họ biết cái Giao Chỉ bộ ấy, nhưng dầu cho Giao Chỉ bộ có to hơn bao nhiêu, to đến đâu, cũng cứ là đất của ta, mà người tin tưởng như vậy trước tiên, có lẽ là vua Quang Trung Nguyễn Huệ. Với những người tin tưởng như vậy thì ta không còn đưa ra hai cái Giao Chỉ để mà làm bằng chứng nữa được, mà phải chỉ đích xác dân ở trên Cao Bằng, Lạng Sơn, hồi cổ thời là dân nào, có phải là dân Việt Nam hay không. Trước hết Tàu chỉ dân đó bằng chữ Việt bộ Mễ, chớ không phải bằng chữ Việt dùng để trỏ ta, và họ đã làm như vậy từ đời Tần, Hán chớ không phải mới làm về sau vì sợ ta đòi đất ấy lại. Tưởng hai tự dạng khác nhau, được Tàu dùng từ đời Tần Hán cũng đã là chứng tích khá vững rồi khi ta thấy Tàu họ ý thức vô cùng trong việc sử dụng tự dạng Lạc. Họ không hề biết khoa chủng tộc học, kể cả ngày nay nữa, nhưng họ quan sát rất giỏi. Nói ta với dân đó đồng chủng tộc thì đúng, và mục đích quyển sách nầy chỉ có thế, nhưng nói ta với họ là một dân tộc thì qua sai. Chúng tôi đã chứng minh rằng nhà Tần không hề có đánh chiếm nước ta vì họ chỉ đánh Ngũ Lĩnh, mà nước ta thì ở ngoài Ngũ Lĩnh. Nhưng chứng minh như vậy không đủ cho mấy người có tin tưởng trên kia vì họ lại cứ bảo rằng nếu quả đúng như thế thì nhà Tần đã đánh chiếm được phân nửa nước ta, chiếm phần trên và phần đó cứ là đất Việt. Hai cái tự dạng khác nhau đó không đủ họ tin, thế nên chúng tôi lại phải trình thêm một chứng tích nữa để củng cố chứng minh của chúng tôi. Chúng ta cùng đi tìm để biết đích xác nước Tây Âu nầy thử xem sao, để cho không còn gì lòng dòng nữa. Nếu nước đó quả là nước của dân Lạc Việt thì quí vị khác đúng, còn như đó là nước của dân khác thì chúng tôi đúng. Nhơn đọc Tối Tân Trung Quốc phân tỉnh đồ của Tàu, loại lớn, thấy họ cho biết rằng tất cả các cổ dân ở Hoa Nam, ngày xưa đều còn đầy đủ mặt, chúng tôi rất ham biết cái dân Tây Âu kiêu hùng đó, cái dân đã giết được tổng tư lệnh đạo quân viễn chinh của Tần Thủy Hoàng, biết đích xác họ là dân tộc nào. Trong ba năm học hỏi và săn tài liệu lung tung, chúng tôi tìm được một bức dư đồ rất hữu ích, tên là Ethnolinguistico Groups of Mainland Southeast Asia do Human Relations Area Fites Yale University xuất bản. Theo tài liệu của Pháp thì bức dư đồ Huê Kỳ đó được giới khoa học Nga xác nhận là thật đúng, và ta dùng nó được một cách an lòng, vì hai nước nghịch nhau mà tán đồng nhau thì đúng là sự thật. Theo bức dư đồ đó thì hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây và Nam Quí Châu là địa bàn hiện kim của dân Thái, một dân tộc rất cổ mà ngày xưa Tàu gọi là dân Âu. Chỉ bằng vào sự kiện địa bàn ta có thể kết luận rằng nước Tây Âu là nước của dân Thái ở ba tỉnh Trung Hoa ấy ngày nay, chớ không có gì rắc rối như các nhà bác học Tây, Tàu, Nhựt, Việt đã bút chiến lung tung với nhau làm rối nùi mọi việc khiến ta phải điên đầu từ năm 1918 đến nay. Nên biết rằng bức dư đồ trên đây là bức dư đồ ngôn ngữ chớ không phải là dư đồ chính trị. Theo dư đồ chính trị thì nơi đó là hai tỉnh rưỡi của Trung Hoa, nhưng về mặt phân phối ngôn ngữ thì nơi đó là vùng mà người dân nói tiếng Thái. Lại còn phải hiểu điều nầy nữa về kỹ thuật và quan niệm vẽ dư đồ phân phối ngôn ngữ. Người Trung Hoa ở hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây, tuy mười lần đông hơn người Thái, nhưng diện tích đất mà họ chiếm chỉ bằng 1/10 diện tích đất mà Thái làm chủ. Họ chỉ ở tỉnh lỵ, huyện lỵ và các đồng bằng của tỉnh Quảng Đông và vài đồng bằng quá hiếm hoi của tỉnh Quảng Tây và Nam Quí Châu. Sự phân phối ngôn ngữ luôn luôn đi sát diện tích đất ngự trị của cái ngôn ngữ đó. Vì thế mà trong loại dư đồ ấy, hai tỉnh rưỡi nói trên là đất Thái hoàn toàn, theo khoa học (chớ không phải theo chính trị) và người Trung Hoa có vẽ dư đồ ngôn ngữ cho chính nước của họ, họ cũng sẽ vẽ rằng đó là đất Thái cũng như khi Việt Nam vẽ dư đồ phân phối ngôn ngữ, ta cũng sẽ để Ninh Thuận là đất ngôn ngữ Chàm, chớ không phải để là đất Việt. Thiểu số Miêu tộc trong hai tỉnh rưỡi đó, dĩ nhiên cũng bị chìm mất, y như dân thống trị là người Tàu đã bị chìm mất trong bức dư đồ đó. Mặt khác Tối tân Trung Quốc phản tỉnh đồ cho biết một điều nầy rất quan trọng: là không hề có nhóm người Tàu nào gọi là người Quảng Tây hết. Ở cả hai tỉnh rưỡi đó, chỉ có người Quảng Đông mà thôi. Chi tiết trên đây rất quan trọng vì nó chứng minh rằng không có chủng tộc, dân tộc thứ nhì nào làm chủ vùng đó cả từ đời Tần, mà chỉ có độc một thứ người là người Thái biến thành Tàu và được gọi là người Quảng Đông và người Thái chưa biến thành Tàu, còn phân chia thành nhiều nhóm, như người Nùng (chữ nho là Nông) là một. Nếu có dân nào khác ở đó, họ đã biến thành Tàu, nhưng mà là một thứ Tàu khác, chẳng hạn ở tỉnh kế cận có người Tàu gọi là Phúc Kiến vốn là dân Thất Mân, lạc bộ Mã. Nhưng không có ai hết ngoài người Thái biến thành Tàu, được gọi là người Quảng Đông và các nhóm Thái chưa biến thành Tàu. Tại sao ta biết rằng họ là người Thái biến thành Tàu? Như đã nói, các giọng nói địa phương của Tàu ăn khớp với địa bàn của các “man di” đời xưa. Mân Việt nói tiếng Tàu khác giọng với Quảng Đông, và cả hai nói khác giọng với Triết Giang. Hơn thế, và đây mới là điều quan trọng, mỗi nhóm giọng đều có giữ được lối một trăm danh từ cổ để chỉ nguồn gốc của họ. Thí dụ Buổi chiều, người Tàu nói là Hạ Ngọ, tức là sau giờ Ngọ. Nhưng người Quảng Đông, tuy cũng viết là Hạ Ngọ, nhưng lại đọc là Hạ Châu. Châu là tiếng Thái Tây Âu, giống hệt Chiếu là tiếng Thái Ba Thục và Chiều là tiếng Lạc Việt Nam, và cả ba danh từ ấy đều là danh từ Mã Lai, cái thứ Mã Lai mà ở một chương tới chúng tôi sẽ gọi là Mã Lai đợt I, nó khác chút ít với Mã Lai Nam Dương là Mã Lai đợt II. Và vì là “man di” nên họ dùng chữ Tàu sai. Sau giờ Ngọ thì có nghĩa, nhưng sau chiều (Hạ Châu) thì tức là đêm rồi, chớ đâu còn phải là chiều nữa, nhưng Hạ Châu cứ có nghĩa là Chiều ở vùng Lưỡng Quảng và Quý Châu. Nội một trăm danh từ địa phương sống sót nầy đủ cho ta biết rằng người Quảng Đông gốc Thái và nước Tây Âu là một cường quốc Thái dưới đời Tần, mạnh ngang hàng với nước Sở, vì Tần Thỉ Hoàng đánh Sở, đã dùng 600 ngàn quân, còn đánh Tây Âu cũng phải dùng đến 500 ngàn quân, và hao quân nhiều hơn lúc đánh Sở. Dĩ nhiên là trong hai tỉnh rưỡi ấy cũng còn dân thiểu số, nhưng họ là thiểu số nên không kể đến vì chủ đất phải là dân đa số, dầu cho họ đã biến thành Tàu hay mới biến nửa chừng như người Nùng, hoặc chưa biến chút nào hết như người Đồng người Cầu Di, người Lương, người Bạch Di. Trong các thứ người thiểu số có người Mèo (thuộc chủng Miêu) và người Choang (thuộc chủng Mã Lai, nhưng chi Lạc, nhưng đó là Lạc bộ Mã chớ không phải Lạc bộ Trãi, vì họ rất gần với người Phúc Kiến). Lại còn một nhóm thiểu số nữa bị Hoa hoá đến 90 phần trăm, đó là người Khách Gia mà Pháp gọi là Hakka và người miền Nam gọi là Hẹ, gốc Ba Thục, tổ tiên của An Dương Vương. Thế thì nước Tây Âu là nước của dân tộc nào, nay đã rõ. Đó là nước của người Thái, thuộc chủng Mã Lai, chi Âu. Người Quảng Đông đích thị là người Thái bị đồng hoá và lai giống thành Tàu vì tuy ngày nay họ nói tiếng Tàu, nhưng còn giữ được lối 100 danh từ Thái. (Ở chương ngôn ngữ, chúng tôi sẽ chứng minh rằng không hề có tiếng Quảng Đông như người Việt Nam cứ tưởng. Dân Quảng Đông nói tiếng Tàu sai giọng chút ít, và quan trọng nhứt là họ còn giữ được lối 100 danh từ Thái, mà danh từ Thái đó đích thị là danh từ Mã Lai). Điều quan trọng thứ nhì là không có người Quảng Tây, không có người Quý Châu, tất cả đều là dân cổ Tây Âu ở y nơi đó, bằng vào lối đọc sai tiếng Tàu của họ ở ba nơi, họ sai giống hệt như nhau, và bằng vào lối gọi của chính người Tàu, họ gọi dân của ba nơi ấy là dân Quảng Đông hoặc dân Việt Lưỡng Quảng. Thái là một danh tự xưng mà họ chỉ mới lấy hồi thế kỷ XIII khi bị Hoa tộc lấn dữ dội, họ phải bỏ xứ mà Nam thiên xuống Thượng du Bắc Việt và Thái Lan ngày nay, và có nghĩa là “thoát khỏi, tự do, thong thả”, không bị Tàu áp bức, còn trước đó họ tự xưng là Ngu hoặc Ngê-U. Quả thật thế, Quan Thoại phiên âm danh tự xưng đó là Ngê-U, tại các nhà nho ta đọc sai ra là Âu, chớ còn người Mường họ vẫn đọc đúng là Ngu, chỉ không biết là Mường và Quan Thoại, ai đúng hơn ai, dầu sao cả hai, Mường và Quan Thoại, chắc chắn đọc gần đúng danh tự xưng hồi cổ thời của chi Mã Lai đó. Vậy cái bí mật cổ thời ấy ta đã biết: Nước Tây Âu là một quốc gia của chi Âu của chủng Mã Lai, nằm sát các quốc gia của chi Lạc từ Hoa Bắc đến Hoa Nam (và chúng tôi càng tin mạnh rằng truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ bắt nguồn từ sự kiện nầy vì chi Âu luôn luôn chiếm địa bàn rừng núi, còn chi Lạc luôn luôn chiếm địa bàn ven biển, không có ngoại lệ trừ nước Thái Lan chỉ mới thành lập có 600 năm nay thì không kể). Âu châu cũng phân biệt hai thứ Mã Lai, Mã Lai bờ biển (Malais maritimes) và Mã Lai núi rừng (Malais des jungles). Tuy cả hai thứ đó đều thuộc chi Lạc, chớ không phải Âu và Lạc, nhưng sự phân biệt ấy cho thấy, mặc dầu trong một chi Lạc, hay giữa hai chi Âu và Lạc, đều có hai thứ người khác tánh cách với nhau mặc dầu đồng chủng. Chi núi rừng can cường dữ tợn, nhưng tiến trễ hơn chi ven biển vì ít tiếp thu ảnh hưởng bên ngoài. Mà nhờ tiến trễ mà họ giữ được dân tộc tính nhiều hơn. Người Thái ở Thượng du Bắc Việt khác hẳn người Thái Lan vì người Thái Lan đã tới bờ biển và lập quốc từ nhiều trăm năm, theo văn hoá Ấn Độ và Phật giáo, còn người Thái Thượng du Bắc Việt còn giữ nguyên vẹn văn minh cổ thời của họ. Gần đây, một ông Tây đã biết, đó là người Huê Kỳ P.K. Benedict với quyển Thái, Kakai and Indonésien in new alingment in Southeastern Asia, A.A. 1943, quyển sách nầy ra đời hai năm trước bức dư đồ trên, nhưng chúng tôi dùng bức dư đồ ấy mà không dùng quyển sách của Benedict để làm chứng tích, vì Benedict còn nói đến Thái ở nhiều địa bàn khác. Chỉ có bức dư đồ đó mới cho thấy rõ nước Tây Âu ở đâu, còn Thái Vân Nam, Thái Miến Điện của quyển sách nói trên làm cho người ta sẽ rối trí. Địa bàn Thái Lưỡng Quảng và Quý Châu là một địa bàn liên tục, cho thấy hiện lên ba quận: Nam Hải, Quế Lâm và Tượng Quận. Các địa bàn của Benedict không liên tục và ở cách xa Tây Âu đôi khi hàng ngàn cây số. Bây giờ ta nên đặt ra một câu hỏi rất quan trọng và câu trả lời sẽ cho ta biết một sự thật lớn. Thượng du Bắc Việt ngày nay là đất Thái. Vậy nơi đó là đất Thái từ thời cổ đến nay, hay người Thái mới xâm lăng ta sau nầy, hoặc họ di cư tới đó sau nầy, và vào thời nào? Nói đến sự có mặt của dân Thái ở Thượng du Bắc Việt vào cổ thời, ông O. Jansé đã dùng danh từ xâm lăng (invasion) mà như vậy là các ông Tây mâu thuẫn với các ông. Nếu Thượng du Bắc Việt là đất của Tây Âu, thì không có xâm lăng gì hết. Họ tự nhiên mà ở đó, từ thuở nào không ai biết. Ông Lefèvre Pontalis tác giả “Notes sur quelques populations du Nord de L’Indochine” viết: “Nói đến sự pha trộn của hai dân tộc Việt, Thái, chúng tôi quan niệm rằng có một sự thoả hiệp nào giữa kẻ xâm nhập với chủ cũ của đất đai, mà đó chỉ giản dị là kết quả lâu đời và chậm chạp của nhiều thế kỷ”. Truyền thuyết về các đời Hùng Vương có nói đến chiến tranh với Chàm, với An Dương Vương mà không hề nói đến chiến tranh với Tây Âu, thì hẳn đó là một cuộc di cư êm thấm, không có đổ máu, mà khi nói đến di cư, tức Thượng du Bắc Việt không phải là của Tây Âu. Có di cư, nhưng di cư vào thời nào? Ta cũng thử đoán mò xem, nhưng dựa trên những nền tảng vững hơn họ. Ta dám quả quyết rằng cho đến thời Triệu Đà, người Thái vẫn chưa có mặt tại Thượng du Bắc Việt, vì chi tiết sau đây để tiết lộ ra sự kiện ấy. Khi nhà Hán chia hai nước Nam Việt của Triệu Đà, một phần làm Giao Châu, một phần làm Quảng Châu thì Thượng du Bắc Việt thuộc vào ta. Đừng tưởng người Tàu họ làm chủ mọi nơi rồi họ muốn chia cắt làm sao, tuỳ ý thức riêng của họ. Nhứt định họ phải theo một tiêu chuẩn nào mà tiêu chuẩn đó là như thế nầy: hai thứ man di không thể cùng trị được bằng một chánh sách. Chánh sách ấy phải mềm dẻo đối với mỗi châu, mỗi quận tuỳ theo phong tục địa phương của nhóm “man di”. Thế thì hẳn họ phải chú trọng đến dân tộc khi chia đất, chớ không thể dựa vào tiêu chuẩn nào khác hơn được. Hai dân tộc Âu và Lạc bị Triệu Đà sáp nhập thì Triệu Đà có lý do riêng của y, nhưng bị nhà Hán tách ra, nhà Hán cũng có lý do của nhà Hán, cả hai lý do đều hữu lý, nhưng sự kiện vẫn cứ là có hai dân khác nhau và thời điểm nhập và chia ra cho ta biết rõ địa bàn của hai dân tộc đó, vào thuở ấy. Danh xưng Việt trong quốc hiệu Nam Việt làm cho các sử gia Pháp Việt ngộ nhận rất nhiều. Lời phê của vua Tự Đức vào quyển Đ.V.S.K.T.T.N.K. của Ngô Sĩ Liên là sai. Khi thấy họ Ngô chép rằng có 6 quận của nước Nam Việt bị Trung Hoa lấy luôn làm đất Quảng Châu. Nhà vua phê “Đất nước Việt ta đã mất vào Trung Quốc hồ quá nửa!”. Nhà vua không biết rằng thuở ấy Âu và Lạc đều được Tàu gọi là Việt. Danh xưng Việt không chỉ riêng gì ta, và đất Việt không chỉ riêng gì đất của ta. Từ sông Dương Tử đổ xuống, bất kỳ thổ dân nào cũng bị họ gọi là Việt tuốt hết. Lưu An chỉ nói đến dân Việt ở Ngũ Lĩnh, mà cứ bị các sử gia Pháp và Việt hiểu rằng đó là Việt Nam ở Âu Lạc có kỳ chưa? Đã bảo Ngô Khởi ký hiệp ước với Bách Việt, mà trong đó có Đông Âu và Tây Âu, mà Âu tức là Thái thì danh xưng Việt của Tàu rất rộng nghĩa, phương chi họ đã phân biệt hai thứ Việt bằng hai tự dạng, ngay từ thời đó chớ không phải mới phân biệt về sau nầy vì sợ Tây Sơn và vua Tự Đức đòi đất lại. Sáu quận đó là của nước Nam Việt chớ không phải của nước Việt Nam. Mà Nam Việt thời Hán là Quảng Đông, và Cổ Việt Nam thì còn biết sáu quận ấy là đất của dân nào thật sự, có thể là của dân Lạc, mà cũng có thể là của dân Thái, nhưng chắc chắn là của dân Thái bằng vào tiêu chuẩn chia cắt nói trên. Tiêu chuẩn ấy không hề được ghi chép ở sách nào hết, nhưng vẫn phải có. Sự chia cắt của nhà Hán chỉ đi ngược chiều sự sáp nhập của Triệu Đà và các thành phần bị nhập và bị tách phải như nhau, cũng cứ vì cái tiêu chuẩn nói trên.
-
@ Phoenix Lần nào hỏi anh Thiên Đồng cũng trả lời chu đáo. Tín nhiệm, lần này lại hỏi nữa vì chùa nhà không có Bụt . Cho Phoenix xếp hàng chờ Anh Thiên Đồng bớt chút thời gian ngó qua và phán giúp vài câu. Lâu thiệt lâu mới thấy Phô Ê Nít lấp ló nhào vô diễn đàn. 1. Phoenix đang tính di cư một thời gian. Liệu Phoenix có thể di cư được vào tháng mấy trong năm nay? Ở đây thì ở lại đây Bây giờ bén rể nên cây sao rời? Tháng năm có thể di dời Nếu còn chưa chắc thì vời sang năm. 2. Di cư đồng thời cũng thay đổi việc làm, khi thời gian di cư Phoenix có việc làm ngay không? (mở rộng ra là có việc rồi mới di cư? di cư rồi mới có việc? di cư mà chưa làm việc gì?). Công việc làm sẽ đến sau Trước tiên lo chuyện rời tàu ra đi 3. Việc làm mới sẽ cho mức thu nhập nhiều hơn hay bằng mức hiện tại? Cũng là kha khá chẳng to So với hiện tại cũng cho là nhiều 4. Sức khỏe của mẹ Phoenix trong năm nay có tiến triển tốt hơn không? Mắt mờ huyết áp bất thường Thận khí lúc nhược lúc cường bất minh Nhớ chăm sóc chớ coi khinh Nhưng cũng chẳng có việc gì đáng lo. Lúc nào rảnh, anh Thiên Đồng giúp Phoenix chút nhé. Cảm ơn anh nhiều! Phoenix.<br class="Apple-interchange-newline">
-
Bài viết đăng báo Thế giới Gia Đình số 04 ngày 8-2-2012 ====================== Vật khí phong thủy trong phòng ngủ Thiên Luân - Phạm Thiên Luân Thành viên nghiên cứu phong thủy Lạc Việt Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông phương Phong Thủy luôn tác động đến cuộc sống con người thông qua nhiều hình thái tương tác. Đặc biệt, phong thủy về giường ngủ rất quan trọng trong việc tạo cho bạn một giấc ngủ ngon, đảm bảo giữ gìn sức khỏe, phục hồi sau một ngày làm việc mệt nhọc và nạp lại năng lượng cho ngày làm việc hôm sau. Ngoài ra, việc bố trí Phong Thủy giường ngủ tốt còn giúp bồi đắp cho tinh thần thoải mái hơn, cuộc sống gia đình hòa thuận và luôn hạnh phúc. Phong Thủy Lạc Việt giới thiệu với bạn hai món Vật Khí Phong Thủy cơ bản dưới đây có thể đặt trong phòng ngủ để hỗ trợ hơn nữa cho giấc ngủ của bạn.Tuy nhiên, trước khi đặt các Vật Khí Phong Thủy (VKPT) trong phòng ngủ, bạn phải đảm bảo giường ngủ của bạn được đặt ở vị trí tốt nhất trong phòng, khi ấy đặt các VKPT mới phát huy được tối đa hiệu quả. Trước tiên, nên kê giườngngủ theo một trong bốn cách sau đây : Các vị trí kê giường vượng khí theo Phong Thủy Lạc Việt Quả cầu thủy tinh hoặc quả cầu đá Đặt quả cầu thủy tinh hoặc quả cầu bằng thủy tinh, bằng đá mắt mèo hoặc đá Thạch Anh ở đầu giường ngủ có thể giúp người trong phòng ngủ ngon hơn, thẳng giấc và tăng cường sức khỏe. Theo Phong Thủy Lạc Việt, bạn nên đặt quả cầu có cùng màu sắc hoặc tương sinh với mệnh của người ngủ trong phòng. Các vị trí đặt quả cầu (chấm đỏ) Người có mệnh Kim nên dùng quả cầu màu : trắng, xanh dương hoặc màu vàng. Người có mệnh Thủy (Theo Lạc Thư hoa giáp *) nên dùng quả cầu màu : xanh dương, xanh lục hoặc trắng. Người có mệnh Mộc nên dùng quả cầu màu : xanh lục, màu đỏ/hồng hoặc màu xanh dương. Người có mệnh Hỏa (Theo Lạc Thư hoa giáp *) nên dùng quả cầu màu : đỏ/hồng, màu vàng hoặc xanh lục.Người có mệnh Thổ nên dùng quả cầu màu : vàng, màu trắng hoặc màu đỏ/hồng. Trong trường hợp phòng ngủ vợ chồng, bạn nên đặt quả cầu tùy theo những trường hợp sau đây: - Mạng vợ tương sinh chồng thì theo mạng vợ. Thí dụ mạng vợ thuộc Thổ, chồng Kim thì nên đặt quả cầu màu vàng. - Mạng vợ chồng khắc nhau thì đặt quả cầu có màu tương sinh cho cả hai mạng. Thí dụ mạng vợ Thủy, khắc chồng Hỏa (Theo Lạc thư hoa giáp) thì quả cầu màu xanh lá cây. - Mạng chồng sinh mạng vợ thì dùng quả cầu tương sinh mạng chồng. Thí dụ mạng chồng Thổ sinh mạng vợ Kim thì đặt quả cầu mầu vàng. Hồ lô Hồ lô trong Phong Thủy cũng là vật phẩm mang lại nhiều lợi ích. Đặt hồ lô trong phong ngủ giúp bạn ngủ ngon và cải thiện sức khỏe rất nhiều, đặc biệt với những người hay bị mất ngủ, ngủ không yên giấc. Trong trường hợp trẻ em hay khóc đêm, hồ lô là vật phẩm rất hiệu quả giúp bé ngủ ngon và ít quấy vào ban đêm. Hồ lô dùng trong Phong thủy Lạc Việt Hồ lô nên treo trên đầu giường ngủ để có hiệu quả tốt nhất. Phong Thủy Lạc Việt khuyên bạn nên sử dụng quả bầu hồ lô khô thay vì sử dụng các loại hồ lô bằng thủy tinh hay bằng đồng. Quả bầu tự nhiên luôn là quả bầu hiệu quả nhất cho giấc ngủ của bạn và sử dụng quả bầu hồ lô không cần quan tâm đến yếu tố mệnh của người trong phòng. Ngoài ra, còn nhiều Vật Khí Phong Thủy khác có thể đặt trong phòng ngủ, tuy nhiên cách sử dụng tương đối phức tạp và hiệu quả vẫn chưa được kiểm nghiệm như hai Vật Khí Phong Thủy được giới thiệu ở trên, là hai vật khí đơn giản, dễ sử dụng và mạng lại nhiều hiệu quả nhất. Các bạn cũng nên lưu ý theo quan niệm phong thủy Lạc Việt thì để vật khí phong thủy có hiệu quả nhất thì sinh khí trong nhà phải dồi dào.======================= * Chú thich: Lạc thư hoa giáp là công trình nghiên cứu của Trung Tâm nghiên cứu Lý học Đông phương, nhằm xác định tính quy luật, tính khách quan, tính hệ thống của nguyên lý nạp âm trong chu kỳ 60 năm theo lịch đông phương. Trong Lạc thư hoa giáp người mệnh Hỏa theo sách cổ đổi thành mệnh Thủy và ngược lại. Các mạng khác giữ nguyên. ---------------------------------------------------
-
@phamman Chào bác Thiên Đồng, Đã mấy tháng rồi, cháu quay lại nhờ bác xem giúp cháu vài quẻ ạ. Cám ơn bác lắm. Cháu nữ, sinh năm 1980 - Canh Thân Bắt đầu hỏi lúc 9h 41 sáng ngày 30 tháng 3 năm 2012 1. Tài chính cháu năm nay khá không ạ? Không khá. Coi chừng nợ nữa nha. 2. Từ năm nay đến vài năm tới, cháu có cơ hội đi nước ngoài không ạ, dù là đi công tác? Có, sẽ có cơ hội đi. 3. Năm nay cháu mua được đất không ạ? chưa mua được, để tiền đó đi du lịch sướng hơn. Chân thành cám ơn bác. Chúc bác sức khỏe, nhiều niềm vui trong cuộc sống. @loandong chào anh Thiên Đồng, em nhờ anh xin giúp em vài chuyện em là Nam, sinh ngày 28/3/1991 lúc 4:30 sáng Anh có thể cho em biết : 1/ Em đang đợi ra nước ngoài làm, khoảng khi nào mới biết lịch đi ạ ? nhanh thì tháng 4 âm, chậm san năm sau. 2/ Nếu em đi như vậy có giúp được gì cho gia đình và bản thân em không ?! có. khá. 3/ Người tương lai của em là người như thế nào ạ ?! cực kỳ chanh chua. 4/ Nếu em lập gia đình thì bao nhiêu tuổi sẽ tốt cho em ?! tuổi nào cũng tốt trừ năm tam tai, tị ngọ mùi. Chân thành cảm ơn anh Thiên Đồng, chúc anh dồi dào sức khỏe @Hoasenvang Kính gửi anh Thiên Đồng, anh xủi cho em 1 quẻ với, em nữ Ất Sửu, sanh 25-09-1985 giờ Sửu, hỏi vào ngày 13/3 dương lịch lúc 10h30ph,anh em giúp em 2 vấn đề sau: 1.KHi nào tìm được công việc mới, vì cty em phá sản, hết tháng 3 dương lịch là em sẽ chính thức nghỉ việc, công việc mới sẽ ra sao, là công ty làm về gì? nhanh thì tháng 5 âm chậm thì thán 8 âm. Việc mới nhiều thử thách hơn. 2. Năm nay em có tiền không a? Hẻo! (không hoặc có ít) @ThanhTu Cháu chào chú Thiên Đồng Mong chú giải đáp giúp cháu thêm mấy câu ạ :D Tuổi: Giáp Tý, Nam. Sinh lúc 5h30 ngày 20 tháng 01 năm 1985 Giờ hỏi 08 giờ 05 phút ngày 01 tháng 04 năm 2012 Dương lịch 1/ Lần trước nhờ anh xem nên bi h em đã khoanh lại đc hai người :D. Một sn 1986 một sn 1989. Hồi đầu năm tới giờ thì tình cảm của em với người sn 1989 tiến triển như anh nói. Nhưng mới đây có trục trặc chắc khó tiến xa đc nữa. Vậy nhờ anh xem là người nào? Người này sẽ là vợ em trong vòng 2 năm tới :D? 2/ Công ty em hiện đang có điều động nhân sự. Lần trước anh có xem công việc em sẽ có thay đổi, vậy không bik lần này em có bị điều động không, mặc dù khả năng bị điều đi là rất thấp. @yeuhailam Chào anh Thiên Đồng, mong anh xem giùm em - Tuổi Ất Sửu: - Hỏi vào lúc 15:55 ngày 1/4/2012 DL Câu 1: Chồng của em (sinh năm 1976) có quan hệ ngoài luồng không? Không. yên tâm đi. Vẫn là đàn ông đích thực mà. Câu 2: Hôn nhân của tụi em có trọn đời không hay sẽ phải có cảnh li dị? (Vì ai cũng nói cung Phu của em xấu, cưới sớm thì hình khắc chia ly. Em kí hôn thú chứ chưa làm lễ gia tiên vào năm em 26 tuổi AL) Trọn vẹn. Cưới đi sinh con hóa giải. Câu 3: Khi nào em có thể xuất ngoại định cư bên Mỹ để đoàn tụ cùng chồng? (anh ấy người Mỹ) A. nếu vậy thì rất tốt. Hai tuổi này cưới sớm khôn sao cả, nhanh thì năm sau đi. chậm thì 2015. Em cám ơn anh. Chúc anh luôn mạnh khỏe :) @Lapxuan19 Chào chú Thiên Đồng, cháu sinh năm 1985, hỏi vào 23g 09' ngày 2/4/2012 Hiện giờ vợ chồng cháu có 2 lựa chọn, mua 1 lô đất (góc 3 đờ cua ) hay 2 lô đất , hik hik, mua chỗ nào thì cũng toàn là tiền vay nên rất lo, không biết có trả nổi không, với lại sợ mua rồi giá đất giảm (cháu ở tỉnh) thì tiếc hùi hụi Mong chú xem giúp tụi cháu có nên mua đất lúc này không? Nên mua. Mua đất nhỏ cất nhà lớn hay mua đất rộng cất nhà nhỏ nhỏ (chờ thời rồi mới cất nhà vừa vừa)? mua đất nho cât nhà to. Cảm ơn chú Thiên Đồng rất nhiều! @thachcau Gấp gấp Hu Hu Nhờ bac Thiên Đồng xem dum em gấp ạ Em xinh 14/3/1977 em muốn xem ngày tốt để làm thủ tục giấy tò nhà đất ạ. Nhà Hướng Tây Nam, bố em Tuổi 1946 Mẹ 1951 giờ em muốn nhờ Bác xem dùm em ngày nào thì hợp với tuổi của em ạ mong sớm được hồi âm của Anh ạ Chân thành cảm ơn Hướng hợp tuổi bố. ngày 28/3 âm hay 9/4 âm làm giấy tờ. @ Tuong Minh Em chào anh TĐ, em sinh năm 1986 hôm nay có mấy câu hỏi nhỏanh thiên Đồng xem giúp ạ! Vợ chồng em mới lấy nhau được mấy tháng, công việc thì chưaổn định lắm nên tài chính eo hẹp vẫn ở chung với ông bà già. Chắt anh cũng hiểucảnh mẹ chồng nàng dâu rùi! Vợ em cứ đồi ra ở riêng hồi hà mà tiền đâu xây nhađây, mệt lắm anh hà mà không ra ở riêng thì về lâu dài ko ổn…nhờ anh xem giúp: 1.Mẹ chồng nàng dâu sau này có ổn ko ? (hai người ko hợp tính nên đôi lúc lời qua tiếng lại). Khi nào vợ chồng em ra ở riêng sẽ ổn và cũng sẽ ra ở riêng nhanh thì 5 tháng nữa chậm thì năm sau. 2.Cuộc sống của vợ chồng em khi nào mới ổn định ( thông thả về tiền bạc )? Năm nay tiền bạc sức khoẻ có gì đáng lưu ý không anh 5 năm nữa năm nay hơi hẻo tí. 3.Vợ chồng em tính tháng tới mua lô đất xây nhà còn dư ích mua chiếc xe máy không biết có mua đựơc thứ nào trong hai thứ đó không anh ? Sẽ mua xe thôi à. Cảm ơn anh nhiều lắm, Hỏi lúc 12h4ph PM. @bi2007 Con chào chú Thiên Đồng. Con có duyên may được chú trả lời 1 lần rùi. Lần này con hy vọng lại may mắn nhận được câu trả lời của chú ạ. Kính chúc chú và gia đình một tuần mới nhiều niềm vui. Con tuổi Tân Dậu. Con bắt đầu hỏi vào 21h15 phút ngày 03/4/2012 Dương lịch 1. Công việc của chồng con trong tương lai có gì thay đổi không? Có tốt đẹp hơn không? Vẫn tươi đẹp. 2. Con sống thọ được bao nhiêu tuổi ạ? Còn thở còn sống 3. Vợ chồng con dự định sẽ sinh em bé vào năm 2013, liệu có thành công không? có khó khăn gì không ạ? Vợ tuổi gì? @phuonggdv Cháu chào chú Thiên Đồng. Mong chú bớt chút thời gian xem giùmcháu với ạ. Cháu đặt câu hỏi lúc 23h38’ ngày 3/4/2012 (Dương lịch). Cháu sinh năm1990, tuổi Canh ngọ. Câu hỏi của cháu là 1.Cháu nên sinh con vào năm nào, dự tính sinh 2 con. ( Người yêu cháu tuổi Giáp Tí 1984) một đức 2013 một 2017 2.Cháu nên sinh con vào mùa nào với các năm mà chú cho? tùy theo ý trời. 3.Cháu với bạn trai cháu lấy nhau thì có hạnh phúc không, mà sao cháu đi xem bói ở đâu, ai cũng bảo là sẽ dẫn tới chia ly, đau buồn..?Cháu cảm ơn chú thật nhiều… thương nhau cứ lấy. @Ke ham hoc Kính chú Thiên Đồng, mong nhờ chú gieo quẻ cho con. Con là Nam sinh 15/02/92 , con hỏi lúc này là 11h43p ngày 5 tháng 4 năm 2012. Thắc mắc con nhờ chú giải là: Hiện tại con định đi làm thêm, vậy: 1. Con có nên đi làm việc đó không? nên làm ngay 2. Nếu có công việc sẽ tiến triển như thế nào ạ? nhiều cơ hội tốt đấy. Mong đợi câu trả lời tứ chú nhiều nhiều ạ, con cám ơn. @thuhuyen Kính chào anh Thiên Đồng! nhờ anh xem hộ em việc này với ạ? Em tên là Huyền, nữ, sinh tháng 01 năm 89 (dương lịch), bạn trai em sinh tháng 6 năm 89. Hiện tại cả 2 đứa đều đi làm. Em muốn hỏi là: 1. có nên tiếp tục với bạn trai em không? Không gì nghiêm trọng. Hai tuổi này tốt đó. 2. nếu có liệu 2 đứa có đến được với nhau không? Được em đặt câu hỏi vào lúc 14h 42p! em cảm ơn anh nhiều! @tuannm Chào anh Thiên Đồng có câu hỏi rất mong được anh tư vấn giúp, xin cảm ơn anh rất nhiều. Nam sinh năm 17 tháng 10 năm 1985. Giờ hỏi: 3h52 phút, ngày 10/04/2012 Câu hỏi 1: em hiện nay đang tìm mua nhà xin hỏi là bao lâu nữa em mới mua được căn nhà phù hơp. Chưa mua được. Sang năm mua. Câu hỏi 2: sắp tới em có ý định đi học nâng cao lên, xin được hỏi là em có đậu để được học lên cao học không? sẽ tốt và thuận lợi. câu hỏi 3: công việc hiện tại có phù hợp hay không, có nên chuyển việc không? công việc không như mông đợi đang nhắm công ty to, chuyển! Cảm ơn Anh Thiên Đồng rất nhiều. Mong sớm hồi âm. @ huyen nhung 1980 Kính gửi anh Thiên đồng! Hôm nay em lại vào diễn đàn mong anh giúp đỡ một việc quan trọng và rất gấp anh ạ. Hiện nay chồng em đang có một số vấn đề trong công việc nên em vào diễn đàn mong anh xem giúp vợ chồng em. Em sinh 20/12/1980 (âm lich) Chồng sinh 23/9/1975 (âm lịch) Hỏi vào lúc 09h24 ngày 11/04/2012. 1. Công việc hiện nay đang có một số khó khăn (hiện nay chồng em đang làm cho công ty bảo hiểm phi nhân thọ) ,và đang có ý định chuyển sang ngân hàng , em rất mong anh xem giúp chồng em nên làm công việc hiện nay hay chuyển sang ngân hàng thì tốt hơn? Có thể là bỏ bảo hiểm chuyển ngân hàng. 2. Và trong năm nay có sự thay đổi gì trong công việc không? Sẽ có trong tháng 4, 5 âm Rất mong nhận được sự giúp đỡ của anh. Cảm ơn anh rất nhiều. @mimimi83 em hỏi vào ngày 11 Th04 2012 10:10 PM giờ Diễn đàn Em sinh 23/02/1983 1) Em đang có xích mích rất lớn với dì ruột, mối quan hệ này sẽ chấm dứt luôn hay sau này sẽ hóa giải ? Sau sẽ hóa giải nhưng lâu à. 2) Còn 2 tháng nữa em sẽ sinh em bé,em sinh có dễ không ? mẹ tròn con vuông. 3) Các con của tụi em sau này có thành đạt,có hiếu với cha mẹ không ? Quậy lắm nhưng mè thương mẹ nhất Em xin cảm ơn anh Thiên Đồng! @ Mít xù xì Chào anh Thiên Đồng em có câu hỏi rất mong được anh tư vấn giúp, xin cảm ơn anh rất nhiều ! Nam sinh năm 16 tháng 09 năm 1983.( là Nam) Giờ hỏi: 09h00 phút, ngày 12/04/2012 Câu hỏi 1: Hiện em đang làm việc tại một cơ quan nhà nước và cũng đang học nâng cao lên, vậy em muốn hỏi là em có nên tiếp tục làm ở đó hay ra một cơ quan, cty khác khác không? Chắc vẫn phải ở đó, chịu khó sẽ tốt. Câu hỏi 2: Sắp tới em định hùn vốn mở cửa hàng làm ăn với một người sinh năm 1980, vậy em có nên mở không ạ? Không nên, có vẻ ng này được nhưng lâu dài thì không hay. Câu hỏi 3: công việc hiện tại có phù hợp hay không, có nên chuyển việc không? Không Cảm ơn Anh Thiên Đồng rất nhiều. Mong sớm hồi âm. @ Tiểu yến Cháu chào chú Thiên Đồng Cháu muốn xin chú giải cho cháu 1 quẻ. Tuổi: Ất Sửu (1985) (ngày 16/10/1985 lúc 9h15 phút sáng) Hỏi vào ngày 12/4/2012 lúc 12h 25 phút năm 2012 (dương lịch) Câu hỏi 1: Chồng cháu sinh ngày 4/7/1984 lúc 0h-1h sáng. Vợ chồng cháu đã lấy nhau 2 năm nhưng chưa có tin vui. Cháu muốn hỏi trong năm nay vợ chồng cháu có tin vui không hoặc bao giờ thì vợ chồng cháu có tin vui? nhanh thì tháng 5 âm chậm tháng 10 âm Câu hỏi 2: Vợ chồng cháu có bị đứt gánh giữa đường không ạ? Không. Câu hỏi 3: Sắp tới cháu có thể đi nước ngoài được không ạ? Sẽ có. Chắc du lịch thôi. Cảm ơn chú! Chúc chú luôn có đủ sức khỏe! Thiên Đồng
