Thiên Đồng

Hội viên
  • Số nội dung

    6.278
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    75

Everything posted by Thiên Đồng

  1. tiếp theo 6. Thủ Ấn Bảo An Thủ ấn với lòng bàn tay mở ra hướng về phía trước, năm ngón tay mở rộng hoăc năm ngón khép hướg thẳng lên trên, đôi khi giữa lòng bàn tay có con mắt thiên nhãn hoặc chữ "Um" quyền năng. Thủ ấn này mang ý nghĩa ban phước lành, bình an, an lạc, ân phước, lợi lạc cho chúng sanh. Thật bất ngờ, thủ ấn này hiện hữu trong cả Thiên Chúa giáo, trong khi đó rất phổ biến trong Bà La Môn giáo và Phật giáo. Thần Shiva với thủ ấn bảo an ban phước. Thần voi Ganesha, con của thần Shiva, và là phúc thần của Ấn giáo, tương tự như Thần tài của người Việt, trong tư thế thủ ấn bảo an. Thần Khỉ Hanuman với bàn thủ ấn ban phước. Phật với thủ ấn bình an tâm Phật A Di Đà Đức Jesu Thánh Joseph the Betrothed với thủ ấn ban ân phước. Thánh Joseph of Damascus với bàn tay thủ ấn ban phước lành. Nữ thánh Elizabeth the Grand Dutchess với bàn tay bình an Nữ thánh Alexandra với bàn tay thủ ấn. Thiên Đồng
  2. 4.Thủ Ấn Niêm Hoa Quán Thế Âm Bồ Tát với thủ ấn "Nhĩ căn viên thông", giữ nhành trúc, dùng để vãy nước cam lộ cho thế gian. Quan Âm Bồ Tát, tranh Tây Tạng, tay ấn niêm hoa. Thánh Patrick tay thủ ấn "Nhĩ căn viên thông", cầm lá cỏ 3 nhánh tượng trưng 3 ngôi Thiên Chúa. Thánh I Rê Nê với bàn tay bắt ấn. 5. Phổ Ấn Quán Thế Âm Bồ Tát với tay Phổ ấn Nữ Thánh Philomena Print trong tư thế Phổ ấn Thánh Pedro de San José de Becantur với tay Phổ ấn Thiên Đồng
  3. 3. Thủ Ấn " " Ngón tay hướng xuống, lòng bàn tay ngửa ra, cánh tay xuôi xuống, thế ấn này như trấn an, như cứu vớt, độ sanh với cả lòng thương bao la mở rộng với cả chúng sanh, với cả nhân loại. Phật A Di Đà với Đại ấn độ sanh Đức Mẹ Maria với thủ ấn như vậy. Thiên Đồng
  4. Đồng Một Pháp Thần Thông Trích: "Đến chiều, môn đồ xuống nơi bờ biển, và vào trong một chiếc thuyền, sang thẳng bờ bên kia, hướng về thành Ca - bê - na - um. Trời chợt tối, mà Đức Chúa Giê - xu còn chưa đến cùng các môn đồ. Gió thổi ào ào, đến nỗi biển động dữ dội. Khi các môn đồ đã chèo ra chừng hai mươi lăm hay là ba mươi ếch - ta - đơ, thấy Đứa Chúa Giê - xu đi trên mặt biển, gần tới chiếc thuyền, thì sợ hãi. Nhưng Ngài phán rằng: " Ấy là ta đây, đừng sợ chi!". Bấy giờ môn đồ muốn rước Ngài vào thuyền; tức thì chiếc thuyện đậu vào bờ, là nơi định đi." Sự việc Chúa Jesus đi trên mặt biển được ghi lại trong kinh thánh cho thấy Ngài đã thi triển thần thông (phép mầu), giống như Tổ Đạt Ma đã quẩy một chiếc hài, đứng trên cọng cỏ lau đi trên mặt biển về phương Tây trong truyền thuyết về tổ. Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma đi trên biển Thiên Đồng
  5. Sáng chiều thứ 7 hằng tuần, đến gặp Truyền Nhân của Thần Y Võ Hoàng Yên bấm huyệt trị bệnh. Hướng dẫn đi: đi đường Trường Chinh đến tới cổng Khu công nghiệp Tân Bình, quẹo vô đó, đi chậm nhìn bên trái tìm đường D13, vừa vô D13 khoản 50m thấy liền ngã 04, liền quẹo ngay tay trái, hỏi nhà chị Trà, cuối đường, khoản 100m thôi. Vào đó trị bệnh. Chúc mạnh khỏe. Thiên Đồng
  6. “Các em chẳng có gì đặc biệt” TT - Phát biểu trong lễ tốt nghiệp của các học sinh lớp 12 Trường trung học Wellesley High ở bang Massachusetts (Mỹ) tuần trước, giáo viên tiếng Anh David McCollough Jr đã gây sốc khi nói thẳng: “Các em chẳng có gì đặc biệt”. Giáo viên David McCollough Jr khi đọc bài diễn văn gây sốc - Ảnh: The Swellesley Report Thế nhưng, bài phát biểu của David McCollough lại được nhiều tờ báo và hãng tin Mỹ đăng tải, và thu hút được hàng chục ngàn comment (bình luận) trên mạng Internet, phần lớn đều ủng hộ thông điệp của ông McCollough. Trong bài diễn văn tại lễ tốt nghiệp năm 2012, thay vì lặp lại những câu sáo mòn như “Chúng tôi rất tự hào về các em”, “Các em rất tài năng”, “Thế giới là của các em”..., ông McCollough đưa ra một thông điệp mà giới truyền thông Mỹ mô tả là “Xin chào mừng các em đến với cuộc đời thực”. Wellesley High là trường công nổi tiếng ở thị trấn giàu có Wellesley, có truyền thống lâu đời và từng sản sinh nhiều nhân tài cho nước Mỹ. David McCollough Jr là con trai của nhà sử học - nhà văn David McCollough, người từng đoạt giải thưởng Pulitzer. Trước các học sinh của mình đang xúng xính trong bộ đồng phục tốt nghiệp giống nhau, đang háo hức cầm trên tay tấm bằng, McCollough dõng dạc nói rằng “Các em chẳng có gì là đặc biệt”, “chẳng có gì là phi thường”! Một gáo nước lạnh như được giội xuống mọi thành tích vẻ vang của trường! Được chăm bẵm quá mức Trước bao ánh mắt mở to sửng sốt, McCollough điềm nhiên nói tiếp: “Các em đã được hầu hạ tận miệng, nâng niu mỗi ngày, được nuông chiều, được bảo bọc cẩn thận. Vâng, người lớn đã ôm hôn các em, cho các em ăn, lau miệng... cho các em. Họ dạy dỗ, hướng dẫn, lắng nghe, động viên và an ủi các em. Các em được nâng niu, phỉnh phờ, dỗ ngon dỗ ngọt, được nghe toàn những lời nài nỉ. Các em được người lớn ngợi khen đến tận trời xanh, được gọi là cục cưng. Đúng vậy đó. Chúng tôi đã ở bên cạnh các em trong các trò chơi, vở kịch, các cuộc biểu diễn âm nhạc, hội chợ khoa học. Những nụ cười tỏa sáng khi các em bước vào phòng, đáp lại mỗi tin nhắn trên Twitter của các em là những tiếng hô hào hứng. Và giờ các em đã chinh phục được trường trung học. Nhưng đừng lầm tưởng rằng các em là đặc biệt. Không có chuyện đó đâu nhé!”. Đến đây, McCollough dẫn các học sinh vào một hiện thực đang chờ đợi mình. “Mỗi năm có ít nhất 3,2 triệu học sinh tốt nghiệp từ hơn 37.000 trường trung học trên toàn quốc. Đó là 37.000 học sinh tiêu biểu của các trường, 37.000 chủ tịch hội học tập, 92.000 giọng ca nổi bật, 340.000 vận động viên... Nhưng tại sao lại tự giới hạn chúng ta ở trường trung học thôi? Hãy thử nghĩ xem. Nếu cả triệu người mới có một người như các em thì trên thế giới 6,8 tỉ dân này sẽ có tới gần 7.000 người như các em. Hãy nhìn toàn cảnh. Hành tinh của chúng ta không phải là trung tâm Hệ mặt trời, Hệ mặt trời không phải là trung tâm Ngân hà, Ngân hà cũng chẳng phải là trung tâm vũ trụ. Các nhà thiên văn đã khẳng định vũ trụ không có trung tâm đâu, do đó các em không thể là “cái rốn” của vũ trụ. Ngay cả tỉ phú Mỹ nổi tiếng Donald Trump cũng chẳng là “cái đinh” gì”. McCollough dẫn dắt tiếp: “Người Mỹ chúng ta giờ đây yêu các danh hiệu hơn là những thành công thật sự. Chúng ta coi danh hiệu là mục tiêu và sẵn sàng thỏa hiệp, tự hạ thấp các chuẩn mực, hoặc phớt lờ thực tế khi cho rằng đó là cách nhanh nhất hoặc duy nhất để có được những thứ có thể đem ra khoe mẽ, để có một vị trí tốt hơn trong xã hội... Hậu quả là chúng ta đang coi rẻ các trải nghiệm đáng giá, thế nên việc xây dựng một cơ sở y tế ở Guatemala trở thành chìa khóa để chạy xin vào học tại Bowdoin (học viện nghệ thuật nổi tiếng ở Mỹ) hơn là việc này vì cuộc sống của người dân Guatemala”. Hạnh phúc không tự tìm đến McCollough nhấn mạnh mục tiêu thật sự của giáo dục không phải đem lại lợi thế vật chất mà là sự hiểu biết, yếu tố quan trọng của hạnh phúc. “Trước khi các em tỏa đi khắp nơi, tôi kêu gọi các em hãy làm những gì mình yêu thích và tin tưởng. Hãy kháng cự lại sự thỏa mãn nhất thời, vẻ lóng lánh bề ngoài của vật chất, sự tê liệt của lòng tự mãn. Hãy xứng đáng với những lợi thế mà mình có”. Sau khi khuyên các học sinh hãy tiếp tục đọc sách thường xuyên, phát triển ý thức về đạo đức, khẳng định cá tính, dám ước mơ, làm việc chăm chỉ và tư duy độc lập, yêu những người mình yêu hết mình, McCollough nhắc nhở: “Hãy làm như vậy một cách nhanh chóng, bởi mỗi giây phút đều quý giá. Cuộc sống hạnh phúc, có ý nghĩa là một thành tựu đòi hỏi nỗ lực, chứ không phải là thứ từ trên trời rơi xuống vì các em là người tốt hay vì cha mẹ đưa đến tận tay các em. Các em hãy nhớ rằng những người tạo dựng nên nước Mỹ đã nỗ lực đảm bảo quyền được sống, được tự do và mưu cầu hạnh phúc. Mưu cầu là một động từ, và tôi nghĩ các em sẽ không có nhiều thời gian để nằm ườn một chỗ xem mấy trò nhảm nhí trên YouTube. Đừng mong chờ cảm hứng và niềm đam mê sẽ tự tìm đến với các em. Hãy đứng dậy, bước ra bên ngoài, tự mình khám phá, tìm kiếm cảm hứng cùng niềm đam mê và hãy giữ chắc nó bằng cả hai bàn tay”. Kết thúc phát biểu của mình, ông McCollough nhắn nhủ các học sinh hãy tự chủ, độc lập, sáng tạo không vì sự thỏa mãn do hành động đó mang lại, mà vì những điều tốt đẹp nó đem đến cho người khác. “Và khi đó, các em sẽ phát hiện sự thật vĩ đại và lạ lùng của cuộc sống. Đó là lòng vị tha, sống vì người khác, và đó là điều tuyệt vời nhất các em có thể làm được cho bản thân. Những niềm vui ngọt ngào nhất trong cuộc sống chỉ đến khi các em nhận ra rằng mình không có gì là đặc biệt”. SƠN HÀ (Theo The Swellesley Report)
  7. Đệ tử không biết, xin Sư Phụ dạy rỏ thêm ạ.
  8. Chiếc cầu Rama 17.000 năm tuổi “Cây cầu của Rama” này còn có tên là “Ram Setu”, và “cây cầu của Adam”. Nó nối liền Tamil Nadu, Ấn Độ, với Mannar, Sri Lanka. Người Ấn Độ nói rằng cây cầu dài tới 48km này đã có 17.000 tới 25.000 năm tuổi. >> Dấu tích nền văn minh toàn cầu thời tiền sử (Kỳ 1) >> Kỹ thuật cơ khí siêu đẳng thời thượng cổ (Kỳ 6) >> “Người tiền sử” đã phát minh ra kính thiên văn? Ấn Độ là một trong những nền văn minh lâu đời nhất trên thế giới. Theo các học giả phương Tây, nền văn minh này ra đời trong thời đại của những nền văn minh xuất hiện sớm khác như văn minh Lưỡng Hà, Ai Cập, cổ Trung Hoa, vv… Tức là khoảng chỉ 7.000 năm. Tuy nhiên, ít người biết là hầu hết người Ấn Độ không hề chấp nhận quan điểm đó của người phương Tây. Theo họ, nền văn minh Ấn Độ đã bắt nguồn từ những thời đại vô cùng xa xôi, vượt xa tất cả những trí tưởng tượng Tây phương phong phú nhất. Swami (Tiếng Phạn: स्वामी), có nghĩa là “người thấu biết, và là người kiểm soát được tự thân”, “không bị ràng buộc bởi các giác quan”. Đó là một danh hiệu được thêm vào tên của một người để nhấn mạnh kiến thức và sự tinh thông Yoga, cũng như lòng mộ Đạo của người đó. Guru (Tiếng Phạn: गुरु). Có nghĩa là người có hiểu biết sâu rộng, có trí tuệ thông thái, giỏi về một lĩnh vực nhất định nào đó, và dùng hiểu biết ấy để hướng đạo cho người khác. Ảnh chụp từ vệ tinh cho thấy một sợi chỉ đất dài nối liền Ấn Độ và Sri Lanka. Người Ấn Độ nói rằng đó là tàn tích của một cây cầu bằng “đá nổi” dài 48km được vua Rama xây dựng hàng chục ngàn năm trước để vượt biển tiến đánh vua Ravena Không như các nước phương Tây, người Ấn Độ không quan tâm nhiều đến các giá trị vật chất mà chú trọng vào đời sống tâm linh, tin vào các giá trị văn hóa truyền thống. Tại Ấn Độ, dù là người dân thất học hay là những khoa học gia đại tài, hầu như tất cả đều tôn kính các Swami và các Guru – những bậc thầy cao cả của họ. Ở đó người ta hiểu rằng trí tuệ, sự thông thái của các bậc thầy vượt rất xa những hiểu biết của mọi nhà khoa học. Và, tất cả các bậc thầy ấy đều nói rằng, lịch sử của loài người là vô cùng cổ xưa và cũng rất thần thánh. Trong sử thi Ramayana mà người Ấn Độ vẫn còn giữ gìn được tới ngày nay, có kể về “chiếc cầu Rama”. Từ một thời rất rất xưa, vua Rama và quân đội của ông đã xây một cây cầu bằng “đá nổi” để vượt qua eo biển và tấn công vua Ravena nhằm giải cứu nàng Sita, vợ của Rama đã bị Ravena bắt cóc. Ravena là một kẻ tham lam vô độ, bị ám ảnh bởi sự giàu sang và quyền lực của thế gian, chìm đắm trong dục vọng. Một cuộc chiến lớn đã diễn ra, và cuối cùng Rama đã chiến thắng, cứu được nàng Sita. Câu chuyện đã trở thành một biểu tượng chiến thắng của cái Tốt trước cái Xấu, cái Thiện trước cái Ác, của Ánh sáng trước Bóng tối. Thế nhưng, câu chuyện đầy ý nghĩa này trong sử thi Ramayana – cổ thư mà người Ấn Độ luôn cho là một phần lịch sử cực kỳ xa xưa – rốt cuộc có phải là một sự kiện có thật đã từng xảy ra trong quá khứ hay không? Ở xung quanh cây cầu Rama người ta tìm được khá nhiều các tảng “đá nổi” như thế này. Nếu các khoa học gia phương Tây gặp tình huống đó họ sẽ nghiên cứu với cặp mắt nghi ngờ, tuy nhiên ở Ấn Độ thì hầu hết người ta đều cho rằng câu chuyện đó hiển nhiên là một sự kiện lịch sử có thật, đã xảy ra cách nay hàng chục hàng trăm nghìn năm trước. Câu chuyện ấy đối với “giới khoa học chủ lưu” phương Tây quả là một việc không thể tin nổi, tuy nhiên đối với người Ấn thì quá bình thường. Điều đó làm ta liên tưởng đến Xóm Cọi – nơi từ xưa đã xảy ra nhiều trường hợp luân hồi đầu thai, và người dân nơi ấy xem hiện tượng đầu thai bình thường như đi chợ, nhưng đối với những người khác lại hết sức khó tin. “Cây cầu của Rama” này còn có tên là “Ram Setu”, và “cây cầu của Adam”. Nó nối liền Tamil Nadu, Ấn Độ, với Mannar, Sri Lanka. Người Ấn Độ nói rằng cây cầu đã có 17.000 tới 25.000 năm tuổi. Một số hiện vật cổ tìm được trên Cầu Rama Cầu dài 48km. Biển ở đây rất nông, chỉ sâu từ 1 – 10 mét, do vậy tàu thuyền gặp trở ngại nhiều Một vài hình ảnh về những cuộc biểu tình của người dân Ấn phản đối việc chính phủ phá cầu Vào năm 2007, chính phủ phá cây cầu mà theo người dân Ấn là vô cùng thiêng liêng này để thông đường biển. Kết quả là nhiều cuộc biểu tình phản đối của người dân đã nổ ra. Thông tin thêm về cây cầu Rama và cuộc thỉnh nguyện chữ ký quốc tế của người dân Ấn nhằm xin chính phủ ngừng phá cầu có thể xem ở đây. Minh Trí (tổng hợp) nguồn: http://tin180.com/khoahoc/bi-an-the-gioi/20101114/chiec-cau-rama-17-000-nam-tuoi.html ===================== Bổ sung: Sử thi Ramayana Ấn kể rằng với sự trợ giúp của Thần khỉ Hanuman cùng đoàn binh khỉ, Rama đã xây dựng được cây cầu để tiến đánh bại Ravena và giải cứu nàng Sita.
  9. Rama Navami – the Birthday of Lord Rama Ram Navami, or Ramanavami, is celebrated as the birthday of Lord Rama and it falls on the ninth day of Shukla Paksha (waxing phase of moon) in the month of Chaitra (March – April). In 2011, the date of Ram Navami is April 12. Ramanavami also marks the end of the Chaitra Navratri. Lord Rama is the seventh incarnation of Lord Vishnu. Rama Navami (Devanagari: राम नवमी) also known as Sri Rama Navami ( IAST Sri Rama-navami ). Sri Ram Navami is a great festival in India, celebrating the birth of Lord Rama to King Dasharatha and Queen Kausalya of Ayodhya. Rama is the 7th incarnation of the Dashavatara of Vishnu. The festival falls in the Shukla Paksha on the Navami, the ninth day of the month of Chaitra in the Hindu calendar. Thus it is also known as Chaitra Masa Suklapaksha Navami, and marks the end of the nine-day Chaitra-Navratri celebrations. The ancient story of Ramayana and the tale of Rama has been a part of the vedic culture for a very long time. Rama is one of the most potent incarnations of the Lord Vishnu, who appeared to destroy the mighty Ravana. The festival of Rama Navami is celebrated by Hindus to remember the auspicious nine days of Rama’s life when he was born. The birth of the young Lord Rama is celebrated during the 9 days that end on the ninth day of the month of Chaitra, the final month of the Hindu calendar. The day is generally also known as Chaitra Navaratri to mark the birth of Lord Rama. The Tenth Chapter of the Ninth Canto of Srimad Bhagavatam describes how Lord Ramachandra appeared in the dynasty of Maharaja Khatvanga. It also describes the Lord’s activities, telling how He killed Ravana and returned to Ayodhya, the capital of His kingdom. The son of Maharaja Khatvanga was Dirghabahu, and his son was Raghu. The son of Raghu was Aja, the son of Aja was Dasaratha, and the son of Dasaratha was Lord Ramachandra, the Supreme Personality of Godhead. When the Lord descended into this world in His full quadruple expansion-as Lord Ramachandra, Lakshmana, Bharata and Satrughna, great sages like Valmiki who were actually in knowledge of the Absolute Truth described His transcendental pastimes. Srila Sukadeva Gosvami describes these pastimes in brief. In the arena of the sacrifice performed by Visvamitra, when He was just a young boy Lord Ramachandra, helped the great sage by killing Subahu and striking Marica, the she-demon, who was disturbing the sages in their daily discharge of duties. In the assembly where mother Sita was to choose her husband, in the midst of the heroes of this world, He broke the bow belonging to Lord Shiva. Thus the Lord achieved the hand of mother Sita, who was indeed the goddess of fortune who constantly rests on the chest of the Lord. While returning from Sita’s home, Lord Ramachandra met Parasurama. Although Parasurama was very proud, having rid the earth of the royal order twenty-one times, he was defeated by the Lord, who appeared to be a ksatriya of the royal order. Maharaja Dasaratha had three wives. One of them, Kaikeyi, served him very pleasingly, and he therefore wanted to give her a benediction. At the time of the coronation of Prince Ramachandra, Kaikeyi requested her husband to enthrone her son Bharata and send Ramachandra to the forest. Maharaja Dasaratha, being bound by his promise, ordered Ramachandra to go to the forest. And the Lord, as an obedient son, accepted the order immediately and entered the forest, accompanied by Lakshmana and Sita. While wandering in the forest, where He accepted a life of hardship, carrying His invincible bow and arrows in His hand, Lord Ramachandra deformed Ravana’s sister, who was polluted with lusty desires, by cutting off her nose and ears. He also killed her fourteen thousand Raksasa friends, headed by Khara, Trisira and Dusana. When Ravana, who had ten heads on his shoulders, heard about the beautiful and attractive features of Sita, his mind was agitated by lusty desires, and he went to kidnap her. Ravana’s kidnapping of Sitadevi was the beginning of this demon’s misfortune. When Marica (a magician) assumed the form of a golden deer, Lord Ramachandra went to bring the deer to please Sitadevi, but in the meantime Ravana took advantage of the Lord’s absence to kidnap her. Then the Lord killed the demon Kabandha and the commander Vali and established a friendly relationship with Sugriva. After organizing the military strength of the monkeys He went with them to the shore of the sea. Then Samudra came to the Lord and surrendered to Him, wanting to help Him in every way. Samudra told that his water will present no impediment to Lord’s going to Lanka, but requested Lord Ramachandra to construct a bridge over it to spread His transcendental fame. Great mountain peaks covered with trees and plants were thrown into the sea by the monkey soldiers and began to float by the supreme will of the Lord. Thus constructiong the bridge, with the direction and help of Vibhisana, Ravana’s brother, the Lord, along with the monkey soldiers, headed by Sugriva, Nila and Hanuman, entered Ravana’s kingdom. Previously, Hanuman, the eternal servant of the Lord, had set fire to Lanka, and now, the entire city of Lanka was disturbed by the monkey soldiers. When Ravana saw these, he called for Nikumbha, Kumbha, Dhumraksa, and other Rakshasas and also his son Indrajit. Thereafter he called for Prahasta, Atikaya, Vikampana and finally Kumbhakarna. Then he induced all his followers to fight against the enemies. Lord Ramachandra, surrounded by Lakshmana and monkey soldiers attacked the soldiers of the Rakshasas, who were fully equipped with various invincible weapons. But because the soldiers of Ravana were condemned by the curse of mother Sita, the monkeys were able to kill them simply by throwing stones and trees. Lord Ramachandra rebuked Ravana for his shameful act and then He fixed an arrow to His bow, aimed at Ravana, and released the arrow, which pierced Ravana’s heart like a thunderbolt. Ravana, vomiting blood from his ten mouths, fell from his airplane and was thus killed. Then in accordance with Lord Ramachandra’s order, Vibhishana ruled Lanka. The Lord delivered Sitadevi from the Asoka forest and carried her in a flower airplane to His capital Ayodhya, where He was received by His brother Bharata. After Lord Ramachandra, accompanied by Lord Lakshmana and mother Sitadevi, met all His relatives, the great sage Vasistha enthroned Him as King and Lord Ramachandra ruled Ayodhya. He cared for the citizens exactly like a father, and the citizens, being fully engaged in their occupational duties of varna and asrama, accepted Him as their father. Lord Ramachandra became King during Treta-yuga, but because of His good government, the age was like Satya-yuga. Everyone was religious and completely happy. During the reign of Lord Ramachandra the forests, the rivers, the hills and mountains, the states, the seven islands and the seven seas were all favorable in supplying the necessities of life for all living beings. When Lord Ramachandra, the Supreme Personality of Godhead, was the King of this world, all bodily and mental suffering, disease, old age, bereavement, lamentation, distress, fear and fatigue were completely absent. There was even no death for those who did not want it. All these facilities existed because of Lord Ramachandra’s presence as the King of the entire world. A similar situation could be introduced immediately, even in this age called Kali, the worst of all ages. It is said, kali-kale nama-rupe Krishna-avatara: Krishna descends in this Kali-yuga in the form of His holy name—Hare Krishna, Hare Rama. If we chant offenselessly, Rama and Krishna are still present in this age. The kingdom of Rama was immensely popular and beneficial, and the spreading of this Hare Krishna movement can immediately introduce a similar situation, even in this Kali-yuga.
  10. Chưa công bố tên người mua dâm vì... nhân đạo Phó cục trưởng Cục Phòng chống tệ nạn xã hội Lê Đức Hiền cho biết như vậy khi được hỏi về nguyên nhân tại sao trong các vụ mại dâm bịphát hiện, danh tánh, tên tuổi người mua dâm vẫn được giữ kín. Trao đổi với phóng viên, ông Lê Đức Hiền nói: Tệ nạn mại dâm vẫn tiếp tục có những diễn biến phức tạp. Giờ thì có đủ người mẫu, diễn viên,học sinh, sinh viên, mại dâm nam, mại dâm phục vụ người già... Tất cả đều được tổ chức ngày càng tinh vi, kín đáo, có những đường dây phức tạp. Đặc biệt, xuất hiện lớp đại gia có lối sống hưởng thụ, không chân chính, coi tiền như rác. Có một thực tế là người bán dâm khi bị phát hiện, bắt giữ thì bị công bố tên tuổi, quê quán, nghề nghiệp rõ ràng. Còn danh tánh người mua dâm vẫn trong bức màn kín? - Theo pháp lệnh phòng chống mại dâm thì không công bố tên tuổi, hình ảnh người bán dâm, mua dâm. Nhưng nếu người bán dâm có hành vi môi giới, tổ chức thì thành tội phạm hình sự. Tuy nhiên, pháp lệnh cũng quy định ngoài việc bị xử phạt hành chính tại chỗ hành vi mại dâm, người mua dâm sẽ bị thông báo về địa phương để chính quyền địa phương nhắc nhở, giáo dục. Nếu người mua dâm là cán bộ công chức, đảng viên hay lực lượng vũ trang thì tên tuổi sẽ bị thông báo cho người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền quản lý người đó để giáo dục và xử lý kỷ luật. Quy định rõ như vậy nhưng tới giờ đã có người mua dâm nào bị xử lý một cách triệt để theo điều khoản này chưa? - Pháp lệnh đã quy định rất rõ ràng, nhưng thực tế các trường hợp bị xử lý vi phạm theo điều khoản này chỉ có thể đếm trên đầu ngón tay, hay nói cách khác việc thực thi pháp lệnh thực tế chưa đúng, chưa đủ, số người mua dâm bị thông báo về địa phương, cơ quan, đơn vị còn rất ít. Phó cục trưởng Cục Phòng chống tệ nạn xã hội (Bộ LĐ-TB&XH) Lê Đức Hiền Công tác lâu trong lĩnh vực phòng chống mại dâm, cá nhân ông có cho rằng nên công bố danh tánh người mua - bán dâm? - Việc công bố danh tánh người mua dâm ngoài răn đe thì cũng tính đến các hệ lụy khác. Theo tôi, đây là vấn đề xã hội lớn, cần phải xem xét, bàn bạc kỹ lưỡng.Nếu công bố tên người mua dâm mà có tác dụng giảm tệ nạn mại dâm thì ta nên thí điểm làm thử để nghe ngóng xem thế nào. Chứ ở một số nước, cả nước tư bản cho phép có “khu đèn đỏ”, các chính khách chỉ cần xuất hiện ở đó rồi bị phát hiện đưa lên báo chí thì uy tín đã giảm sút, có khi bản thân chính khách phải tự động xin từ chức. Có cung thì có cầu, tình hình mại dâm vẫn gia tăng. Vậy đã đến lúc chúng ta xem xét cho thành lập các “khu đèn đỏ”? - Cho phép “khu đèn đỏ” là một vấn đề lớn, rất phức tạp, liên quan đến thể chế chính trị, pháp luật, đến phong tục tập quán, bộ máy và công tác quản lý... Bây giờ, nếu ta lập và cho phép “khu đèn đỏ” thì quản lý khu ngoài đèn đỏ thế nào? Có “khu đèn đỏ” là có các tệ nạn xã hội, có buôn bán người, có bảo kê, có đâm thuê chém mướn, có ma túy... Ở các nước đã có “khu đèn đỏ” thì mua - bán dâm ngoài khu đèn đỏ sẽ bị xử lý cực nghiêm. Vậy ta đã có đủ bộ máy, công tác quản lý đã tốt chưa để cho phép “khu đèn đỏ”? Làm công tác này, chúng tôi quá rõ việc các nước cho phép“khu đèn đỏ”, công nhận bán dâm là một nghề đang thất bại đau đớn thế nào vì không thể kiểm soát được tình hình. Mà đó đều là những nước tiên tiến, công tác quản lý, thực thi pháp luật cực tốt. Còn ở ta, lúc này chắc chắn chưa thể bàn tính đến những chuyện như thế. (Theo Tuổi trẻ) ============================= Giả sử lảnh đạo cơ quan cũng là người từng mua dâm, khi nhận được thông báo về một nhân viên nào đó cũng mua dâm thì sẽ là "ngưu tầm ngưu mã tầm mã", sẽ có sự "cảm thông" trở thành bao che lẫn nhau. Vô hình trung khi thông báo về cơ quan mà không thông báo cho gia đình đình thì cơ quan là nơi ém nhẹm thông tin đáng tin cậy nhất. Thật là nhân đạo.
