-
Số nội dung
6.278 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
75
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Thiên Đồng
-
Nét riêng ngày Tết Đoan Ngọ ở Hàn Quốc Ngày lễ diễn ra vào mùng 5 tháng 5 âm lịch hàng năm, tương đương với Tết Đoan Ngọ ở ta đã có từ rất lâu đời tại Hàn Quốc. Người dân xứ sở kim chi này gọi nó là ngày lễ Dano, hay Suritnal. Mỗi ngày lễ có một đặc trưng riêng khác biệt mà chỉ cần nhắc tới, ta cũng có thể dễ dàng nhận ra. Và Dano cũng không phải trường hợp ngoại lệ… Số 5: Với người Hàn Quốc, con số 5 là biểu tượng của sức mạnh, sự cường tráng. Ngày lễ Dano cũng diễn ra vào ngày 5 tháng 5 âm lịch hàng năm, sau khi thu hoạch lúa mạch và bắt đầu cấy lúa. Đây là lúc người dân Hàn cầu nguyện cho một mùa màng bội thu, không bị sâu bệnh phá hoại. Cùng với Tết Nguyên Đán (Seol) và Tết Trung Thu (Chuseok), Dano là một trong ba ngày lễ lớn nhất của Hàn Quốc. Mọi người có thể nghỉ ngơi thư giãn, ca hát, vui chơi sau một mùa vụ để chuẩn bị bước vào giai đoạn mới. Gạo: Gạo là nguyên liệu chính của Suritteok và Yaktteok - hai món bánh truyền thống trong mỗi dịp lễ Dano. Suritteok làm từ lá ngải cửu luộc chín, đem nấu chung với loại gạo không dính. Bánh có màu xanh và được nặn thành hình bánh xe. Còn Yaktteok là một loại bánh gạo với nhiều loại hạt khác nhau, được coi là một đặc sản của vùng phía Nam tỉnh Jeolla. Cây diên vĩ. Cây diên vĩ: Theo phong tục, trong ngày lễ Dano, phụ nữ Hàn Quốc phải gội đầu bằng nước cây diên vĩ đun sôi. Bởi họ tin rằng loại dầu gội đầu bằng thảo mộc này sẽ làm tóc suôn mượt óng ả. Những chiếc cặp tóc cũng mang màu đỏ nhuộm bằng rễ cây diên vĩ. Đàn ông thì quấn rẽ cây này xung quanh thắt lưng để bảo vệ mình khỏi tà ma và những linh hồn xấu rình rập. Mặc dù bắt nguồn từ Tết Đoan Ngọ của người Trung Quốc, song lễ Dano của người Hàn lại có những điểm khác biệt về cơ bản. Đu quay: Trò chơi dành riêng cho phụ nữ. Cũng như nhiều nước châu Á khác, ở Hàn Quốc đu quay là trò chơi dân gian đã tồn tại từ rất lâu đời. Và đây cũng là trò chơi được ưa thích trong dịp Tết Dano. Ssireum: Đấu vật - Ssireum tên một môn thể thao lâu đời nhất của Hàn Quốc, là biểu tượng cho nhuệ khí, tinh thần của người dân xứ Hàn. Đây là trò chơi dành cho nam giới, thể hiện kĩ thuật và sức mạnh cơ bắp. Ssrieum cũng phân ra làm 3 hạng cân: Han La – hạng nhẹ, Baek Du – hạng nặng và Chun Ha – hang mở rộng. Khu vực thi đấu là một vòng tròn viền cát dày. Hai đối thủ quỳ trên cát, nắm chặt satba (một loại thắt lưng của người Hàn Quốc) của đối phương. Hai đấu vật sẽ phải đứng dậy trong khi vẫn nắm chặt satba của đối phương. Người thắng cuộc sẽ là người hạ đo ván đối thủ dưới đất, với điều kiện không một bộ phận nào của cơ thể đối thủ được cao hơn gối của người thắng. Phần thưởng cho nhà vô địch trong cuộc thi này là một con bò to khỏe. Quạt: Người Hàn Quốc có câu “Dano tặng quạt, đông chí tặng lịch”. Bởi lễ Dano được tổ chức trùng với những ngày đầu mùa hè, nên quạt được coi là món quà truyền thống mà người Hàn vẫn tặng nhau trong dịp này. Phong tục này đã đươc hình thành và duy trì từ thời kì vua Joseon. Thậm chí, chính nhà vua cũng tặng quạt cho các cận thần theo chức vụ từ cao tới thấp. Di sản văn hóa: Tuy vẫn được cho rằng có nguồn gốc từ ngày lễ Dragon Boat của Trung Quốc và giống với Tết Đoan Ngọ của Việt Nam, nhưng Dano vẫn mang trong mình những ấn tượng riêng khác biệt. Phong tục truyền thống này của xứ Hàn đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của thế giới. Nguon MonngonHanoi.com ================================== Theo bài trên, dễ dàng thấy rằng có 3 điểm hoàn toàn tương đồng với văn hóa người Việt 1. Tết Đoan Ngọ của Hàn Quốc diễn ra vào ngày mồng 5 tháng 5. 2. Dùng gạo làm bánh có hình bánh xe (hình tròn) 3. Chơi đu quay 4. Đấu vật Tổng lại ta có nhưng hình ảnh tương đồng rỏ nét của 3 dân tộc Việt - Nhật - Hàn: Hình ảnh đấu vật của người Việt xưa Hình ảnh đấu vật của người Việt nay Sumo Nhật Bản đấu vật Hàn Quốc Thiên Đồng
-
Thưa chú, con xin đưa kết quả như sau ạ:1. Đúng là con không thể hoàn thành được nhiệm vụ Liên đội trưởng nên đã thay một chị có kinh nghiệm hơn làm 2,3: Đội của con hoàn thành tốt và đạt giải nhất của xã và được cử đi thi huyện vào cuối tuần này ạ. Chúc mừng đội của kẻ ham hoc thành công, thêm một trường hợp để Thiên Đồng nghiệm quẻ. Cảm ơn
-
Sáu Sức Trang Hoàng Bằng Xương của Naropa Nguồn gốc Sáu Sức Trang Hoàng của Naropa bắt đầu từ thế kỷ thứ XI. Vào thời gian đó, Đại dịch giả Marpa Choekyi Lodroe xứ Lhodrak viếng thăm Ấn Độ ba lần, Nepal bốn lần. Tại hai nước, Ngài đã hạnh ngộ hàng trăm đại Đạo sư uyên thâm thành tựu. Hai Đạo sư chính là Đức Naropa, Đức Maitripa uyên thâm đã trao truyền cho Ngài các pháp quán đỉnh cùng tất cả giáo pháp tinh yếu về những nghĩa lý tối thượng của Kinh thừa và Mật thừa, các giáo pháp siêu phàm Đại Thủ Ấn và Sáu Pháp Du Già của Naropa. Nhờ thành tựu viên mãn các pháp tu trên, Ngài đã thực chứng đại giác hoàn hảo tối thượng. Cuối cùng, Đức Naropa tuyên bố với ngài Marpa rằng: "Sự gia trì của Đạo sư Krishnacharya đã thổi sức sống cho các dòng phái phía Đông, Đạo sư Aryacharya ban phước cho các dòng phái ở phía Nam, nhà vua Indrabhodi truyền pháp cho các dòng phái ở phía Tây, còn ta gia trì cho các dòng phái ở phía Bắc - Miền Đất Tuyết. Con không còn việc gì ở đây nữa, hãy trở lại Tây Tạng. Ta trao truyền uy lực di sản cho con, trách nhiệm của con phải trông nom Nóc nhà Thế giới- Miền Đất Tuyết, đó là nơi rất nhiều đệ tử có căn khí đón nhận giáo pháp của ta". Sau đó, Ngài Naropa ban cho Marpa các trang sức bằng xương đang đeo trên mình, một chuỗi tràng bằng ngọc Ruby và nhiều pháp khí khác. Naropa đặt đôi bàn tay tôn quý của mình lên đầu Marpa gia trì và dặn dò, rồi Ngài nhập hành động chiến thắng siêu việt bất khả tư nghì khắp mười phương. Đức Marpa quay trở về Tây Tạng, hoằng truyền tinh túy của giáo pháp, chuyển bánh xe Pháp vô thượng diệu đem lại lợi ích cho vô số đệ tử. Ngài truyền trao toàn bộ pháp khẩu truyền cho "Bốn Đại Đệ Tử", trong đó có một vị tài năng thuyết pháp tuôn châu nhả ngọc là Ngok Toen Choeku Dorje (1036 - 1102). Vị đệ tử này được Marpa truyền lại bốn lớp Tantra đặc biệt: các kinh điển gốc, các nghi quỹ, các luận tạng và giáo pháp tinh yếu, nhiều pháp khí hỗ trợ thực hành pháp tu của Naropa và Sáu Sức Trang Hoàng. Đồng thời, Đức Marpa huyền ký với Ngok Toen rằng: "Con hãy gìn giữ những di bảo này. Với những đệ tử của con từ nay đến đời thứ VII, người Thầy chỉ cần gia trì cách thức sử dụng linh chử thế nào đã là đủ". Đúng theo lời huyền ký, Sáu Sức Trang Hoàng được kính ngưỡng là những pháp khí thể hiện lòng sùng kính do các tổ sư của dòng Ngok bảo hộ cho tới đời thứ VII. Đến Tổ sư Ngok Toen Jangchub thứ đời VII của dòng Ngok (1360 –1446), Ngài hạnh ngộ Pháp Vương Kunga Peljor Gyalwang Drukpa đời thứ II. Ngài truyền lại cho Pháp Vương toàn bộ giáo pháp của dòng Ngok, Sáu Sức Trang Hoàng, bình quán đỉnh của Đạo sư Ngok cùng nhiều bảo vật khác. Ngài chứng minh Đức Kunga Peljor là Pháp Vương của dòng phái: "Nay Giáo pháp trở về với đôi tay của Đức Thiên Long Chí Tôn!" Sau đó Ngài cũng tuyên bố rằng: ‘Bậc Thắng Giả Thiên Long chính là hóa thân đức Naropa’. Kể từ đó, các hóa thân chuyển thế đời sau của Pháp Vương Gyalwang Drukpa kế thừa và thờ phụng Sáu Sức Trang Hoàng của Naropa với trọn lòng thành kính sâu xa. Các hóa thân Pháp Vương thường ban cho những ai có thiện duyên chiêm bái để họ tích lũy, tăng trưởng công đức. http://www.drukpacou...rnaments-naropa
-
VẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM TRONG LỊCH SỬ VÀ GIAI THOẠI Phan Quỳnh Đấu vật là một hoạt động dùng sức không có phương tiện , dụng cụ nào ngoài tài khéo nhanh nhẹn , nghệ thuật , dẻo dai và sức lực nhằm thi thố tài năng quật ngã nhau giữa hai đối thủ gọi là Đô hay Đô Vật . Khác với đánh võ bàn tay luôn luôn cứng, khi giao đấu các đô vật hai bàn tay mở xòe và mền mại , hầu dễ dàng cầm nắm , quăng quật . Những đô vật nổi tiếng hay bậc thầy được tôn là Trạng Vật . Tại những làng thôn có nhiều đô vật giỏi , hoặc có nơi đào tạo được nhiều đô vật , có thầy dạy hẳn hoi , gọi là Lò Vật . Vật là một bộ môn thể thao rất được ưa chuộng trong giới nông dân Việt Nam thời xưa . Những ngày đầu của mùa Xuân thuở thanh bình hay những buổi hội hè đình đám nơi thôn dã, dân làng thường tổ chức những cuộc vui như hát quan họ, thi nấu cơm, chọi trâu, đá gà, đánh đu, kéo co, bắn nỏ, đánh gậy trung bình tiên, đấu vật, v.v... Nhất là đấu vật, mở hội ngày Xuân mà không có thi vật thì thật là thiếu thú vị của những ngày Tết. Trống vật nổi lên là có sức thu hút mọi người , già , trẻ , gái , trai , đủ mọi tầng lớp nô nức đến bao quanh đấu trường ; người ta bình luận say sưa , chê khen rành rọt từng thế , từng miếng vật , từng keo vật từng tác phong của mỗi đô . Bộ môn vật , ngoài tính cách giải trí vui chơi , còn là một môn thể thao hữu ích, giúp thanh niên trong làng thêm cường tráng, thêm nghị lực , lòng dũng cảm , để giữ làng , giữ lúa và giữ nước. Đấu vật đã trở thành một tục lệ , một truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam . Bức tranh dân gian Du Xuân Đồ đã miêu tả sống động cảnh tượng sinh hoạt văn nghệ , thể thao của nhân dân Việt Nam xưa vào dịp đầu Xuân với lời thơ chú thích : Một cảnh vật của Sumo Nhật Bản có nét hoàn toàn tương đồng với mộn đấu vật của người Việt Thái bình mở hội xuân , Nô nức quyết xa gần , Nhạc dâng ca trong điện , Trò thưởng vật ngoài sân Ca dao vùng Sơn Nam có câu : Ba năm chúa mở khoa thi Đệ nhất thi vật , đệ nhì thi bơi, Đệ tứ thi đánh cờ người , Phường Bông tứ xứ mồng Mười tháng Ba . Ngay từ thời xa xưa, khi mới có của bộ môn này tại nước ta , vật đã được coi là một phương pháp dùng để luyện sức , đo tài , chọn người ra giúp dân giúp nước . Điều đó đã thể hiện ngay trong kỹ thuật , phong cách và lối chơi . Theo Pierre Gourou, tác giả sáchø "Les Paysans Du Delta Tonkinois" tái bản tại Paris năm 1965 (1), thì tại đồng bằng sông Hồng có nhiều làng, ví dụ làng Hà Lỗ tỉnh Bắc Ninh, có tục "đặt ruộng", dành riêng một số Công điền của làng cho làm rẽ, cho thuê thu tô để có tiền tổ chức Hội Vật hàng năm. Thật vậy , xưa kia ở nước ta chẳng mấy nơi không có lò vật . Có những lò vật vang lừng xứ Bắc như lò vật Guột , Tri Nhị , Gia Lương (Bắc Ninh), lò vật Đông Kỵ (Đồng Quang, Từ Sơn , Bắc Ninh) lò vật Thụy Lâm (Đông Anh, Cổ Loa) , lò làng Yên ( Yên Mẫn, Châm Khê , Võ Giàng ) lò Liễu Đôi (Nam Hà) , lò Phú Thọ , Vĩnh Phúc Yên , Nam Định, Hưng Yên ,Hải Phòng, lò vật Thường Tín, lò Thanh hóa, Nghệ An , vân vân . Hội Vật làng Sình (xã Phú Mậu , huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên) hàng năm mở hội vào ngày 10 tháng Giêng Âm lịch thu hút nhiều đô danh tiếng miền Trung. Lại có lò cứ 12 năm mới mở Hội Vật một lần, ví dụ lò vật Trà Lữ thuộc trấn Sơn Nam cũ, cứ đúng năm Mùi mới lại mở thi Vật, nơi tranh hùng của các đô vật bốn phương , háo hức về giật giải. Nhưng cũng có làng khi mở hội đình rángù tổ chức đấu vật vẫn không thành , theo các cụ già xưa , nếu nơi naò không phải là đất vật thì khó có thể lập nổi sân vật mà các tay đô vật giỏi cũng không đến tranh giải. Đền Lý Bát Đế , thờ tám vị vua nhà Hậu Lý (từ năm 1010 đến năm 1225) tại Đình Bảng (Bắc Ninh), có tượng hai ông Đá Rãi, hai đô vật nổi tiếng. Các bô lão Trường Yên Ninh Bình rất tự hào về những ngày hội lớn hàng năm ở địa phương mình : Hội đền vua Đinh , Hội chùa Trường Yên , Hội Cờ Lau tập trận. Trò vui lớn nhất của những hội này là trò đấu võ, đấu vật. Những đô và những thày dậy võ họ Đinh, họ Bùi, họ Vũ cha truyền con nối, làm vẻ vang làng xóm . Dưới đây, chúng ta thử hướng về lối vật của người nông dân Việt Nam thời xa xưa. I/. TẬP LUYỆN. 1/. Quanh năm, xong việc đồng áng , được lúc nào rảønh rỗi, trai tráng trong làng thường rủ nhau tập dượt võ thuật hay vật, họ chỉ bào lẫn nhau, ai có miếng võ nào hay, ngón vật nào độc đáo thì lại truyền dậy cho anh em cùng tập. Những ngày giáp Tết Nguyên Đán, nếu trong làng có ông thày võ, họ đến tụ tập tại nhà ông thày để luyện tập thêm ; làng nào không có thì cử người đi đón thày ở lò võ , lò vật các làng lân cận về để dậy. Trang phục khi tập luyện cũng như khi lên đài đấu của các đô vật là đóùng có mỗi một cái khố và ởû trần, không có đai đẳng gì cảø, trên đầu chít khăn đầu rìu hay chít khăn bỏ tua . Khố là một miếng vài dài được cuốn vào như một cái quầøn sì-líp. Khố có nhiều màu, nào đỏ, nào xanh, nâu hay vàng, hồng, tím, . . . 2/. Kỹ thuật và Nghi lễ . Trước hết, các đô vật được tập cách luyện thể lực cho dai sứ, mạnh tay mạnh chân, cách đứng thủ thế nào cho vững chắc , cách “lồng tay tư”sao cho có ưu thế và những bộ pháp như cách di chuyển từng bước chân, khi tới, khi lui, khi bước ngang, bước xéo, xoay vòng, ... Họ còn được tập luyện cách té ngã thế nào cho khỏi đập đầu xuống đất , khỏi gẫy tay, tập cách né tránh, thoát hiểm, “ cầu vồng “, kể cả những nghi thức có tính cách tôn giáo dành riêng cho mỗi lò vật, như Múa Hoa, Xe Đài hay còn gọi là Ra Giàng, hoặc Múa Hạc v.v... Ra Giàng , Múa Hạc hay Xe Đài là một lễ nghi thành kính của các đô vật , và còn một hình thức khởi động của đô vật có mang tính dân tộc , vừa là cách trình diễn của đô vật với khán giả, tạo một không khí hào hứng lành mạnh trước khi vào cuộc đấu thực sự. Ngoài ra Ra Giàng , hai bên vờn nhau , còn đánh đòn tâm lý , gây cho đối phương tư tưởng hoang mang , giao động với những lối Ra Giàng hùng dũng , chân đứng hình con hạc , hay đứng theo kiểu con phượng nhích chân , con dang cất cánh hoặc con công múa xòe, cổ tay uốn lượn , ngón tay múa may mền dẻo , uốn éo , giống như những nghi thức tay Ấn tay Quyết của các thầy tế , pháp sư hay phù thủy . Có lẽ nó có nguồn gốc của lễ nghi Tế Thần sau những chiến thắng của các dân tộc Á đông thời thượng cổ bên ngọn lửa thiêng bập bùng trên thuyền chiến hay đồng nội ven ao hồ, sông biển . (Xem Luyện Võ của Phan Quỳnh) . Phải chăng có sự liên hệ nào đó giữa những hình ảnh Ra Giàng hay Múa Hạc của các đô vật vùng đồng bằng Bắc bộ và bắc Trung bộ Việt Nam mà nhịp chân tiến lên lùi xuống ba bước, bước ngang hai bước với những cảnh chim chóc , cảnh người múa (múa võ?) chạm đúc trang trí trên trống đồng Đông Sơn, hay rõ hơn trống đồng Hoàng Hạ , Ngọc Lũ hay trên thạp đồng Đào Thịnh ? Điểm đáng chú ý là động tác bàn tay những người múa trên trống đồng, thạp đồng đã được thể hiện một cách cường điệu, bàn tay xòe ra hình ba chạc to quá khổ so với người . (Xin mở một ngoặc đơn là một số các dân tộc ở Nam Á và ở châu Á hải đảo chạy dài từ phía nam quần đảo Nam Dương đổ lên vùng đa đảo cực bắc Thái Bình Dương cũng có những nghi thức Ra Giàng giống như các đô vật vùng châu thổ sông Hồng , sông Mã : nghi thức Kanbangan của các võ sĩ Pukalam Pentjack cổ điển ở Indonesia, ở vùng hải đảo Celebes , nghi thức Nagdadasal của các đô vật Dommoq nhóm bộ lạc Tagalog vùng đảo Luzon Phi Luật Tân , nghi lễ Suat-Mon hay Wai-Pá thành kính cầu nguyện lúc thượng đài của các võ sĩ Muay-Tai Thái Lan , các võ sĩ Tỷ-Môi xa xưa ở Ai Lao hay của các đô vật Sumo ở Hokkaido Nhật Bản) . Vật không phải chỉ cần có sức khỏe , có lực để thắng được đối phương , nó còn đòi hỏi phải có thế , có miếng , có kỹ thuật , có mánh lớùi , cộng với sự nhanh nhẹn , chính xác của từng đô vật. Do đó , vật có nhiều thế , nhiều miếng , có những miếng đánh trong tư thế bất ngờ , có những miếng đánh trong lúc giằng co , hoặc đánh trong tư thế nằm (nằm bò) . Dưới đây là một số đòn miếng vật thông dụng : - Kê : dùng hông hoặc vai làm điểm tựa để quăng ngã đối thủ. - Ngáng (hay Cản) : dùng chân quét hay gạt, cản chân đối thủ làm mãt thăng bằng cho té ngã. - Đệm : dùng đầu gối, hay bắp đùi , lót đằng sau chân đối thủ rồi dùng sức mạnh của mình gait , đẩy, sô đối phương té ngửa ra. - Vét : đang vờn nhau, nhử cho đối thủ tiến lại gần, nhanh chóng cúi người xuống, chân trái gập hạ thấp, chân phải rút về sau duỗi thẳng, đồng thời tay phải đưa lên ấn mạnh vào vai trái đốùi thủ, bàn tay bắt chặt lãy khoeo sau chân trái đối thủ giật mạnh về phía mình. - Bắt Để Hớt Gót : Hai đô vật đối diện sát vào nhau (mà chưa lồng tay tư) một người bất ngờ dùng hai tay bắt chặt lấy cánh tay phải đối phương . Chân phải và người lập tức xoay chếch sang phía bên phải , người cúi thấp hai chân dạng ra hai bàn chân rê mạnh và nhanh , lùi chếch về phía sau , đồng thời dùng hai tay kéo mạnh đối phương về phía mình. Khi đối phương đang mất đà hơi chúi về phía trước thì lập tức ta hạ tay trái xuống , từ phía trong dùng bàn tay phải bắt và hất mạnh cổ chân trái đối phương ra đằng sau. Thuận bên nào , làm bên ấy. -Bốc Một Chân : a/ Tư thế bất ngờ : Hai đô vật đứng sát và đối diện , một trong hai người bất ngờ hất hai tay của đối phương lên và người phải nhanh chóng chuồi dài ra phía sau, lúc này chân trái đặt trước , chân phải đặt ở phía sau , đầu cúi xuống , dùng vai ấn vào thân thể đối phương, đồng thời dùng hai tay bốc khoeo chân phải đối phương giật mạnh về phía mình , đối phương bị mất thăng bằng bởi hai lực nên ngã ngửa. b/ Tư thế giằng co : Tay phải bá cổ đối phương , tay trái nắm cánh tay trên , tay phải đối phương, dầu cúi xuống dựa vào gáy phía phải đối phương, chân trái phía trước , chân phỉ phía sau. Đối phương dùng sức nay ta , ta dùng sức nay lại . Đối phương lại cố dùng sức nay ta , ta bất ngờ hạ thấp người xuống và đánh như miếng bốc một chân trong tư thế bất ngờ. -Sườn tay trong : còn gọi là đánh đòn dọc , bất ngờ biến thế thật nhanh, luồn luồn cánh tay phải vào phía trong cánh tay trái đối phương , bàn tay phải lồng vào nách trái đối phương . Tay trái nắm vào cánh tay phải đối phương , ghì vào sát người mình . Đồng thời bước nhanh chân phải về phía trong lòng đối phương , cúi người xuống dùng hông mình hất mạnh đối phương ra phía sau cho ngã . -Đánh Gãy : Đang lồng tay tư , bất ngờ đổi hai tay vào phía trong cánh tay đối phương , bàn tay trái mở nay mạnh vào cổ bên phải , bàn tay phải xốc nách trái đối phương , kéo mạnh về phía mình , đồng thời nghiêng người dùng sườn trái hất mạnh , chân phải hất chân đối phương cho té ngã. -Tay Quai : Đang lồng tay tư , bất ngờ chuyển hai tay vào phía trong hai cánh tay đối phương , tay phải luồn qua dưới nách trái đối phương, tay trái luồn qua trên vai đối phương đều ra sau long và hai bàn tay nắm chắc lấy nhau ghì chặt đối phương . Rồi bất ngờ dùng tay phải nay mạnh đối phương ra sau , cánh tay trái kéomạnh đối phương về phía mình . Đồng thời nghiêng mình dùng sườn phải đánh mạnh và châm phải hất chân đối phương cho té ngã . - Nằm Bò (hay Hạ Thổ) : khi bị xa cớ lỡ miếng hay khi gặp đối thủ mạnh hớn, họ thường nằm sãp xuống mặt đãt, tay chân dang rộng ra, mặc cho đối thủ tha hồ đẩêy, bê, bứng, nhấõc hổng, để rồi liệu cơ hội đánh lừa đối thủ, lợi dụng lúc đối thủ sơ hở thì lập tức chồm dậy tấn công lại. Các miếng Bốc , miếng Gồng , miếng Sườn , ... , có lại có nhiều thế khác nhau : Gồng Đứng , Gồng Quỳ , Gồng Ngồi , Sườn Tay Trong , Sườn Tay Ngoài , Bốc Hai Chân , Bốc Một Chân , vân vân .(2) Tuy nhiên , mỗi lò vật , mỗi địa phương , lại có những thế vật độc đáo , đặc biệt riêng , phong cách riêng , mạnh mẽ , ác hiểm hay uyển chuyển , bay bướm riêng , nổi tiếng trong vùng , nhất là những thế “đánh dịp nhì” . nghĩa là kỹ thuật đánh chống lại , phản lại : chống Bốc , chống Gồng ngồi , chống Mói , chống Cầu vồng , chống Sườn trong , vân vân , ví dụ xưa kia : lò Mỹ Độ (tổng Mỹ Cầu , Phủ Lạng Thương) có miếng chống Vét, chống Gẫy , Lấy Bò , lò Mai Động có miếng Giồng , miếng Mói , lò Yên Sở có miếng Sườn miếng Móc , lò Đồng Tâm (Vụ Bản Nam Định) lại nổi tiếng với những ngón Móc-Chảo, Vỉa Lộn Cối , Giát Bốc , Bỏ Thuốc , Sườn Cặp Cổ , . . . II/-. LỆ VẬT Muốn đánh bại đối thủ trong cuộc đãu vật thì các đô vật phải theo những luật lệ sau đây : 1/. Nhấc bổng địch thủ hổng cảø hai chân lên khỏi mặt đất (“Túc Ly Địa”) được coi là thắng , hổng một chân không kể . 2/. Vật đối phương té ngã ngửa, lưng vai chạm mặt đất thì thắng (“Lấm Lưng Trắng Bụng”), ngã sấp không kể . Vật không có hòa, phải xác định một thắng một thua (thắng tuyệt đối hay thắng điểm). Ngoài ra không được đấm đá , bãm huyệt, móc xương quai xanh , chẹn hàm , bẻ cổ , lên gối, nắm tóc, móc mắt, cù léc, thọc cắn,..., phun nưôc miếng, văng tục, xé khố đối thủ, hay khi bị té ngã rồi không được móc chân cho đối thủ ngã theo, v.v... Thí sinh thượng đài đấu vật không tính tuổi tác hay cân lượng. III/. GIẢI VẬT. Tùy theo địa phương tổ chức, vật có nhiều giải khác nhau, chia hai loại : Giải Thờ và Giải Chính. 1/. Giải Thờ (hay Giải Hàng) Giải thờ còn được gọi là Giải Xông Sới , không có người giữ giải . Ai muốn lên vật thì ghi tên rồi bắt cặp. Ai thắng thì được làng thưởng. Tranh Giải Thờ chỉ là mở• đầu cho ngày Hội Vật, để cho những ai muốn khảo sức nhau thì lên bắt cặp, và có nhiều Giải Thờ trong một ngày. Ở giải này khi vật hai đối thủ thường không dùng hết sức, chỉ cốt phô bày nghệ thuật, vật cho đẹp, cho vui, có khi cả hai cùng té ngã cho cả làng cùng cười. Thay vì họ lừa miếng nhau thì họ lại múa may cho thật mền dẻo để người xem vui mắt.