-
Nhưng khoa chủng tộc học và dân tộc học phân biệt như sau: a. Chủng Miêu gồm 5 thứ b. Chủng Cổ Mã Lai gồm 4 thứ Lạc và 6, 7 thứ Thái Tất cả những thứ ấy chỉ ở Hoa Nam, nhưng xưa kia đều làm chủ Hoa Bắc, trước khi người Tàu đến, nhưng không phải là Cửu mà nhiều hơn thế kia, hoặc chỉ có nhị nếu dựa vào chủng tộc. Thế thì Cửu của Tàu chỉ dựa vào sự quan sát, có thể cũng đủ số cửu thật đó, vào cổ thời, những thứ khác vốn chỉ có mặt ở Hoa Nam, mà Hoa Nam thì họ chưa chiếm nên chưa biết. Nếu dựa vào chủng tộc học, ta biết rằng họ chỉ gặp có hai chủng mà thôi là chủng Miêu và chủng Mã Lai nhưng Miêu thì chắc chắn không có mặt trong cái Cửu đó, vì cho tới ngày nay họ vẫn còn kém thì cách đây 5 ngàn năm họ chưa đủ sức đương đầu với Tàu. Nếu dùng ức thuyết thì Cửu Lê là chủng Mã Lai, và gồm các nhóm Thái và Lạc, có mặt ở Hoa Bắc vào thuở đó (mà không có Miêu). Nhưng khoa khảo tiền sử lại đào bới hoài mà không gặp sọ Mã Lai tại Hoa Bắc. Đó là một sự lạ, trái ngược với ức thuyết của chúng tôi, nhưng mà rồi sẽ giải thích được rõ ràng. Vậy Xy Vưu là Cổ Thiên Tử của 9 nhóm dân Mã Lai. Đó là nói tiên tri trước vài mươi trang, chớ ta chưa thấy Thái và Lạc là Mã Lai bao giờ cả, nhưng rồi ta sẽ thấy. Dân Cửu Lê ở đâu? Hiên Viên đánh thắng họ tại Trác Lộc (Bắc Hà Nam) ở trên sông Hoàng Hà. Có lẽ đó là trung tâm của họ. Rồi họ có ở lại hợp tác sau khi vua họ là Xy Vưu bị hạ sát hay không? Đã bảo họ có sọ y hệt như sọ Mã Lai, mà ở Hoa Bắc lại không tìm thấy sọ Mã Lai. Thế nghĩa là họ bị tàn sát hết hoặc chạy trốn hết. Nhưng cái việc tàn sát hết đó, không thể xảy ra được, khi mà đất trống còn quá nhiều để cho họ chạy trốn. Sử Tàu có nói đến Vũ Xy Vưu. Có lẽ đó là vài mươi tên tù binh bị bắt mà không có khí giới, và làm nô lệ cho Tàu, múa (vũ) cho họ xem, chỉ có thế thôi, và chỉ có vài mươi tên, nên không còn sọ. Không phải sọ nào cũng còn được sau 5 ngàn năm mà trong 10 ngàn cái chưa dễ có một cái chưa thành tro. Khi mà khoa khảo tiền sử tìm được 5 cái sọ của chủng nào đó thì người ta đoán biết rằng chủng ấy có mặt đông ít lắm cũng tới 50 ngàn người. Cạnh người Lê và ngăn Lê và Lạc làm đôi là dân Lạc-Lê, có lẽ là một nhóm lai căn giữa Lê và Lạc. Tuy cả hai Lê và Lạc đều đồng chủng Mã Lai với nhau, nhưng vẫn có khác, nên một cuộc hợp chủng mới cho đẻ ra nhóm Lạc-Lê, y hệt như trên Cao nguyên ta hiện nay, tất cả đều là Mã Lai. Nhưng Sơ Đăng khác Bà Na, Bà Na khác Gia Rai. Ta không biết địa bàn của Lạc-Lê, nhưng địa bàn của Lạc thì được biết. Rợ Lạc bộ Trãi có địa bàn ăn khớp với rợ Đông Di, tức tỉnh Sơn Đông và ở trên nữa, tức tỉnh Hà Bắc. Rợ Lạc nầy viết khác với rợ Lạc ở Thiểm Tây, Lạc ấy viết với bộ Chuy, còn Lạc nầy viết với bộ Trãi, cũng đọc là Trĩ, tức con sâu không chơn, và không có nghĩa gì cả, bởi thói quen của người Tàu là viết tên các thứ dân kém mở mang hơn họ bằng những bộ Trùng, bộ Khuyển, bộ Thỉ, v.v... Người Đao một chi của Miêu tộc đã bị viết với bộ Khuyển từ hơn ba ngàn năm nay, mãi đến nay mới được viết lại với bộ Ngọc. Dầu sao họ cũng biết Khuyển Nhung và Đông Di là Lạc vì địa bàn Khuyển Nhung ăn vào địa bàn Lạc bộ Chuy, còn địa bàn Đông Di ăn vào địa bàn Lạc bộ Trãi. Rồi ta sẽ biết Lạc-Lê và Lạc là ai, rồi họ đi đâu. Nhưng tại sao họ không có mặt trong trận đánh với Hiên Viên? Không, không có bằng chứng là không có họ. Cửu Lê gồm có Lạc-Lê và Lạc mà Cửu Lê bị đánh thì Lạc và Lê cũng không thoát. Ta sẽ biết Lạc là gì, rồi họ đi đâu, sau khi bị Hiên Viên diệt. Sự “đi đâu” của họ, phải có nguyên nhơn, mà nguyên nhơn đó là sự đánh diệt của Hiên Viên, vậy họ phải có mặt trong trận Trác Lộc, mặc dầu địa bàn của họ không phải ở Trác Lộc. Theo sử Tàu thì Lạc bộ Trãi là rợ Đông Di, có địa bàn ở sông Bộc và cũng được gọi là Bách Bộc, mà sông Bộc chỉ cách Trác Lộc có 10 cây số. Thế thì Cửu Lê bị đánh ở Trác Lộc, phải có mặt Lạc. Đã biết. Hoa chủng không còn gặp ai nữa cả, tại Hoa Bắc, theo khoa khảo tiền sử thì họ chỉ gặp có hai chủng: Miêu chủng và Mã Lai chủng. Mã Lai chủng phương Tây là Khuyển Nhung thì đã rõ. Còn sọ Khuyển Nhung và đó là sọ Miến Điện, tức sọ Mã Lai. Lại có dấu vết Khuyển Nhung di cư đi Miến Điện. Nhưng không hề thấy dấu vết của sọ và vũ khí của Lê và Lạc ở địa bàn của Lê và Lạc. Thật là phiền cho giáo sư Kim Định vì nó không ăn khớp với cái vụ ăn cướp văn minh Việt mà Tàu là thủ phạm. Đã bảo một nền văn minh không bắt chước được khi thoáng thấy, mà phải học. Nhưng chủ nhân của nền văn minh đó lại biến mất, không để dấu vết lại thì phải làm thế nào? Thế nên chúng tôi mới bác bỏ cái đám cướp tưởng tượng đó và chủ trương một lối thấy khác nữa là cái ông Cổ Thiên Tử Xy Vưu đó, đến làm chủ Hoa Bắc không tới 10 năm là đã gặp rủi ro, là sự xâm nhập của Tàu, chớ nếu ông ta đã làm vua ở đó lâu đời rồi thì thế nào sọ và vũ khí của dân Cửu Lê cũng còn sót lại, ít lắm là một cái. Làm vua mới có 10 năm, hoặc 5 năm, chưa có ai kịp chết hầu để sọ lại, rồi thì bị đánh đuổi và chạy đi mất hết, nên mới không để dấu vết ở Hoa Bắc. Và như vậy thì không có vấn đề Tàu ăn cướp văn minh nông nghiệp tại Hoa Bắc. Họ có ăn cướp của Miêu chăng? Cũng không, vì cho tới ngày nay mà Miêu vẫn còn giỏi chăn nuôi hơn là trồng trọt thì cách đây 5.000 năm, họ không thể đã biết nông nghiệp trước Tàu. Giáo sư Kim Định nói Hữu Miêu là có ruộng đã bị từ điển Từ Hải đính chánh. Các nhà dân tộc học Âu Mỹ phỏng đoán Miêu làm ruộng rất dở vì có Thảo ở trong Điền. Làm ruộng mà để cỏ mọc trên ruộng là quá dở. Lối giải thích đó không chắc đúng, nhưng có vẽ đứng vững hơn. Sự vắng bóng của sọ Lạc ở Hoa Bắc, nhưng lại có mặt tại Đại Hàn, Nhựt Bổn, Đài Loan, Hải Nam, Việt Nam vẽ ra lộ trình một cuộc di cư vĩ đại từ Hoa Bắc và chính vì thế mà chúng tôi mới kết luận rằng Lạc và Lê làm chủ Hoa Bắc có lẽ không tới mười năm thì bị Hiên Viên đánh đuổi đi. Và Hiên Viên là thủ lãnh của bọn Tàu xâm nhập, chớ trước Hiên Viên không có Hữu Sào, Phục Hi, Toại Nhân gì cả đâu. Quả thật thế, sử Hy Lạp cho biết rằng Nhục Chi và Mông Cổ đều đã biết lửa. Thế thì tại sao con cháu của Nhục Chi và Mông Cổ phải đợi Phục Hi và Toại Nhân nào đó vào nước Tàu rồi mới dạy cho làm lửa? Truyền thuyết Tàu đã lầm lẫn địa bàn. Họ nói đến một nhơn vật Mông Cổ hay Nhục Chi ở ngoài nước Tàu. Nếu truyền thuyết Nhục Chi và Mông Cổ mà thọ như truyền thuyết Tàu, thì họ cũng có hai nhơn vật y hệt như thế, mà đó mới là Toại Nhân và Phục Hi thật sự. Hoa tộc xâm nhập Trung Hoa là đã biết lửa rồi. Thế nghĩa là Toại Nhân, Phục Hi, nếu quả là hai nhơn vật chớ không phải là hai đợt văn minh, thì đó là hai nhơn vật hoặc Nhục Chi, hoặc Mông Cổ, ở ngoài nước Tàu. Hiên Viên mới đích thực là một trong hai lãnh tụ, lãnh tụ thứ nhì là Thần Nông. Hai nhóm đó diệt nhau, chỉ là một cuộc tranh chấp nội bộ giữa Tàu với nhau mà thôi, chẳng dính líu gì với ta cả. Truyền thuyết Tàu đã lầm lẫn địa bàn, mà truyền thuyết của dân tộc nào cũng thế. Chúng ta sẽ thấy rằng truyền thuyết Việt cũng lầm lẫn địa bàn không kém Tàu chút nào hết. Và nếu ta nhận ra rằng Lạc-Lê làm chủ nước Tàu không lâu, không hơn mười năm thì nhóm Thần Nông không thể đã truyền ngôi được 8 đời, như sử Tàu đã chép. Nếu Thần Nông là Việt như giáo sư Kim Định nói thì hai chủng tộc đó phải diệt nhau tức thì khi chạm trán với nhau, chớ cuộc giành giật đất đai suốt tám đời vua, nếu có, truyền thuyết Tàu đã có nói đến, và các cổ thư Tàu đã có chép truyền thuyết ấy. Có lẽ vì thế mà Tư Mã Thiên chỉ bắt đầu từ Hiên Viên chăng? Nhóm Thần Nông có thể chỉ làm vua trên đường xâm nhập, bởi cũng nên biết rằng xâm nhập đất đã có chủ: Miêu, Khuyển Nhung, Lạc-Lê, không phải đầu hôm sớm mai mà vào được mà phải mất hàng ngàn năm. Về vụ Xy Vưu và Cửu Lê ta chỉ có thể lập ra ức thuyết mà không mong có cuộc khám phá nào mới lạ nữa, vì như đã nói, khoa khảo tiền sử ở Hoa Bắc đã được làm xong rồi. Ta giả thuyết rằng Cửu Lê, từ đâu chưa biết, nhưng thuộc chủng Mã Lai, theo khoa khảo tiền sử, xâm nhập đất Hoa Bắc đã có chủ rồi là Miêu chủng. Nhưng vì Miêu chủng quá kém, nên họ làm bá chủ ở Hoa Bắc cho nên Xy Vưu mới được gọi là Cổ Thiên Tử. Nhưng họ chỉ mới làm chủ có 5, 7 năm gì đó thì bị Hiên Viên đánh đuổi. Họ bị tàn sát. Những kẻ còn sống sót di cư đi Đại Hàn, Nhựt Bổn, Đài Loan, Hải Nam, Việt Nam, nhưng lại vắng bóng ở Hoa Bắc. Có thể nào mà họ từ Hoa Nam mới tràn lên đó chăng? Không, vì nếu thế thì khi bị Hiên Viên đánh đuổi, họ lui trở xuống Hoa Nam chớ không phiêu lưu mạo hiểm trong một cuộc di cư xa xôi và khó khăn như thế vào cái thời mà loài người chưa thạo đi biển mà cũng chưa có phương tiện hàng hải đáng kể. Họ không lui về Hoa Nam mà cũng không xâm lăng Hoa Nam vì họ biết rằng Hoa Nam đã có chủ rồi, và chủ ấy là ai rồi ta sẽ thấy. Khi tràn vào Hoa Bắc, kẻ tiên phong phải là Lạc bộ Trãi, vì như ta biết thì Lạc bộ Trãi có địa bàn ở cực Đông Hoa Bắc, tức là họ phải là bọn đi đầu mới tới biển trước 8 nhóm khác. Những gì nói ra trên đây hơi sớm nhưng tại đã đến lúc phải nói. Nhưng rồi ta sẽ thấy rõ ở chương Mã Lai chủng. Lạc là ai, ra thế nào, và tại sao được Tàu gọi là Lạc? Chúng tôi chỉ có thể trình diện Lạc ở chương Mã Lai chủng nhưng ở đây cũng xin nói sơ qua rằng Lạc có địa bàn như trên và lâu lắm về sau mới nghe sách Tàu chép rằng rợ Đông Di xâm mình và nhuộm răng đen. Có đến 5 thứ Lạc nhưng Tàu chỉ biết có ba thứ thôi, và biết vào ba thời đại khác nhau. Dưới thời Hiên Viên họ gộp Lạc vào Cửu Lê, nhưng có lẽ đến đời Hạ Thương thì họ biết rằng rợ Đông Di là Lạc, vì sau đó họ chép rằng Cơ Tử khi đi khai hóa rợ Tam Hán, mà họ biết rằng rợ Tam Hán là hậu duệ của Lạc bộ Trãi từ Đông Bắc Trung Hoa di cư sang Triều Tiên. Họ cũng biết rằng Khuyển Nhung là Lạc bộ Chuy, nhưng họ không chắc lắm nên tự dạng Lạc bộ Chuy, về sau bị bỏ, và được một quyển sách đời sau dùng lầm để chỉ ta, đó là quyển Giao Châu ngoại vực ký. Đến đời Chu thì họ biết rằng dân Việt ở Hoa Nam cũng là Lạc, nhứt là dân Thất Mân, và chỉ bọn Lạc đó bằng tự dạng Lạc bộ Mã. Còn hai thứ Lạc nữa mà họ biết rất trễ, không rõ vào thời nào, có lẽ cuối Chu cũng nên, nhưng không có gọi hai thứ đó là Lạc bao giờ cả, có lẽ vì hai thứ đó tự xưng khác. Đó là người Khơ Me mà họ phiên âm là rợ Khương ở tỉnh Tây Khương và người Thái mà họ gọi là Âu vào đời Tần. Lạc là gì? Là danh tự xưng được Tàu phiên âm và đọc là Ló mà ta thoáng thấy rằng danh tự xưng đó là Lai. Việc phiên âm của Tàu về các đời sau, khá đúng, nhưng vào thời thượng cổ, xem ra không đúng lắm. Họ có âm Ai chớ không phải là không có mà bảo rằng vì thiếu âm nên phiên âm sai. Nhưng buổi ban đầu tiếp xúc, thường thì dân tộc nào cũng gọi sai các dân tộc khác, thí dụ ta đã gọi Pháp là Hòa Lan, rồi Hạ Lan, còn Âu Châu thì gọi Mã Lai Nam Dương là Ấn Độ. Và cho đến danh tự xưng của họ, họ cũng làm thế, có nhóm chỉ tự xưng là Mã không mà thôi, chớ không có Lai. Có nhóm lại tự xưng là Mã Đa, thí dụ sử Chàm đã chép rằng họ đã diệt một tiểu bang tên là Mã Đa tại lối Phú Yên, tiểu bang đó cũng là Mã Lai như họ, và ở miền Nam có một nhóm Thượng tự xưng là Mạ và nói tiếng Mã Lai (nhưng các ông Tây lại sai lầm mà cho rằng Mạ nói tiếng Cao Miên). Ta cứ ngỡ rằng sách Tàu viết chữ Lạc lộn xộn bậy bạ có khi với bộ Trãi, có khi với bộ Mã, có khi với bộ Chuy. Nhưng cái sự lộn xộn của Tàu thật ra là sự trật tự đấy, vì khoa khảo tiền sử khám phá ra rằng quả có ba thứ Mã Lai, một thứ di cư từ Hoa Bắc xuống Việt Nam, một thứ nằm sẵn tại Hoa Nam, rồi cũng di cư đi Việt Nam. Còn Lạc bộ Chuy là Khuyển Nhung, một chi Mã Lai, sẽ thành Miến Điện về sau. Hai thứ kia là Khơ Me và Thái thì họ chỉ mới biết cũng là Mã Lai gần đây thôi. Phải phục các ông Tàu đời Chu là giỏi. Cho tới nay, thiên hạ than phiền về ba tự dạng Lạc bể đầu ấy lắm, không biết tại sao Tàu viết lộn xộn đến thế. Nhưng rõ ra thì họ đã biết là có ba thức Lạc, ngay từ đời Chu rồi, và đáng sợ hơn nữa là họ chỉ đích xác người Phúc Kiến, tức Thất Mân, bằng chữ Lạc bộ Mã, luôn luôn như vậy, mà Thất Mân, theo khoa khảo tiền sử thì đích thị là Mã Lai đợt II, mà chúng tôi sẽ trình diện rõ hơn. Ấy thế mà sử gia Nguyễn Phương của ta lại nói rằng sử gia Tàu không biết Lạc là gì, nên quá bối rối tìm cách giải thích liều lĩnh nhưng không xong. Lần lần ta sẽ thấy rằng họ biết Lạc rõ cũng gần bằng khoa khảo tiền sử ngày nay. Các bản đối chiếu ngôn ngữ sẽ cho ta thấy Việt ngữ gồm cả ba loại danh từ của cả ba thứ Lạc đó, họ có một số danh từ giống hệt nhau, nhưng cũng có một số danh từ khác nhau. Nhưng Việt Nam lại có đủ cả ba vì ta là Lạc hỗn hợp. Người Tàu còn biết nhiều hơn nữa kia và ăn khớp với khoa khảo tiền sử, và lần lần, ta sẽ thấy rõ như ban ngày trong thượng cổ sử của ta. Rồi chúng ta lại thấy bọn Lạc-Lê tái xuất hiện ở Việt Nam, cũng với tên xưng hơi giống giống Lạc-Lê. Ta cứ ngỡ nhóm trung gian Lạc-Lê mà các cổ thư Trung Hoa nói đến, quá nhỏ nên bị tàn lụn rồi, nhưng họ còn có mặt ít lắm là vào thời Hùng Vương 16, 17, 18 và chúng tôi hồ nghi có căn cứ rằng người Hải Nam cũng là Lạc-Lê chớ không là Lạc thuần túy, bằng vào Thủy Kinh Chú trong đó Lệ Đạo Nguyên tả dân Hải Nam giống dân Nhựt Nam mà dân Nhựt Nam thì đích thị là Lạc-Lê, theo nghiên cứu riêng của chúng tôi. Như vậy là Lê thuần túy không còn nữa, vì sách giáo khoa mới nhứt của Tàu gọi dân Hải Nam là Lê, nhưng họ lại chỉ là Lạc-Lê, hoặc Lê là danh phiên âm tối cổ, trước khi có danh phiên âm Lạc cũng không chừng, và Cửu Lê, chỉ là Cửu Lạc mà thôi, bởi Lê thì Tàu đọc là Lỉa, mà Lỉa và Ló cũng không xa nhau cho lắm, bằng chứng là đời Hán đến đời Đường, họ phiên âm tên nước Cam-bu-chia đến ba cách khác nhau: Cam Bố Trì, Cam Phá Giá rồi Giản Phố Trại, mà đó là thời họ đã văn minh rồi, làm việc cẩn thận hơn vào đời Hiên Viên nhiều lắm rồi, mà họ còn phải mò mẫm như vậy gần mười thế kỷ mới phiên âm thật đúng danh tự xưng của một dân tộc. Riêng Lạc bộ Trãi di cư đi Triều Tiên thì đến tới Tây Chu họ đã phiên âm thật đúng. Họ gọi rợ Tam Hàn là Lai di. Họ đã mất hai ngàn năm mới lần dò từ Lạc đến Lai được. Ông H. Maspéro là một nhà bác học chưa học khoa chủng tộc học, nên khi nghe Granet khám phá ra những tục dâm đãng của người Tàu qua những bài thơ trong Kinh Thi, mà chính người Tàu cũng không hề thấy sự kiện đó mà còn được Khổng Tử khen nữa, và khi thấy người Thái Thượng du Bắc Việt cũng có phong tục y hệt như vậy, ông kêu to lên: “Thái là người cổ Trung Hoa” (Pré-chinois). Ông có biết đâu rằng dân tộc nào cũng trải qua các giai đoạn tiến hóa gần giống nhau và Tàu đời Thương, Chu, giống Thái thời nay, không hề có nghĩa là Thái là cổ Trung Hoa. Giáo sư Kim Định cũng làm y hệt như vậy, đưa những đám hát trống quân, hát quan họ của ta rồi so sánh với Kinh Thi và cho rằng ta là cổ Trung Hoa. Nên biết rằng những bài thơ trong Kinh Thi phần lớn là dân ca, được sáng tác trước thời dân Tàu có lễ giáo điệu nhà nho. Dân Tàu đã có dâm phong thật sự vào thời ấy và đó là sự dĩ nhiên không hề chứng tỏ Thái và ta là cổ Trung Hoa. Cũng nên xét qua về hai lối định một câu nhận xét Kinh Thi của Khổng Tử. Ông Nguyễn Hiến Lê dịch là: “Không dâm”, nhưng ông Trần Trọng Kim dịch là: “Không nghĩ xằng”. Ta xem nguyên văn thì thấy là “không nghĩ xằng”. Mà ai không nghĩ xằng? Không phải độc giả đâu nhé. Khổng Tử nói đến tác giả của những bài dân ca đó, họ chỉ tả đúng phong tục thời đó, chớ không có ý khiêu dâm. Tâm vô tà là tâm của tác giả các bài ca, chớ không phải là tâm người đọc, vì người đọc tuyệt nhiên không thấy sự thật ẩn trong đó, trước khi ông Granet khám phá ra, thì họ làm sao mà có tà tâm được. Nhưng Khổng Tử vốn có thấy, y như Granet, vì thế mà nghĩ phải đưa ra nhận xét trên, để binh vực các tác giả đó, khi nào những bài ấy bị ai lên án mà ngài phải liên lụy. Nhưng không có chú Tàu nào thấy cả nên Kinh Thi không bao giờ bị lên án. Nhiều học giả Tàu và ta cho rằng những bài dân ca Kinh Thi lượm lặt ở nước Vệ, nước Trịnh, nước Tề, được sáng tác vào đời Chu vì chính vào đời Chu mới có những nước ấy. Nhưng không, vào đời Chu thì Tàu đã hết dâm phong rồi hay còn rất ít mà Kinh Thi thì đầy dẫy dâm phong. Sự thu lượm ở các nước nói trên, không có nghĩa là được sáng tác vào đời Chu. Nó được sáng tác trước đó hai ba trào đại, vào đời Hạ cũng nên, cũng cứ tại những nơi đó, tuy chưa mang tên là nước Nầy, nước Nọ. Khi người ta thu lượm thì thu lượm tại những nước ấy vừa đã có tên là Vệ, là Trịnh, v.v., dĩ nhiên là phải thế, nhưng nơi chốn không phải luôn luôn là thời điểm sáng tác. Thí dụ những bài dân ca dâm đãng nhứt được thu lượm tại nước Trịnh mà trước đời Chu thì không có nước Trịnh nhưng đã có quận huyện nào đó nằm tại nước Trịnh đời Chu và chính dân của các quận huyện ấy đã sáng tác rồi truyền miệng lại đến đời Chu thì người ta thu lượm, dĩ nhiên là tại nước Trịnh. Giáo sư Kim Định đã đặt ra nghi vấn về mấy thiên đầu Kinh Thi: Viết nhược kê cổ = Việt nhược kê cổ và cho rằng chính một người Việt đã chép Kinh Thi (trước khi Khổng Tử san định). Điều đó cũng có thể, vì có thể một người Việt hiếm hoi bị bắt và trở thành trí thức Trung Hoa. Đành thế. Nhưng một vài cá nhân lọt sổ, ở lại hợp tác và thành trí thức Tàu, khác xa sự kiện toàn dân Việt ở lại để dạy Tàu văn minh của họ. Người Việt thành trí thức Tàu quả có thực và chúng tôi thấy rằng 9 bài Cửu Ca của Sở Từ là do một người Việt viết ra, và cả sử Tàu cũng xác nhận là tướng Giám Lộc, kẻ phát minh ra canal à écluses, là người Việt. Nhưng vẫn cứ là vài cá nhân lẻ tẻ, không hề có cuộc sống chung hòa bình, hoặc chinh chiến giằng co lâu năm tại Hoa Bắc mà bằng chứng không thể chối cãi là khoa khảo tiền sử tìm được dấu vết Cửu Lê tại Đại Hàn, nhưng dấu vết đó tuyệt đối vắng bóng tại Hoa Bắc. Giáo sư Kim Định cho rằng Khổng Tử là người Việt, và là Việt gian, vì hợp tác với Chu (Tàu du mục), nhưng Việt gian đáng được tha thứ. Nhưng trong chương Bất tương đồng Hoa Việt, ở tiểu mục Bí mật phòng trung, chúng tôi đã cho thấy những dị biệt giữa Tàu và Việt. Mẹ Khổng Tử đã “lâm bồn”, trong khi đó thì phụ nữ Việt từ cổ chí kim không hề có nhóm nào “lâm bồn” cả. Vậy Khổng Tử là Tàu hay Việt? Giáo sư quả quyết rằng có quen với một người Việt, người ấy cha truyền con nối, còn nhớ văn tự của dân Việt thời Nghiêu Thuấn. Nhưng sao trên trống đồng Lạc Việt không thấy có khắc chữ gì hết, trừ loại trống sau cùng có khắc chữ… Tàu? Nếu dân Lạc Việt không thích khắc chữ trên trống thì cứ không thích hoài chớ sao trước không thích mà sau lại chịu ảnh hưởng Tàu, rồi mới thích khắc chữ là thế nào? Chúng tôi cố tìm xem có những nét nào giống gần hay giống xa gì với văn tự của người Mường hay không, và tuyệt đối không thấy. Thế nghĩa là văn tự của người Mường cũng chỉ mới có đây thôi, không biết vào thời nào, nhưng chắc chắn là sau thời Thượng Hiệt. Nhưng cũng nên biết rằng giáo sư chỉ nói đến một thứ Việt mù mờ nào đó, chớ không phải là dân ta. Nhưng rồi sau đó hình như giáo sư lại nối kết Việt mù mờ đó và dân ta một cách rất rõ ràng minh bạch. Vậy thì dân ta phải có chữ, trước khi học chữ của Tàu. Nhưng văn tự đó ở đâu? Sao không thấy giáo sư làm bản kẽm in ra xem thử ra sao? Mộng Văn Thông cũng chỉ nói phất phơ vậy thôi vì kẻ không có chứng tích không bao giờ dám to tiếng quả quyết cái gì hết. Nhưng giáo sư Kim Định phát triển mạnh mẽ những điều đó ra, và cho rằng cái gì của Tàu cũng do ta sáng lập ra cả, mà ở tận Hoa Bắc lận kia. Giành giật nền văn minh Đông Sơn thì không sao, chớ giành luôn Hồng Phạm, Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh nào cũng dân Việt làm ra hết thì người Tàu sẽ buồn cười lắm. Họ không cãi đâu, mà chỉ cười thôi. Còn nhớ cách đây mười năm, nhân ngày lễ Hai Bà Trưng, tờ báo Tàu Phụ nữ của ông Lý Thu trong Chợ Lớn in hình một cô “Mọi” Cao nguyên to tướng ngay trong bài đó. Tờ báo bị đóng cửa, dĩ nhiên là như vậy. Nhưng như thế đủ biết “người anh em đồng bào còn ở lại bên Tàu” để tiếp tục cái văn minh mà Việt đã lập ra bên ấy (theo giáo sư Kim Định), “người anh em” đó nghĩ thế nào về Hai Bà Trưng của ta? Họ nghĩ gần đúng vì quả hình người khắc ở trống Đông Sơn ăn mặc gần giống như người Thượng ngày nay. Nhưng vua Vũ, Khổng Tử, sống trước Hai Bà Trưng quá xa, sống trước vua Hùng Vương cũng quá xa, sau khi ta di cư, ta không mang theo món gì của vua Vũ hết cả, mà chỉ có cái lưỡi rìu có tay cầm mà vua Vũ không bao giờ có ? Nếu quả đúng nền văn minh Tàu do ta lập ra thì chúng tôi hãnh diện trước nhứt. Nhưng mà… không bao giờ có chuyện đó. Nó chỉ là huyền thoại mới đặt năm 1969. Họ nghĩ gần đúng, chỉ phiền là họ thiếu tinh thần khoa học, quên mất rằng vào thời Hiên Viên, Tàu cũng chỉ văn minh đến thế là cùng. Họ thiếu tinh thần khoa học và bức ảnh đó được đăng với tánh cách chế giễu và khinh khi “man di” không thể chối. Thế nên tờ báo ấy mới bị đóng cửa. Giáo sư khuyên là đừng oán ghét “người anh em đó”. Ai mà oán ghét họ! Chỉ có họ là khinh bỉ ta thôi đó chớ. Ông bảo Tứ Thư, Ngũ Kinh là của dân ta. Bảnh lắm. Nhưng rồi ông nói Ngũ Kinh tiếp nhận cổ huấn từ Tam phần, mà các bộ sách Tam phần thất truyền ấy lại là của Phục Hi, tức trước Thần Nông nữa. Thế thì: A. Nếu Phục Hi là Tàu thì ta bất quá chỉ cóp theo Tàu, nếu quả Ngũ Kinh là của ta đi nữa. B. Nếu Phục Hi là Việt thì không bao giờ có Tàu trên đời nầy cả, vì cứ ngược nguồn hoài mà chỉ gặp toàn Việt không mà thôi, không hề gặp chú Tàu nào cả. Thế thì có Tàu hay không có Tàu? Chúng tôi cho rằng ký ức con người có hạn, mà ký ức Tàu không hơn gì ký ức Việt, họ nhớ tới đâu ta cũng nhớ tới đó. Mà cả hai dân tộc thì xuất hiện tại Hoa Bắc cùng lúc với nhau, ta đi trước họ có mười năm là cùng. Như vậy sao trong truyền thuyết ta lại không bao giờ có Phục Hi, còn họ thì có? Không nên bắt quàng làm họ với người anh em đăng ảnh một cô Mọi ở truồng giữa bài nói về ngày kỷ niệm Hai Bà Trưng. Lạc là gì? Từ hai năm nay có rất nhiều học giả ta tranh giành Hà Đồ Lạc Thư với Tàu, cho rằng đó là sách của ta, làm tại sông Lạc là đất của dân Lạc. Nhưng cổ sử Tàu lại cho biết rằng đất của dân Lạc là khu vực sông Bộc. Đó là thứ người mà đời Chu gọi là rợ Đông Di. Có lẽ trước kia đất của họ là sông Lạc chăng? Có thể, nhưng Lạc đó là Lạc bộ Chuy, tức Miến Điện mà Miến Điện thì chẳng hề biết Kinh Dịch bao giờ, Lạc bộ Trãi thì biết nhưng họ không có ở sông Lạc bộ Chuy. Sông Lạc nầy thì ngày nay viết với bộ Thủy, không biết vì lẽ gì chớ không phải sợ người Miến Điện giành Hà Đồ, Lạc Thư của họ đâu, vì văn minh Miến Điện không cần Hà Đồ, Lạc Thư lắm như Việt Nam trước năm bị Pháp chinh phục. Nếu quả dân Lạc đã phát minh Hà Đồ, Lạc Thư thì Lạc đó là Lạc bộ Chuy ở Thiểm Tây, biến thành Miến Điện, chớ không phải là ta, vì ta là Lạc bộ Trãi biến thành Việt Nam, mà Lạc bộ Trãi là rợ Đông Di nhuộm răng đen, không bao giờ có địa bàn ở sông Lạc cả. Người ta tự hỏi, sau khi nghe các ông giành Hà Đồ, Lạc Thư, tự hỏi tại sao cái thứ văn tự của Lạc đó, khi họ di cư, họ bỏ mất luôn, không còn nhớ lấy một nét, vì địa bàn Triều Tiên không xa địa bàn xuất phát di cư bao nhiêu mà tưởng rằng đường xa nên các người lớn biết chữ đã chết dọc đường. Không, khi Chu diệt Ân thì các công thần Ân đưa người ra Triều Tiên để chinh phục bọn Lạc bộ Trãi di cư đến đó, và có mang chữ Tàu theo hẳn hòi, mà các công thần nhà Ân thì cũng đi từ đất Lạc bộ Chuy ra Triều Tiên, tức là đường còn xa hơn nhiều, thế mà họ cứ còn nhớ chữ Tàu. Rồi thì từ địa bàn định cư Triều Tiên đó, đến các địa bàn định cư khác, thí dụ như Nhựt Bổn, Đài Loan và cổ Việt Nam, luôn luôn kế tiếp nhau, vì họ đi bằng đường biển thì không mấy hôm là tới nơi, mà cũng chẳng có dân định cư nào nhớ cái văn tự của Hà Đồ, Lạc Thư hết. Bằng như nói là sách tâm truyền thì cũng được, nhưng chỉ phiền là hình như là quả họ đã có văn tự rồi vào thời vua Vũ, vì các nhà khảo cổ Pháp đã bảo rằng văn tự đời Thương đã được kiểu-thức-hóa khá sâu đậm, chớ không còn là hình vẽ như văn tự Ai Cập, thế tức là văn tự đó đã có, ít nhứt là từ đời nhà Hạ. Nhận xét nầy, ta thấy được trên các mu rùa, xương thú chụp ảnh phóng đại trong quyển L’Art de la Chine và quả văn tự đời Thương, tuy không bằng chữ ngày nay, nhưng vẫn không phải là hình vẽ con ngựa con bò, cái nhà nữa. Nhà Hạ đã bỏ ra 432 năm để kiểu-thức-hóa hình vẽ cho thành văn tự để nhà Thương hưởng, thì cái thời gian đó vô địch về mau chóng, chớ không phải là quá lâu mà không thể tin được đâu, vì Ai Cập văn minh nhiều suốt ngàn năm nhưng cứ còn vẽ hình hoài mà không kiểu-thức-hóa nổi. Giáo sư Kim Định chủ trương rằng tất cả đều hẹp hòi, khoa nào cũng thế, chỉ có văn hóa là mở rộng cửa cho ta thấy một chơn trời mênh mông mà không khoa nào đủ khả năng cho ta cái nhìn tổng quát ấy được. Câu trên đây rất đúng, nếu chỉ nói chuyện ảnh hưởng văn hóa giữa chủng nầy với chủng nọ. Nhưng giáo sư lại lấy làm nền tảng cho cái ảnh hưởng có thể có đó, nhưng nó lại là sử sai. Vì lấy sử sai, nên kết luận phải sai. Hoa Bắc không hề có chịu ảnh hưởng văn hóa Viêm, Việt nào cả. Ông nói đến ảnh hưởng nông nghiệp của Mễ và Hòa của Hoa Nam. Nhưng sự thật thì sau đời nhà Hạ khá lâu Hoa Bắc mới biết Mễ, tức Tàu đã chiếm Hoa Bắc và thiết lập văn minh của họ ở đó nhiều ngàn năm rồi, thì họ mới thấy cây Mễ lần đầu trong đời họ. Thế thì làm thế nào mà Hiên Viên lại cướp cái văn minh nông nghiệp Mễ ấy được chớ? Ở chương sau ta sẽ thấy Tàu biết Mễ vào năm nào, có lẽ là năm Hùng Địch được phong. * * * Bọn Nhục Chi về sau rất là quan trọng vì chính họ đã khai hóa Chàm và Cao Miên, Nam Dương chớ không phải Ấn Độ như những quyển sử Tây tiền chiến đã viết sai. Nhưng đó là chuyện sau, chuyện gần là chuyện Hiên Viên và dân Nhục Chi cổ cũng rất quan trọng. Bọn ấy, ở lại đất cũ là Tây Vức, cũng tiến lên nhưng tiến theo lối khác, và thời điểm khác. Người Nhục Chi chịu ảnh hưởng Hy Lạp vì rồi đế quốc Hy Lạp bành trướng lên biên giới cực Tây của Nhục Chi sau đó, và Nhục Chi cực thịnh vào đời nhà Chu của Tàu, với 36 nước hùng cường. Đó là những nước văn minh rất cao, nhưng cứ bị Tàu gọi là rợ, đại khái có: Nước Lâu Lan (Lobnor) Nước Xa Sư (Tourfan) Nước Đại Uyển (Fergana) Nước Khương Cư (Sodiane) Nước Sa Xa (Yorkand) Nước Quy Tư (Koutcha) Nước Ô Tôn (?) Nước Thiện Thiện (?) Nước Vu Điền (Kachgar) Nước Yên Kỳ (Qarachahr) Còn đến 24 nước nữa, vì quá nhỏ, nên không thấy tên trong sử Tây Tàu gì hết. Như đã nói, họ là người da trắng, theo văn minh Hy Lạp và nay ta tìm được sách vở của họ thì mới hay họ nói tiếng Ấn Âu, tức thuộc dòng với tiếng Bắc Phạn, cha đẻ ra nhiều ngôn ngữ Âu Châu ngày nay. Sử Tàu chép rằng đã cướp Trân Châu Kỳ của họ, một lá cờ đốt không cháy, tức họ đã biết chất Amiante dệt vào vải làm cờ tức đã văn minh cao lắm rồi. Trong khi đó thì Hung Nô cũng tiến lên tới bán du mục. Họ vừa tiến lên, muốn tràn vào đất Tàu thì nước Tàu đã văn minh và cường thịnh rồi, dưới đời Chu và nhứt là dưới đời Tần Thủy Hoàng. Không còn mong vào đất Trung Hoa được nữa, họ lấn Nhục Chi ở hướng Tây, diệt 36 nước kể trên, nhưng dân và văn minh của 36 nước đó cứ tồn tại. Quý tộc Nhục Chi chạy mãi về cực Tây, đi ngược lại con đường di cư hồi thượng cổ, rồi cướp lấy các thuộc địa của Hy Lạp để tái lập quốc, tự xưng là Đại Nhục Chi. Đại Nhục Chi lại xâm lăng Ấn Độ và Ba Tư và hùng cường vào bậc nhứt thuở ấy, sau khi bị Hung Nô rượt chạy trối chết. (Dân Nhục Chi có một số phận ngoại hạng vì sau đó, họ trở nên vô cùng quan trọng tại Trung Á, họ làm môi giới giữa Trung Hoa, Ấn Độ, Ba Tư, Hy Lạp, v.v. về thương mại, văn hóa, và được để yên, hầu làm một nước trái độn. Văn minh Cận và Trung đông đã ảnh hưởng đến văn minh Trung Hoa qua trung gian của 36 nước nầy ngay từ đời nhà Hán. Người ta đã tìm thấy những chiếc gương đồng nhà Hán mà sau lưng được trang trí bằng những chữ T. Đó là chữ Tau (đọc là Tô) của dân tộc Lưỡng Hà, và về sau thì văn minh Ba Tư, Ấn Độ cũng đi qua nẻo nầy mà vào nước Tàu, mặc dầu 36 nước đó đã bị Hung Nô, rồi nhà Hán diệt đi. Mãi cho tới đời Đường, Tam Tạng đi thỉnh kinh còn gặp những nơi phồn thịnh ở đó, bây giờ thì trắng vàng đã lẫn lộn rồi. Thật ra thì nhà Hán diệt cấp lãnh đạo Hung Nô của 36 nước Nhục Chi, chớ dân và văn minh Nhục Chi cứ còn nguyên vẹn cho tới thế kỷ XIX mà các nhà khảo cổ Đức, Nga, Pháp khám phá được họ, học tiếng của họ và thấy ngôn ngữ họ đồng tông với ngôn ngữ Ấn Âu. Chính Đường Minh Hoàng đã mượn toàn bộ âm nhạc Tây Vức, tức âm nhạc của dân Nhục Chi. Hiện nay thì nước Tàu làm chủ trọn phía Đông của Tây Vức mà Âu Châu gọi là Turkestan Oriental và biến vùng đó thành tỉnh Tân Cương của họ. Tỉnh đó chỉ còn giá trị quân sự, bởi đất đai đã bị sa mạc hóa hết cả rồi và hơn 90 phần trăm ốc đảo xanh tốt ngày xưa, nay đã bị cát xâm lăng. * * * Như vậy thì chủng Mông Gô Lích mà sử gia Nguyễn Phương nói đến, không giản dị chút nào. Chưa chi ta đã thấy hai chủng khác nhau. Bắc Mông Gô Lích của Hung Nô chánh gốc và Trung Mông Gô Lích của người Hoa Bắc mà người Tàu thì chưa vượt được sông Hoàng Hà. Trung Mông Gô Lích, chủng của người Hoa Bắc, xương sọ khác hẳn chủng Bắc Mông Gô Lích của người Mông Cổ, khác đến 6 đơn vị mà khoa học chỉ đòi hỏi khác 2 đơn vị là tách ra làm một chủng khác rồi. Về các yếu tố chủng tộc học khác, chủng Trung Mông Gô Lích của người Hoa Bắc cũng lạ lắm: họ cao lớn gần như Tây, nước da họ không vàng hoặc trắng như nước da của người Hoa Nam, mà ngâm ngâm đen. Tính tình của họ thì trầm lặng đến độ không ai chịu được vì họ không nói gì hết, còn người Hoa Nam thì nói quá nhiều lại ưa làm ồn. Người Hoa Bắc cũng không làm văn nghệ nhiều được như người Hoa Nam, nhưng lý trí thì vô địch và tính thực tế thì rất trắng trợn. Chúng tôi xin đưa sơ ra vài con số về chỉ số sọ. Những con số nầy và bao nhiêu biểu đối chiếu trong sách nầy đều trích ở quyển Etat actuel de la crânologie indochinoise của nhóm bác sĩ P. Huard, E. Saurin, Nguyễn Xuân Nguyên và Nguyễn Văn Đức, Hà Nội, 1938, tên sách tuy là thế nhưng nhóm bác sĩ nầy có trích đăng chỉ số sọ của hầu hết các thứ dân Á Đông chớ không riêng gì của dân Đông Dương. Đây là kết quả của công trình khảo cứu về chủng tộc học ở Á Đông làm đã xong từ lâu, nhưng sách thật là khó tìm, chúng tôi đã lục lạo nhiều năm mới chạp được tài liệu nầy. Với những vị bất kể đến khoa chủng tộc học thì không cần phải nói gì thêm, nhưng vị nào thấy đó là chứng tích quan trọng bậc nhì, xin cứ tham khảo các bản chỉ số sọ mà chúng tôi sẽ trích cả ra trong sách nầy, để không còn hồ nghi gì nữa về nguồn gốc của các dân tộc, ít lắm là về mặt chủng tộc học. Sọ của ta là sọ Mông Cổ, sọ Tàu hay sọ Tây gì đều thấy được qua các biểu chỉ số sọ đó, mà không sử liệu nào khác có đủ thẩm quyền nói trái lại cả, kể cả máu cũng không đủ thẩm quyền vì khoa học phân biệt chủng tộc nầy với chủng tộc khác bằng tánh cách của sọ, chớ không phải bằng máu. Tuy nhiên, máu Việt vẫn khác máu Hoa. Nếu máu giống thì còn châm chế, dung hòa được phần nào, đằng nầy cái yếu tố đồng chủng mong manh cũng lại khác. Thế thì còn gì sự đồng chủng giữa VIỆT và HOA? * * * Chỉ số sọ của dân Mông Cổ, tức của chủng Bắc Mông Gô Lích: 81,40 theo cuộc đo sọ của nhà bác học Nga Hrdlicka. Nhưng lai với Tây Vức rồi, tạo ra chủng Trung Mông Gô Lích của người Hoa Bắc thì chỉ số sọ bị sụt xuống còn có 75,70. Đó là chỉ số của những cái sọ mà nhà bác học Black đã đo tại thỉnh Cam Túc, con đường xâm nhập vào Trung Hoa của dân lai căng hai dòng máu Nhục Chi và Mông Cổ. Và dưới đây là hai con số chỉ số sọ của người Hoa Bắc thật sự do hai nhà bác học khác nhau đã đo trong hai nhóm lớn của dân ở hai vùng tại Hoa Bắc. Nhà bác học Koganei: 78,30 Nhà bác học Quatrefages: 75,97 (Chúng tôi bỏ ra một chỉ số sọ đặc biệt do nhà bác học Zaborovvski đo, chỉ số đó chỉ có 66,66, nhưng đó là một cái sọ độc nhứt của một người ăn xin chết đường tại Bắc Kinh, có lẽ là một kẻ có bệnh tật, không nói lên được cái gì). Nhưng người Hoa Bắc lại có một nhóm nữa cho chỉ số sọ khác. Nhà bác học Kogagei: 80,20 Nên nhớ là Hoa Bắc đã bị Mông Cổ xâm lăng về sau nầy và nhóm nầy là nhóm Mông Cổ xâm lăng biến thành người Trung Hoa, nên chỉ số sọ của họ mới tăng lên không còn là 75 hoặc 78. Làm một con số trung bình, ta sẽ thấy chỉ số sọ của chủng Trung Mông Gô Lích là: (75,70 + 78,30 + 75,97 + 80,20) / 4 = 77,54 Trong bài toán tìm chỉ số trung bình, chúng tôi đã tự ý bỏ chỉ số sọ của dân Sơn Đông ra, cũng như đã tự ý bỏ chỉ số sọ của người hành khất ở Bắc Kinh. Người Sơn Đông vốn là rợ Đông Di, tức Việt tộc, biến thành Trung Hoa, vì cổ thư Trung Hoa tả rợ Đông Di xâm mình nhuộm răng đen, và sách Nhỉ nhả cũng lại cho biết rằng họ là rợ Lạc bộ Trãi. Mặt khác giặc Huỳnh Cân đời Hán lại còn cho thấy rõ hơn rằng họ là người Việt. Người Tàu thường xưng họ là dân đội mũ để phân biệt họ với các dân tộc quanh họ. Thế mà giặc Huỳnh Cân ở Sơn Đông lại bịt khăn vằn. Nhà Hán, cách nhà Chu không quá lâu đời như ta thường có cảm tưởng sai lầm vì trào đại trung gian giữa hai nhà đó là đời Tần chỉ thọ được có mấy chục năm. Thế thì rợ Đông Di xâm mình và nhuộm răng đen đời Chu, đến đời Hán, vẫn chưa bị đồng hóa, vì họ còn bịt khăn. Tại sao chúng tôi lại bỏ Sơn Đông ra? Nếu có hợp chủng ở toàn quốc thì rất cần để vào, vì cuộc hợp chủng đó thay đổi cả chỉ số sọ của một dân tộc và một con số trung bình gồm có Sơn Đông mới là một con số đúng. Nhưng khi nó chỉ bị giới hạn trong tỉnh Sơn Đông không mà thôi thì nó lại làm sai con số trung bình của toàn Hoa Bắc gồm rất nhiều tỉnh: Hà Bắc, Hà Nam, Sơn Tây, Thiểm Tây, Cam Túc, v.v. Cũng xin tóm lược nghiên cứu của ông H. Maspéro về giặc Huỳnh Cân. Các ông Tây dầu sao, làm việc cũng cẩn thận hơn Tàu về mặt khảo chứng. Theo tài liệu mà ông H. Maspéro tìm được thì bọn Huỳnh Cân không hề nổi loạn, không hề “làm giặc” bao giờ cả. Khi không, người Tàu cất binh đánh họ, cho rằng họ âm mưu nổi loạn, trá hình dưới tôn giáo. Sự thật thì sự âm mưu nằm phía bên người Trung Hoa. Đó là cái cớ để tận diệt rợ Đông Di còn sống sót ở Sơn Đông vào đời Hán. Và lạ lùng nhứt là rồi bọn Huỳnh Cân không chạy đi đâu mà lại chạy sang Thiểm Tây, rõ ràng là Lạc bộ Trãi chạy đến địa bàn Lạc bộ Chuy. Lạc bộ Chuy đã bị Tần Mục Công tiêu diệt dưới đời vua Chu Thành Vương rồi, và họ đã di cư để thành người Miến Điện. Nhưng người Trung Hoa ở đó lại bị lây cái tôn giáo của Lạc bộ Chuy, nó cũng giống như tôn giáo của Lạc bộ Trãi. Cũng nên biết rằng người ta tìm được trống đồng còn được dùng trong bộ lạc Keren (một tiểu chi Miến Điện). Thế nghĩa là trống đồng Lạc Việt đã có vào đời Chu Thành Vương. Bằng chứng là Tư Mã Thiên đã chép rằng khi Tần Mục Công tiêu diệt được Khuyển Nhung rồi thì vua Chu Thành Vương ban thưởng cho Tần Mục Công một cái trống bằng kim khí. Nếu đó là trống của Tàu thì rất vô lý vì món quà đó quá xoàng không xứng với công lao to lớn của Tần Mục Công, nhưng nếu đó là trống của man di Khuyển Nhung hay của man di Kinh Cức thì đã khác rồi, vì đó là quà lạ, bởi Tàu không bao giờ có đúc trống bằng kim khí cả. Thế nên Chavannes mới tự ý dịch ra hai tiếng kim cổ của Tàu ra là “trống đồng”, một là vì trống đồng bằng sắt đánh không kêu, hai là vì Chavannes vốn biết rằng dân Lạc bộ Chuy có trống đồng. Sự tự ý nầy có vẻ Á Đông, tức nói tắt cái biết của mình, nó trái với thói quen của Âu Châu là dịch trung thành nhưng Granet Legge, Chavannes là những người da trắng chìm ngập tới cổ trong tinh thần Á Đông, nói thật đích xác trong tinh thần Tàu, vì ba ông đó suốt đời chỉ đọc sách Tàu để nghiên cứu tỉ mỉ nền văn minh Tàu cổ đại, nên các ông bị tiêm nhiễm phần nào cái tinh thần nói ngầm cái biết của mình ra bằng lối đó. (Giáo sư Kim Định viết Tần = Khuyển Nhung. Nhưng tại sao Tần lại tiêu diệt Khuyển Nhung?). Chúng tôi đã có dịp chứng kiến những trận đánh giữa người Việt theo Pháp làm Bạt ti đăng và người Cao Miên theo Pháp làm Bạt ti dăng chỉ vì họ thấy Bạt ti dăng Cao Miên tàn sát dân ta. Đã là Việt gian rồi mà còn được như thế thì ông Việt gian Tần Mục Công không thể tiêu diệt đồng bào của ông. Không, Tần là người Tàu một trăm phần trăm. Nhận xét và phụ chú Chỉ số sọ cao hay thấp không hề là dấu hiệu của trí thông minh hay sự ngu đần. Chỉ số sọ của Hoa tộc thấp hơn chỉ số sọ của Việt tộc đến 9 đơn vị, như đã nói, nhưng họ lại tài giỏi hơn ta. Chỉ số sọ của dân tỉnh Sơn Đông là 81,70 rất gần với chỉ số sọ Việt và do nhà bác học Shiro Kogoroff đo. Chúng tôi đã nói là về chủng, đích thị là Mã Lai chủng, và họ Lê và Lạc, họ bỏ Hoa Bắc mà chạy đi hết, nhưng tại sao lại còn thứ người có chỉ số sọ Việt tại Sơn Đông ngày nay? Đó là vì tỉnh Sơn Đông khác hẳn các tỉnh khác của Trung Hoa. Nó là một Cao nguyên, còn các tỉnh khác là đồng bằng. Rợ Đông Di rút lên Cao nguyên với ảo tưởng thoát được vào thời mà Hoa tộc rất sợ núi non. Nhưng quanh Cao nguyên Sơn Đông là một vòng đai đồng bằng mỏng và Hoa tộc bao vây Đông Di tại đồng bằng mỏng ấy cho đến ngày kia Hoa chủng không còn sợ núi rừng nữa, tấn công lên thì rợ Đông Di đã bị vây khốn tứ phía rồi, không mong thoát được nữa, đành phải ở lại chịu đồng hóa. (Và nên biết rằng, các nhà khảo tiền sử không có đào bới trên Cao nguyên Sơn Đông, nên không có lượm được sọ Lạc và vũ khí của Lạc trên đó). Tóm lại, sau khi lai giống với Nhục Chi, chỉ số sọ Mông Cổ bị sụt mất sáu đơn vị. Nhưng sau đó Mông Cổ lại xâm lăng Tàu nhiều lượt và bị kẻ bại trận đồng hóa biến thành Tàu nên Hoa Bắc mới có một nhóm chỉ số sọ tăng lên 78 và 80, thay vì 75,50 như hồi mới lai với Nhục Chi. Chúng tôi sẽ trở lại bọn Cửu Lê và nhứt là bọn Lạc để thấy rằng họ là Mã Lai. Nhưng ta còn phải xét qua chủng Nam Mông Gô Lích là chủng của người Hoa Nam cái đã, vì Lê và Lạc nầy, mặc dầu di cư bằng đường biển, cũng có một số vượt sông Hoàng Hà tràn xuống, để tạo ra một chủng mới hoàn toàn là chủng Nam Mông Gô Lích ở Hoa Bắc, vì nó bị yếu tố Mã Lai Bách Việt, tức Lạc Hoa Nam chi phối đến gần 60 phần trăm. Nó cũng khác hẳn ta vì ta không có nhận chịu một sự lai giống lớn lao như Bách Việt ở Hoa Nam. Tài liệu tham khảo riêng cho mục nầy: Lê Văn Hảo: Hành trình vào dân tộc học, Sài Gòn C.J. Ball: Chinese and Sumerien, Oxford 1913 H. Cordier: Origine des Chinois, Tungpao 1915 Von Le coq: Exploration archéologique au Turkestan, J.A. 1909 Pelliot: Rapport sur la mission au Turkestan Chinois, J.A. 1909 Salomon Reinach: Origines des Aryens, Paris 1892 A. Cranoy: Les Indo - Européens, Paris 1921 Nguyễn Phương: Việt Nam thời khai sinh, Huế 1965 Khổng Tử: Kinh Thư, Bản dịch của Le Couvreur, Paris 1950 Khổng Tử: Kinh Thi, Bản dịch Granet, Paris 1925 Specht: Études sur l’Asie centrale, d’après les histoiriens chinois, Paris 1930 Chavannes: Mission archéologiques dans la Chine septentionale, Paris 1915 R. Grousset: La Chine ancienne et médiévale, G. Crès, Paris 1922 R. Grousset: Les empires Mongols, G. Crès, Paris 1922 M. Granet: Fêtes et chansons anciennes de la Chine, Paris 1929 H. Maspéro: La Chine antique, Paris 1918 M. Granet: La civilisation chinoise, Paris 1929 Terrien de Lacoupérie: Western Origin of the Chinese civilization - Early history of the Chinese civilization, Oxford 1913 Drs Huard, E. Saurin Nguyễn X. Nguyên, Nguyễn Văn Đức: Étal actuel de la Crâniologie Indochinoise, Hà Nội 1938 J. Levi: Notes sur les Indo-Schyttes, Paris 1915 E. Blane: Documént relatif à I’expansion de la civilisation greco bactriane au delà des Pamirs et à son contact avec la civilisation chinoise dans l’antiquité, Paris 1995 R. Grousset: Histore de la Chine, Paris 1947 Ngô Thì Sĩ: Hoàng Lê nhứt thống chí, Khâm Dịch Việt sử thông giám cương mục, bản dịch Langlet, Sài Gòn Nguyễn Bá Trác: Hoàng Việt Giáp Tý niên biểu, Sài Gòn 1963 Mathias Tchang: Synchronismes chinois, Changhai 1905
-
Tài liệu tham khảo: Hàng Hải và rễ bản-địa của Dân-tộc Vũ Hữu San Ý-Kiến Ông Nhượng Tống Ông Nhượng-Tông, dịch-giả sách "Đại-Việt Sử-ký Toàn-thư Ngoại-kỷ" của Ngô-Sĩ-Liên và các Sử-thần đời Lê, năm 1944, đã nhận-định rằng người Việt-Nam là giống dân Bách-Việt về miền Biển: ... Dân Bách-Việt chia ở hai miền; miền núi và miền biển. Trong đám dân miền biển có nước Việt đã từng diệt nước Ngô ở thời Xuân-Thu. Quốc-gia thứ hai được tổ-chức do dân miền núi là nước Nam-Chiếu. Mạnh-Hoạch, người đánh nhau với Khổng-Minh, chính là vị anh-hùng nước này. Một quốc-gia thứ ba nữa thành-lập, đó là nước Việt-Nam chúng ta. Trong ba nước ấy thì chỉ có nước ta còn đến ngày nay. Nước Việt, nước Nam-Chiếu đã lần lượt bị người Tàu chiếm-lĩnh và đồng-hoá. Nói tóm lại, giống người Việt-Nam chúng ta ngày nay là giống thuộc dòng Bách-Việt về miền Biển và vẫn ở đất này. (Đại-Việt Sử-ký Toàn-thư Ngoại-kỷ, Ngô-Sĩ-Liên và các Sử-thần đời Lê, Bản dịch của Mạc Bảo Thần Nhượng-Tống, 1944, Đại-Nam, California in lại, thập-niên 1990.) Những giả-thuyết về nguồn-gốc dân-tộc Việt-Nam . Theo nhận-xét của Giáo-sư Nguyễn-khắc-Ngữ vào thập-niên 1980, vấn-đề nguồn-gốc dân-tộc Việt-Nam tuy đã được khá nhiều học-giả Việt-Nam cũng như ngoại-quốc bàn đến nhưng đến nay vẫn chưa có giả-thuyết nào được coi là vững-chắc. Ông chia các giả-thuyết này thành 4 loại tiêu-biểu: - Giả-thuyết Con Rồng Cháu Tiên - Giả-thuyết Bách-Việt - Các giả-thuyết của các tác-giả Miền Nam - Các giả-thuyết của các tác-giả Miền Bắc. Sau đó, ông Ngữ đưa ra một giả-thuyết của chính ông. Trong cuốn sách "Nguồn Gốc Dân-tộc Việt-Nam" (viết tắt NGDTVN) xuất-bản ở Montréal năm 1985, ông cho rằng nguồn-gốc chính-yếu của nhân-chủng Việt là từ hải-đảo phương Nam: -Sắc-dân đầu-tiên sống trên giải đất của chúng ta là giống Melanesian đã theo gió mùa đi vào. -Sắc-dân thứ hai đến xứ ta là giống Indonesian từ Nam-Dương di-cư lên trong thời-kỳ băng-giá cuối cùng (cách đây từ 10.000 đến 50.000 năm.) Những tài-liệu do ông đưa ra chứng-minh rằng người Việt và người Melanesian có cùng cơ-cấu tổ-chức gia-đình cũng như phong-tục tập-quán giống nhau, cùng với đặc-điểm nhân-hình gần gũi. Dù sau hàng ngàn năm đô-hộ của người Tàu, người Việt vẫn giữ được bản-sắc Melanesian của mình. Học-giả Trần-Trọng-Kim viết về gốc-tích người Việt-Nam như sau: "Theo những nhà kê-cứu của nước Pháp thì người Việt-Nam và người Thái đều ở miền núi Tây-Tạng xuống. Có người Tàu và Việt-Nam lại nói rằng nguyên khi xưa ở đất Tàu có giống Tam-Miêu ở, sau bị giống Hán-tộc đánh đuổi đi để chiếm giữ lấy vùng sông Hoàng-Hà lập ra nước Tàu. Người Tam-Miêu phải ẩn núp vào rừng hay là xuống ở miền Việt-Nam ta bây giờ. Những ý-kiến ấy chưa có gì làm chứng cho đích-xác. Người Việt-Nam ta trước có hai ngón chân cái giao nhau, nên gọi là Giao-Chỉ, mà xem các loài khác, không có loài nào như vậy, thì tất ta là một loài riêng, chứ không phải loài Tam-Miêu." (Việt-Nam Sử-Lược, quyển 1, Sài-Gòn, 1971 trang 5.) Một giả-thuyết nữa là của ông Bình-Nguyên-Lộc trình-bày trong cuốn sách khảo-cứu khá lớn của ông, mang tựa-đề là "Nguồn gốc Mã-Lai của Dân-tộc Việt-Nam", Bách Bộc Sài-gòn, xuất-bản 1971. Tài-liệu này đã được bàn cãi nhiều trong mấy thập-niên vừa qua, có người chống, có người bênh. Bài sơ-khảo này trình-bày lại một số ý-kiến của Ông Bình-Nguyên-Lộc và thêm một số giả-thuyết nữa về nhân-chủng Việt-Nam liên-hệ đến hàng-hải chưa biết đúng sai ra sao, nhưng tương-đối mới lạ. Các cuộc xa lầy trên đường đi tìm nguồn gốc dân-tộc Việt-Nam Theo Ông Bình-Nguyên-Lộc, trên đường đi tìm nguồn gốc dân-tộc Việt-Nam, thiên-hạ đã trải qua hai cuộc sa lầy rưỡi từ 1918 đến 1964, năm mà chúng tôi (lời Ông Bình) khởi thảo soạn sách NGDTVN: 1/ Sa lầy thứ nhứt của hai ông L. Aurousseau và H. Maspéro là chỉ dựa vào sử Tàu. 2/ Sa lầy thứ nhì của tất cả mọi người vì ngỡ rằng nguồn gốc dân ta ở tại giai-đoạn Đông-Sơn. 3/ Phân nửa một cuộc sa lầy thứ ba là không biết thuật-ngữ Indonesien có nghĩa là gì. Cho đến năm 1964 thì đáng lý ra ta đã thoát khỏi được cuộc sa lầy thứ ba đó, nhưng ta vẫn không thoát..." Và ... cho đến khi chúng tôi hoàn-tất sách này, có nhiều học-giả cho rằng thuyết của Ông Bình-Nguyên-Lộc cũng ... sa lầy. Một ánh-sáng mới: công-trình của Bác-sỹ Trần-Đại-Sỹ Bác-sỹ Trần-Đại-Sỹ là Giám-Đốc nghiên-cứu kiêm Giáo-Sư Cơ-quan Nghiên-Cứu Tổng-Hợp Y-học Âu-Á, Giáo-sư diễn-giảng khoa Lịch-sử và Triết-học Á-châu tại viện Pháp-Á. Ông đã trước-tác 20 tác-phẩm tổng-hợp y-học bằng Pháp-văn và rất nhiều sách bằng Hoa-văn, Việt-Văn, Trong những tác-phẩm của Ông, độc-đáo nhất là các bộ trường-thiên lịch-sử tiểu-thuyết: Anh-hùng Lĩnh-Nam, Động-đình hồ Ngoại-sử, Cậm-Khê Di-hận, Anh-hùng Tiêu-sơn, Thuận-thiên Di-sử, Anh-hùng Bắc-cương. Anh-linh Thần-võ, Nam-quốc Sơn-hà... Trong thập-niên 1990, Bác-sỹ Trần-Đại-Sỹ cho biết trong khi khảo-cứu nguồn gốc tộc Việt, Ông đã dùng phương-pháp y-khoa nhiều nhất, và khoa-học mới đây. Với lý-luận y-khoa, với anatomie, với lý-thuyết y-học mới về tế-bào, với những khai-quật của người Pháp tại Đông-Dương, của Việt-Nam, của Trung-Quốc cùng hệ-thống máy móc tối-tân đã giúp tôi (lời Ông Sỹ) phân-loại xương sọ, xương ống quyến, cùng biện biệt y-phục của tộc Hoa, tộc Việt, rồi đi đến kết-luận về lãnh-thổ nước Văn-Lang tới hồ Động-Đình. Vị Bác-sỹ này nhắc lại lời tuyên-bố của các giáo-sư đồng-nghiệp khi hay biết công-trình của Ông như sau: "Từ nay không còn những giả-thuyết về nguồn-gốc tộc Việt nữa, mà chỉ còn lại công cuộc tìm kiếm của Ông." Theo lời chú-thích của bài "Biên-Cương nước Cổ Việt"do Ông viết thì "chính công-trình nghiên-cứu của tác-giả đã kết-thúc cuộc tranh-luận 90 năm qua về Nguồn-gốc Dân-tộc Việt-Nam. Tóm tắt kết-quả công cuộc tim kiếm của Bác-sĩ Trần-Đại-Sĩ như sau: - Nguốn gốc tộc Việt , lĩnh-thổ tộc Việt tương tự như các nhà cổ-học. - Các nhá cổ-học coi lĩnh-thổ Việt bao gồm phần phía Nam sông Trường-Giang, lấy mốc là hồ Động-Đình. Tộc Việt sống rải rác tờ phía Nam sông Trường-Giang xuống mãi vịnh Thái-Lan -Sau này tộc Việt, tộc Mã đã giao-tiếp với nhau ở vùng Kampuchea, Nam Việt-Nam. Tộc Việt hỗn-hợp với tộc „n ở phía Tây Thái-Lan -Giống Thái, một trong Bách-Việt chính là tộc Thái từ Tượng-quận, Bắc-Việt di-chuyến xuống lập ra nước Lào, nước Thái. -Người Việt từ sông Trường-Giang, từ Phúc-Kiến đi xuống Bắc-Việt, không có nghĩa ở Bắc-Việt không có giống Việt, phải đợi họ di-cư xuống mới có. Mà có nghĩa là người Việt di-chuyển trong đất Việt. (Việt-Nam Đệ Ngũ Thiên kỷ, USA, 1994, trang 215-241.) Các nguồn gốc khác-biệt giữa Văn-hoá, Quốc-gia và Dân-tộc Đôi khi chúng ta nghĩ rằng các công việc đi tìm (1) nguồn gốc của Văn-hoá, (2) sự hình-thành Quốc-gia và (3) gốc rễ của Dân-tộc chỉ là một vấn-đề. Sự thực không phải như thể. Trong một nước, ta thấy dân-chúng có vẻ như thuộc cùng một dân-tộc và chung nhau một nền văn-hoá. Tuy vậy; ba thứ Văn-hoá, Quốc-gia và Dân-tộc đã đến từ ba khởi-điểm khác nhau cả thời-gian lẫn thời-gian. Loài người vón là một động-vật ưa di-chuyển, luôn luôn đi tìm kiếm môi-trường để dễ dàng sinh-hoạt. Thể nên, dân-chúng một nước có thể từ xa di-cư đến, trong khi văn-hoá, ngôn-ngữ thường chịu ảnh-hưởng địa-phương và thay đổi theo sinh-hoạt tại chỗ. Trường-hợp chủng Bách-Việt (hồi xưa sinh sống dọc duyên-hải nước Trung-Hoa ngày nay) đáng kể là một thí-dụ điển-hình về sự phức-tạp giữa các yếu-tố quốc-gia, chủng-tộc, văn-hoá. Những học-giả Trung-Hoa-học tăm-tiếng nhất đều đồng-ý là một chủng lớn cư-ngụ trên một địa-bàn rộng như vậy không thể bị hoàn-toàn tiêu-diệt hay hơn nữa, tự-động biến mất. Con cháu những nhóm Việt này vẫn ở đó, nhưng khi cái "gốc" hay "căn-cước" đã mất, sự hiện-diện của họ trong xã-hội không còn đáng nói nữa. Harold J. Wiens viết rằng : "Khi dân Bách-Việt đã bị Hán-hoá, sinh-hoạt như dân Tàu, người Trung-Hoa không còn bận tâm đến sự hiện-diện của những giống dân dị-chủng này nữa một khi đám người này đã mất đi cái tổ-chức "quốc-gia". (China's March Towards the Tropics, Yale University, 1954, pp. 114-115.) Ngày nay nhiều người sống tại vùng Đông-Á thường tự nhận họ là người Tàu Trung-Nguyên hay con cháu Hoàng-Đế. Sự thật họ thuộc các chủng-tộc khác hẳn với người Tàu gốc rễ vùng Hoàng-Hà, sông Vị. Những "người Tàu tưởng-tượng" này quên rằng lãnh-thổ cũ của họ đã bị xâm lăng, tiền-nhân của họ đã bị kẻ thù truy-diệt. Nước Trung-Hoa thống-nhất ngày nay to lớn đã bao trùm lên nhiều quốc-gia mất gốc cùng những người dân vong-quốc bị đồng-hoá không còn nhớ được tổ-tiên. Cùng với các học-giả Á-Đông-Học khác đi trước Ông như