  11. Lỡ thêu rồi thì...cuốn lại cất thật kỹ, đừng bao giờ treo ra nhé. Thiên Đồng
  12. Có một lớp Khí công dưỡng sinh trị bệnh tại nhà trẻ Hoa Mai, góc đường Tú Sương và Trương Định quận 3 Tp HCM, mỗi tối từ 19g đến 20g, bạn đến học được thì đi. Giải quyết được bệnh tình của bạn. Tùy duyên nhé. Thiên Đồng
  13. Kết quả trận Anh - Pháp là huề 1-1 Đồi Xuân viết -->nội dung đúng nhưng tỉ số chưa đúng. Còn lại các nick khác đều đoán không trúng
  14. Bạn đang ở Sài Gòn hay ở Hà Nội?
  15. Người Ấn Độ cổ đã chế tạo tàu vũ trụ ? Trong ấn tượng của mọi người, khí cụ bay tốc độ cao khẳng định là phát minh của người hiện đại nhưng phát hiện mới của các nhà khảo cổ lại đưa ra một đáp án hoàn toàn khác: Người cổ xưa không những có thể chế tạo khí cụ bay mà còn có thể chế tạo tàu vũ trụ. Mấy năm gần đây, mọi người căn cứ vào tư liệu văn hiến cổ Ấn Độ, đã chế tạo ra một con tàu với tốc độ bay 5,7km/giờ. Xét từ góc độ khoa học kỹ thuật hiện đại, đây là một chuyện rất nhỏ. Tư liệu văn hiến này được phát hiện trong một hầm ngầm ngôi đền bị đổ sập ở thời tiền sử. Nó được viết bằng tiếng Phạn cổ đại trên ống gỗ. Tư liệu văn hiến này ghi chép rất tỉ mỉ phương thức chuyển động, cấu tạo, nguyên liệu chế tạo của phi thuyền “Xe của Thần chiến tranh” cùng cách huấn luyện và trang phục của phi công… Nội dung đề cập đến rất nhiều, dài hơn 6000 dòng. Điều này có nghĩa, khi loài người phát minh ra xe lửa, máy bay, tàu vũ trụ và đang say sưa trước những phát minh sáng tạo vĩ đại của mình, họ không ngờ rằng, những công cụ vô cùng hiện đại hóa này đã tồn tại từ mấy nghìn năm trước. Điều này khiến các nhà khoa học vô cùng kinh ngạc. Nói về chiếc “Xe của Thần chiến tranh”, chúng ta cần phải bắt đầu đi từ 424 ngôi đền thờ thần ở thành cổ Kanchiparam, miền nam Ấn Độ. Tương truyền, ở thành cổ này lúc nhiều nhất có tới 1000 ngôi đền, vì thế nó được gọi là “thành phố đền miếu”. Trong những ngôi đền này, ngoài những bức tượng thần cổ Ấn Độ như đấng toàn năng Purusha, thần lửa Agni, thần sáng tạo Brahma, thần hủy diệt Shiva, thần bảo vệ Vishnu, thần gió Vayu, thần nước Varuna, diêm vương Yama….và có cả tượng điêu khắc phi thuyền. Trên các phi thuyền có nhiều hình dạng khác nhau và khắc rất nhiều nhân vật thần thoại và được gọi là “Xe của Thần chiến tranh”. Tương truyền, các phi thuyền này chính là công cụ bay của các nhân vật thần thoại. Tàu vũ trụ Hy Lạp cổ hầu như có liên hệ với “Xe của Thần chiến tranh” Ấn Độ cổ. Các nhà nghiên cứu phát hiện, “Xe của Thần chiến tranh” là một loại phi thuyền với kết cấu nhiều lớp thiết bị cách điện, thiết bị máy móc điện tử, thiết bị hút khí, cánh quạt, cột thu lội, động cơ phun lửa đều gắn trên phi thuyền. Trong tư liệu văn hiến nhiều lần chỉ rõ, phi thuyền có hình dáng Kim tự tháp, trên đỉnh phi thuyền có nắp trong suốt. Đây quả thật chính là “Đĩa bay” trong truyền thuyết trước đây. Tư liệu văn hiến này phát hiện trong nhà hầm đền miếu đổ nát thuộc thư viện tiếng Phạn ở thành phố Mysore, miền Nam Ấn Độ. Những câu chuyện thần thoại về chiếc phi thuyền này bắt đầu càng trở nên mờ mịt, mê ly hơn! Những người trong thần thoại này là nhân vật thần thoại hay là nhân vật có thật? Chiếc phi thuyền kia la do người trái đất hay người ngoài hành tinh chế tạo ra? Điều này, ngay cả các nhà khoa học cũng không thể đưa ra câu trả lời xác đáng. Cách lái tàu vũ trụ cũng được miêu tả chi tiết trong tư liệu văn hiến này. Điều này cho thấy, ngày từ thời kỳ tiền sử, tàu vũ trụ và phi công vũ trụ đã xuất hiện ở Ấn Độ. Như vậy, nền khoa học kỹ thuật của nhân loại thật kỳ lạ và có cảm giác như ma thuật! Nhân loại vẫn khẳng định, sự phát triển của khoa học kỹ thuật mới bắt đầu từ thời cận đại và hiện đại. Điều này đã được rất nhiều sự thực chứng minh. Đối với phi thuyền Ấn Độ cổ đại, chúng ta chỉ có một cách giải thích: căn bản không phải loài người hiện đại chúng ta chế tạo ra những phi thuyền đó. Có lẽ những người ở thời kỳ cổ xưa ấy đã nhìn thấy các phi thuyền này. Rất có thể, các phi thuyền này do người ngoài hành tinh đã dùng để đến trái đất của chúng ta vì mục đích khảo sát khoa học, sau đó vì lý do nào đó, họ đã bỏ lại. Sau đó, người địa phương đã bắt chước và chế tạo ra phi thuyền của mình. Họ đã ví những người ngoài hành tinh kia là thần tiên và bắt đầu thờ cúng. (Nguồn: Những bí mật xuyên thế kỷ- Nhà XB Văn hóa&Thông tin)
  16. `Tri giác nguyên sinh’ Đời sống bí mật của cây cối (Phần 1) Cuộc phỏng vấn Cleve Backster và xem xét công trình khai thủy của ông về tri giác nguyên sinh Có tồn tại một công trình nghiên cứu có tiềm năng phá vỡ các mô hình hiện đại của chúng ta – hé lộ về ý thức ở những nơi mà chúng ta có thể không ngờ tới, và các mối liên hệ giữa các dạng sống gây sửng sốt và dường như không thể tồn tại. Hãy tưởng tượng bạn đi vào một phòng thí nghiệm cùng với một người bạn, và người làm thí nghiệm nói với bạn là hãy đơn giản bắt đầu một cuộc đối thoại. Một lúc sau, người làm thí nghiệm dừng bạn lại và cho bạn xem một cuộn băng ghi âm cuộc đối thoại. Đoạn băng ghi âm là về cuộc đối thoại, nhưng đoạn băng ghi hình lại là một đường trông giống như địa chấn kế – thực sự là một mẫu ghi lại hoạt động điện đang diễn ra ở một cái cây để ở góc phòng. Bạn thấy đấy, có lẽ nó sẽ làm bạn sửng sốt, rằng với mỗi cảm xúc giữa bạn và người bạn của bạn, cái cây cho thấy một phản ứng tương ứng với sự xung kích của, lấy ví dụ, ngạc nhiên, phẫn nộ hay bối rối. Và phản ứng xảy ra trông rất giống với phản ứng của một con người với cùng một loại sự kiện. Đây là một chuỗi các thí nghiệm khác nhau minh chứng hiện tượng được gọi là “tri giác nguyên sinh” bởi Cleve Backster, người làm nên khám phá này vào năm 1966, trong một loạt các thí nghiệm với cây cối và các dạng sống khác. Nghiên cứu của ông đề xuất rằng một hình thức giao tiếp cơ bản là có tồn tại trong tất cả các dạng sống, cho tới tận vi khuẩn và những tế bào cấu thành các sinh vật lớn hơn, và do đó có thể là “nguyên sinh”, so với những hình thức tri giác được công nhận rộng rãi như hình ảnh hay xúc giác. Ông Backster, một người đàn ông 85 tuổi, vui vẻ và đầy nhiệt huyết, là một cựu chuyên gia phát hiện nói dối của CIA, có tham gia sâu vào việc nghiên cứu khoa học trong cộng đồng chế tạo máy ghi, nơi ông được đánh giá cao. Ông đã phát triển thí nghiệm So sánh Vùng Backster (Backster Zone Comparison) vào cuối những năm 1950, một kỹ thuật vẫn còn được sử dụng rộng rãi trong các cơ quan chính phủ và quân đội để đọc máy ghi, và ông đã điều hành Trường phát hiện nói dối Backster (Backster School of Lie Detection) ở khu trung tâm San Diego, California trong 30 năm qua. Backster cho phổ biến công trình của mình trong cuốn sách “Đời sống bí mật của cây cối” (The Secret Life of Plants), xuất bản năm 1973, mặc dù ông đã xuất bản những phát hiện của mình lần đầu tiên năm 1968. Sau khi cuốn “Đời sống bí mật của cây cối” được phát hành, Backster đã xuất hiện trong một vài buổi nói chuyện trực tiếp trên truyền hình và các phương tiện truyền thông khác, về những nhận thức của ông về cây cối. Nhưng ông cũng đã giảng dạy rộng rãi tại các hội nghị khoa học. Nghiên cứu của ông khiến người ta `nói chuyện’ với những cái cây của họ, và khuấy động hiện tượng “cây trồng trong nhà.” Không chỉ là cây cối Cửa sổ nhìn vào tri giác nguyên sinh: Cleve Backster bắt đầu những thí nghiệm của mình với cây huyết dụ. (Ảnh tặng của Cleve Backster/The Epoch Times) “Phần thú vị nhất của tất cả những điều này”, ông nói với tôi, “nó có thể bắt đầu với cây cối, nhưng kết thúc với các tế bào của con người. Bằng cách lấy một mẫu tế bào người trong một ống nghiệm và kiểm tra nó từ xa, các tế bào này hòa hợp với người hiến [tế bào], và điều này thật kinh ngạc đối với tôi; tôi muốn nói, điều này có đủ các loại hàm ý ở trong đó.” Thực sự là – Backster đã phát hiện ra rằng các tế bào của chúng ta đáp lại những cảm xúc của chúng ta khi chúng nằm bên ngoài cơ thể chúng ta, thậm chí cách xa đến hơn 100 dặm. Khi người hiến [tế bào] trải nghiệm một thay đổi cảm xúc, thì sẽ xuất hiện một phản ứng tương ứng trong các tế bào, và biểu hiện ra thành xung điện. “Cây cối thực sự chỉ là một điều tình cờ cho phép tôi phát hiện ra hiện tượng này, và rồi tôi tiếp tục theo đuổi điều này trong mọi thứ mà dường như gây ra một phản ứng đối với cây cối, cho dù đó là vi khuẩn trong sữa chua, trứng, v.v…” Backster đã phát hiện ra rằng đập vỡ một quả trứng, hay bỏ nó vào nước sôi sẽ gây ra một phản ứng đối với cây cối – như thể chúng nhạy cảm khi các sinh vật gần đó phải chịu đựng sự tổn hại. Khi mà người ta có thể không nghĩ rằng những quả trứng có sự sống, dường như chúng có một loại hoạt động sinh học nào đó. Backster chuyển sang theo dõi vi khuẩn, và tìm thấy các phản ứng tương tự như trên cây cối. Ông cũng đã đo đạc hoạt động điện trong những quả trứng, và thấy rằng chúng dường như cũng phản ứng với môi trường xung quanh. Cuối cùng, ông đo đạc hoạt động trong các tế bào người, chẳng hạn như các tế bào bạch cầu. Ben Bendig (Theo The Epoch Times)
  17. @ thangbacninh Có câu: " Đất rộng người thưa thì đất thắng người. Đất chật người đông thì người thắng đất". Do vậy nhà ở quá rộng, người ở quá ít là không tốt. Còn tại sao thì sách xưa không giải thích, coi như thuộc lòng. Từ đó suy ra các trường hợp tương tự. Phong thủy Lạc Việt có thể giải thích những trường hợp này. Thiên Đồng
  18. Tổn thương uy tín ngành ve chai TTC - Tổng hội Ve chai và sắt thép phế liệu phía Nam (gọi tắt là Tổng hội Ve chai phế liệu) đóng văn phòng tại quận Gò Vấp, vừa gửi đến báo Tuổi Trẻ Cười một bạch thư. Được sự đồng thuận của báo, chúng tôi xin công bố những nội dung quan trọng của bạch thư này. Mở đầu, bạch thư cho biết Tổng hội Ve chai phế liệu gồm những chị em nghèo, quê gốc ở các tỉnh Bắc Trung bộ, về phía Nam để thu mua ve chai, sắt thép phế liệu, báo cũ, bao bì cũ kiếm sống. “Chúng tôi chủ yếu lấy công làm lời, dãi nắng dầm mưa, đi vào hang cùng ngõ hẻm thu mua các thứ, bán lại kiếm lời để nuôi gia đình, bớt gánh nặng cho chính quyền địa phương đỡ phải xóa đói giảm nghèo...” - bạch thư viết. Bạch thư nhấn mạnh: “Chúng tôi mua bán nhỏ, giấy cũ mua 3.000đ/ ký, bán lại 4.000đ; sắt cũ mua 4.000đ/ ký bán lại 5.000đ. Các thành viên của Tổng hội bao giờ cũng đảm bảo hoạt động đạt hiệu quả kinh tế, hàng tháng gửi về quê trên 500.000 đồng để con cái có thêm chút tiền ăn học. Ấy vậy mà nay lại có một đơn vị kinh tế cạnh tranh không lành mạnh với chúng tôi, ra nước ngoài thu mua sắt thép phế liệu trên quy mô lớn. Thế nhưng, họ buôn bán lỗ sặc máu đào trào máu kép, làm tổn thương nghiêm trọng uy tín ngành ve chai phế liệu Việt Nam”. Bạch thư vạch rõ đơn vị kinh tế làm tổn thương nghiêm trọng uy tín ngành ve chai phế liệu Việt Nam là… Tổng công ty Hàng hải Vinalines. Bạch thư có đoạn: “Khác với chúng tôi mua bán nhỏ lẻ, Vinalines tổ chức một guồng máy khổng lồ, dùng đồng vốn cực kỳ to béo, bày đặt cạnh tranh mua bán giành thị trường với chúng tôi nhưng cung cách làm ăn thì dở ẹc”. Tiếp theo, bạch thư đưa ra những số liệu cụ thể nhằm chứng minh “cung cách làm ăn dở ẹc” đó. Theo tinh thần bạch thư, nguyên nhân của những vụ việc thua lỗ là: “Các vị lãnh đạo của Vinalines bị bệnh quáng gà nặng, hoàn toàn không có kiến thức về lĩnh vực thu mua sắt thép phế liệu”. Bạch thư cho rằng Vinalines thu mua món nào cũng lỗ. “Năm 2005, họ mua tàu Đại Việt giá 745 tỉ đồng, lỗ 181 tỉ đồng. Năm 2006, họ mua tàu Vinalines Glory giá 873 tỉ đồng, lỗ 115 tỉ đồng. Năm 2007, họ mua tàu Vinalines Galaxy giá 973 tỉ đồng, lỗ 192 tỉ đồng. Năm 2009, họ mua ụ nổi 490 tỉ đồng, nay vẫn chưa bán… làm sắt vụn được” - bạch thư đưa ra những dẫn chứng cụ thể. Tổng hội Ve chai phế liệu khẳng định: “Nếu ngành hàng hải tin tưởng Tổng hội chúng tôi, giao những số tiền khổng lồ ấy cho bất cứ một chị em nào đi nước ngoài thu mua các món hàng này thì bảo đảm bán lại luôn có lời và không bao giờ bị lỗ”. Bạch thư có đoạn tỏ ra hoài nghi nhẹ nhàng về cách thu mua và những người duyệt chi thu mua của Vinalines: “Kinh doanh ve chai phế liệu là một ngành không bao giờ bị lỗ. Chúng tôi nghĩ rằng những nhân vật đi thu mua phế liệu đã được người nước ngoài cho chấm mút, đẩy giá mua lên cao. Đây cũng là một nguyên nhân trực tiếp khiến Vinalines lỗ sặc máu đào trào máu kép”. Bạch thư nói rõ nếu ngành hàng hải Việt Nam muốn… học tập kinh nghiệm thu mua ve chai phế liệu đạt hiệu quả kinh tế, làm giàu cho đất nước thì Tổng hội Ve chai phế liệu sẵn sàng mở cuộc hội thảo tại… kinh Ruột Ngựa, Gò Vấp mời các vị Vinalines tham dự! Cũng như nhiều công dân có trách nhiệm khác, các chị em thu mua ve chai phế liệu đã tỏ ra hoài nghi về cách bổ dụng con người của ngành giao thông vận tải nói chung và ngành hàng hải nói riêng. Đoạn cuối của bạch thư viết: “Một người làm ăn dở ẹc và có vấn đề, đang bị thanh tra vì thu mua những thứ không bán được như ông Dương Chí Dũng - nguyên chủ tịch Hội đồng thành viên Vinalines - mà vẫn được bổ dụng làm cục trưởng Cục hàng hải. Tổng hội Ve chai phế liệu đang định liên lạc với ông để mua sắt thép phế liệu từ những con tàu cũ giúp Vinalines phục hồi tiềm lực kinh tế thì ông lại bỏ trốn mất. Bây giờ, Tổng hội không biết liên hệ với ai?!”