(3) 2/. Giải Chính. Giải Chính có ba giải : giải nhất, giảøi nhì và giảøi ba. Ba giải này đều có người xin giữ . Các đô vật tứ xứ muốn phá giải nào thì xin ghi tên để vật với người giữ giải ấy. Nếu không có ai xin phá giải trong ba ngày, theo lệ làng, thì người giữ giải đương nhiên được lãnh giải mình giữ (Giải Cạn). Trong ba Giải Chính này thì giải ba phải được phá trước rồi mới tới giải nhì, và giải nhất. Về số đối thủ phải đấu thì lệ làng định như sau : - Giải nhất : trong sáu ngoài năm. - Giải nhì : trong bốn ngoài ba. - Giải ba : trong ba ngoài hai. "Trong sáu ngoài năm" nghĩa là ai giữ giải nhất thì phải vật thắng đủ liền sáu người mới được coi là chiếm giải, còn người phá giải thì chỉ cần vật ngã năm đối thủ kể cả người giữ giải . Nếu người giữ giải đã thắng năm keo mà bị thua keo chót thì cũng không được nhận giải . "Trong bốn ngoài ba" hay "Trong ba ngoài hai" cũng tính tương tự như thế.Giải thưởng cho đô vật có nhiều loại cho giải chính , giải hàng , lại có giải chung cuộc cho đô vật nào thắng nhiều điểm nhật trong những ngày Hội Vật Thường thường Giải Chính do đô vật hạng nhất trong làng hay ở các làng khác đến xin giữ . IV/. THƯỢNG ĐÀI . Ngày Hội Vật đầu Xuân đã đến. Trống vật thúc dục làm nao nức lòng người. Già trẻ, trai gái đều bỏ mặc hết mọi công việc nhà, rủ nhau tụ tập đông đảo trưôc sân đình để dự khán. Các đô trong làng đều ghi tên dự thí. Những đô tứ xứ, ở các làng lân cận muốn xin dự thí phải mang lễ vật đến để xin cúng thần . Tùy theo lệ làng, có nơi lễ vật là đĩa sôi gấc, hay nhánh cau với vài lá trầu , hoặc bó hoa, trái cây hoa quả ø, hoặc thẻ nhang,... Bãi cỏ phẳng rộng trước sân đình làng được dùng làm đấu trường , ở giữa được kẻ vạch một vòng tròn , đường kính khoảng 6 mét bằng vôi trắng, vòng tròn này được gọi là sới vật. Có nơi sới vật là hình vuông mỗi cạnh tám mét , có nơi sới vật được đóng dóng bằng tre chung quanh , có nơi sới vật nằm dưới đáy ao nông cạn đã tát hết nước và khơi khô trước sân đình để dân làng , khán giả đứng chung quanh bờ xem cho rõ (sân này còn được dùng để đánh cờ người) . Hai bên sới vật là hai hàng cờ đuôi nheo ngũ hành gồm năm mầu xanh, đỏ đen vàng trắng, mỗi bên năm lá cờ . Các đô vật trong thiên hạ ởû trần trùng trục, chỉ đóng mỗi một cái khố , đầu chit khăn , ngồi thành hai hàng dưôi hai dẫy cờ . Người nào cũng lực lưỡng, bắp thịt nỏ nang rắn chắc. Hai bên tả hữu trước sới vật là hai cái trống cái (trống lớn) , có nơi chỉ dùng một trống thôi , và những hàng ghế danh dự dành cho quí vị chức sắc trong làng và hàng tổng. Hai vị đàn anh trong dân được cử đánh trống cái , gọi là "cầm chịch" , nghĩa là làm nhiệm vụ của trưởng ban Trọng tài cuộc đấu . Giữa hai trống cái đó là bàn thờ thần , và phía dưới , trước mặt bàn thờ , được trải một chiếc chiếu cạp điều để các đô lễ thần trưôc và sau khi giao đãu. Có điều họ lễ thần không bằng cả hai tay như bình thường mà chỉ lễ lên gối xuống gối chống một tay trái thôi. Sau khi múa Ra Giàng , hai đô vật bắt đầu giao đấu. Trống vật liên tục mỗi hồi là ba tiếng. Hai người cầm chịch cứ người nọ đánh ba tiếng dứt thì người kia lại đánh ba tiếng tiếp theo. Các đô vật tài hoa thường dùng các miếng vật vừa đẹp mắt mà vẫn quyết liệt , nghiêm túc và chính xác . Ngay giữa sới vật có ba người tuần đinh, làm nhiệm vụ của trọng tài phụ . Hai trong ba người này , mỗi người cầm một lá cờ đuôi nheo nhỏ phất phẩy làm hiệu lệnh vật, người thứ ba cầm một trống lưng (trống nhỏ) để gõ nhẹ khuyến khích , thúc dục hai đô tấn công tiếp. Keo vật càng trở nên gây cấn, tiếng trống lại mau hơn, người tuần đinh kề hẳn trống vào mang tai các đô để thúc , để cổ võ để nhắc nhở , hai lá cờ đuôi nheo cũng nhộn nhịp phe phẩy không ngừng để giữ trật tự, giãn các khán giả vây vòng mỗi lúc một quá chặt. Khán giảø reo hò , la hét khuyến khích yểm trợï tinh thần "gà nhà", họ dán mắt vào từng miếng bốc , miếng sườn , miếng gồng của các đô , rồi reo lên khi đô nào đó hạ đối phương bằng một miếng đẹp mắt . Keo vật vào hồi quyết liệt , họ , những khán giả sát gần sới vật , nằm xoài ra đất để xem cho rõ . Hai đối thủ nào bá cổ, nào tay nắm tay , hoặc thủ thế, giữ miếng , vờn nhau , . . . Họ ôm lưng, bá vai, ngáng chân, có lúc họ nắm tay nhau giật mạnh rồi buông ra cho té ngã. Cuộc đấu mỗi lúc một gay go, sôi động và hào hứng. Họ lừa nhau từng miếng, từng bưôc chân, từng cách di chuyển, rồi gặp cơ hội thuận tiện họ quật ngã ngửa nhau “lấm lưng trắng bụng” giữa tiếng reo hò ầm ĩ vui vẻ của mọi người ... Giải nhất vừa được phá . Kẻ chiến thắng hiên ngang kiêu hãnh lên lãnh giải . Phần thưởng đôi khi chỉ là ba vuông vải nhiễu điều, gói trà mạn sen (có những Hội Vật lớn , giải chính là một con bò hay con nghé) và một phong pháo toàn hồng được xé ra đốt ngay sau cuộc đấu như chào mừng người vô địch thiên hạ . Sau ba ngày tận sức, tận lực chiến đấu trong tinh thần thượng võ , huynh đệ , các đô lại quây quần dưới mái đình cùng nhau chè chén vui vẻ . V/ TRONG LỊCH SỬ VÀ GIAI THOẠI Vật cổ truyền Việt Nam đã có từ thời thượng cổ . Truyền thuyết và giai thoại về vật cũng phong phú và đa dạng . Một truyền thống cao đẹp của vật là ngay từ thời kỳ đầu dựng nước và giữ nước , các anh hùng dân tộc cứu dân giúp nước phần lớn đều là những đô vật nổi tiếng trong dân gian , được nhân dân kính trọng và thờ phụng mà ngày nay vẫn còn đền thờ : như Lý Ông Trọng (Lý Thân) được thờ ở Chèm , (ngoại ô Hà Nội), như Đô Lỗ (Cao Lỗ) , Đô Nồi (Nồi Hầu) , giúp vua Thục An Dương Vương (năm 257-207 trước Tây lịch) , ngày nay nhân dân vẫn hương khói thờ phụng tại Cổ Loa. Theo Thần tích đền Nghè (Hải Phòng) bà Lê Chân dựng đài thi võ , luyện vật cho ba quân , chiến đấu giúp Hai Bà Trưng (năm 40-43 sau Tây lịch) đánh đuổi quân Đông Hán Trung quốc . Đô Dương , Đô Chinh (Nguyễn Tam Chinh) đã là những bậc thày nổi tiếng trong làng xã trước khi ra giúp Hai Bà Trưng cứu nước . Khi chết , Đô Chinh được nhân dân nhớ ơn, vinh tôn là Thần Hoàng làng làng Mai Động (ngoại thành Hà Nội), thờ phụng cho đến ngày nay và được xưng tụng là ông tổ lò vật Mai Động . Nhân đây cũng xin nêu lên một chi tiết cần tìm hiểu thêm về Thành Hoàng làng Mai Động của các tác giả Văn Hạc trong bài “Lai Lịch Và Ý Nghĩa Hội Vật Làng Mai Động” đăng trong báo Trung Bắc Chủ Nhật , số 100 phát hành tại Hà Nội ngày 1 tháng 3 năm 1942 (trang 15 , 16) và tác giả Toan Ánh trong tác phẩm Hội Hè Đình Đám, quyển thượng xuất bản tại Saigon năm 1969 (trang 61) , các tác giả này đều cho Thành Hoàng Làng Mai Động là Bà Lê Chân , nhưng thần phả làng Mai Động và nhân dân làng này lại cho biết Thành Hoàng làng là lão đô Nguyễn Tam Chinh . (Bà Lê Chân và lão đô Nguyễn Tam Chinh đều là tướng lãnh của Hai Bà Trưng). Thần phả làng Mai Động ghi : Nguyễn Tam Chinh vốn người Thanh Hóa , vì chán cảnh mất nước , bỏ ra bắc tới Động Mơ tức Mai Động , thấy vùng đất lạ mới dừng lại mở trường dậy học . Ông thu nhận được 30 môn đồ , có sức khỏe , có kiến thức ,truyền dậy cả văn cả võ để đợi thời cơ . Trong các môn võ thuật , ông chú ý dậy cho học trò cách thức đấu vật . Ngày ngày , trước sân trường , ông ngồi xem từng cặp luyện tập , chỉ cho họ những ngón sơ hở và truyền cho họ những miếng hiểm ác để hạ thủ đối phương . Lớp học càng ngày càng tấn tới . Khi Hai Bà Trưng hiệu triệu nhân dân nổi dậy khởi nghĩa đánh đuổi quân Tô Định , ông làm lễ tế trời đất rồi cùng học trò kéo quân lên phụ giúp Hai Bà Trưng và lập được nhiều chiến công . Già trẻ trai gái mở hội đón rước và tình nguyện xin theo Đô Chinh rất đông . Cũng từ đó môn vật được lưu truyền lại trong vùng . Hàng năm mỗi lần Tết đến , nhân dân ở nay lại tổ chức Hội Vật vào những ngày mồng 4, 5, 6 để tưởng nhớ người xưa . Truyền thuyết cũng kể rằng khi Hai Bà Trưng khởi nghĩa , nhiều đô vật Kinh Bắc (Bắc-giang, Bắc-ninh) đã cùng bà Thánh Thiên hưởng ứng nhiệt liệt và đã trở thành những tướng giỏi của Hai Bà . Thánh Thiên công chúa sau khi hy sinh đền nợ nước đã được nhân dân Ngọc Lâm (huyện Yên Dũng , Bắc Giang) thờ làm Thần Hoàng làng . Trước khi phát động quần chúng khởi nghĩa đánh giặc Đông Ngô , Bà Triệu (năm 248) đã lên núi Nưa mở trường thi võ, đấu vật , luyện kiếm , bắn cung nỏ , huấn luyện nghĩa quân sao cho mỗi người vừa có thể lực dồi dào , vừa tinh thông các môn võ nghệ , chiến đấu chống giặc, khiến kẻ địch khiếp vía phải thốt lên : Hoành qua đương hổ dị Đối diện Bà vương nam ! (múa giáo chống hổ dễ , giáp mặt với vua Bà thực khó!) Dân gian ngày nay còn truyền tụng câu ca dao nói lên sự ủng hộ của quần chúng đối với “Nhụy Kiều tướng quân” Triệu Thị Trinh và ca ngợi tài đức của bà : Ru con con ngủ cho lành Để mẹ gánh nước rửa bành cho voi Muốn coi lên núi mà coi Coi bà Triệu tướng cưỡi voi bành vàng. Lý Bôn tức Lý Nam Đế (năm 544-5480), Triệu Quang Phục , Mai Thúc Loan tức Mai Hắc Đế (năm 722) . . . đều có sức khỏe hơn người và nổi tiếng về vật đã lãnh đạo toàn dân nổi lên chống quân Trung quốc xâm lược . Phùng Hưng giỏi vật và quật chết được cọp dữ dược nhân dân tôn là Đô Quân , vua của các đô vật , và người em ruột của ông là Phùng Hải , giỏi vật không kém anh , được nhân dân tôn là Đô Bảo , tướng của các đô vật trong thiên hạ (4) Lò vật làng Quỳnh Đô đã nổi tiếng trong vùng ngay từ thế kỷ thứ VI , thời kỳ nhà Lương đang đô hộ Giao Châu. Tục ngữ có câu : “Lò vật Quỳnh Đô , rỏ cua Cổ điển” , Quỳnh Đô thuộc huyện Thanh Trì , tỉnh Hà Đông . Hồi còn son trẻ , lão đô Phạm Tu trước khi ra giúp vua Lý Nam Đế đánh đuổi quân nhà Lương , khai sáng nhà nước Vạn Xuân năm 544, đã từng học vật tại Quỳnh Đô . ông người làng Quang (tức làng Thanh Liệt , Thanh Trì, cùng quê hương với thày đồ cương trực Chu Van An) đã sang tập vật làng bên là Quỳnh Đô và trở thành một đô vật nổi tiếng trong vùng, nhân dân thường gọi là Đô Tu (có tài liệu ghi là Đô Hồ, vì tương truyền thần thánh đất Tây Hồ đã “ứng điềm lành” trong việc ông ra đời) (5) Nhân dân vùng Thanh Hóa ngày nay vẫn còn truyền tụng về lò vật nổi tiếng của Dương Đình Nghệ , nơi sản xuất ra nhiều đô vật giỏi ra giúp Ngô Vương Quyền đánh đuổi quân Nam Hán (năm 939), dựng nền độc lập lâu dài cho đất nước . Ngay khi giành được nền tự chủ lâu dài cho dân tộc , các triều đại Đinh Lê Lý Trần và tiếp theo sau nữa , trong việc tổ chức quân đoiä gìn giữ bờ cõi , nhà nước đều coi trọng bộ môn vật , đã thiết lập trong quân ngũ nhiều đội vật , tổ chức thường xuyên đấu vật nhằm rèn luyện thể lực , lòng dũng cảm , tuyển lựa nhân tài và giải trí trong quân sĩ . Đội Đô vật Xuân Trường thời Trần đã góp phần tạo chiến công hiển hách thắng quân Mông Nguyên, một đoàn quân hung hãn , có lối vật Mông cổ nổi tiếng đương thời . Bà Liệt , Hoài Đức Vương , con tư sinh của Trần Thừa , em cùng cha khác mẹ của vua Trần Thái Tông , cũng đã từng là một đô vật có hạng trong đội vật nổi tiếng tại kinh đô Thăng Long . Sử cũ chép : “ Nhâm Thìn , năm Thiên Ứng chính bình thứ I (1232) (nhà Tống , năm Thiệu Định thứ 5) . Tháng Giêng , mùa Xuân mới sắp xếp nghi lễ trong triều : Phong cho em là Bà Liệt tước Hoài Đức Vương. Thượng hoàng lúc còn hàn vi , có lấy một người con gái ở thôn Bà Liệt , huyện Tây Chân , khi đã có thai thì bỏ , sau sinh con trai , Thượng hoàng không nhìn nhận gì đến . Người con trai ấy lúc lớn lên , mặt mũi khôi ngô , giỏi nghề võ , sung vào đội đánh vật . Một hôm , cùng với người trong đội đánh cầu , rồi lại cùng nhau đánh vật , người kia vật người con trai ấy ngã , chẹn lấy cổ , gần tắt thở , Thượng hoàng tự nhiên quát to lên rằng : “ Nó là con ta đấy ! “ Anh kia sợ , buông ra , nhân thế gọi tên là Bà Liệt . Nay có lệnh phong tước cho (6) Trong binh đội của triều đình nhà Lê, đô vật được chia làm nhiều loại từ thấp đến cao với những cấp bậc , tên gọi khác nhau , lịch trình đấu vật hàng năm và cách thi vật tại kinh đô Thăng Long được Phan Huy Chú ghi rõ ràng trong sách Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí : “Hàng năm , khi Tế cờ xong , sai hai viên quan võ coi thi đánh vật (một viên quản binh thị hậu , một viên quản ngoại binh) . Trước khi thi Đô và Sứ ba keo , rồi Đô và Sứ mới cử tử đệ rat hi . Những người mới tiến cử cùng đấu với nhau , ai thắng ba keo thì cho đấu với Xa . Thắng Xa ba keo thì cho đấi với Dù . Tuy thắng Dù ba keo , cũng không được đấu với Sứ . Lực đấu với Lực thắng ba keo thì cho đấu với Xa , thắng Xa ba keo , cho đấu với Dù , thắng Dù ba keo , cho đấu với Sứ . Tuy thắng Sứ ba keo , cũng không được đấu với Đô. Nội lực sĩ đấu với Nội lực sĩ , thắng ba keo , thì cho đấu với Xa , thắng Xa ba keo , cho đấu với Dù , thắng Dù ba keo , cho đấu với Sứ , thắng Sứ ba keo , cho đấu với Đô . Người mới tiến cử đấu với Dù thắng hai keo trở lên , thì cho làm danh tướng ở Dù , đấu với Xa thắng hai keo trở lên , cho làm danh tướng ở Xa , đấu với Lực thắng hai keo trở lean , cho làm danh tướng ở Lực . Lực đấu với Dù thắng hai keo trở lên , cho làm danh tướng ở Dù , đấu với Xa thắng hai keo , cho làm danh tướng ở Xa . Nội lực sĩ đấu với Xa , thắng hai keo , cho làm danh tướng ở Xa , đấu với Dù thắng hai keo , cho làm danh tướng ở Dù . Người nào thắng Sứ hai keo , cho chức phó đề hạt ; thắng Đô hai keo , cho chức đô úy . Ngày Hội Vật đầu Xuân đã đến. Trống vật thúc dục làm nao nức lòng người. Già trẻ, trai gái đều bỏ mặc hết mọi công việc nhà, rủ nhau tụ tập đông đảo trưôc sân đình để dự khán. Các đô trong làng đều ghi tên dự thí. Những đô tứ xứ, ở các làng lân cận muốn xin dự thí phải mang lễ vật đến để xin cúng thần . Tùy theo lệ làng, có nơi lễ vật là đĩa sôi gấc, hay nhánh cau với vài lá trầu , hoặc bó hoa, trái cây hoa quả ø, hoặc thẻ nhang,... Bãi cỏ phẳng rộng trước sân đình làng được dùng làm đấu trường , ở giữa được kẻ vạch một vòng tròn , đường kính khoảng 6 mét bằng vôi trắng, vòng tròn này được gọi là sới vật. Có nơi sới vật là hình vuông mỗi cạnh tám mét , có nơi sới vật được đóng dóng bằng tre chung quanh , có nơi sới vật nằm dưới đáy ao nông cạn đã tát hết nước và khơi khô trước sân đình để dân làng , khán giả đứng chung quanh bờ xem cho rõ (sân này còn được dùng để đánh cờ người) . Hai bên sới vật là hai hàng cờ đuôi nheo ngũ hành gồm năm mầu xanh, đỏ đen vàng trắng, mỗi bên năm lá cờ . Các đô vật trong thiên hạ ởû trần trùng trục, chỉ đóng mỗi một cái khố , đầu chit khăn , ngồi thành hai hàng dưôi hai dẫy cờ . Người nào cũng lực lưỡng, bắp thịt nỏ nang rắn chắc. Hai bên tả hữu trước sới vật là hai cái trống cái (trống lớn) , có nơi chỉ dùng một trống thôi , và những hàng ghế danh dự dành cho quí vị chức sắc trong làng và hàng tổng. Hai vị đàn anh trong dân được cử đánh trống cái , gọi là "cầm chịch" , nghĩa là làm nhiệm vụ của trưởng ban Trọng tài cuộc đấu . Giữa hai trống cái đó là bàn thờ thần , và phía dưới , trước mặt bàn thờ , được trải một chiếc chiếu cạp điều để các đô lễ thần trưôc và sau khi giao đãu. Có điều họ lễ thần không bằng cả hai tay như bình thường mà chỉ lễ lên gối xuống gối chống một tay trái thôi. Sau khi múa Ra Giàng , hai đô vật bắt đầøu giao đấõu. Trống vật liên tục mỗi hồi là ba tiếng. Hai người cầm chịch cứ người nọ đánh ba tiếng dứt thì người kia lại đánh ba tiếng tiếp theo. Các đô vật tài hoa thường dùng các miếng vật vừa đẹp mắt mà vẫn quyết liệt , nghiêm túc và chính xác . Ngay giữa sới vật có ba người tuần đinh, làm nhiệm vụ của trọng tài phụ . Hai trong ba người này , mỗi người cầm một lá cờ đuôi nheo nhỏ phất phẩy làm hiệu lệnh vật, người thứ ba cầm một trống lưng (trống nhỏ) để gõ nhẹ khuyến khích , thúc dục hai đô tấn công tiếp. Keo vật càng trở nên gây cấn, tiếng trống lại mau hơn, người tuầøn đinh kề hẳn trống vào mang tai các đô để thúc , để cổ võ để nhắc nhở , hai lá cờ đuôi nheo cũng nhộn nhịp phe phẩy không ngừng để giữ trật tự, giãn các khán giả vây vòng mỗi lúc một quá chặùt. Khán giảø reo hò , la hét khuyến khích yểm trợï tinh thần "gà nhà", họ dán mắt vào từng miếng bốc , miếng sườn , miếng gồng của các đô , rồi reo lên khi đô nào đó hạ đối phương bằng một miếng đẹp mắt . Keo vật vào hồi quyết liệt , họ , những khán giả sát gần sới vật , nằm xoài ra đất để xem cho rõ . Hai đối thủ nào bá cổ, nào tay nắm tay , hoặc thủ thế, giữ miếng , vờn nhau , . . . Họ ôm lưng, bá vai, ngáng chân, có lúc họ nắm tay nhau giật mạnh rồi buông ra cho té ngã. Cuộc đấu mỗi lúc một gay go, sôi động và hào hứng. Họ lừa nhau từng miếng, từng bưôc chân, từng cách di chuyển, rồi gặp cơ hội thuận tiện họ quật ngã ngửa nhau “lấm lưng trắng bụng” giữa tiếng reo hò ầm ĩ vui vẻ của mọi người ... Giải nhất vừa được phá . Kẻ chiến thắng hiên ngang kiêu hãnh lên lãnh giải . Phần thưởng đôi khi chỉ là ba vuông vải nhiễu điều, gói trà mạn sen (có những Hội Vật lớn , giải chính là một con bò hay con nghé) và một phong pháo toàn hồng được xé ra đốt ngay sau cuộc đấõu như chào mừng người vô địch thiên hạ . Sau ba ngày tận sức, tận lực chiến đấõu trong tinh thần thượng võ , huynh đệ , các đô lại quây quần dướâi mái đình cùng nhau chè chén vui vẻ . V/ TRONG LỊCH SỬ VÀ GIAI THOẠI Vật cổ truyền Việt Nam đã có từ thời thượng cổ . Truyền thuyết và giai thoại về vật cũng phong phú và đa dạng . Một truyền thống cao đẹp của vật là ngay từ thời kỳ đầu dựng nước và giữ nước , các anh hùng dân tộc cứu dân giúp nước phần lớn đều là những đô vật nổi tiếng trong dân gian , được nhân dân kính trọng và thờ phụng mà ngày nay vẫn còn đền thờ : như Lý Ông Trọng (Lý Thân) được thờ ở Chèm , (ngoại ô Hà Nội), như Đô Lỗ (Cao Lỗ) , Đô Nồi (Nồi Hầu) , giúp vua Thục An Dương Vương (năm 257-207 trước Tây lịch) , ngày nay nhân dân vẫn hương khói thờ phụng tại Cổ Loa. Theo Thần tích đền Nghè (Hải Phòng) bà Lê Chân dựng đài thi võ , luyện vật cho ba quân , chiến đấu giúp Hai Bà Trưng (năm 40-43 sau Tây lịch) đánh đuổi quân Đông Hán Trung quốc . Đô Dương , Đô Chinh (Nguyễn Tam Chinh) đã là những bậc thày nổi tiếng trong làng xã trước khi ra giúp Hai Bà Trưng cứu nước . Khi chết , Đô Chinh được nhân dân nhớ ơn, vinh tôn là Thần Hoàng làng làng Mai Động (ngoại thành Hà Nội), thờ phụng cho đến ngày nay và được xưng tụng là ông tổ lò vật Mai Động . Nhân đây cũng xin nêu lên một chi tiết cần tìm hiểu thêm về Thành Hoàng làng Mai Động của các tác giả Văn Hạc trong bài “Lai Lịch Và Ý Nghĩa Hội Vật Làng Mai Động” đăng trong báo Trung Bắc Chủ Nhật , số 100 phát hành tại Hà Nội ngày 1 tháng 3 năm 1942 (trang 15 , 16) và tác giả Toan Ánh trong tác phẩm Hội Hè Đình Đám, quyển thượng xuất bản tại Saigon năm 1969 (trang 61) , các tác giả này đều cho Thành Hoàng Làng Mai Động là Bà Lê Chân , nhưng thần phả làng Mai Động và nhân dân làng này lại cho biết Thành Hoàng làng là lão đô Nguyễn Tam Chinh . (Bà Lê Chân và lão đô Nguyễn Tam Chinh đều là tướng lãnh của Hai Bà Trưng). Thần phả làng Mai Động ghi : Nguyễn Tam Chinh vốn người Thanh Hóa , vì chán cảnh mất nước , bỏ ra bắc tới Động Mơ tức Mai Động , thấy vùng đất lạ mới dừng lại mở trường dậy học . Ông thu nhận được 30 môn đồ , có sức khỏe , có kiến thức ,truyền dậy cả văn cả võ để đợi thời cơ . Trong các môn võ thuật , ông chú ý dậy cho học trò cách thức đấu vật . Ngày ngày , trước sân trường , ông ngồi xem từng cặp luyện tập , chỉ cho họ những ngón sơ hở và truyền cho họ những miếng hiểm ác để hạ thủ đối phương . Lớp học càng ngày càng tấn tới . Khi Hai Bà Trưng hiệu triệu nhân dân nổi dậy khởi nghĩa đánh đuổi quân Tô Định , ông làm lễ tế trời đất rồi cùng học trò kéo quân lên phụ giúp Hai Bà Trưng và lập được nhiều chiến công . Già trẻ trai gái mở hội đón rước và tình nguyện xin theo Đô Chinh rất đông . Cũng từ đó môn vật được lưu truyền lại trong vùng . Hàng năm mỗi lần Tết đến , nhân dân ở nay lại tổ chức Hội Vật vào những ngày mồng 4, 5, 6 để tưởng nhớ người xưa . Truyền thuyết cũng kể rằng khi Hai Bà Trưng khởi nghĩa , nhiều đô vật Kinh Bắc (Bắc-giang, Bắc-ninh) đã cùng bà Thánh Thiên hưởng ứng nhiệt liệt và đã trở thành những tướng giỏi của Hai Bà . Thánh Thiên công chúa sau khi hy sinh đền nợ nước đã được nhân dân Ngọc Lâm (huyện Yên Dũng , Bắc Giang) thờ làm Thần Hoàng làng . Trước khi phát động quần chúng khởi nghĩa đánh giặc Đông Ngô , Bà Triệu (năm 248) đã lên núi Nưa mở trường thi võ, đấu vật , luyện kiếm , bắn cung nỏ , huấn luyện nghĩa quân sao cho mỗi người vừa có thể lực dồi dào , vừa tinh thông các môn võ nghệ , chiến đấu chống giặc, khiến kẻ địch khiếp vía phải thốt lên : Hoành qua đương hổ dị Đối diện Bà vương nam ! (múa giáo chống hổ dễ , giáp mặt với vua Bà thực khó!) Dân gian ngày nay còn truyền tụng câu ca dao nói lên sự ủng hộ của quần chúng đối với “Nhụy Kiều tướng quân” Triệu Thị Trinh và ca ngợi tài đức của bà : Ru con con ngủ cho lành Để mẹ gánh nước rửa bành cho voi Muốn coi lên núi mà coi Coi bà Triệu tướng cưỡi voi bành vàng. Lý Bôn tức Lý Nam Đế (năm 544-5480), Triệu Quang Phục , Mai Thúc Loan tức Mai Hắc Đế (năm 722) . . . đều có sức khỏe hơn người và nổi tiếng về vật đã lãnh đạo toàn dân nổi lên chống quân Trung quốc xâm lược . Phùng Hưng giỏi vật và quật chết được cọp dữ dược nhân dân tôn là Đô Quân , vua của các đô vật , và người em ruột của ông là Phùng Hải , giỏi vật không kém anh , được nhân dân tôn là Đô Bảo , tướng của các đô vật trong thiên hạ (4) Lò vật làng Quỳnh Đô đã nổi tiếng trong vùng ngay từ thế kỷ thứ VI , thời kỳ nhà Lương đang đô hộ Giao Châu. Tục ngữ có câu : “Lo øvật Quỳnh Đô , rỏ cua Cổ điển” , Quỳnh Đô thuộc huyện Thanh Trì , tỉnh Hà Đông . Hồi còn son trẻ , lão đô Phạm Tu trước khi ra giúp vua Lý Nam Đế đánh đuổi quân nhà Lương , khai sáng nhà nước Vạn Xuân năm 544, đã từng học vật tại Quỳnh Đô . ông người làng Quang (tức làng Thanh Liệt , Thanh Trì, cùng quê hương với thày đồ cương trực Chu Van An) đã sang tập vật làng bên là Quỳnh Đô và trở thành một đô vật nổi tiếng trong vùng, nhân dân thường gọi là Đô Tu (có tài liệu ghi là Đô Hồ, vì tương truyền thần thánh đất Tây Hồ đã “ứng điềm lành” trong việc ông ra đời) (5) Nhân dân vùng Thanh Hóa ngày nay vẫn còn truyền tụng về lò vật nổi tiếng của Dương Đình Nghệ , nơi sản xuất ra nhiều đô vật giỏi ra giúp Ngô Vương Quyền đánh đuổi quân Nam Hán (năm 939), dựng nền độc lập lâu dài cho đất nước . Ngay khi giành được nền tự chủ lâu dài cho dân tộc , các triều đại Đinh Lê Lý Trần và tiếp theo sau nữa , trong việc tổ chức quân đoiä gìn giữ bờ cõi , nhà nước đều coi trọng bộ môn vật , đã thiết lập trong quân ngũ nhiều đội vật , tổ chức thường xuyên đấu vật nhằm rèn luyện thể lực , lòng dũng cảm , tuyển lựa nhân tài và giải trí trong quân sĩ . Đội Đô vật Xuân Trường thời Trần đã góp phần tạo chiến công hiển hách thắng quân Mông Nguyên, một đoàn quân hung hãn , có lối vật Mông cổ nổi tiếng đương thời . Bà Liệt , Hoài Đức Vương , con tư sinh của Trần Thừa , em cùng cha khác mẹ của vua Trần Thái Tông , cũng đã từng là một đô vật có hạng trong đội vật nổi tiếng tại kinh đô Thăng Long . Sử cũ chép : “ Nhâm Thìn , năm Thiên Ứng chính bình thứ I (1232) (nhà Tống , năm Thiệu Định thứ 5) . Tháng Giêng , mùa Xuân mới sắp xếp nghi lễ trong triều : Phong cho em là Bà Liệt tước Hoài Đức Vương. Thượng hoàng lúc còn hàn vi , có lấy một người con gái ở thôn Bà Liệt , huyện Tây Chân , khi đã có thai thì bỏ , sau sinh con trai , Thượng hoàng không nhìn nhận gì đến . Người con trai ấy lúc lớn lên , mặt mũi khôi ngô , giỏi nghề võ , sung vào đội đánh vật . Một hôm , cùng với người trong đội đánh cầu , rồi lại cùng nhau đánh vật , người kia vật người con trai ấy ngã , chẹn lấy cổ , gần tắt thở , Thượng hoàng tự nhiên quát to lên rằng : “ Nó là con ta đấy ! “ Anh kia sợ , buông ra , nhân thế gọi tên là Bà Liệt . Nay có lệnh phong tước cho (6) Trong binh đội của triều đình nhà Lê, đô vật được chia làm nhiều loại từ thấp đến cao với những cấp bậc , tên gọi khác nhau , lịch trình đấu vật hàng năm và cách thi vật tại kinh đô Thăng Long được Phan Huy Chú ghi rõ ràng trong sách Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí : “Hàng năm , khi Tế cờ xong , sai hai viên quan võ coi thi đánh vật (một viên quản binh thị hậu , một viên quản ngoại binh) . Trước khi thi Đô và Sứ ba keo , rồi Đô và Sứ mới cử tử đệ rat hi . Những người mới tiến cử cùng đấu với nhau , ai thắng ba keo thì cho đấu với Xa . Thắng Xa ba keo thì cho đấi với Dù . Tuy thắng Dù ba keo , cũng không được đấu với Sứ . Lực đấu với Lực thắng ba keo thì cho đấu với Xa , thắng Xa ba keo , cho đấu với Dù , thắng Dù ba keo , cho đấu với Sứ . Tuy thắng Sứ ba keo , cũng không được đấu với Đô. Nội lực sĩ đấu với Nội lực sĩ , thắng ba keo , thì cho đấu với Xa , thắng Xa ba keo , cho đấu với Dù , thắng Dù ba keo , cho đấu với Sứ , thắng Sứ ba keo , cho đấu với Đô . Người mới tiến cử đấu với Dù thắng hai keo trở lên , thì cho làm danh tướng