Needham, Fitzgerald...; Stan Steiner đã nghiên-cứu tinh-thần tự-chủ, ý-chí quyết-tâm bảo-vệ nòi giống và lãnh-thổ, tính quật-cướng chống xâm-lăng được tìm thấy nơi những người dân hàng-hải sống trên tàu thuyền. Cả những người đánh cá hay nông dân làm ruộng nước đều sẵn có tinh-thần độc-lập, không chịu Hán-hoá (Fusang, Chinese Who Build America, New York, 1979: 71.) Đối với Việt-Nam, nguồn gốc dân-tộc cũng lâu đời không kém nguồn gốc văn-hoá và đi trước cả thời lập-quốc khá lâu. Việc nghiên-cứu ca-dao, tục-ngữ có thể dẫn dắt ta một phần con đường tìm nguồn-gốc, nhưng không đi được xa vào quá-khứ. Ông Bình-Nguyên-Lộc quả-quyết rằng: "Muôn ngàn nỗ-lực để phanh phui các yếu-tố văn-hoá như ca-dao, ngôn-ngữ, cổ-tích cũng không bao giờ cho ta biểt nguồn gốc của dân-tộc Việt-nam thật đúng (NGDTVN, trang 893.) Chìa khoá có thể ở ngay trong túi Nhiều cuộc khai-quật cổ-vật mới đây tại Việt-Nam đã cho phép các nhà nghiên-cứu có một cái nhìn mới và đúng đắn hơn về tình-trạng đất Việt cổ-thời với những nền văn-hoá bản-chất dân-tộc, phát-sinh tại chỗ, liên-tục tiến-triển và không bị ảnh-hưởng ngoại-lai. Giáo-sư Sử-học Trần-Quốc-Vượng cho rằng: "Thành tựu quý giá nhất của giới khảo cổ học Việt Nam trong mấy chục năm qua là làm sáng tỏ sự phát sinh và phát triển tại chỗ của nền văn minh châu thổ sông Hồng, với bề dầy thời gian diễn tiến của nó (vài thiên niên kỷ trước công nguyên tới một vài thế-kỷ sau công-nguyên)". (Trong Cõi, trang 54-55.) Từ sau năm 1985, tức thời-gian ông Nguyễn-Khắc-Ngữ phát-hành sách NGDTVN đến nay, những giả-thuyết khác về nguồn gốc dân-tộc vẫn tiếp-tục được đề ra. Tuy vậy, hầu hết các giả-thuyết này đều bị ám-ảnh quá đáng vì ý-niệm về những cuộc di-dân từ Nam-Đảo tiến vào nước ta. Cũng như trước đây có một số người đã từng yên-tâm nghĩ rằng người Việt-Nam là con cháu các giống người di-cư đến từ Trung-Hoa, từ Tây-Tạng, từ Đông-Âu, từ nước Việt thời chiến-quốc... Một quan-điểm mà chúng tôi trình-bày qua cuốn sách này là sự liên-tục trong tiến-trình hàng-hải của dân ta. Đặc-điểm này không thể vì ngẫu-nhiên lại phù-hợp với sự liên-tục về tiến-trình sinh-hoạt văn-hoá của người Việt-Nam. Các chứng-cớ này hiển-nhiên tự nó đã mạnh mẽ nói đến một yếu-tố quan-trọng về nhân-chủng mà từ lâu hầu như vô-tình bị quên lãng. Đó là yếu-tố bản-địa của nguồn gốc dân-tộc. Lý-do tại sao các nhà nghiên-cứu nhân-chủng lại cứ hùa nhau đi tìm nguồn gốc ở những "giả-thuyết xa sôi đâu đó" thật là khó hiểu. Xưa nay có ít người chịu lưu-tâm tìm hiểu đến nguồn-gốc chúng ta ngay trên vùng đất quê-hương hiện-thời. Chúng tôi kêu gọi sự nỗ-lực đóng góp của mọi người theo chiều-hướng này, trước khi đi tìm kiếm ở những nơi xa xôi khác. Trường-hợp quan-niệm "bản-địa" này có sai lầm, nó cũng giúp chúng ta dò tìm ra được những con đường khác đúng hướng hơn để tiếp-tục đi tới. Chuyện "tìm chìa khoá xe" hẳn ai cũng gặp. Có những nhà nghiên-cứu hăng-hái, nhưng lại chỉ nghĩ đến những nơi xa. Thật chẳng khác chi việc chúng ta quýnh quáng sợ đi làm trễ, thúc-dục cả nhà chạy toán loạn đi kiếm chìa khoá ở ngoài đường ngoài ngõ, trong khi chúng ta không ngờ chìa khoá ấy vẫn nằm trong túi áo tự ngày hôm qua! Dân Việt trong môi trường Đông-NAm-Á Trên bản-đồ ngày nay, Việt-Nam có vẻ như chiếm vị-trí ở phía Bắc vùng Đông-Nam-Á. Tuy vậy, vào thời tiền-sử, nước ta nằm đúng trong khu trung-ương của toàn-thể vùng này. Trước khi Trung-Hoa nam-xâm, khu-vực từ châu-thổ sông Hoài xuống phía Nam sông Dương-Tử qua đến biên-giới Việt-Nam thực-sự đã thuộc vào Đông-Nam-Á trên các phương-diện về địa-lý và sinh-hoạt văn-hoá. Học-giả Anthony Reid nhận thấy rằng "nguồn-gốc chung của tổ-tiên những người Đông-Nam-Á" là một một sự kiện có thể giải-thích được một phần nào do sự tương-đồng ngôn-ngữ của các sắc dân trong vùng. (Southeast Asia in the Age of Commerce 1540-1680, Volume One: The Lands Below the Winds, Yale University Press, 1988, trang 3.) Vào thời tiền-sử, nhiều bộ-tộc Việt đã sinh sống tại duyên-hải Trung-Hoa. Địa-bàn của họ nằm trên các vùng châu-thổ những con Sông Hoài, Dương-Tử, Tây-Giang, sông Hồng, sông Mã. Một số nhà ngữ-học đã tìm ra nhiều chứng-cớ hiển-nhiên rằng những bộ-tộc gọi chung là Bách-Việt này lúc xưa cùng nói một loại ngôn-ngữ Nam-Á giống như thứ ngôn-ngữ người Việt-Nam đang sử-dụng ngày nay. Hai tài-liệu như sau: (1) J. Norman and T. L. Mei, 'The Austroasiatics in ancient South China, some lexical evidence" Monumenta Serica, 32 [1976]. (2) E. G. Pulleyblank, Chinese and their Neighbors in Prehistoric and Early Historic Times, in "The Origins of the Chinese Civilization" edited by David N. Keightley, University of California Press, 1983, trang 437-438.) Nước Việt-Nam và Biển Đông của chúng ta nằm đúng vào khu trung-ương của ĐNÁ. Chính nơi đây vào cuối thời Băng Đá, khi nước biển dâng lên, làm ngập vùng đất thấp Sundaland, một cuộc di-dân từ biển vào bờ đã xảy ra. Những người dân "nước" đầu tiên theo các dòng sông như sông Hồng, sông Mã, sông Mê-Kông... chạy vào đất liền. Hai nền văn-hoá sông biển và núi non lần đầu đã kết-hợp trên quê-hương ta, sau này tạo nên cái nền móng sinh-hoạt văn-hoá chung của toàn vùng Đông-Nam-Á. Hai chục ngàn năm trước, nền văn-hoá Hoà-Bình phát khởi. Tiến-trình đó liên-tục từ thời Đồ Đá qua thời Đồ Đồng, rồi rực sáng với nền văn-hoá Đông-Sơn vào thiên-kỷ thứ nhất trước tây-lịch (TTL.) Những người "dân nước" từ vùng Biển Đông tiến vào đất liền Việt-Nam đã mang theo cả những đặc-tính của ngôn-ngữ và triết-lý cuộc đời: - Việt-ngữ là loại ngôn-ngữ nhuốm màu hàng-hải. Tuy được đề-nghị sắp xếp vào họ Nam-Á trong lục-địa, nhưng Việt-ngữ lại có nhiều điểm tương-đồng với ngôn-ngữ Nam-Đảo ngoài Thái-Bình-Dương. (Southeast Asia in the Age of Commerce 1540-1680, Volume One: The Lands Below the Winds, Anthony Reid, Yale University Press, 1988, trang 3.) - Về triết-lý, Bernard Philippe Groslier nhận-xét rằng quan-niệm và niềm tin của dân Việt về biển cả thật sâu đậm. Ông viết như sau: Biển cả trải dài, vượt cả ra ngoài chân trời và tầm hiểu biết của con người, gợi ra cái ấn-tượng về nguồn gốc của muôn loài, cả đến một thế-giới trước khi khai-thiên lập-địa và cũng là nơi quê-hương cho người chết trở về. (The Art of Indochina, Bernard Philippe Groslier, bản dịch của George Lawrence, Crown Publishers, inc., New York, 1962, trang 21.) Hầu hết các phát-minh thuyền bè, buồm, chèo, lái ... của nhân-loại ngày nay đều có gốc rễ từ bán-đảo Đông-Dương. Chừng 60,000 năm trước, khi những nhóm cư-dân Đông-Nam-Á đầu tiên dùng bè vượt biển tới Úc-Châu, tiền-nhân Việt-tộc chắc chắn cũng đã dùng phương-cách di-chuyển như vậy. Nhiều tiến-bộ về kiến-trúc thuyền bè đã đạt được và thành-quả đáng kể nhất có lẽ là cách sử-dụng phối-hợp tài-tình hai hệ-thống buồm và xiếm. Nhờ vậy, một số loại ghe thuyền ở Việt-Nam có thể tự nó lái lấy và giữ hướng đi trong nhiều ngày dài, không cần phải sửa đổi tay lái. (Connaissance du Việt-Nam, Pierre Huard và Maurice Durand, Hanoi 1954, trang 232.) Hoà-Bình và Đông-Sơn là những nền văn-hoá đầu-tiên của nhân-loại tỏa rộng ra khắp nơi bằng đường hàng-hải. Oswald Menghin đã nhận-xét rằng: "dù một nền văn-minh nào đó có phát-khởi ở đâu chăng nữa, có rực rỡ đến thế nào đi nữa, sự truyền-bá cũng cần một nền văn-minh hàng-hải làm phương-tiện chuyên-chở ngang qua biển cả ra hải-đảo xa xăm, vượt đại-dương tới đất mới như Mỹ-Châu." (Relaciones transpacificas de America precolumbina, Báo Runa 10(1-2), 1967: 83-97.) Chưa có một nền văn-hoá nào trên địa-cầu này mà địa-bàn lại rộng rãi, vượt cả các đại-dương bao la đến như vậy. Nước Văn-Lang là quốc-gia được thành-lập sớm nhất ở Đông-Nam-Á. Hình ảnh chiến-sĩ và chiến-thuyền ghi khắc trên trống đồng gần 3,000 năm trước đây cho thấy rõ sự hiện-hữu của một lực-lượng thủy-quân có tổ-chức chặt chẽ và lâu đời nhất thế-giới trên đất nước Việt-Nam. ĐNÁ, vùng Đất thuận-hảo cho sự sinh-tồn của con người Đi theo thuyết Darwin, nhiều khoa-học-gia hiện nay đồng-ý với nhau về tiến-trình loài linh-trưởng (primate) tiến-hoá thành loài người đã diễn ra tại Phi-Châu. Từ chỗ đó, loài người mới di-chuyển qua các nơi khác trên địa-cầu. (Origins. Richard E. Leakey and Roger Lewin, MacDonald and Jane's, London, 1977, trang 88, 117.) Tuy vậy vẫn còn nghi-vấn về "Đông-Nam-Á có thể đã là nơi phát-tích một nhánh chủng-tộc riêng của loài người" vì mấy khám-phá mới đây như sau: - Tại Mandalay, Miến-Điện năm 1979, người ta tìm ra nhiều xương hoá-thạch của loài Primate lâu tới 40 triệu năm. Vì chứng-tích này cổ hơn bất cứ nơi đâu trên trái đất nên đã có kết-luận rằng: loài Primate thoạt tiên sinh sống trong vùng Đông-Nam-Á trước, sau mới di-chuyển ngang qua khu-vực Tây Á-Châu rồi sang Phi-Châu (Naga: Cultural Origins in Siam and the West Pacific, viết tắt Naga, Sumet Jumsai, xuất-bản tại Singapore, Oxford University Press, 1988, trang 2.) - Trong giai-đoạn tiến hoá của loài người, giống Homo-Erectus (người đứng thẳng) có lẽ tồn-tại lâu nhất tại vùng đất liền Đông-Nam-Á, lâu hơn tại tất cả các nơi khác trên địa-cầu, kể cả Phi-Châu và Âu-Châu (People of the Earth, An introduction World Prehistory, Brian M. Fagan, Harper Collin Publishers, New York, 1992, trang 155-156.) - Học-giả Thái-Lan Sumet Jumsai tìm ra rằng chỉ có 3 vùng trên trái đất thuộc vòng đai nhiệt-đới là thuận-hảo cho sự sinh-tồn của loài người trong thời Băng Đá. Đó là vùng bình-nguyên sông Amazone Nam-Mỹ, vùng Trung Phi-Châu và vùng Đông-Nam-Á. Ông so sánh tình-trạng như sau: Mỹ-Châu thời đó chưa có người, Phi-Châu có nhiều giống thú dữ và khu duyên hà, duyên-hải không có dấu tích sinh-hoạt loài người. Chỉ còn vùng Đông-Nam-Á mới thực-sự là nơi hội-tụ những điều-kiện tiện-lợi để cho loài người sống sót. (Naga, trang 3.) - Constance Mary Turnbill viết trong sách Lịch-sử Mã-Lai-Á, Tân-Gia-Ba và Brunei như sau : "Những khu rừng già (nhiều mưa) Đông-Nam-Á, với những nguồn thực-phẩm dồi dào; nhiều loại cây trái, súc-vật và tôm cá; có lẽ là một trong những môi-trường sinh-hoạt sớm sủa và thuận-tiện nhất để nhân-loại tiến-hoá. (A History of Malaysia, Singapore and Brunei; in tại Hong Kong, 1989, trang 7). Ronald Provencher còn phỏng-đoán loài người đã xuất-hiện sinh sống tại Đông-Nam-Á từ 2 triệu năm trước đây. (Mainland Southeast Asia: A Anthropological Perspective, viết tắt: Mainland Southeast Asia, Nhà xuất-bản Goodyear Publishing Company, California 4/ 1975, trang 17.) Người Vượn, Người Cổ và Người Khôn-ngoan trên đất nước ta Mười mấy ngàn năm trước, môi-trường Đông-Nam-Á, đặc-biệt ở Việt-Nam, đã được chứng-minh là nơi thuận-tiện cho việc gây giống và trồng cấy những cọng rau, cây trái đầu tiên. Với những thành-tựu của người dân thuộc các nền văn-hoá Hoà-Bình - Bắc-Sơn, lịch-sử dân-tộc ta cũng như cả vùng Đông-Nam-Á bước vào một bước ngoặc lớn: một trung-tâm nông-nghiệp vào loại sớm nhất của nhân-loại đã ra đời vào khoảng vạn năm trước. Con người từng bước giã-từ hái lượm, săn bắn bước vào cuộc sống sản-xuất. (Lịch Văn-hoá Việt-Nam - Viết tắt LVHVN - Sài-Gòn, 1988: trang 36.) Sự kiện quan-trọng không kém trong ngành Tiền-sử-học là những khám-phá mới đây về nhân-chủng. Kể từ năm 1960 đến nay, khoa khảo-cổ đã phát-hiện nhiều di-tích quan-trọng chứng-minh sự có mặt của Người Vượn, Người Cổ và Người Khôn-ngoan trên đất nước ta. Một số tài-liệu được LVHVN gọi là "vô cùng quan-trọng" để tìm-hiểu quá-trình chuyển-biến từ Homo-Erectus sang Homo-Sapien (người khôn ngoan.) Đây là vấn đề đã và đang được các nhà nhân-chủng-học trên thế-giới hết sức quan-tâm. Sau khi duyệt qua những khám-phá trong thập-niên 1960 về người vượn Thẩm Khuyên, người vượn Thẩm ồm, người cổ Hang Hùm, người khôn ngoan Kéo Lèng; các giáo-sư Phan-Huy-Lê, Hà-Văn-Tấn và Hoàng-Xuân-Chinh mạnh dạn kết-luận rằng: Trên đất nước ta hàng mấy chục ngàn năm trước đã từng diễn ra quá-trình tiến-hoá từ người vượn thành người hiện-đại. (LVHVN, trang 35.) Ngày nay, Việt-Nam là nơi lôi-cuốn nhiều nhà khoa-học đến nghíên-cứu về tiến-trình nhân-chủng. Nhà Nhân-chủng-học Russell Ciochon (tác-giả bài "The Ape That Was", Natural History, November 1991) và nhà Khảo-cổ-học John Olsen đã khám-phá ra nhiều chứng-tích ở Việt-Nam cho thấy giống người vượn khổng-lồ Gigantopithecus cao 10 bộ Anh đã từng sinh sống đồng-thời với giống người Homo-Erectus trong khoảng thời-gian dài tới 500,000 năm. (Southeast Asia: A Past Regained, Time-Life Books, Virginia, 1995, trang 16-17.) Brian M. Fagan cho biết tại những hang của Làng Trang, Việt-Nam, người ta tìm thấy di-cốt của người Homo-Erectus cổ tới 500,000 năm. Chứng-tích này thuộc loại cổ nhất Đông-Nam-Á (People of the Earth, An introduction to World Prehistory; 1992, trang 129.) Hình 1 Một số địa-danh mới và cũ của vùng Đông-Nam-Á Nơi khai-sinh nền Văn-minh Nước và Văn-minh Thực-Vật Đất nước chúng ta nằm trong vùng nhiệt-đới gió mùa. Có nhiều ý-kiến khác nhau về ảnh-hưởng vị-trí đối với trình-độ sinh-hoạt của dân ta. Một số nhà địa-lý và nhân-chủng-học đã cho rằng nền Văn-minh Việt-Nam đặt trên vị-trí "bình-nguyên nhiệt-đới" (Những đặc-điểm của nền văn-minh Việt-Nam, Thái-Văn-Kiểm trong Tuyển Tập Ngôn ngữ Văn tự Việt-Nam, Dòng Việt, San José, 1993, trang 141-151.) Tuy vậy, văn-minh của chúng ta không hoàn-toàn mang tính-cách của một bình-nguyên nhiệt-đới vì các lý-do như sau: -Về vị-trí, lãnh-thổ Việt-Nam không nằm sâu trong nội-địa mà lại nằm cạnh Biển Đông. Việt-Nam có lẽ là quốc-gia độc-nhất trong đất liền nhiệt-đới mà một phần duyên-hải lại mang tính-chất riêng-biệt của hải-đảo. Linda Norene Shaffer cho rằng trải dài suốt mấy trăm hải-lý, bờ biển lồi lõm Trung-Việt có đặc-tính rõ rệt của hải-đảo nhiều hơn các đặc-tính thuộc về lục-địa. (Maritime Southeast Asia to 1500, USA, 1996, trang 3.) -Về văn-hoá, người Việt-Nam hướng đến các hoạt-động về nông-nghiệp và hàng-hải. Dân ta không nhận ảnh-hưởng từ một nền văn-minh thạch đá nào như các dân-tộc khác trên những bình-nguyên nhiệt-đới như Ai-cập, Mễ-Tây-Cơ v.v... Mặc dù tiến-bộ sớm nhất Đông-Nam-Á, người Việt-Nam không bao giờ theo đuổi chiều hướng xây cất đá khối nặng nề như các dân-tộc láng giềng như Nam-Dương, Khmer, Lào... Học-giả Sumet Jumsai đã dùng ý-kiến của học-giả Buckminster Fuller để viết phần kết-luận cho quyển sách khá nổi tiếng của ông, cuốn "Naga: Cultural Origins in Siam and the West Pacific", (Singapore, Oxford University Press, xuất-bản 1988, p. 174.) Buckminster Fuller đã bị thuyết-phục và mong rằng vì sự sống còn của nhân-loại trong tương-lai, con người nên noi theo chân-lý "nước" đó mà tiết-kiệm vật-liệu, năng-lượng v.v... (Nguyên-văn: He (Fuller) was convinced that future worlds will survive only if humans create more by using less-less material, less weight, less enegy, etc.) Vì những lý-do hiển-nhiên như vậy, các nhà khảo-cổ như Carl Sauer, Solheim đã tin-tưởng Đông-Nam-Á là nơi thuận-tiện nhất để con người có thể dễ-dàng chuyển-biến cây rừng cỏ dại thành rau trái trồng trọt được trong vườn. Chỉ nhờ những sự thuần-hoá đó, nhân-loại mới sản-xuất thêm nhiều thực-phẩm. Vì không còn phải nay đây mai đó, tốn kém quá nhiều thời-giờ để gom nhặt thực-phẩm một cách khó khăn, tiền-nhân bắt đầu định-cư lại. Cùng với nền văn-minh hàng-hải, một nền văn-minh thực-vật đã xuất-hiện rất sớm sủa. Lawrence J. Ma thuộc University of Akron nghĩ rằng giống người Homo-Sapien xuất-hiện rất sớm tại Đông-Nam-Á, sau này là tiền-nhân của chủng-loại Austroloid. Ma ước-lượng thổ-dân vùng này khởi sự gia-súc-hoá loài vật và trồng trọt từ 15,000 trước đây, tức là sớm sủa hơn vùng Tây-Nam Á-Châu (hay Bán-nguyệt Phì-nhiêu) tới 5,000 năm. (Cultural Diversity, Laurence J. Ma; sách "Southeast Asia, Ream of Contrasts"; edited by Ashok K. Dutt, Westview Press, Colorado, 1985, p. 54.) Nước Việt-Nam nằm trên một bán-đảo có nhiều vùng châu-thổ rất thấp ở về phía cực Đông Nam của lục-địa Á-Châu. Quanh năm khí trời ấm áp, nhiệt-độ tuy cao nhưng đều đều ít thay đổi. Ánh nắng mặt trời chan-hoà, vũ-độ thường-niên rất cao và bầu trời ít khi u-ám. Hai mùa gió Đông-Bắc, Tây-Nam đối-nghịch đem theo hai mùa mưa nắng rõ rệt. Trên có rừng ngăn chặn lối đi, dưới có biển mở rộng đường qua nhiều xứ sở. Địa-thế và môi-trường như vậy được kể là độc nhất, không có vùng đất nào trên thế-giới tương-tự như vậy. Dân-cư Đất liền và Hải-đảo Đất liền luôn luôn chiếm ưu-thế hơn hải-đảo về môi-trường sinh sống cho con người. Đặc-biệt trong thời tiền-sử, khi kiến-thức và phương-tiện còn yếu kém, những hòn đảo nhỏ bé thường hoang vắng không có người ở. Điều chắc chắn là nếu có khả-năng để tự-do chọn lựa, "Người Khôn-ngoan" đương-nhiên đã chọn lựa được sinh sống trên bán-đảo Đông-Dương còn hơn là phải cư-trú trên các hải-đảo xa xôi ngoài khơi (như các đảo Nam-Dương và Đại-Dương-Châu), hay vùng đất giá lạnh (đất Hoa-Bắc ngày nay.) Khi đó cả hai nơi này rất ít người cư-ngụ. Lịch-sử nhân-loại chứng-minh rằng các nền văn-minh lớn đều phát-sinh từ ven bìa lục-địa, nơi những vùng duyên-hà duyên-hải. Lẽ thường cũng thấy rằng loài người sinh sôi nẩy nở đông-đúc hơn ở trên lục-địa, sau đó mới di-cư qua các hải-đảo. Khoa khảo-cổ nhờ dựa vào cách định tuổi Carbon 14 đã cho biết sự chiếm-ngự các đảo ngoài biển chỉ mới xảy ra gần đây mà thôi. Hình 2.-Loài người từ đất-liền Cổ Việt đến cư-trú trên các đảo rất trễ. (Wangka, Edwin Doran, Jr.; Texas University Press, 1981, trang 54.) Từ thời cổ cho đến ngày nay, trừ ra trên những hòn đảo to lớn như Anh-Quốc, như Nhật-Bản; mức sống của dân-cư các hải-đảo rõ rệt là thua kém dân trên đất liền rất xa. Trong cổ-thời, hải-đảo dù có vĩ-đại cỡ Úc-Châu cũng rất vắng vẻ, ít có dấu chân người! Trong trường-hợp liên-hệ Việt-Nam và Nam-Dương, người ta không hiểu giả-thuyết dân Nam-Dương di-cư lên xứ ta vững-chắc bao nhiêu không biết, nhưng các học-giả ngày nay chứng-minh rõ ràng sự hiện-diện của những con đường biển đi theo chiều ngược lại suốt nhiều ngàn năm. Trước thì văn-minh Hoà-Bình từ Việt-Nam đi Nam-Dương đi Úc. Sau này văn-minh Đông-Sơn cũng từ Việt-Nam tràn qua các hải-đảo khắp xứ Nam-Dương, cùng những đảo khác miền Đông-Nam Á. Khi đọc tài-liệu khảo-cổ Nam-Dương, ta thấy ngay những trang sách nói về ảnh-hưởng của văn-hoá Hoà-Bình / Đông-Sơn qua mọi sinh-hoạt xứ này như hàng-hải, mỹ-thuật, cổ-tục v.v. Hiện nay, sinh-hoạt của loài người trên các hải-đảo Thái-Bình-Dương đã được nghiên-cứu tường-tận. Tuy vậy, chưa có tài-liệu vững-chắc nào nói về sự di-dân hay ảnh-hưởng văn-hoá từ phía các đảo Đại-Dương-Châu trở vào đất liền Việt-Nam. Trái lại, sách vở bàn về sự bành-trướng dân-cư từ vùng đất liền Đông-Dương và Đông-Nam Trung-Hoa tràn ra ngoài biển đến Đại-Dương-Châu hay các đảo khác trên Thái-Bình-Dương lại rất phong-phú trong thư-viện. Ronald Provencher viết rằng : Do sự tương-tự về ngôn-ngữ hải-đảo Malayo-Polynesian tìm thấy tại nhiều nơi tại khu-vực, người ta có thể cho rằng di-dân từ đảo đã đi vào đất liền được không? Dù sao thì lý-lẽ con người di-chuyển từ lục-địa đi ra các đảo không thể phủ-nhận được. (Mainland Southeast Asia: A Anthropological Perspective, Ronald Provencher, Goodyear Publishing Company, California 4/ 1975, p. 16.) Dân Hải-đảo Đông-Nam-Á từ đất liền đi ra Dunn cho rằng dân Đông-Nam-Á, vì sự cần-thiết phải "lập đầu cầu" nối-tiếp những vùng biển càng ngày càng rộng ra khi nước dâng lên vào cuối thời Hồng-tích-kỳ (Pleistocene) mà phát-triển nghệ-thuật hàng-hải. Golson nghĩ rằng khoảng 3,000 tới 1,000 năm TTL., Biển Đông Việt-Nam là trung-tâm phát-sinh hàng-hải. Ling đưa ra bằng-chứng của bè mảng 3.000 năm TTL. là chỉ dấu cho rằng khu-vực Hoa-Nam (gồm cả Bắc Việt) đã khởi-xuất những chuyến đưa người di-dân ra ngoài khơi Thái-Bình-Dương. Thời-gian này đúng vào giai-đoạn phát-triển (thịnh-đạt) của thuyền buồm. David Lewis trình-bày sinh-hoạt hàng-hải phát-nguyên từ vùng ven biển Á-Châu trước, sau đó ảnh-hưởng của nó mới theo di-dân mà lan tràn ra các hải-đảo ngoài Thái-Bình-Dương. (The Pacific navigators' debt to the ancient seafarers of Asia, , trong The Changing Pacific, edited by Neil Gunson, Oxford University Press, 1979, trang 46.) Riêng quan-niệm "sắc-dân đầu-tiên sống trên giải đất của chúng ta là giống Melanesian đã theo gió mùa đi vào" có nhiều phần không hợp-lý theo quan-điểm hàng-hải. Khả-năng hải-hành của dân Melanesian cách nay 50,000 năm không cho phép họ làm như vậy. Vả lại không có lý-do gì thúc-đẩy họ phải rời bỏ các đảo vùng Melanesia. Nếu từ đó, họ di-cư về phía Tây Tây Bắc, họ đã gặp các đảo Phi-luật-Tân và Đông Nam-Dương. Lý-do tại sao dân Melanesian không ngừng lại đó mà tiến vào xứ ta, cũng là một câu hỏi không có câu trả lời thích-đáng. Giáo-sư Nguyễn-khắc-Ngữ lại ước-đoán rằng "Dân Melanesian đến xứ ta trước giống Indonesian, mà sắc dân từ Nam-Dương sau này đã di-cư lên trong thời-kỳ băng-giá cuối cùng, tức cách đây từ 10.000 đến 50.000 năm." Thực ra, trong thời-gian 10,000 - 50,000 năm trước, loài người chưa sinh sống ngoài các hải-đảo nhỏ bé và xa vắng như Melanesia. Trường-hợp có dân-cư, số lượng còn quá ít để phải di-cư. Thời-gian trước đó (tức trước đây 50,000 năm), quần-đảo mà ngày nay chúng ta gọi là Melanesia chắc chắn chưa có bóng người cư-ngụ. Việt-ngữ: gạch nối nhiều Ngôn-ngữ Theo nhiều nhà ngôn-ngữ-học, Việt-ngữ thuộc về loại Mon-Khmer. Người chủ-trương danh-tiếng nhất của thuyết này là Wilhelm Schmidt. Trong cuốn sách "Grundzuge einer Lautlehre der Mon-Khmer Sprachen", Wien: Alfred Holder xuất-bản, 1905, nơi trang 3; vị Tu-sĩ kiêm nhà Ngữ-học này cho biết mặc dầu ông có tìm ra vài yếu-tố dấu, giọng của Việt-ngữ xa lạ đối với nhóm Mon-Khmer, song ông vẫn cho rằng tiếng Việt, "không nghi ngờ gì nữa, phải được sắp xếp trong nhóm Mon-Khmer." Loại ngôn-ngữ này là ngôn-ngữ cổ xưa trong vùng Đông-Nam-Á. Người dân địa-phương sử-dụng Mon-Khmer từ thời tiền-sử, địa-bàn của nó đã lan tràn khắp vùng đất rộng lớn nằm giữa „n-Độ-Dương và Biển Đông. Ngày nay tiếng Mon ở Diến-Điện, tiếng Khmer ở Cambodia, tiếng Jakun ở bán-đảo Mã-Lai, tiếng Việt, Mường và tiếng nói của một số dân thiểu-số trên bán-đảo Đông-Dương cùng thuộc gia-đình ngôn-ngữ này. Sau khi cuốn "Mon-Khmer Sprachen" đã kể ở trên được xuất-bản, Wilhelm Schmidt lại đưa ra thêm cuốn Die Mon-Khmer-Volker, ein Bindeglied zwischen Volkern Zentralasiens und Austronesiens, cho rằng "Các dân-tộc Mon-Khmer là gạch nối giữa các dân-tộc Trung-Á và Nam-Đảo," (Braunschweig,1906.) Những công-trình khảo-cứu này được hầu hết các nhà ngữ-học công-nhận sau thế-chiến II. Học-giả Anthony Reid đồng-ý với Schmidt đã phát-biểu rằng giọng nói (tones) của người Việt có vẻ như xuất-xứ từ tiếng Hoa, tiếng Tạng, nhưng số ít giọng biệt-lệ này chỉ mới xuất-hiện trong thời-gian gần đây mà thôi. Reid nói: "Việt-ngữ thuộc họ Nam-Á, liên-hệ với nhóm Mon-Khmer. Thời tiền-sử, nhóm ngôn-ngữ này đã có một địa-bàn còn rộng rãi hơn ngày nay nữa." (Southeast Asia in the Age of Commerce 1540-1680, Volume One: The Lands Below the Winds, Yale University Press, 1988, trang 3.) Sự lan-truyền của Mon-Khmer ngữ thật bao-la. Terry G. Jordan, Mona Domosh, Lester Rowntree xác-định rằng trước đây 5,000 năm, ngôn-ngữ vùng đất liền nằm giữa Bắc-Việt-Nam và Miến Điện đã được những cánh buồm và hàng-hải chuyên chở qua tận New Zealand, Easter island, Hawaii. and Madagascar. (The Human Mosaic, A Thematic introduction to Cultural Geography, 7th Edition, Terry G. Jordan, Mona Domosh, Lester Rowntree; Longman, New York, 1997, p. 178-179.) Nhà ngôn-ngữ-học Paul Rivet cho rằng rằng tính chất hàng-hải của ngôn-ngữ Đông-Nam-Á, đã theo đường biển lan-truyền qua Nhật-Bản, Tasmania, Địa-trung-Hải, Phi-Châu, Mỹ-Châu. (Sumérien et Océanien, trong Collection linguistique, publiée par la Société de linguistique de Paris 24, Paris, 1929.) Theo Bernard Philippe Groslier, Mon-Khmer liên-hệ với cả hai họ ngôn-ngữ Nam-Á Austroasiatic lẫn Nam-Đảo Austronesian (The Art of Indochina, trang 27.) Những tranh-luận về gốc gác ngôn-ngữ Việt trong Mon-Khmer tuy có thể còn tiếp-tục, nhưng xem ra sự chống-đối đang suy-giảm rõ rệt. Cho dù giả-thuyết ngôn-ngữ có nhiều, nhưng chưa có giả-thuyết nào cho rằng gốc gác tiếng nói dân ta đến từ các hải-đảo Melanesian nhỏ bé ngoài khơi. Trong khi đó, các Biên-tập-viên của tổ-hợp Time-Life Books xác-nhận rằng: "Cho đến nay, quan-niệm đươc mọi người chấp-nhận một cách rộng rãi là sự di-dân đường biển đã do người Việt-Nam, Mã-Lai, Nam-Dương thưc-hiện. Những thủy-thủ "nước sâu" này đã vượt biển thật xa, tới tận bờ biển Phi-Châu một thế-kỷ TTL., thường-xuyên hải-thương với „n-Độ, Hồng-Hải, và ra các đảo Thái-Bình-Dương, mà ở đó họ lần lượt chiếm-cứ và định-cư lại." (Southeast Asia: A Past Regained, Time-Life Books, Virginia, 1995, trang 66.) Tóm lại sở dĩ Việt-ngữ cũng như Môn-Mên-ngữ được kể là cái gạch nối nhiều loại ngôn-ngữ khác như vậy chính nhờ vào đường chuyển-vận hàng-hải cổ-thời của dân ta. Nguồn Gốc Dân-tộc qua chứng-tích ngôn-ngữ và Sự liên-tục của tiến-trình văn-hoá Theo sự tin-tưởng của nhiều học-giả Việt-Nam, danh-tự "Việt" có nghiã là tiến lên, vượt trội lên... Tính kiên-quyết của dân ta vượt mọi khó khăn trở ngại biểu-lộ ngay từ trong những ngày đầu sinh-hoạt. Nhà địa-lý-học Carl Sauer đề-cao tinh-thần tiến-bộ của dân-cư giống Việt (Yủeh) vào giai-đoạn khởi-nguyên nền văn-hoá Hoà-Bình như sau: Một thế-giới mới đã thành hình, sự thay đổi môi-trường vật-lý địa-dư đã trở thành cơ-hội thuận-tiện tối-đa cho những dân thích phiêu-lưu và mong tiến-bộ... Người dân bỏ sự nhàn rỗi và nhờ trí óc tò mò để tìm thử-nghiệm, một cộng-đồng như vậy chỉ cần một thơì-gian ngắn để chuyển-tiếp từ ngư-nghiệp sang thẳng nông-nghiệp". (Environnement and Culture During the Last Deglaciation, trong Proceedings of the American Philosophical Society Vol. 92, 1948: trang 65-77.)