. Báo Tuổi Trẻ Cười thật sự không đủ tư cách trả lời câu hỏi này của chị em thu mua ve chai phế liệu. Thôi thì đành nhờ ngành giao thông vận tải nghiên cứu và trả lời cho chị em vậy. ĐỒ BÌ
  19. @longphibatcai Luận như thế nào mà Pháp thắng?Thiên Đồng
  20. Sao không có ai tổng kết các quẻ đúng hay sai sau mỗi trận đấu vậy? Ai rảnh xung phong ghi tổng kết mới rút kinh nghiệm đoán quẻ chứ? Thiên Đồng Trước trận Anh - Pháp: CĐV Anh đang ở đâu? Đi khám phá mỏi rã chân, tôi thực sự băn khoăn không biết CĐV Anh đang ở đâu khi trận đấu giữa Anh và Pháp chỉ còn nửa ngày nữa là bắt đầu. >> Barton: Tôi xứng đáng hơn Henderson ở tuyển Anh >> CĐV Anh tẩy chay trận Anh-Pháp >> Trận Anh - Pháp: Welbeck sẽ dẫn dắt hàng công Tam Sư “Thắng cảnh” Donbass Arena hầu như chỉ toàn dân bản địa dạo mát, chụp ảnh. Fanzone, quầy bán vé vắng bóng fan Anh. Rình hơn nửa tiếng trước quầy bán vé, tôi cũng gặp được một CĐV Anh, đang nổi nóng hoa chân múa tay cốt để trình bày một vấn đề với nhân viên bán vé: CĐV Anh sẽ ngồi ở khu vực khán đài nào? Trong phòng, một người đàn ông ăn vận lịch sự nói vào loa: Chúng tôi cũng không dám chắc, họ ngồi rải rác. Anh chàng sau đó tự xưng là David nói với tôi: Anh cũng không biết CĐV Anh có đến Donetsk hay không. Anh dự định sẽ tự mò ra sân bay vào 8h tối (giờ địa phương) với hi vọng tìm vài người bạn để "nhập hội". David nói nhóm của anh mới có 5 người, quá ít nếu muốn tạo ra một bầu không khí khác biệt. Hóa ra ngay cả người Anh cũng có cùng thắc mắc với tôi. Vé xem trận Anh gặp Pháp đã bán hết mà người ta chẳng biết CĐV Anh ngồi chỗ nào. Vậy rốt cuộc lượng vé ấy đã chạy tới tay ai? Lang thang , tôi gặp rất nhiều CĐV mặc áo ĐT Anh, nhưng hóa ra họ lại là người bản địa. Liệu có như lời Sol Campbell nói, CĐV Anh sẽ bỏ EURO vì sợ phân biệt chủng tộc? Thạch Long ============================ Từ hình trên, bạn có thể lấy quẻ cảm ứng mà luận trận Anh - Pháp không? Thiên Đồng
  21. Chuyện ít biết về những pho tượng Bồ-tát Địa Tạng mang hình hài trẻ em ở Nhật Bản (HDPT) - Bất kỳ ai đến vùng núi lửa Chausudake, quận Tochigi, Nhật Bản đều không khỏi kinh ngạc trước hình ảnh hàng trăm bức tượng Jizo (Địa Tạng) nhỏ được dựng lên ở đây. Cách sắp xếp các bức tượng này tạo thành những pho tượng huyền bí. Jizo là một trong những vị Bồ-tát được người Nhật sùng kính nhất, được người Nhật coi là vị cứu tinh có khả năng xoa dịu những đau khổ mà con người phải gánh chịu khi xuống địa ngục. Những bức tượng Jizo (Địa Tạng) này hé lộ những bí mật về Phật giáo ở Nhật Bản. Jizo và truyền thuyết về vị Bồ Tát bảo vệ trẻ con Vùng núi lửa Chausudake, quận Tochigi, Nhật Bản, ngoài cảnh quan thiên nhiên kỳ vĩ, hoang vu, những người đã từng đặt chân đến nơi đây đều không thể bỏ qua việc chiêm ngưỡng hàng trăm bức tượng nhỏ nằm san sát bên nhau tạo thành một đội quân huyền bí. Người ta gọi chúng là những bức tượng nhỏ Jizo. Jizo (hay còn gọi là Ngài Địa Tạng) là một trong những vị Bồ-tát được người Nhật Bản sùng kính nhất, được coi như vị cứu tinh có khả năng xoa dịu những khổ đau mà con người phải gánh chịu khi xuống địa ngục, mang lại sức khỏe, thành công trong cuộc sống. Hình ảnh Bồ-tát Jizo có thể tìm thấy ở rất nhiều nơi trên đất nước mặt trời mọc, nhưng chỉ ở Chausudake mới có những bức tượng được tạc từ những hòn đá núi lửa đen, tạo nên một khung cảnh âm u, huyền bí đến khó quên. Những bức tượng đứng san sát nhau, phần lớn đội mũ màu đỏ, mang yếm vải, hai bàn tay rất to chắp trước ngực và cùng hướng mặt về một phía. Trong quan niệm của người Nhật Bản, Bồ-tát Jizo rất thương yêu trẻ em, và vì thế Ngài là vị Bồ Tát có một sứ mệnh rất đặc biệt là bảo vệ trẻ em. Chính vì vậy mà những bức tượng đều mang hình dáng đáng yêu và khuôn mặt bầu bĩnh của trẻ thơ. Theo sự tin tưởng của người Phật tử Nhật Bản, lứa tuổi trẻ con vì trí óc còn non nớt chưa phát triển nên không thể phân biệt được phải trái, cũng như không thể thấu hiểu được những giáo lý của đạo Phật. Dĩ nhiên vì không thông hiểu giáo lý, chúng không thể tu tập để đạt đến giác ngộ, vì thế nên tuy ngây thơ vô tội, sau khi từ giã cõi đời chúng không thể sinh vào cảnh giới Phật, kể cả cảnh giới Tịnh Độ. Ngược lại chúng bị rơi vào cõi u mê mờ mịt. Huyền thoại Á Đông thường đề cập đến một dòng sông mà người chết trong giai đoạn thân trung ấm cần phải vượt qua, đó là sông Nại Hà. Theo truyền thuyết của Nhật Bản, những trẻ con sau khi chết đều tụ tập lại bên dòng sông này. Do lòng thương nhớ khôn nguôi đến những người thân yêu, tại đây những đứa trẻ đã nhặt những hòn đá cuội xếp thành một ngôi nhà để tưởng nhớ đến cha mẹ, anh chị em mình. Một số huyền thoại cho rằng chính trong lúc này Bồ-tát Jizo đã hiện ra để chơi với chúng, khuyến khích chúng, giúp chúng xây dựng những ngôi nhà trẻ con nhằm tích lũy công đức để nhờ đó có thể vượt qua dòng sông Nại Hà, trong khi chờ đợi chúng lớn khôn với đầy đủ trí phán đoán để có thể đi đầu thai sang kiếp khác. Tuy nhiên trong số những truyền thuyết này, cũng có chuyện đã kể lại một cách thương tâm và ghê rợn hơn. Truyện mô tả không khí bên bờ sông Nại Hà rất là đìu hiu và thê lương, trẻ con thì không ngớt khóc than vì không còn cha mẹ để nương tựa, bấu víu. Trong lúc này, một mụ phù thuỷ độc ác tên là Datsuba với một con mắt cháy đỏ hung dữ hiện ra, lột hết áo quần của tất cả bọn trẻ treo lên cành cây. Mụ không ngớt nguyền rủa chúng là do chết yểu nên chúng đã không hoàn tất bổn phận của người con là phải săn sóc, giúp đỡ cha mẹ lúc cha mẹ già yếu. Để bù lại, mỗi ngày mụ bắt chúng phải ở trần truồng xây những căn nhà bằng đá cuội như là một sự trừng phạt. Nhưng rồi cứ mỗi buổi chiều tối, khi những căn nhà đã sắp hoàn thành xong thì một bầy quỷ hung ác, đầu sừng răng nanh hiện ra, dùng gậy sắt đập phá hết tất cả những công trình xây dựng của bọn trẻ, miệng chúng không ngừng la lối nạt nộ. Những pho tượng Bồ-tát Jizo của Nhật Bản Chính lúc này thì Bồ-tát Jizo hiện ra và bọn trẻ vội vàng chạy đến chui vào tăng bào của Ngài để tìm chỗ ẩn trốn. Những đứa nhỏ hơn vì chạy không kịp thì vội đeo vào cánh tay hay thiền trượng của Ngài. Bồ-tát Jizo liền an ủi vỗ về chúng: “Không có gì các con phải sợ hãi cả. Từ đây ta là Mẹ, là Cha của các con.” Khi đó bọn quỷ đã xúm lại đòi Bồ-tát Jizo phải trao đám trẻ con lại cho chúng, nhưng Ngài đã dùng uy lực của mình phóng ra những vầng hào quang rực rỡ khiến bọn chúng đều khiếp sợ bỏ đi. Huyền thoại này của người Nhật đã mô tả lại những nỗi khổ đau mà ngay cả một đứa trẻ nhỏ bé ngây thơ vô tội cũng phải gánh chịu ở thế giới bên kia, và chỉ có Bồ-tát Jizo là người duy nhất đã cứu vớt những linh hồn bé nhỏ đó. Bồ-tát Jizo trong tín ngưỡng của người Nhật Bản Chính vì tin tưởng vào dòng sông Nại Hà này cũng như vào Bồ-tát Jizo mà người Nhật Bản trong hàng thế kỷ qua đã xây dựng lên rất nhiều đền đài, lăng tẩm để thờ phụng Ngài dọc theo các bờ sông hay các ghềnh đá bên cạnh bờ biển. Có nơi người ta sắp xếp hàng trăm bức tượng nhỏ khuôn mặt của Bồ-tát Jizo cùng với đồ chơi trẻ con xen kẽ bên cạnh những hòn đá tưởng niệm. Lâu ngày, những mộ tháp càng lớn dần lên do những người tin tưởng đến viếng thăm bỏ thêm vào những viên đá, không phải chỉ để tưởng nhớ đến những đứa con thân yêu của mình, mà cho cả những linh hồn của những trẻ thơ bất hạnh đã đi qua cõi đời này kể cả những trẻ đã chết ngay từ lúc chưa sinh. Bồ-tát Jizo, như đã nói ở trên, không phải chỉ là vị Bồ Tát bảo vệ trẻ con mà theo truyền thuyết của Nhật Bản, đặc biệt là dưới thời đại Hean, đã xuất hiện dưới hình dạng của một đứa trẻ. Triều đại Hean có thể được coi như là một triều đại đen tối trong lịch sử Nhật Bản. Chiến tranh, xã hội rối loạn, tai ương và dịch bệnh lan tràn khắp nơi tạo nên bao thảm cảnh đau thương, khốn khổ cho mọi người. Những tín đồ Phật tử thuần thành tin rằng đây là giai đoạn mạt pháp đã đến và trước những thảm cảnh này, may ra chỉ có những năng lực Bồ-tát mới có thể cứu vãn được. Thế là người ta dốc lòng tin tưởng vào năng lực cứu độ của Bồ-tát Jizo, và câu chuyện đã được truyền tụng như sau: Dưới triều đại của Hoàng đế Go-Ichido, bệnh đậu mùa phát triển và lan tràn nhanh chóng. Lưỡi hái của tử thần đã cuốn đi không biết bao nhiêu là sinh mạng. Nó không chừa bất cứ ai, bất kể quan hay dân, quý tộc hay kẻ bần hàn. Trước nỗi khổ đau lớn lao này của nhân sinh, với lòng từ bi vô lượng, một nhà sư tên Ninko không biết làm cách gì khác hơn là cầu nguyện đến sự giúp đỡ của chư vị Bồ-tát. Đêm đó trong giấc mơ, nhà sư Ninko trông thấy một đứa trẻ với khuôn mặt thanh tú xuất hiện, nói với ngài: “Nay thì nhà ngươi đã thấy rõ sự vô thường của kiếp sống”. “Vâng, những người tôi vừa mới nói chuyện với họ hồi sáng đây, tối đã mất rồi. Ngay cả chúng ta đang hạnh phúc hôm nay nhưng ngày mai những khổ đau, thương tâm sẽ xảy đến. Không có gì là vĩnh cửu”, sư Ninko trả lời. Đứa trẻ mỉm cười: “Không có gì để phải than trách trước những đau thương của kiếp sống. Có lúc nào mà con người lại không có những khổ đau? Nếu một người muốn giải thoát khỏi những nỗi khổ đau, họ nên nghe theo những lời dạy của Bồ-tát Jizo”. Sư Ninko tỉnh giấc và vội vàng chạy đến tìm Kojo, nhà điêu khắc tượng nổi tiếng ở địa phương và nhờ ông ta đúc một pho tượng Bồ-tát Jizo. Khi bức tượng hoàn thành, sư Ninko tổ chức một buổi lễ khánh thành và thuyết giảng một thời pháp về giáo lý và công năng của Bồ-tát Jizo. Tăng chúng và quần chúng Phật tử hoàn toàn chuyển động bởi thời pháp này và hết lòng quy ngưỡng vào Bồ-tát Jizo. Tất cả những người có mặt tại ngôi chùa, và tất cả những ai đến tham dự buổi lễ khánh thành này đều thoát qua khỏi kiếp nạn đậu mùa. Những kẻ kiêu hãnh, không tin tưởng đều bị cuốn đi trong cơn dịch bệnh này. Bệnh đậu mùa cũng đã chấm dứt không lâu sau đó, nhưng cư dân do lòng tin tưởng vì được cứu thoát trong tai ương vừa qua vẫn tiếp tục tôn sùng và thờ phụng Bồ-tát Jizo. Ngoài “những pho tượng thần bí” gồm hàng trăm bức tượng Bồ-tát Jizo ở vùng núi lửa Chausudake, ngày nay, ở những thành phố lớn đông đúc và nhộn nhịp của Nhật Bản, người ta cũng có thể dễ dàng tìm thấy những bàn thờ nhỏ thờ Bồ-tát Jizo ở một vài góc phố, vài ngã tư đường. Ở những nơi thờ phụng lớn hơn, người ta còn thấy Phật tử dâng cúng lên Ngài những bộ quần áo trẻ con, những đôi giày, dép Nhật Bản, vì người ta tin tưởng rằng Bồ-tát Jizo đã phải đi mòn không biết bao nhiêu là gót giày, lui tới không ngừng trên khắp đất nước Nhật để an ủi, săn sóc bất cứ ai cần đến sự giúp đỡ của Ngài. Đặc biệt khi người ta dâng cúng lên Ngài những bộ quần áo trẻ con là vì do niềm tin theo truyền thuyết, Ngài là người rất yêu thích trẻ con, là vị thần hộ mệnh của những trẻ thơ bất hạnh. Đây có thể nói là một nét độc đáo, đầy ý nghĩa của Phật giáo Nhật Bản. Theo Hồng Anh - VTC