ở Dù , đấu với Xa thắng hai keo trở lên , cho làm danh tướng ở Xa , đấu với Lực thắng hai keo trở lean , cho làm danh tướng ở Lực . Lực đấu với Dù thắng hai keo trở lên , cho làm danh tướng ở Dù , đấu với Xa thắng hai keo , cho làm danh tướng ở Xa . Nội lực sĩ đấu với Xa , thắng hai keo , cho làm danh tướng ở Xa , đấu với Dù thắng hai keo , cho làm danh tướng ở Dù . Người nào thắng Sứ hai keo , cho chức phó đề hạt ; thắng Đô hai keo , cho chức đô úy . Sứ thắng Sứ ba keo , cho đấu với Đô ; thắng Đô một keo , dẫu có thua một keo , cũng cho thăng chức . Đô mà thắng Đô , không thua keo nào , cho chức Đô úy. (chú giải : Đô , Sứ : các tay vật cao cấp ; Xa : có lẽ là quân ở các độ Tứ xa ; Dù : có lẽ là quân các độ Bả dù ; Lực : tên những đội quân, ví như Lực, Hành)” (7) Một giai thoại về Trạng Vật dưới triều vua Lê Thánh Tông đã được Vũ Phương Đề ghi lại năm 1755 trong tác phẩm Công-Dư Tiệp-Ký : Ông Võ-Phong người làng Mộ-Trạch là em quan Thượng Võ-Hữu, nguyên người có tướng ngũ-đoản (chân tay , tai , mắt , miệng , mũi , 5 thứ đều ngắn và nhỏ , còn người thì thấp) nhưng rất giỏi về môn đấu vật . Đời vua Lê Thánh-Tông (1460-70) nhân có một hôm ông ra kinh thành Tràng-An gặp lúc vua đang ngự triều , ông thấy có viên Đô-lực sĩ vác chiếc chùy đồng đứng hầu có vẻ dương dương tự đắc ! ông bèn quay lại hỏi bạn : này bác người kia là ai ? có tài cán chi ? mà dám ngang nhiên như vậy . Bạn đáp : Người đó là một võ sĩ sở trường về môn đánh vật , hiện thời không ai địch nổi ! như vậy cũng là một cách để tiến thân đó ! Nghe bạn kể xong ông lại hỏi rằng : nếu vậy ngày mai tôi muốn cùng y so tài cao thấp phỏng có được không ? Bạn nghe xong vội vàng can rằng : người ta cao lớn thế kia mà bác thì bé loắt choắt như vậy ! sợ khi đối thủ lại làm trò cười cho thiên hạ đó thôi ! Ông mỉm cười đáp : điều đó xin Bác đừng ngại . Tôi đây bản lĩnh rất cao cường ! từ trước đến giờ chưa ai thắng nổi . Còn y chẳng qua chưa gặp địch thủ nên mới nổi danh , nhưng nay gặp tôi rồi Bác thử coi tôi sẽ thắng y một cách rất dễ đó ! Nói xong ông bèn viết một bản tấu xin cùng lực sĩ so tài . Hoàng Thượng xem tấu phán rằng : lực sĩ của ta tuyển lựa trong muôn ngàn người mới được có một ! hỏi có ai hơn được nữa ? thế mà anh kia tài nghệ ra sao lại giám to gan lớn mật như vậy ? nhưng rồi Ngài cũng phê chuẩn và định ngày giờ tỉ thí để Ngài thân ngự ra coi . Thế rồi đến hôm tỉ thí , trong lúc đôi bên còn đương vờn nhau biểu diễn , thì ông quờ ngay xuống đất lấy một ít cát nắm kín trong lòng bàn tay , thừa lúc vô tình ném thẳng vào mặt địch thủ . Lực sĩ vừa nhắm mắt lại thì nhanh như chớp , ông đã dùng miếng Xuyên Trừu , một tay thọc nách một chân đệm phía sau lưng , đẩy mạnh một cái khiến cho Lực sĩ mất đà bị nằm phơi bụng ngay trên mặt đất (Theo lệ đua vật , hễ ai bị nằm ngửa bụng mới gọi là thua , còn nằm sấp bụng thì không kể) . Thế là ông đã thắng cuộc một cách dễ dàng ! khán giả hoan hô nhiệt liệt . Lúc ấy Hoàng-Thượng ở trên đài trông xuống thấy ông quật đổ Lực sĩ mau lẹ như vậy , Ngài cũng tấm tắc khen là một tay Thần dũng , rồi sai lột chức Đô Lực-sĩ để phong cho ông ; dần dần ông được thăng đến Cẩ-Y Thị-Vệ Úy-ty Chỉ-huy-Sứ , nổi tiếng là người chính trực siêng năng . . . . làm Trạng đô vật . . . (8) Sử cũ cũng ghi chuyện Mạc Đăng Dung , người tạo dựng triều đại nhà Mạc (1527-1667), từng là một ngư phủ nghèo hèn , nhờ tài vật khéo léo mà nổi danh, bước tiến vào quan trường leo từ võ tướng lên đến bậc đế vương (9) Một giai thoại nữa về vật có liên quan đến Mạc Đăng Dung được hai tác giả Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án trong tác phẩm Tang Thương Ngẫu Lục thế kỷ XIX ghi lại như sau : Triều trước , ông Lê Tuấn Mậu , người làng Xuân Lội , huyện Yên Phong làm quan đến chức Đô Ngự Sử . Bấy giờ Mạc Đăng Dung do sự đánh vật mà được làm nên quan to. Ông nhiếc hắn rằng : -Anh đừng cậy sức , ta rất có thể như thế được , nhưng không thèm làm nay thôi. Đăng Dung tức , xin với vua cùng ông thou sức , ông hăng hái nhận lời , bôi mỡ vào mình , cài kim vào tóc và khố , vật cho Đăng Dung ngã suýt chết. Khi Đăng Dung cướp ngôi , ông thác bệnh không ra . Y cố mời mãi , ông bảo người đỡ vực vào triều , rồi nhổ vào mặt hắn mà chết . (10) Vào thế kỷ XVI , có một giai thoại về quan Thượng thư mê vật như sau : Thượng thư Nguyễn Doãn Khâm thời nhà Mạc ,vốn là một đô vật . Một ngày Xuân nọ đi qua làng Giao Tất (Gia Lâm Bắc Ninh) mởù hội đầu năm , thấy một đô vật đã ba ngày liền giữ giải làng . Ông dừng lại và xin vào đọ sức . Đô vật đang giữ giải giận lắm , định bụng vật ông ngã ngay tức khắc . Song chỉ một keo , ông đã làm cho đô vật ấy lấm lưng , trở tay không kịp . Anh ta liền bái phục , xin nhường lại giải cho ông . Nhưng ông không nhận . Đó là một giai thoại mà nhân dân hay truyền tụng để nói lên tinh thần thượng võ và tính khiêm tốn , thương yêu lẫn nhau giữa các đô vật (11) Trên phần lớn các cột kèo , hoành phi , bình phong bằng gỗ quí tại đình , chùa , đền , miếu ở miền Bắc xưa các nghệ sĩ dân gian thường trang trí , chạm trổ , tạc khắc những cảnh sinh hoạt , hội hè đương thời , và đấu vật là một đề tài không thể thiếu trong những trang trí này . Tác giả Bàng Bá Lân có bài thơ "Vô Địch" nói về đấu vật như sau : Vô Địch Trên sân cỏ trưôc đình, hai đấu thủ. Hai tượng đồng - đối mặt đứng khom khom. Bốn cánh tay dang thẳng đợi giao đòn; Bốn chân vững như chôn liền xuống đất. Họ lăn lẳn nhìn nhau vào tận mặt. Bắp thịt căng, cuồn cuộn nổi như thừng. Mắt gườm gườm như cọp dữ tranh hùng. Cằm chành bạnh, tay chờn vờn giữ miếng. Bỗng như chớp, cà hai cùng chồm đến. Nắm tay nhau giật, lắùc, vặn tơi bời.. Tùng, tùng ... tùng. Trống vật giục liên hồi. Cuộc giao đấu đã tới màn gay cấn : Anh "Khố Đỏ", to con hơn chèn lấn Ghì đối phưóng muốn nghẹt thởû rơi xương. Nhưng "Khố Đen" luồn mau lẹ dị thường Như lươn trạch, thoát vòng tay địch thủ. Cuộc đấu sức vẫn chưa phân thắng phụ, Mọi ngón đòn ác liệt được đưa ra. Mồ hôi nồng thoa mỡ bóng làn da. Bỗng "Khố Đỏ" vung tay như trăn gió. Quấn chặt cứng lấy cánh tay đối thủ, Còn tay kia quờ rộng bắt ngang chân "Khố Đen" vùng nhẩy vọt vượt qua tầm Tránh thoát kịp, và tung đòn hiểm độc. Hắn húc mạnh đầu đối phương nghe "cộp" "Khố Đỏ" bất ngờ lộng óc, chùn chân, Mắt hoa lên, lỏng hở cánh tay thần "Khố Đen" lẹ luồn nhanh vào bụng địch, Chuyển thần lực, đội bổng trăm cân thịt Quay một vòng và quật ngửa tênh hênh Tiếng hò reo vang rộn cảø sân đình. Hoan hô kẻ vừa thắng vòng chung kết . (12) VI/ ĐOẠN KẾT Xuân đã hết, ai nấy lại tiếp tục công việc đồng áng và hẹn gặp nhau trong những ngày Xuân năm sau. Điểm ghi nhận nơi đây là các đô vật nông dân xưa có một tinh thần thượng võ đáng kính trọng, họ ganh đua nhau trong tài cao thấp, kẻ thắng người bại đều hảø hê vui vẻ, khâm phục nhau thật sự, không hận thù ghen ghét. Mặc dù phần thưởng các giải vật không đáng giá bao nhiêu so với công lao lặn lội từ xa xôi và sắm sửa lễ vật mang đến, họ vẫn nao nức, hăng say rủ nhau đến phá giải. Hễ nghe thấy nơi nào, làng nào mở Hội Vật nhất nhất họ cũng hẹn hòø, lặn lội rủ nhau đến dự để đua sức, để xem mặt biết tên người vô địch. Vật cổ truyền Việt Nam có xu thế thiên về các đánh và đỡ ở thế thấp . Tuy nhiên , vật Việt Nam cũng có sử dụng các miếng ở thế đánh cao như Đội, Sườn , và nhiều miếng đánh khác đòi hỏi kỹ thuật cao , nhưng nói chung ít được dùng . Và dù ở thế , miếng nào , thấp hay cao , đều dùng tài nghệ làm cho đối phương té ngã “lấm lưng trắng bụng” . loại trừ những lối đánh ác hiểm . Điều này đã trở thành đạo lý và phong tục trong làng vật Việt Nam xưa . Nhờ vậy , tuy trong từng làng xã chưa có luật lệ đấu vật thành văn rõ ràng , nhưng từ các đô vật tới người xem trước nay đều coi những lối đánh ác hiểm là xấu , là hèn , trái với tinh thần thượng võ chân chính . Những đô vật có kỹ thuật cao , có miếng đánh sáng tạo , điêu luyện , được nhân dân quí mến, tuổi trẻ tin theo , triều đình mộ dụng vậy. _____ Chú thích (1) Pierre Gourou , Les paysans du delta tonkinois , Paris, Monton et Ce Lahay , 1965 . (2)Vật Việt Nam , Tổng cục Thể Dục Thể Thao, Ha Nội, 1974 , trang 9. (3) Toan Ánh , Phong Tục Việt Nam , nhà XB Xuân Thu tái bản tại Los Alamitos USA , trang 230. (4) Lý Tế Xuyên , Việt Điện U-Linh Tập , bản dịch của Lê Hữu Mục , Saigon , nhà sách Khai Trí , 1960 , trang 49 . (5) Trần Quốc Vượng (chủ biên), Nghìn Xưa Văn Hiến, tập I , tái bản lần 1, Hà Nội, nhà xuất bản Hà Nội , 2000, trang 133.. (6) Quốc Sử Quán thế ky XIX , Việt Sử Thông Giám Cương Mục ,(chinh tên là “Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục”) Chính biên, quyển 6-8, tập V , Tổ Biên Dịch : “Ban Nghiên Cứu Văn Sử Địa “ biên dịch và chú giải, Hà Nội, nhà xuất bản Văn Sử Địa, 1958 , trang 455 . (7) Phan Huy Chú, Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí, tập IV Binh Chế Chí, Văn Tịch Chí, Bang Giao Chi, bảng sách dẫn, Viện Sử Học Việt Nam phiên dịch và chú giải, Đào Duy Anh hiệu đính, Hà Nội, nhà Xuất bản Sử Học, 1961, trang 34-35 . (8) Vũ Phương Đề , Công-Dư Tiệp-Ký , quyển I, dịch giả Tô Nam Nguyễn Đình Diệm, in lần thứ nhất, Saigon , Bộ Quốc Gia Giáo Dục xuất bản, 1961, trang 17-19 . (9) Đại Việt Sử Ký Toàn Thư , mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 , tập III , Hoàng Văn Lâu và Ngô Thế Long dịch và chú thích , Hà Nội , nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội , 1993 , trang 109 (10) Phạm Đình Hổ & Nguyễn Án , Tang Thương Ngẫu Lục , dịch giả Đạm Nguyên , quyển nhất, Saigon , Bộ QGGD xuất bản , 1962 , trang 85-86. (11)Lê Đại , Nét Đẹp Của Tinh Thần Thượng Võ, tuần báo Thể Dục Thể Thao số 7(577) , Hà Nội , thứ bẩy 12 tháng 2 năm 1976, trang 4. (12) Bàng Bá Lân , Vào Thu, Thơ , Saigon , nhà xuất bản Ánh Sáng , 1969 , trang 48 . http://son-trung.blogspot.com ==================== Bổ sung vài hình ảnh của đấu vật Nhật Bản. Tương đồng với hình ảnh đấu vật Việt
-
Trò chơi dân gian - thế giới tâm hồn trẻ thơ Chơi chuyền Mỗi người chúng ta ai cũng đã từng là một đứa trẻ và đã từng chơi những trò chơi của trẻ. Những vòng quay của con quay (chơi cù) hay những bước nhảy lò cò của trò chơi ăn quan... tất cả như một bức tranh sinh động của cuộc sống. Những điệu nhảy mềm mại, những cánh diều bay nhè nhẹ trên cao như đưa văn hóa VN đến khắp năm châu. Trò chơi trẻ em VN thường bắt nguồn từ những bài đồng dao, một thể loại văn vần độc đáo của dân tộc. Đấy là những bài ca có nhịp điệu đơn giản gieo vần một cách thoải mái, có thể ngắn dài bất kỳ hoặc lặp đi lặp lại không dứt. Chơi chọi gà là một trong những thú chơi được trẻ em thích thú vì không chỉ nó là con vật gần gũi với đời sống của trẻ mà nó còn mang ý nghĩa như một chiến binh khát vọng chiến thắng: “Con gà cục tác cục ta/ Hay đỗ đầu hè hay chạy rông rông/ Má gà thì đỏ hồng hồng/ Cái mỏ thì nhịn, cái mồng thì tươi/ Cái chân hay đạp hay bơi/ Cái cánh hay vỗ lên trời gió bay”. Hay bài đồng dao của trò chơi ô ăn quan: “Hàng trầu hàng cau/ Là hàng con gái/ Hàng bánh hàng trái/ Là hàng bà già/ Hàng hương hàng hoa/ Là hàng cúng Phật...”. Vì đặc tính của trò chơi rất đơn giản, chỉ là những hòn sỏi được rải trên nền đất và khi chơi phải đếm từng hòn sỏi một nên nó là trò chơi hiền lành, không đòi hỏi nhiều lắm vào trí tuệ, sức lực nhưng lại yêu cầu tính kiên nhẫn nên người chơi chủ yếu là các em gái. Rồng rắn lên mây là trò chơi gắn với đồng dao nhằm rèn luyện sự nhanh nhẹn, khéo léo, phát huy tinh thần đoàn kết, tôn trọng kỷ luật và khả năng đối đáp, có liên quan đến nghi thức cầu mưa của cư dân nông nghiệp: “Rồng rắn lên mây/ Có cây núc nắc/ Có nhà khiển binh/ Hỏi thăm thầy thuốc có nhà hay không...” . Đồng dao được cấu trúc theo một lôgic riêng, đôi khi không có nghĩa gì cả, nhưng bằng tư duy liên tưởng, trẻ em vẫn có thể nhập vào câu hát để dẫn đến những kết cục bất ngờ: cái ngược đời, cái phi lý, lại có thể chấp nhận vì đấy là bài hát của trẻ em. “Cây mốt, cây mai, lá trai, lá hến, con nhện chăng tơ, quả mơ có hạt...” là bài đồng dao mà các cô bé thường hát để chơi chuyền. Đây là trò chơi chủ yếu dành cho bé gái, dụng cụ là một quả bóng (có thể được thay bằng một hòn đá hoặc quả ổi xanh) và 10 que tre được vót tròn (có thể thay bằng đũa). “Cút ca cút kít/ Làm ít ăn nhiều/ Nằm đâu ngủ đấy/ Nó lấy mất cưa/ Lấy gì mà kéo...” là bài đồng dao của trò chơi quay (cù) cũng được trẻ em yêu thích. Ta có thể bắt gặp những đứa trẻ túm năm tụm ba, bỏ quên hết nhọc nhằn của cuộc sống, những bài học khó để cuốn theo vòng xoáy của những con quay. Từng vòng, từng vòng xoay tít, vui thú với những cú đánh lắc bổ nhào trúng quay của đối phương, cuộc sống của chúng dường như chỉ có vậy. Con quay được tiện hay đẽo bằng gỗ, hình giống quả ổi; tuỳ theo từng địa phương, dân tộc mà con quay có thể có hoặc không có núm (còn gọi là tu) ở phía trên. Bên dưới thân quay có “chân” làm bằng gỗ hoặc bằng đinh hình chóp nón hoặc không có “chân”. Khi chơi, các em quấn dây một vòng quanh tu, sau đó quấn dần xuống thân. Kẹp đầu dây còn lại có nút thắt vào giữa hai ngón tay để giữ dây, sau đó vung tay liệng hoặc bổ quay rơi xuống đất. Lúc này, theo quán tính con quay sẽ quay tít, gần như đứng yên (ngủ), sau đó các em khác ra bổ quay hoặc cứu quay và xác định người thắng cuộc. Rồng rắn lên mây Trò chơi dân gian có nhiều thể loại phù hợp với các sở thích, cá tính khác nhau của nhiều đối tượng người chơi như sôi nổi, điềm đạm hay trầm tĩnh. Mỗi trò lại có một quy luật riêng, mang những sắc thái khác nhau khiến trẻ em chơi suốt ngày mà không thấy chán. Rồng rắn lên mây, cướp cờ... là trò chơi nhằm rèn luyện sự nhanh nhẹn, khéo léo, phát huy tinh thần đoàn kết, tôn trọng kỷ luật và khả năng đối đáp. Đẩy gậy lại có nhiều nét tương đồng và gần gũi với môn thi đấu vật hay chọi trâu của người lớn. Trò kéo co cũng thể hiện tinh thần thượng võ, rèn luyện thể lực và sự nhanh nhẹn, khéo léo. Đánh đáo, chơi chuyền, chơi ô ăn quan lại rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo cá nhân, khả năng tính toán, phán đoán chính xác. Từ chỗ ganh đua mang tính chất tượng trưng, dần dần các trò chơi trở thành những cuộc thi tài, thi khéo, các cuộc thi đấu thể thao như bi sắt, nhẩy ngựa, đá cầu... Trò chơi dân gian chủ yếu dành cho trẻ em ở các vùng nông thôn nên cái tên cũng giản đơn, nôm na như tên thằng Tí, con Na, thằng Ốc, cái Hến vậy: nào là đánh đáo, đánh quay, nào là đi cà kheo, nổ pháo đất... Hơn nữa, các trò chơi dân gian VN thường giản tiện, không cầu kỳ, tốn kém nên có thể dễ dàng chơi mọi lúc, mọi nơi, dụng cụ dễ kiếm, dễ làm, chủ yếu lấy từ trong tự nhiên, thậm chí chỉ là cái gậy, hòn đá, hòn bi chúng có thể nhặt trong vườn, dưới ruộng là có thể lập được một hội chơi. Người chơi thường là những trẻ chăn trâu lê la túm tụm ngoài bãi cỏ, ngoài việc vui đùa, rèn luyện thân thể, còn thể hiện nỗi khát khao chiến thắng tiềm ẩn trong mỗi đứa trẻ. PGS.TS Nguyễn Văn Huy, Giám đốc Bảo tàng Dân tộc học VN cho rằng: “Cuộc sống đối với trẻ em không thể thiếu những trò chơi. Trò chơi dân gian không đơn thuần là một trò chơi của trẻ con mà nó chứa đựng cả một nền văn hóa dân tộc VN độc đáo và giàu bản sắc. Trò chơi dân gian không chỉ nâng cánh cho tâm hồn trẻ, giúp trẻ phát triển khả năng tư duy, sáng tạo, sự khéo léo mà còn giúp các em hiểu về tình bạn, tình yêu gia đình, quê hương, đất nước. Trẻ em ở một xã hội công nghiệp, chỉ quen với máy móc và không có khoảng trống để chơi cũng là một thiệt thòi. Thiệt thòi hơn khi các em không được làm quen và chơi những trò chơi dân gian của thiếu nhi thuở trước - đang ngày càng bị mai một và quên lãng, không chỉ ở các thành phố mà còn ở cả các vùng nông thôn, nơi mà đang dần bị đô thị hóa mạnh mẽ. Vì thế giúp các em hiểu và tìm về cội nguồn với những trò chơi dân gian là một việc làm cần thiết”. Theo Văn hóa, http://vietbao.vn/
-
Trò chơi Trồng hoa trồng nụ của người Việt cũng có ở Ai Cập cổ đại Hãy xem thể thao Ai Cập cổ đại Có trong văn hóa dân gian Việt từ xưa đến nay... Thiên Đồng
-
Xuân xưa - Tết nay với những trò chơi dân gian, cổ truyền Chơi cướp cờ. Các trò vui chơi ngày Tết của nhân dân ta xưa được sử gọi là Trăm Trò Chơi (Bách Hí), ngày nay đã chìm vào bóng đêm của thời gian, nhiều trò vui không còn dấu tích gì trong sử sách và phong tục nhưng vẫn có những trò vui để lại nhiều dấu vết. Năm hết Tết đến, chúng ta hãy thử tìm hiểu một số trò chơi ấy theo các thư tịch xưa để gọi là “ôn cố” chút ít nhân dịp mùa Xuân truyền thống của dân tộc đã về… Chơi đánh khăng. Đầu tiên là trò chơi đánh phết. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép việc năm Bính Ngọ (1126): “Tháng Hai, ngày mùng 1, vua ngự điện Thiên An xem các vương hầu đá cầu”. Đá cầu ấy như thế nào? Hoàng Xuân Hãn đã cho biết rõ hơn trong sách “Lý Thường Kiệt”: “Hai bên tả hữu dựng hai cửa gỗ gọi là cầu môn cao độ hơn một trượng. Vương hầu dự chơi chia làm hai phe mặc áo vóc màu sắc khác nhau. Trước thềm bày hai giá cờ, hễ bên nào được thì cắm vào giá bên ấy một lá cờ. Có khi thì chơi chạy bộ đánh phết, có khi thì chơi cưỡi ngựa đánh phết. Người ngồi trên ngựa một tay cầm cương, tay kia cầm gậy dài để đánh quả phết. Đánh phết có nhạc đi kèm. Bắt đầu chơi thì nhạc nổi lên. Lúc tranh quả phết thì trống đánh rây. Quả phết đến gần thì trống giục càng mau. Lúc quả phết lọt qua cửa thì gióng lên 3 hồi trống. Chơi được một hồi lâu, vương hầu lại nghỉ uống rượu, xong lại đánh tiếp”. Chơi U Các trò vui lúc ấy, nhân dân ta - nhất là giới trẻ - rất ưa chuộng đó là chọi gà, đánh đu, và chơi tam cúc. Trước năm 1945, các trò vui này vẫn thịnh hành ở hầu hết các thôn xã Việt Nam. Chọi gà đã đi vào nghệ thuật dân gian và là trò vui sôi động vào các dịp đầu năm, hội hè, đình đám. Trò vui chọi gà này đến thế kỷ 13 đã thành một tục lệ tràn lan trong giới thanh niên đến độ khi cả nước ta phải thực hiện cuộc kháng chiến chống quân Nguyên, Trần Hưng Đạo Vương phải nhắc nhở quân sĩ nên hạn chế bớt, như trong Hịch tướng sĩ: “…Hoặc lấy việc chọi gà làm vui đùa, hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển…”. Đu đôi - Bắt trạch Riêng trò chơi Đánh đu (gồm nhiều loại như Đu tiên, Đu vân xa, v.v…) là một trò chơi phổ thông được hầu hết trai gái ưa chuộng. Bởi vậy mới có câu ca dao: Tháng giêng giai tiết ở đầu. Bao nhiêu mỹ nữ đá cầu, đánh đu. Theo tư liệu và hình ảnh cũ, chúng ta có thể mô tả như sau: Người ta trồng hai cột gỗ cao song song nhau giữa một bãi đất trống và ở giữa treo một bàn nhún (để đủ 2 người nam - nữ cùng đứng). Có làng phải trồng đến hai, ba cây đu trong dịp Tết để đáp ứng yêu cầu vui chơi giải trí của đôi trai gái. Các nam thanh nữ tú kéo tới rủ nhau lên đánh đu, thường thường mỗi cặp đu là một nam một nữ mới thêm phần thú vị, như bài thơ của Hồ Xuân Hương: “Bốn cột khen ai khéo khéo trồng Kẻ thì lên đánh kẻ ngồi trông Trai đu gối hạc khom khom cật Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng Bốn mảnh quần hồng bay phất phới Đôi hàng chân ngọc duỗi song song Chơi Xuân ai biết Xuân chăng tá? Cột nhổ đi rồi lỗ bỏ không”. Chơi Ô ăn quan. Còn chơi Tam cúc vào dịp Tết là thú vui giải trí hơn thấp cao chứ không có tính sát phạt như cờ bạc ngày nay. Thử soát xét các cuộc vui trong dịp Xuân về trong lịch sử, ta có thể xếp thứ tự theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư: Lễ đua thuyền tổ chức vào đời Lê Hoàn. Mùa Xuân hằng năm, con trai con gái họp nhau đánh đu ở đất Đà Dương (Châu Hóa)… Đến thế kỷ thứ 15 thì trong dân gian, cái phong tục cỗ bàn xa xỉ đã lậm lắm rồi nên điều lệ năm Kỷ Dậu (1429) mới có lệnh: “Người nào du thủ du thực, đánh cờ đánh bạc, thì quan tư và quân dân bắt đem nộp để trị tội, đánh bạc thì chặt 5 phân ngón tay, đánh cờ vây thì chặt 1 phân ngón tay…”. Và đến năm Ất Tỵ (1665) lại có lệnh nhắc lại lệnh cấm chọi gà, đánh cờ, đánh bạc… Trò chơi "Trồng nụ trồng hoa". Xem như vậy, các cuộc vui mùa Xuân càng ngày càng quá lạm, mặc dù lề thói cổ truyền của dân tộc ta là không phải vậy. Ngay cả tục uống rượu, trong đại bộ phận nhân dân ta đến đầu triều Nguyễn vẫn có cái phong thú tao nhã như lời của Phạm Đình Hổ trong “Vũ Trung tùy bút”: “Khi nào có khách thết rượu thì chỉ dùng cái chén nhỏ bằng đầu ngón tay cái, mà uống vài chén rồi thôi ngay, nếu người uống quá thì ai cũng chê là say đắm”. Trò chơi "Rồng rắn lên mây". Một nhà nghiên cứu hiện đại đã có một ý kiến xác đáng về các hội Xuân của dân tộc: “Đi hội Xuân để vui Xuân, ngày vui nhàn rỗi, người dân quê thường đi hội Xuân để tham dự hoặc thưởng thức những trò vui của ngày hội. Và những hội Xuân này, tuy gọi là hội làng nhưng vẫn hằng lôi cuốn được rất nhiều khách thị thành hàng năm tới xem hội với những trò vui hấp dẫn và lành mạnh” (theo Toan Ánh, Làng Xóm Việt Nam). Có lẽ ý kiến ấy là “có lý có tình” khi chúng ta đang muốn trở về với những mỹ tục truyền thống của dân tộc Việt Nam. Bội San
-