-
Tiến-trình văn-hoá liên-tục của Đông-Nam-Á đã được các khoa-học-gia nghiên-cứu khá đầy đủ với những lập-luận vững chắc. Sự liên-tục này cũng chứng-minh rằng những dân gốc địa-phương vẫn liên-tục cư-ngụ và nắm giữ vai trò chính- yếu. William Meacham mô-tả sự liên-tục trong tiến-trình sinh-hoạt văn-hoá của người Việt-Nam như sau: "... nền văn-minh Đồ Đá Hoà-Bình đã tiến-triển trong khoảng thời-gian 9,000- 5,600 năm TTL., sang Bắc-Sơn 8,300-5,900 năm TTL., liên-tục qua nhiều nền văn-minh; sau này tới thời Đồ Đồng của Phùng-Nguyên 3,000-1500 năm TTL., rồi Đông-Sơn 500 năm TTL., rõ ràng nhuốm mầu sắc hàng-hải." (Origins and Development of the Yủeh Coastal Neolithic: A Microcosm of Culture Change on the Mainland of East Asia, viết tắt Origins and Development of the Yủeh, sưu-tập The Origins of Chinese Civilization, edited by David N. Keightley, London 1983: 147-175.) Cũng theo các Biên-tập-viên của tổ-chức Time-Life Books: "Cuộc khảo-sát tại Non Nok Tha (năm 1965-1966) cho thấy việc luyện-kim rất cổ xưa và là kỹ-thuật bản-địa tại Đông-Nam-Á. Sau Non Nak Tha, nhiều cuộc khảo-cổ đã thực-hiện tại 30 địa-điểm khác nữa cho thấy có những nền văn-hoá đi trước Đông-Sơn. Chẳng hạn như tại Bắc Việt-Nam; nền văn-hoá Phùng-Nguyên với niên-đại 2,000 năm TTL. Văn-hoá Đông-Sơn như vậy, hiển-nhiên có gốc rễ tại chỗ đã ăn sâu vào đất nước quê-hương (Việt-Nam) với những làng xóm cổ xưa nhất trong vùng." (Southeast Asia: A Past Regained, Time-Life Books, Virginia, 1995, trang 50-51.) Văn-hoá Đông-Sơn đã được các giới khoa-học Việt-Nam xếp vào sinh-hoạt của thời-đại Hùng-Vương. Những nền văn-minh trước đó như Phùng-Nguyên, Hoà-Bình cũng thuộc dòng văn-hoá chung của dân-tộc. Dân-cư Phùng-Nguyên năm ngàn năm trước và dân-cư Hoà-Bình mười ngàn năm trước, hẳn nhiên xứng-đáng được coi như "trực-thuộc vào rễ cái" của dân-tộc chúng ta. Nhân-chủng và sinh-ngữ của một dân-tộc là hai yếu-tố có thể đến từ hai nguồn-gốc khác nhau. Tuy vậy ở xứ ta, hai yếu-tố này đã hiện-hữu song-hành từ rất lâu đời. Nếu các kết-quả khảo-cứu về hàng-hải được kể ra trong tập tài-liệu này là đúng, dân ta đã khởi nguyên, đã phát-triển và đã sinh-hoạt liên-tục quanh khu-vực Biển Đông từ thời Băng Đá. Nhờ may mắn không có tai-nạn diệt-chủng, những căn-bản ngôn-ngữ của tiền-nhân từ năm mười ngàn năm xưa vẫn còn hiện-hữu một cách trực-tiếp hay gián-tiếp cho đến bây giờ. Thật rõ ràng, ngôn-ngữ Việt không có gốc rễ từ hải-đảo, cũng không khởi-nguyên từ Hoa-ngữ. Nhà Dân-tộc Ngôn-ngữ-học Nguyễn-bạt-Tuỵ đã từng kêu gọi: Ngữ ta thuộc hệ-thống ầu (tức Mon-Khơme) với một hệ-thống phụ-âm đầu đặc-biệt mà người Trung-Hoa (kể cả người "Việt" Hoa-Nam) không có, vậy ta phải tôn-trọng tinh-thần xuôi ý của ta mà không ăn nói như người Hán. Suy rộng ra, nguồn-gốc dân-tộc và ngôn-ngữ của ta có tính-chất bản-địa Đông-Nam-Á. Những hoạt-động hàng-hải đã mang những "mảnh vụn" sinh-hoạt văn-hoá, trong đó có ảnh-hưởng của ngôn-ngữ từ lục-địa đi ra những vùng rất xa, rất rộng ngang qua mặt đại-dương. Xuôi ý đúng là cách sinh-hoạt của người đi thuyền, không phải dân cưỡi ngựa hay dùng xe. Biển Đông không chia cắt mà còn nối các dân-tộc quanh vùng với nhau Các chủng tộc sống trong vùng Đông-Nam-Á lúc xưa rất gần gũi nhau. Biển Đông không ngăn-cách họ xa nhau như người ta vẫn tưởng-tượng xưa nay. Biển Đông đã nối kết họ lại với nhau qua đường hàng-hải. Lý-luận "biển cả - hành-lang giao-tiếp" tương-tự như vậy đã được Thor Hayerdahl trình-bày rất cặn kẽ trong cuốn sách "Early Man and the Ocean", (xuất bản tại New York, 1979.) Thời chiến-tranh Quốc-Cộng vào thập-niên 1960, một số người Phi-Luật-Tân phục-vụ ngành Tâm-lý-chiến ở Việt-Nam đã bất ngờ khám-phá ra một sự kỳ-thú về ngôn-ngữ. Họ có thể nói chuyện bằng thổ-ngữ của Phi với một số đồng-bào Thượng của ta ở cao-nguyên Trung-phần không cần thông-ngôn. Càng ngày ánh sáng văn-minh càng rọi vào những vùng u-tối của suy-luận. Rất nhiều nhà nghiên-cứu hiện-đại đã thấy rằng người Việt-Nam rất gần với những người dân thiểu-số trên cao-nguyên. Sinh-hoạt của dân-tộc ta cũng không xa xôi gì với các dân-tộc láng giềng Đông-Nam-Á. Khi nói "đồng-bào thiểu-số" trên một căn-bản giới-hạn về nhân-chủng nào đó, ta nhận rằng họ đúng là đồng-bào với ta. Bản-chất nguyên-thủy của chúng ta không phải "„n-Độ / Chi-Na" như tên người Tây-phương đã đặt cho bán-đảo chúng ta cư-ngụ. Chủng Việt không những quá xa-lạ với Aryan „n-độ và cũng quá khác-biệt với Hoa-chủng phương Bắc. Những dị-biệt về nhân-hình giữa ta và Tàu cùng những tương-đồng giữa ta với các dân hải-đảo thuộc chủng Mã-Lai Nam-Á đã được chứng-minh rõ ràng qua những chi-tiết về chỉ-số sọ, máu, chiều cao, mầu da, tóc v.v... Sau khi đọc qua những bản báo-cáo đặc-tính nhân-hình kèm theo đầy đủ các bảng thống-kê, xem đến những tập-tục, huyền-thoại ... của các giống dân Đông-Nam-Á, không một người Viêt-Nam nào còn dám nhận mình là Tàu nữa. Hai tập tài-liệu sau đây trình-bày đầy đủ về những yếu tố nhân-hình và tập-tục khác-biệt này: - Nguyễn-khắc-Ngữ, Nguồn Gốc Dân-tộc Việt-Nam, xuất-bản ở Montréal năm 1985. - Bình-Nguyên-Lộc, Nguồn gốc Mã-Lai của Dân-tộc Việt-Nam, Bách Bộc Sài-gòn xuất-bản, 1971. Gốc, rễ và Một giả-thuyết có giới-hạn Quan-sát một cái cây, ta thấy gốc của nó toả ra nhiều rễ. Nhựa nuôi cây hút từ rễ qua gốc. Trong cái "cây" Việt-Nam, chúng tôi nhận rằng có nhiều "rễ" lớn nhỏ quây chung quanh cái "gốc" chủng-tộc. Rễ "bản-địa" mang nhiều chất dinh-dưỡng, bâm sâu nhất xuống lòng đất, rất xứng đáng được coi như rễ cái vậy. Truyền-thuyết dân-tộc và "Ranh giới Hồng-Lạc với 4,5 ngàn năm văn-hiến" nên được để nguyên trong vòng huyền-thoại thiêng-liêng. — đây, chúng tôi mời gọi mọi người đi lùi xa thêm vào dĩ-vãng để khảo-sát thêm những cái rễ của dân ta theo với những kiến-thức hiện-đại . Hãy tưởng-tượng trên cả vùng đất duyên-hải nằm phía Đông và Đông-Nam Á-Châu, cách xa chân núi Himalaya vào thời Đồ Đá một nhóm dân-cư nhờ hoàn-cảnh đặc-biệt địa-dư, khởi sự góp nhặt sò, hến, ốc, rong biển cạnh duyên-hải. Rồi băng đá tại hai cực và đỉnh các núi cao tan dần. Nước Biển Đông dâng lên đã mang đến không biết là bao nhiêu thay đổi ảnh-hưởng mạnh mẽ đến sinh-hoạt con người. Các từ "Bản-Địa" hay "Tại Chỗ" trong giả-thuyết gốc rễ dân Việt mà chúng tôi đưa ra khởi-sự từ giai-đoạn này, ít nhất cũng đã trên mười ngàn năm trước đây. Khi viết sách "Nghệ-thuật Đông-Dương", Philippe Groslier cũng nghiên-cứu cả địa-hình và thấy rằng bán-đảo này bị thiên-nhiên chia cắt ra khỏi lục-địa Á-Châu. Tuy vậy, nhờ mở được con đường ra ngoài biển, dân-cư Đông-Dương đã đóng vai trò quan-trọng trong vùng Đông-Nam-Á. Cho dù Java có thể là nơi con người xuất-hiện trước hết, Đông-Dương luôn luôn là cái kho chứa nhân-lực mà từ đó gửi đi khai-hoá khắp vùng Đông-Nam-Á. (The Art of Indochina, Bernard Philippe Groslier, trang 39.) Vì đặc-điểm địa-hình bị núi non chia cắt như vậy nên dân-cư quanh khu-vực Biển Đông chỉ có đường biển đi ra mà ít có đường cho người ngoài đi vào. Sự cô-lập giúp cho các thổ-dân Đông-Nam-Á gìn giữ được bản-chất nguyên-thủy của họ. Cho dù có di-dân, những người mới đến cũng là những dân hàng-hải như họ. Dân mới, dân cũ nhờ sự tương-đồng, đã hoà-nhập với nhau trong mọi sinh-hoạt. Những dân đi biển theo bản-chất, thường dễ dàng thông-cảm, giúp đỡ nhau. Ronald Provencher chứng minh rằng một số dân Đông-Nam-Á ngày nay là một giống người đã tiến-hoá tại chỗ. Ông cho rằng những liên-hệ (mật-thiết) về chủng-tộc, ngôn-ngữ và văn-hoá của các dân-tộc trong vùng không thể nào giải-thích một cách thỏa-đáng được với những quan-niệm dản-dị (và sai lầm) là di-dân từ ngoài đi vào. (Mainland Southeast Asia: A Anthropological Perspective, Ronald Provencher, Goodyear Publishing Company, California 4/ 1975, trang 17.) Sự chính-xác của giả-thuyết chỉ tương-đối và chỉ kèm theo một vài sự nới lỏng về không-gian và thời-gian. Chữ bản-địa được dùng trong giả-thuyết này không chỉ giới-hạn trong lãnh-thổ Bắc Việt và bắc Trung-Việt ngày nay mà được nới rộng ra vùng Biển Đông và cả địa-bàn rộng rãi của Đông-Nam-Á thời tiền-sử. Còn thời-gian cũng không giới-hạn trong một giai-đoạn ngắn ngủi. Rễ cái dân-tộc khởi-sự "mọc ra" vào cuối thời Băng Đá. Rễ cái dân-tộc vẫn tiếp-tục mọc sâu, mang sắc-thái đặc-trưng của Việt-Nam vào thời văn-minh Đông-Sơn Còn nếu nói loài người phát-sinh từ một điểm gốc ở đâu đó (rất có thể là Phi-Châu) rồi mới tỏa ra đi khắp mặt địa-cầu thì làm sao có người bản-địa Việt-Nam theo đúng nghĩa tuyệt-đối cho được! Sự sụp đổ của các giả-thuyết nhân-chủng Tất các giả-thuyết về nhân-chủng Việt-Nam đều sẽ sụp đổ, kế cả giả-thuyết này của chúng tôi. Theo với thời-gian, giả-thuyết mới hôm nay rồi cũng hoá ra cũ ngày mai. Nhờ phương-pháp khoa-học, những công cuộc khai-quật, ngành khảo-cổ-học sẽ tìm ra nhiều kiến-thức mới và thời-gian tiếp-tục chôn vùi vào dĩ-vãng các giả-thuyết cũ. Thuyết "bản-địa" sẽ có thể bị "sa lầy", nhưng chúng tôi hy-vọng kiến-thức này là viên đá lót đường qua bãi lầy nghiên-cứu chủng Việt về sau. Thời-gian sẽ mang lại quyết-định chung-thẩm. Còn nghiên-cứu là còn hy-vọng tìm ra chủng gốc Việt-Nam. Trung-tả M. Abadie, tác-giả quyển "Những chủng-tộc ở Thượng-du Bắc-Việt" đã viết rằng: Trong cuộc hợp-chủng nào, sau hàng ngàn năm, các chủng gốc cũng xuất-hiện trở lại, chớ không mất bao giờ. (NGDTVN trang 736.) Cho dù sẽ có thêm thuyết "người Việt di-cư" từ đâu tới, phương-tiện di-dân đường biển cũng nên được lưu-tâm duyệt xét... Sinh-hoạt khi nước Biển Đông bắt đầu dâng lên William Meacham đã cho rằng vào thời Băng-Đá, tức hơn một chục ngàn năm trước đây đã có dân-cư sinh sống dọc bờ Đông-Á. Dân này là tiền-nhân giống Việt sau này. Khi nước biển dâng cao, bờ biển từ hàng trăm dậm Anh ngoài khơi, rút gần về vị-trí như hiện nay. Sự gia-tăng mật-độ dân-số tạo nên nhiều dịp trao-đổi tư-tưởng, cải-tiến kỹ-thuật. và một nền văn-minh hàng-hải đã phát-triển. Thuyền đi ven biển đầu tiên có lẽ là loại bè tre, xuất-hiện khoảng 10,000 năm TTL. Liên-tục qua nhiều nền văn-minh, tới Phùng-Nguyên 3,000-1500 năm TTL., rồi Đông-Sơn 500 năm TTL., rõ ràng sinh-hoạt của người Việt nhuốm mầu sắc hàng-hải. (Bài "Origins and Development of the Yủeh Coastal Neolithic: A Microcosm of Culture Change on the Mainland of East Asia," William Meacham trong The Origins of Chinese Civilization, edited by David N. Keightley, London 1983, trang 147-175.) Theo Sumet Jumsai, tại Á-Châu vào khoảng 16,000 năm trước đây, khi mực nước biển dâng lên nhanh thì những cư-dân sinh-sống tại vùng duyên-hải Đông-Á phải dồn về những vùng đất cao hơn. Họ di-chuyển ngược theo các dòng sông. Một số lớn di-chuyển nhiều về khu-vực phía Bắc vùng rộng lớn Sundaland. (Naga, trang 4.) Khu-vực châu-thổ Sông Hồng, Sông Mã có lẽ đã hội-tụ nhiều yếu-tố thuận-tiện nhất cho sự phát-triển ở Đông-Nam-Á, ngay từ những ngày xa xưa đó! Trong sách "Les Paysans du delta tonkinois", xuất-bản tại Paris 1936, Pierre Gourou biểu-lộ ý-tưởng rằng những đặc-điểm của nền văn-minh vùng châu-thổ Sông Hồng, Bắc Việt-Nam chứng-minh cho một nền văn-minh được phát-sinh và tiến-triển tại chỗ. Còn theo Ông Cao Thế Dung :Dòng Lạc-Việt ở Văn-Lang không phải di cư từ phương Bắc mà là giống dân tuy cùng dòng Bách-Việt nhưng đã có mặt ở Bắc-Việt hiện nay rất sớm. (Tự hào là người Việt-Nam qua chứng liệu văn hoá lịch sử, Florida, 1989, trang 5.) Trong những chi-tộc vùng Đông-Nam-Á, người Việt-Nam không những luôn luôn là giống dân đồng nhất mà lại còn đông đảo nhất. Qua suốt mấy ngàn năm qua, mật-độ dân-số tại Miền Bắc khai-nguyên của dân ta cũng cao hơn tất cả những nơi khác trong vùng. Một hình-thái quốc-gia nào đó của dân Việt-Nam ở lưu-vực Hồng-Hà nếu đã thành-hình cách nay 5, thiên-kỷ cũng là chuyện dĩ-nhiên, có lẽ không làm các nhà khảo-cổ ngạc-nhiên cho lắm! Hình 3 - Khi nước biển dâng lên vào cuối thời Băng Đá, Di-dân theo dòng sông chạy vào đất liền. Nhóm số 1 sau này tiến-triển mạnh nhất (Naga, trang 4) Huyền-thoại, chỉ dấu về giống dân bản-địa Phải có dân, rồi mới có nước. Huyền-thoại dân ta chứng-minh sự hiện-diện của dân bản-địa trước khi dựng nước. Xin hãy đọc những dòng chữ đầu tiên về Họ Hồng-Bàng trong sách Việt-Nam Sử-Lược của Trần-Trọng-Kim: "Cứ theo tục-truyền thì vua Đế-Minh là cháu ba đời của vua Thần-Nông, đi tuần-thú phương Nam đến núi Ngũ-Lĩnh gặp một nàng tiên, lấy nhau, đẻ ra người con tên là Lộc Tục. Sau Đế-Minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế-Nghi làm vua phương Bắc và phong cho Lộc-Tục làm vua phương Nam, xưng là Kinh-Dương-Vương, quốc-hiệu là Xích-Quỷ... Kinh-Dương-Vương làm vua nước Xích-Quỷ vào quãng năm Nhâm-Tuất (2879 trước Tây-lịch) và lấy con gái Động-đình-Quân là Long-Nữ đẻ ra Sùng-Lãm nối ngôi làm vua, xưng là Lạc-Long-Quân. Lạc-Long-Quân lấy con gái vua Đế-Lai tên là Âu-Cơ, đẻ một lần được một trăm người con trai ..." (Việt-Nam Sử-Lược, trang 11-12.) Theo ông Đỗ-trọng-Huề thì những thần-thoại ấy tuy có tính-cách hoang-đường... nhưng đầy ý-nghĩa tượng-trưng (Hương Trà, Đỗ-trọng-Huề, Nhà Xuất-bản Hoa-Lư, Sài-Gòn 1968, trang 119.) Đứng trên các quan-điểm khác nhau đã có nhiều công-trình nghiên-cứu sâu xa, đôi khi đưa đến tranh-luận gay gắt về ý-nghĩa của đoạn tục-truyền này. — đây chúng tôi chỉ xin bàn về tính-cách bản-địa của dân-cư Việt trước thời lập-quốc với một quan-niệm mới có tính-cách dùng khoa-học rọi ánh-sáng vào huyền-thoại. Phần lớn ý-kiến sau đây phỏng theo tài-liệu của sử-gia Trần-Quốc-Vượng (Trong Cõi, trang 54-55), chúng tôi xin phép để phụ thêm vài chi-tiết cập-nhật-hoá như sau: -Đã có dân-cư sinh sống trên đất nước ta vào trước thời vua Hùng-Vương thứ nhất. Chỉ vì đồng-bào ta lập-nghiệp đông-đảo ở "phương Nam" nên vua cha Đế-Minh mới đi tuần-thú (như kiểu "xem dân cho biết sự tình".) Vua Hùng đầu tiên tức Kinh-Dương-Vương (hiệu Lục-Dục-Vương) lên ngôi vua năm 2879 TTL., cách nay gần 4900 năm.) Nguồn gốc dân ta rõ ràng có tính-chất bản-địa. Theo chứng-luận ngày nay về khảo-cổ, chúng ta có thể nói là người Việt đã xuất-hiện từ nhiều thiên-niên-kỷ trước thời-đại vua Hùng dựng nước. -Vua Đế-Minh là cháu ba đời vua Thần-Nông. Chi-tiết này hợp cùng với tên Lộc-Tục cho ta hai danh-từ riêng chỉ tên tuổi theo cách-thức của người Việt phương Nam. Nói rõ hơn, các vua Hùng đều là dân bản-địa với tên gọi đặc-biệt "phi Hán". Những điểm sau đây xin được nêu lên để làm sáng tỏ vấn đề: 1- Ngườì Trung-Hoa không gọi vua Thần-Nông mà theo căn-bản ngôn-ngữ của họ thì Nông-Thần, Nông-Thần-Vương hay Nông-thần Hoàng-Đế v.v...mới đúng. Danh-từ Thần Nông hay Ông Thần Nghề Nông đúng là theo sát với tinh-thần "xuôi ý" trong ngôn-ngữ Việt-Nam. Nhận-xét "xuôi ý" này của riêng ngôn-ngữ ta đã được các ông Nguyễn-bạt-Tuỵ và Kim-Định cùng một số học-giả Việt-Nam khác nêu ra trong hai ba thập-niên vừa qua. 2- Theo đúng truyền-thuyết của người Tàu, Vua Thần-Nông không có vẻ gì là người Trung-Nguyên. Ông họ Khương, khi chết mộ chôn ở gò đất Thương-Ngô, Trường-Sa; đất ấy trước đời Tần - Hán là đất đai Bách Việt, không phải đất Hoa-Hạ. 3- Vị-trí sao Thần-Nông trên bầu trời phương Nam. Ca-dao nông-nghiệp Việt-Nam cũng thường nói đến sao này. Cũng vậy tên mẹ Kinh-Dương-Vương là Vụ Nữ hay Vụ Tiên Nữ cũng là tên một chùm sao ngay trên đỉnh bầu trời Bắc Việt Nam. Eberhard, Wolfram đã chứng minh tỉ mỉ trong sách "The Local Cultures of South and East China" là Thần-Nông vốn không có gốc Trung-Hoa, đó là một thần-linh nông-nghiệp có nguồn gốc từ văn-hoá ruộng nước phương Nam. 4- Lộc Tục là một cái tên Việt cổ hiếm hoi may mắn còn sót lại trong tâm-thức Việt-Nam và được huyền-tích bao bọc bảo tồn. Tuy tên Kinh-Dương-Vương là một danh-hiệu Hán-Việt nhưng đất Kinh-Dương cũng như hồ Động Đình và Ngũ-Lĩnh vốn không phải đất Trung-Hoa vào thời ấy. Thần Nông là Thần-linh nông-nghiệp của Việt-tộc, đã bị nhập nhằng nhận là của Tàu. Cách nay 5,000 năm, trong khi đất cổ Việt đã đi vào văn-minh ruộng nước thì sinh-hoạt của người Trung-Hoa còn mang mầu-sắc du-mục nặng về săn bắn,. Sự hiện-hữu của vua Đế-Minh luôn luôn là một câu hỏi. Nếu ông đúng là ông vua Trung-Hoa và là cha của vua Hùng Việt-Nam thì sử nào ghi điều đó? Dù thế nào chăng nữa, sau khi có con là Đế Nghi, Ông Đế-Minh đã lấy thêm vợ nữa là Bà Tiên ở Ngũ-Lĩnh. Có lẽ cuộc tình-duyên của Ông Bà cũng ngắn ngủi. Con của họ là Kinh-Dương-Vương không sống với cha, mà ở với mẹ tại quê mẹ. Vị vua này là người miền Nam và theo chế-độ mẫu-hệ thời đó, ông không thể là Sở (vùng biên-địa) cũng không phải Tàu (vùng Hoàng-Hà, sông Vị) mà là người địa-phương. Hơn nữa, tính cách thổ-dân hay bản-địa của Kinh-Dương-Vương biểu-lộ chính-xác nhất qua cái tên hoàn-toàn địa-phương cổ Việt là Lộc-Tục. Tập-tục địa-phương của dân ĐNÁ thời cổ Trong cuốn "Nguồn-gốc dân-tộc Việt-Nam", Giáo-sư Nguyễn-khắc-Ngữ đã cho biết một số tài-liệu quý-giá về tâp-tục Lạc-Việt hồi xưa. Sau đây là một vài đoạn trích-dẫn: a - Chế-độ Mẫu-hệ. Mẫu-hệ là một chế-độ gia-đình bản-địa của Đông-Nam-Á, cũng như ở các sắc dân Malayo-Polynesian. Ông Ngữ bàn đến truyện các vua Hùng đầu tiên như sau: -Mẫu-cư. Ông vua Hùng đầu tiên là Kinh-Dương-Vương, khi nhỏ sống với mẹ ở Ngũ-Lĩnh, sau lấy con gái Long-Vương ở hồ Động-Đình và ở nhà vợ dưới Thủy-phủ. Cũng vì đặc-tính mẫu-cư này, con ông là Lạc-Long-Quân cũng ở nhà mẹ dưới Thủy-phủ. Mấy ngàn năm sau tiếp theo đời Lạc-Long-Quân sang đến đời các nhà Thục, nhà Triệu; tục này vẫn còn giữ. Trọng-Thủy sau khi lấy Mỵ-Châu, đã ở nhà vợ vì thế mới có cơ-hội cho Trọng-Thủy ăn cắp lẫy nỏ thần. -Mẫu thống. Lạc-Long-Quân là con Kinh-Dương-Vương (em Đế-Nghi) cũng là em chú bác với Đế-Lai (con Đế-Nghi.) Âu-Cơ là con gái Đế-Lai, phải gọi Lạc-Long-Quân là chú. Nếu tính theo phụ-hệ thì Lạc-Long-Quân không thể lấy Âu-Cơ được. Nhiều người cho rằng chú cháu lấy nhau là loạn-luân bởi họ quên hẳn "mẫu thống" là tập-tục địa-phương hồi đó. Lạc-Long-Quân nhận mình không còn đồng-tộc với Âu-Cơ hay Đế-Lai nữa nên đã lấy Âu-Cơ làm vợ. -Mẫu-tộc. Lạc-Long-Quân không những chẳng nhận mình thuộc dòng họ Đế, lại chẳng nhận mình giống cha. Khi chia tay với Âu-Cơ, Lạc-Long-Quân đã nói:"Ta là nòi Rồng". Rõ ràng ông Vua Hùng thứ hai này đã nhận mình thuộc dòng giống Thủy-tộc, tức là họ nhà mẹ (Long-Nữ) B-Tục cướp vợ. Trong truyền-thuyết họ Hồng-Bàng trên, ta thấy dù Âu-Cơ đã vui lòng theo Lạc-Long-Quân, ông Vua này cũng phải đem dấu Âu-Cơ trong Long-Đài-Nham và hoá phép thành yêu-tinh, quỷ-sứ, rồng rắn, hổ voi để chống lại bọn đi tìm. Cũng như dân các hải-đảo Miền Nam ngày nay còn lưu giữ, người Việt thời Hùng-Vương theo tục cướp vợ. Tuy có tổ-chức đám cưới nhưng hai gia-đình lại làm cuộc lễ dưới hình-thúc cuộc cướp vợ. Họ nhà trai mang giáo mác, cung tên đến nhà gái, bắt cô dâu mang đi. Sau đó nhà gái cũng mang khí-giới, reo hò giả vờ đuổi theo . Truyện cướp vợ của Lạc-Long-Quân là tập-tục dân Lạc-Việt hồi đó, rõ ràng không ảnh-hưởng tí Tàu nào cả. Chúng tôi đồng-ý với ông Nguyễn-Khắc-Ngữ về những dẫn-chứng của ông dùng chứng-minh rất xác-đáng cho sự tương-đồng tập-tục giữa ngườì Việt và ngườì Melanesian, tuy-nhiên chúng tôi giữ lập-trường khác ông là những tập-tục đó đã khởi-nguyên từ đất liền Đông-Nam-Á (trong đó có Việt-Nam) thời Đồ Đá xa xưa, trước khi những tập-tục đó ảnh-hưởng ra ngoài hải-đảo. c - Các đặc-điểm khác. Ngoài ra, truyền-thuyết họ Hồng-Bàng còn cho chúng ta biết khá nhiều về những đặc-điểm của dân ta hồi đó như: Căt tóc ngắn Xâm mình, vẽ chàm Ăn trầu Ăn cơm gạo Đóng khố, mặc váy Ăn hải-sản Làm nhà sàn Làm rẫy Lấy vỏ cây làm vải Thổi cơm bằng ống tre Làm nghề chài lưới Thích sinh-hoạt cạnh sông hồ, biển cả... Toàn là những tục-lệ địa-phương thuộc vùng Đông-Nam-Á, dị-biệt hoàn-toàn với tình-trạng sinh-hoạt của Trung-Nguyên vào thời đó. Qua nhiều lý-do như vậy, chúng ta thấy các vua đầu tiên của nước Văn-Lang đúng là có nguồn gốc bản-địa. Chỉ khi nào người ta cảm-nhận tình quê, đất nước, tổ-tiên thì người ta mới giữ gìn tập-tục. Vua Hùng là dân bản-địa, không phải người ngoại-lai. Nhà vua cũng giống như những di-dân Á-Đông ngày nay, dù có bị bắt buộc phải sống lưu-lạc ở xứ người nhưng cứ giữ tập-tục quê-hương. Dân ta bị ngoại-bang đô-hộ một ngàn năm, ảnh-hưởng đồng-hoá văn-hoá Trung-Hoa rất mạnh. Vậy mà người Việt vẫn bảo-tồn tập-tục riêng, Cái rễ dân-tộc phải sâu, phải già đến năm mười ngàn năm trước đó mới có đủ sinh-lực giữ cho cái cây Việt sinh-tồn được đến ngày nay. Hãy quên đi ý-nghĩ nguồn gốc từ Tàu phương Bắc Ông Bình-Nguyên-Lộc đã viết rằng: "Càng chứng-minh được rằng Việt không là Trung-Hoa, thì sự chứng-minh Việt là Mã Lai càng được củng cố hơn lên (NGMLCDTVN, trang 213.) Mệnh-đề "Việt là Mã-Lai" mà tác-giẩ "Nguồn gốc Mã Lai của Dân tộc Mã Lai" đã dùng trong trường-hợp này, có thể hiểu được là Việt có nguồn gốc chung Đông-Nam-Á hay Việt có nguồn gốc tại chỗ (mà không phải là Tàu!). Ta không phải là Tàu Có một ông Tàu, bà Tàu chính-cống nào mà lại nhuộm răng đen, ăn trầu, búi tóc, đóng khố hay mặc váy, đi thuyền, tham-dự hội nước, đối đáp nam nữ vv... không? Thế mà trước kia, một số nhỏ nhà nho Việt-Nam say mê ảnh-hưởng Trung-Hoa, cho rằng những truyền-thuyết dân-tộc nói lên nguồn gốc phương Bắc của người mình. Qua chiếc lăng-kính Hán-học và cái mãnh-lực kinh-khủng của số lượng kinh sách khổng-lồ Trung-quốc, trước đây ít nhiều người đã có những cái nhìn sai lạc về hình-ảnh trung-thực của những ngày đầu lập-quốc. Sự diễn-dịch kiểu "bảo-hoàng hơn Vua", "Tàu hơn cả Tàu" như vậy không thể nào hợp-lý được. Phải làm sao thực-hành được như lời của Dr. Nyi Nyi, một thời là Phụ-tá Bộ-trưởng Giáo-Dục Miến-Điện: "Cái gì cũng nói là nguồn-gốc „n-Độ, cái gì cũng nói là nguồn gốc Trung-Hoa. Chúng tôi đang phải vứt bỏ tất cả những điều vớ vẩn như vậy khỏi các sách sử của chúng tôi". Có thể là chính ông Nyi Nyi này lại đang mặc váy longyi là một danh-từ „n-độ và đang khoác trên mình chiếc áo ba túi với cái nút áo đúng kiểu Trung-Hoa (National Geographic, Vol.139, No.3, March 1971, trang 304.) Thật buồn nếu số phận các dân nhược-tiểu là như vậy, nhưng muốn cho quốc-gia tiến-bộ thì nguồn gốc của dân-tộc phải hiểu sao cho được đúng đắn. Thời-đại khoa-học ngày nay chứng-minh Miến đi từ Miến, cũng như Việt đúng là có nguồn gốc Việt, không có tí „n hay tí Tàu nào trong đó cả. Chỉ cần bỏ ra một chút thời-giờ để suy-luận, chúng ta nhận biết rõ ràng dân-tộc Việt-Nam là thuần-tuý. Đặc-biệt truyền-thống "nước" đã cho người Việt-Nam một chỗ đứng độc-lập riêng rẽ. Việt là Việt Kể từ một vài thế-kỷ trước Công-nguyên, văn-hoá Trung-Hoa đã ảnh-hưởng nhiều đến dân-cư vùng Đông-Nam-Á nhưng không phải vì thế mà nghĩ rằng Tàu là cha đẻ của dân vùng này. Dr. Paul K. Benedict khi bàn về văn-hoá cổ-thời đã phát-biểu một câu chí-lý "... there were many other cultural exchanges between the Chinese and the early inhabitants of Southeast Asia, -with the Chinese as the recipients rather than the donors" (cũng báo National Geographic kể trên, trang 306.) Ý-tưởng "Tàu chỉ thừa-hưởng, không có ban-phát gì hết" cũng đúng cho cả vấn-đề tranh-luận về nguồn-gốc chủng-tộc. Nói nôm na: "Tàu quá trẻ để làm cha đẻ ra các chủng-tộc Đông-Nam-Á." Theo các nhà nhân-chủng học, tổ-tiên các dân-tộc Đông-Nam-Á đã xuất-hiện từ lâu. Trước đây 60,000 năm, phương-tiện vượt biển của họ đã đủ khả năng để đưa các "thuyền-nhân" sang sinh sống tại Úc-Châu. (East of Wallace's line: issue and Problems in the Colonisation of the Australians, Jones, R., in The Human Revolution: Behavioural and Biological Perspectives on the Origins of Modern Humans, ed. P. Mellars and C. B. Stringer, Edinburgh University Press, 1989, pp. 743-782.), Trong khi những người bản-địa như Việt đã sinh sống ở vùng Đông-Nam Á-Châu ngay từ thời Băng-Đá thì ở vùng Hoa-Bắc, mãi sau này người Tàu mới xuất-hiện. Họ đến đó không sớm lắm, chỉ chừng 4,000 năm qua mà thôi. Còn Sử-ký của Tàu, nói cho xác-thực, chắc phải muộn hơn nữa. Sử-gia Ray Huang xác-nhận thời-gian gọi là "hữu-sử" đó khởi-sự khoảng năm 1600 TTL. Nguyên-văn như sau: "As things stand today, the first page of Chinese history that has archaeological backing bears the relatively late date of 1600 B.C. at the founding of the Shang dynasty..." (China: A Macrohistory, Ray Huang, New York, 1988, trang 6.) Thời-gian lại cũng quá muộn màng cho họ khi vượt được Dương-Tử-Giang để tiến về Hoa-Nam. Giống dân hiếu-chiến này ra sức tàn-phá, giết chóc, tiêu-diệt văn-hoá bản-xứ. Có lẽ họ đã thành-công một số mưu-đồ xấu xa. Thế nhưng trong mục-tiêu chót là diệt-chủng dân (Lạc-)Việt thì người Hán đã thất-bại và nước Việt vẫn còn tồn tại đến bây giờ. Nếu như lịch-sử đổi dòng, chẳng có thiên-tai "Đại-Hán", nguồn văn-minh Hoà-Bình Đông-Sơn vẫn tiếp-tục chảy xuôi, không có ngàn năm bị trị và đời sống dân ta đã muôn phần tốt đẹp hơn. Bản-năng bảo-tồn nòi-giống của dân Việt chứng-minh giả-thuyết về "rễ cái bản-địa" vậy! Chứng-tích Khảo-cổ Có lẽ những chứng-cớ quan-trọng nhất về sinh-hoạt của dân trong thời hậu Băng-Đá tại vùng duyên-hải phía Đông Á-Châu đã bị đại-dương chôn vùi dưới đáy nước sâu của Biển Đông từ hàng chục ngàn năm qua, (Vietnam, World Bibliographical Series, Vol 147 -- David G. Marr, CLIO Press, England, 1992, p xvi.) Tuy vậy, những dấu-tích còn lại của tiền-nhân chúng ta trên lãnh-thổ hiện nay cũng đã đủ để chứng-minh rằng giống Việt là một chủng-tộc rất xưa cũ, đồng-thời cũng là chủng-tộc tiền-tiến trong các hoạt-động hàng-hải. Thời-gian này tính ra nhiều ngàn năm trước khi người dân Trung-Nguyên đầu tiên phát-xuất từ Trung-Á, di-chuyển qua lập-nghiệp cạnh sông Hoàng-Hà. Trong thập-niên 1920, Trung-tâm Văn-Hoá Hoà-Bình được cô Madeleine Colani, một nhà thảo-mộc-học, sau náy trở thành nhà khảo-cổ người Pháp danh tiếng tìm ra... (Wilhelm G. Solheim, 'New Light on a Forgotten Past," National Geographic Magazine, March 1971, trang 333.) Tài-liệu báo-cáo của cô về văn-minh Hoà-Bình cho đến nay vẫn được coi là rất có giá-trị như sau: -1927, L' age de la pierre dans la province de Hoa Binh (Tonkin.) MSGi 14, fascicle i. -1928, Notice sur le prehistoire du Tonkin: station de Cho Ganh, atelier. BSGi 17, fascicle 23-37. -1929, Quelques stations hoabinhiennes: note preliminaire. BEFEO 29:261-72. -1930, Recherches sur le prehistorique Indochinoises. BEFEO 30: 299-422. -1935, Megalithes du Haut-Laos. 2 volumes. Publications de l'école francaise d'Extreme-Orient nos. 25, 26. -1940, Emploi de la pierre en des temps reculés: Annam - Indonesie - Assam. Publication des Amis du Vieux Hue, Hanoi: imprimerie d'Extreme-Orient. Trong khoảng ba chục năm trở lại đây, khoa Khảo-cổ cung-cấp thêm nhiều tài-liệu mới lạ. Những kiến-thức cận-đại về cổ-sử có thể làm những người sống trước đây một vài thế-hệ giật mình, tưởng như truyện giả-tưởng. Nguồn gốc dân-tộc Việt đáng được kể là rất cổ và văn-hoá ta phát-sinh ngay tại địa-phương nơi vùng đất quê-hương của ta: -Văn-minh Hoà-Bình đã khởi-nguyên trên đất nước ta hồi mười lăm, mười sáu ngàn năm trước đây -Đà tiến-triển văn-minh của dân ta được giữ liên-tục, không ngừng nghỉ; đi từ Bắc-Sơn, Hoà-Bình chuyển tiếp qua Đồng Dậu, Phùng-Nguyên, cuối cùng rực sáng ở Đông-Sơn. Có chỉ-dấu cho thấy văn-minh Ngưỡng-Thiều, Long-Sơn Trung-Hoa và Đài-Loan do văn-minh Miền Nam khai sáng. -Tính-chất văn-minh nặng phần hàng-hải và ruộng nước. Solheim tìm ra rằng ngay từ thời Đồ Đá, ảnh-hưởng Hoà-Bình đã tới Úc. Lúa gạo xuất-hiện ở Đông-Nam-Á trễ nhất là 3,500 năm TTL.Kỹ-thuật Đồ Đồng khởi-sự trước Trung-Hoa cả ngàn năm, cũng trước cả „n-Độ và Lưỡng-hà-Địa. Đường biển trở thành hệ-thống chuyển-vận viễn-duyên, người Việt từ Đông-Sơn đi đi lại lại khắp vùng Đông-Nam-Á . Carl Sauer cho rằng dân bản-địa Đông-Nam-Á đáng ghi (??) những công-lao to lớn. Họ đã làm một bước đi quyết-định cho loài người trên đường tiến-bộ. Đó là việc thuần-hoá cây cỏ đầu tiên, một phát-triển sớm sủa nhất của nhân-loại trong nông-nghiệp. (Agricultural Origins and Dispersals, New York, 1952, Chapter 2.) Lea E. Williams lý-luận rằng nhờ những hoàn-cảnh chung quanh thuận-lợi, cũng như khối óc năng-động của chính họ, người Đông-Nam-Á đã đạt đến một trình-độ kỹ-thuật cao. Những khả-năng về tự-tồn trên biển và sản-xuất nông-phẩm là kết-quả của những phát-triến đặc-thù Đông-Nam-Á. Rất có thể là dân-cư vùng này đã sớm đạt đến những tình-trạng tiến-bộ tương-tự như ở vùng Bán-nguyệt phì-nhiêu. (Southeast Asia: A History, Lea E. Williams, Oxford University Press, New York, 1976, trang 25.) Khoa khảo-cổ khám-phá rằng Đông-Nam-Á đã trồng cấy cây lúa 3,500 năm TTL. (National Geographic, Vol.139, No.3, March 1971, trang 335), gia-súc-hoá súc-vật từ 5,000 năm TTL, tức là hàng ngàn năm tiến-bộ hơn những nền văn-minh cổ xưa khác. Luyện-kim ở vùng Đông-Bắc Thái-Lan/ Bắc Việt-Nam tiến-bộ ngay thời 3,000 năm TTL, khoảng ngàn năm trước kỹ-thuật đúc đồng Trung-Hoa và „n-Độ. Như đã trình-bày ở trên, Hoà-Bình là trung-tâm văn-hoá tiên-khởi của toàn vùng Đông-Nam Á-Châu. Theo đường hàng-hải, ảnh-hưởng văn-hoá này truyền-bá đi khắp các hải-đảo, vùng duyên-hải và đất liền gần nửa vòng trái đất. Trên những miền đất xa cách với Hoà-Bình như tại cửa sông Dương-Tử, những chi-tộc Việt cũng rất văn-minh Vùng Thái-Hồ đã tiến đến chế-độ "đại tù-trưởng" ngay từ thiên-kỷ thừ 3 TTL. Trong thời-gian đó, vùng Hoa-Bắc sau này là cái nôi văn-minh Trung-Hoa còn chậm tiến hơn. Giáo-sư Tsui-Mei Huang thuộc phân-khoa Mỹ-thuật viện đại-học Pittsburgh đã đúc-kết và nhận-xét về những khám-phá mới đây về khảo-cổ trong tạp-chí Antiquity 66 (1992): 75-83 như sau: - Hơn một trăm địa-điểm khảo-cổ có số tuổi từ 3,310 đến 2250 năm TTL., trong vùng Thái-Hồ đã được khám-phá. Đất này sau đó xuất-hiện nước Việt, hàng trăm năm liền xưng bá thời Chiến-quốc. Các di-tích tìm thấy cổ hơn rất nhiều so với các di-tích tương-tự tìm thấy ở Hoa-Bắc và dĩ-nhiên trước triều-đại nhà Chu tới vài ngàn năm. - Sự khai-quật các cổ-vật vùng Liangzhu đã làm thay đổi quan-niệm trung-tâm văn-hoá nằm ở Hoa-Bắc và thúc-đẩy các nhà khảo-cổ nên chấp-nhận sự hiện-hữu của một nền văn-hoá bản-địa miền Nam; nền văn-hoá này đã đóng góp một vai trò rất có ý-nghĩa trong suốt thiên-kỷ thứ 3 TTL. vào việc phong-phú-hoá tình-trạng đời sống và xã-hội nước Tàu " Chỉ có hợp-chủng mà không có diệt-chủng Sự thật hiển-nhiên chứng-minh rằng không có một dân-tộc nào trên thế-giới ngày nay là một chủng-tộc thuần-tuý. Chúng tôi không bao giờ phủ nhận về sự hiện-hữu của những đợt di-dân từ ngoài vào đất nước Việt-Nam. Chúng tôi chỉ xin nêu ra quan-điểm là sự cần-thiết phải suy xét cho đúng mức tầm quan-trọng của những sự "nhập nội" này. Đi sau những người dân nước của Biển Đông, các dân di-cư đến xứ ta sau này tuy có, nhưng số lượng mỗi đợt không nhiều lắm so với dân-số địa-phương. Họ thuộc những sắc dân tương-cận, cùng ưa thích vùng duyên-hải và sinh-hoạt sông nước. Hầu hết di-dân thuộc nhóm Bách-Việt, số rất nhỏ là người Tàu chính gốc và các dân khác. Bác-sĩ Trần-Đại-Sỹ, thác lời các bạn đòng-nghiệp của Ông, đã phát-biểu những ý-tưởng về nguồn gốc tộc Việt, một phần nào tương-tự như những sự di-dân trình-bày ở trên như sau: "Tộc Việt bao gồm trăm giống Việt sống rải rác từ phía nam sông Trường-giang: Đông tới Biển . Tây tới Tứ-xuyên, Nam tới vịnh Thái-Lan. Người Việt từ Ngô-Việt di-cư xuống phương Nam. Người Mân-Việt đi xuống Giao-Chỉ. Người Việt di-cư từ Nam sông Trường-Giang tránh lạnh xuống Bắc-Việt đều đúng. Đó là những cuộc di-cư của tộc Việt trong lĩnh-thổ của họ, chứ không phải họ là tộc khác di-cư tới đất Việt." (Việt-Nam Đệ Ngũ Thiên kỷ, USA, 1994, trang 223.) Thủy-thổ đặc-biệt xứ ta đã ngăn cản nhiều chuyến di-cư khởi đi từ các vùng đất có địa-thế khác-biệt. Tài-liệu biện-luận cho quan-niệm này là cuốn sách "Nguồn gốc Mã-Lai của Dân-tộc Việt-Nam". Tác-giả sách này, Ông Bình-Nguyên-Lộc cho rằng có hai (??) chuyến di-cư vĩ-đại nhất vào xứ ta. Tiền-nhân Việt thuộc nguồn-gốc Mã-lai, đã từ Hoa-Bắc thực-hiện việc di-cư đến Bắc-Việt bằng đường biển. Cho dù đồng-ý là dân ta có nhiều đặc-điểm giống Melanesian hay giống Indonesian chăng nữa, chúng ta cũng không thể vội vàng kết-luận dân-tộc Việt-Nam là con cháu các dân đến từ Nam-đảo. Tại nhiều nơi khác trên thế-giới, ngôn-ngữ, tục lệ cổ xưa thường bị chuyển-hoá vì nhiều đợt di-dân ồ ạt ở ngoài