  22. Trích: "Biến chuyển Mật tông" tác giả OSHO Trước hết: Mật tông nói rằng không đàn ông nào chỉ là đàn ông và không đàn bà nào chỉ là đàn bà. Mỗi đàn ông đều là cả đàn ông và đàn bà, cũng như vậy với đàn bà - là cả đàn bà và đàn ông. Adam có Eve trong anh ta, Eve có Adam có trong cô ta. Trong thực tế không ai chỉ là Adam và cũng không ai chỉ là Eve, chúng ta là Adam-Eve. Đây là một trong những sáng suốt nhất đã từng được đạt tới. Tâm lí chiều sâu hiện đại đã trở nên nhận biết về điều đó, họ gọi nó là lưỡng dục. Nhưng trong ít nhất năm nghìn năm Mật tông đã biết về điều đó, đã thuyết giảng về điều đó. Đó là một trong những phát hiện lớn nhất của thế giới, vì với việc hiểu biết này bạn có thể chuyển vào chiều hướng bên trong của mình; bằng không thì bạn không thể chuyển hướng vào trong được. Tại sao đàn ông lại yêu đàn bà? - vì anh ta mang người đàn bà trong mình, bằng không anh ta đã chẳng yêu. Rồi tại sao bạn lại yêu người đàn bà nào đó? Có hàng nghìn đàn bà, nhưng tại sao, bỗng nhiên, người đàn bà nào đó trở thành quan trọng nhất đối với bạn, dường như mọi đàn bà khác đều biến mất và chỉ còn mỗi người đàn bà đó trên thế giới? Tại sao? Tại sao người đàn ông nào đó lại hấp dẫn bạn? Tại sao ngay từ cái nhìn đầu tiên cái gì đó bỗng nhiên nhoáng lên? Mật tông nói: Bạn đang mang hình ảnh về người đàn bà trong bạn, hình ảnh về người đàn ông trong bạn. Mỗi đàn ông đều mang một đàn bà và mỗi đàn bà đều mang một đàn ông. Khi ai đó bên ngoài khớp với hình ảnh bên trong của bạn thì bạn yêu - đó là ý nghĩa của tình yêu. Bạn không hiểu về việc này, bạn đơn giản nhún vai nói, "Việc xảy ra vậy." Nhưng quả có cơ chế tinh tế trong đó. Tại sao điều đó đã xảy ra với người đàn bà nào đó, sao không với người khác? Hình ảnh bên trong của bạn khớp một cách nào đó, người đàn bà bên ngoài tương tự theo một cách nào đó. Cái gì đó đụng vào hình ảnh bên trong của bạn. Bạn cảm thấy, "Đây là người đàn bà của mình," hay "Đây là người đàn ông của mình"; cảm giác này chính là điều tình yêu là gì. Nhưng người đàn bà bên ngoài lại không định thoả mãn, vì không người đàn bà bên ngoài nào lại định hoàn toàn khớp với người đàn bà bên trong của bạn. Thực tại không theo cách đó chút nào. Có thể cô ấy khớp được một chút - có sự hấp dẫn, một sức hút, nhưng sớm hay muộn nó sẽ phôi phai. Chẳng mấy chốc bạn sẽ nhận ra rằng có cả nghìn lẻ một thứ mà bạn không thích trong người đàn bà này. Sẽ mất chút thời gian để đi tới biết về những điều đó. Trước hết bạn sẽ bị mê tít. Ban đầu sự tương tự sẽ quá nhiều, nó sẽ tràn ngập bạn. Nhưng dần dần bạn sẽ thấy rằng có cả nghìn lẻ một thứ, những vụn vặt đời thường, không khớp; rằng các bạn là những người ngoại lai, xa lạ. Vâng, bạn vẫn còn yêu cô ấy, nhưng tình yêu không còn mê đắm nữa, cái nhìn lãng mạn mất dần. Rồi cô ấy cũng nhận ra rằng điều gì đó hấp dẫn trong bạn, nhưng cái toàn bộ của bạn thì không hấp dẫn. Đó là lí do tại sao mỗi người chồng cố gắng thay đổi người vợ và mỗi người vợ cũng cố gắng thay đổi người chồng. Họ cố gắng làm gì vậy? Tại sao? Tại sao vợ cứ tiếp tục cố gắng thay đổi chồng? Để làm gì? Cô ta đã yêu người đàn ông này, rồi lập tức cô ta bắt đầu tìm cách thay đổi người đàn ông đó sao? Bây giờ cô ta đã nhận ra những dị biệt. Cô ta muốn vứt bỏ những dị biệt đó; cô ta muốn cắt bỏ vài mảnh ở người đàn ông này để anh ta hoàn toàn khớp với người đàn ông lí tưởng của mình. Và người chồng cũng cố gắng làm như vậy - không khó nhọc, không ương bướng như đàn bà, bởi vì người chồng chóng trở nên mệt mỏi - đàn bà hi vọng lâu hơn. Đàn bà nghĩ, "Hôm nay hay ngày mai hay ngày kia - một ngày nào đó ta sẽ thay đổi được ... " Phải mất gần hai mươi, hai mươi nhăm năm để nhận ra được sự kiện là bạn không thể thay đổi được người khác. Đến độ tuổi năm mươi, khi đàn bà đã qua tuổi mãn kinh và đàn ông cũng vậy, khi họ bắt đầu thực sự già thì họ trở nên tỉnh táo dần dần rằng chẳng có gì thay đổi cả. Họ đã cố gắng vất vả, họ đã thử đủ mọi cách... người đàn bà vẫn nguyên như vậy và người đàn ông cũng nguyên như vậy. Chẳng ai có thể thay đổi được ai. Đây là một kinh nghiệm lớn đạt tới, một hiểu biết lớn. Đó là lí do tại sao người già trở nên dễ tha thứ hơn: họ biết rằng chẳng cái gì có thể được làm cả. Đó là lí do tại sao người già trở nên thanh nhã hơn: họ biết rằng mọi thứ là như chúng hiện hữu. Đó là lí do tại sao người già trở nên dễ chấp nhận hơn. Người trẻ rất giận dữ, không chịu chấp nhận; họ muốn thay đổi mọi thứ, họ muốn làm cả thế giới theo cách họ thích. Cuộc vật lộn thật gian nan, nhưng điều đó chẳng bao giờ xảy ra. Nó không thể xảy được, nó không trong bản chất của mọi vật. Người đàn ông bên ngoài không bao giờ khớp hẳn với người đàn ông bên trong của bạn và người đàn bà bên ngoài cũng chẳng bao giờ tuyệt đối giống như người đàn bà bên trong của bạn. Đó là lí do tại sao tình yêu đem lại sự thích thú và cả nỗi đau nữa, tình yêu đem lại niềm hạnh phúc và cả nỗi bất hạnh nữa. Mà bất hạnh thì thường lại nhiều hơn là hạnh phúc. Mật tông đề nghị gì về điều này, thế thì phải làm gì? Mật tông nói: Không có cách nào thoả mãn được với người bên ngoài; bạn phải quay vào bên trong. Bạn phải tìm ra người đàn bà bên trong và người đàn ông bên trong, bạn phải đạt tới giao hợp dục bên trong. Đó là một đóng góp vĩ đại. Điều này xảy ra như thế nào? Bạn hãy cố gắng hiểu bản đồ này. Tôi đã nói về bảy luân xa, sinh lí học Yoga-Mật tông. Trong đàn ông, muladhar là nam tính và swadhishthan là nữ tính. Trong đàn bà, muladhar là nữ tính còn swadhishthan là nam tính, và cứ như vậy tiếp tục. Trong bảy luân xa, cho tới luân xa thứ sáu đều có tính nhị nguyên; luân xa thứ bảy là bất nhị. Có ba cặp luân xa bên trong bạn: muladhar-swadhishthan phải cặp đôi với nhau. Manipura-anahata phải cặp đôi với nhau. Vishuddha-agya phải cặp đôi với nhau. Khi năng lượng chuyển ra bên ngoài, bạn cần người đàn bà bên ngoài. Bạn có một thoáng nhìn trong khoảnh khắc, bởi vì việc giao hợp với người đàn bà bên ngoài không thể mãi mãi, nó chỉ có thể là tạm thời. Trong một khoảng khắc bạn có thể làm mất bản thân mình vào nhau. Rồi bạn lại bị ném trả về bản thân mình, bị ném trả lại với mức độ cao hơn. Đó là lí do tại sao sau mỗi lần làm tình có sự thất vọng nào đó: bạn lại trở nên yếu đi, nó đã không xảy ra như cách bạn mong muốn nó phải xảy ra. Vâng, bạn đã đạt tới đỉnh, nhưng thậm chí trước khi bạn trở nên nhận biết được nó, sự sút giảm, sự đi xuống đã bắt đầu. Trước khi đạt tới đỉnh là thung lũng. Trước khi bạn gặp người đàn bà hay đàn ông ... đã có sự phân tách. Li dị đến cùng với hôn nhân nhanh tới mức nó thành chán nản. Mọi người yêu đều là những người chán nản: họ hi vọng quá nhiều, họ hi vọng ngược với kinh nghiệm của mình, họ cứ thế hi vọng mãi - nhưng chẳng có gì được thực hiện. Bạn không thể phá huỷ qui luật của thực tại. Bạn phải hiểu những luật này. Sự gặp gỡ bên ngoài chỉ là nhất thời, nhưng việc gặp gỡ bên trong mới có thể trở thành vĩnh hằng. Và bạn càng chuyển lên cao hơn thì việc gặp gỡ đó càng thành vĩnh hằng hơn. Trước hết, muladhar trong đàn ông là nam tính. Ngay trong khi làm tình với người đàn bà bên ngoài, Mật tông nói, bạn hãy nhớ tới người đàn bà bên trong. Hãy làm tình với người đàn bà bên ngoài nhưng nhớ tới người đàn bà bên trong. Hãy để tâm thức bạn chuyển vào bên trong. Hãy quên hoàn toàn người đàn bà bên ngoài. Vào khoảnh khắc cực thích bạn hãy quên hoàn toàn người đàn bà hay đàn ông. Hãy nhắm mắt lại và hiện hữu bên trong, và để điều đó là thiền. Khi năng lượng được khuấy động, đừng bỏ lỡ cơ hội này. Đó chính là khoảnh khắc mà bạn có thể có sự tiếp xúc - hành trình hướng nội. Thông thường rất khó nhìn vào trong, nhưng vào lúc yêu, có một khe hở nào đó, bạn không còn bình thường. Trong khoảnh khắc yêu bạn đang ở cực đại của mình. Khi cực thích xảy ra, toàn bộ năng lượng thân thể đập mạnh theo điệu vũ; từng tế bào, từng thớ thịt nhảy múa theo nhịp, theo một cách hài hoà mà bạn không biết tới trong cuộc sống thông thường. Đây chính là khoảnh khắc, khoảnh khắc của hài hoà; bạn hãy dùng nó như bước chuyển vào trong. Trong khi làm tình, hãy trở thành thiền, nhìn vào trong. Một cánh cửa mở ra vào khoảnh khắc đó - đây là kinh nghiệm Mật tông. Một cánh cửa mở ra vào khoảnh khắc đó, và Mật tông nói rằng bạn cảm thấy hạnh phúc chỉ bởi vì cánh cửa đó mở ra và cái gì đó của niềm phúc lạc bên trong tuôn chảy cho bạn. Nó không đến từ người đàn bà bên ngoài, nó không đến từ người đàn ông bên ngoài; nó đến từ cốt lõi bên trong nhất của bạn. Bên ngoài chỉ là cái cớ. Mật tông không nói rằng làm tình với người bên ngoài là tội lỗi, nó chỉ đơn giản nói rằng việc đó không đi được xa. Nó không lên án việc đó, nó chấp nhận tính tự nhiên của việc này, nhưng nó nói rằng bạn có thể dùng đợt sóng tình yêu đó để đi xa vào bên trong. Trong khoảnh khắc kích động đó, mọi vật không còn trên mặt đất nữa, bạn có thể bay. Mũi tên của bạn có thể đưa cánh cung hướng tới đích. Bạn có thể trở thành một Saraha. Nếu trong khi làm tình bạn trở nên thiền, bạn trở nên im lặng, bạn bắt đầu nhìn vào trong, bạn nhắm mắt lại, bạn quên người đàn ông hay đàn bà bên ngoài, thì điều đó xảy ra. Muladhar, trung tâm nam tính bên trong của bạn, bắt đầu di chuyển về trung tâm nữ tính - trung tâm nữ tính là swadhishthan - và có sự giao hợp, có sự giao hợp bên trong. <br style="text-align: -webkit-auto;">