Đại Hành giả Tây Tạng Milarepa Tên ngài là Milarepa và ngài là một kẻ sát nhân. Thủa đầu đời của vị hành giả vĩ đại người Tây Tạng này đã bị tổn thương bởi sự bạo lực, thù hằn và sân hận. Nhưng mỗi khi nhắc đến tên ngài, đôi mắt của mọi người Tây Tạng sẽ ướt đẫm những giọt lệ sùng mộ và hỉ lạc. Cuộc đời của Milarepa là một câu chuyện về sự chuyển hóa. Đây là một người đã nhận ra những lỗi lầm, sai sót của mình và đã xoay chuyển cuộc đời mình. Đây là một người đã trở thành một yogi (hành giả) vĩ đại nhất mà thế giới từng nhìn thấy. Milarepa là ai? Kẻ sát nhân Milarepa sinh năm 1052 trong một gia đình giàu có ở xứ tuyết Tây Tạng. Cha ngài mất khi ngài còn nhỏ và bởi không có người cai quản điền trang, chú thím ngài đã chiếm đoạt toàn bộ di sản của ngài. Tràn ngập sự giận dữ và căm thù, chàng thanh niên Milarepa đi học huyền thuật và nhanh chóng trở về để giết hại những kẻ hãm hại gia đình mình. Trong thực tế, người ta nói rằng với sự căm thù, Milarepa sân hận tới nỗi đã giết chết 35 người trong ngôi làng của chú ngài trong đêm phục hận. Gặp gỡ Đạo sư Không lâu sau những sự kiện khủng khiếp đó, cuộc đời của Milarepa bắt đầu vỡ tan thành từng mảnh. Ngài đã đi tới một chốn vô cùng tăm tối và ngài nhận thức thật sâu xa rằng cuộc đời ngài hóa ra hoàn toàn lầm lạc. Ngài xấu hổ về con người mình và những gì ngài đã làm cho gia đình ngài. Ngài nhận thức được lỗi lầm trầm trọng ngài đã phạm. Vì thế ngài bắt đầu làm những điều tốt lành. Trong quá trình chuộc lại lỗi lầm, Milarepa gặp Đạo sư Marpa, vị Thầy đã mang toàn bộ Phật pháp từ Ấn Độ về Tây Tạng. Để đưa về Tây Tạng những giáo lý này, Marpa đã phải chịu đựng những gian khổ lớn lao và người ta nói rằng không có Marpa thì Phật giáo sẽ không tồn tại ở xứ tuyết. Giây phút Milarepa nhìn thấy Marpa lần đầu tiên thật là kỳ diệu. Truyền thuyết kể lại rằng Marpa ở ngoài đồng, bên một con đường, ngài uống một ly rượu và Milarepa đi ngang qua mặt ngài. Thoạt đầu khi Milarepa vừa nhìn thấy Marpa, toàn thể thế giới tĩnh lặng và lông tóc sau cổ ngài dựng đứng lên. Milarepa không biết người đàn ông đó là ai nhưng bởi mối nối kết mạnh mẽ từ những đời quá khứ, người ta nói rằng chỉ nhìn thấy Marpa là Milarepa đã kinh nghiệm một trạng thái thiền định sâu xa. Marpa buộc Milarepa phải chịu những gian khổ lớn lao Ngọn tháp cuối cùng của Milarepa ở quận Lhodrak (Tây Tạng), phía bắc biên giới Bhutan. Milarepa đã tu học với nhiều Đạo sư Phật giáo nhưng dường như không vị Thầy nào có thể giúp đỡ được ngài. Trong trái tim của ngài, ngài biết ngài phải tu học với Marpa. Vì thế ngài quay trở lại để hỏi Marpa và khẩn cầu vị Thầy này giúp đỡ nhưng Marpa chỉ quở mắng và đuổi ngài đi. Mỗi lần Milarepa thỉnh cầu giáo lý thì Marpa chỉ giận dữ, đánh đập và tống cố ngài ra ngoài. Mặc dù vậy, cuối cùng Marpa nhượng bộ và đi tới một thỏa thuận với Milarepa: “Hãy xây cho ta một ngọn tháp lớn và ta sẽ dạy Pháp cho ngươi,” Marpa nói. Vì thế Milarepa bắt đầu làm việc. Ngài thâu thập những viên đá, các tảng đá và gỗ từ khắp mọi nơi. Sau nhiều tuần làm việc kiệt lực, Milarepa trở về gặp Marpa và nói với vị Thầy rằng ngọn tháp đã hoàn tất. Marpa tới kiểm tra công việc và khi nhìn thấy ngọn tháp, Marpa bắt đầu chửi mắng Milarepa, nói rằng Milarepa đã làm sai hoàn toàn và phải bắt đầu lại! Sự việc này diễn ra chín lần nữa. Ngọn tháp cuối cùng mà Milarepa xây dựng cao chín tầng và phải mất nhiều tháng để hoàn tất. Xin nhớ rằng việc này xảy ra trước khi có xe hơi, cần trục và máy trộn xi măng. Công việc này làm Milarepa bị thương và người ta nói rằng lưng ngài đầy những vết thương lở loét và giờ đây ngài thành một người gù lưng bởi phải vác những tảng đá. Nhưng ngài đã thực hiện điều Marpa yêu cầu và sự hiến dâng của ngài đối với Thầy Marpa không bao giờ lay chuyển. Ngài vô cùng khao khát giáo lý. Khi ngọn tháp sau cùng được xây dựng xong, Milarepa ngần ngại trở về nhà của Marpa, nơi vị Thầy đang ban các giáo lý cao cấp cho vài hành giả khác. Milarepa phủ phục dưới chân Thầy và cầu xin giáo lý. Nhưng cũng như thường lệ, Marpa bảo Milarepa hãy ra khỏi nơi đó. Hoàn toàn tuyệt vọng, Milarepa quyết định tự vẫn. Trong quá khứ, ngài đã giết chết 35 người và không có giáo lý của Đức Phật, ngài cảm thấy không thể làm những điều đúng đắn và không có cách nào để mang lại lợi ích cho những người đã chết đó. Vì thế ngài treo một sợi thừng trên cây và tròng giây quanh cổ. Ngài hít một hơi thật sâu và dốc hết nghị lực, và ngay khi ngài sắp bước vào cái chết thì Marpa tới gần và nói giờ đây Milarepa đã sẵn sàng được nhận những giáo lý tối thượng của Phật giáo. Thầy Marpa đã chấp nhận ngài là đệ tử. Người ta nói rằng Marpa bắt Milarepa phải chịu những gian khổ này để giúp Milarepa tịnh hóa ác nghiệp và khiến ngài trở thành một bình chứa (pháp khí) thích hợp đối với các giáo lý. Không có những gian khổ này, tâm thức của Milarepa sẽ không được chuẩn bị và ngài sẽ tu tập không tiến bộ do bởi những ác hạnh trầm trọng của ngài trong quá khứ. Nhờ trí tuệ, Marpa biết rằng những công việc khổ nhọc sẽ làm lợi lạc cho Milarepa và giúp cho tân hành giả này tiến bộ nhanh chóng trên con đường. Đức Karmapa 17 trước ngọn tháp huyền thoại mà Marpa buộc Milarepa phải thực hiện. Tu học với Marpa và thiền định trong các hang động Sau đó Milarepa nhận lãnh tất cả những giáo lý của Marpa. Một đêm trong một giáo lý tuyệt mật, Marpa có một giấc mơ. Trong giấc mơ một vị Phật nữ tuyệt đẹp nói với ngài rằng Milarepa sẽ trở thành vị hộ trì dòng truyền thừa của ngài và vì thế hãy nỗ lực giảng dạy cho Milarepa. Do đó Marpa đã dạy cho Milarepa mọi sự mà ngài đã học ở Ấn Độ, giống như người ta rót nước từ chiếc bình này sang chiếc bình khác. Khi Milarepa đã được giảng dạy đầy đủ, ngài từ giã mọi người và lên đường tới nơi hoang dã. Ngài nguyện sống đơn độc trong những hang động cho tới khi thành tựu giác ngộ và ngài không bao giờ vi phạm lời nguyện này. Đôi khi Milarepa bít lối vào hang để ngài không thể ra khỏi và thiền định ở đó hàng nhiều năm. Thực phẩm và nước uống được đưa vào cho ngài qua một khe nứt giữa các viên gạch. Hang động ẩn tu của Milarepa tại Manang (Nepal) Giác ngộ trong một đời Các giáo lý Phật giáo nói rằng người ta có thể đạt được giác ngộ trong một đời nhưng điều đó vô cùng hiếm có. Hầu hết hành giả Phật giáo phải mất rất nhiều cuộc đời để tích lũy trí tuệ và công đức. Nhưng Milarepa đã làm được điều đó. Ngài nổi danh là người duy nhất trong lịch sử Tây Tạng thành tựu sự toàn giác trong một thân người, ngay trong một đời người. Và đó là lý do vì sao ngài là hành giả vĩ đại nhất trong mọi hành giả. Đức Milarepa có thể dạy chúng ta điều gì trong cuộc đời Milarepa nổi danh là một thi sĩ vĩ đại. Ngài thường lang thang quanh những miền quê, hát những bài ca và viết những bài thơ cho người dân địa phương. Tôi muốn chia sẻ với quý vị một vài bài thơ, giáo lý và trích dẫn nổi tiếng nhất của Milarepa với hy vọng rằng điều đó có thể mang lại lợi lạc cho một người nào đó. 1. Hãy khiêm tốn “Hãy ngồi ở chỗ thấp nhất, và các con sẽ đạt được vị trí cao nhất.” –– Milarepa Milarepa nổi danh là rất khiêm tốn. Ngài không mặc gì ngoài một vài quần áo rách dơ bẩn và không bao giờ ngồi trên một Pháp tòa hay ghế cao. Ngài không có tu viện lộng lẫy, thay vào đó ngài chọn cách sống trong những hang động và núi non. Nhiều bài ca của ngài nói về sự khiêm tốn. Milarepa thường nói về đức tính khiêm tốn giúp ta phát triển lòng bi mẫn và lòng yêu thương, trong khi sự kiêu ngạo khiến chúng ta cảm thấy mình tốt hơn và quan trọng hơn tất cả những người khác. Ngài thường quở trách những người dân địa phương kiêu ngạo, nói rằng sự cao ngạo là nguyên nhân của đau khổ bởi nó quá sức quy-ngã. Và khi quý vị kiêu ngạo và tự cao, các sự việc không theo ý muốn của quý vị, quý vị sẽ đau khổ. 2. Tỉnh giác về cái chết “Cuộc đời thật ngắn ngủi, và thời gian của cái chết thì bất định; vì thế hãy chuyên tâm thiền định. Hãy tránh những hành vi sai trái và tích tập công đức trong khả năng tốt nhất của các con, dù phải trả giá bằng cuộc đời mình. Tóm lại, hãy hành động để các con không có lý do gì phải xấu hổ về bản thân mình; và hãy tuân thủ chặt chẽ quy tắc này.” – Milarepa Một trong những chủ đề chính yếu trong các bài thơ và bài hát của Milarepa là cái chết. Dường như việc ngài là một kẻ sát nhân trong quá khứ đã lưu lại dấu vết trong tâm thức ngài và ngài luôn luôn tỉnh giác về việc cái chết có thể đến bất kỳ lúc nào. Nhưng Milarepa đã sử dụng sự hiểu biết đó như một nguồn cảm hứng chứ không phải một lý do để tuyệt vọng. Thay vì lo lắng về cái chết, ngài đối mặt với những sợ hãi của ngài và sử dụng cái chết của ngài như động lực chính yếu để tu hành miên mật. Tôi thường cố khuyến khích các độc giả của tôi thực hành tương tự. Chúng ta không biết khi nào chúng ta chết nhưng ta biết rằng cái chết là một điều chắc chắn. Vì thế ta nên sử dụng cơ hội quý báu này để thành tựu các mục tiêu của ta và làm một vài điều tốt đẹp nào đó. Đó là những gì Milarepa đã làm. Ngài đã sử dụng phần lớn thời gian của ngài bằng cách liên tục tỉnh giác rằng thời gian có thể cạn kiệt. 3. Tỉnh giác về sự vô thường “Mọi theo đuổi thế gian chỉ có một kết thúc chắc chắn phải xảy ra và không thể tránh khỏi, đó là sự đau khổ. Mọi thâu đạt kết thúc trong tan tác; mọi tạo lập kết thúc trong hủy diệt; mọi gặp gỡ kết thúc trong chia ly; mọi sự sinh ra kết thúc trong cái chết.” – Milarepa Một điều mà tôi mong ước cha mẹ tôi sử dụng thêm thời gian để dạy dỗ tôi là chân lý của sự vô thường. Hiểu rõ lẽ vô thường là một điều vô cùng hữu ích nhưng đáng buồn thay, đó lại là một điều mà hầu hết mọi người không bao giờ thực sự thấu hiểu. Milarepa thường nói với mọi người rằng đừng quá dính mắc vào các sự việc bởi chúng sẽ không tồn tại lâu dài. Những mối quan hệ, của cải, công việc, nhà cửa, xứ sở v.v.., tất cả sẽ biến mất như một cầu vồng. Sẽ chẳng có gì tồn tại mãi mãi. Và nhờ thấu hiểu và tôn trọng chân lý này ta sẽ có thể vui hưởng cuộc đời nhiều hơn nữa. Những mối quan hệ của ta với thế giới trở nên hiện thực và lành mạnh hơn. Ta sẽ không mê mải bám chấp vào các sự việc khi ngăn cản chúng đừng chấm dứt. Khi thấu hiểu lẽ vô thường ta có thể nhận thức sâu sắc hơn về các sự việc khi chúng hiện hữu ở đây. 4. Đừng bị lừa gạt bởi những phóng dật thế gian. “Những công việc của thế gian sẽ tiếp diễn không bao giờ ngừng nghỉ. Đừng trì hoãn thực hành thiền định” – Milarepa Tôi thích trích dẫn này. Trong thực tế, tôi dùng câu trích dẫn này làm nền màn hình máy tính của tôi. Tôi đọc nó khi cần nhắc nhở mình rằng có những điều khác đáng làm hơn là chỉ ăn, ngủ và làm việc. Tất cả chúng ta đều có thể đồng cảm với châm ngôn này, cho dù chúng ta không là những hành giả. Những công việc của thế gian sẽ tiếp diễn không bao giờ ngừng dứt. Sẽ luôn luôn có một người nào đó hay điều nào đó ngăn trở những hy vọng hay giấc mơ của quý vị. Có thể đó là công việc, tiền bạc hay một vài chướng ngại khác nhưng ngay khi quý vị vượt qua nó, một chướng ngại mới sẽ xuất hiện. Milarepa bảo chúng ta đừng lãng phí thời gian mà phải thuận thảo với nó. Sẽ luôn luôn có những phóng dật và vấn đề, nhưng dù thế nào đi nữa thì chúng ta cần phải tiến tới. Điều này vô cùng quan trọng. Sống và chết không hối tiếc. “Tôn giáo của tôi không phải là đạo Phật. Tôn giáo của tôi là sống và chết không hối tiếc.” – Milarepa. Đây luôn luôn là trích dẫn mà tôi yêu thích. Không chỉ riêng của Milarepa mà của mọi người, ở mọi nơi. Tôi đọc nó và cảm thấy hứng khởi trong việc làm một người tốt hơn và làm mọi sự tôi có thể khiến cho đời tôi ích lợi hơn và xứng đáng hơn. Tôi yêu quý trích dẫn đó bởi nó đánh mạnh vào cốt lõi của vấn đề và cho ta thấy việc đứng ở ngưỡng cửa của cái chết và hối tiếc về những điều mà ta từng làm (hay không làm!) trong tuổi thanh xuân thì khủng khiếp biết bao. Những Bài Ca của Milarepa Nếu quý vị thích thú trong việc nghiên cứu thêm nữa về đại hành giả này thì tôi hết sức khuyến khích quý vị đọc quyển sách nổi tiếng tên là Một Trăm ngàn Bài Ca của Milarepa. Đây luôn luôn là quyển sách tôi thích đọc nhất. Đó là một tuyển tập tuyệt vời gồm tất cả những bài thơ, bài hát và giáo lý của Milarepa. Đó là một tác phẩm vô cùng súc tích. Đôi khi ngài hát về những điều như thể diễn ra sống động trong một hang động và quý vị cảm thấy như thể thực sự ở đó, ngay bên cạnh ngài. Những lúc khác ngài hát về lòng bi mẫn bùng cháy trong lòng ngài giống như một ngọn lửa và quý vị cảm nhận về điều gì đó như thể kinh nghiệm về lòng thương yêu đích thực. Nói chung đó là một quyển sách thật đáng đọc. Quyển sách này từng hiện diện trong mọi gia đình ở Tây Tạng trong hàng trăm năm. Nó được đọc cho trẻ em khi chúng còn thơ ấu và sau đó được các tu sĩ nghiên cứu trong các tu viện. Quý vị khó tìm được một người Tây Tạng nào không thể đọc thuộc lòng ít nhất một bài thơ của Milarepa. Kết luận Bài viết này sẽ không thể lưu hành mãi mãi. Tiểu sử của Milarepa có thể dạy chúng ta rất nhiều về việc chúng ta là ai và chúng ta có thể trở thành cái gì. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là nó cho chúng ta thấy rằng tất cả chúng ta đều có năng lực để chuyển hóa cuộc đời và hoàn cảnh của riêng mình.Chúng ta là chủ nhân số phận của chính mình. http://forum.ithinkvn.com
-
@ReQuat Chú Thiên Đồng cho con hỏi thêm 1 câu hỏi nữa nhé,,,Nhé Chú nhé...Nếu được thì cháu đa tạ chú nhiều cháu hỏi vào lúc 17h28p, cháu là Tân Mùi sinh ngày 07/12/1991 lúc giờ Thìn Chú ơi, lần trước cháu hỏi về đi du học đó chú, hiện giờ cháu đang chọn ngành, mà có lẽ cháu sẽ chọn ngành bác sĩ nha khoa, một là có khả năng được xin định cư lại nếu có việc làm, 2 là học phí cũng rẻ. Chú thử gieo quẻ xem cháu chọn ngành này có phù hợp cho tương lai không ạhh, hoặc ngành này có thuận tiện cho cháu hay cháu học chỉ uổng phí hoặc mang lại trắc trở. Hoặc chú có thể tư vấn cháu nên chọn ngành gì hợp với mệnh cháu. Người dễ xúc cảm, có tinh thần mộ đạo, yêu nghệ thuật thích kỹ thuật, mỹ thuật, thích lý luận. Theo nghề Y dược cũng phù hợp hoặc ngành ngoại giao, thuyết giảng, tổ chức sự kiện, giao dịch, du lịch, nghiêng cứu và Mỹ thuật. Cháu xin cảm ơn chú ạ. **Lần trước cháu gõ nhầm khi hỏi chú câu " Cuối tháng hay năm sau cháu có đi du học được khơng?" mà thật ra ý cháu định hỏi là: "Cuối NĂM hay năm sau...." đó chú ạ. Xin lỗi chú phần này. @ milulan Kính mong anh Thiên Đồng xem giúp cho em với ạh. Em la nữ Canh Ngọ hỏi vào ngày 2 tháng 8 dương lịch lúc 22:15 PM. Hiện tại em đang bị mất cả một bộ gồm dây chuyền lắc tay và nhẫn bằng vàng. Lúc sáng em tháo ra và trong nhà chỉ có 2 chị em và không có người lạ vào nhưng tối nay em đã rủ một người bạn vào phòng và lúc đứng dậy bất giác em nhớ ra dây và các thứ thì tìm không thấy nữa. Em muốn hỏi anh liệu có phải là ai trong nhà em lấy ko hay người bạn nữ đó lấy liệu em có tìm lại được không? em mong anh có thể trả lời giúp em sớm. em cảm ơn anh nhiều Xem lại xem có rớt kẹt hay quên ở đâu không? @ngongoe Kính mong chú Thiên Đồng cho cháu vài lời khuyên về công việc với ạ Cháu là nữ Canh Ngọ Giờ hỏi 12 giờ 08 phút trưa ngày 3 tháng 8 năm 2012 dương lịch Chú cháu có xin việc giúp cháu, người ta hẹn thứ 2 phỏng vấn, nhưng đến giờ cháu vẫn chưa rõ về công việc cũng như công ty, vậy cho cháu được hỏi: - Cháu có xin được việc ở đây ko? Phỏng vấn tốt chứ ạ? Công việc có tính chất thế nào, có tốt ko ạ? Sẽ không xin được việc ở đây, công việc quá khả năng hoặc không phù hợp chuyên môn. - Công ty này như thế nào? Cháu có làm được việc lâu dài ở đây ko ạ? Công ty nầy có vẻ hoàng tráng nhưng mà không sòng phẳng trong vấn đề chính sách. Mong tin của chú ạ @daotamhn Mong chú Thiên Đồng cho cháu vài lời khuyên với ạCháu là nữ tuổi Kỷ tị (27/04/1989)< Hỏi vào ngày 03 tháng 08.năm.2011 giờ 23h23phút dương lịch. Câu hỏi 01:Trong năm nay tháng mấy cháu có thể xin đc việc ạ? việc đó có hợp với ngành cháu tốt nghiệp là tài chính ngân hàng ko ạ? Tháng 8 âm có thể có việc. Câu hỏi 02: Cuối tháng 8 (24,25,26/8) cháu thi cao học liệu có tốt ko ạ Sẽ thi tốt như ý nguyện. Câu hỏi 03:Bao giờ cháu lấy chồng, và chồng con có tốt ko ạ (vì từ đầu năm đến giờ cháu bùn về chuyện tình cảm nhiều ạ) Nhanh thì năm nay tháng 9, chậm thì năm 2014. Cháu cảm ơn chú Thiên Đồng ! chúc may mắn Thiên Đồng
-
Osho Story on Tantra Master Naropa and Tilopa Osho - THE state of ignorance is the cause of all delusions, of all unrealities, of all appearances, but to know more is not the state of knowledge. Ignorance is the cause, but knowledge is not the remedy -- knowledge in the sense of knowledgeability. You can know more and more and more, but you remain the same. Knowledge becomes an addiction. You go on adding it. but the being to which you add it remains the same. You know more, but you are not more. And the root cause of ignorance can be dissolved only when you are more, when your being is stronger, when your being is powerful, when your being has awakened. The root cause of all suffering is ignorance, but knowledge is not the remedy -- awakening is the remedy. If you don't understand this subtle distinction, first, you are lost in ignorance, and then you will be lost -- and lost more so -- in knowledge. In the Upanishads there is one of the most radical statements ever uttered. The statement is that in ignorance people are lost, but in knowledge they are lost in a deeper way. Ignorance misguides, knowledge misguides more. Ignorance is not absence of knowledge. If it was absence of knowledge then things would have been very, very easy -- and cheap. You can borrow knowledge; you cannot borrow being. You can even steal knowledge; you cannot steal being. You have to grow into it. Remember this as a criterion: that unless you grow in something it is never yours. When you grow, only then something belongs to you. You may possess something, but don't be misguided by the possession. The possession remains separate -- it can be taken away from you. Only your being cannot be taken away from you. So unless knowing happens into your being, ignorance cannot be dissolved. Ignorance is not absence of knowledge; ignorance is absence of awareness. Ignorance is a sort of sleepiness, a sort of slumber, a sort of hypnosis; as if you are walking in sleep, doing things in deep. You are not aware what you are doing. You are not a light; your whole being is dark. You can know about light, but that knowledge about light will never become light. On the contrary, it will become a hindrance towards light, because when you know too much about light you forget that the light has not happened to you. You are deceived by your own knowledge. It is as if you have been living in a dark cell. You have heard about light but you have not seen it. And how can you hear about light? It can only be seen. Ears are not the medium to know light: eyes are. And you have heard about light. And hearing again and again about light you have started to feel that you know light. You know about; but to know about is not to know. You have heard. How can you hear light? It will be as if someone says that he has seen music. It will be absurd. Hearing about light, the mind becomes more and more greedy. You consult scriptures. You go and seek wise, old men. You may even come across somebody who has seen, but the moment he says something about that, to you it becomes the heard. In India the oldest scriptures are known as shruti, that which has been heard. That's beautiful. That's really beautiful. How can truth be heard? And all the old scriptures are called shrutis, and smritis. Shruti means "the heard," and smriti means "the remembered." You have heard and you remember. You have memorized it, but how can you know truth by hearing? You have to feel it. In fact you have to live it. The man living in the cave, in darkness, can collect many facts about light. He can almost become a great pundit. You can consult him and you can rely on him. He will say everything that has ever been said about light, but he will live all the same in darkness. And he cannot help you towards light; he himself is blind. Jesus says again and again, "The blind are leading the blind.' Kabir says, "If you are suffering, become alert; you must have been led by a blind man. If blind people lead blind people, they fall in the well," says Kabir. And you are all in the well of suffering; you must have heard too much about truth; you must have heard too much about God. Thousands of pulpits continuously preaching God -- churches, temples, scholars -- continuously talking "about." God is not a talk. It is an experience. Ignorance cannot be dissolved by knowledge. It can be dissolved only by awareness. Knowledge you can go on collecting in the dream; but it is part of the dream, and the dream is part of your sleep. Somebody has to shake you. Somebody has to shock you. Somebody has to bring you out of your sleep; otherwise you can go on and on. Sleep is alcoholic. Ignorance is alcoholic; it is a drug. You have to be pulled out of it. I will tell you one anecdote I have always loved. It is about Siddha Naropa, the disciple Of Tilopa. It happened before Naropa found his Master, Tilopa. It happened before he himself became enlightened. And it is a must for every seeker; it has to happen to everybody. So whether it happened to Naropa or not is not the point -- it is a must on the journey. Unless it happens, enlightenment is not possible. So I don't know historically whether it happened or not. Psychologically I am certain, absolutely certain, it happened because nobody can move without it further into the beyond. Naropa was a great scholar, a great pundit. There are stories that he was a great vice-chancellor of a great university -- ten thousand disciples of his own. One day he was sitting surrounded by his disciples. All around him were scattered thousands of scriptures -- ancient, very ancient, rare. Suddenly he fell asleep, must have been tired, and he was a vision. I call it a vision, not a dream, because it is no ordinary dream. It is so significant, to call it a dream won't be just; it was a vision. He saw a very, very old, ugly, horrible woman -- a hag. Her ugliness was so much that he started trembling in his sleep. It was so nauseating he wanted to escape -- but where to escape, where so go? He was caught, as if hypnotized by the old hag. Her body was nauseating, but her eyes were like magnets. She asked, "Naropa, what are you doing?" And he said, "I am studying." "What are you studying?" asked the old woman. He said, "Philosophy, religion, epistemology, language, grammar, logic." The old woman asked again, "Do you understand them?" Naropa said, "Of... Yes, I understand them." The woman asked again, "Do you understand the word, or the sense?" This was asked for the first time. Thousands of questions had been asked to Naropa in his life. He was a great teacher -- thousands of students always asking, inquiring -- but nobody had asked this: whether you understand the word, or the sense. And the woman's eyes were so penetrating that it was impossible to lie -- she will find out. Before her eyes Naropa felt completely naked, nude, transparent. Those eyes were going to the very depth of his being. and it was impossible to lie. To anybody else he would have said. "Of course, I understand the sense," but to this woman. this horrible-looking woman, he couldn't speak the lie; he had to say the truth. He said, "Yes, I understand the words." The woman was very happy. She started dancing and laughing. Thinking that the woman has become so happy.... And because of her happiness her ugliness was transformed; she was no longer so ugly; a subtle beauty started coming out of her being. Thinking "I have made her so happy. Why not make her a little more happy?" he said, "And yes, I understand the sense also." The woman stopped laughing. She stopped dancing. She started crying and weeping, and all her ugliness was back -- a thousandfold more. Naropa said, "Why? Why are you weeping and crying? And why were you laughing and dancing before?" The woman said, "I was dancing and laughing and was happy because a great scholar like you didn't lie. But now I am crying and weeping because you have lied to me. I know -- and you know -- that you don't understand the sense." The vision disappeared and Naropa was transformed. He escaped from the university. He never again touched a scripture in his life. He became completely ignorant: he understood that just by understanding the word, whom are you befooling; and just by understanding the word you have become an ugly old hag. Knowledge is ugly. And if you go near scholars you will find them stinking -- of knowledge -- dead. A man of wisdom, a man of understanding, has a freshness about him, a fragrant life -- totally