đổ vào. Trái lại trên đất nước chúng ta, những truyền-thống xưa cũ hàng mấy ngàn năm vẫn còn được bảo-tồn. Những đợt di-dân vào đất nước ta về sau này đã không tiêu-diệt những dân-cư bản-địa sống ở đất này trước họ. Hầu hết những yếu-tố căn-bản về nhân-hình nguyên-thủy và văn-hoá đầu tiên còn tồn-tại. Giống dân đầu tiên sống trên giải đất ta là giống da đên (Négritos), Me-la-nê-xi (Mélanésiens) và giống Úc-Châu (Australiens) , (Địa-Lý Việt-Nam Lớp MườI Một, Nguyễn-Khắc-Ngữ và Phạm-Đình-Tiếu, Cơ-Sở Xuất-bản Sử-Địa, 1991(??), trang 120-121.) Sử Đông-Nam-Á đã được nhiều học-giả thuộc đủ mọi mầu da trắng, vàng, nâu viết lại nhưng không ai nghĩ rằng đã có những chuyện diệt-chủng đáng kể nào xảy ra trên đất nước chúng ta. Người đến sau đã hội-nhập với những người ở đây trước để cùng kiến-tạo cuộc sống chung. Những người Mường, người Mán, người Kinh, kẻ Chợ, người miền Cao, đường Ngược ... rõ ràng vẫn tiếp-tục sinh-sống hoà-thuận vui vẻ ngay trong thời-đại chúng ta. Những vì vua đầu thời tự-chủ như các nhà Đinh, nhà Lê sinh ở xứ Mường. Trước đó lại có anh-hùng Phùng-Hưng ông cha đời đời làm Quan Lang hay Tù-trưởng châu Đường-Lâm. Có thể nói các vị này gốc-tích dân thiểu-số cũng đúng. Tuy vậy nhưng điều đúng hơn hết: các vua anh-hùng này chẳng phải là Vua của nước Việt hay sao ? Tất cả chúng ta dù người mang họ Nguyễn (40% dân-số), người kia họ Đinh, họ Lê, họ Phùng, họ Hà, họ Vũ ... cũng một dòng máu đậm mầu dân bản-địa chảy trong huyết-quản mà thôi! Trong khi nghiên-cứu, thâu-lượm thêm tài-liệu Đông-Nam-Á cổ-thời, chúng tôi càng yên-tâm nghĩ rằng gốc rễ bản-địa là quan-trọng và rằng khi đi sâu vào cổ hàng-hải chúng tôi thấy sắc đân Việt-Nam "đa-số" rất gần với những sắc dân "thiểu-số" như Mường, như Mán, như Rhadé, như Chàm., như Bà-Nai ... Một thuở xa xưa nào đó tiền-nhân của họ đã cùng tiền-nhân Việt sinh-hoạt hay hải-hành qua lại trên biển Đông, mà thời Băng Đá chỉ như một hồ nước chung quanh có đất liền bao bọc gần như khép kín. Có lẽ sự phân chia chủng-loại một cách khe khắt như ta thấy ngày nay chỉ mới xảy ra trong thời gần đây mà thôi. Tổng-hợp: Những chỉ-dẫu hướng về một nguồn gốc Luận-lý "rễ cái - bản-địa" của dân-tộc Việt-Nam được xây- dựng trên chứng-tích phát-sinh "tại chỗ" của các chủng-tộc Đông-Nam-Á. Tiến-trình sinh-hoạt văn-hoá của dân Việt chói sáng nhất trong vùng và liên-tục ngay từ thời cổ sơ. Đặc-biệt những phát-triển hàng-hải đáng kể là vượt bực. Đi từ việc sử-dụng những vật-liệu thông thường tại chỗ như tre nứa làm bè, người Việt đã tiến đến sự hoàn-thiện phương-cách vận-chuyển Tàu thuyền tự-động, không cần người lái. Muốn đi tìm một khuôn mẫu"gốc rễ tại chỗ" cho một dân-tộc, người ta không thể tìm được một sự tiêu-biểu nào hoàn-bị hơn cho bằng trường-hợp dân-tộc Việt-Nam. Những giả-thuyết về phân-tán nhân-chủng, ảnh-hưởng văn-hoá cùng những sinh-hoạt hàng-hải tỏa ra các nơi mà tâm-điểm là Việt-Nam đã được trình-bày trong hầu hết tập tài-liệu này. Sau phương-cách phân-tích có tính-chất "phân-kỳ" này, chúng tôi lại xin dùng một phương-cách ...... đưa ra một tổng-hợp mà luận-lý có tính-chất "hội-tụ". Đi từ những dữ-kiện về sinh-hoạt rộng lớn, xa xôi thu góp lại, chúng ta cũng có thể tìm ra tâm-điểm phát-nguyên hay nguồn gốc người Việt-Nam là tại chỗ. Trên cả một vùng không-gian rộng lớn, hơn nửa vòng trái đất từ Madagascar tới Easter Island, loài người tuy sử-dụng nhiều loại sinh-ngữ khác nhau nhưng xem ra chúng có khá nhiều đặc-điểm tương-tự. Một số nhà ngữ-học nhận thấy nên xếp chung hơn một ngàn sinh-ngữ này vào một họ lớn là Nam-phương-ngữ. Về hàng-hải, địa-bàn của các ghe thuyền có thân phụ và bè mảng chạy buồm gần như trùng-hợp với địa-bàn ngôn-ngữ "Nam-phương". Hai địa-bàn ngôn-ngữ và thuyền bè này khởi-sự từ Đông-Nam-Á. Trong cổ-thời, toàn vùng Đông-Nam-Á, lan qua cả Úc-Châu, Đài-Loan và Nhật-Bản, sinh-hoạt chung của các dân-cư chịu ảnh-hưởng nền văn-hoá Hoà-Bình. Hai địa-bàn của văn-hoá Hoà-Bình này và ngôn-ngữ Nam-phương, xem ra gần như trùng-hợp với nhau. Trên khu-vực duyên-hải kéo dài từ cửa sông Hoài đi về phía Nam tới Mã-Lai-Á, qua các hải-đảo Nam-Dương, Phi-luật-Tân; các nền văn-minh thực-vật và văn-minh "nước" bao trùm nhiều sinh-hoạt, ghi dấu vết thời Đồ Đá / Đồ Đồng đén từ các trung-tâm Hoà-Bình / Đông-Sơn. Nền văn-hoá của ta, không ảnh-hưởng "thạch đá" như kiểu kiến-trúc đá khối tại Nam-Dương, Khmer, Lào... Chỉ có ở Việt-Nam, người ta mới có thể tìm thấy một nền văn-hoá "nước" thuần-túy nhất, nhẹ nhàng và nhân-bản. Vào cuối thời Băng Đá, khi nước Biển Đông dâng lên cao, dân cư vùng đồng-bằng Sundaland kéo nhau rút vào vùng đất liền theo các dòng sông. Khu vực phía Bắc Sundaland, dân đông nhất hội-tụ tại vùng các sông Hồng, sông Mã. Sau này, sinh-hoạt văn-hoá của người Việt phát-triển mạnh nhất trong vùng qua suốt một thời-gian dài hàng chục ngàn năm. Dân-cư vùng Đông-Nam-Á rất có thể là một chủng-loại phát-triển tại chỗ. Xương hoá-thạch của người vượn tìm thấy ở Trung-Hoa, cũng thấy tại Việt-Nam. Nhiều chứng-cớ cho chỉ dấu tại nước ta đã diễn ra tiến-trình người vượn tiển-hoá thành người hiện-đại. Ngay từ thời Băng Đá, do địa-thế núi non chia cắt, dân-cư Đông-Nam-Á bị cô-lập với phần thế-giới ở ngoài. Trong khi dân-cư vùng này không đông đảo cho bằng ở „n-Độ hay Trung-Hoa, riêng đất Việt từ thời cổ vẫn luôn luôn có một mật độ dân-cư cao nhất trên thế-giới. Không những Việt-Nam chỉ là địa-bàn phát-nguyên của chủng Việt, mà theo Học-giả Groslier, còn có nhiều đợt di-cư từ Đông-Dương đi ra các hải-đảo Thái-Bình-Dương. Di-dân gồm có các giống dân Austroloid, Melanesians, Indonesians Mongolians (The Art of Indochina, trang 39.) Như vậy thật rõ ràng, học-giả không có gợi ý hay phát-biểu ý-tưởng cho rằng người Đông-Dương đã đến từ Australia, từ Melanesia, từ Indonesia, từ Mongolia v.v... Nhiều sắc dân khác nhau đã sinh sống trên lãnh-thổ Việt-Nam từ cổ thời. Người Việt chiếm đa-số, cư-ngụ tại những vùng đất thấp. Vì là giống người đến trước, người Việt sinh sống trên những đất đai thuận-hảo, trong khi các di-dân đến sau đành phải canh-tác nơi những nơi núi cao, rừng rú. Việt-tộc tại khắp ba miền Trung, Nam, Bắc đều bảo-tồn cổ-tục. Tinh-thần đó chứng-minh tính-cách bản-địa của chủng-tộc. Tuy vậy, không có miền nào mà người dân còn giữ gìn tập-tục lâu dài như nhuộm răng đen, ăn trầu, đóng khố... và nhất là mặc váy cho bằng những dân miền Bắc Việt-Nam. Rễ Việt-tộc chắc đã ăn rất sâu nhất vào những vùng đất khai-nguyên này. Tổng-hợp lại, những tập-tục, các hoạt-động về hàng-hải, ngôn-ngữ và nhiều sinh-hoạt văn-hoá khác đều quy-tụ về một địa-điểm gốc là vùng đồng-bằng Sông Hồng của Bắc Việt-Nam. Cái rễ cái bản-địa của dân-tộc ta vì thế, không những quan-trọng cho riêng Việt-Nam chúng ta mà còn có nhiều liên-hệ đến các sắc dân khác tại Đông-Nam-Á và Thái-Bình-Dương. Tâm-lý và đặc-tính bản-địa Bản-chất dân ta rất hiền-hoà. Nhiều du-khách đến thăm xứ ta đã nói như vậy. Mấy lời sau đây trích ra từ tập sách "The Mandarin Road to Old Hué, Narrative of Anglo-Vietnamese Diplomacy from the 17th century to the eve of the French Conquest, Altair Lamb, London, 1970, trang 132 & 270): -Dân Việt-Nam là một giống dân lịch-sự (They are a courteous, affable, inoffensive race, rather inclined to Indolence- The Chapman Mission, 1778.) - Người Việt bản-tính tốt tự-nhiên, ít thù-hận, không gây nhiều tội ác, rất hiếu khách (... that docility and good nature ... that they were so little actuated by the spirit of revenge that murder and assassination were crimes little heard... they make no objections to give to foreignerrs their personal services... we found the Cochin Chinese ready to perform for us cheerfully every menial office... We went freely into the villages and were everywhere treated with hospitality, kindness and good nature - The Crawfurd Mission, 1822.) Người Việt lịch-sự, nể-trọng người ngoại-quốc, nhưng trong sự giao-thiệp đôi khi có một sự "bất thường": chúng ta đã tự kiêu về đất nước, về dân-tộc Việt của chúng ta một cách quá đáng. Chính Bác-sĩ Crawfurd đã viết trong báo-cáo đã kể ở trên, rằng : They look upon themselves as one of the first people in the world and their King as one of the first of princes. (sách "The Mandarin Road to Old Hué, Narrative of Anglo Vietnamese Diplomacy from the 17th century to the eve of the French Conquest, Altair Lamb, London, 1970, trang 270.) Cũng vậy, rất đông học-giả ngoại-quốc khi nghiên-cứu tâm-lý người Á-Đông, thắc mắc không hiểu tại sao dân Việt lại hay có tinh-thần dân-tộc quá cao, cao hơn các dân-tộc láng giềng. Trong khi đất nước nghèo đói, đồng-bào chậm tiến, xuống đốc thê-thảm: người Việt vẫn tự đề-cao họ lên. Họ nghi-kỵ các chính-quyền ngoại-bang, đặc-biệt chính-quyền Trung-Hoa và nhiều khi cả dân Trung-Hoa nữa. Vấn-đề tâm-lý này rất sâu sắc. Dáng dấp người Việt trông hơi giống người Tàu, nhưng nếu tưởng lầm một người Việt là một người Tàu, họ sẽ giận ngay. Người Thái-Lan có thể không "cuồng-tín" như vậy, có lẽ chỉ vì dân họ mới di-cư đến lập-quốc trên đồng-bằng sông Ménam. Dân-cư sinh sống ở Hoa-Nam, ở Đài-Loan, ở Hoa-Bắc, ở Tân-Cương cùng được gọi chung là dân Tàu nhưng họ có những vẻ gì đó không giống nhau. Họ không có cái niềm hãnh-diện dân-tộc quá khích như người Việt-Nam. Vì thế mà Hoàng-đế Trung-Hoa có thời đã là những "người ngoài" xuất-xứ từ Mông-Cổ, từ Mãn-Châu... Người Việt "cuồng-tín" chăng? Người Việt-Nam khác hẳn các dân khác, rất hãnh-diện được làm một người Việt-Nam. Chúng ta có thể hy-sinh tất cả để bảo-vệ lãnh-thổ. Sở dĩ người Việt "cuồng-tín" như vậy vì chúng ta cảm thấy bản-thân gắn liền vào đất nước Việt-Nam. Sự gắn liền đó đã khởi-sự từ lâu đời. Nó biểu-lộ tính-chất thuần-nhất và đặc-tính "bản-địa" của gốc rễ dân-tộc. Từ mười mấy ngàn năm trước liên-tục đến nay, giống Việt đã là chủ-nhân-ông đầu tiên của vùng đất cạnh Biển Đông này. Tự thâm-tâm người Việt-Nam nghĩ rằng chúng ta có gốc rễ tại chỗ. Lẽ tự-nhiên chúng ta không thích bị gọi là "con đẻ của Tàu" hay giống dân từ núi rừng cao-nguyên (như Tây-Tạng) đi xuống, cũng không ưa bị gán cho là từ hải đảo xa xôi (như Melanesia) đi vào. nguồn: http://vuhuusan.free...m/hhgocrevn.htm
-
Tàu họ từ cái căn bản đồng đều ban đầu mà bác sĩ Huard đã nói đến và chúng tôi trích dịch cho đăng ở đầu trang sách, phát triển khác xa các dân tộc khác hết mà không có bằng chứng là cái ban đầu đó họ ăn cắp của ta, lại có bằng chứng ngược lại là khoa khảo tiền sử. Khoa nầy thì quá đích xác như toán học, chớ không phải là giả thuyết như sách V.L.T.N. là chủng Mã Lai hoặc Cửu Lê hoặc Việt chưa biết trồng trọt vào thời Hiển Viên (với chứng tích) còn theo V.L.T.N. thì Cửu Lê đã giỏi trồng trọt (không chứng tích). Hình 2.1: Bức dư đồ dùng cho tất cả các chương. Vì quá nhiều điểm sử phải được ghi vào đây và nếu ghi hết thì dư đồ hóa ra rừng rậm, không còn đọc được, nên chỉ vẽ sơ lược đến mức tối đa, chỉ cốt vừa đủ để dùng làm những cái dấu mốc mà thôi. Cửa sông Hoàng Hà được vẽ thành 4 cửa, vì trãi qua ba bốn ngàn năm, cửa sông đó xê dịch một cách kỳ cục, cách nhau 1.000 cây số. Những cái mốc cần biết là sông Hoàng Hà, sông Dương Tử, sông Hán, sông Hoài, sông Vị, động Đình Hồ, núi Ngũ Lĩnh và đất Ngũ Lĩnh, núi Kinh, nước Đông Âu, nước Tây Âu, nước Mân Việt, những cái mốc quan trọng đó đều có đủ và đều được vẽ đúng. Dư đồ nầy cần thiết cho 6 chương tất cả. Tại sao H. Maspéro lại không dám nói nhiều hơn như giáo sư Kim Định đã dám? Vì H. Maspéro biết rõ là văn hóa biến bậy ra cả, tròn biến vuông, đen biến trắng, một nền văn hóa chung buổi sơ khai biến thành 20 nền văn minh khác nhau, và không nên trở về cái vốn cũ để nói rằng ai ăn cắp của ai, nhứt là để nói rằng có sự lai giống và sự đồng chủng. Granet và Maspéro đều đã lướt sơ qua trên khảo cổ, giáo sư Kim Định đã noi gương hai ông đó, nhưng họ lướt sơ qua rất là khoa học, thế mà họ còn sai, phương chi giáo sư Kim Định lại bất kể khoa học, cho khoa Anthropologie physique là “giả thuyết”, không biết rằng khoa đó nằm trong nhóm khoa học chính xác (sciences exactes) chớ không phải là khoa học nhân văn. Cũng nên biết rằng y học tiến bộ là thế, mà vẫn chỉ được nằm trong khoa học thực nghiệm mà thôi, còn khoa Anthropologie physique tuy là được sắp loại trong khoa học nhân văn, nhưng vẫn được xem là khoa học chính xác từ khuya rồi. Khoa ấy còn đang tiến mạnh, nhưng đó là tiến chớ không phải bị sửa đổi, và tiến trên cái nền tảng đã vững. Nhơn thể tính của các chủng tộc đã thành hình hẳn, từ 10 ngàn năm nay, đều biến thành cái gì như là công thức rồi, họ chỉ còn học đi học lại về những chủng người trước đó nữa mà thôi, vì những chủng trước đó chưa thành hình hẳn, còn chứa nhiều nghi vấn, nhưng Tàu và các dân Đông Nam Á hiện còn sống sót đều thuộc về các chủng sau, tức cổ nhứt cũng chỉ có 10 ngàn năm, thì không còn cái gì mà họ hồ nghi nữa hết và để cho ta hồ nghi nữa hết, bởi một cái sọ lai hai chủng mà chỉ lai một lần từ 5 ngàn năm, họ cũng biết, và một cái sọ lai hai chủng mà lai đi lai lại mãi từ 2 ngàn năm, họ cũng biết. Nhưng Mộng Văn Thông không phải là người dốt đâu. Sách của ông là một mưu đồ chánh trị rất là thâm sâu và độc ác. Đặt tên cho Việt là Viêm chỉ để lôi kéo nó vào Viêm Đế biết nông nghiệp chớ không phải là một sự đặt tên phất phơ đâu. Đó là một dụng ý lớn. Nhưng rồi ta sẽ thấy rằng dụng ý đó không chịu đựng nổi sự kiểm soát của khoa khảo tiền sử, khoa đó cho biết rằng Việt tộc chưa biết nông nghiệp vào thời Viêm Đế. Nói rằng Việt giỏi nông nghiệp, còn Tàu thì dã man thì rất hãnh diện cho dân ta, cãi lại làm gì. Nhưng làm việc khoa học có đâu lại để tình cảm xóa sự thật, thế nên chúng tôi mới cãi lại là vì sự thật mà thôi. Các ông Tàu đi từ cực đoan nầy đến cực đoan khác. Ta không là man-di, họ cứ gọi ta là man-di. Rồi giờ họ lại nói rằng ta văn minh hơn họ, mà ở hai thái cực đó họ đều quan niệm tầm ruồng, không có một căn bản khoa học nào hết. Nhưng thật ra thì đó là một hậu ý chánh trị vĩ đại núp sau lưng văn hóa, chớ không phải là vô tình đâu. Khi mà họ làm cho 700 triệu người Tàu tin rằng Tàu là Việt thì 700 triệu người ấy hẳn sẽ có khuynh hướng thống nhứt ta. Khuynh hướng ấy chính đáng nếu nguyên ủy đúng, nhưng nguyên ủy lại không đúng. Và khi 30 triệu người Việt cũng tin y hệt như thế thì ta mất hết cả ý chí chống xâm lăng. Hoa và Việt đã là một thì thống nhứt là đúng, còn chống làm gì nữa. Mao Trạch Đông cho vẽ dư đồ nước Tàu trong đó có Việt Nam chưa đủ, mà phải có hai ba ngụy thuyết nữa mới xong: Việt = Hoa (Nguyễn Phương) Nếu Việt = Hoa không được ai tin thì họ nhượng bộ, nói: Hoa = Việt (Mộng Văn Thông) Thuyết sau có vẻ quá hấp dẫn, thăng hoa dân Việt thì bọn Việt cứng đầu hẳn phải đành chịu vậy. Ngụy thuyết của Mộng Văn Thông hơi hữu lý hơn, có thể chấp nhận được, nhưng chính vì thế mà nó nguy hiểm hơn. Họ Mộng không quả quyết rằng Việt là Tàu thuần chủng như giáo sư Nguyễn Phương, mà chỉ nói là Tàu Hoa Bắc lai giống với Việt mà thôi. Kiến giải nầy hấp dẫn hơn kiến giải của Nguyễn Phương bội phần vì hai lẽ: cái sự thuần chủng rất là khó tin, chí như lai giống thì người ta có thể nhắm mắt mà nghe, không cần kiểm soát. Lẽ thứ nhì là nó vuốt ve ta quá lắm vì họ Mộng cho ta làm thầy của Tàu. Ta vừa hợp máu với họ lại vừa làm thầy của họ thì xí xóa hằm bà lằng, thế nào xong thì thôi, đảo Hoàng Sa của ta hay của họ cũng chẳng có gì quan trọng mà phải tranh chấp. Theo thuyết trên thì vua Thần Nông hiệu là Viêm Đế là Việt chớ không phải Tàu. Vua ấy đã giỏi nông nghiệp và bị một thủ lãnh của Tàu là Hiên Viên hạ sát để cướp đất và cướp luôn cả văn minh nông nghiệp đó. Khi nói cướp văn minh, phải ngầm hiểu là có cướp người vì kẻ bị cướp sẽ không dạy học cho kẻ cướp đâu, mà phải bắt họ làm người Tàu, họ mới bị đồng hóa lần lần và dạy cho mà học. Vậy người Tàu Hoa Bắc đích thị là người Việt một phần lớn. Câu chuyện trên đây đã xảy ra cách đây 5.000 năm, tức là cái sọ chưa thay đổi, và nếu có sọ Tàu lai Việt ở Hoa Bắc thì khoa học cũng thấy rồi và biết rồi. Nhưng sọ người Hoa Bắc lại khác sọ người Việt Nam một cách lớn lao về chỉ số, về dung lượng, nhứt là về hai tánh cách Brachycéphale và Mésocéphale. Cũng không thấy sọ lai Tàu + Viêm nào cả ở Hoa Bắc. Như vậy thì nếu quả có Viêm tộc nào đó, thần dân của Viêm Đế, thì cái Viêm tộc đó không thế nào mà là Việt được cả. Cứ theo các cổ thư Trung Hoa thì vua Thần Nông đánh diệt Bổ Toại. Bổ Toại là dân nào, đã dựng nước hay chưa thì không ai biết cả, mặc dầu có sách nói mà không dẫn chứng rằng họ đã dựng nước rồi. Kế đó các cổ thư lại cho ta biết rằng Hoàng Đế đánh diệt Xy Vưu. Rồi vua Nghiêu đánh diệt Hoan Mâu. Vua Thuấn đánh đuổi Tam Miêu. Vua Võ đánh Cung Công. Sử Tàu chép là các vua nói trên đánh các chư hầu tàn bạo. Sự thật thì chính các thủ lãnh Tàu mới là tàn bạo. Người ta là chủ đất cũ, họ ở ngoài xâm nhập, đánh cướp đất đai của người ta, mà lại cho rằng nhứt thiết người ta tàn bạo là thế nào? Nhưng đó là phê bình tư tưởng Tàu, không phải là công việc của cuộc nghiên cứu nầy. Trong năm cuộc đánh diệt để giành giật địa bàn Hoa Bắc ấy, ta chỉ biết được có ba dân tộc là dân Khuyển Nhung, dân Cửu Lê của thủ lãnh Xy Vưu và dân Miêu, không phải chỉ vì ba thứ dân ấy hiện tồn tại, mà vì các cổ thư Tàu có cho chút ít chi tiết để truy nguyên ra họ. Ta không biết Bổ Toại, Hoan Mâu, Cung Công là nước, là thủ lãnh hay là dân và là dân nào, vì sách Tàu mỗi sách mỗi nói khác nhau. Thí dụ Bổ Toại có khi được gọi là nước, có khi được gọi là hậu, tức thủ lãnh một chư hầu nhỏ, có khi được gọi là dân, có khi được xem là một nhơn vật và không còn chi tiết nào nữa hết. Nhưng ta bỏ qua ba thứ dân ấy được, bởi khi mà các cổ thư Trung Hoa không có chi tiết nào khác là vì dân ấy quá ít, không phải là một dân tộc lớn đáng kể. Bổ Toại thì còn có thể đổ thừa rằng vì quá lâu đời (đời Thần Nông) chớ Cung Công thì tương đối mới đây thôi (đời nhà Hạ). Sử Tàu biết về đời Hạ rất nhiều mà không nói rõ về Cung Công, tức Cung Công chỉ là một dân tộc không làm chủ được bao nhiêu đất. Cái ông Cung Công nầy thật là một người Việt của Kim Dung. Thuở xưa theo các ông Tàu thì đất Tàu vuông, trời Tàu tròn và nóc được bốn cây cột chống đỡ. Nhưng ở Tây Bắc, Cung Công nắm cây cột mà lay nên cột gãy, làm cho trời sập ở Tây Bắc cho đến ngày nay, tức đến đời vua Võ, kẻ hạ sát Cung Công. Vì trời sập ở đó nên trời ở đó thấp còn đất thì cao lên (?) trong khi đó đất hướng đông dĩ nhiên thấp xuống. “Bằng chứng” (?) là bao nhiêu sông của Tàu đều chảy ra hướng đông, còn trăng sao và mặt trời thì trôi ngược lại từ Đông sang Tây. Ấy, đó là một nhơn vật tương đối hơi mới vì Cung Công chỉ mới bị vua Võ hạ, tức vào đầu đời Hạ mà thôi. Nhưng không là sử nữa mà là huyền thoại bày ra để giải thích hiện tượng trăng sao mọc hướng Đông rồi đi sang hướng Tây, và về sông Tàu chảy ra hướng Đông, nhưng kẻ sáng tác ấy, quá kém cỏi vì không ai hiểu sao mà đất Tây Bắc lại trồi lên cao chỉ vì trời sập ở Tây Bắc. Và kẻ ấy lại đặt câu chuyện quá gàn là đầu đời Hạ, một cách vụng về, khi ta biết quá rõ về nhà Hạ. Thế thì ta chỉ còn biết dựa vào khảo tiền sử. Khoa ấy đã đào bới và chỉ thấy sọ người Hoa Bắc và sọ của Khuyển Nhung và của Miêu tộc mà thôi (không kể những cái sọ lâu đời là sọ người Bắc Kinh cổ hàng trăm ngàn năm và chẳng dính líu gì tới người Tàu cả). Thế thì Bổ Toại, Hoan Mâu, Cung Công và Viêm, nếu có; thì chỉ có thể là Tàu, chớ Miêu đâu có quá giỏi như các tay hiệp sĩ Tàu mà lay nổi cột trời cho trời sập. Chỉ có người Tàu mới làm nổi kỳ công ấy mà thôi. Nhưng về Xy Vưu thì có chắc một trăm phần trăm, vì dân Cửu Lê tồn tại. Chỉ đáng kinh ngạc lắm là không hề có sọ Cửu Lê. Ta phải hiểu thế nào đây? Vâng, Tàu đã nói đến Khuyển Nhung, đến Miêu, lại còn nói đến Cửu Lê. Mà Cửu Lê thì được nói đến nhiều nhứt, tức Cửu Lê là một dân tộc quan trọng và liên hệ giữa họ và Tàu rất là đáng kể, chớ không phải như các thứ dân khác. Nhưng người ta đã tìm lại được Cửu Lê ở nơi khác, nhưng tuyệt nhiên không có sọ Cửu Lê ở Hoa Bắc, nhưng câu chuyện thì mới xảy ra có năm ngàn năm, tức tương đối rất mới đối với lịch sử nhân loại. Thật là kỳ lạ. Và kỳ lạ nhứt là theo thuyết Kim Định có sự cướp văn minh. Cướp văn minh, không thể thoáng thấy mà cướp được, mà phải học hàng trăm năm, tức phải có sự hợp tác. Nhưng sọ và dụng cụ của Cửu Lê lại chỉ tìm thấy ở ngoài nước Tàu mà không hề có ở trong lãnh vực Hoa Bắc. Giáo sư Kim Định, trong Việt lý tố nguyên đã lập ra một triết thuyết, triết thuyết ấy dựa trên sử mà đó là sử riêng của giáo sư chớ không phải của Tây hay của Tàu. Theo giáo sư Kim Định thì: Cửu Lê = Các bộ lạc Nhưng bộ lạc của dân tộc nào, chủng tộc nào thì giáo sư không có nói, và cứ đọc một câu văn như vậy, ai cũng hiểu rằng đó là các bộ lạc Trung Hoa. Nhưng ở trang 114 thì ông viết Cửu Lê với chữ Lê không có hoa, và chua là 9 thứ dân trong đó có Tam Miêu (nhưng còn 6 thứ dân nữa là dân nào ông không cho biết). Đành rằng chữ Lê là dân chúng, cũng viết y hệt như Lê là dân tộc Lê, nhưng Tàu làm gì mà chỉ có 9 bộ lạc vào thời ấy. Họ phải có một ngàn bộ lạc, hoặc một bộ lạc độc nhứt, mà ở chương Họ chúng tôi sẽ trưng bằng chứng rằng Hoa tộc, từ cổ chí kim chỉ là một bộ lạc độc nhứt. Như vậy Lê trong Cửu Lê phải hiểu khác, chớ không thể hiểu là Các bộ lạc, Chín bộ lạc. Đó là một dân tộc, không thuộc Hoa chủng, nhưng gồm 9 nhóm khác nhau chút ít, và đang làm bá chủ Hoa Bắc khi người Tàu từ Tây Bắc xâm nhập qua hành lang Cam Túc. Ông bảo rằng Cửu trù là của Cửu dân, tức Cửu Lê. Đó là theo ý ông chớ thật ra thì, theo các cổ thư Trung Hoa, Cửu trù giản dị hơn nhiều, đó là 9 phép trị nước mà ông Cơ Tử truyền lại cho vua Vũ. (Cái ông Cơ Tử nầy là Cơ Tử khác chớ không phải là Cơ Tử tôi của vua Trụ đời Ân đâu). Nếu quả Cửu trù do 9 thứ dân khác chủng với Trung Hoa thì dân đó chưa thống nhứt cho nên họ mới có đến CỬU trù, chớ đã thống nhứt rồi thì họ chỉ còn có NHỨT trù mà thôi. Nhưng vua Vũ góp nhặt 9 trù của cả 9 thứ dân thì quả thật là lỉnh kỉnh. Hơn thế Tam Miêu, mặc dầu là 3, nhưng họ chỉ có 1 trù độc nhứt, đến nay cũng thế, cái trù đó là chế độ bộ lạc, vì cho đến ngày nay mà họ vẫn chưa tiến lên tới chế độ phong kiến giai cấp mà còn ở dưới chế độ nguyên thỉ của loài người. Rất nhiều người cho rằng Lê là Thái. Nhưng chúng tôi không tin rằng Lê là Thái. Người Lê hiện tồn tại ở Hoa Nam, nhưng chỉ đông đảo ở Hải Nam mà thôi. Chính ông H. Maspéro bảo họ là Thái, nhưng ông V. Goloubew lại cho rằng họ có văn hóa giống hệt người Đông Sơn, và Lệ Đạo Nguyên trong Thủy Kinh Chú lại tả họ giống người Nhựt Nam. Người Tàu chia thổ dân ở Hải Nam ra hai thứ: Sanh Lê, tức Lê sống, tức Lê còn dã man, ở trong rừng, và Thục Lê, tức Lê chính, tức Lê theo văn minh Tàu. Tôi học ngôn ngữ của người Thục Lê là người Lê di cư đến Việt Nam với danh nghĩa là Tàu Hải Nam thì thấy rằng họ nói tiếng Tàu sai giọng, như bất kỳ nhóm Tàu nào, trừ nhóm Trung Nguyên, ở gần ba kinh đô ngày xưa của Tàu, và cũng như các nhóm Tàu khác, họ còn giữ được lối một trăm tiếng cổ của dân tộc xưa của họ, mà danh từ cổ của Hải Nam đó là danh từ Mã Lai Nam Dương, và chúng tôi sẽ chứng minh rằng đó là Lạc bộ Mã và đồng tông với người Chàm. Thế thì Lê không phải là Thái mà là Mã Lai Nam Dương bị Hoa hóa. Theo chỗ chúng tôi biết chắc, bằng vào ngôn ngữ thì là như thế đó. Hán thư lại cũng gọi thổ dân Hải Nam là Lạc Việt, thì cả ba nguồn V. Goloubew, Hán thư và quan sát của chúng tôi đều ăn khớp với nhau, là Lê là Lạc. Người Chàm theo văn minh Ấn Độ, người Cao Miên, người Nam Dương cũng thế. Vậy mà mỗi lần trong nước của họ có biến lớn thì sử chép rằng họ di cư sang Hải Nam, thay vì đi vào Cao Miên, đi Nam Dương và đi Ấn Độ. Ta cứ ngỡ rằng họ chạy bậy, nhưng không phải thế. Vào thời mà họ di cư sang Hải Nam thì người Lê ở đó còn đồng ngôn với họ, họ biết như vậy và đó là họ chạy đúng đường. Huyền thoại bà chúa xứ Pô Nưga của họ lấy chồng Tàu cũng vì lẽ đó. Tàu trong huyền thoại là bọn Lạc bộ Mã bị Hoa hóa tức cũng là Chàm với nhau, và nếu trong trạm tiền sử Sa Huỳnh có dấu vết cổ vật Tàu đời Hán thì không có gì lạ hết. Dưới đời Hán, dân Hoa Nam vẫn chưa thành Tàu hẳn, mà cứ còn là Mã Lai bằng chứng là cho đến đời nhà Nguyên mà Marco Polo còn cho biết rằng dân Hoa Bắc gọi dân Hoa Nam là Mandzi tức Man di, tức việc Hoa hóa mãi đến đời nhà Nguyên vẫn chưa xong. Chỉ có điều là cả Hán thư lẫn Hậu Hán thư đều tiền hậu bất nhứt, khi thì viết chữ Lạc với bộ Trãi, khi thì viết với bộ Mã, nhứt là Hậu Hán thư trong có một trang sách mà ông Phạm Việp viết hai chữ Lạc khác nhau để chỉ có một thứ dân là dân ta. Rồi ta sẽ thấy rằng quả có hai thứ Lạc, chớ không phải là Tàu viết bậy bạ, còn Hán thư và Hậu Hán thư tiền hậu bất nhứt, cũng có lý do chính đáng lắm, vì ở Hải Nam và Việt Nam đều có hai thứ Lạc. Thế thì Cửu Lê là chín thứ dân Lê, mà trong đó chắc chắn là có Lạc chớ không phải là các bộ lạc nào hết, và câu văn của giáo sư Kim Định lại làm cho ta hiểu rằng đó là các bộ lạc người Tàu cổ thời. Chữ Lê nầy viết như họ Lê tức có Hòa, một thứ lúa, có Nhơn, có Thủy. Có thể chiết tự mà hiểu rằng dân đó đã biết trồng trọt (Lúa Hòa) hay chăng? Cứ làm, và cứ hiểu như thế thử xem. Nhưng nó nghịch lại với khoa khảo tiền sử. Khoa khảo tiền sử không tìm thấy bên cạnh sọ cổ 5 ngàn năm của bọn Cửu Lê dụng cụ nào để xay, giã hay nghiền, tán, nấu, bất kỳ loại mễ cốc nào hết. Thật ra thì không ai biết rõ Hòa ra làm sao, nhưng dầu sao đó cũng là một thứ mễ cốc mà mễ cốc thì không thể ăn được nếu thiếu dụng cụ. Vũ khí của họ bằng đá thì dụng cụ cũng phải bằng đá chớ không thể bằng gỗ, mà dụng cụ bằng đá thì phải còn. Nên biết rằng dụng cụ gỗ khó chế tạo hơn dụng cụ đá, mặc dầu gỗ mềm hơn đá. Đồ đá có thể đẽo bằng đá khác, còn đồ gỗ thì đòi hỏi dụng cụ kim khí. Vậy nếu họ có dụng cụ để xay, giã, nghiền, tán lúa Hòa thì dụng cụ ấy phải bằng đá và phải còn cạnh sọ của họ và cạnh vũ khí của họ. Nhưng không bao giờ thấy, mặc dầu các cuộc khai quật đã đầy đủ. Nhưng người Tàu viết chữ, không phải luôn luôn chiết tự mà hiểu đúng được ngữ nguyên vì ba loại viết theo phương pháp Hài Thanh, Chuyển Chú và Giả Tá rất là gạt gẫm. Sử thuyết của giáo sư Kim Định dùng làm nền tảng cho triết thuyết của quyển sách nói trên là như thế nầy: Người Tàu xâm nhập Trung Hoa (giáo sư không cho biết họ là ai, xâm nhập vào thời nào) là dân du mục. Dân ấy gặp Viêm tộc tức Việt tộc, đã biết canh nông, nhưng theo mẫu hệ chớ không theo phụ hệ như Tàu, rồi tù trưởng Hiên Viên của Tàu thắng Viêm tộc, cướp văn minh Viêm làm văn minh của họ, tự xưng là Hoàng đế. Cửu Lê, ban đầu được trình bày như là các bộ lạc Tàu thượng cổ nhưng đột ngột biến thành 9 thứ dân khác chủng với Tàu, nhưng không biết là chủng nào, rồi thì lại được đồng hóa với Viêm Việt. Giáo sư Kim Định chối bỏ sử Tàu và khoa khảo tiền sử, cho là sử Tàu bóp méo sự thật còn khoa khảo tiền sử thì mơ hồ. Nhưng cái vụ Hiên Viện, Cửu Lê nầy lại lật tẩy giáo sư, cho thấy là giáo sư dựa trên sử Tàu rõ rệt, chỉ có khác là giáo sư hiểu theo ý muốn của giáo sư. Nếu không có sử Tàu thì trên đời nầy không hề có ai hay biết có một viên tù trưởng Tàu của thị tộc Hữu Hùng, tên là Hiên Viên, định cư ở Bắc Hà Nam, đã thắng 9 nhóm dân Lê dưới quyền chỉ huy của tướng Xy Vưu hết. Theo sử Tàu thì Hiên Viên và Xy Vưu ngang hàng với nhau đều là Hậu, tức thị tộc trưởng (chefs de clans). Thuở ấy đã có một ông vua là vua Thần Nông, hiệu Viêm đế, và giáo sư Kim Định dựa theo Mộng Văn Thông cho rằng đó là vua của Viêm tức Việt. Nhưng theo tự điển Từ Hải trích dẫn cổ thư thì Xy Vưu không là Hậu bao giờ hết mà là Vua. Xy Vưu cổ thiên tử, Xy Vưu bá thiên hạ. Một dân tộc Việt có thể có hai vua chăng? Rất có thể, khi dân tộc ấy chưa thống nhứt và cả hai, Thần Nông và Xy Vưu đều là vua của một dân tộc Việt. Nhưng thật ra họ đã thống nhứt rồi, trong khối Cửu Lê. Xy Vưu là vua của 9 nhóm Lê, điều đó thì rất khó cãi, vì Lê tồn tại cho tới ngày nay. Chỉ còn phải biết Thần Nông là vua của Tàu hay của Việt. Việt đây phải hiểu là một chi Việt vì Việt gồm tới bốn năm chi và hàng trăm tiểu chi (Bách Việt). Ở đây ta tạm dẹp khoa khảo tiền sử lại, để xét truyền thuyết xem ra sao. Người Tàu có truyền thuyết về vua Thần Nông là một trong nhiều vua cổ của họ, còn Việt Nam thì không. Lộc Tục chỉ là cháu của Thần Nông, nhưng lai căn hai ba đời rồi. Mà câu chuyện cũng xảy ra ở Hoa Nam chớ không phải ở Hoa Bắc. Hoa Nam là đất mà Hoa tộc có sau Hoa Bắc đến hơn hai ngàn năm. Vậy trong truyền thuyết cũng chỉ có Tàu Hoa Bắc là giành vua Thần Nông làm tổ trực tiếp còn ta thì chỉ giành làm cháu lai căn của ông ấy ở Hoa Nam mà thôi. Đứng về mặt nào, khoa học hay truyền thuyết, Thần Nông cũng cứ là tổ trực tiếp của Tàu, và tại Hoa Bắc, còn ta, tại Hoa Bắc, nếu có thì ta không là hậu duệ của Thần Nông, bởi trí nhớ của ta cũng không kém của Tàu, mà ta không rành ông đó, tức là ông không có dính líu gì tới ta hết. Truyền thuyết chắc có đúng sự thật phần nào và giáo sư Kim Định đã cho truyền thuyết một địa vị lớn lao quá sức trong sách của ông, nhưng riêng về điểm nầy thì ông lại bất kể truyền thuyết, cứ theo Mộng Văn Thông và cho rằng Thần Nông là vua Việt. Mộng Văn Thông có dụng ý chánh trị khi nối kết Việt vào Thần Nông. Đã bảo khi thuyết: Việt = Hoa của giáo sư đại học Nguyễn Phương thất bại, bị phản ứng quá mạnh rồi thì phải có cái gì khác thay vào mà cứ giữ được quan niệm hai dân tộc là một. Cái gì khác đó là thuyết của Mộng Văn Thông: Hoa = Việt. Sự nhượng bộ nầy chỉ làm cho ta hãnh diện mà thôi, nhưng ta sẽ chết với sự hãnh diện đó. Ta làm tổ của Tàu, Tàu không sao cả, vì đó chỉ là tổ giai đoạn, giai đoạn thôn tính bằng sử xuyên tạc. Thôn tính xong, quyển sách của Mộng Văn Thông sẽ bị phủ nhận là sai. Thế là ta sẽ rơi trở vào địa vị tay con. Thật ra thì ta nghiên cứu sử, tức tìm sự thật thì làm con cũng chẳng sao, mà làm tổ cũng chẳng sao, miễn sự thật là thế. Nhưng cả hai môn, truyền thuyết và khoa khảo tiền sử đều cho thấy Thần Nông và Cửu Lê khác chủng với nhau, khác văn minh với nhau. Theo truyền thuyết của hai dân tộc thì như thế đó, mà giáo sư Kim Định lại tin truyền thuyết hơn khoa học. Dầu sao tin theo đàng nào cũng cứ có những sự kiện sau đây: Mộng Văn Thông không đưa ra được chứng tích, còn khoa khảo tiền sử thì có chứng tích. Chứng tích đó lại ăn khớp với những gì xảy ra từ thời Hiên Viên đến nay (1970). Thuyết Mộng Văn Thông chưa chi đã thấy sai là: Viêm = Miêu + Việt. Chúng tôi có một chương riêng cho Miêu tộc. Ở đây chỉ được tóm lược lại mà thôi. Sọ Miêu và sọ Việt khác nhau rất xa, ngôn ngữ cũng thế, mà cũng không hề tìm thấy một cái sọ lai căn Miêu Việt bao giờ hết ở Hoa Bắc, như đã thấy sọ lai căn Mã Lai + Mông Cổ ở Triều Tiên. Sọ lai căn mang hai đặc thái của hai chủng lai giống với nhau, các nhà nhân thể học xem là biết ngay. Theo khoa dân tộc học thì ngày nay Miêu tộc còn chăn nuôi giỏi hơn là làm ruộng và chưa tiến đến chế độ phong kiến giai cấp, tức là còn ở chế độ bộ lạc. Thế thì vào thời Hiên Viên, họ chưa biết nông nghiệp được đâu. Chữ Điền trong chữ Miêu không hề có nghĩa là họ biết làm ruộng, vả lại văn tự thì chỉ mới có về sau, lối đầu đời Thương, chớ vào thời Hiên Viên thì không có bằng chứng là có văn tự. Còn chữ Hữu ở trước chữ Miêu, không có nghĩa là có ruộng như giáo sư nói. Theo tự điển Từ Hải thì chữ Hữu dùng trước các họ, các dân tộc, chỉ là trợ từ: Hữu Miêu, Hữu Sào, Hữu Hùng, Hữu Ngu. Vậy có thể loại Miêu ra khỏi Viêm tộc, chỉ còn Lạc và Lê mà thôi. Hình như là Mộng Văn Thông vẫn có biết kết quả của khảo tiền sử ở Á Đông, nhưng một là không thông ngoại ngữ, ông ấy đọc sách không vỡ nghĩa, hay là ông có mưu đồ chánh trị thì không rõ. Quả thật thế, ông bảo rằng trước khi Hoa tộc đến thì Viêm = Miêu + Việt làm chủ toàn thể Hoa Nam ngày nay, rồi thì từ Hoa Nam họ tràn lên Hoa Bắc. Khảo tiền sử cũng nói hơi tương tự như thế, nhưng lại khác xa, nếu ta hiểu được chữ nghĩa của họ. 1) Miêu không bao giờ dính với Việt bất cứ về phương diện nào: Chủng tộc, ngôn ngữ, truyền thuyết, vật tổ. 2) Việt Hoa Bắc không phải là Việt Hoa Nam tràn lên, bằng chứng là ngôn ngữ căn bản của họ có khác nhau, Việt Hoa Nam nói cái cẳng, Việt Hoa Bắc nói cái chơn, hai thứ Việt đó, Việt Hoa Nam không