  23. Thượng đế là gì? TÔI KHÔNG HIỂU – TỪ “THƯỢNG ĐẾ ” CÓ NGHĨA LÀ GÌ? TÔI THỰC SỰ KHÔNG HIỂU. THƯỢNG ĐẾ LÀ CÁI GÌ VẬY? NGÀI NÓI RẰNG CUỘC SỐNG LÀ MỌI THỨ. CUỘC SỐNG LÀ NHỮNG GÌ LÀ, NHỮNG GÌ COI NHƯ LÀ, BÂY GIỜ VÀ Ở ĐÂY- KHÔNG KẾ HOẠCH, KHÔNG AO ƯỚC, KHÔNG THÈM MUỐN, KHÔNG HY VỌNG, KHÔNG TÌM KIẾM. HÃY SỐNG BÂY GIỜ, MỘT CÁCH THOẢI MÁI AN NHIÊN. HÃY CHỈ HIỆN HỮU. VÂNG. TÔI HIỂU NHƯ THẾ, NHƯNG THƯỢNG ĐẾ LÀ GÌ? CÓ PHẢI THƯỢNG ĐẾ LÀ CÙNG MỘT TỪ VỚI TỪ CUỘC SỐNG KHÔNG? ĐỂ LÀM GÌ? NHƯNG TẠI SAO TA LẠI DÙNG TỪ ‘THƯỢNG ĐẾ’ MÀ KHÔNG CHỈ LÀ CUỘC SỐNG? NGƯỜI TA NÓI RẰNG THƯỢNG ĐẾ LÀ NGƯỜI SẤNG TAO THẾ GIỚI. CÓ PHẢI THƯỢNG ĐẾ LÀ THẾ KHÔNG? Câu hỏi này dĩ nhiên là của một người mới tới đây. Có nhiều điều cần phải được hiểu. Đầu tiên: không cần phải hiểu thượng đế là gì, bởi dù thượng đế có là ai thì cũng không thể hiểu được. Hiểu không phải là cái chiều hướng đúng đắn về phía thượng đế. Hiểu có nghĩa là bạn đang cố gắng một cách tri thức- thông qua lôgic, lý luận, khái niệm-và đó là cách chắc chắn để lỡ mất thượng đế. Cũng tựa như ai đó đang cố nhìn bằng tai vậy. Hắn sẽ không thể thấy. Hoặc giống như ai đó cố nghe bằng mắt vậy. Hắn sẽ không thể nghe. Tai là dùng để nghe và mắt là dùng để thấy. Tri thức thì hữu dụng, nó có ích. Nó giúp ích cho bạn khi bạn ra bên ngoài con người bạn. Nó sẽ có ích cho bạn khi bạn ra bên ngoài con người bạn. Nó sẽ có ích như một người hướng đạo trong cái thế giới bên ngoài. Cái giây phút mà bạn quay vào bên trong thì nó trở nên vô ích; nó không còn là một người hướng đạo nữa. Vậy thì nó sẽ dẫn bạn lạc đường. Có một giơí hạn đối với tri thức........................và thượng đế chỉ có thể được cảm thấy không thể được hiểu. Khi bạn đi vào trong, bạn đến gần hơn với suối nguồn của con người của bạn – và đó là cội nguồn của tất cả mọi sinh linh. Nếu tôi có thể đến với tự ngã của chính tôi, tôi có thể đến với cái tự ngã tối thượng. bởi vì ở trung tâm , tôi không còn là tôi là nữa; tôi là cái toàn thể. Nhưng cái chuyển động phải được hướng vào trong, sự chuyển động phải ở đâu đó trong chiều sâu. Tri thức là nông cạn- vì thế nếu bạn cố gắng hiểu thượng đế, bạn sẽ tiếp tục lỡ. Điều đầu tiên cần hiểu là, việc hiểu không phải là chiều hướng đúng đắn. Hãy cảm nhận........................ “Một lần một nhà truyền giáo Kitô hỏi một người đàn ông bán khai, một người thuộc bộ lạc nguyên thuỷ, ‘Ai đã bảo cho anh những gì mà anh biết về thượng đế?’ Người bán khai cười và trả lời, “Bảo ư? Ai lại ngu tới nỗi cần phải được bảo cho biết về thượng đế? chưa có ai từng biết được thượng đế nhờ sự chỉ bảo. Bạn đạt tới thượng đế nhờ vào cảm nhận. Tất cả những sự chỉ bảo ấy là để nói rằng đó là tên ngài. Bạn gọi ngài là thượng đế, tôi gọi ngài là gallah. Tôi anh ngữ hoá tên gallah để bạn có thể hiểu được tôi, nhưng đã từng có ai mà lại biết được thượng đế nhờ vàongười khác chỉ bảo?” Những gì bạn từng biết về thượng đế đều là do chỉ bảo- cha mẹ, xã hội, văn hoá. Đó là tình trạng bị ước định của bạn. Và bây giời bạn lại vừa có một khái niệm về thượng đế và bạn có hiểu được cái từ đó.Thượng đế không phải là một từ. Cái từ ‘thượng đế’ không phải là thượng đế. Từ đó đơn giản chỉ là một từ; tự nó trống rỗng và vô nghĩa. Nếu bạn thực sự muốn biết thượng đế là gì, bạn sẽ phải buông bỏ thế giơí và đi vào trong cảm nhận. Bạn sẽ phải buông bỏ tâm trí và đi vào vô trí. Tình yêu sẽ đem bạn lại gần nó hơn là suy nghĩ. Và khi tôi nói cuộc sống là thượng đế, tôi đang nói rằng nếu bạn muốn, bạn có thể kinh nghiệm được thượng đế nhưng bạn không thể hiểu được thượng đế. Cuộc sống là không thể hiểu được. Bạn có thể sống cuộc sống - đó là sự hiểu biết duy nhất có đó. Nhưng bạn đang lo lắng. Bạn nói rằng bạn hiểu điều đó- thế nhưng thượng đế là gì/ Nếu bạn hiểu điều đó, nếu bạn hiểu cuộc sống là gì, bạn sẽ không bao giờ hỏi thượng đế là gì. Trong chính sụ hiểu biết đó, vấn đề thượng đế đã được giải quyết. Một người đã từng sống cuộc sống trong tính toàn thể của nó sẽ hiểu rằng tất cả những cái ấy có đó để hiểu. Anh ta sẽ tràn đầy thượng đế. Anh ta có đầy đủ thượng đế và không cần phải có vấn đề hiểu. Bạn chưa cho bất cứ cái gì của cuộc sống cho bạn. Bạn sống trỗng rỗng, Bạn sống như chết. Bạn chưa hề cho chút gì của cuộc sống cho chính con người bạn- và có hương thơm, có mùi vị của cái điều thượng đế là gì. Bạn phải ăn từ cuộc sống. Bạn phải uống từ cuộc sống. Bạn phải sống, hoà nhập vào nó. Nhưng tâm trí thì xảo quyệt; nó tiếp tục suy ngĩ về thượng đế. Suy nghĩ là một trạng thái rất an toàn, Bạn chưa bao giờ đi ra ngoài bạn. Bạn tiếp tục chới đùa với chữ nghĩa. Nếu bạn quá thích thú trong chữ nghĩa, nếu bạn muốn biết cái từ thượng đế nghĩa là gì........................nó không có nghĩa là thượng đế. Nếu bạn chỉ thích thú cái biểu tượng ngôn ngữ học của ‘god’, vậy thì bạn có thể hỏi những nhà ngôn ngữ học; đừng đến với tôi. Thế rồi họ sẽ nói rằng từ ‘god’ có nguồn gốc từ chữ ‘ghu-to’. Chữ ‘ghu-to’ đó có nghĩa là ‘đấng được gọi như thế’, chẳng có nghĩa gì khác. Nếu bạn gọi là cuộc sống, nó trở nên thượng đế - đấng được gọi như thế. Nếu bạn khêu gợi cuộc sống, nó trở thành thượng đế. Thượng đế là một tình huống chắc chắn trong cuộc sống khi bạn khêu gợi nó, khi bạn cầu nguyệnvới nó, khi bạn ở trong đối thoại sâu sắc với nó. Khi bạn nhìn lên bầu trời và nói, ‘Lạy cha, người trang điểm bầu trời........................’ bạn vừa mới kêu gọi cuộc sống. Bây giờ cuộc sống không chỉ là cuộc sống nữa- nó đã trở nên đấng được gọi, đấng được khêu gợi. Từ ‘thượng đế’ đơn giản có nghĩa như thế. Trong tình yêu sâu sắc, một ngày nào đó ai đó kêu lên, ai đó bắt đầu thốt ra nhũng từ...một cuộc đối thoại nẩy sin. Cuộc sống không còn là ‘nó’ nữa; nó trở thành ra ‘bạn’. Đó là ý nghĩa của từ ‘thượng đế’. Nếu cuộc sống trở thành người yêu của bạn, nếu cuộc sống trở thành ‘bạn’ và bạn ở trong một mối quan hệ sâu sắc với nó, thế thì đột nhiên cuộc sống trở thành thượng đế. Thượng đế là một sự truyền thông sâu sắc vơí cuộc sống. Nếu bạn chỉ đang cố gắng để hiểu từ ngữ...Vâng, có nhu cầu để sử dụng một từ khác- ‘thượng đế’-hơn là chủ gọi nó là cuộc sống. Cuộc sống khêu gợi, cuộc sống mời gọi. Cuộc sống trong mối quan hệ sâu sắc. Một người phụ nữ bình thường đi ngang qua. cô ta là một phụ nữ- nhưng nếu tình yêu kêu gọi ở trong tim bạn thế thì cô ta không còn là một phụ nữ nữa; cô ta trở thành người yêu. Chúng ta có thể nói rằng tất cả những người yêu đều là phụ nữ. Trở thành một người yêu là một chức năng nhất định trong cái con người của một phụ nữ- khi cô ta được gọi, khi cô ta không còn đơn thuần chỉ là cô ta nữa...trở thành ‘bạn’, trở thành có liên hệ. Bạn đã từng quan sát sự biến hình này chưa? Người phụ nữ đã đi ngang qua bạn nhiều lần, bạn có thể từng thấy cô ta nhiều lần, thế nhưng cô ta vẫn chỉ là một phụ nữ, cũng như hàng triệu phụ nữ khác. Rồi đột nhiên một ngày có cái gì đó thay đổi. Người phụ nữ không còn là người phụ nữ bình thường nữa; cô ta vừa trở nên thần thánh. Cô ta là một người yêu. Bây giờ đột nhiên cô ta đến gần với bạn; trái tim bạn vừa kêu gọi. Hay một người đàn ông. Bạn biết anh ta, như một trong nhiều người đàn ông như thế- giống như là một thống kê, chỉ là một con số trong hàng triệu đàn ông; anh ta không có khuôn mặt đặc biệt đối với bạn, không có liên quan đối với bạn...nếu người đàn ông đó biến mấ và được thay thế bởi một người khác, bạn thậm chí chẳng nhận ra được sự khác biệt; anh ta chỉ là một con số, vẫn không mời gọi, anh ta vẫn vô danh, anh ta chẳng có tên tuổi...rồi đột nhiên một ngày tình yêu trỗi dậy. Anh ta chẳng còn là một người đàn ông bình thường nữa; anh ta bây giờ đã trở thành một thượng đế. Khêu gợi, mời gọi, có liên quan, bạn vừa mới trở nên.. một sự truyền thông vừa xảy ra. Và không chỉ người đàn ông đó thay đổi; bạn cũng đồng thời thay đổi. Có cái gì đó ở thế giới bên kia vừa mới đi vào. Vâng, có một chức năng của cài từ ‘thượng đế’- cuộc sống khêu gợi, cuộc sống trở thành bạn, cuộc sống trở thành một con người. Bạn không còn khác biệt với nó nữa. Bạn cảm nhận vì nó- một sự truyền thông vừa xảy ra. Thế thì cuộc sống trở thành thượng đế. Thế thì cuộc sống không còn là cuộc sống bình thường nữa; bây giờ nó là Cuộc Sống viết hoa. Nhưng không có cách nào để hiểu được thượng đế thông qua tri thức, bởi vì không có cách nào hiểu được tình yêu thông qua tri thức. Thượng đế là tình yêu được khêu gợi. Và trong cái ánh sáng đó của tình yêu,mọi thứ đều được chuyển hoá. Nó là một giả kim thuật, một phép phù thuỷ. Hãy cho một chút thượng đế đến với bạn. Đó là toàn bộ sự cố gắng của tôi. Khi tôi nói cuộc sống là thượng đế, tôi dang muốn nói nghĩa là hãy đang nhìn thượng đế trong những đề thờ và trong thánh đường, nhà thờ. ở đó bạn sẽ chỉ tìm thấy thượng đế của những triết gia, những nhà thần học- chính là một thượng đế giả, một đồng tiền giả, một thứ đồ giả. Hãy nhìn lên những cành cây, trong những đoá hoa, trong những ngôi sao, trong nhân loại, trong thú vật, trong chim chóc. Bất cứ ở đâu có cuộc sống, hãy nhìn sâu vào đó. Hãy khêu gợi thượng đế ở đó. Hãy cầu nguyện ở đó. Hãy cầu nguyện trước một cội cây. Hãy cầu nguyện trước một con thú. Hãy cầu nguyện trước những vì sao. Hãy mời gọi thượng đế ở đó. Đó là đền thờ thực sự. Khi tôi nói cuộc sống là thượng đế, tôi muốn nói nghĩa là thế này- đừng bị giam hãm trong những nhà thờ, đừng bị giam cầm bởi những kinh thánh và những kinh gita hay những kinh koran. Đừng bị giam hãm một chút nào cả. Cuộc sống là vô tận. Đừng sợ hãi cái vô tận. Đâu là nỗi sợ hãi cái vô tận? Nỗi sợ là rằng với cái vô tận thế thì bạn bị biến mất. Trong một nhà thờ, bạn không thể bị biến mất. Bạn có thể xoay sở. thánh đường là một công trình kiến trúc của bạn. Nó là phụ thuộc. Nó là nhân tạo. Nó là một bông hoa nhựa. Bạn có thể kiểm soát nó, bạn có thể thao tác và lôi kéo nó. Đằng sau bức màn chính là đôi tay của bạn. Thượng đế ở trong nhà thờ là tạo vật của bạn. Thượng đế thực sự thì khác biệt hoàn toàn. Nếu bạn đến tới với thượng đế thực- cuộc sống- thế thì bạn sẽ là tạo vật của thượng đế. Thế thì thượng đế đứng đằng sau mọi sự. Còn trong nhà thờ, bạn đang đứng đằng sau mọi sự. Nhà thờ là một sự đánh lừa. Vì thế khi tôi nói cuộc sống là thượng đế, tôi đơn giản muốn nói là hãy đừng tạo ra những thượng đế thay thế, đừng tạo ra những đền thờ thay thế. Không gian vĩ đại này chính là đền thờ và cuộc sống chuyển động bất tận này chính là thượng đế. Cho bạn một ít thượng đế và rồi thì bạn sẽ hiểu. Và sự hiểu biết đó không phải là tri thức; điều đó sẽ còn nhiều hơn là toàn thể cuộc sống của bạn nữa. Nó sẽ còn nhiều hơn là máu và ruột. Tôi vừa đọc một giai thoại: “”Một người đàn ông đang nghiền ngẫm bên những ly bia ở một quán bả, và nói với một người bạn, “Tôi bảo anh, này Mulligan, tôi không biết tôi sắp sửa làm gì với vợ tôi’. ‘Giờ lại là chuyện gì thế?’ ‘Cùng cái thứ cũ rích-tiền. cô ta luôn luôn hỏi về tiền. Mới thứ năm tuần trước cô ta muốn mười đôla, ngày hôm qua cô ta hỏi chừng hai mươi, và sáng nay, nếu như bạn sẵn lòng nghe, cô ta đòi tới năm chục đôla!’ Cô ta làm gì với tất cả những số tiền đó, vì thiên đàng à?’ người bạn hỏi. ‘Chẳng có cách nào biết được. tôi không bao giờ cho cô ta chút nào’ Cho một ít thượng đế đến cho bạn, rồi thì bạn sẽ thôi không còn hỏi thượng đế là gì nữa. Bạn không cho bạn một thoáng nhìn về thượng đế và rồi bạn cứ tiếp tục hỏi. Chẳng ai có thể cho bạn thượng đế, hãy nhớ. Bạn sẽ phải đến tời những kỳ hạn của thượng đế theo cách riêng bạn. Tôi không thể cho bạn thượng đế. Thượng đế không phải là một tiện nghi, một món hàng. Đó chính là một kinh nghiệm như thế mà chỉ có bạn có thể có được. Bạn sẽ phải đi một mình. Bạn sẽ phải đi hoàn toàn một mình, trần trụi khỏi mọi ý nghĩ, hoàn toàn trần trụi, trần trụi khỏi mọi triết lý, khỏi mọi kinh sách. Và một khi bạn đã nếm thử một chút, bạn sẽ hiểu. Hãy yêu mến cuộc sống, và chẳng mấy chốc một ánh sáng sẽ trổi lên trong con người bạn. Thông qua tình yêu sâu sắc của cuộc sống mà người ta sẽ đế để hiểu thượng đế là gì. Phần cuối của câu hỏi là: người ta nói rằng thượng đế là đấng đã tạo ra thế giới. Thượng đế là thế giới. Cái tâm trí cức tiếp tục tạo ra những chủ thuyết nhị nguyên. Nó nói rằng thượng đế là đấng đã tạo ra thế giới. Thế thì thượng đế là tách biệt và thế giới cũng là tách biệt. Thượng đế không tách biệt. Ngài không thể bị tách biệt khỏi thế giới của ngài. Nếu ngài là cách biêt, thế giới không thể tồn tại được dù chỉ trong một khoảng khắc mà không có ngài. Ngài chính là cuộc sống của cuộc sống. Vì thế đừng tưởng tượng thượng đế như là một hoạ sĩ vẽ trên khung vải và rồi khung vải tách biệt và thượng đế tách biệt. Hoạ sĩ có thể chết nhưng bức vẽ vẫn có thể tồn tại. Do tính nhị nguyên này mà Nietzche đã có thể tuyên bố rằng, “Thượng đế đã chết’. Việc gì phải cần đến ngài nữa? Ngài đã tạo ra thế giới rồi- thế là xong! Tại sao cứ phải tiếp tục mang theo cái gánh nặng ấy? Việc gì còn cần tới thượng đế nữa? Một khi mà ngài đã hoàn tất công việc tạo ra thế giới này rồi, thế thì việc gì phải cần đến ngài? thế giới có đó, và bạn có đó. Cái thượng đế này chỉ là