different from a pundit from a man of knowledge. One who understands the sense becomes beautiful; one who only understands the word becomes ugly. And the woman was nobody outside: it was just a projection of the inner part. It was Naropa's own being, through knowledge became ugly. Just this much understanding that "I don't understand the sense," and the ugliness was going to be transformed immediately into a beautiful phenomenon. Naropa went in search, because now scriptures won't help. Now a living Master is needed. Then after long journeys he came across Tilopa. Tilopa was also in search of this man, because when you have something, you want to share; a compassion arises. The Buddhist term for compassion is karuna. The English word does not carry exactly the same sense -- it cannot carry. The word karuna is very, very meaningful. It comes from the same Sanskrit root as kriya. Kriya means action. Kriya and karuna -- kriya means action, karuna means compassion -- they both come from the same root kra. The Buddhist term karuna means "compassion in action." And that is the difference between sympathy and compassion; when you are in sympathy there is no need for action -- you simply show your sympathy and the thing is finished. Compassion is active -- you do something. When you are really in compassion you will have to do something. How can you just be in sympathy? Sympathy will look so pale, so cold. Compassion is warm. Compassion means it has to be active. When a man knows, compassion arises. Tilopa had known. He had come face to face with the ultimate: and now compassion arose. And he started seeking and searching for somebody who'll be ready to receive... because you cannot throw this knowing of the ultimate before those who will not understand. A receptive heart, a feminine heart is needed. A disciple has to be feminine because the Master is to pour, and the disciple is just to allow. They met and Tilopa said, "Naropa, now I will say everything that I have been waiting to say. I will say everything because of you, Naropa. You have come; now I can unburden myself." This vision of Naropa is very significant. This vision is a must. Unless you feel that knowledge is useless you will never be in search of wisdom. You will carry the false coin thinking that this is the real treasure. You have to become aware that knowledge is a false coin -- it is not knowing, it is not understanding. At the most it is intellectual -- the word has been understood but the sense lost. Once you understand this you will throw all your knowledge and you will escape in search of somebody who knows, because only with somebody who knows -- heart to heart, being to being, the transfer happens. But if the disciple is already a man of knowledge the transfer is impossible, because the knowledge will become the wall. I can see a subtle wall around you always. Whenever you come to me I see whether I can approach you or not, whether you are approachable or not. If I see a very thick wall of knowledge it seems almost impossible to approach you; I will have to wait. If I can find even a small crack I enter from there. But scared people, full of fear -- they don't even leave a crack; they make a solid wall. They make a citadel around them of knowledge, knowing, concepts -- abstract words. Futile! Just noise! In fact a nuisance, but you believe in them. So this is the first thing to be understood: knowledge is not knowledge. And only that knowledge which is not knowledge but wisdom, understanding, knowing, can cut the roots of ignorance. Remember the word "awareness." Just as in the morning you become, by and by, alert and you come out of the sleep and the sleepiness falls down, disappears; the same happens again: you come out of your slumber; by and by your eyes open, you start seeing, your heart becomes available, your being open; and immediately, you are no longer the same person you were while asleep. Have you ever observed, in the morning, when awake, you become a totally different person -- you are not the same who was asleep? Have you observed, in sleep you become a totally different person -- in sleep you do things you cannot even imagine doing while you are awake -- in sleep you believe in things you cannot believe while you are awake? In sleep every sort of absurdity is believed. While you are awake you laugh at your own foolishness, at your own dreams. The same happens when you finally awake. Then, the whole world that you had lived up to that moment becomes part of a dream, a great dream. That's why Hindus go on saying the world is maya: the stuff it is made of is dream; it is not real. Awake! And you will find all those phantoms that surrounded you have disappeared. And a totally different vision of existence becomes available -- that is freedom. Freedom is freedom from illusions. Freedom is freedom from sleep. Freedom is freedom from all that is not and appears to be there. To come to the real is to come to home; to wander in unreality is to be in the world. Source - Osho Book "Yoga: The Alpha and the Omega, Vol 5"
-
@ Tiểu Yến Con cảm ơn chú đã xem giúp con. Ở câu 1 đúng là con đang muốn hỏi đến chuyện con cái. Chú có thể xem giùm con là khoảng tháng mấy thì vợ chồng con có tin vui không ạ? (trong các tháng từ giờ đến cuối năm) tháng 9 hoặc 10 âm Câu 2: Về chuyện đi công tác thì con đang rập rịch làm thủ tục đi công tác rồi (làm hồ sơ, xin visa) nhưng dự định là đi trong tháng tới hoặc tháng sau. Trong 2 tháng này ko có khả năng đi xa ạ? Vậy nếu con làm thủ tục xin visa thì có thuận lợi không ạ? nhanh thì khoản cuối tháng 8 âm, chậm tháng 10 âm. Con đặt câu hỏi lúc 11h34 AM, kết thúc lúc 11h37AM. Hôm nay là ngày 2/8/2012 dương lịch. Thiên Đồng
-
NHỮNG CHUYỆN HUYỀN NHIỆM TRÊN HY MÃ LẠP SƠN (1) THINH QUANG TÔN GIÁO VÀ THỊ TỘC RA ĐỜI SAU MỘT THỜI GIAN DÀI KỂ TỪ KHI LOÀI NGƯỜI XUẤT HIỆN.. Lúc bấy giờ con người sống thành từng bầy, lấy đá làm thành những công cụ lao động, đào bới, trồng trọt, chặt phá...săn bắt thú rừng, hái lượm hoa quả v.v... Con người của thời cổ đại còn có hình thù như các loài vượn, tiếng nói còn đơn giản để truyền tin cho nhau... Nhưng rồi... là một loài vốn tối linh hơn muôn vật, dần dà qua những hoạt động vì nhu cầu cần thiết, tự cải biến và từ từ hoàn thiện. Trí thông minh phát triển, con người biết tìm ra lửa. Từ đó nền văn minh "lửa"xuất hiện; loài người bắt đầu ăn đồ chín, biết sưởi ấm mùa đông, biết sử dụng lửa để chống trả hay đề phòng thú dữ... Kể từ đó tính đến ngày nay đã từ ba đến bốn chục ngàn năm dẫn đến sáu ngàn năm... trải qua một quá trình lắm chông gai khắc khổ,trí tuệ mở mang hơn, nhìn lên tận trên mây xanh biết đó là trời, nhìn xuống nơi mình đang đứng biết đây là đất, chung quanh là núi non trùng điệp,xa xa là sông ngòi,xa hơn nữa là bể cả mênh mông... Những hiện tượng sóng gào, gió thét, những tảng đá ven đường v.v... tất cả những thứ đó là các thần linh được Đấng Tối Cao sai xuống ngự trị trần gian kiểm soát các hành động của con người dưới thế, thay uy trời mà thưởng phạt phân minh: Người làm điều thiện thì khen thưởng chỉ cho con đường về Cội Phúc, kẻ làm điều ác thì đưa vào Địa Ngục... Cũng kể từ đó loài người sống theo tổ chức thị tộc: Biết quan hệ huyết thống, chống lại quan hệ tạp hôn... nương tựa lẫn nhau mà sống. Trí tuệ dần dà phát triển, tận dụng sức lao động, phát triển trí thông minh... Tôn Giáo và Nghệ Thuật cũng đồng thời xuất hiện đem lại những thành tựu nhất định. Chính sự chuyển biến sang xã hội thị tộc cùng một lúc hình thành con người Homo Sapiens, đó là con người hiện đại hay nói khác là con người khôn ngoan tân cổ... Rồi 400 năm Tr.CN trên dòng lưu vực sông Nil của xứ sở Ai Cập, một Nhà Nước sơ khai... hình thành có vị vua Pharaon đầu tiên ra đời... Cũng 4000 Tr CN, các thành thị bắt đầu mọc ra ở đồng bằng Tigre và Euphrate... giống người Urbaidians ở Lưỡng Hà xuất hiện... Rồi 3000 đến 2000 Tr.CN sự phát triển được xem là thịnh đạt vào giai đoạn Cổ vương quốc ở Ai Cập, nơi được xem là rất thịnh đạt về mọi mặt, nhất là về mặt nghệ thuật và cấu trúc cho mãi đến thế kỷ 21 con người mới bắt đầu đi vào vũ trụ chuẩn bị cho một cuộc ngự trị không gian vẫn còn chưa biết người Ai Cập cổ xưa làm thế nào mà xây được Kim Tự Tháp - một trong bảy kỳ quan của thế giới cổ đại?! Từ năm 3000 đến 1900 Tr.CN nền văn minh lưu vực Indus phát triển ngoài sức tưởng tượng của con người, nhiều phố phường xuất hiện như Harappa và Mohenjo - Daeo... đầy đủ tiện nghi... trong đời sống... Đến khoảng 2800 Tr.CN khai sáng ra nền văn minh Minoan đặt theo tên một vì vua huyền thoại... Rồi qua những năm tháng dài theo tuần tự từ Sargon Đại Đế bắt đầu thực hiện chủ nghĩa thực dân chinh phục người Summer, lập nên một đất nước Akkad-Summer cường thịnh... Nhà Hạ cũng xuất hiện từ dạo ấy. Đây là triều đại đầu tiên của lịch sử Trung Hoa v.v... Sau đó là người Hebreux tức người Do Thái bây giờ có ông vua đầu tiên xâm nhập vào đất Canaan. Kế đến quốc gia Palestine được dựng lên song song với đạo Do Thái hình thành... Một Thế Vận Hội đầu tiên vào năm 776 Tr.CN tổ chức tại Hy Lạp, bắt nguồn từ sự thi đua nhau rèn luyện thân thể để mong đạt được chức vô địch...Tổ chức này bốn năm một lần thi thố, đầu tiên là tại Olempia tức Olympic ngày nay. Tóm lại kể từ thời Bàn Cổ mở mang, đời Tam Hoàng cai trị đến đời Ngũ Đế định ra nhân luân và sau đó thì đến năm châu, bốn bể con người sinh sôi nẩy nở, từ chỗ mờ mịt hỗn mang đến khi con người cảm thấy được cái thiện và cái ác mà tự áp đặt đến tính tu trì, kể từ đó mới sinh ra "đạo lớn". Thời Tùy Đường đúng là thời điểm Phật Giáo tại đất nước Trung Hoa, được đánh giá là thời kỳ cực thịnh. Thời Tùy đã có đến 5.000 ngôi chùa, ngót cả 2.000 bộ kinh được chuyển dịch ra từ chữ Phạn tính ra có đến năm, sáu ngàn quyển... Đến thời Đường đã có hơn 40.000 ngôi chùa, tăng ni gần cả ba trăm. Tính chùa Phật không thôi, đã có đến hơn nghìn vạn khoảnh đất, số lượng chú tiểu đạt đến con số 150.000... Kinh Phật tính ra ước khoảng 67.000, riêng đời Đường dịch hơn 400 bộ, hơn 200 quyển... Trong thời gian từ Tùy đến Đường, có đến tám tông phái, đó là: 1. Thiên Thai tông do Trí Khải cầm đầu. 2. Tam Luận tông do Cát Tạng sáng lập. 3. Duy Thức tông do Huyền Trang lập ra được đặc biệt chú ý. 4. Luật Tông do Đạo Tuyên sáng lập. 5. Hiền Thủ tông do Pháp Tạng. 6.Thiền Tông do Đạt Ma sáng lập. 7. Tịnh Độ Tông do Đạo Xước và Thiện Đạo dựng lên. 8. Mật Tông do ba vị Thiện Vô Úy, Kim Cương Trí và Bất Không... Ba vị Hòa Thượng này là người bên Ấn Độ được người đời lúc bấy giờ gọi là "Khai Nguyên Tam Đạo Sư". Như trên đã nói một trong các vị cao tăng tiếng tăm lẫy lừng đời Đường là Huyền Trang được mọi người cho là một nhà tu hành đáng ca tụng và nhắc nhở đến nhất. Phật giáo được truyền vào TÂY TẠNG từ đời nhà Đường. Qua một quá trình lâu dài, Phật giáo tại đây hình thành một "tôn giáo tín ngưỡng riêng của toàn dân Tây Tạng!" Tín ngưỡng đặc biệt cho Tây Tạng lại được chia ra bốn giáo phái. Đó là: a. Minh Ma phái tục xưng là Hồng giáo. b. Tát Già phái, tục xưng là Hoa giáo. c. Hạt Cử phái tục xưng Bạch giáo. d. Cách Lỗ phái tục xưng Hoàng giáo. Trong bốn phái này, về sau kể từ đời Minh Thanh mãi đến nay phái Hoàng giáo chiếm địa vị tối cao nắm giữ vai trò chính thống. Như ta thấy các vị Đạt Lai, các Ban Thiền đều thuộc về phái Hoàng giáo này. Chuyện gì xảy ra nơi Hy Mã Lạp Sơn - nơi dẫy đầy những chuyện huyền bí mầu nhiệm này?! CHƯƠNG I BÍ MẬT NƠI CỔ HIỀN THẠCH ĐỘNG Một chiều đầu xuân khí trời thật ấm. Cảnh vật hoàn toàn yên tĩnh. Từng cụm mây lơ lửng bay trên các rặng cây xanh đen và luôn cả mấy ngọn Tuyết Sơn trắng xóa nằm đối diện với ngọn Phổ Đà La lúc nào trông cũng có vẻ hiền hòa trầm lặng... Càng về chiều sắc trời càng sậm lại. Một màu vàng ối trải dài lên các dãy phố của thành Lạt Sa nằm khép mình giữa lòng thung lũng. Bên dưới chân đồi đoàn khách thương Ấn Độ hối hả đi về hướng Tây Môn của thành Bát Nhã. Cùng lúc đoàn người hành hương nối đuôi nhau rảo bước vòng theo con lộ Linh Cơ ngoằn ngoèo, xương xẩu. Từ đỉnh cao nhìn xuống trông như thể con khủng long đang cuộn mình quanh sườn núi. Dòng sông Châu lặng lờ chảy xuôi theo những lượn sóng lăn tăn như muôn ngàn con rắn lửa đang chập chờn uốn lượn. Thành Lạt Sa thấp thoáng các ánh đèn thắp bằng dầu bơ sản xuất từ mỡ bò, trông hệt như các ngôi sao le lói sáng tận trên nền trời xa tít góp phần trầm buồn cho cảnh trí chiều hôm... Màn đêm từ từ buông xuống. Hàng ngàn ánh nến xuyên qua các khung cửa của ngôi đền tận đỉnh Phổ Đà La rực lên như cả một rừng hoa đăng lấp lánh. Bên trong đền thấp thoáng các nhà sư đang làm công quả. Đâu đó trên vòm trời một cánh sao băng vụt lóe lên tia sáng xanh lè trước khi sa xuống mặt địa cầu trông như đám bụi mờ tàn rụi... Chúng tôi sững sờ nhìn cái huyền diệu của trời đất nơi dãy Hy Mã Lạp Sơn hùng vĩ. Tiếng hú của gió, tiếng kêu nỉ non của côn trùng, tiếng kèn đồng thu không gần như lạc giọng hòa lẫn với tiếng cầu kinh nghe như một điệp khúc trầm buồn vọng lại từ mải dưới tận chân đồi. - Lỗ San ơi! Đêm nay trời đẹp lắm! Rồi cũng với giọng hiền hòa ấy hướng về phía chú Chécour lặp lại: - Có phải thế không Abdul Chécour ? Đêm nay trời đẹp lắm! Chúng tôi chỉ lặng lẽ cúi đầu để tỏ lòng tôn kính. Đức Lạt Ma Minh Dà Đông Đạt ra hiệu cho chúng tôi ngồi xuống rồi đưa tay chỉ lên vòm trời lấp lánh đầy sao. - Các chú có bao giờ nghĩ rằng mình chẳng khác nào những ngôi sao trên nền trời tím sẩm kia không? Tôi ngẩn người ra suy nghĩ. Làm sao mà con người so sánh với các vì tinh tú tuyệt vời kia được? Cho dù có khôi ngô tuấn tú, đầu trán bóng loáng và mặt mày sáng rực tợ mảnh trăng rằm như Đức Lạt Ma Minh Dà Đông Đạt đi nữa, thì đã vị tất so sánh kịp, huống hồ là đối với hạng người tầm thường như chúng tôi còn vướng đầy nghiệp chướng! Nhìn vẻ mặt ngơ ngác của tôi, Ngài bất giác phì cười: - Các lời ta vừa nói đó chú hãy hiểu theo "từ" mà không nên hiểu theo cái "nghĩa" thông thường của nó. Vạn vật trên cõi đời này không phải nhìn thấy thể nào là y như vậy được. Thực ra lắm lúc nó bắt buộc ta phải đi ra ngoài ý tưởng của mình. Giả dụ như chú viết hàng chữ "ÔM MA NI PHÁT MÊ HỒNG" thật lớn, bao trùm cả cái thung lũng Lạt Sa này thì chắc chắn dòng chữ vĩ đại vô cùng đó cũng chỉ có mỗi mình chú biết mà thôi chứ chẳng ai hiểu chú đã viết những gì ?! Đến đây Ngài ngưng lại trong giây lát rồi mỉm cười tiếp: - Khó hiểu ư ? Không! Chẳng có gì khó hiểu cả. Nó rất đơn giản. Bởi vì chú viết hàng chữ này quá lớn ngoài cả tầm mắt của con người. Tuy nhiên cái to lớn đó nó chẳng thấm thía gì so với các vì sao giữa vòm trời tím sẫm kia! Vì vậy mà chúng ta không thể nào nhận định được sự kết hợp của nó ra làm sao nữa! - Kết hợp? Tôi khẽ kêu lên. Thế nào là kết hợp? Kết hợp ra sao? Tôi vừa chăm chú nghe vừa đăm chiêu suy nghĩ về vấn đề kết hợp của các vì sao trên trời. Sự kết hợp ấy mang ý nghĩa gì? Hay nó cũng chẳng là gì cả?! - Lỗ San ạ! Thầy tôi tiếp tục giảng giải, bây giờ chú thử tưởng tượng cái thân hình của chú được ban cho đó, nó đang trong tình trạng co rút nhỏ dần đến độ như hạt cát chắc chắn là lúc ấy chẳng ai nhận ra được chú. Rồi chú cứ tiếp tục tưởng tượng nó nhỏ hơn - nhỏ đến nỗi cái hạt cát "hóa thân" chú lúc ban đầu lại trở thành là thế giới của nó. Vậy thử hỏi lúc ấy chú có trông thấy được sự hiện diện của ta chăng? Không đợi tôi đáp lại, Ngài tiếp tục giảng giải thêm về sự kiện này : - Giả dụ cho chú bảo rằng không đi nữa, thì liệu lúc ấy chú nhận thấy được những sự kiện gì đã diễn ra trước mắt chú ? "Nhận thấy những sự kiện gì?" Chúng tôi chẳng biết phải trả lời ra làm sao mà chỉ đưa mắt nhìn nhau mồm há hốc hệt như hình ảnh của con cá nghểnh đầu ra khỏi mặt nước. Mọi cảm nghĩ của chúng tôi lúc bây giờ như thể bị tê liệt hẳn. - Lỗ San! Cái mà chú sẽ trông thấy đó là cả một thế giới như chùm nho sai quả, tản mác bay quanh bóng tối. Lúc đó chú sẽ nhìn rõ từng tế bào nơi cơ thể của ta trông chẳng khác nào như những vũ trụ riêng biệt sống cách xa nhau với từng khoảnh cách mênh mông. Chú sẽ thấy thế giới này xoay chung quanh những thế giới khác Chú sẽ được chiêm ngưỡng biết bao nhiêu Mặt Trời mà Mặt Trời nào cũng là trung tâm Thái Dương Hệ có hằng hà sa số các vũ trụ khác nhau trong cái mênh mông vô cùng của Trời Đất. Tôi cảm thấy bàng hoàng và đầu óc như thể bị vỡ tung ra vì đã phải vận dụng quá sức tưởng tượng của mình để cố hiểu cho được những lời Đức Lạt Ma thuyết giảng. - Lỗ San à! Sự cố gắng của chú đã làm cho ta cảm thấy thích thú. Ta sẽ đáp lại bằng cách nói lên tất cả những gì chú muốn biết đêm nay. Nói đến đây Ngài tựa lưng vào bờ tường đá yên lặng trong phút giây đoạn nhìn tôi khẽ bảo: - Lỗ San! hãy nhìn vào cái áo của chú đang mặc và hãy lấy tay sờ vào nó. Tôi vội vã làm theo với điệu bộ của một thằng khùng khi nhìn thấy áo quần mình đang mặc bị rách tả tơi! - Bộ y phục chú đang mặc đó là là vải. - Đức Lạt Ma nói chú khó lòng phóng qua lớp áo mỏng ấy để nhìn thấy những gì ở phía bên kia được. Song le, nếu chú quan sát nó qua làn kính hiển vi và khuếch đại thêm mười lần hơn thì sẽ thấy đó là những sợi lông cừu chứ không còn là những đường tơ nhỏ mứt. Ánh sáng sẽ len lỏi một cách dễ dàng qua từng khe hở. Nhưng nếu chú lại phóng đại gấp triệu lần hơn nữa, chắc chắn là chú không khỏi bối rối trước những sợi lông cừu "lớn quá cỡ"chồng chất lên nhau, tạo cho chú có cảm tưởng khó lòng mà vượt qua nổi. Thực ra không phải vậy. Chú đừng lo . Mọi việc xảy ra trong cõi đời đều có thừa trừ. Cái khối lông cừu vĩ đại ấy lúc bấy giờ có lắm kẽ rộng thênh thang. Rộng đến nỗi ta có thể cưỡi ngựa băng qua một cách dễ dàng mà chẳng thấy một chút nào khó khăn cả... Thầy tôi có lý. Tôi sửa lại tư thế ngồi thật ngay ngắn và luôn luôn biểu lộ sự đồng tình của mình bằng đôi mắt dán chặt vào người. -Thưa thầy! Tôi bất thần lên tiếng hỏi. Có điều con thắc mắc phải chăng ngoài đời sống trên mặt Địa cầu này, còn hằng hà đời sống khác nằm rải rác trong khoảng không gian vô cùng vô tận kia ? - Thì ra chú chẳng khác nào như ông Abdul Chécour của chú. Ngày xưa chính ta cũng nghĩ như các chú vậy. Ta cũng nghĩ có những đời sống khác ngoài đời sống này... Nói đến đây Ngài đổi sang giọng thật nhỏ nhẹ tiếp : - Lỗ San à! Hãy ngồi lại cho thật ngay ngắn và hãy để cho tâm tư mình thật thoải mái. Ta sẽ trình bày cho chú nghe về cái "kiến thức siêu việt" của người xưa mà ta cùng các Bậc Chân Sư khám phá được nơi "Cổ Hiền Thạch Động". - Cổ Hiền Thạch Động ? Tôi thảng thốt kêu lên . Lòng hiếu kỳ thúc đẩy tôi muốn được nghe ngay cái gì bí mật bị chôn vùi trong lòng Thạch Cốc đã hàng bao nhiêu thế kỷ kia! - Thưa thầy! Chúng con nóng lòng muốn biết những gì ẩn giấu bên trong lòng Cốc Đá?! - Được ! Người mỉm cười gật đầu đáp lại. Ta sẽ kể tất cả cho chú nghe. Tuy nhiên trước khi đi sâu vào từng chi tiết bí mật đó chú cần phải am tường về đời sống của tiền nhân trong thời kỳ châu Atlantic (Ất Lân Tíc) còn hiện hữu trên mặt Địa cầu này! Nói đến đây Ngài đưa mắt nhìn về tận phương trời xa thẳm dường như muốn sắp xếp câu chuyện cho có thứ lớp trước khi thuật lại. Với tôi thì đây là dịp may hiếm có sẽ được nghe tất cả mọi bí mật ẩn tàng bên trong lòng Thạch Cốc bao gồm cả một kho tàng về "nền văn hóa kiến thiết siêu linh" mà xưa nay mọi người đều muốn biết. NHỮNG ĐẤNG THÔNG MINH SIÊU VIỆT Đêm càng về khuya bầu trời càng yên tĩnh. Xa xa tiếng chó sủa từ làng xa vọng lại, tạo cho cảnh tượng về đêm nơi dãy Hy Mã Lạp Sơn đượm thêm màu huyền hoặc! Trên vòm trời vầng trăng non chênh chếch bóng. Mấy lá phướn treo trên các cột trụ được dựng lên trước sân đền rủ xuống phơ phất bay theo từng cơn gió thoảng. Sự yên lặng hoàn toàn chế ngự cảnh núi rừng, ngoại trừ tiếng côn trùng rả rích tấu lên như một điệu nhạc trầm buồn não nuột... Tiếng cọt kẹt của chiếc luân xa bằng gỗ của nhà Sư Già đang công phu đâu đó quay bánh xe lăn để cầu nguyện Phật gia hộ cho mình, làm mất đi cảnh tịch mịch của núi rừng. Chẳng ai trong chúng tôi nói gì song mọi người đều biết nhà sư đó chưa thấu triệt cái "lý chân như" của đạo Phật như thế nào! Đức Lạt Ma Minh Dà Đông Đạt đưa mắt nhìn như ngầm bảo cho biết là Ngài đã đọc được tư tưởng tôi đang nghĩ gì về tiếng cọt kẹt của chiếc luân xa kia. - Tùy theo chúng sinh, Lỗ San à! Và cũng còn tùy theo đức tin và cả hoàn cảnh căn cơ nữa. Các chú không nên quá khắt khe với bất cứ ai còn quá cách xa với mình trên con đường "đạo". Bất cứ các cung cách lễ nghi hoặc các phương pháp tụng niệm nào cũng đều được xem là một vấn đề trọng yếu. Nó là niềm an ủi vô biên và cũng là phương tiện cần thiết phải có cho những kẻ tu hành. Chẳng khác nào như những người què quặt không thể bỏ nạng để đi bằng chính hai chân tàn phế của mình. Thầy tôi cũng giải thích về vấn đề "Lý Trí và Bản Tính" của con người cho chúng tôi nghe. Càng lúc tôi càng cảm thấy gần gũi với thầy tôi hơn. Chính Người mới cho tôi sự hiểu biết và thương yêu mình thực sự. Tôi chăm chú nghe và thấy hứng khởi một cách lạ lùng. Chú Sa Quốc cũng chẳng khác gì tôi. Chú cũng chăm chú lắng nghe từng lời của Đức Lạt Ma giảng giải. Chú lớn hơn tôi rất nhiều và vốn có bản chất hiền hòa, riêng đối với tôi chú hệt như người từ mẫu, chăm sóc và thỏ thẻ hỏi han tôi từng ly từng tí. - Lỗ San! Thế nào hả cháu? Có khỏe lắm không? Mỗi lần như vậy hoặc tôi siết chặt lấy tay chú hoặc tôi gật đầu lễ phép tỏ bày sự biết ơn sâu xa của mình đối với chú. Trong lúc đó Ngài Lạt Ma đảo mắt nhìn quanh một vòng rồi tiếp tục giảng giải: - "Ta nghĩ rằng các chú nôn nóng muốn biết sự cấu tạo của một vật thể ở cõi thế gian này làm sao mà có, do đâu mà ra? Thật ra, nó nằm trong "Nhất Động Nhất Tĩnh", theo qui luật âm dương của Tạo Hóa tạo thành. Mọi sinh vật trong vũ trụ bao la này đều có cùng một qui luật như vậy. Dãy Hy Mã Lạp Sơn trùng trùng điệp điệp với hàng bao nhiêu ngọn núi chọc trời cũng không ngoài sự cấu tạo của các tế bào góp lại, mà trong đó mỗi tế bào có sự luân chuyển riêng biệt của nó. Có nghĩa là nó có tính độc lập không cái nào va chạm cái nào. Chúng nâng đỡ lẫn nhau, chẳng khác nào vầng Thái Dương của chúng ta hiện hữu có nhiều hành tinh quay chung quanh và cùng đi theo một qui luật nhất định, chẳng bao giờ va chạm nhau được. Đến đây, Ngài bỗng im bặt rồi hướng mắt nhìn tôi như để tìm hiểu tôi có thấu triệt được những lời lẽ Người giảng giải đó không? Đọc được ý tưởng của Người, tôi khẽ mỉm cười như ngầm bảo: "Thưa thầy! Con đã hiểu thật rõ ràng rồi. Xin thầy tiếp tục giảng giải. Con thật vô cùng thích thú và đang lắng nghe đây." Trong lúc đang say sưa nghe lời giảng giải của Người thì bất giác tôi giật nẩy mình khi nhìn thấy một linh ảnh (bóng ma) đang chập chờn ẩn hiện trên một mỏm đá trắng nằm ven sườn núi kế cận. Linh ảnh không có một hình dáng nhất định mà thoạt ngắn thoạt dài đang