hề biết danh từ chơn, Việt Hoa Bắc không hề biết danh từ cẳng, chỉ có Việt Nam là biết đủ thứ vì là Việt hỗn hợp. Cả Nhựt, Chàm, Phú Nam cũng đều là Việt hỗn hợp nhưng họ chỉ biết cẳng mà không hề biết chơn. Nói các ông ấy có âm mưu chánh trị hình như oan cho ông ấy chăng vì một câu khác của các ông chứng tỏ các ông đọc sách không vỡ nghĩa. Ông Vương Đồng Lĩnh mà giáo sư Kim Định có trích dẫn cho rằng dân ở Thiên San chia thành hai nhóm, một nhóm sang Tây làm thủy tổ da trắng, một nhóm sang Đông làm thủy tổ da vàng. Nhưng khoa chủng tộc học thì dạy rằng chủng nầy không thể biến thành chủng khác được, trắng là trắng, vàng là vàng không kể chủng trung gian trắng vàng là Hoa chủng… Nhưng Hoa chủng là một chủng lai y hệt như Ấn Độ. Còn các chủng ở Âu Châu (mà thật ra thì có một chủng tộc độc nhứt, đó là chủng Ấn Âu) thì không phải là chủng lai. Dĩ nhiên là da trắng còn hai chủng nữa là chủng Hamite và Sémite, nhưng hai chủng nầy thì chẳng liên hệ đến Tàu. Có lẽ họ Vương ngỡ khí hậu biến dân da vàng thành ra Pháp, Đức, Nga được như chơi. Nói đến chủng lai thì có chủng độc nhứt đó là Hoa chủng. Người Aryen cũng lai, nhưng họ chỉ là một nhóm chớ không phải một chủng. Họ trắng nhưng lai với Mã Lai Dravidien, mà Dravidien là Mã Lai, tức vàng, nhưng trước khi lai với Aryen đã bị lai với Mê-la-nê, nên đã đen da, thành thử cái sọ, của người Ấn Độ mang đến ba yếu tố: Ấn Âu: trắng Dravidien: vàng Mê-la-nê: đen Người Cao Miên cũng thế nhưng ít lai với da trắng mà lại lai nhiều với da đen, thành thử họ xấu người hơn ta nhưng lại nói tiếng Tây giống Tây hơn ta. Làm thế nào để biết Thần Nông là vua của Tàu hay vua của ta? Chúng tôi không dám trèo đèo viết sách cho giáo sư đại học xem, vả lại giáo sư Kim Định không tin khoa học mà chúng tôi thì dựa vào khoa học thì đừng mong gì. Vậy chúng tôi xin trao sách nầy cho những ai tin khoa học. Muốn biết người xưa, khoa khảo tiền sử đào bới để tìm sọ, vũ khí và vật dụng của họ. Đào xong, khoa đó cũng chưa biết cái gì hết. Cả đến nhà bác học Einstein cũng sẽ mù tịt khi ta đưa ra trước mặt ông ấy hai ba cái sọ, ông ấy cũng chỉ thấy đó là hai ba cái đầu lâu, không hơn không kém. Nhưng có một khoa học kia thì biết rõ. Đó là khoa chủng tộc học (Anthropologie physique) mà trước đây ta gọi là nhân chủng học. Vậy các nhà đào bới đã nhờ khoa đó tại Hoa Bắc và khoa đó đã tiết lộ những điều kỳ dị hết sức là các thứ sọ Hoa Bắc chỉ thuộc ba chủng còn để hậu duệ lại cho đến ngày nay: 1. Sọ Trung Hoa 2. Sọ Miêu 3. Sọ Khuyển Nhung ở Tây Thiểm Tây, mà sọ Khuyển Nhung chỉ là sọ Miến Điện, mà sọ Miến Điện chỉ là sọ Mã Lai. (Chúng tôi không thể kể những sọ không còn hậu duệ, chẳng hạn như sọ của thứ người gọi là người Bắc Kinh sống cách đây mấy trăm ngàn năm, y không phải là tổ tiên của người Tàu là kẻ mới đến sau). Kỳ dị là không hề có sọ Cửu Lê, sọ Lạc, sọ Việt hay sọ nào khác để đặt tên là Viêm chẳng hạn. Nhưng sử Tàu đã nói đến Cửu Lê đến Lạc và đến Lạc Lê, lại nói rõ địa bàn của họ nữa, về Lạc-Lê thì họ đích xác hơn về Miêu rất nhiều thì ta mới hiểu sao đây? Không thể cho rằng sử Tàu dựng đứng lên Lê và Lạc, để làm gì chớ? Thế thì hẳn Lê và Lạc phải có. Như vậy ta tạm hiểu rằng Lê và Lạc làm chủ Hoa Bắc không lâu là bị Tàu đánh đuổi, nên không có để dấu vết lại. Giả thuyết nầy, sẽ thấy là đúng, qua những sự kiện về sau. Mà như thế thì vấn đề Thần Nông đã được giải quyết. Thần Nông biết nông nghiệp còn Miêu thì không, như khoa dân tộc học đã chứng minh và như tự điển Từ Hải đã giải thích rằng Hữu Miêu không phải là có ruộng, mà Hữu chỉ là trợ từ. Thần Nông cũng không phải là Khuyển Nhung vì Thần Nông ở tại rún địa bàn Hoa Bắc cổ thời còn Khuyển Nhung thì chỉ ở Tây Thiểm Tây. Như thế thì Thần Nông chỉ có thể là Tàu cho dẫu y là vua hay là một đợt văn minh nông nghiệp bị Chu Nho ngây thơ theo lối Evhémère biến thành nhơn vật. Còn Lê và Lạc thì cũng ở ngoài bìa nước Tàu thượng cổ ấy (Nam Hà Nam và Sơn Đông) chớ không có ở tại rún của quốc gia đó bao giờ. Dầu sao thì vào thời thượng cổ Cửu Lê và Lạc đã làm chủ Hoa Bắc thật sự vì biến cố Hiên Viên, Xy Vưu là một biến cố lớn của thời ấy, không như vụ cầm tù lãnh tụ Miêu tộc là một sự kiện lặt vặt. Nhưng lại không hề có sọ Cửu Lê và sọ Lạc ở Hoa Bắc thế nghĩa là làm sao? Những cái sọ Lạc không tìm thấy ấy, rồi họ sẽ tìm thấy nơi khác, cạnh nước Tàu, nhưng ta vẫn phải nhìn nhận rằng ở Hoa Bắc có Cửu Lê và có Lạc, chỉ có điều là họ làm chủ chưa lâu là bị Hiên Viên đánh đuổi ngay. Ở đây, sự suy luận phải thật gắt gao và siêu chính xác, vì sai một li là đi đời cả thượng cổ sử Hoa và Việt. Theo sử Tàu thì Thần Nông làm vua được 8 đời mới bị Hiên Viên diệt. Tám đời vua thì phải lâu, và phải có để dấu vết lại. Trong khi đó thì Cửu Lê không hề có để lại một tí dấu vết tại đất Hoa Bắc. Như thế thì làm thế nào mà Thần Nông, là vua của dân Lê và Lạc được? Bằng như nói Thần Nông thuộc Miêu, thì chúng tôi đã bác rồi là Hữu Miêu không có nghĩa là có ruộng và ngày nay họ còn giỏi chăn nuôi hơn là trồng trọt thì không làm sao mà cách đây 5.000 năm họ đã giỏi nông nghiệp hơn Tàu. Viêm chăng? Không có cái sọ nào khác hơn là sọ Tàu và sọ Miêu để cho Mộng Văn Thông đặt tên là Viêm hết. Khuyển Nhung chăng? Khuyển Nhung định cư ở Tây Thiểm Tây, không liên lạc được với Thần Nông vì Đông Thiểm Tây là của Tàu. Như vậy Khuyển Nhung cũng không thuộc Thần Nông. Khuyển Nhung lại có sọ Mã Lai. Việt chăng? Không có cái sọ Việt nào ở Hoa Bắc hết. Vậy Viêm tộc không bao giờ có trên đời nầy. Viêm bang chỉ là danh xưng mà Tàu đã bày ra về sau, để chỉ nước ta vì nước ta viêm nhiệt, còn Viêm phương là danh từ mà Tàu đã bày ra trong đời Chu để chỉ mơ hồ phương Nam của Tàu. Chỉ có thế thôi. Có lẽ quả thật Thần Nông là nhóm Tàu đã bày ra nông nghiệp còn Hiên Viên thì không, nhưng họ cũng chỉ là Tàu với nhau. Bằng chứng trong một nước có so le văn hóa, thấy rõ trong Hậu Hán thư tả Giao Chỉ đã giỏi làm ruộng còn Cửu Chơn thì chưa biết nông nghiệp. Thần Nông và Hiên Viên có khác nhau về sinh kế là cũng ở trong trường hợp đó. Còn ông ấy lấy hiệu là Viêm Đế là vì lý do nào không rõ, chớ không vì ông ấy là vua của chủng Viêm mà chúng tôi quả quyết là không có, hoặc nếu có thì cũng chỉ là một nhóm Tàu họ lấy tên là Viêm có thể vì nhóm đó biết lửa trước nhóm Hiên Viên. Mà như vậy là dân tộc chớ không phải là chủng tộc nữa. Nhưng thật ra thì vua Thần Nông không bao giờ có, thế thì Viêm Đế cũng không bao giờ có. Giáo sư Kim Định cũng đồng ý với các nhà bác học Tây phương (mà ngày nay các nhà bác học Trung Hoa cũng đồng ý như vậy) là họ chỉ là một nhóm người Tàu văn minh trước các nhóm người Tàu khác, mà các Chu Nho ngây thơ theo tinh thần Evhémère đã biến thành một nhơn vật. Không tin Thần Nông là một nhơn vật, nhưng giáo sư lại tin rằng kẻ không phải là một nhơn vật đó lại có vương hiệu là Viêm Đế, tức vua của dân Viêm. Ông ấy có hay là không? Nếu không thì không sao mà có vương hiệu cả và cái vương hiệu là Viêm không có thì thế nào có dân Viêm mà ông bảo rằng Viêm Đế là vua của dân Viêm ? Không ai biết Cửu Lê là 9 thứ dân nào, và mỗi thứ tên là gì, nhưng có điều chắc chắn là cạnh dân Lê, sử Tàu đặt hai thứ dân khác là Lạc-Lê và Lạc. Chúng ta thử tìm, nhưng không được. Hiện nay các thứ cổ dân làm chủ đất Trung Hoa đều còn đủ mặt ở bên Tàu. Người Tàu không biết chủng tộc học, nên sách giáo khoa của họ ngày nay cũng cứ tiếp tục đếm tên từng nhóm, như Ngũ Miêu, và sáu bảy thứ Thái khác nhau mà họ gọi là Bạch Di, Cần Di, Nông (Nùng) Thái, Lô Lô, Thổ, Đồng, Khát Lão, v.v. không phân biệt chủng tộc nào hết.
-
Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam Bình-nguyên Lộc Chương II Những sai lầm căn bản của quý ông H. Maspéro, L. Aurousseau, Nguyễn Phương, Kim Định và Trần Kinh Hoà A. Sự thật về các chủng Mông Gô Lích I. Bắc và Trung Mông Gô Lích Theo sử gia Nguyễn Phương thì dân ta là người Tàu thuần chủng. Thật ra, sử gia không hề có thốt ra hai tiếng “thuần chủng”; nhưng trong sách, sử gia luôn luôn viết: “Người ta (người Tàu) sẽ loại người man-di (Lạc Việt) ra khỏi hàng ngũ công dân” (trang 244), hay là: “Sự giống nhau giữa ta và Tàu là một sự dời chuyển cả người lẫn phong tục, tập quán, tôn giáo” (trang 230). Cũng ở trang 230, sử gia viết: “Người Trung Hoa đã, đợt nầy rồi đợt khác, sang thực dân tại đây, và cuối cùng khi mọi sự đã tỏ ra thuận lợi, đã đứng dậy, lập một nước riêng, nước Việt Nam”. Thế nên ngoài quyển sách nói trên, ở các tạp chí, sử gia đã cố chứng minh rằng Lý Công Uẩn, Đinh Bộ Lĩnh là người Tàu, nhưng ông chưa thành công. Sử gia lại viết: “Dân Việt Nam là người Trung Quốc di cư sang trong thời Bắc thuộc”. Câu nầy được in bằng chữ đậm, chữ tít (trang 231). Hơn thế, ở trang 335, sử gia còn quả quyết rằng, mặc dầu người Tàu ở đất Việt có lai Chàm và “các thứ dân khác” về sau, nhưng những dân đó không có làm cho Tàu cải biến (Chính sử gia đã gạch dưới dòng để nhấn mạnh rằng cả đến ngày nay, ta vẫn cứ là Tàu, không cải biến. Sử gia lại viết rằng sau Mã Viện thì ở đất cổ Việt, có sự dời đổi con người, tức dân Lạc Việt đi mất hết hoặc bị tiêu diệt hết, và dân Tàu đến thay thế. Hai tiếng dời đổi không thể có nghĩa nào khác hơn. Những câu sử như thế có nghĩa không thể chối cãi rằng dân Việt Nam là dân Tàu thuần chủng, hai tiếng không hề được thốt ra, nhưng ai cũng lắng nghe được, bởi vì cuộc hợp chủng với thổ dân quá nhỏ, không làm cải biến người Tàu kia mà. Bao nhiêu chứng tích mà sử gia đưa ra, đều là chứng tích di cư không hề có chứng tích hợp chủng, và những tiếng hợp chủng, lai giống, chỉ được thốt ra có một lần, nhưng được gỡ gạc lại ngay bằng ba tiếng “không cải biến”. Nhưng đó là những câu khẳng định suông. Sử gia nói như thế thì quá dễ, ta bác cũng quá dễ bằng một tiếng “Không” suông, như tiếng “Có” suông của sử gia. Chúng ta chỉ có thể làm việc trên cái gì cụ thể, tức cần tìm cho được một chứng tích của sử gia để mà nhìn nhận, hay bác bỏ. Và chúng tôi đã may mắn tìm được câu sau đây, một câu sử có vẻ khoa học, có tham vọng chứng minh. Sử gia viết ở trang 229: “Về phương diện nhân chủng, tức phương diện căn bản, không sao nói được là hai dân tộc không giống nhau… đại đa số người Việt Nam đều thuộc giống Mông Cổ, da thì vàng, tóc thì thẳng, có hình sọ giống hình sọ người Trung Hoa”. Quả đúng như giáo sư Nguyễn Phương nói, khoa chủng tộc học (mà giáo sư gọi theo trước 1945 là nhân chủng học) là nền tảng căn bản. Giáo sư lại nói đến cái sọ là cái gì căn bản nhứt trong khoa đó. Nhưng đó lại cũng chỉ là một lời khẳng định vô bằng. Chắc chắn là sử gia chưa nghiên cứu về chủng Mông Cổ và chưa hề đối chiếu sọ người Tàu và sọ người Việt nên mới dám viết ra một câu sử táo bạo và liều lĩnh như vậy. Hai thứ sọ đó khác nhau đến 9 đơn vị, còn những nhơn thể tính khác, cũng khác nhau. Trước khi trình ra vài mươi biểu chỉ số sọ của nhiều thứ dân ở Á Đông, để đối chiếu, chúng tôi xin nói rõ rằng ta cần nhớ vài chi tiết nho nhỏ, không tôi sẽ có ngộ nhận. Chẳng hạn khoa chủng tộc học dạy ta biết rằng sọ của một chủng tộc, vẫn thay đổi với thời gian. Nhưng phải hiểu là hai tiếng thời gian đó có nghĩa là 50 ngàn năm, chớ đối với 5, 7 ngàn năm thì hoàn toàn không thay đổi, hay có, mà sự thay đổi ấy không thấy được. Dung lượng của sọ người mà khoa học gọi là người Bắc Kinh, dung lượng ấy là 1000 phân khối, còn dung lượng của sọ người Tàu đời nay trung bình là 1400 phân khối. Nhưng người Bắc Kinh đã sống cách đây mấy trăm ngàn năm, và không phải là tổ tiên của người Tàu. Thế nên chúng tôi dùng khoa chủng tộc học một cách an lòng, hơn thế một cách sung sướng, vì khoa ấy có tánh cách dứt khoát. Chúng tôi bắt đầu nghiên cứu các chủng Mông Gô Lích xem nó có giản dị như giáo sư đại học Nguyễn Phương nói hay không, xong rồi mới nghiên cứu riêng chủng của dân Việt Nam ta. Không bao giờ ta có hình sọ giống hình sọ người Trung Hoa như sử gia họ Nguyễn đã nói. * * * Người Trung Hoa chỉ là kẻ đến sau cùng trên nước Tàu, cũng như dân ta là kẻ đến sau cùng trên đất Việt. Đó là điều chắc chắn như khoa khảo tiền sử đã cho biết. Nhưng họ là ai và từ đâu đến thì người ta biết chắc thêm một điều nầy nữa là họ từ Tây Bắc nước Tàu mà đến và họ có máu của người da trắng trong huyết quản của họ. Nhưng tới đây thì có hai thuyết khác nhau. Thuyết thứ nhứt đã được thấy là sai lầm, nhưng cũng xin kể ra đây. Nhà bác học Terrien de Lacouperie trong quyển Western Origin of the Chinese Civilization và quyển Early History of the Chinese Civilization, và nhà bác học C. J. Ball trong quyển Chinese and Sumerian cố chứng minh rằng dân Trung Hoa phát tích tại Ba Tư. Ở đó họ chịu ảnh hưởng của nền văn minh Lưỡng Hà, nên chi nền văn minh Trung Hoa mang nhiều yếu tố Lưỡng Hà. Đó là một sai lầm của hai nhà bác học nói trên mà toàn thể các nhà bác học khác đã bác bỏ vì bằng chứng không vững vàng. Dân tộc Trung Hoa lập nền văn minh của họ trên đất Trung Hoa chớ không phải mang từ đâu mà đến cả. Sự giống nhau đó, chỉ là ảnh hưởng về sau, hoặc tình cờ tương đồng, chỉ có thế thôi. Cũng như người da vàng gồm rất nhiều chủng, người da trắng cũng thế. Dân cổ Ai Cập, dân Á Rập đều thuộc chủng da trắng, nhưng khác dân Âu Châu. Các chủng da trắng chia ra như sau: chủng Hamite là chủng của dân Ai Cập, chủng Sémite là chủng của dân Lưỡng Hà, dân Do Thái, dân Á Rập và chủng Ấn Âu là chủng của Hy Lạp, La Mã, Ba Tư, Ấn Độ và các quốc gia Âu Mỹ hiện nay. Riêng chủng Ấn Âu thì nguồn gốc và thành phần như thế nầy: Vào thượng cổ, người da trắng, phát tích tại Bắc Âu (có thuyết lại cho rằng tại Nam Nga) bắt đầu di cư. Thuyết của Salomon Reinach (Origines des Aryens, 1892) vì chủ trương họ ở Bắc Âu nam thiên, nên cho rằng họ để Schyte dọc đường, tại Nam Nga ngày nay. Thuyết của A Carnoy (Les Indo-Européens, 1921) chủ trương họ phát tích tại Hắc Hải, nên sự thiên di đi các nơi xảy ra một lượt với nhau. Họ gồm 8 nhóm lớn, ngôn ngữ khác nhau nhưng đồng tánh cách, tức cùng gốc mà ra: 1. Nhóm Ba Tư - Ấn Độ (Ấn Độ xưa vốn da trắng như Ba Tư) 2. Nhóm Hy Lạp 3. Nhóm Italo Celtique, tổ tiên của La Mã và Gô Loa, rồi sau nầy là Ý, Pháp, Tây Ban Nha v.v. 4. Nhóm Nhật Nhĩ Mạn tổ tiên người Đức và Anh 5. Nhóm Xilao, tổ tiên người Nga 6. Nhóm nhỏ xíu Albanie 7. Nhóm Arménie cũng nhỏ xíu 8. Nhóm Tokarien tổ tiên người Tàu Nhóm Tokarien vì đi sang Á Đông một mình nên bị quên mất, và người ta chỉ mới tìm được nền văn minh của họ và nền văn chương của họ cách đây không lâu. Ngôn ngữ, chữ nghĩa của họ cũng được khám phá ra, đọc được và mới thấy rằng nó đồng tộc với 7 nhóm khác. Và nhóm Tokarien tức Scythe Oriental cũng được người Trung Hoa biết đến vì họ chỉ mới bị tiêu diệt vào đời nhà Hán đây thôi. Các cổ thư Trung Hoa xác nhận rằng thứ người ấy da trắng, mắt xanh và tóc đỏ, chỉ có điều là Trung Hoa xưa không biết đó là tổ tiên của họ mà thôi. Bọn nầy mãi về sau có vào định cư ở nước Tàu và được nhà Nguyên gọi là dân Sắc Mục tương đương với thành ngữ Hommes de couleur của Pháp, nhưng Tàu nói đến màu mắt, còn Pháp thì nói đến màu da. Dưới đây là thuyết mới nhứt được dựng trên kết quả của khoa khảo tiền sử. Vào đời thượng cổ, từ miền Nam nước Nga cho tới biên giới tỉnh Cam Túc của Trung Hoa ngày nay, nói cho đích xác hơn, cho tới thành Đôn Hoàng, là một vùng đất đã có người sinh sống. Vùng đất ấy người Hy Lạp gọi là Sérinde, và mãi lâu lắm về sau Tây Lịch, Âu Châu mới đặt tên là Turkestan. Người Tàu vẫn biết đất ấy vào đời thượng cổ, nhưng không có đặt tên, hoặc có mà vì thiếu sách vở, còn việc truyền khẩu thì bị đứt đoạn, nên không ai biết cái tên cổ ấy, mãi cho tới đời Hán mới được nghe họ gọi vùng đó là Tây Vức. Người thượng cổ ở đó thuộc giống da trắng mà người Hy Lạp gọi là Tokhares. Trong xứ Tây Vức, tại một trung tâm nay mang tên là Anau, các nhà khảo tiền sử có phát kiến được dấu vết của một nền văn minh tối cổ mà giai đoạn tân thạch khí của họ cổ đến 10 ngàn năm (giai đoạn tân thạch khí của chủng Việt chỉ cổ có 5000 năm tức là tiến sau họ đến 5 ngàn năm) và như vậy thì họ đã phát tích từ 12 ngàn năm sắp lên, tại đó (hay tại nơi khác rồi di cư đến đó thì mỗi thuyết mỗi nói khác nhau). Dân Tokhares được Tàu gọi là rợ Nhục Chi hoặc Bạch Địch, mặc dầu các nhóm Nhục Chi đã hết là rợ cả ngàn năm rồi và đã lập ra non 40 quốc gia phồn thịnh và hùng mạnh ở đó, vào thời Xuân Thu. Cũng cứ vào thời thượng cổ, rợ Nhục Chi đụng đầu với một thứ rợ khác mà Tàu gọi là Hung Nô hoặc Mông Cổ, Âu Châu gọi là Huns, thuộc chủng da vàng, hai bên đụng đầu với nhau tại biên giới của Tây Vức và của nước Trung Hoa ngày nay. Hai thứ rợ đó đều còn du mục, rất dữ tợn, nhưng lại không có đánh nhau, mà lại sống chung hòa bình với nhau và hợp chủng với nhau tại đó. Cuộc hợp chủng đầu tiên xảy ra có lẽ lối bốn ngàn năm trước Tây lịch, tức cách đây 6 ngàn năm. Thế thì sử Tàu không lâu đời quá lắm như họ thường khoe. Thứ con lai giống của họ có tánh cách Mông Cổ ở cái xương sọ, ở loại tóc thẳng và đen (tóc Nhục Chi dợn sóng và màu đỏ hoặc màu râu bắp), ở nước da vàng, ở mắt xếch và mi mắt lót, màu mắt luôn luôn đen. (Tuy nhiên, cũng có người Trung Hoa mắt không xếch, mí mắt không lót) và ở ngôn ngữ độc âm. Họ lại có tánh cách Nhục Chi ở thân thể cao lớn như Tây, mà hiện nay người Hoa Bắc còn mang, khác hẳn người Hoa Nam về tầm vóc. Xem ra thì yếu tố Mông Cổ lấn hơn, vì vùng đất đó là đất chính của Mông Cổ mà là đất phụ của Nhục Chi. Nhưng cả hai yếu tố ấy đều giống nhau ở điểm nầy là cằn cỗi tâm hồn và quá thực tế, vì khí hậu ở đó đã đào luyện họ ra như vậy. Thế nên con cháu của họ là người Tàu Hoa Bắc mới là những con người chỉ biết lý trí mà thôi. Họ không bao giờ lập ra nổi một tôn giáo vì trí óc của họ không thể đi tới chỗ siêu hình. Họ có Lão, Trang, nhưng Lão, Trang lấy nguồn hứng ở phương Nam tốt tươi ấm áp, đất mới có về sau mà thôi, còn Mông Cổ thì thuở ấy quá lạnh, Tây Vức lại bắt đầu bị sa mạc hóa, tức quá nóng. Mặc dầu là thuyết mới nhứt, trong đó có nhiều điểm được giới khoa học nhìn nhận là đúng, Tuy nhiên, thuyết trên đây vẫn chưa được nhìn nhận trọn vẹn. Nhưng chưa có thuyết nào được nhìn nhận trọn vẹn cả, nên chúng tôi dùng thuyết nầy, trong đó có các điểm sau đây được coi là đúng sự thật: 1. Hoa chủng là kết quả của một cuộc hợp chủng giữa chủng Bắc Mông Gô Lích của người Mông Cổ và với một chủng nào đó cao lớn như Tây, thế nên người Hoa Bắc, nhứt là ở Cam Túc, Sơn Tây và Thiểm Tây, mới cao lớn như vậy. 2. Cuộc hợp chủng ấy xảy ra ở ngoài nước Tàu, tại đâu không rõ, nhưng họ xâm nhập Trung Hoa từ hướng Tây Bắc, qua hành lang Cam Túc. 3. Cái sọ của họ khác sọ Việt Nam 9 đơn vị về chỉ số. 4. Sọ Việt Nam có tánh cách brachycéphale, còn sọ Hoa Bắc và Hoa Nam thì có tánh cách mésocéphale. Dung lượng sọ cũng khác. Đây là chúng tôi chỉ mới nghiên cứu có một chủng Mông Gô Lích mà thôi, mà đã khác xa Việt chủng như vậy đó, nhưng có đến bốn chủng Mông Gô Lích khác nhau. Chúng tôi tạm ngưng việc xét sọ vì bấy nhiêu đó đủ bác sử gia Nguyễn Phương rồi. Chúng tôi xin bước qua vài chi tiết khác để bác giáo sư Kim Định. Người lai căn ấy không có đất dung thân, xứ Tây Vức phải để dành cho Nhục Chi, còn đất Mông Cổ thì để dành cho Hung Nô, cả hai thứ dân đó cần đất quá nhiều vì lối sống bằng nghề chăn nuôi súc vật của họ. Thành thử bọn mang hai dòng máu phải biến thành quân xâm lược đi cướp một vùng đất mà nay là Hoa Bắc, đã có chủ rồi. Một chủng mới đã ra đời, mà 5 ngàn năm sau, các nhà chủng tộc học Âu Châu mới đặt tên, đó là chủng Trung Mông Gô Lích, tức chủng của người Hoa Bắc, nó khác với chủng Bắc Mông Gô Lích là chủng Mông Cổ thuần túy, và khác hẳn chủng Nam Mông Gô Lích của người Hoa Nam, và khác rất xa chủng của ta. Theo khoa chủng tộc học (Anthropologie physique) thì khi hai cái sọ khác nhau từ hai đơn vị sấp lên, thì phải xem đó là hai chủng khác nhau, và nếu hai cái sọ ấy bị ràng buộc với nhau bằng vài tánh cách khác thì phải xem một cái sọ trong đó là một phụ chủng của cái sọ kia, vì thế mà khi nói đến chủng Mông Gô Lích là nói một điều vô nghĩa đối với khoa học vì khoa học phân biệt đến bốn chủng Mông Gô Lích khác nhau: A. Bắc Mông Gô Lích của người Mông Cổ B. Trung Mông Gô Lích của người Hoa Bắc C. Nam Mông Gô Lích của người Hoa Nam Một phụ chủng thứ tư ra sao, và tên gì, chúng ta sẽ biết trong sách nầy. Có một điều nầy lạ lắm là tất cả các sọ lai căn đều được khoa chủng tộc học biết rõ cả hai yếu tố hợp thành cái sọ đó, lai qua lai lại bốn ngàn năm cũng còn biết được, nhưng sọ của người Tàu thì khoa chủng tộc học chỉ biết có một yếu tố độc nhứt là yếu tố Bắc Mông Gô Lích, còn yếu tố thứ nhì thì họ không thể biết chắc lắm. Họ chỉ kết luận rằng Hoa chủng là Mông Cổ hợp với Nhục Chi, chỉ vì họ thấy người Hoa Bắc cao lớn như Tây, và quanh nơi xâm nhập không có một trung tâm văn minh Tân Thạch nào hết, trừ trung tâm Anau. Họ suy luận rằng người Tàu văn minh sớm như thế thì phải có một trung tâm Tân Thạch sớm gần họ, chớ không lẽ họ lại nhảy vọt được từ Cựu Thạch lên đến đồng thau, mà cái trung tâm đó thì tuyệt nhiên không có, trừ trung tâm Anau nằm trong đất Nhục Chi. Thế nên thuyết trên đây, mặc dầu chưa được công nhận trọn vẹn, vẫn chưa bị ai bác về điểm lai giống với Nhục Chi, người ta xem đó là một nghi vấn. Dầu sao cũng có bốn điểm trên kia là bốn điểm chắc và được toàn thể nhìn nhận. Bọn lai căn đó, xâm nhập vào đất lạ, vào lối năm nào? Khoa khảo tiền sử ước lượng là cách đây 5000 năm, tức trước Kitô kỷ nguyên ba ngàn năm, tức sau khi Ai Cập và Lưỡng Hà đã văn minh cao rồi. Họ gặp ai tại cái địa bàn đó? Nói một cách khác ai đang làm chủ cái địa bàn bị Hoa tộc xâm nhập ấy? Trước hết xin nói rõ cái địa bàn đầu tiên của Hoa tộc. Đó là Hoa Bắc, ở trên sông Hoàng Hà. Tàu phải mất hai ngàn năm từ buổi xâm nhập cho đến đầu đời Hạ mà chỉ chiếm được có một diện tích đất bằng hai tỉnh rưỡi của Trung Hoa ngày nay mà thôi. Tỉnh Cam Túc không được kể, vì đó là hành lang xâm nhập, dân ít ở lại mà chỉ dùng làm đường đi qua. Họ chiếm được nơi mà nay là phía Nam của tỉnh Sơn Tây, nơi mà nay là phía Đông của tỉnh Thiểm Tây, nơi mà nay là phía Bắc của tỉnh Hà Nam, nơi mà nay là phía Nam của tỉnh Hà Bắc, và một vùng đất nhỏ xíu ở cái nơi mà nay là tỉnh Sơn Đông. Như vậy dân thổ trước ở đó phải giỏi ít lắm cũng gần bằng Trung Hoa và những ông vua mà sử Tàu ca ngợi là vua Thánh vua Hiền, thật ra phải vô cùng tàn bạo vì cuộc tranh cướp đất đai phải vô cùng khốc liệt. Đó là địa bàn được biết cho tới nhà Hạ. Nhưng cho đến đời Chu, tỉnh Sơn Đông cũng cứ còn nhiều quốc gia của “Rợ” Đông Di mà Tàu phải chinh phục, mà một quốc gia kia rất nổi danh, đó là nước Cô Trước đã biết xây cất thành trì hàng ngàn năm rồi. Về dân thổ trước thì ta thử dựa vào thượng cổ sử Tàu trước cái đã. Người Tàu gặp tại địa bàn mới nhiều dân tộc, nhưng không phải nhiều chủng tộc đâu. Như đã nói, ở đây chỉ dựa vào sử Tàu, chớ chưa kể đến công trình Âu Mỹ khác xa Tàu. Thí dụ Âu Mỹ khai quật quê hương của rợ Khuyển Nhung, một thứ rợ rất dữ tợn đã làm áp lực cho nhà Chu phải thiên đô về hướng Đông, thì họ thấy rằng dân Khuyển Nhung (Tây Thiểm Tây) có cái sọ giống hệt sọ của người Miến Điện mà sọ Miến Điện lại là sọ Mã Lai. Mặt khác họ lại tìm được dấu vết Nam thiên của người Khuyển Nhung, từ Tây Thiểm Tây xuống Miến Điện ngày nay. Điều đó cũng ăn khớp với sử Tàu vì sử Tàu cũng cho rằng dân Lạc (Lạc bộ Chuy) ở vùng sông Lạc (Thiểm Tây Ba Thục), tức họ chỉ Khuyển Nhung bằng một tên khác, là danh xưng Lạc, mà Lạc, như ta sẽ thấy, chỉ là tiếng phiên âm danh tự xưng Lai (Mã Lai) mà thôi. Nhưng vì Tàu ít dùng danh xưng Lạc bộ Chuy để chỉ dân ở đó hơn là danh xưng Khuyển Nhung, nên rồi không ai chắc chú ý đến bọn Lạc bộ Chuy đó cả. Hơn thế ngày nay khi viết tên con sông của dân Lạc bộ Chuy thì họ lại viết với bộ Thủy, thành thử Lạc bộ Chuy mất tích luôn. Người Tàu có gặp Miêu tộc ở địa bàn ấy hay không? Và Miêu có phải là Việt hay không, như giáo sư Kim Định đã dùng làm căn bản lớn cho sách của ông. Xét chỉ số sọ của chủng Miêu, thấy nó không giống chủng nào khác hết, nó khác với Hoa chủng mà cũng khác với Việt, với Mã Lai. Sọ lai căn ba bốn chủng tộc, khoa chủng tộc học cũng biết được, mà chỉ lai một lần hay lai đi lai lại mãi, khoa đó cũng biết được một cách đích xác, lai mấy ngàn năm rồi, cũng cứ còn biết được như thường. Nhưng khoa đó xác nhận là Miêu thuộc một chủng riêng, rất lớn, có mặt ở khắp nước Tàu, mà không có mặt ở đâu nữa cả, trừ cuộc di cư cách đây hai ba trăm năm đến Thượng Lào và Thượng du Bắc Việt. Có, họ có gặp chủng Miêu ở đó, có xung đột, nhưng không có chiến tranh lớn với chủng đó mà cho đến ngày nay vẫn còn quá kém cỏi. Miêu cũng bị đẩy lui lần từ Hoa Bắc đến Hoa Nam, và cuộc nhường đất của Miêu hoàn toàn xảy ra trên bộ và dưới đời nhà Chu, theo Kinh Thư, Miêu đã bị đẩy xuống vùng đất giữa hồ Động Đình và hồ Bành Lãi. Nhưng đến nay thì Miêu cũng mất luôn địa bàn đó và đất xa nhứt của họ ở phía Bắc là tỉnh Quý Châu. Đây là một dịp cho ta thấy rằng không thể diệt chủng ai được hết. Miêu chủng bị lấn từ 5 ngàn năm rồi mà chỉ mất có phân nửa đất đai, vì Quý Châu là nơi chia hai nước Tàu về mặt diện tích và về bề ngang. Họ chỉ mất hết Hoa Bắc mà thôi. Giáo sư Kim Định tuyên bố không dựa vào sử Tàu thường bóp méo sự thật, cũng không dựa vào khoa khảo tiền sử mơ hồ. Nhưng ở giai đoạn nầy thì ông lại dựa vào quyển sách Tàu Cổ sử nhân vi của Mông Văn Thông là một người chưa học khoa chủng tộc học lần nào hết, để nói rằng Tàu gặp Viêm tộc trước nhứt mà Viêm là Việt + Miêu. Một chủng tộc, tự xưng là gì mặc kệ nó, người Tàu có quyền đặt tên khác cho nó, là Viêm chẳng hạn, nhưng khi bảo rằng Viêm = Việt + Miêu thì sai sự thật quá xa vì sọ Miêu khác xa sọ Việt, lại không bao giờ có sọ lai Miêu + Việt. Nhưng nếu lại bảo thêm rằng khoa chủng tộc học là khoa học không đáng tin, đừng nói đến việc đối chiếu sọ mất công, thì một giáo sư đại học không có quyền nói. Đó là khoa học chính xác như toán chớ không phải khoa học nhân văn nữa đâu mà có quyền tin nó hay không tin nó. Người ta cải thiện khoa học chính xác, chẳng hạn như Tân Toán Học cải thiện Toán học, nhưng không ai lại phủ nhận Toán học được. Thí dụ họ đặt tên cho chủng Việt là chủng Viêm đi, ta cũng cho qua, nhưng nói Viêm là Việt + Miêu thì là bất chấp đến một khoa học chính xác là khoa đo và đối chiếu sọ đã được nhìn nhận là khoa học chính xác đủ khả năng truy nguyên các chủng. Nói thì thế nhưng trong bức bản đồ ở trang 77, thì giáo sư lại cho vẽ khác hết. Theo bức bản đồ thì Viêm Việt gồm có Anh-Đô-Nê, Môn, Chàm, Miến Điện, Miêu, Lạc v.v.,, Đã khá hơn rồi, nhưng vẫn còn sai quá xa, vì khoa chủng tộc học thấy rằng tất cả các dân tộc đó, trừ Miêu đều có sọ giống hệt nhau, nhưng không đặt tên nó là Viêm, vì nó đã tự xưng là Mã Lai từ 5 ngàn năm rồi (có chứng tích), còn Chàm, Miến Điện v.v. thì đều là danh xưng mới có về sau. Và Mã Lai = Anh-Đô-Nê. Vậy cái Viêm tộc của giáo sư Kim Định ăn vào Mã Lai chủng của khoa chủng tộc học, nhưng sai ở danh xưng. Danh xưng Viêm không bao giờ có, còn danh xưng Mã Lai thì đã có từ sáu ngàn năm, hơn thế đó là danh tự xưng. Mà điều cần nhấn mạnh nhiều nhứt là Miêu là một chủng rất lớn và không có mặt trong cái chủng mà Mông Văn Thông và giáo sư Kim Định gọi là Viêm nhưng khoa chủng tộc học gọi là Mã Lai, vì gọi theo danh xưng của nó từ ít lắm là sáu ngàn năm rồi. Đã bảo người Tàu có quyền đặt tên một chủng, khác với khoa chủng tộc học. Nhưng danh xưng Viêm thì không hề thấy dùng để chỉ chủng tộc bao giờ cả mà chỉ có dùng để trỏ vài dân tộc nhỏ ở phương Nam của Hoa Bắc và chỉ có nghĩa mơ hồ là dân xứ nóng, chớ không trỏ hẳn ai. Họ có chỉ nước ta là Viêm bang, nhưng đó là sau đời Hán, còn về thượng cổ thì họ mù tịt về bọn phương Nam Hoa Bắc. Phương chi Miêu lại là chủ đất Hoa Bắc thì họ không có lý do để gọi Miêu là Viêm, vì thuở đó rõ ràng Miêu là dân xứ lạnh y hệt họ. Nhưng cái sọ mới là cái gì mà không ai nói ra nói vào gì được cả. Vậy thì gốc tổ tiên là Mã Lai chớ không phải tên Viêm, mà Tàu cũng không bao giờ gọi nó là Viêm, chỉ có một ông Tàu đời sau là Mộng Văn Thông mới phịa ra đấy thôi. Tàu gọi nó là Ló là Lỉa, tức Lai đấy vì Tàu độc âm, bỏ mất Mã hoặc vì Mã Lai cũng có thói quen tự bỏ bớt một âm, có nhóm chỉ tự xưng là Mạ mà thôi. Nhưng cái nhóm chánh cổ sơ nhứt thì tự xưng rất dài là Malaya (núi Hymalaya) và nhóm thứ nhì có sáu ngàn năm tự xưng là Malayalam được kinh Phệ Đà phiên âm là M’leccha. Điều sai thứ nhì là giáo sư gồm Miêu trong bản đồ đó là lấy số 3 của Tam Miêu để diễn dịch và quy nạp thành ra trên 400 trang sách, trong khi đó thì khoa chủng tộc học cho biết sọ Miêu thuộc chủng Miêu, khác hẳn với sọ Mã Lai về chỉ số và về nhơn thể tính (Indice-crânien et caractères anthrropologiques) và họ có đến Ngũ Miêu, chớ không phải Tam Miêu như Tàu cổ đã nói (Coi chừng giáo sư sẽ cho Ngũ hành, Ngũ kinh, Ngũ nhạc, Ngũ phương, Ngũ sắc, Ngũ đế, Ngũ hồ, Ngũ lĩnh là của Ngũ Miêu khi mà số 3 sụp đổ vì số 5 lòi ra thành sự thật khoa học). (Bản đồ nầy cho thấy rằng giáo sư biết Anh Đô Nê ở Nam Dương, nhưng lại gọi họ là Mán, Thổ). Giáo sư biết là dân Anh-Đô-Nê ở xứ Anh-Đô-Nê-Xia ở Nam Dương, chỉ có thế thôi, nhưng lại cứ hiểu họ là “Mọi” chớ không là Mã Lai, vì trong bản đồ, sau danh xưng Anh-Đô-Nê và Nam-Dương, giáo sư chua là Mán Thổ mà Mán Thổ đó cũng lại được giáo sư hiểu là Mọi, nhưng cái nghĩa khoa học của Mán Thổ, không là Mọi như thường dân hiểu. Mán là một chi của Miêu tộc có di cư tới Việt Nam, còn Thổ là một chi của Thái có di cư tới Việt Nam, chớ không bao giờ có mặt tại Nam Dương như bản đồ đã vẽ, và bản đồ mà vẽ như vậy là người cho vẽ bản đồ hiểu Mán, Thổ là Mọi, y như dân chúng đã hiểu. Xin giáo sư học hai nền văn minh Shri – Vishayaa và Madja – Pahit ở Nam Dương, xem họ có là Mọi hay không. Đó là hai nền văn minh của thế kỷ thứ 5 sau Tây lịch mà Pháp gọi là “Très haut degré de Culture d’un faste inoui” (Một nền văn hóa rất cao với một sự xa hoa chưa hề nghe nói đến hồi nào và ở đâu cả). Vậy bài viết: Viêm = Miêu + Việt không ăn với bản đồ, bản đồ có hơi đúng hơn nhưng chỉ được dùng có một lần còn bài viết thì được dùng làm căn bản cho cả cuốn sách với con số 3 nồng cốt là dân Tam Miêu. Điều sai thứ ba là giáo sư cho rằng dân Hoa Bắc có dòng máu Viêm mà Viêm thì như đã thấy, ăn vào với Anh-Đô-Nê = Mã Lai. Nhưng khoa chủng tộc học lại không hề thấy có cái sọ nào ở Hoa Bắc từ 6 ngàn năm nay mà có chất Viêm, hay chất Anh-Đô-Nê Mã Lai nào cả. Mà khoa chủng tộc học thì có cái gì đưa ra làm chứng: những cái sọ với phương pháp đo đủ mọi khía cạnh để biết sọ nào của chủng nào, sọ nào lai căn mà lai với ai, còn cái triết của giáo sư thì chỉ có những con số 3 (Tam Miêu), số 9, Cửu Lê, Cửu Trù. Con số 3 căn bản ấy, thì lại có cái sọ không phải của Tàu, cũng không phải của Việt, cũng không có lai căn với ai bao giờ hết. Tóm lại Viêm tộc theo quan niệm của giáo sư Kim Định, không bao giờ có. Còn theo bản đồ thì có, nhưng nên loại trừ Miêu ra một chủng riêng, và nên gọi Viêm tộc như tự nó đã xưng là Mã Lai chủng. Và điều nầy quan trọng hơn hết là không hề có sọ Mã Lai hoặc sọ Việt, sọ Cửu Lê chủng tại Hoa Bắc để cho Mộng Văn Thông và giáo sư Kim Định cho rằng chính họ sáng tạo nên nền văn minh ở đó rồi bị Hoa tộc cướp lấy. Nếu quả thế, thì phải có sọ cổ của Mã Lai, của Cửu Lê hay của Việt ở đó chớ sao lại không bao giờ có, nghĩa là làm sao? Ở trang 75 giáo sư viết rằng: Khảo tiền sử, khoa khảo cổ, khoa chủng tộc học (mà giáo sư gọi là nhân chủng học) chỉ có giá trị giả thiết (có lẽ giáo sư muốn nói giả thuyết). Còn viết theo quan niệm văn hóa như giáo sư đã làm mới cho thấy được sự thật. Rồi giáo sư lại ám chỉ H. Maspéro. Quả Maspéro trong quyển Les religions đã cho rằng Hoa tộc và các dân tộc Đông Nam Á khi xưa có một nền văn hóa chung. Nhưng ông H. Maspéro chỉ dám nói có bấy nhiêu đó thôi. Còn giáo sư Kim Định thì phát triển mạnh cái câu đó ra, cho họ đồng chủng và nhứt là cho tác giả chính là chủng Viêm nào đó. Các dân tộc có một địa bàn dính nhau thì dĩ hiên phải có văn hóa chung vào buổi sơ khai, nhưng điều đó không bao giờ có nghĩa là Miêu đồng chủng với Việt, lại không bao giờ có nghĩa là sự phát triển ban đầu ấy theo một chiều hướng nào đó là do Tàu ăn cắp của Việt.