một sự cản trở. Ngài sẽ chen vào giứa bạn với cuộc sống của bạn- hãy dẹp bỏ cả ngài luôn nữa! Và Nietzche cungc đúng theo một cách nào đó: nó là kết luận logic của tính nhị nguyên. thế giới thì hợp lý một cách hoàn hảo mà không cần đến ngài. Tại sao phải đem ngài vào? Thực ra, bạn càng đem ngài vào trong cuộc sống thì càng xuất hiện thêm nhiều rắc rối. Bạn hãy nhìn vào các tôn giáo. Biết bao nhiêu là chiến tranh, biết bao những kẻ giết người , biết bao bạo lực?..Có cái gì mà chưa từng xảy ra dưới danh nghĩa tôn giao? Thế giới đã chịu đựng nhiều tới mức quá thể rồi. Hãy dẹp bỏ tất cùng với cả thượng đế luôn nữa. Ngài đã sáng tạo ra thế giới này rồi; hãy gởi đến ngài lờ cảm ơn cuối cùng và rồi dẹp luôn. Bây giờ chẳng cần đến ngài nữa. Đã quá xưa rồi, dường như chỉ còn là tàn tích.. Nietzsche nói, ‘Thượng đế đã chết, và con người bây giờ được tự do’. Đây là một kết luận hợp lý của suy nghĩ nhị nguyên. Tại phương Đông, chúng ta chưa bao giờ từng nghĩ về thượng đế như là một hoạ sĩ. Chúng ta nghĩ về thượng đế như là một vũ công, bức hoạ thì có thể. Đó là lý do tại sao điệu vũ thì sống động và bức vẽ thì chết cứng. Dù cho bức vẽ có đẹp đến thế nào đi nữam nó đã chết. Nó bị tách biệt khỏi người sáng tạo. Cái giây phút nó bị tách biệt là cái thời điểm nó chết. Có lẽ nó đã sống một cuộc sống trong tâm trí của người hoạ sĩ, có lẽ nó đã sống động khi mà nó chưa được vẽ. Giây phút mà nó được vẽ, nó gị giết chết. Nhưng một điệu vũ..Tại ấn độ chúng ta giọ thượng đế là ‘nataraj’- thượng đế của những vũ công. Hẳn bạn đã phải từng trông thấy thần Shiva đang múa. Đó là khái niệm của Đông phương về thượng đế- một khái niệm không nhị nguyên. Khi vũ công dùng lại, thế thì điệu vũ dừng lại. Bạn không thể tách biệt điệu vũ ra khỏi vũ công. Và điệu vũ đạt đến một cực điểm, một đỉnh cao, khi mà chẳng còn có người múa và điệu múa nữa; cả hai là một...một chuyển động của chính năng lượng và sự vui thích. Đó là lý do tại sao không có gì có thể so sánh với khiêu vũ được- thơ ca, hội hoạ, điêu khắc,không có gì có thể đến gần với nó được. Khiêu vũ vẫn là nghệ thuật tối thượng. Và đó là cái nghệ thuật được ra đời đầu tiên và cũng sẽ là cái nghệ thuật cuối cùng, bởi vì khiêu vũ có trong nó những phẩm chất của chính cuộc sống. Thượng đế là một vũ công. Ngài không phải là một đấng sáng tạo theo nghĩa của một người hoạ sĩ; ngài là người sáng tạo theo cái nghĩa của một vũ công. Vậy thì hãy để tôi nói theo một cách khác. Thượng đế không phải là đấng sáng tạo mà là tính sáng toạ..một năng lượng động. Ngay lúc mà bạn nói là đấng tạo hoá, thế thì ngài chết. Ngay lúc mà bạn nói là đấng tạo hoá, thế thì ngài chết. Chính cái từ ‘đấng sáng tạo’ có một sự ngương nghỉ hoàn toàn trong đó. Tính sáng tạo với một kết thúc mở. di chuyển và di chuyển không ngừng và đạt tới những đỉnh cao ngày càng cao hơn.. Những động vật là một điệu vũ của thượng đế. Những cội cây cũng là một điệu vũ của thượng đế. Nhân loại cũng là một điệu vũ của thượng đế, ngày càng phát triển cao hơn. Thượng đế đang di chuyển ngày càng nhanh hơn- điên cuồng hơn, nhanh hơn nữa, trở nên hoà tan vào trong điệu vũ của ngài. Một đức Phật hay một Jesus là cái tối hậu của điệu vũ của ngài..nơi mà người múa hoàn toàn say sỉn và điên loạn tới mức hắng đã trở thành điệu vũ. Đó là lý do tại sao tôi nói nếu bạn sống cuộc sống trong thuyết động lực của nó bạn sẽ tiến gần tới với thượng đế hơn- bởi vì ngài vẫn đang còn khiêu vũ. Đừng nói rằng ngài đã sáng tạo ra thế giới- ngài vẫn đang sáng tạo. Nếu không thì làm sao cây cối vẫn tiếp tục phát triển? Làm sao bông hoa vẫn nở? Từng giây từng phút thế giới này đang được đổi mới. Mỗi buổi sáng sớm, cuộc sống tươi mới đều được ban ra. Không, thượng đế của Kitô giáo là giả- cái đấng thượng đế mà đã tạo ra thế giới này trong vòng sáu ngày và rồi nghỉ ngơi vào ngày thứ bảy. Điều đó dường như không thực- một ngày nghỉ đối với thượng đế sẽ là một cái chết. Hãy suy nghĩ về điều đó. Một ngày nghỉ của thượng đế sẽ là một cái chết đối với sự sáng toạ của ngài. Người khiêu vũ không thể nào nghỉ một ngày; nếu không, điệu vũ sẽ biến mất. Và chính cái ý tưởng rằng thượng đế bị mệt mỏi cần phải nghỉ ngơi thì thật là ngu ngốc. Ngài vẫn đang sáng tạo. Ngài chẳng là gì cả ngoại trừ là tính sáng tạo. Hãy nghĩ bằng những từ thuộc về năng lượng: đừng nghĩ bằng những từ thuộc về sự vật. Hãy suy nghĩ theo những từ thuộc về sự vật. Hãy suy nghĩư theo những từ thuộc về năng lượng. Đại dương hoang dại..Thượng đế là một đại dương hoang dại của năng lượng- tiếp tục và tiếp tục- sóng tiếp nối sóng, không ngừng nghỉ. Chưa hề có một khởi đầu. Chính cái ý tưởng về sự khởi đầu là của tâm trí. Làm sao mà thế giới có thể có sự bắt đầu được? Trước thờ Darwin, những người Kitô giáo tin rằng thượng đế đã tạo ra thế giới theo một kỳ hạn nhất định. Thậm chí một nhà thần học ngu đần nào đó còn xác định cả ngày tháng nữa – bốn ngàn và bốn năm trước Jesus, chính xác là vào thứ Hai, ngài đã bắt đầu sáng tạo..hẳn đó phải là ngày mồng một của tháng một nữa! Vậy thì sẽ nảy sinh câu hỏi- trước đó thì ngài làm gì? Bạn hãy đùng hỏi những người Kitô giáo; họ sẽ nổi giận. Thậm chí đến một người như thánh Augustine cũng trở nên rất rất giận dữ. Một người nào đó đã hỏi rằng – câu hỏi dường như là ngây ngô và rất tầm thường- anh ta hỏi rằng, ‘Tôi có thể hiểu được là thượng đế đã tạo ra thế giới này cách đây bốn ngàn lẻ bốn năm trước chúa Jesú giáng sinh, thế nhưng trước đó thì ngài làm gì?’ Dĩ nhiên chẳng có câu trả lời nào cho nó trong thần học Kitô giáo cả. Thánh Augustine trở nên rất rất giận dữ và trả lời, ‘Thượng đế đang nghiền ngẫm và suy nghĩ về những hình phạt dành cho những kẻ nào đã hỏi những câu hỏi như anh vậy!’ Điều này thực chẳng hề thánh thiện chút nào. Câu hỏi quả thực rất ngây ngô; việc nổi giận như thế là không cần thiết. Thế nhưng loài người đã đưa ra một câu hỏi lật đổ toàn bộ nền thần học Kitô giáo. Không, chẳng bao giờ lại có một khởi đầu cả. Không thể nào có được, bởi vì nếu như thế thì câu hỏi sẽ lại nẩy sinh- trước cái khởi đầu đó thì có cái gì? Và sẽ chẳng bao giờ có được một kết thúc nào cả, bởi bì lần nữa câu hỏi sẽ lại nẩy sinh- thế thì sau cái kết thúc ấy sẽ ra sao? Nếu như bạn có thể khái niệm được bất kỳ một cái gì trước cái khởi đầu, thề thì cái khởi đầu ấy không còn là khởi đầu nữa. Và nếu bạn có thể quan niệm được có một cái gì sau cái kết thúc, thế thì nó không càn là cái kết thúc nữa. Thế giới là một quá trình tiếp diễn. Thượng đế là tính sáng tạo- đang sáng tạo và đang sáng tạo và đang sáng tạo. Thực ra ngay cái lúc mà tôi nói ‘đang sáng tạo’. như thế một lần nữa ngài cũng có vẻ dường như là tách biệt. Không phải, ngài là đấng sáng tạo và ngài là chính cái được tạo. Ngài cũng chính là cùng một thứ năng lượng đã trở thanh một tảng đá, một cội cây, hay một con người...ngài cũng chính là thứ năng lượng đã trở thành một kẻ tội lỗi cũng như cái năng lượng trở thành một vị thánh...chính là cùng cái năng lượng để khóc, kêu than và cười...cùng cái năng lượng để trở thành ngày và đêm, sự sống và sự chết, mùa hè và mùa đông...không phân đôi. Hiện hữu chính là Thượng đế được mời gọi thông qua tình yêu, được khêu gợi thông qua tình yêu. Cái khoảnh khắc mà bạn có thể trở thành một người cầu nguyện, lúc ấy hiện hữu trở thành thượng đế. Ngay giây phút mà bạn có thể ở trong tình yêu sâu sắc, lúc đó cuộc sống trở thành Thượng đế. Đó chính là sự biến hình của cùng một năng lượng. Vì thế, Thượng đế không phải là một cái gì có thể tồn tại giống như là một đốitượng. Nếu giả như tôi đã kinh nghiệm được ngài, tôi cũng không thể chỉ ra được ngài cho bạn. Trừ phi bạn mời gọi ngài, trừ phi bạn đến cái giới hạn với ngài, trừ phi bạn quỳ xuống cầu nguyện, trừ phi bạn gọi ngài, bạn không thể nào biết được. Và vấn đề nan giải là đầu tiên bạn phải hoàn toàn chắc chắn rằng ngài có, thế thì bạn mới có thể cầu nguyện. Và chỉ thông qua cầu nguyện, thế thì ngài mới có đó; chỉ thông qua tin cậy, thế thì ngài mới có đó. Và bạn muốn trước tiên phải chắc chắn về cái giả thuyết rằng là có thượng đế, vậy thì bạn mới có thể tin cậy. Giờ đây sẽ là vấn đề nan giải. Nếu bạn chọn rằng trước tiên bạn phải có sự chắc chắn, vậy thì chẳng bao giờ bạn có thể biết Thượng đế là gì. Điều đó chỉ dành cho người có máu cờ bạc để mà biết được Thượng đế... người mà chẳng lo lắng gì về sự chắc chắn cả, những người sẵn sàng đi vào trong nguy hiểm, sẵn sàng đi vào trong sự bất an ninh, sẵn sàng đi vào trong cái chưa biết, sẵn sàng rời bỏ cái quá khứ tiện nghi và thuận lợi, những người giống như là những trẻ thơ- luôn luôn thắc mắc và luôn luôn lang thang. Thượng đế chỉ là dành cho những người can đảm. Đó chính là sự can đảm lớn nhất có mặt. Bởi vì đó là điều khó khăn nhất- hầu như là bất khả đối với tâm trí để làm. Đầu tiên là sự tin cậy phải tới và sau đó là Thượng đế xuất hiện. Bạn tạo ra Thượng đế thông qua lòng tin cậy của bạn. ở đây bạn mở đôi mắt của lòng tin cậy và đột nhiên cuộc sống được thay đổi, được chuyển hoá- nó trở thành có tính thần thánh, nó trở thành thiêng liêng. Thượng đế là tính chủ quan của bạn, sự nghỉ ngơi sâu thẳm nhất của bạn, là trở về nhà. Thượng đế chẳng có liên quan gì với thần học cả; nó chỉ có liên quan với cách thức sống cái cuộc sống của bạn- hoặc bạn sống bằng tâm trí, hoặc bạn sống thông qua trái tim. Nếu bạn sống thông qua trái tim, hãy quên phứt đi mọi thứ về Thượng đế; ngài sẽ tự lo liệu lấy. Ngài sẽ đến, ngài sẽ gõ cửa trái tim ban. Chẳng sớm thì muộn bạn sẽ nghe thấy tiếng bước chân đang đến mỗi lúc một gần hơn. Từng nhịp đập trái tim của bạn sẽ trở thành những bước chân...thành tiếng của những bước chân. Từng hơi thở của bạn sẽ là sự ra vào của Thượng đế. OSHO
  24. Một đề xuất cách phục dựng chùa Diên Hựu 16.05.2012 10:53 Tại cuộc tọa đàm Kiến giải mới về kiến trúc "Một Cột" ở chùa Diên Hựu thời Lý sáng 10/5 do Tạp chí Tia Sáng tổ chức, TS Trần Trọng Dương (Viện Nghiên cứu Hán Nôm), đã trình bày những kết luận mới rất đáng chú ý từ việc nghiên cứu kiến trúc này trong sự so sánh với hàng loạt các công trình chùa tháp Phật giáo gần thời kỳ ở châu Á. Ông cũng mạnh dạn đề xuất cách phục dựng chùa Diên Hựu của mình, trên cơ sở kế thừa thành tựu của các nhà nghiên cứu đi trước. Chùa Diên Hựu và đồ hình mandala Trong phần thuyết trình, TS Trần Trọng Dương tập trung vào ba vấn đề chính như sau. Thứ nhất, ông đề xuất việc thảo luận về tên gọi “chùa Một Cột”. Do trước nay chúng ta sử dụng tên “chùa Một Cột” thành thói quen cố hữu nên không để ý đến những chi tiết khá phi lý. Theo hình cụ thể trực quan, “Chùa Một Cột” là một ngôi chùa dựng trên một cái cột. Nếu như Việt Nam có một kiến trúc chùa được xây dựng trên một cái cột, thì đó quả là một điều vô cùng đặc biệt và đáng tự hào. Kỳ thực không phải như vậy. Trong lịch sử Phật giáo thế giới, chưa từng có kiến trúc chùa của bất cứ quốc gia nào lại dựng trên một cái cột cả. Nhìn bình đồ do Bezacier vẽ ta có thể nhận thấy rõ ràng rằng, kiến trúc một cột thuộc về mặt bằng của chùa Diên Hựu, điều này hoàn toàn trùng khít với các đoạn mô tả về chùa Diên Hựu và kiến trúc một cột trong Đại Việt sử ký toàn thư và văn bia Sùng Thiện Diên Linh tại chùa Đọi (bia Lý). Cái tên này còn được nhiều người liên tưởng đến chùa Nhất Trụ tự tại Hoa Lư (Ninh Bình). Có người cho rằng, khi vua Lý Công Uẩn dời đô ra Thăng Long đã chuyển mô hình chùa này về Thăng Long, nên mới có chùa Một Cột ngày nay. Thế nhưng, chùa Nhất Trụ ở Hoa Lư, theo nghiên cứu của GS Hà Văn Tấn được đặt tên như vậy bởi một lẽ rất đơn giản là vì chùa có một cái cột đá (kinh tràng). Như