quay cuồng dưới ánh trăng mờ ảo...Tôi trân trối nhìn quên cả mọi sự vật diễn biến chung quanh mình. Như nhận thấy được nỗi kinh ngạc của tôi đối với linh ảnh lạ lùng ấy, Ngài bèn xoay ngay sang đề tài này, cố ý giảng giải giúp tôi hiểu biết thêm về khía cạnh "Vật Thể của Linh Hồn". - Lỗ San! Đối với chú thì cái bóng dáng ma quái ấy thật là lạ lùng mà cũng thật là khó hiểu. Nhưng đối với ta thì khác. Ta nhờ "Đắc Thần Thông" nên đã từng tiếp xúc với họ nhiều lần bên trong "Mật Tẩm". Chú đừng lấy đó làm điều quái gở. Các linh hồn đó đều là những con người như chúng ta đã sống và đã từ giã thế giới này để đi vào một thế giới khác. Thế giới đó do phân tử cấu tạo có khoảng cách thật xa nhau. Nhờ vậy mà tất cả các linh hồn đều có thể xuyên qua bất cứ bức tường nào cho dù dày đặc đến đâu cũng không hề bị vướng vấp hay trở ngại. - Thưa thầy, con được nghe khi một linh hồn lướt cạnh ta khiến cho thân hình mình cảm thấy nhột nhạt khó chịu, chẳng biết có đúng như vậy chăng? Xin thầy giảng giải. - Mỗi tế bào là một Thái dương hệ. - Thầy tôi đáp lại. - Và cho dù tế bào ấy lớn hay nhỏ cũng đều có điện năng bao phủ cả. Điện năng này không như điện lực của loài người chúng ta thường sử dụng mà nó thuộc về loại "điện năng siêu tầng" thập phần tinh vi. Từ luồng điện của các ngôi sao đổi ngôi trong màn đêm đen tối, đến những ánh hào quang rực chiếu lên vòm trời tím sẫm ở miền Bắc cực quanh năm lạnh buốt thấu xương đều do ở sự rung động mà phát xuất. Điều mà chú vừa hỏi tại sao khi có một linh hồn lướt ngang bên cạnh khiến ta có cảm giác nhột nhạt khó chịu cũng không ngoài cái nguyên lý này. Chẳng qua do sự đụng chạm của linh hồn với ánh hào quang của chính mình bao quanh cơ thể. - Thế thì - tôi ngắt lời - thưa thầy, ánh hào quang bao quanh người chúng ta nhìn thấy đó có phải là điện năng không? - Đúng vậy! Nhiều nước trên thế giới dùng dây kim loại để chuyển điện lực có tần số cao bắc ngang lưng trời đều phát ra ánh hào quang cả. Hầu hết các kỹ sư chuyên về điện lực cũng xác nhận như vây. Đó là một thứ hào quang màu xanh nhạt thường phát hiện vào những đêm tối trời hoặc các đêm có lắm sương mù bao phủ. Hào quang lúc nào cũng có sự rung chuyển bởi một nguồn điện năng của nó. Có điều ta có thể nhìn thấy ánh hào quang ấy hay không thì còn tùy thuộc vào nhân lực của mỗi người. Nói đến đây thầy tôi có vẻ như trầm ngâm suy tư điều gì, mãi giây lâu sau khi nhìn thẳng vào tôi, Người dõng dạc nói: - Rồi một ngày nào đây con sẽ được đưa sang Trùng Khánh theo học ngành y khoa. Ta nghĩ tằng lúc ấy con sẽ có dịp dùng các dụng cụ đo lường và phác họa các luồng điện năng trong các hệ thống não bộ của con người. Đến đây thì chú Sa Quốc lên tiếng hỏi: - Thưa thầy, nếu nói như vậy thì chẳng hóa ra đời sống của con người bị ràng buộc giữa "điện năng và sự chuyển động" sao? Người vừa cười vừa đáp lại: - Đúng vậy, Sa Quốc ạ! Không thể nào có điện năng mà chẳng có sự rung chuyển bao giờ ? Ví dụ có một nhạc khí như phong cầm chẳng hạn, với những tiếng tơ rung chuyển phát ra những âm thinh dài lê thê tưởng chừng như bất tận vi vút trên từng cung "bát âm" nối tiếp triền miên vẳng vọng đến tận một chốn vô cùng nào đó mà không bao giờ dứt được. Còn những âm thinh tiếp nối theo sau đó tuần tự thể hiện cho từng tiếng động chỉ vào nhân sinh quan, hoặc cho tình cảm, cho ý thức hoặc hướng vào một mục đích nào đó và hằng hà sa số các âm thinh hiện diện trên vũ trụ này mà ta không thể nào thu nhận được. Ví như tai của một con người chỉ có thể nghe được giọng trầm nhưng loài chó thì nghe được cả âm thinh nổi. Loài chó rất thính tai, nó phát hiện dễ dàng các âm thinh cao mà điều này thì chẳng bao giờ con người chúng ta có được. - Nhưng, nếu ta muốn, liệu có được chăng? - Được. Tuy nhiên ta cần phải luyện khoa "Thiên Nhĩ Thông". Nếu ta luyện được thì chuyện nghe tiếng nói của các vị thần linh nơi cõi "Siêu Thinh Giới" sẽ trở thành vô cùng dễ dàng. Sau khi dứt lời giảng giải này, Đức Lạt Ma nhìn chúng tôi nói: - Đêm nay các chú phải thức khuya hơn một chút để được biết những gì các chú lâu nay muốn biết. Ngày mai, các chú được nghỉ bù để lấy lại sức... Nhắm nghiền mắt lại để dưỡng thần, giây lâu sau đó, thầy tôi bắt đầu lên tiếng kể tiếp: - Từ ngày được thăm nơi Cổ Hiền Thạch Động và được sử dụng những dụng cụ lạ lùng nơi đó, ta đã nhìn tận mắt nhiều chuyện lắm lúc khó tin nhưng...lại là sự thật. - Thầy tôi nói như vậy - Từ xưa nay chúng ta cứ nghĩ rằng con người có khối óc thông minh hơn tất cả mọi sinh vật trên trái đất này, nhưng thật ra trước hiện tượng mà chính mắt ta nhìn thấy, có những sinh vật nhỏ hơn cả những vi khuẩn li ti không hình thù vóc dáng còn vượt xa hơn nhân loại hiện hữu và đó mới chính là những đấng "Thông Minh Siêu Việt". Họ biết sử dụng các dụng cụ siêu tinh vi ngoài cả sức tưởng tượng của loài người. Bất giác chúng tôi không ai bảo ai đều im lặng khi Thầy tôi đưa tay chỉ về phía một nhà sư đăng đi thong dong dưới ánh trăng mờ ảo... Nhà sư này vừa đi vừa nghêu ngao ca tụng cái đẹp của đất trời: - "Ôi! Đêm nay trời đẹp làm sao! Cảnh vật thật tuyệt vời! Nhưng tiếc thay ta không đủ lời để ca tụng, không đủ tiếng để tung hô mà cũng không đủ những danh từ hoa mỹ để ghi vào từng câu trong thi phú... Này! Vũ trụ kia ơi! Tạo hóa sao mà khéo tay lắm vậy!" - "Vâng! Đạo hữu kia, lời Người nói đúng." Giọng thánh thót của một nhà sư khác từ đâu đó bất thần xuất hiện lặp lại và tán tụng thêm ra: "Ôi! đẹp làm sao các vì tinh tú ấy! Nó lấp la lấp lánh tợ như những hạt kim cương rực tỏa giữa vòm trời... Nhưng hỡi ai kia! Ta muốn hỏi người hàng triệu triệu ngôi sao giữa màn trời tím sẫm đó có bao nhiêu thế giới như ta ở cõi thế gian này?!" Ngừng lại trong giây lát, nhà sư này bỗng lại cất tiếng cười vang: - "Ta cũng hỏi đời sống của chúng ta sinh ra với mục đích gì? Phải chăng ta sinh ra là để ca tụng cái đẹp của đất trời hay là để hận thù chém giết nhau đời đời kiếp kiếp giữa cuộc đời dẫy đầy sự ô trọc này?!" Nhà sư lúc ban đầu mà thầy tôi chỉ đến, tên là Lão Bái hét lớn lên dường như muốn trút tất cả sự phẫn nộ của mình: - "Ôi! cái người đạo hữu kia ơi! Người quả thật bậy bạ... thật bổ báng! Câu hỏi của lão nghe thật buồn cười. Lão há chẳng nhớ lời thầy dạy dỗ đó sao? Chỉ có con người ở thế giới này mới mang hình ảnh của thì làm sao có một sinh vật nào khác mang hình hài như chúng ta được nữa?! Ôi, cái lão già kia ơi! Lời nói của lão sao mà hoàn toàn vô lý vậy?!" Thầy tôi mỉm cười nhún vai tỏ ý không tán thành lý luận của cả hai nhà sư kia đoạn cất tiếng bảo với chúng tôi: - Có thể cả hai đều lầm lẫn. Và như để thấm giọng, thầy tôi chậm rãi nhấm thêm chung trà đoạn nhìn tôi giây lát rồi trở lại câu chuyện "Những bí mật ẩn tàng bên trong lòng Thạch Động" của "nền văn hóa kiến thiết siêu linh" mà Người đã bảo sẽ nói lên tất cả sự bí mật của nó theo như lời Người đã hứa: - Hẳn các chú muốn được biết một câu chuyện được ghi lại trong tập Kinh sách mà ta đã hứa. Đó là một câu chuyện nói lên những sự kiện thật lạ lùng xảy ra tại căn phòng thí nghiệm có dàn kính hiển vi tối tân bậc nhất đặt dưới quyền cai quản của hai nhà bác học. Một hôm, một trong hai nhà bác học này bỗng reo lên: - "Tại sao lại có chuyện lạ lùng như thế này? Anh Trần ơi! Lại đây mà nhìn xem một sự kiện kỳ quái diễn ra dưới lăng kính hiển vi này". Và khi nhà bác học họ Trần kia nhìn thấy một cảnh tượng khác thường hiện ra trước mắt mình cũng phải kêu lên: - Trời ơi! Đúng, đây phải chăng là hình ảnh của một vũ trụ nằm trong ống kính. Rồi như một nhà diễn giả thuyết trình về hình ảnh lạ lùng kia về hiện tượng này: - "Này đây là hình ảnh của một mặt trời rực đỏ...và kia là những hành tinh đang luân chuyển xoay quanh nó...Tất cả đều không đứng yên một chỗ ngoài cái mặt nhật như một lò than hồng rực cháy kia, chúng luôn luôn biến hóa ra muôn hình vạn trạng mà con mắt của thế nhân không thể nào nhận thấy! Rồi một trong hai nhà bác học kia nói: "Ước gì ta có được những dụng cụ khuếch đại những hình ảnh bé nhỏ kia để tìm xem liệu trong cái thế giới li ti ấy có đời sống nào khác nữa hay không?". "Không ! Không thể nào có được. Có thể chúng ta bị ảo giác đánh lừa mất rồi". Nhà bác học kia đáp lại " Ông anh không nhớ sao? Chúng ta đã từng được giảng giải qua một giảng sư khoa học rằng là chỉ có loài người trên dương thế này mang hình ảnh của Người mà thôi, ngoài ra không còn một sinh vật nào dù có ở bất cứ một thiên thể trong hàng ngàn triệu thiên thể trong vòm trời bao la này...". Nói đến đây, thầy tôi đưa mắt nhìn lên các vì sao đang lấp lánh giữa vòm trời tím sẫm, rồi từ từ dưa tay vào túi áo móc ra cái hộp đựng quẹt lửa mua từ Ấn Độ, lấy ra một que diêm đưa cao lên về phía chúng tôi nói : - Lỗ San! Hãy xem đây! Ta sẽ trình bày cho chú thấy sự cấu tạo của vũ trụ (creation) như thế nào? Dứt lời, thầy tôi đặt ngay đầu que diêm vào mặt của cái hộp có hóa chất bật lên cháy thành ngọn lửa, cũng ngay sau đó Người thổi tắt đi đoạn mỉm cười nhìn chúng tôi nói: - Các chú biết đó là thế nào không ? Và không đợi chúng tôi suy nghĩ đáp lại, thầy tôi tiếp tục giảng giải: - Đó là "Tạo thành và Hủy diệt". Khi ngọn lửa đang cháy là có cả ngàn phân tử kết tụ lại. Mỗi phân tử là một thế giới riêng biệt không đụng chạm đến nhau. Rồi các phân tử ấy lại kết tụ trở lại để hình thành ra vũ trụ. - Vậy thì thưa thầy, mỗi thế giới đều có sự sống bên trong, nó tuần hoàn và tăng trưởng để rồi đến một giai đoạn nào đó đúng với chu kỳ của nó, tất cả đều phải đi vào con đường hủy diệt như que diêm và hộp quẹt của thầy mang ra ví dụ đó sao? - Đúng! - Thầy tôi cười, trông có vẻ hài lòng về câu hỏi này - Sự sống nơi nào có sinh vật như hành tinh của chúng ta đều phải theo quy luật của trời đất, có nghĩa là phải làm nhiệm vụ phát triển giống nòi từ đời này sang đời khác. Các sinh vật có thể tồn tại đến hàng triệu triệu năm, nhưng không có nghĩa là vĩnh viễn, mà tất cả, cuối cùng rồi cũng phải tàn tạ, tan biến trong cái vô cùng mênh mông của vũ trụ! Tôi tò mò hỏi: - Thầy có thể cho chúng con biết cái mối đầu của vũ trụ không ? Nhìn tôi trong phút giây, thầy tôi giải thích: - Cứ theo Kinh sách thì Vũ trụ nguyên thủy vốn không đồng đều. Ví như ở những địa điểm cường độ bức xạ thì cao hơn, tất nhiên mật độ vật chất và từ trường hấp dẫn cũng tăng theo. Cũng theo Kinh sách cách đây 16 tỷ năm giữa cái cái mênh mông trời đất còn trong cảnh hỗn mang đó bỗng phát ra một tiếng nổ làm long lở cả vòm trời, tạo thành những đám mây mù nguyên thủy . Tiếng nổ kinh hồn khiếp vía đó biểu trưng cho ngày khai sinh ra Vũ trụ. Nhật, Nguyệt xuất phát ra từ đó mà Mặt Trời là mầm mống của Thiên hà. Các đám mây dần dà phân tán ra nhiều mảnh tạo nên những ngôi sao mà các chú đang nhìn thấy chúng lấp lánh trên nền trời xa xăm và tím sẫm kia. Thực tế cho ta thấy sự sự cấu tạo ra những Thiên hà là một quá trình vô cùng phức tạp . Tiếc thay ta không có đủ thời giờ để giải thích một cách cặn kẽ được. Sư tổ đã từng giảng giải cho ta biết chẳng phải duy chỉ có thế giới này, mà nó còn có lắm cõi sống khác nữa. Tưởng tất cả chúng ta cũng nên nhớ rằng mỗi hạt nhân là một bầu trời thế giới. Hạt nhân nào cũng được xem là một cơ bản . Đó là lý luận chung chung, còn riêng phần Sư Tổ lại cho rằng chỉ có điện tử và quang tử mới thực sự mang tính chất đơn thuần biệt lập. Như ngày nay ta thấy các hạt nhân Proton, Electron, Neutron v.v.. là những nguyên tử và phân tử có khả năng hấp thụ đồng thời phát bức xạ ra một đám khí nguyên tử... Cứ mỗi hạt tách ra thành một vũ trụ. Như vậy, ta có thể cả quyết cho rằng vũ trụ chẳng phải một, cũng không hai hoặc ba, bốn, năm, sáu... mà là hằng hà sa số... Tóm lại, việc tìm hiểu sự hình thành của Thiên hà vẫn còn đang là một vấn đề thời sự... Tôi thắc mắc hỏi : - Vậy, thưa thầy Vũ trụ nguyên thủy như thế nào? Con còn chưa rõ! - Nó thật vô cùng! Tuy nhiên ta có thể nói đại khái để chú tường tận một phần nào, đợi đến khi nào chú theo học các bậc cao hơn sẽ thấy các sự việc xảy ra trong thời kỳ Vũ trụ còn nằm trong trạng thái hỗn mang huyền nhiệm như thế nào. Ví như thuyết Vũ trụ nổ bắt đầu từ một điểm kỳ dị. Sở dĩ dùng cái danh từ "kỳ dị" bởi nó nó bắt đầu từ một điểm mà không có một danh từ nào hơn từ "huyền nhiệm"! Nói đến cái mối đầu của Vũ trụ thì chẳng một ai không nghĩ đến sự già nua của nó! Muốn biết tuổi của Vũ trụ phải đi ngược lại thời gian cho đến điểm kỳ dị lúc mà tuổi và bán kính của Vũ trụ là số Zero và từ con số Zerô này người ta lấy đó làm mốc. Danh từ mà chúng ta ngày nay thường dùng cho "cái nghĩa của mốc thời gian" chỉ vào khoảng thời gian và không gian nào đó. (Tại điểm này những định luật của toán học vật lý cũng như thuyết tương đối rộng không thể áp dụng được)* - Còn, thưa thầy con muốn được rõ hơn những giây phút đầu tiên trong vụ nổ đó! Thầy tôi nhìn tôi đăm đăm, được một lúc Người bắt đầu cho tôi được một phần thỏa mãn về sự tò mò đối với câu hỏi này: - Kinh sách nói: "Sau vụ nổ, Vũ trụ sẽ giản nở ra và tất nhiên là nhiệt độ sẽ được giảm dần". Chỉ trong vòng ba phút cũng đã quá đủ rồi. Vũ trụ tiến hóa rất nhanh với nhiều sự kiện không giống nhau, có nghĩa nó biến hóa một cách phi thường. Tuy nhiên, chú nên biết rằng nếu Vũ trụ lúc bấy giờ chỉ đánh đổi đi một chút, chỉ một chút thôi nha, thì cả cái Vũ trụ bao la này đã đổi khác hẳn hơn cái Vũ trụ mà chúng ta đang ở đây, có nghĩa là chúng ta đã không có sự hiện diện trên hành tinh này. - Thưa thầy, - tôi hỏi - vậy thì mỗi thế giới đều có sự sống bên trong và cùng chung một định luật như thế giới của chúng ta hiện hữu ? Thầy tôi gật đầu: - Như ta đã dẫn chứng, khi ngọn lửa được bật cháy lên thành lửa ngọn tức là nói lên sự "Tạo Thành". Và ngược lại, lúc ngọn lửa bị thổi tắt đi thì đó là sự "Hủy Diệt". Tất cả đều như nhau, chẳng ai có thể tránh thoát được định luật . Sau lời giảng giải này, thầy tôi đứng lên hẹn sẽ gặp lại vào một đêm đẹp trời khác rồi lách mình mất hút bên sau bờ đá. Vầng trăng trên vòm trời trông có vẻ u buồn trải dài lên khắp sơn khê một màu vẩn đục như váng sữa... Càng về đêm gió càng lộng. Tôi cùng chú Chécour đi về hướng cầu thang lần mò xuống dưới hầm chùa tìm nơi ngủ tạm qua đêm. Tuy đã cẩn thận lần đi từng bước song vẫn không tránh khỏi bị sẩy chân trượt ngã khi vô ý giẫm lên bãi dầu "bơ" bê bết làm trơn trợt cả các bậc cầu thang . Lúc bấy giờ tôi chẳng khác nào như cái bị bông rơi đánh bịch xuống tận chân cầu khiến chú Chécour hốt hoảng la lên bai bải làm kinh động cả khu hầm giữa lúc mọi người đang say ngủ phải giật mình càu nhàu. - Lỗ San! Lỗ San ơi! Có sao không ? Tuy bị đau thấu xương, tôi vẫn cố trấn an gắng gượng đáp: - Không sao cả chú à! Chỉ hơi ê một chút thôi. Vừa dứt lời, có bàn tay của ai nắm chặt vào cổ tôi xô mạnh về phía trước làm tôi chúi mũi xuýt chút nữa đâm người vào cây cột đá được dựng lên giữa khu hầm. Thế là tôi cùng chú Chécour quờ quạng nắm lấy tay nhau chạy thục mạng về phía bên trong hầm chùa để lẩn tránh. Chạy quanh co một lúc, cuối cùng cũng tìm ra được phiến đá phẳng lì khá rộng bèn chia nhau nằm ngủ qua đêm. Vừa đặt lưng xuống, tôi đã thiếp ngay đi không còn biết trời trăng gì nữa. Mãi đến khi mặt trời lên quá con sào tôi mới giật mình tỉnh dậy song đôi mắt vẫn còn dính chặt vào nhau. Trong lúc ấy bên tai tôi nghe văng vẳng có tiếng quát tháo ầm ĩ của một chú tiểu: - Dậy đi! Nhanh lên...ông bạn nhóc con ơi! Tôi giật mình và cố mở mắt ra nhìn. Thì ra đứng trước mặt tôi là một chú tiểu mập ú na ú nần mà chúng tôi thường gọi đùa bằng cái ngạo danh con lợn ỉ. Có thể chú muốn giương cao uy danh mình nên khi tôi vừa lo mò đứng dậy chú tiểu này lấy chân thốc mạnh vào mông tôi quát lên hối thúc: - Thượng tọa Trụ trì cho gọi anh đấy... Không phải chơi đâu. Đi nhanh lên kẻo trễ bị ăn đòn đấy... Nghe đến tên Thượng tọa Trụ trì tôi hơi ớn nên vội xốc lại áo quần cho chỉnh tề, chúc sức khỏe chú Chécour rồi phóng nhanh ra cửa chạy bán sống bán chết. Lúc bấy giờ dạ dày tôi bắt đầu cồn cào khó chịu, vừa đi vừa lẩm bẩm : - Làm sao mà cứ gọi người ta vào ngay giờ ăn thế này? Đói muốn chết được đây... Tuy vậy, tôi vẫn cắm đầu chạy dọc theo hành lang vòng quanh theo các bờ tường dài của chùa làm cho các vị Sư Già đang đứng rải rác đâu đó vội né sang bên để tránh khỏi bị đâm nhằm, trên mặt họ hiện ra vẻ bất bình. May mắn thay! Tôi đến văn phòng cũng vừa kịp đúng giờ. Trong khi đó vị Thượng tọa Trụ trì đang xem xét hồ sơ một cách khá chăm chú và như đã biết có sự hiện diện của tôi, Ngài ngẩng mặt lên nhìn tôi cười: - À! Thì ra cái chú nhóc con đã ngã xuống chân cầu làm cho bao nhiêu người náo loạn cả lên đêm rồi... Nói đến đây Ngài ngưng lại chăm chú nhìn tôi đoạn vừa cười vừa tỏ lời khen tặng : - Chú nhóc con ơi! Chú học khá lắm...Trình độ Vật Lý học của chú được ghi nhận là xuất sắc nhất. Học bạ ghi chú thuộc vào hạng ưu. Bởi thế ta phải đặc biệt giao chú lại cho Đức Lạt Ma Minh Dà Đông Đạt. Ngài sẽ nhận lãnh trách nhiệm dẫn dắt chú trên đường học vấn. Đây là ân huệ tối hậu đặc biệt Ngài sẽ dành riêng cho chú. Ta hy vọng chú sẽ xứng đáng với lòng ưu ái của Ngài... Nói đến đây vị Trụ trì nheo mắt nhìn tôi vừa khôi hài vừa tỏ vẻ trìu mến: - Xong rồi! Bây giờ chú về gặp ngay Minh sư của chú đi! Chúc chú thành công... Dứt lời Ngài mỉm cười với tôi lần nữa như thể tiễn đưa lần cuối với đứa học trò ngoan của mình và lại lẵng lặng quay đầu lại tiếp tục xem xét các hồ sơ khác. Tôi vừa rảo bước đi vừa yên lòng vì biết các lỗi vụn vặt của mình không bị ghi vào trong học bạ. Vừa đặt chân đến văn phòng thì đã gặp ngay thầy tôi đang ngồi đợi sẵn. Có lẽ vì biết tính xấu đói của tôi nên Thầy tôi cười vui vẻ : - Đã ăn uống đầy đủ chưa ? - Thưa thầy, Ngài Trụ trì cho gọi trong lúc con còn chưa tỉnh ngủ hẳn, vội chạy đến ra mắt ngài và sau đó lại được lệnh bảo đi ngay đến trình diện Minh sư...nên vẫn chưa ăn uống gì cả ạ! Nghe tôi vừa nói dứt lời, thầy tôi đã phá lên cười: - Đi tìm thức gì ăn đi rồi trở ngay vào đây. Ta có chuyện cần...đến chú. Rồi tiếp theo bằng lời nói bông đùa : - Trông dáng điệu chú làm như là đã nhịn ăn mấy ngày liền rồi vậy. Mặc dù bị cơn đói dày vò thật sự nhưng tôi cố gắng không tỏ ra cử chỉ nào có vẻ vội vàng cả mặc dù càng lúc dạ dày tôi càng cồn cào và chân tôi như không còn đứng vững được nữa. Sau khi có bữa điểm tâm thật ngon lành tôi cảm thấy tỉnh táo hẳn lại. Nhưng cũng từ giờ phút ấy tôi mới bắt đầu ưu tư cho công việc phải làm gấp bao nhiêu lần nhiều hơn như đã được thông báo trước. Vừa trở lại văn phòng đã trông thấy thầy tôi đang ngồi loay hoay sắp xếp sách vở vào tay nải, nghe tiếng động Ngài quay lại bảo tôi: - Chúng ta phải sang ngay ngọn Phổ Đà La (Potala) và ở lại nơi đó một tuần. Thế là ngay sau đó chúng tôi tức tốc rời khỏi phòng. Vừa ra đến sân nhác thấy ngay ông Sãi đứng canh chừng bên cạnh hai con tuấn mã chờ đợi chúng tôi sẵn từ lúc nào. Bất giác một nỗi buồn man mác xâm chiếm trong tâm hồn tôi khi nhìn con tuấn mã từ tay ông Sãi dắt lại trao cho. Con vật cũng nhìn lại tôi trông nó có vẻ buồn thảm hơn. Dường như nó cũng thông cảm và ái ngại hộ cho tôi sắp phải trải qua những nỗi gian lao nơi đèo heo hút gió. Lặng lẽ leo lên mình ngựa mà lòng tôi mang nặng nỗi ưu tư! Với tôi thì cái gì cũng tạm được song đối với môn cỡi ngựa thì lại còn rất kém. Người và vật rong ruổi ven theo bờ núi tới ngọn Trắc Phổ Di, lần bước xuống dốc ngang qua con lộ Mã Nê, nhìn sang bên phải là con đường Bát Nhã. Ngồi trên lưng ngựa đi một khoảng thời gian lâu chúng tôi mới vào đến làng So. Nơi đây tạm nghỉ trong chốc lát để lấy lại sức,thầy trò tôi lại bắt đầu tiếp tục cuộc hành trình. Trải qua các dốc đá khá cao nữa mới đến ngọn Phổ Đà La. Con dốc vừa cheo leo vừa thẳng đứng, lại vừa ngoằn ngoèo hiểm trở. Nhận thấy cơ nguy bị trượt ngã lúc nào cũng có thể xảy ra, vì vậy tôi luôn luôn thận trọng từng bước. Tuy đường sá khó khăn song khách thập phương lai vãng khá đông. Kẻ lên người xuống trông có vẻ tấp nập. Thỉnh thoảng có người dừng chân lại để vừa nghỉ mệt vừa ngoạn cảnh núi rừng. Đi thêm một chặng dài nữa thì chúng tôi đến tận đỉnh cao của ngọn Phổ Đà La. Tôi thầm cảm tạ Ơn Trên đã ban cho nhiều may mắn trong cuộc hành trình lắm gian truân này. Rời khỏi lưng ngựa nhìn xuống chân núi bất giác cảm thấy rợn cả người. Con vật như tuồng cũng thở phào ra. Trông nó có vẻ cáu kỉnh quay nhìn lại phía tôi đang đứng. Chúng tôi lại bắt đầu đi bộ trèo hết thang dây này đến các thang dây khác bắc cheo leo ngang lưng sườn núi. Khi đến tận ngôi chùa Phổ Đà La, thầy tôi được dành riêng cho gian tịnh thất gồm khu nhà có phòng ốc Khoa học đầy nhóc các dụng cụ máy móc của nền văn minh tối cổ lưu lại. Tôi cũng được cấp cho căn phòng ở trong một khu nhà kế cận thấp hơn phòng của thầy tôi một tầng. Đứng nơi cửa sổ vọng mắt nhìn ra bên ngoài trông thấy được toàn bộ vùng Lạt Sa và cả một cánh đồng mênh mông rộng lớn. Xa xa ngôi đền Du Khang với mái vàng sáng chói làm hoa cả mắt. Con đường Linh Cơ ngoằn ngoèo bao quanh thành Lạt Sa mỗi ngày có cả hàng ngàn thiện nam tín nữ thập phương tấp tập kéo đến để dâng hương và chiêm ngưỡng nơi có ngôi trường dạy Thần Bí Học lớn nhất thế giới. Tôi thầm tạ ơn Phật cho mình sự may mắn gặp được vị minh sư Lạt Ma Minh Đà Đông Đạt . Nếu không có định mệnh an bài thì có lẽ tôi cũng chỉ là một chú tiểu tầm thường như trăm nghìn chú tiểu khác. Có nghĩa là những chú tiểu chỉ biết cặm cụi làm việc và chui rúc ngủ dưới hầm chùa tối tăm ẩm thấp. Làm sao có diễm phúc trèo lên được tận đỉnh núi này, một nơi được xem gần như cao nhất thế giới ! Trong lúc đang nghĩ vẩn vơ thì...cả người tôi bất thần bị nhấc bổng lên cao. Tôi hốt hoảng kêu rú lên víu chặt lấy hai cánh tay hộ pháp nào đó, đôi chân tôi giẫy nẩy, mắt nhắm nghiền lại phó mặc cho toàn thể châu thân mình bị xoay tròn như con vụ. - A! cái chú nhóc chỉ biết nghĩ có mỗi mình minh sư đã đưa lên đỉnh Phổ Đà La này mà chả cần biết đến ai nữa phải không? Tiếng nói oang oang như xoi thủng cả màng nhĩ. Tôi giẫy nẩy kêu lên oai oái . Con người có hai cánh tay hộ pháp này cũng chẳng thèm lưu ý. Ông ta cười hô hố làm chói cả tai. - A! chú nhóc nghĩ cái gì đó? Có phải chú nghĩ về hai cánh tay tợ như hai cái gốc cổ thụ này không? Tôi nhận ra đó là tiếng nói của một nhà sư áo vàng. Nhà sư này vừa nói vừa cười ha hả trông có vẻ thích thú lắm. Tôi không hiểu bằng cách nào mà ông có thể đọc được tư tưởng của tôi lúc này. Nhưng rồi, tức khắc sau đó tôi cũng được trả về lại vị trí cũ một cách nhẹ nhàng. Nhà sư nhìn tôi với ánh mắt hiền hòa rồi nói: - Này chú bé thân yêu ơi! Chúng mình đã quá quen thân nhau trong tiền kiếp. Cái kiếp mà hai chúng ta đều được liệt vào hàng kiến thức, am tường được mọi việc,thông đạt được mọi cảm nghĩ của mọi người. Chú chỉ cần ôn lại thì cái kiến thức đó sẽ trở về ngay với tiềm thức của mình. Ta sẽ giúp chú điều ấy. Hãy đến tại phòng ta và bắt tay ngay vào việc ấy. Nhà sư nói xong liền quày quả bỏ đi, nhanh