-
@phuongthao0908 Nhờ anh Thiên Đồng coi giùm em 1 quẻ nha Hỏi lúc 12:34AM ngày 29/03/12 Trần Thụy Phương Thảo ngày sinh 10/07/1983 giờ Thân 1. Em mới chuyển qua cty mới được 2 tháng. Cty này em có làm bền ko? Cty có phát triển ko? làm ở đây không bền. Công ty có vẻ bề ngoài vậy thôi chứ đang khó khăn. 2. Đường công danh sự nghiệp của em như thế nào ạ? sáng sủa, nhưng thăng trầm lúc đầu trong khoảng 3 - 6 năm. 3. Số em có mua được nhà ko? được. Hơi lâu. 4. Con trai em sinh ngày 28/11/2010 Canh Dần lúc 1:40 sáng. Cháu biếng ăn từ nhỏ, càng lớn càng biếng. Từ giao thừa năm Nhâm Thìn đến giờ bị té liên tục, hầu như lần nào té cũng bị đập đầu xuống đất, có nhiều lúc bị té rất vô duyên nên ko ai đỡ kịp. Ko biết cháu có bị phạm gì ko. Xem lại chức năng gan của bé, hay tiêu hóa. Không để bé bị cảm. Ông xã sinh ngày 27/06/75. Sinh bé ra nhà này thì tài chánh rất khá. Nhưng tình cảm gia đình hơi lục đục không yên. Có bỏ một đứa trước hoặc sau đứa này. Cảm ơn anh rất nhiều. @memitxuxi Cháu chào chú Thiên Đồng Cháu nhờ chú giúp cháu với ạh Cháu sinh 10/08/1981 (11/07 năm Tân Dậu) Là Nữ Giờ hỏi: 14h 02 phút ngày 29/03/2012 (tức mùng 8 tháng 3 Nhâm Thìn) Câu hỏi 1: Cháu có nên thay đổi công việc không? Nếu được thì có ổn định và có cơ hội phát triển không? Nên thay đổi ngay. Câu hỏi 2: Cháu muốn học thêm một chứng chỉ kế toán quốc tế nhưng kẹt kinh tế và cũng bận con cái. Vậy khi nào cháu mới có thể hoàn thành khóa học này? Tùy theo chương trình tính năm hay tháng? Lâu thì 2 năm, nhanh thì 7 tháng. Câu hỏi 3: Cháu muốn mở lớp dạy thêm ngoại ngữ cho trẻ em tại nhà, việc này có thuận lợi không ạh? Nếu có thì bao giờ nên mở ạh? Cũng tốt. Có khó khăn tí nhưng sẽ ổn. Tháng 4 âm nên mở. @zero Anh Thiên Đồng lần này trả lời mọi người toàn văn thơ hay thế . Cho em hỏi anh thêm 3 câu nữa nhé: Tuổi: Nam Giáp Tý (28/09/1984 DL) Hỏi lúc 21h14' ngày 29/02/2012 1. Công danh sự nghiệp của em sau này thế nào ạ? Một là ăn mày hai là trung gia. 2. Khi nào thì em gặp được vợ tương lai của mình? Bọn em biết nhau trong hoàn cảnh nào, có phải do mai mối, giới thiệu ko anh? một là năm sau hai là 2017 3. Kinh tế của 2 vợ chồng em sau này có khá ko? Tùy vào đứa con út Em cảm ơn anh rất nhiều. @xuka8584 Chào anh Thiên Đồng! Em đang có nhiều điều muốn hỏi thì gặp chủ đề của anh. May quá! Anh cho em hỏi chút xíu nha: 1. ngày giờ hỏi: 9:46PM ngày 29/3/2012 2. Nữ sinh giờ Mão ngày 8/5/1984 (DL) 3. Em mới nghỉ làm nhà nước đầu tháng 3 này, nguyện vọng của em là mở shop kinh doanh thời trang. Anh xem giúp em có nên mở shop hay ko? và công việc có thuận buồm xuôi gió ko ah? nếu nên mở thì mở vào thời gian nào là tốt? Nên mở, sang năm khá. 4. Em mới gặp lại người í sau 4 năm, chuyện này có đi đến đâu ko anh? Năm nay em có cưới hỏi gì ko ah? Anh này sinh năm 76. Chỉ có 2 vấn đề này là em băn khoăn nhất trong thời gian này, hic! Xin anh tư vấn dùm em, em cảm ơn anh nhiều ah. thích thì tới luôn! Thương thì cho...cơ hội. Nhưng phải xem coi có phải người tử tế đàng hoàng không nhé. @hin Cháu chào chú Thiên Đồng, mong chú xem giúp hộ cháu ạ Ngày giờ: 05:07 sáng (50/3/2012) Nữ, sinh giờ Thìn ngày 5/1/1987 DL Câu hỏi: 1.Bao giờ mua được nhà riêng ạ? 8 năm nữa hoặc năm 36 tuổi 2.Chồng tương lai là người thế nào? Chậm chậm ít nói nhưng có hiểu biết. 3.Có xuất ngoại được không ạ? Được. Cháu cảm ơn chú ạ. Cháu xin sửa lại chút xíu ạ: Ngày giờ: 05:07 sáng 30.03.2012 nhưng giờ diễn đàn là 04:22 am ah T.T Thiên Đồng
-
@ Kieuoanh123, Tháng 3 này không hạn gì đáng phải lo. Nhưng chú ý tháng 7, 8 âm, có thể hao tài lớn. Nếu đã hỏi chuyện người âm thì sẽ được âm phù trợ. Mặt khác cũng nên năng thờ kính tổ tiên theo tôn giáo mình cho an lạc. Chúc bình an. Thiên Đồng
-
@P T An Cũng như thuốc vậy thôi. Biết uống thì trị bệnh, không biết uống thì hại thân. Đừng tưởng đồ bổ là vô hại, ăn vô không đúng cách cũng...bổ ngửa như chơi. Phong thủy cũng thế. Thiên Đồng
-
Ta Phật Phật Ta, Lão Lý vin vào đó cũng xưng là phật và làm hình ảnh poster như ở trên rồi thấy không? Thiên Đồng
-
Sự thật là người ta bị mê hoặc và lầm lẫn giữa phương pháp khí công và đạo pháp. Họ bị lôi kéo là chủ yếu. người ta cứ nghĩ có hiệu quả tập dưỡng sinh trị bệnh tức là họ Lý đạo pháp cao, quả là ngu muội. Chưa kể những thứ quản cáo rầm rộ, trích dẫn những hiện tượng lạ trong tự nhiên và xã hội như lịch Mây, những vòng tròn bí ẩn ktre6n cánh đồng, hiện tượng Notradammuus...để tỏ ra huyền bí và chứng minh là có thật, để lôi kéo quần chúng. Toàn là nhảm nhí! Thiên Đồng
-
@pqhong Ừ há. Cảm ơn pqhong. Thiên Đồng nhìn lộn rồi. Giờ tị 9g40 - 11g40. mồng 94/ âm là tốt. @ bacsy Hic tháng 3 mà động thổ thì chán lắm. Thiên Đồng
-
Thiên Đồng ủng hộ Sư Phụ. Chắc phải liên hệ phóng viên Khắc giang của Tuanvietnam thì mới có thông tin đó SP.
-
@bacsy Động thổ ngày mồng 9/4 âm (tháng tư đầu), giờ 11g40 - 13g40. 1973, 40 tuổi ta có tuổi xây cất nhà. @ dangkhoi Muốn hỏi giường hay gường hay gương vậy? Chiều nay ọp lai, hỏi luôn một thể. Nhà gì nhìn thấy chán phèo. Hic Thiên Đồng
-
Phép nói và viết hỏi ngã Hồ Tường (Paris, đầu mùa hè 1950) Phân nửa người Việt Nam, từ Thanh Hóa trở ra, về phương diện hỏi, ngã, nói và viết rất đúng, còn một phân nửa, từ Nghệ Tĩnh trở vào, nói không phân biệt hai thanh này và viết rất lầm. Sự trộn lộn hai thanh này thành một sẽ là một việc làm cho tiếng Việt nghèo nàn thêm, và làm cho lắm câu thành tối nghĩa. Người có ý thức không ai dám chủ trương một việc nông nổi như vậy. Mà phân biệt hai thanh, khi nói và viết, đối với người đàng trong, là một một vấn đề to: vấn đề hỏi ngã. Mấy năm nay, đã có nhiều người nghiên cứu vấn đề này và đưa ra một luật, mà chúng tôi xin gọi là luật Nguyễn Đình, để nhắc nhở người đã nêu nó ra trước nhất. Cái hay - và cũng là cái dở - của luật Nguyễn Đình là để cho người đã khá giỏi tiếng Việt dùng được mà thôi. Đối với kẻ thiếu học, thì công dụng của nó rất ít. Lại giá trị của luật ấy chỉ ở trong phạm vi chính tả. Người đàng trong, dầu cho đã thạo rồi, cũng không sao nói đúng được. Muốn giải quyết đến cội rễ vấn đề này, ta hãy nghĩ xem: tại sao người đàng ngoài, dầu chẳng biết luật Nguyễn Đình, vẫn nói đúng và viết đúng hỏi ngã? Ấy bởi vì từ thuở mới học nói, họ đã nghe chung quanh họ, hai thanh này phân biệt rõ ràng. Vậy phương pháp của âm học, đối với mỗi người, và áp dụng cho tất cả, sẽ thành phương pháp giải quyết được vấn đề đến triệt để. Dầu ta có thạo thông lệ này, hay thông lệ nọ, mà ta nói vẫn saI, thì trẻ em nghe ta nói sai, sẽ nói sai, ắt là vấn đề hãy còn mãi. Việc đánh dấu đúng, tuy là cần chỉ là gáo nước để tưới trận lửa to, làm sao mà trừ đám cháy được? Còn nếu ta nhờ các thông lệ làm phương tiện riêng để phân biệt hỏi, ngã, hầu nói đúng, thì thế hệ sau nghe ta nói đúng, sẽ nói đúng. Rồi ít lâu, ở toàn cõi Việt Nam, sẽ không còn vấn đề nàỵ Chúng tôi soạn tập sách vấn đề giải quyết vấn đề hỏi ngã. Khi ai nấy đã nói đúng và viết đúng cả rồi, vấn đề sẽ không còn, sách sẽ hết cần, hóa thành vô dụng. Nên lòng cầu nguyện là được một ngày gần đây, sách sẽ không được dùng nữa, và chỉ dành cho những kẻ khảo cứu tài liệu lịch sử xem chơi mà thôi. LÀM SAO BIẾT ĐƯỢC TIẾNG NÀO HỎI TIẾNG NÀO NGÃ? Phương Pháp Tự Nhiên Khi ta biết cách nói rồi, muốn có thể phân biệt tiếng nào hỏi, tiếng nào ngã, thì nên theo phương pháp tự nhiên hơn hết, là học. Phương pháp này đã đem lại những công hiệu rõ ràng. Nhiều người ngoại quốc, tuy nói tiếng Việt rất khó khăn, song đã chịu khó học cẩn thận rồi, thì nói, viết rất đúng hỏi ngã. Nhiều người đàng trong, chịu khó học, cũng nói được viết đúng như người đàng ngoài. Mà bằng chứng đích xác hơn hết là, cả một cõi Bắc Việt, ai cũng nói đúng nhờ học từ thuở bé ở nơi chung quanh mình. Cái may của người đàng ngoài, là sự học này là một cái học thường xuyên, trong mỗi lúc nghe nói, trong mỗi lúc nói, mà người học thấy cực nhọc hay để tí công cố gắng nào. Chung quanh mình, cha, mẹ, anh, chị, bè, bạn, lối xốm, thảy là người thầy sẵn sàng dạy mình, và lại những ngưòi thầy dạy đúng phương pháp tự nhiên. Kết quả là lên năm, lên sáu tuổi, đứa bé đã học xong rồi, đến trường khỏi phải trở lại vấn đề. Cái rủi của người đàng trong là không có trường học tự nhiên ấy. Ngay nhà trường chính quy cũng vẫn là một lớp học thiếu sót về vấn đề này. Thầy giáo nào có công, cũng chỉ dạy cho học trò đánh dấu đúng, khi viết. Chúng tôi chưa hề gặp một thầy giáo nào ở đàng trong đã dạy học trò nói thanh ngã, thanh hỏi bao giờ. Và cũng chớ nên trách họ, vì chính họ còn chưa nói được thay! Vậy cần phải học, tuy trong những điều kiện khắt khe hơn, nhưng phải cố tìm tạo ra một hoàn cảnh gần như tự nhiên, và dõi theo một phương pháp tự nhiên. Hoàn cảnh ấy, là một nhóm người biết cố gắng nói đúng, viết đúng hỏi, ngã. Phương pháp ấy, là nên học thuộc lòng, không khác nào trẻ con mới học nói phải thuộc tiếng mới, không khác nào người ngoại quốc học nói phải học thuộc tiếng lạ. Trong khi nói chuyện, nếu phải dừng trước một tiếng để suy nghĩ nên nói thanh nào, thì làm sao cho lời được suôn, lại còn nói chi đến việc trổ tài hùng biện? Trong khi viết, nếu phải dừng mỗi lúc để suy nghĩ nên đánh dấu nào, thì làm sao chép kịp lời của người, hay ghi cho kịp nguồn hứng của mình? Học phải chọn sách. Học về hỏi, ngã, không có gì qua từ điển, tự điển, tự vi. Những người có tiếng là viết đúng chính tả, như Phan Khôi, Phan Văn Hùm, thường thú nhận rằng không có dụng cụ nào hơn là tự điển để tra cứu, mỗi lần trí nhớ của họ hơi lờ mờ. Ngày nay, những từ điển, lấy tiếng Việt làm nền để cắt nghĩa và điển chế tiếng Việt, thật là khó tìm. Một vài quyển hãy còn lưu hành, nhưng lại rất cẩu thả về vấn đề chính tả. Học trong tự điển là một việc rất mau chán. Vì vậy mà cần có một lối học mau lẹ, lại có nhiều kết quả. Lối học thực tiễn này dựa vào những nhận xét sau đây: Trong tiếng Việt, tiếng thanh hỏi nhiều hơn tiếng thanh ngã. Vậy ta học trước hết những tiếng thanh ngã, ắt ít tốn công hơn. Còn tất cả những tiếng nào thừa lại, là to cho thanh hỏi. Trí nhớ muốn được chắc chắn, cần nên vận dụng tất cả các cơ quan, tai nghe, mắt nhìn, tay viết. Phần lỗ tai đã được chú trọng rồi. Còn nên cho quen mắt, bằng cách đọc kỹ và nhiều những sách đánh dấu đúng, những bản viết tay đánh dấu đúng. Và nhất là tập đánh dấu cho quen mắt, quen tay như người đàng ngoài, dấu hỏi rõ ràng vẽ hình kéo xuống, sau khi đã vòng tròn, dấu ngã rõ ràng kéo lên, sau khi đã vòng tròn. Tay, mắt, tai hiệp nhau làm cho phần máy móc của trí nhớ được vận dụng đầy đủ, thì sự nhớ càng chắc. Rồi cũng phải làm cho phần thông minh của trí nhớ làm việc, để tập luyện và để củng cố những điều đã học được với một cách máy móc. Vậy cần phải suy nghĩ, để tìm cái lý của sự việc (nghĩa là cái lẽ vì sao phải đánh dấu ngã) và những liên quan của các việc. Đây là một công cuộc đòi lắm hiểu biết. Vậy xin xét ở chương sau. Phương pháp bác học Phương pháp bác học này đòi hỏi nhiều hiểu biết về ngữ âm học, để áp dụng những định luật sự biến di của âm thanh, và về từ nguyên học, để tìm tòi gốc rễ của mỗi tiếng. Ngữ âm học và từ nguyên học là hai khoa rất khó. Ở Âu Mỹ, vào trường đại học, người ta mới khởi sự cho học các khoa này, còn từ bực trung học trở xuống, chỉ nói cho biết thoáng qua thôi. Mà khi đã học xong rồi, phải có óc tìm tòi, khiến suy diễn mới tự mình khảo cứu thêm được. Vì vậy mà phương pháp bác học được nhắc đến sau đây không phải để cho ai cũng dùng được. Đối với tiếng Việt, hai định luật sau đây của ngữ âm học giúp cho chúng ta rọi nhiều tia sáng và vấn đề hỏi ngã: Những âm thanh thường có xu hướng có gần tính chất với những âm thanh đi cặp với mình. Ấy là luật thuận thinh âm Những âm thanh thường biến chuyển ra những âm, thanh có gần tính chất với mình. Ở đây không phải là để khảo cứu về ngữ âm học, nên xin phép không dừng lâu nơi hai luật này, mà chỉ áp dụng chúng nó vào vấn đề hỏi ngã mà thôi. Do theo sự khảo cứu ở phần thứ nhất, ta thấy rằng thanh hỏi ở vào bực nhất, ta thấy rằng thanh hỏi ở vào bực bổng. Vậy luật thuận thinh âm mách cho ta biết rằng nó thường đi cặp với những thanh hỏi, ngang, và sắc là những thanh gần tính chất với nó. Ví dụ như: Hỏi đi cặp với hỏi: bẩn thỉu, mỏng mảnh Hỏi đi cặp với ngang: thẩn thơ, mơn mởn Hỏi đi cặp với sắc: khỏe khoắn, lấp lửng Còn thanh ngã ở vào bực trầm, gần với những thanh huyền, nặng. Vậy luật thuận thinh âm mách cho ta biết rằng nó thường đi cặp với những thanh ngã, huyền, nặng là những thanh có gần tính chất với nó. Ví dụ như: Ngã đi cặp với ngã: bãi hãi, lẽo đẽo Ngã đi cặp với huyền: bão bùng, hiền ngõ Ngã đi cặp với nặng: nhão nhẹt, chậm rãi Nếu đảo ngược tính cách trên, chúng ta có thể nêu được cái thông lệ thực tiễn để tìm tiếng nào có thanh ngã (luật Nguyễn Đình) Tiếng có thanh ngã là những tiếng đi cặp với tiếng thanh ngã, nặng hay huyền Tuy nhiên, thông lệ này có rất nhiều ngoại lệ. Độc giả sẽ thấy rằng số ấy không phải là ít, và phương pháp bác học, tuy đòi hỏi rất nhiều hiểu biết và suy nghĩ, vẫn không bằng phương pháp tự nhiên. Khoa từ nguyên học, áp dụng vào tiếng Việt, cho ta biết rằng những tiếng họ hàng, hoặc biến chuyển ra, thường có những thanh gần với thanh cội rễ. Như ba thanh ngang, sắc, hỏi biến chuyển qua lại với nhau. Ví dụ: chưạ..chửa; miếng...miểng; cảnh...kiếng; chẳng...chăng; thể...thế Còn ba thanh huyền, nặng, ngã, biến chuyển qua lại với nhaụ Ví dụ: rồị..rỗi, chậm...chẫm; cữụ..cậu; lỡ ... lợ; cũng....cùng. Nếu đảo ngược tính cách này, chúng ta có thể nêu được cái thông lệ thực tiễn để tìm tiếng nào có thanh ngã Tiếng có thanh ngã là những tiếng do tiếng thanh ngã, nặng, huyền biến chuyển ra Ngoài ra còn những tiếng Hán Việt mà cách phát thanh theo những định luật phiền tạp, và sự áp dụng các định luật ấy chưa chắc gì đơn giản hơn là theo phương pháp tự nhiên là học ngay cho thuộc lòng. Lại các định luật này có rất nhiều ngoại lệ, mà nhớ cho được và cho đủ, cũng cần phải học thuộc lòng. Vậy thì, làm thế nào, vẫn khó tìm một phương pháp, duy lý dễ dàng, cho vừa tầm thực dụng của bình dân. Tốt hơn là dùng phương pháp tự nhiên, đã dễ dàng, còn đem lại nhiều thành tích tốt đẹp. Tuy vậy, những định luật kể trên vẫn có giá trị là những kim chỉ nam cho những nhà khảo cứu, để tìm tòi chính tả và điển chế tiếng Việt. Giá trị của nó là giá trị của một phương pháp bác học, và chỉ có giá trị ấy trong địa hạt của khảo cứu. Cố đem ra ngoài địa hạt ấy và biên thành những thông lệ thực tiễn, chưa ắt là hạp với kinh nghiệm của khoa sư phạm. Trái lại, nếu ta đã dùng phương pháp tự nhiên mà học thuộc lòng rồi, lại áp dụng thêm phương pháp bác học để khảo chính và củng cố trong trí nhớ những điều đã học được, thì là một việc thêm hay. Đặc sắc của khoa học không phải là dừng nơi một phát kiến nào, mà ở nơi sự tìm tòi và phát kiếm thêm mãi. Vấn đề hỏi ngã không phải ở trọn trong luật Nguyễn Đình và luật tứ thinh. Đứng vào một sở cậy khác, rọi một nhấn quang khác, chắc chắn sẽ tìm thấy việc khác có thể giúp cho ta hiểu rõ thêm vấn đề. Như có người (Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Tuân, Thế Lữ...và chúng tôi) nghĩ rằng tiếng Việt nam là một tiếng "nhạc ý" (nghĩa là dùng âm thanh cao, thấp, dài, ngắn mà diễn ý), khác hơn tiếng Tàu là một tiếng "hội ý" (nghĩa là dùng nét vẽ mà tượng ý). Thế thì, hỏi hay ngã, tất phải có quan hệ với ý của tiếng dùng. Nhắc đến giả thuyết này, chúng tôi chỉ có ý mách rằng có thể khảo cứu và suy luận thêm về vấn đề hỏi ngã, chớ chưa định ý lập một cái luật nào mới. Độc giả nên nghiên cứu bằng thuật dùng thẻ (fiche). Thẻ ấy là những mảnh giấy rời nhỏ. Trên mỗi thẻ, ta nêu to một tiếng dấu ngã, kế đến những điều gì mà ta cần chép để nhớ (nghĩa tiếng, gốc tiếng, luật về ngữ âm học) và những nhận xét hay giả thuyết riêng của ta. Khi có đủ bộ rồi, ta chịu khó quy nạp những nhận xét, biết đâu ta chẳng tìm được cái gì hay đẹp về vấn đề?
-
Trung Quốc biến gà vịt chết thành đặc sản Cơ quan chức năng Trung Quốc vừa phát hiện một cơ sở bán trứng vịt lộn từ gà con chết cho các quán ăn. Nhiều nơi bán gia cầm chết để làm món vịt quay Bắc Kinh, chân gà nướng, thậm chí biến thành dê nướng. Các ngành chức năng thành phố Công Chủ Lĩnh, tỉnh Cát Lâm, Trung Quốc ,phát hiện một địa điểm gia công trứng vịt lộn từ gà con chết. Trứng vịt lộn (đã thành con hoàn toàn) mà xưởng này xuất bán cho các tiệm đồ quay và quán ăn trong ngoài thành phố thực chất đều là gà con ấp nở chết xâu thành chuỗi, xung quanh ruồi nhặng bu đầy. Người ta cho xác gà con đã làm lông sạch sẽ vào nước lạnh rửa sạch, sau đó bỏ vào ngăn lạnh để bản quản. Ngoài “đặc sản” trứng vịt lộn từ gà chết, xưởng này còn chuyên cung cấp “trứng gà tươi” mới ra thị trường được họ chế tác từ trứng ung, trứng thối và trứng cũ. Khu vực chế biến vịt quay ở Nam Ấp, huyện Bạc Dã, Hà Bắc. Mua vịt quay chế biến sẵn đóng gói bán trên thị trường, một người dân thành phố Bắc Kinh phát hoảng khi mở ra và thấy đống thịt thối bên trong. Nơi chế biến vịt chết này ở Nam Ấp. Đây là nơi cung cấp vịt quay chủ yếu cho thị trường Bắc Kinh, phần lớn là vịt thải loại, ốm, chết, sau khi đã đóng gói “vịt quay Bắc Kinh” giá đầu vào chỉ khoảng 3 NDT (10.000 đồng). Vịt quay nhưng không hề có công đoạn quay, vì thiết bị để làm món quay khá đắt, người ta cắt bỏ đầu, cổ, các chân, cánh và nội tạng được làm chín, sau đó dùng tương đậu ngọt phủ lên trên toàn thân con vịt. Đột nhập lò chế biến gà tại Trung Quốc, người ta tận mắt chứng kiến cảnh ngổn ngang những con gà chết được vất bừa bãi trên nền nhà, ngoài sân. Có 4 người chuyên nhúng gà vào nước sôi và vặt lông, sau đó, dùng xà phòng và thuốc tẩy để làm sạch rồi tẩm màu. Hàng loạt chân gà đã ướp formon hoặc hóa chất nên khi xử lý mốc cũng đơn giản, vẫn đảm bảo tươi sống. Khi nướng lên, các chủ cửa hàng chân gà nướng chỉ cần gia giảm các loại gia vị cho át mùi là lại thành đặc sản. Công ty kinh doanh thịt vịt Huaying Agricultural ở Hà Nam (Trung Quốc) bán thịt vịt tươi có nguồn gốc từ vịt bệnh chết. Nhân viên công ty không xử lý vịt chết theo quy trình mà đã đem bán cho một số thương lái với giá thấp hơn thị trường để thu lợi bất chính. Ước tính mỗi ngày có hàng trăm kg thịt vịt chết được bán ra thị trường. Báo China Economic Net đã điều tra và phát hiện thịt vịt chết được chế biến trong phòng ốc bẩn thỉu gần nhà máy Công ty Huaying Agricultural. Tại đây, vịt được nhổ lông, tẩy trắng rồi chặt khúc để đem đi tiêu thụ. Chính quyền huyện Loan Xuyên (tỉnh Hà Nam) đang tiếp tục điều tra. Những xâu thịt dê nướng thơm ngon, món ăn vặt nổi tiếng của ẩm thực Trung Quốc được bán công khia tại nhiều con phố ẩm thực ít ai ngờ lại có nguyên liệu chính là thịt vịt vụn kèm những chất phụ gia tạo mùi. Để tạo nên món ăn vặt trá hình này, chỉ cần nguyên liệu thịt vịt tạp nham và những chất phụ gia tạo mùi và tạo màu, như bột, tinh bột thịt dê, keo tạo màu… bày bán tràn lan trên thị trường. Theo một chủ cơ sở kinh doanh loại đồ ăn này, những hương liệu trên sẽ khiến món thịt xiên thêm dậy mùi vị và màu sắc bắt mắt. (VTC News)
-
Báo TQ ngỡ ngàng trước sức mạnh của nữ cảnh sát VN Cập nhật lúc :6:30 PM, 05/04/2012 Tại Liên hoan võ thuật thanh niên Công an lần thứ hai khu vực phía Bắc diễn ra trong hai ngày 26 - 27/3, người xem vô cùng ấn tượng trước những màn công phá ngoạn mục của các nữ cảnh sát. Khả năng tinh thông võ thuật và phong cách trình diễn chuyên nghiệp của những cô gái đã hoàn toàn chinh phục khán giả. Mới đây, trang Tân Hoa Xã đã dành lời ngợi khen có cánh cho sức mạnh của các nữ cảnh sát Việt Nam trong Liên hoan vừa qua. Trang này nhận định, phần trình diễn của những cô gái vô cùng bắt mắt. Đặc biệt, sau khi tổng hợp nguồn tin từ báo chí Việt Nam, các trang này đã giới thiệu tới bạn đọc Trung Quốc những hình ảnh cận cảnh ghi lại các phần phô diễn sức mạnh và tài nghệ võ thuật của các cô gái Việt. Đây là những hình ảnh ấn tượng được đăng tải trên truyền thông Trung Quốc: Nữ cảnh sát cơ động khiến người xem phải ngỡ ngàng trước sức mạnh của mình. Nữ cảnh sát đang vận khí công. Gạch được đặt trên cánh tay một nữ cảnh sát cơ động. Các nam chiến sĩ đùng búa đập mạnh, làm vỡ gạch trên cánh tay cô gái. Thậm chí, các nữ cảnh sát còn khiến khán giả phải thót tim khi chịu được những cú phá bê tông trên chân và bụng. Khung cảnh của Liên hoan võ thuật thanh niên Công an lần thứ hai.
-
Nín thở với màn biểu diễn đặc sắc nhất LHVT Công an Cập nhật lúc :8:36 AM, 29/03/2012 Ngoài những trận đấu Karatedo và Taekwondo, tại Liên hoan võ thuật công an còn diễn ra màn biểu diễn “nguy hiểm” của chiến sĩ cơ động khiến khán giả phải nín thở. (ĐVO) Trong 2 ngày (26-27/3), tại nhà thi đấu công an nhân dân đã diễn ra Liên hoan Võ thuật Thanh niên Công an lần thứ II, khu vực phía Bắc. Tại liên hoan lần nay, có sự tham gia của 1.000 chiến sĩ công an trẻ tuổi đến từ nhiều đơn vị khác nhau vào vai là những võ sinh tài năng trong sự cổ vũ động viên sôi nổi của hơn 3.000 cán bộ chiến sĩ, đoàn viên thanh niên. Liên hoan võ thuật là cơ hội cho tuổi trẻ công an được giao lưu, học hỏi và trao đổi kinh nghiệm trong học tập, rèn luyện, từ đó tăng cường tình đoàn kết, hiệp đồng tác chiến giữa các đơn vị, nâng cao tinh thần thượng võ và tạo khí thế sôi nổi, hào hứng để thúc đẩy phong trào tập luyện võ thuật trong thanh niên Công an tiếp tục phát triển trong thời gian tới. Các chiến sĩ tới từ lực lượng công an, cơ động, cảnh vệ đã đem tới Liên hoan nhiều bài biểu diễn tình huống như: chống khủng bố, giải cứu con tin, bảo vệ lãnh đạo cấp cao, đối kháng 1 đấu 2-3-4-6 người… Màn công phá của các chiến sĩ Bộ tư lệnh Cảnh sát cơ động làm khán giả phải nín thở. Biên tập hình ảnh: Hà Tiệp Ngoài ra, còn có màn đồng diễn võ thuật của lực lượng cảnh sát cơ động, biểu diễn quyền côn nhị khúc, biểu diễn các động tác karatedo nâng cao. Đặc biệt, màn biểu diễn đem lại sự phấn khích nhất, làm khán giả phải “thót tim, nín thở” là màn công phá của các chiến sĩ tới từ Bộ tư lệnh Cảnh sát cơ động. Ở đây, các chiến sĩ cơ động phải vượt qua thử thách “cực kỳ nguy hiểm”, từ việc đặt tảng đá lớn lên bụng rồi dùng búa đập vỡ, tới việc đặt dưới lưng chiến sĩ bàn chông (hoặc thanh kiếm) cực sắc, đặt tảng đá lên bụng rồi dùng búa đập. Thậm chí, có màn người chịu cú phá bê tông trên bụng và một người chịu sức nặng của đồng đội nằm trên 2 bàn chông kẹp lấy thân trần. Tất nhiên, để chịu được những màn công phá này, đòi hỏi các chiến sĩ tham gia phải trải qua khổ luyện vất vả nhiều năm. Lê Nam Xem phim ở đây: http://quocphong.bao.../200957.datviet