vậy, cùng một tên gọi “Nhất Trụ tự” nhưng có hai cách tư duy khác nhau về kiến trúc. Tiếp theo diễn giả cho rằng: “Đối với nghiên cứu văn hóa cổ, thì chúng ta cần phải xác định được khái niệm do chính chủ thể văn hóa ấy đặt tên, điều đó sẽ tránh đi những phiến diện do những cách nhìn của người bên ngoài (từ một không gian văn hóa khác hoặc từ một thời đại văn hóa khác theo hai trục không gian và thời gian)”. Như trường hợp “chùa Một Cột”, TS Trần Trọng Dương đã tìm ra cách gọi của người xưa dành cho kiến trúc này, đó là khái niệm “Liên hoa đài” được ghi nhận trong bộ sử quan phương, nổi tiếng nhất - Đại Việt sử ký toàn thư. Ông cho rằng, Liên hoa đài chỉ là một đơn nguyên kiến trúc nằm trong chùa Diên Hựu mà thôi. Từ đó ông đề xuất rằng, nên dùng khái niệm này thay vì tên gọi “Chùa Một Cột”, còn toàn bộ di tích thì nên dùng tên chính thức là Chùa Diên Hựu. Không chỉ dừng lại ở đó, diễn giả cũng đã trình bày cách phục dựng của mình (trên cơ sở kế thừa thành tựu của PGS Ngô Văn Doanh và PGS Nguyễn Duy Hinh) về chùa Diên Hựu qua khai thác sử liệu trong văn bia Sùng Thiện Diên Linh khắc in năm 1121. Có thể mô tả mặt bằng như sau. Liên hoa đài nằm ở trung tâm của danh thắng, bên trong là thờ tượng Phật Thích Ca Mâu Ni dát vàng. Đài này là một dạng kiến trúc một cột - mô phỏng một bông hoa sen, nằm trong ao Linh Chiêu. Ngoài ao Linh Chiêu có hành lang bao quanh, hành lang này có mái và trên đó có vẽ các tích truyện và các vị thần Phật giáo, dùng để cho sư tăng chạy đàn nhiễu Phật xung quanh. Ngoài hành lang là ao Bích Trì. Để đi qua hai vòng ao vào đến Thích Ca Liên hoa đài, người xưa có thể đã cho xây dựng tám chiếc cầu từ bốn hướng Đông, Tây, Nam, Bắc. Ở phía trước mỗi cầu ngoài lại có bốn sân rộng dùng để diễn xướng vũ đạo Phật giáo. Mỗi sân này lại có hai tháp báu lưu ly gần đầu cầu. Ngoài bốn sân, là hệ thống tường hoặc các nhà trai, điện vũ bao quanh; lại có bốn cửa thông ra ngoài, mỗi cửa đều thờ một vị Thiên Vương (Tứ Đại Thiên Vương). Bình đồ mandala một cột theo phục dựng của TS Trần Trọng Dương Từ những phục dựng như trên, TS Trần Trọng Dương cho rằng, kiến trúc chùa Diên Hựu thời Lý được xây dựng theo đồ hình mandala của Phật giáo Mật tông thời Lý. Tác giả đã so sánh với hàng loạt các công trình chùa tháp Phật giáo gần thời kỳ có cùng đồ án này như chùa Tang Da (Tây Tạng); tháp Borobudur (Indonesia); Angkor Wat (Campuchia); các tháp Chăm, chùa Bách Môn (Việt Nam),... Từ đó tác giả đi đến nhận định rằng, “tất cả các nước Đông Á đều có chung một phổ niệm văn hóa đó là mandala (đàn tràng) và đồ hình mandala. Việc xây dựng kiến trúc chùa Diên Hựu thời Lý thể hiện một tư duy áp dụng thế giới quan Phật giáo vào việc xây dựng kinh đô/phòng lũy cũng như các công trình kiến trúc khác. Đó là một tư duy nguyên hợp thế giới quan- địa lý học Phật Giáo từng tồn tại trong lịch sử văn hóa Việt Nam nói riêng và Đông Á nói chung”. Hình Tiểu thế giới gồm cửu sơn bát hải với núi Tu Di hình hoa sen làm trung tâm vũ trụ (nguồn: Pháp giới an lập đồ). Để chứng minh tiếp cho nhận đình này, TS Trần Trọng Dương đã giải mã kiến trúc mandala chùa Diên Hựu từ góc độ biểu tượng tôn giáo. Diễn giả cho rằng Liên hoa đài ở chùa Diên Hựu là một “bông sen nghệ thuật khổng lồ” (chữ dùng của Chu Quang Trứ). Kiến trúc một cột này nằm ở trung tâm quần thể chùa Diên Hựu và là biểu trưng cho ngọn núi vũ trụ Tu Di (ngọn núi hình hoa sen), đó là một bông hoa vũ trụ. Các vòng ao bao quanh (Bích Trì, Linh Chiêu) mô phỏng “cửu sơn bát hải”, các ao này hẳn sẽ trồng sen biểu trưng cho Liên trì hải hội của cõi Tây phương Cực lạc. Liên Trì Hải Hội tiêu biểu cho sự tập hợp của Phật A Di Đà, chư Bồ tát, các bậc thức giả, Thánh chúng, cùng các thượng thiện nhân đều hội nơi Tây Phương Cực Lạc. Gọi là Liên trì Hải Hội vì số Phật tham dự là vô số, trải dài ra như đại dương trong pháp giới. Với những mô tả như trên, núi Tu Di trong kinh sách Phật giáo được mường tượng như là một đài sen nhô lên từ mặt nước (nhất hoa nhất thế giới). Như vậy, toàn bộ chùa Diên Hựu được thiết kế theo đồ hình mandala mô phỏng một tiểu vũ trụ trong thế giới quan Phật giáo. Ngôi chùa đồng thời cũng là một bông sen thể hiển tư duy “nhất hoa nhất thế giới”, hoa sen này bọc lấy hoa sen kia biểu thị ý niệm Thiên hoa- thiên thế giới. Vì thế, diễn giả cho rằng, đây là một sáng tạo vô cùng độc đáo và tài hoa của con người Đại Việt xưa kia trong lĩnh vực kiến trúc và biểu tượng, từ đó đã toát nên những giá trị nhân văn, nhân bản sâu sắc. Mandala vũ trụ (nguồn: The handbook of Tibetan Buddhist symbol) Không nên chỉ dừng ở nghiên cứu trên giấy Nhà nghiên cứu (NNC) Lê Văn Cương - chuyên gia về mỹ thuật cổ, cho rằng nghiên cứu kiến trúc Phật giáo phải luôn đặt nó trong hệ tư tưởng Phật giáo và bối cảnh văn hóa Phật giáo. Thời Lý Trần là thời đại rực rỡ, đỉnh cao của văn hóa Việt Nam, thời đại này chịu ảnh hưởng sâu sắc của Phật giáo, coi Phật giáo như là quốc giáo. Vì vậy, cách nghiên cứu của TS Trần Trọng Dương là có cơ sở. Ông cũng nói thêm rằng, số đo của núi Tu Di (tám vạn bốn ngàn do tuần) là biểu tượng cho tám vạn bốn ngàn pháp giới. Con số tám vạn bốn ngàn này là con số ước chừng số lượng vô cùng vô tận. Thế giới nhà Phật được mường tượng như có bốn tầng hoa sen. Và kiến trúc liên hoa đài một cột kia nên so sánh với các cứ liệu khảo cổ học và mỹ thuật cổ như cột Xã Đàn, cột đá chùa Dạm, lầu chuông một cột ở kinh thành Thăng Long… NNC Nguyễn Hùng Vỹ nhận định đồ hình mandala là một cách giải thích có cơ sở và thú vị nhất từ trước đến nay, vấn đề là ở chỗ cần phải thảo luận thêm ở các chi tiết tạo nên mandala đó mà thôi. Ông nhất trí rằng, cần phân biệt hai loại tháp: nhạn tháp và lưu ly tháp. Nhạn tháp là các tháp lớn kiểu như tháp Then, tháp Phổ Minh, tháp Chương Sơn, tháp Sùng Thiện Diên Linh... Còn lưu ly tháp là các tháp cỡ nhỏ làm bằng sứ lưu ly. Nếu chúng ta có ý định phục dựng mandala chùa Diên Hựu thì cần phải để ý đến cả hai loại tháp này. Trong đó, tháp lưu ly có thể so sánh với phong các các tháp tương tự đời Đường, Tống, Minh ở Trung Hoa. Về phong cách cột đá thời Lý, ông Nguyễn Hùng Vỹ cho rằng cách đặt vấn đề mà nnc Lê Văn Cương đưa ra là đúng hướng. Cột đá hiện nay ở liên hoa đài chùa Diện Hựu không phải là nguyên bản từ đời Lý. Muốn phục dựng chúng ta có thể lấy mẫu từ cột đá chùa Dạm. Cột đá này cũng là một mandala mô phỏng thế giới quan Phật giáo. Có thể thấy, phần dưới cùng của cột đá chùa Dạm là các tầng đá xếp được điêu khắc các hình hoa văn sóng rải và sóng lừng. Đó là mô tả Hương Thủy Hải- hay cửu sơn bát hải theo thế giới quan nhà Phật. Cột đá dựng nên tượng hình ngó sen. Trên cột đá này còn tạc đồ án song long hiến châu (một Phật thoại nổi tiếng về sự hướng thiện quy y của con gái Long Vương), chứ không phải là lưỡng long chầu nhật - một đồ án của mỹ thuật Nho giáo. Trên đỉnh cột đá chùa Dạm còn có hệ thống các lỗ ngàm để từ đó người ta dựng một tòa lầu ở trên đó. Cột đá này có thể là đài đèn, cũng có thể là lầu chuông. Song quan trọng nhất là nó mô tả hình dáng một bông hoa sen vũ trụ, nó là một cột mandala giống như liên hoa đài ở chùa Diện Hựu. KTS Lý Trực Dũng đồng ý với diễn giả rằng, kiến trúc một cột kia không thể gọi là “Chùa Một Cột” được. Đó là một cái tên rất dân gian, và nó làm cho nhiều người hiểu lầm về ý nghĩa biểu tượng của kiến trúc này. Ông nhận định liên hoa đài là một phần của chùa Diên Hựu. Mặt khác, xét về mặt khảo cổ hay khía cạnh văn vật, kiến trúc một cột hiện nay không có mấy giá trị, bởi lẽ nó không còn chút gì của thời Lý để lại, tòa điện phía trên chỉ mới dựng lại năm 1955, cột đá do người Pháp dựng lại hiện vẫn chưa biết chất liệu là gì. Các cấu kiện chịu lực lại mô phỏng phong cách kiến trúc châu Âu. Nếu như chúng ta có ý định phục dựng, trùng tu lại kiến trúc một cột đời Lý thì chúng ta phải xuất phát từ các tư liệu mỹ thuật và khảo cổ thời Lý. NNC Nguyễn Tô Lan đồng ý với KTS Lý Trực Dũng rằng cần phải có tư duy liên ngành khi nghiên cứu về mandala chùa Diên Hựu, nên có sự kết hợp giữa khảo cổ với mỹ thuật, kiến trúc, lịch sử… Cần phải xác định các mốc thời gian, các tầng thời gian cho di tích này, ví như năm 1049 là năm khởi dựng với cấu trúc một trụ trên mặt đất; năm 1105 là năm trùng tu mới đào thêm hai ao, xây dựng các cầu và các tháp. Tượng thờ trong liên hoa đài là gì? Là Thích Ca hay là Quan Âm, điều đó có ý nghĩa gì và nó cho biết hệ tư tưởng nào mà nhà kiến trúc dựa vào? Đó là Mật tông hay Thiền tông?... Nhà nghiên cứu này cho rằng cũng nên đặt kiến trúc chùa Diên Hựu thời Lý trong bối cảnh văn hóa của một số nước láng giềng phía Bắc như Đại Lý (Vân Nam, Trung Quốc ngày nay), hay rộng hơn là trong văn hóa thời Tùy thời Đường. Bà còn phản vấn diễn giả Trần Trọng Dương rằng, không phải có đến tám tháp mà có lẽ chỉ có hai tháp ở phía Bắc của mandala Diên Hựu mà thôi. NNC Nguyễn Doãn Minh phát biểu, cách lý giải của diễn giả là thuyết phục và thú vị. Vấn đề quan trọng cần thảo luận là mandala một cột này có vị trí như thế nào trong tổng thể mặt bằng chùa Diên Hựu thời Lý Nhân Tông? Ông phản vấn rằng: “Liệu có khả năng kiến trúc một cột hiện nay khi khởi dựng chỉ có thành phần liên hoa đài mà chưa có tam bảo với hệ thống thần điện như hiện nay?” Ông cũng đề xuất ý kiến rằng có khả năng liên hoa đài vẫn là kiến trúc trung tâm của chùa Diên Hựu, điều này có thể thấy rõ qua cách miêu tả trong Đại Việt sử ký toàn thư. Nếu đúng, thì có thể nhận định rằng chùa Diên Hựu đời Lý có liên hoa đài làm trung tâm. Cuộc tọa đàm đã diễn ra sôi nổi và đề cập đến nhiều vấn đề khác có liên quan đến lịch sử, mỹ thuật và kiến trúc đời Lý. NNC mỹ thuật cổ Trần Hậu Yên Thế góp tư liệu cho diễn giả rằng nên so sánh kiến trúc một cột với Thạch đăng tràng của Trung Quốc. Có người cho rằng nên thống nhất các điểm thảo luận ở đây, thứ nhất là sau buổi thảo luận này cần phải có một bản kiến nghị về việc đổi tên “Chùa Một Cột”, và thứ hai là phải xác định lại tượng thờ trên liên hoa đài là Phật Thích Ca hay là Phật Quan Âm. KTS Lý Trực Dũng đề nghị nghiên cứu này không nên chỉ tiến hành trên giấy mà phải thực thi hóa, hiện thực hóa để từ đó góp phần vào việc trùng tu công trình kiến trúc này… Nguyên Khôi
  25. Chiêm ngưỡng báu vật cổ ngọc Việt Nam Thứ Tư, ngày 03/08/2011, 10:00 (24h) - Sáng nay (2-8), 140 báu vật quý hiếm được làm từ ngọc thời xa xưa, lần đầu tiên ra mắt công chúng tại Bảo tàng lịch sử Việt Nam với những nét hoa văn độc đáo. Chiếc đỉnh làm bằng ngọc xanh xám sẫm, thời Nguyễn, đồ Cung đình Huế Đây là lần đầu tiên những cổ ngọc thời tiền – sơ sử, cổ ngọc 10 thế kỷ đầu Công nguyên, cổ ngọc thời Lê – Nguyễn được trưng bày cho đông đảo công chúng tận mắt chiêm ngưỡng. Rất nhiều cổ vật làm bằng ngọc quý với những nét hoa văn độc đáo, kỹ thuật điêu khắc tinh xảo khiến các cổ vật càng thêm long lanh, quyền quý. Cùng chiêm ngưỡng những báu vật cổ ngọc dưới đây: Đỉnh thời Nguyễn làm bằng ngọc xanh xám sẫm Chậu Ngọc xanh xám sẫm nhiều màu bịt vàng thời Nguyễn. Đồ Cung đình Huế Chậu Ngọc trắng xanh nhiều màu bịt vàng, thời Nguyễn. Đồ cung đình Huế Bộ ấm chén ngọc trắng bịt vàng, thời Nguyễn. Đồ cung đình Huế Ấn Hành tại chi tỷ (đầu tiên), ngọc trắng, thời Nguyễn. Đồ cung đình Huế Thẻ như ý. Ngọc trắng xanh, thời Nguyễn Hai thẻ Cát tường như ý làm bằng ngọc trắng xám, thời Nguyễn Bức chạm phong cảnh làm từ ngọc trắng xám, thời Nguyễn tiếp theo Tượng bát tiên làm bằng ngọc trắng xám và xanh, thời Nguyễn Ống bút ngọc xanh ngà vàng Lọ ngọc trắng xanh Bộ cờ tướng làm bằng ngọc xanh và trắng xám, thời Nguyễn Theo Tuấn Nguyễn (Tiền Phong)