đến nỗi chỉ trong nháy mắt là mất dạng. Tôi xốc lại áo. Nhặt cái bát nằm lăn lóc ở ven sườn núi lúc bị nhà sư hổ mang đó nhấc bổng lên khiến nó rơi xuống, may mắn là chưa hề hấn gì. Thế rồi tôi lầm lũi trở về phòng đợi lệnh. ******************** Thầy tôi nói đến đây đoạn nhìn tôi bằng đôi mắt hiền từ: - Lỗ San! Chú hiểu lời ta nói chứ ? - Vâng, thưa thầy con hiểu... - Đừng bao giờ nghĩ ngọn lửa của Vũ Trụ là một hình ảnh phi thường.Thật ra nó có một hình thù kỳ quặc ở môi trường khá hấp dẫn. Ngọn lửa vũ trụ không bao giờ bốc lên cao như chúng ta thường trông thấy những ngọn lửa hiện hữu, mà nó thu lại trông hệt như hình thù của một quả bóng rực cháy hay có thể nói đúng hơn thì đó là một quả cầu lửa. Ngọn lửa không đủ mạnh này đã tự nó vỡ thành từng phần lơ lửng bay như những quả bóng nhỏ trông hệt như những vật lạ bồng bềnh giữa khoảng không gian. Theo Kinh sách thì chính những quả bóng lửa đó hàm chứa cả một sự bí mật đòi hỏi phải là một khối óc siêu phàm mới có thể hiểu được. Đối với loài người thì ngọn lửa kỳ diệu này sẽ luôn luôn là một thứ khó hiểu. Bởi sự phức tạp không thể minh định được nó xuất phát từ đâu và ý nghĩa đích thực của nó là gì? Ngọn lửa đèn bình thường xuất hiện bởi hàng nghìn những phản ứng khác nhau, các phân tử của nó (mà ngày nay ta gọi là Hydrocarbon được hút lên thay bấc đèn bị bốc hơi và chất nhiệt của nó bị hủy hoại. Các phân tử này sản sinh ra ánh sáng luôn cả nhiệt và khí. mà theo khoa học ngày nay giải thích chúng được kết hợp lại với Oxy và Nước.) - Thưa thầy, làm thế nào mà nó tự cháy được, nếu không có một bàn tay mầu nhiệm nào thắp sáng? Tôi lên tiếng hỏi. - Bằng vào một sự hỗn loạn vừa phải của các phân tử không khí chung quanh khiến cho ngọn lửa bốc cháy nhanh hơn, có điều nếu bị hỗn loạn quá đáng nó lại có phản ứng ngược lại, có nghĩa là nó bị tắt ngấm ngay. - Thưa thầy, con muốn biết cặn kẽ lý do nào nó như vậy? - Chính Kinh sách cũng chưa khẳng định được. Đó là lý do khiến nó phải có phản ứng ngược lại. Ta nghĩ đó là bí mật của trời đất... (Tưởng chúng ta cũng nên biết rằng khi lửa cháy thì một số mảnh vỡ của Hydro-Carbon từ nhiên liệu được hút lên theo bấc đèn sẽ tạo ra các phân tử hình khuyên gọi là Polycyclic Aromatic Hydro Carbons. Một số mảnh vỡ khác thì tạo ra chất bồ hóng - tức là chất khói bị quyện lại với nhau mà ta thường thấy ở các chỗ bếp của các người dân nghèo khổ của các quốc gia nhược tiểu. Sau đó các phân tử bồ hóng này có thể bị đốt cháy hoặc bị cuốn bay ra ngoài và biến mất vào cái mênh mông vô cùng của Vũ trụ!) - Như chúng ta biết bình thường các khí lạnh đẩy khí nóng lên cao,vì vậy mà ta thấy vị thế ngọn lửa luôn luôn có xu hướng vươn thẳng lên. Hiệu ứng này người ta gọi là "độ nổi" của ngọn lửa trong không khí. - Nói như vậy, thì ở môi trường hấp dẫn yếu như ngọn lửa thiên nhiên đầy bí mật ấy chẳng hóa ra bị triệt tiêu sao? Tôi hỏi. - Hoàn toàn bí mật. Kinh sách bảo chưa có ai có thể tìm hiểu được điều gì bên trong cái bí ẩn ấy, Từ xưa nay, trên mặt Địa Cầu mà ta đang ở chưa có một Kinh sách nào từ Đông sang Tây nghiên cứu được quả bóng lửa trong thời gian dài triền miên kể ngay từ cái mốc thời gian khởi đầu Vũ Trụ! (Điều này tưởng ta nên biết cứ một cú rơi theo trục dài ví như trong 30 mét, chỉ mất có vào khoảng hai giây. Ngày nay cơ quan hàng không Vũ Trụ - NASA - đã tìm ra được cách tạo ra quả bóng lửa trong một khoang kín ở chiếc tàu con thoi. Ban đầu máy tính dự đoán quả cầu lửa sẽ có kích thước rất nhỏ và chỉ tồn tại trong vòng vài phút, Tuy vậy, trên thực tế quả bóng mà cơ quan NASA tạo ra còn lớn hơn sự dự đoán đến ba lần và thời gian cháy kéo dài đến 8 phút.) Tôi đang miên man suy nghĩ sự bí mật của quả cầu lửa thì thầy tôi lớn tiếng hỏi: - Lỗ San ! Chú đã suy nghĩ về vấn đề đời sống sinh vật mà chúng ta đã bàn luận đêm rồi chưa? Tôi ấp úng trả lời: - Thưa thầy, nguyên con còn đang ngái ngủ thì bị vị Trụ Trì cho gọi đến. Sau đó thì con đến gặp thầy, rồi thì đi điểm tâm và cuối cùng quay lại đây gặp thầy lần nữa. Thật quả con không đủ thời giờ... Không đợi tôi nói hết lời, thầy tôi mỉm cười bảo: - Bây giờ ta tiếp tục kể câu chuyện còn dở dang của đêm qua trước khi cùng chú bàn thảo về các vấn đề khác... Đến đây, thầy tôi ngưng lại với tay lấy một tập sách viết bằng ngoại ngữ trên giá sách để trên mặt bàn. Tôi ngạc nhiên vì đó là một tập sách viết bằng Anh ngữ và chắc chắn Người sẽ bàn cùng tôi vấn đề gì đây nữa! Thầy tôi lật qua trang sau cùng của tập sách rồi chỉ vào hình ảnh bên trong hỏi: - Chú có biết đây là những hình ảnh gì không? Dán mắt vào tấm hình được in ấn trong tập sách tôi hơi ngờ ngợ và dường như có cái gì đó quen thuộc mà chưa kịp nghĩ ra. Mấy dòng chữ ghi chú bên dưới tấm hình thì tôi không thể đọc được! - Lỗ San có thể không đọc được loại chữ này nhưng chẳng lẽ không nhận ra được bức hình trong sách đó sao ? Thấy tôi ngơ ngác thầy tôi mỉm cười nói: - Đó là hình ảnh của một vị linh thần...Chú nhớ lại thử xem. Trong óc tôi bỗng lóe lên một tia sáng mường tượng "cái gì đó", song vẫn không thể xác định được "cái gì đó" là gì ? Thầy tôi đưa tay chỉ vào từng tấm hình đoạn giảng giải: - Tuy hỏi chú như vậy song ta cũng biết là chú khó lòng nhớ rõ được. Ta nghĩ rằng chú có thể mang máng nhớ rằng là có một lần nào đó chú đã nhìn thấy họ, nhưng không thể nhớ được họ là ai và tại nơi nào. Ta có thể xác quyết là chú đã từng gặp các vị thần linh này. Tất cả mọi đời sống như ta đã thảo luận đêm qua đều do những cọ xát có mức độ rung chuyển nhanh của vật chất phát sinh ra điện lực. Vậy thì, chắc chú thừa rõ điện lực là "đời sống của vật chất", chẳng khác nào như làn sóng bát âm. Ví như người bình thường chúng ta rung chuyển theo những âm giai trung bình chỉ nghe thấy trong một phạm vi nào đó. Nhưng đối với các "thần linh", các "linh hồn" hoặc các ma quỉ thì phát ra những âm thanh qua luồng sóng cao mà con người bình thường chúng ta nếu không được truyền pháp thì không thể nào nghe thấy được, Nói đến đây Người nhìn tôi hỏi: - Lỗ San ! Chú có hiểu tại vì sao không? - Thưa thầy, có thể những linh hồn đó ở nơi thế giới vô hình! - Đúng vậy. Đối với nhãn quan của con người không thể nghe thấy được loại âm thanh cao như vậy. - Thưa thầy - đã có bao giờ thầy sờ vào hình bóng và nắm bắt được bóng ma nào chưa? - Có chứ. Thầy tôi trả lời. Ta nắm được chúng chứ, nhưng những lúc như vậy ta phải nâng cao tần số tốc độ của mình ngang với tốc độ chuyển lực của linh hồn đó. Đến đây, thầy tôi trầm ngâm suy nghĩ trong giây lát rồi nói tiếp: - Ta sẽ nói lại vấn đề này rõ hơn trong một ngày khác. Đến đây, Ngài đưa tay vào túi lấy ra cái chuông bạc lóng lánh khẽ rung lên vài tiếng. Một âm thanh trong trẻo vang lên. Tôi được biết là cái ngân chung này do một vị Thượng Tọa trụ trì tại một Thiền đường nổi tiếng ở Tây Tạng tặng cho Ngài. Tiếng chuông ngân nga vừa dứt liền sau đó một chú tiểu quen thuộc giữ nhiệm vụ phục dịch bưng ra một khay trà thơm ngon của xứ Ấn cùng với loại bánh ngọt nhập cảng đặc biệt không giống với bánh Tsampa thông thường mà tôi ăn hàng ngày. Loại bánh đặc biệt này dành riêng cho các vị Đạt Lai Lạt Ma cũng như cho các Đại Sư mà thôi. Đức Đạt Lai Minh Dà Đông Đạt đã từng chu du khắp nơi. Ngài có hai phép để đi, hoặc bằng Thần Pháp hoặc bằng Nhiếp Hồn. - Mấy mươi năm về trước khi ta còn tuổi trẻ, có lần vì sắp bị trễ buổi lễ, không còn cách nào hơn là phải chạy thục mạng xuyên qua bức tường bên kia mới may ra kịp giờ đảnh lễ. Trong lúc chạy bán sống bán chết tự nhiên ta cảm thấy một sức cản nào đó như muốn chận lại. Ta ngước mặt lên nhìn, bỗng nhác thấy một nhà sư có thân hình hộ pháp chạy đâm ngang với tốc độ còn hơn cả tốc độ của ta băng băng chạy đến. Ta định đứng dừng lại để tránh, nhưng đã muộn rồi. Không còn biết làm sao nữa, đành lao thẳng vào thân hình hộ pháp của nhà sư kia. Tôi nghĩ là phen này sẽ phải xảy ra một tai nạn mà hậu quả sẽ khó thể đo lường được. Nhưng may mắn thay...cả hai chúng ta như hai luồng hơi xuyên thủng qua nhau mà chẳng bị hề hấn gì. Giữa lúc ta còn bàng hoàng thì nhà sư hộ pháp kia đã đứng lại nhe răng ra cười rồi chẳng nói chẳng rằng, nhà sư kia lại tiếp tục bỏ chạy... Ta cũng vậy. Vì giờ đảnh lễ sắp đến, ta cũng cắm cổ lao vút người như bay về hướng bờ tường trước mặt, miệng lẩm bẩm tự hỏi tại sao mình lại không dùng "Thần Pháp" mà lại chạy thục mạng như vậy? Ngài nhoẻn miệng cười nhìn tôi: - Chú biết không, suốt đêm hôm ấy ta không thể nào ngủ nghê được. Điều làm cho ta phải suy nghĩ là tại làm sao mình không nắm được "hồn ma"? Thế là bắt đầu từ đó ta tìm mọi cách để thực hiện cho kỳ được. Ta tự vạch lấy chương trình học và học một cách khoa học, chu đáo. Trước hết ta tìm đọc các Kinh thư và đồng thời tham khảo ý kiến và học hỏi các vị Chân tu trong lòng Thạch Cốc. - Và thầy thành công ? Tôi nóng lòng muốn biết nên ngắt lời thầy tôi. - Tất nhiên là ta thành công. Quả như lòng mong ước, ta thực hiện được điều này. - Có nghĩa là thầy nắm được "hồn ma"? - Bắt đầu từ đó ta thường xuyên giao tiếp với tất cả các linh hồn nào ta muốn gặp bằng nhiều hình thức, hoặc cùng họ đàm đạo suốt đêm, hoặc cầm nắm tay họ mà chẳng có lấy một chút khó khăn nào. Nói đến đây thầy tôi ngưng lại trong giây lát rót thêm trà vào chung. Hương trà tỏa lên mùi thơm ngạt ngào. Người nhấp từng ngụm một, trầm ngâm như để thưởng thức hương vị của loại trà nổi tiếng xứ Ấn rồi thong thả nói: - Như chú đã biết đời sống chỉ là một khối gồm các phân tử, như một thế giới li ti xoay quanh các mặt nhật cũng cùng loại nhỏ bé như vậy. Nhờ tốc độ cọ xát phát sinh ra một chất mà ta gọi là điện. Nếu ăn uống đúng theo phương pháp thì tốc độ trong người chúng ta được tăng trưởng. Ta không nói đến vấn đề huyền bí mà chỉ nói đến phương thức dinh dưỡng và dinh dưỡng như thế nào? Ta đã học được nhiều phương pháp trực tiếp "sờ mó" hoặc "nắm chặt" lấy hồn ma bằng cách làm cho các tế bào tăng thêm tốc độ rung chuyển. Quả thật ta đã đi đúng đường. Nhờ luyện bằng lối tích cực nên từ đó ta lần lần có được tốc độ của một con ma. Đức Lạt Ma ngừng lại trong giây lát đốt cây nhang thơm và đợi khi cây nhang này bốc khói, Người mới quay lại nhìn tôi: - Chú biết không? Mục đích chính của cây nhang là làm cho tăng trưởng vận động không khí khi có mùi hương của nó, kể cả vận động cho bất cứ ai ở trong khu vực đó nếu chúng ta dùng đúng loại hương của nó. Ta phải chay tịnh giữ giới trong suốt mấy tuần lễ theo phương pháp để tăng tốc độ cảm xạ. Suốt trong thời gian này phải dùng đúng loại nhang thích hợp với phòng riêng của mình đang ở. Chính nhờ loại nhang thích hợp này khiến cho tinh thần ta thoải mái. Thế rồi thời gian sau đó tự nhiên ta cảm thấy nhẹ hẳn người đi tựa hồ như không còn cái xác thân bằng xương bằng thịt này nữa...Ta thử bước đi. Thật là lạ lùng ! Cả châu thân ta như đang là là bay trên mặt đất. Nói đến đây, đôi mắt Người nhìn ra ngoài trời đăm chiêu rồi tiếp tục nói : - Bây giờ ta đâm ra ưu tư vì nỗi khó khăn để kèm giữ lại linh hồn mình trong cái xác thân ở cõi tạm này. Rồi Người vui vẻ hỏi tôi: - Chắc chú không mấy thích trai giới để sờ vào cái hồn ma như vậy phải không? Tôi thầm nghĩ thà ăn một bữa cơm ngon lành còn hơn là đi sờ mó vào một con ma đen đủi xấu xí như Người đã thuật lại. Cuối tuần lễ đó, cũng sau bữa ăn ngạt ngào hương vị Ấn Độ, thầy tôi lại bắt đầu kể tiếp chuyện các linh hồn: - Đó là một buổi hoàng hôn vào tiết đông thiên trời đang hồi giá rét căm căm. Ta co ro đến chùa dưới cơn mưa phùn giá bấc. Vừa đến nơi ta liền vào ngay "Mật Tẩm" thắp thêm nén nhang thì thần khấn xin một "linh hồn" nào đó để được cùng nhau tay trong tay đàm đạo. Đang lúc dõi mắt ra ngoài song sổ đợi "linh hồn của kẻ bên kia thế giới" hiện về, thì bất thần có một bàn tay nhẹ nhàng đặt lên bờ vai khiến ta giật bắn cả người lên. Đó là một bàn tay xương xẩu lạnh như đồng của một người bạn đã chết cách đây mấy tháng, trước sự chứng kiến của ta vào một đêm ngoài trời tầm tã gió mưa... Đến đây thầy tôi bỗng phá lên cười như nhớ lại sự sợ hãi tận cùng của mình còn in sâu trong tiềm thức khi bắt gặp một bóng ma lần đầu tiên trong cuộc đời. Thầy tôi hạ thấp giọng kể tiếp: - Lỗ San! Đó là linh hồn của một vị Lạt Ma, ông ta cười lên hô hố. Giọng cười khác hẳn lúc sinh thời, song âm hưởng vẫn còn nghe trong trẻo. Ông ấy nhìn chăm chú ta trong một thời gian khá lâu im lặng. Sau cùng cất tiếng phê phán về phương thức đi tìm hồn ma như ta chỉ thêm khó nhọc. Tại sao lại không ngồi "Thiền" để "Nhiếp Hồn" có phải dễ dàng gặp nhau không? Tất nhiên ta nghĩ là Người Chết có lý. Đến đây, thầy tôi gật gù nói tiếp: - Như chú đã biết, giờ thì ta có thể dùng phép "nhiếp hồn" là vị chi có thể nói chuyện với ma hoặc bất cứ những kẻ khuất mặt nào nếu ta muốn. -Vật = Ý có nghĩa là thầy đã dùng "Thần Giao Cách cảm". Con cũng có thể áp dụng môn này. Tuy nhiên con không biết phải làm thế nào giảng giải. Trầm ngâm trong giây lát, thầy tôi tiếp tục nói: - Khối óc của con người khác nào cái máy thu thanh. Nó cũng như cái dụng cụ của anh chàng Masconi đã từng dùng để chuyển tin tức từ bên kia bờ đại dương. Sự hợp tác giữa các tế bào với điện năng là để cấu tạo. Thế có nghĩa là con người được cấu tạo bởi điện năng và tế bào. Trong các bộ phận thu nhận tín hiệu do óc phát ra sai khiến để hoàn tất ý định. Khi ta nghĩ làm một việc gì như muốn cử động cánh tay chẳng hạn, tức thì điện lực chuyển đến những đường gân điều khiển hành động như khối óc ra lệnh. Do đó ta thấy khi mình nghĩ gì tức là đã dùng đến điện để điều khiển bộ óc. Và từ bộ óc ra lệnh cho các hành động y hệt như cái máy phát thanh dùng điện để hoạt đ̕';ng. Các nước văn minh ở phương Tây dùng máy móc để đo điện năng phóng xạ và họ cũng phác họa các hình đồ ghi ra các loại điện gọi là Alpha, Beta, Delta hoặc Gamma tuyến. Điều này rất đúng! Phía dưới dãy ghế hàng đầu đối diện bàn thờ Phật, một vị Đại Lai Lạt Ma trọng tuổi lưng còng đứng lên một cách khó khăn lê từng bước một đến trước các bạn đồng cấp nghiêng mình thi lễ. Lẽo đẽo theo sau là các chú tiểu đủ các màu da hai tay bưng lấy chiếc khay hình chữ nhật phủ lên vuông vải tơ điều. Vị Đại Lai Lạt Ma trọng tuổi này lại kéo lê từng bước một đến trước mặt Đức Đạt Lai Lạt Ma cúi mình đảnh lễ, đoạn quay về phía các tăng lữ đang xếp hàng ngồi bên dưới, cất cao giọng thật thâm hậu xướng lên như thể một đạo nhân phủ dụ đám tín đồ... - "Hãy nghe đây tiếng nói của linh hồn"! Thế gian này chỉ toàn là ảo ảnh và đời sống nơi quả Địa Cầu này âu chỉ là giấc mơ ngắn ngủi mà thôi! - "Hãy lắng nghe đây tiếng nói của linh hồn! Cõi tạm này làm sao sánh kịp với Cõi Trường Tồn Bất Diệt?! Không! Không bao giờ! - "Hãy lắng nghe đây tiếng nói của linh hồn! Thế giới này chỉ toàn là ảo ảnh! Đời sống trên Địa Cầu đâu có phải là trường tồn bất diệt. Âu đó chỉ là một giấc mơ ngắn ngủi mà thôi! - "Hỡi những ai kia mang bao nỗi buồn u uẩn! Hãy lắng tai nghe đây tiếng gọi của linh hồn! Tất cả những ảo ảnh rồi cũng ra đi trong cái khoảng không vô cùng thăm thẳm! Chuyện gì đâu mà phải khóc than sầu hận? - "Hãy đốt lên đi nén nhang đầu soi sáng cho những linh hồn vất vưởng! - " Hãy hộ trì cho họ quay về với thế giới siêu linh!" Tiếng xướng vừa tạm lắng xuống từ bên trong hàng ngũ áo vàng một nhà sư trẻ tuổi đứng lên tiến đến đảnh lễ Đức Lạt Ma - lúc bấy giờ Ngài đang trầm ngâm dõi mắt theo làn khói hương nghi ngút... Nhà sư trẻ lại đốt nén nhang quay khắp bốn phương khấn bái đoạn cất lên giọng trầm trầm tụng niệm. Và ngay sau đó tiếng cầu kinh của các chú tiểu cũng rập ràng vang lên hòa cùng nhịp điệu. Từ bên trong đám các tăng lữ bỗng xuất hiện Đức Lạt Ma đẫy đà trọng tuổi ra trước bực lễ đường đưa cao chiếc chuông bạc rung lên một hồi dài,rồi vừa cất cao lời tụng niệm vừa đảo mắt xuống hàng cử tọa thử xem mình có được tán thưởng hay không? Để nhà sư này trở về chỗ cũ, Đức Lạt Ma trọng tuổi tiến đến trước mặt Giáo Chủ đảnh lễ thêm lần nữa rồi quay sang lễ trước bàn thờ. Xong đâu đó, ông ta lại cất cao lời tiếp tục tụng niệm: -"Hãy lắng tai nghe đây tiếng gọi của linh hồn! Thế giới này chỉ là ảo ảnh! Địa Cầu là môi trường để thử thách trong cuộc sống mà thôi! Thanh lọc ngay đi các màu trược khí mà vươn lên hướng về Cội Phúc để tìm cái trọn vẹn nguyên thủy của Đất Trời!" Tiếng tụng niệm cùng với tiếng chuông vẫn vẳng vọng từ dưới chùa lên,trong khi chú tiểu đồ trịnh trọng đốt nén nhang thứ hai rồi tiến về phía Ngài Giáo Chủ cúi rạp mình đảnh lễ... Bốn bức tường của ngôi đại tự hình như mở rộng thêm ra và dường như nó cũng chuyển động nhịp nhàng theo từng âm điệu của câu kinh. Bất giác tôi sững sờ giương tròn xoe đôi mắt nhìn vào những hình ảnh đen đúa xấu xí một cách dị thường, đầu tóc bỏ xõa, tay chân thì như co quắp lại không biết xuất hiện từ lúc nào đang chập chờn bao quanh lấy vị Đại Lạt Ma trọng tuổi này! - "Đó là những bóng ma của những người vừa mới chết!" - Giọng nói này bỗng từ đâu vang vọng vào tai tôi - Họ là những kẻ bình sinh chẳng chịu tu hành! Tôi chăm chú nhìn vào những bóng ma ấy. Trông họ có vẻ lạc lõng cô đơn. Nét mặt họ hằn lên vẻ đau buồn, tủi hận! Ánh đèn chập chờn lúc tối lúc sáng bám sát vào các bóng ma đang vừa thất thểu vừa đi vừa rên rỉ kêu xin cho được hưởng ơn huyền nhiệm để cứu rỗi lấy linh hồn... - Hãy lắng tai nghe tiếng nói của linh hồn..." (Còn tiếp) nguồn:http://www.vangsanh.com/
-
CÂU CHUYỆN TẦM SƯ HỌC ĐẠO của hai vị Tổ Mật tông: Tilopa & Narota ALEXANDRA DAVID NÉEL Huỳnh Ngọc Chiến dịch LTS: Diệu pháp của chư Phật là thứ “bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ”, cho nên tự ngàn xưa các vị tổ sư đã không ngần ngại xả bỏ tất cả, kể cả sinh mạng để tầm cầu đạo giải thoát. Đức Phật từng hiến thân mạng cho quỷ để được nghe một câu kệ(1). Đức Khổng Tử cũng nói: “Buổi sáng nghe được đạo, đến chiều chết cũng cam lòng” (Triêu văn đạo, tịch tử khả hỷ). Cánh tay của nhị tổ Tuệ Khả dâng lên sơ tổ Đạt Ma trong một đêm tuyết trắng, câu chuyện tầm sư học đạo kỳ lạ của Narota và Karma Dordji là những trang sử bi tráng kể lại cuộc viễn trình bất tận để tìm cầu giải thoát của con người. NSGN xin giới thiệu câu chuyện tầm sư học đạo của hai vị tổ Mật tông Tilopa và Narota, cùng câu chuyện kỳ lạ của Karma Dordji - một tu sĩ Tây Tạng được xem đã đạt đến thần thông, sống cùng thời với tác giả Alexandra David Néel.(Hình bên: Alexandra David Neel) Trong thời buổi mạt pháp hiện nay, những tấm gương hy sinh cầu đạo có khi lại có tác dụng giáo hóa con người nhiều hơn những trang luận thuyết về kinh điển. Trân trọng NSGN Bất ngờ được một đạo sư nhận làm môn đồ, những năm tháng nhập môn tu luyện khổ cực, những thử thách mà một môn đồ phải trải qua cùng những tình huống đốn ngộ, ngần ấy thứ đủ để viết nên một cuốn tiểu thuyết đầy thú vị. Hàng trăm cuộc phiêu lưu kỳ diệu, từ thuở xưa hoặc gần đây, được ghi chép trong tiểu sử của các Lạt ma danh tiếng, hoặc được các nhân chứng kể lại, lâu nay vẫn lưu truyền khắp xứ Tây Tạng. Khi được dịch sang một ngôn ngữ xa lạ, được đọc ở một xứ sở mà phong tục, tư tưởng và bầu không khí khác hẳn với Tây Tạng, thì cái ma lực huyền bí của những “truyền thuyết vàng son” đó của Lạt ma giáo tan biến cả. Nhưng nếu được một người nào đó kể lại bằng giọng sùng kính chân thành, trong một căn phòng tranh tối tranh sáng của một tu viện, hoặc dưới mái vòm đá trong thạch động của một vị ẩn tu, thì tâm hồn người Tây Tạng lại đắm chìm trong những tình tiết độc đáo dù cũ mèm nhưng mãnh liệt của nó, với nỗi khát vọng hướng về thế giới bên kia. Trước hết, tôi xin kể lại câu chuyện huyền thoại của đạo sư Tilopa từ khi ông được điểm đạo cho đến lúc giáo lý ông được du nhập vào Tây Tạng và chuyển thành giáo phái Khagyudpa (Mũ Đỏ) mà ông được xem là sơ tổ. Tilopa đang ngồi đọc một bộ luận thì có một bã lão ăn mày xuất hiện sau lưng, làm ra vẻ như chồm qua vai ông dòm đọc mấy dòng, rồi đột nhiên buông thõng một câu: - Đọc thì đọc vậy, nhưng không biết có hiểu gì không? Tilopa phừng phừng nổi đóa. Làm sao một mụ ăn mày lại dám buông lời hỗn xược như vậy? Nhưng bà già kia không để cho ông kịp biểu lộ cơn giận dữ, mà còn đưa tay xé toạc mất mấy trang sách. Nhà học giả nhảy chồm lên. Con quỷ cái kia nghĩ sao mà dám xé rách cuốn thánh thư? Như để trả lời sự kinh hãi lẫn phẫn nộ của ông, bà lão kia lại xé toạc thêm mấy tờ nữa, đoạn lẩm bẩm một chữ gì đó mà Tilopa nghe không rõ, rồi biến mất. Lạ lùng thay, cái chữ mà Tilopa không nghe rõ đó đột nhiên làm ông dịu hẳn cơn phẫn nộ. Một cảm giác buồn chán tràn ngập trong hồn, nỗi nghi ngờ về kiến thức từ chương của mình bỗng dâng trào trong tâm tưởng... Và sau hết là nỗi hoang mang, liệu ông có thấu hiểu được giáo lý được trình bày trong bộ luận kia không? Không những chỉ bộ luận đó thôi, mà còn nhiều kinh sách khác, liệu ông có hiểu được gì không, hay cũng chỉ là một kẻ ngu si dốt nát? Bà lão xa lạ kia đã nói gì với ông? Những lời nói, mà ông không hiểu đó, mang ý nghĩa gì? Ông muốn hiểu, khát khao muốn hiểu. Tilopa liền lên đường đi tìm bà lão xa lạ kia. Sau không biết bao nhiêu năm tháng dài đằng đẵng, đầy mệt mỏi với những chuyến đi bươn bả ngược xuôi, cuối cùng vào một đêm khuya, ông tìm thấy bà lão đó trong một khu rừng vắng (có sách nói là gặp trong nghĩa trang). Đôi mắt của bà đỏ rực như hai cục than hồng trong đêm tối. Tilopa hiểu ngay đó là một thiên nữ Dâkini. Những thiên nữ này đóng một vai trò rất lớn trong Mật tông Tây Tạng, như truyền dạy các mật pháp bí truyền cho những ai thờ cúng họ, hoặc cho những người cao tay ấn biết dùng pháp thuật huyền môn để buộc họ phải khai thị những mật pháp đó. Người ta thường gọi đó là những “thánh mẫu”. Họ thường xuất hiện dưới dạng các bà lão già nua, và dấu hiệu để phân biệt họ là đôi mắt xanh lè hoặc đỏ rực. Ngay trong buổi đàm đạo đầu tiên, thiên nữ đó đã khuyên Tilopa đi đến cảnh trời của các Dâkini để gặp vị nữ chúa tể. Bà báo cho biết trên đường đi đến đó sẽ có vô vàn chông gai nguy hiểm đang chờ đợi ông: hang thẳm hố sâu, thác ghềnh chảy xiết, ác thú hung dữ, ảo ảnh đánh lừa, yêu ma quỷ đói tràn đầy. Nếu ông khống chế được nỗi kinh hãi, nếu ông vượt qua được con đường bé tí như sợi chỉ chạy ngoằn ngoèo qua xứ sở khủng khiếp đó, có thể ông còn bị quái vật ăn thịt nữa. Trong cơn đói khát dày vò, nếu ông chỉ uống một ngụm nước mát hoặc ăn một trái cây đang lủng lẳng trước mặt, ngay trong tầm tay vói, từ những hàng cây sum sê trĩu quả hai bên đường, hoặc nếu ông gặp một cô gái trẻ đẹp mà đứng lại để trò chuyện vui đùa thì lập tức ông biến thành kẻ đần độn quên mất đường về. (Hình bên trái: Tilopa / ảnh của Việt Nalanda Foundation) Bà lão dạy cho ông một câu mật chú hộ mạng để làm hành trang lên đường. Ông phải tập trung tư tưởng để niệm câu mật chú đó liên tục không gián đoạn, cho dù gặp phải bất gì cảnh ngộ nào trên đường đi. Một số người tin rằng Tilopa đã thực sự thành công trong chuyến viễn trình kỳ ảo đó. Một số khác đã quen thuộc với những hiện tượng xuất hiện trong trạng thái xuất thần thì cho rằng đó chỉ là sự biểu hiện của tâm thức. Một số khác nữa cho rằng tất cả những điều được diễn tả chỉ thuần túy mang tính biểu trưng. Dù là gì đi nữa thì theo tiểu sử của ông, Tilopa đã chiêm bái vố số ảnh tượng kinh hoàng hoặc mê ly kỳ ảo đã được cảnh báo trước. Ông đã chiến đấu trên những sườn đồi hiểm trở và trong những thác ghềnh cuồn cuộn. Ông đã phải chịu tê cóng vì tuyết lạnh, chịu cháy nóng giữa sa mạc khô cằn đầy cát mà không bao giờ xao lãng niệm mật chú hộ thân. Cuối cùng, ông đến được tòa lâu đài với những dãy tường đồng sáng lóa. Những con quái thú khổng lồ trông rất khủng khiếp nhe nanh há miệng muốn nuốt sống ông, cây cối vung cành lá để ngăn cản bước chân ông. Tuy nhiên, Tilopa vẫn vào được tòa lâu đài kỳ ảo đó: vô số phòng ốc bố trí chằng chịt tạo nó thành một mê cung. Tilopa tìm ra được đường đi và đến tòa cung thất của vị nữ chúa. Vị nữ chúa ngồi ở đó trên ngai vàng, với vẻ đẹp siêu phàm tuyệt tục, trang phục cực kỳ lộng lẫy, mỉm cười chào đón vị anh hùng phiêu lãng khi ông ta vừa bước qua ngưỡng cửa. Thế nhưng Tilopa không bị vẻ đẹp của vị nữ chúa và ngoại cảnh làm cho dao động, ông cứ bước thẳng lên ngai vàng, miệng vẫn lâm râm đọc mật chú, vất vương miện của nữ chúa xuống đất, lấy chân đạp lên, xé toạc chiếc hoàng bào mạ vàng lấp lánh; khi vị nữ chúa đã hoàn toàn trần truồng, ông liền cưỡng hiếp nàng ngay trên ngai vàng. Chinh phục được một Dâkini bằng cách cưỡng hiếp hoặc bằng huyền thuật là chủ đề phổ biến trong nền văn học Mật tông Tây Tạng. Đó là một ẩn dụ nói về sự chinh phục chân lý và là một tiến trình phát triển tâm linh. Tilopa truyền pháp cho Narota(3), và Marpa - môn đồ của Narota - là người truyền bá giáo lý của Tilopa vào Tây Tạng. Đệ tử trác việt của Marpa, là nhà thơ khổ hạnh Milarespa(4), đã kế thừa pháp thống và truyền cho Tagpo Lhadji, rồi cứ tiếp tục truyền thừa cho đến ngày nay. Tiểu sử của đạo sư Narota, pháp tự của Tilopa, đã phác họa nên một bức tranh lý thú nhưng không kém phần phóng túng về quá trình “thuần hóa” môn đồ của một đạo sư pháp môn “Đốn ngộ” (Sentier direct) hay “Con đường tắt”. Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng và luôn được kể lại cho các naldjorpa(5) trẻ tuổi để họ noi gương học tập. Narota sinh vào thế kỷ thứ mười tại Cachemire(6). Ông là con trai trong một gia đình Bà La môn, kiến thức rất uyên bác và là một cao thủ về huyền thuật. Ông làm pháp sư chánh tế cho một vị tiểu vương (rajah). Một hôm vị tiểu vương xúc phạm đến ông, và Narota quyết tâm báo thù. Ông khép mình trong một tòa lâu đài biệt lập, và lập một đàn tràng huyền thuật hình tròn gọi là kyilkhor để giết chết vị tiểu vương. Khi ông chuẩn bị thi triển huyền thuật thì một thiên nữ Dâkini bất ngờ xuất hiện, hỏi ông có biết cách tiếp dẫn một “linh hồn” đi về cảnh giới cực lạc, sau đó đưa hồn về nhập lại xác để hồi sinh hay không. Vị cao thủ huyền thuật này buộc lòng phải thú nhận rằng trình độ của ông còn xa lắm mới đạt đến mức đó. Thiên nữ Dâkini bèn mắng nhiếc ông thậm tệ. Bà chỉ cho ông thấy rằng ta không được quyền hủy hoại những gì ta không có khả năng khôi phục, và tuyên bố hành động hận thù thiếu cân nhắc của ông sẽ khiến ông tái sinh trong hỏa ngục. Narota hoảng sợ nên cầu xin một pháp môn giúp ông thoát khỏi số phận kinh khủng đó. Thiên nữ liền khuyên ông nên đi tìm đạo sư Tilopa để cầu xin truyền thụ pháp môn “Đốn ngộ”, là pháp môn thù thắng vi diệu giúp ta tiêu trừ mọi nghiệp báo và đạt quả vị Niết bàn ngay trong đời này. Nếu Narota thấu triệt được pháp môn này và tu thành chánh quả thì ông sẽ thoát khỏi sinh tử luân hồi, có nghĩa là thoát khỏi cảnh đọa đày trong địa ngục. (Hình bên trái: Narota / ảnh: Việt Nalanda Foundation) Narota liền dẹp bỏ đàn tràng kyilkhor, rồi vội vã lên đường đi đến Bengale là nơi Tilopa đang sống. Lúc đó Tilopa là một đạo sư tiếng tăm vang dội. Sau khi đắc pháp, ông trở thành một nhà tu khổ hạnh avadhoutâ. Đó là loại khổ tu được mô tả là: “tâm không còn yêu ghét, không quan tâm đến vinh nhục, xả ly tất cả, đoạn tuyệt hoàn toàn với gia đình, xã hội và tôn giáo.” Trái lại, Narota thuộc dòng dõi Ấn Độ giáo chính thống, bẩm sinh đã là giai cấp Bà la môn quý tộc thượng lưu. Sự kết hợp hai nhân cách hoàn toàn trái ngược nhau đã làm phát sinh một vở tuồng hài hước, nhưng là một tấn kịch cay đắng cho Narota. Buổi hội kiến đầu tiên giữa Narota với vị đạo sư tương lai diễn ra trong một tu viện Phật giáo. Lúc đó, Tilopa gần như trần truồng, ngối xổm dưới đất ăn cá, vứt một đống xương bên cạnh. Vì không muốn kẻ ăn xin bẩn thỉu kia làm ô uế đến sự thanh khiết của giai cấp mình, Narota liền đi vòng để tránh xa. Lúc đó, một vị Tăng từ trong nhà bếp bước ra quở trách Tilopa đã phạm tội sát sinh trong khuôn viên nhà chùa. Vừa nói, vị Tăng vừa ra hiệu cho Tilopa cút đi. Tilopa không thèm trả lời, mà huơ tay một cái rồi đọc câu mật chú, đống xương cá kia lập tức hồi phục lại phần thịt để trở lại thành một đàn cá, rồi nhảy tung lên không biến mất. Bữa ăn sát sinh tàn bạo kia không lưu lại một dấu vết gì, còn Tilopa thì đi xa mất. Narota sững sờ kinh ngạc, một ý tưởng vụt lóe lên trong đầu ông. Kẻ hiển lộ thần thông kia hẳn phải là Tilopa mà ông đang tìm kiếm. Narota vội vàng hỏi thăm và biết ngay trực giác mình đã đúng. Ông gấp rút đuổi theo vị hành giả du già (yogi) kia, nhưng ông ta đã bặt tăm. Từ đó, Narota bắt đầu một loạt các chuyến viễn du, mà những người viết tiểu sử ông luôn thêm thắt điểm tô thêm, nhưng cơ bản là có thực. Người môn đồ tự nguyện cứ theo đuổi Tilopa từ nơi này sang nơi khác. Mỗi khi nghe tin Tilopa ở nơi nào là ông lập tức tìm đến, nhưng lần nào cũng vậy, hễ ông đến nơi thì Tilopa vừa mới bỏ đi. Nhiều khi Narota gặp được Tilopa một cách tình cờ, song thực ra đó là những ảo ảnh do Tilopa dùng thần thông biến hiện để thử thách vị môn đồ. Một hôm, Narota đến gõ cửa một ngôi nhà bên đường để khất thực. Chủ nhà bố thí cho ông một vò rượu, nhưng ông từ chối vì một tu sĩ Bà la môn không được quyền uống rượu. Ảo cảnh lập tức tan đi, ngôi nhà biến mất, chỉ một mình ông đứng cô đơn giữa đường, trên không nghe vọng lại tiếng cười chế nhạo của Tilopa: “Chính là ta đó!”. Một lần khác, khi một người dân làng nhờ ông giúp lột da một con vật chết. Ở Ấn Độ, đây là công việc của giai cấp paria hạ tiện. Đối với một tu sĩ Bà la môn, chỉ cần đến gần những người thuộc giai cấp đó cũng đủ để bị ô uế rồi. Narota vội bỏ chạy, trong lòng cảm thấy ghê tởm và phẫn nộ. Ông lại nghe đạo sư Tilopa cười nhạo từ cõi vô hình: “Chính là ta đó!”. Một ngày khác, Narota thấy một người đàn ông đang nắm tóc bà vợ đánh đấm túi bụi, bà này gào khóc kêu cứu. Thấy ông đi tới, gã kia kêu lên: “Đây là vợ tôi, tôi muốn giết mụ ta, tới giúp tôi một tay, không thì đi tránh giùm cho”. Narota nổi giận xông tới giằng gã đàn ông ra, đánh cho y một trận thừa sống thiếu chết để cứu người phụ nữ. Lần này, ông lại nghe tiếng đạo sư Tilopa cười khinh bỉ: “Chính là ta đó!”. Các cuộc phiêu lưu khác tiếp theo của Narota cũng tương tự như vậy. Dù là một cao thủ huyền thuật, nhưng Narota vẫn không sao lường được cảnh tượng biến ảo khôn lường do Tilopa bày ra. Ông muốn điên cả đầu, thế nhưng khát vọng tìm cho được Tilopa để làm lễ bái sư càng thôi thúc ông mãnh liệt. Narota lang thang khắp xứ sở, lớn tiếng kêu gọi tên vị đạo sư thần bí; vì biết rằng vị đạo sư kia có thể hóa thân thành mọi hình tướng, nên ông sẵn sàng quỳ phủ phục dưới chân của mọi khách qua đường để lễ bái. Một buổi chiều nọ, Narota đến một nghĩa trang. Một bó củi nằm lăn lóc ở một góc, thỉnh thoảng có ngọn lửa lóe ra, giữa các thanh củi cháy dở là một xác người co quắp cháy đen. Nhờ ánh lửa, Narota thấy loáng thoáng có một người nào đó nằm dài dưới đất. Ông xem kỹ lại thì thấy người kia đang nhìn ông mỉm cười tinh quái. Narota vụt hiểu ngay, ông liền quỳ mọp xuống và đặt bàn chân của sư phụ lên đầu. Lần này thì Tilopa không biến mất nữa. Suốt bao nhiêu năm, Narota đi theo hầu hạ mà vị sư phụ lại không hề dạy cho đệ tử một chữ nào.Trái lại, Narota lại tỏ ra hết lòng tuân mệnh và tin tưởng thầy tuyệt đối, dù phải chịu đựng vô vàn điều thử thách. Tôi xin kể lại một vài điều. Theo tập quán của những những khổ tu Ấn Độ, thì hàng ngày Narota phải đi khất thực và trở về với bình bát chứa cơm, canh. Ông dâng bình bát lên cho sư phụ, và theo giới luật, ông chỉ được ăn sau khi đạo sư (gourou) của mình đã ăn no. Tilopa ăn hết sạch và bảo rằng thức ăn ngon quá nên muốn ăn thêm. Không đợi thầy nói thêm, Narota đã vội vã ôm bình bát đến nhà vị thí chủ tốt bụng để xin thêm. Đến nơi thì ông thấy cửa đã đóng, nhưng vị môn đồ kia không nản chí. Ông phá cửa, đi vào nhà bếp thì thấy vẫn còn cơm canh vẫn còn trên lò lửa, liền múc thêm cơm canh cho đúng với sở thích của sư phụ. Đúng lúc đó vị chủ nhà quay trở về, bèn cho ông một trận đòn ra trò khiến mặt mày thâm tím. Narota cố lết thân về gặp Tilopa, nhưng vị sư phụ chẳng thèm ngó ngàng gì đến gã đệ tử đáng thương, mà chỉ buông một câu khinh khỉnh: - Vì ta mà ngươi phải chịu đựng bao điều khổ cực. Chắc ngươi rất hối hận vì đã làm đệ tử ta phải không? Dù thân thể đau đớn như dần, Narota đáng thương vẫn cố lấy hết sức để thề rằng ông hoàn toàn không hề hối hận khi nhận Tilopa làm sư phụ. Ông cho rằng được làm môn đồ của đạo sư như Tilopa phải trả một giá rất đắt, có khi bằng cả sinh mạng. Một lần khác khi đi cạnh một ống cống lộ thiên, Tilopa quay sang hỏi các đệ tử cùng đi với mình: - Nếu ta yêu cầu thì ai trong số các ngươi dám uống nước cống này? Vấn đề không chỉ là vượt qua được cảm giác tởm lợm, mà còn phải chịu đựng sự uế tạp, một điều rất nghiêm trọng đối với tu sĩ thuộc đẳng cấp Bà la môn. Trong khi các đệ tử khác còn đang do dự thì Narota đã bước tới để uống thứ nước cống kinh tởm kia. Thử thách sau đây càng dã man hơn nữa. Hai thầy trò sống trong một thảo am ở bìa rừng. Một hôm, khi đi khất thực ở làng về, Narota thấy trong lúc ông vắng mặt, Tilopa đã vót một số xiên tre và đang trui chúng trên lửa. Narota ngạc nhiên, liền hỏi sư phụ mình dùng thứ đó để làm gì. Tilopa mỉm cười đầy ý nghĩa, rồi hỏi: - Nếu bị ta bắt buộc thì liệu ngươi có chịu đau nổi không? Narota liền trả lời rằng ông đã tận hiến cho sư phụ nên sư phụ muốn làm gì tùy thích. - Vậy thì hay lắm - Tilopa ra lệnh - ngươi hãy chìa tay ra đây. Narota ngoan ngoãn vâng lời. Tilopa liền dùng các xiên tre đang nóng đâm vào từng móng tay, móng chân của Narota. Bỏ mặc tên đệ tử đang quằn quại đau đớn trong thảo am, Tilopa thản nhiên bỏ đi ra ngoài và dặn Narota cứ nằm đó chờ ông về. Mấy ngày hôm sau, vị đạo sư tàn nhẫn kia mới quay về. Ông thấy gã đệ tử đang ngồi xổm trong lều, các xiên tre vẫn còn đâm sâu vào da thịt. Tilopa cất tiếng hỏi: - Mấy ngày qua sống một mình, ngươi suy nghĩ những gì? Giờ đây có phải ngươi đang nghĩ rằng ta là một gã sư phụ mất hết nhân tính và tốt nhất là nên bỏ đi, có đúng vậy không? Narota liền đáp: - Con đang nghĩ đến cuộc sống khủng khiếp đang chờ con ở địa ngục, nếu như con không có cơ duyên được gặp sư phụ để học pháp môn “Đốn ngộ”, giúp con chứng ngộ và giải thoát khỏi sinh tử luân hồi. Tôi xin kể thêm một thử thách hài hước khác nữa. Tilopa đang cùng môn đồ đi dạo thì gặp một đám rước cô dâu. Vị đạo sư liền ngoảnh mặt hỏi các môn đồ: - Trong các ngươi đây, ai có thể cướp được cô dâu đem đến cho ta? Ta thích cô ta. Một lần nữa, trước khi Tilopa dứt lời, Narota đã xông tới đám rước. Đoàn người trong đám rước nhận ra đó là một vị tu sĩ Bà la môn nên ngỡ rằng ông ta đến để ban phước cho cô dâu. Nhưng khi thấy Narota nắm lấy cô dâu toan dắt đi thì nào gậy gộc, nào guốc dép, nào hộp đựng lễ vật thi nhau đập tới tấp lên người Narota. Và vị môn đồ nhiệt tình kia một lần nữa lại nằm im bất động tại chỗ sau trận đòn chí mạng. Ngay sau khi hồi tỉnh, ông đã vội lê bước một cách khó nhọc theo Tilopa. Vị đạo sư quái dị vẫn chào đón ông bằng câu nói quen thuộc sau mỗi lần thử thách: “Ngươi có hối hận không?” Và cũng như mọi lần, Narota khẳng định dù phải có chết muôn vạn lần ông vẫn cầu mong được làm đệ tử Tilopa. Tiếp theo đó, ông phải nhảy xuống từ mái nhà cao, băng qua lò lửa, và hoàn thành nhiều điều thử thách lạ thường suýt mấy lần khiến ông mất mạng. Sau một chuỗi dài những khổ đau, cuối cùng Narota đã được bù đắp công lao, nhưng không phải bằng hình thức điểm đạo hay truyền pháp thông thường. Nếu chúng ta tin vào truyền thống thì Tilopa đã sử dụng một phương pháp khai ngộ dị thường. Một điều chắc chắn là mặc dù không được Tilopa trực tiếp chỉ giáo trong giai đoạn nhập môn, nhưng Narota vẫn tiếp nhận được một số giáo lý thù thắng của sư phụ. Sự kiện ông chứng ngộ được tả như sau: Narota đang ngồi bên đống lửa ở giữa trời với sư phụ, thì Tilopa không nói không rằng, bất ngờ cổi giày quất vào mặt ông một cái trời giáng khiến vị đệ tử tối tăm mặt mày, mắt nổ đom đóm, nhưng đúng lúc đó ông hoát nhiên đại ngộ diệu pháp “Đốn ngộ” thượng thừa. Narota có rất nhiều đệ tử, nhưng đúng theo truyền thống, ông không thử thách hay gây khổ đau cho đệ tử như ông đã từng trải qua. Sau khi trở thành một đạo sư lỗi lạc, Narota dành nhiều năm (có tài liệu nói là mười hai năm liên tục) để thiền định và đạt được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác (Mtchog gi ngos grub), như Đức Phật. Khi về già, ông lui về Hy Mã Lạp Sơn sống ẩn tu. Narota nổi tiếng ở Tây Tạng với tư cách là gourou của Marpa, và Marpa là sư phụ của nhà thơ thánh tăng khổ hạnh Milarespa, mà cuộc đời cùng những bài thơ còn được truyền tụng mãi mãi trong lòng người Tây Tạng. Nếu Narota dịu dàng với đệ tử thì Marpa lại khác hẳn. Ông đày đọa Milarespa suốt mấy năm trời, không biết bao nhiêu lần ông bắt Milarespa xây nhà xong, ông đập phá và bắt phải xây lại. Milarespa phải một mình đào đá và khuân trên vai để đi đến chỗ xây nhà. Đá nặng làm bong da, gây nhiễm trùng lở loét cả đôi vai, nhưng người cha tinh thần của kẻ lao động nhọc nhằn kia lại không hề nhận thấy sự tàn bạo của mình. Bà vợ thương Milarespa như đứa con mình, nên bà ta với nước mắt đoanh tròng, trách cứ đức ông chồng sao quá nhẫn tâm. Ông này bèn cho phép gã đệ tử khố khổ kia lót thêm một miếng vải dạ trên vai để giảm bớt đau cho vết thương khi khuân đá. Ở Tây Tạng thì người ta chỉ làm điều này với những con vật thồ. Ngôi nhà do Milarespa xây ngày nay vẫn còn ở Lhobrag, thuộc miền Nam Tây Tạng. Người Tây Tạng luôn cho rằng những câu chuyện này đều trung thực tuyệt đối mà không mảy may nghi ngờ gì cả. Nếu không thể sánh được đức tin với họ thì tốt nhất là chúng ta nên xem tất cả những cuộc phiêu lưu lạ thường của những đệ tử nhập môn cùng những sự cố khó tin đó chỉ thuần là hư cấu. Tâm hồn người Tây Tạng vẫn không có gì biến đổi kể từ thời Marpa ở thế kỷ thứ mười. Tôi đã gặp rất nhiều Lạt ma mà cuộc đời chỉ là bản sao của đời sống nội tâm và phong tục tập quán ở xứ sở họ, giống hệt như sách vở mô tả, chính xác đến tận từng chi tiết nhỏ nhất. Những đệ tử nhập môn muốn tầm sư học đạo, nếu không có được nhiệt tình và lòng tin tuyệt đối như Marpa hay Milarespa - vì đó là trường hợp đặc biệt ngoại lệ, thì ít ra cũng phải sẵn sàng hy sinh và đón nhận những chuyện dị thường, và thế là cuốn tiểu thuyết lạ lùng kia lại được lặp lại từng ngày, ở khắp bốn phương trong cái “Xứ Tuyết” này. Bị tác động bởi sự sợ hãi, bởi sự hoang mang xao xuyến bủa vây trong tâm hồn trong thời gian bị thử thách quyết tâm, hoặc bởi những chuyến viễn du dài dằng dặc qua những vùng hoang liêu cô tịch, nên những người đệ tử nhập môn tìm đến thế giới ẩn tu của vị sư phụ mà họ chọn lựa, trong một trạng thái tinh thần khác người. Vẻ ảm đạm hoang liêu của nơi ẩn tu cũng như danh tiếng về huyền thuật của những vị thầy đó đã gây ấn tượng sâu đậm lên tâm hồn người đệ tử, và không còn nghi ngờ gì nữa, cái tâm hồn đó đang khát khao đón nhận những phép lạ diễn ra trong từng bước chân đi. Kể từ ngày đó, và trong suốt quãng thời gian tu tập tâm linh về sau, người đệ tử sẽ liên tục sống trong cảnh giới dị thường huyền ảo. Chung quanh anh ta, đất trời đang ôm nhau khiêu vũ, quỷ thần sẽ đem những ảo ảnh kinh khiếp để khủng bố anh ta, và một khi người đệ tử vượt qua được nỗi sợ hãi thì ảo ảnh kia trở nên khôi hài, lố bịch. Những biến cố hãi hùng đến khó tin đó sẽ nối tiếp nhau trong suốt nhiều năm tháng: mười năm, hai mươi năm hoặc nhiều hơn thế nữa. Chúng sẽ đày đọa người đệ tử cho chết đi sống lại, trừ phi đến một ngày nào đó, anh ta bừng tỉnh khỏi cơn ác mộng và hoát nhiên đại ngộ. Đến lúc đó, người đệ tử sẽ đến phủ phục quỳ dưới chân thầy khắt khe kia để nói lời từ biệt mà không xin học thêm gì khác nữa. ======================= (1) Truyền thuyết kể rằng trong một tiền kiếp, Phật đã hy sinh thân mình để được nghe hết một bài kệ về Chánh pháp. Khi quỷ La sát đọc cho Đức Phật nghe hai câu kệ: “Chư hành vô thường, thị sanh diệt pháp”. Đức Phật xin nghe thêm hai câu chót, quỷ ra điều kiện nghe rồi phải hiến thân cho quỷ ăn thịt. Đức Phật nhận lời. Quỷ bèn đọc tiếp: “Sinh diệt diệt dĩ, tịch diệt vi lạc”. Đức Phật nghe xong từ cây cao rơi xuống miệng quỷ. Giai thoại này trong Phật giáo gọi là “Tuyết Sơn bán kệ”. (2) Bản dịch được thực hiện theo nguyên bản tiếng Pháp Mystiques et Magicciens du Tibet, NXB PLON, 1929, các trang 181-192. (3) Narota là tên đúng, nhưng người Tây Tạng lại thường gọi ông là Naropa. (4) Chúng ta thường quen với tên Milarepa hơn (HNC). (5) Theo nghĩa đen là “người đã đạt đến trạng thái thanh tĩnh tuyệt đối”, nhưng đám đông quần chúng lại cho rằng đó là những bậc khổ tu có nhiều pháp thuật. (6) Tiếng Anh Kasmir: chỉ vùng thung lũng phía Nam ở cực Tây của dãy Hy Mã Lạp Sơn (HNC). Nguyệt San Giác Ngộ số 187
-
@anhnk Con Chào chú Thiên Đồng! con là nữ sinh năm bính dần hỏi lúc 15h37 PM Thưa chú con mới mua một cái sim điện thoại dùng để làm kinh doanh, con mua rồi nhưng chưa lắp sim để sử dụng. Con muốn nhờ chú xem giúp ngày 6/8/2012 hoặc ngày (vào giờ sửu (1h00-3h00 AM) 07/8/2012 thì có tốt cho công việc của con không ạ. Nếu tốt thì con nên lắp vào giờ nào và nếu không tốt thì ngày giờ nào con nên lắp sim ạ. Con cảm ơn chú! con hỏi kết thúc lúc 15h43 PM Nên là ngày 6/8/2012, từ 1g40 - 3g40 hoặc 17g40 - 19g40. Chúc tốt lành @ Tiểu Yến Chào chú Thiên Đồng, Nhờ chú xem giúp con 1 quẻ với ạ Câu 1: Từ giờ đến cuối năm, vợ chồng con có tin vui không ạ? Nếu chuyện con cái thì có, còn chuyện tiền bạc thì không. Câu 2: Trong tháng 7, 8 ,9 âm lịch, con có khả năng đi xa (xuất ngoại) không ạ? Chưa thấy khả năng, có gì đó với à nghen! Nếu có thì tháng 10 âm. Công ty cử con đi công tác, tuy nhiên phải ký cam kết vào hợp đồng là phải làm cho công ty 2 năm từ lúc đi. Con có nên đồng ý đi công tác không? Nên đi, có cơ hội mới khi công tác. Câu 3: Vợ chồng con đang muốn mua nhà hoặc đất. Trong năm nay mua có phù hợp không ạ. Cũng chưa mua được. Để từ từ rồi mua. Xuân năm sau. Con tuổi Sửu (1985), chồng con tuổi Tý(1984) Hôm nay ngày 1/8/2012 dương lịch. Đặt câu hỏi lúc 16:04 PM. Kết thúc câu hỏi lúc 16:09 PM Thiên Đồng
-
Thú chơi xưa của người Việt Thứ hai 16/01/2012 15:00 Bằng chứng sớm nhất về các trò chơi của người Việt còn được khắc họa trên trống đồng Đông Sơn. Giữa nhà sàn, có cảnh đôi nam nữ đang ngồi đối diện, hai chân hai tay co lại và chồng lên nhau. Các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian cho rằng đấy là trò “trồng nụ trồng hoa” mà cách đây ít lâu còn tồn tại ở nhiều làng quê. Nhiều hình tượng được khắc họa trên trống cũng có thể là miêu tả ngày hội với đoàn người hóa trang đội mũ lông chim, rồi từng đoàn thuyền nối đuôi nhau như cảnh hội mùa hay hội đua thuyền. Ngay cả trống đồng được phát hiện nhiều như thế, cũng là bằng chứng của ngày hội đúc trống mà sử sách cũng từng ghi lại: đúc được trống thì mời cả làng đến vui chơi, trai gái cầm thoa vàng, thoa bạc để đánh trống rồi trao lại cho chủ nhân. Thú chơi thời này còn in dấu lên tượng tròn như tượng hai người cõng nhau nhảy múa, bước thấp bước cao, tượng người thổi khèn. n Người Việt có nhiều thú chơi nhất có lẽ là vào dịp Tết. Khi đó cũng là dịp nông nhàn. Tết chính là ngày hội lớn nhất trong năm. Rồi những ngày hội làng vào dịp Giêng, Hai rước Thành hoàng làng kỷ niệm các thần thánh cũng có mà nhân thần cũng có. Một số ngày hội lớn nữa trong thời xưa mà nay không còn, nhưng được ghi chép trong sách “Đại Việt Sử Ký toàn thư” (còn gọi là “Toàn Thư”). Đó là hội đèn Quảng Chiếu ở Long Trì, kinh đô Thăng Long vào năm Canh Tý, 1120 và Bính Ngọ, 1126 dưới triều vua Lý Nhân Tông, kéo dài tới 7 ngày đêm, đại xá cho cả các tội nhân. Văn bia chùa Đọi còn mô tả không khí ngày hội: “Hai bên nghìn đèn nhấp nháy, bốn mặt rực rỡ vàng son. Có thể gọi là hơn xa chế độ xưa nay, vượt hẳn sinh thành tạo hoá. Dồn thú vui của thiên hạ, đêm trở thành ngày. Thoả tâm mục của thế gian, già nay trẻ lại”. Thưởng ngoạn hội đèn đầu Xuân quả là một thú chơi thanh tao bậc nhất, có lẽ còn hơn cả thú ngắm đèn trong đêm Trung thu sau này. Một ngày hội nữa cũng mang tầm quốc gia, đó là sinh nhật vua Lý. Vào năm 1123, tổ chức sinh nhật ở cửa Quảng Phúc phía tây Hoàng thành có hát chèo, kèn sáo ca múa tưng bừng, có cả nhà hát múa lưu động có bánh xe đẩy đi, trên xe có vũ nữ múa hát. Thời Lý sùng đạo Phật, nên những dịp khánh thành tượng Phật đều mở hội lớn. Ví như năm 1036, tháng Giêng mở hội Long Trì khánh thành tượng Phật Đại Nguyện. Thư tịch còn ghi lại, vào thời Trần, vua ngự trên lầu Đại Hưng, tức ở khu vực Cửa Nam, Hà Nội ngày nay để xem hoàng tử và nội thị ném quả Tú Cầu vào ngày mùng ba Tết. Đấy chính là tục ném còn của đồng bào miền núi được ảnh xạ vào một thú chơi cung đình. Đấu vật, chụp năm 1911. Cũng do “Toàn Thư” ghi lại năm 1117, mà ta biết được có những trò chơi của người Việt xưa rất phổ biến, nhưng chiếu vua ban ra là phải cấm như trò “Tàng Câu”. Đó là trò chơi tìm vật giấu trong nắm tay, tương tự như trò chơi “tay nào có tay nào không”. Cũng vậy, qua nguồn thư tịch mà ta biết được những trò chơi mà người Việt rất thích là chọi gà (ghi trong “Hịch tướng sĩ”), bắn nỏ, chơi cầu. Bên cạnh những thú đi xem hội mang tầm cỡ quốc gia ở kinh đô, thì người Việt mở hội cấp làng xã quanh năm. Mà hội nào cũng có nhiều trò chơi dân gian như đánh đu, kéo co, đánh cờ người, đấu vật, múa sư tử, chơi đèn kéo quân, chọi gà, đánh tổ tôm tam cúc, thả diều, xem hát tuồng, chèo, quan họ, xin chữ Nho đầu Xuân... Cái thú vị của các hội làng là thường mang dáng vẻ riêng, tích chuyện riêng và cũng có những trò chơi mang sắc thái cội nguồn. Tại vùng đất Tổ Phú Thọ, thường diễn ra những trò độc như trò “Nõ Nường” ở xã Tứ Xã, huyện Lâm Thao. Dân làng làm một mô hình dương vật và âm vật rất to, rồi cử trai làng và gái làng cầm lấy đâm vào nhau thể hiện sự giao phối, sinh sôi nảy nở, có cội nguồn từ tục sinh thực khí thời Hùng Vương mà rõ nét là tượng các cặp nam nữ đang giao hoan trên thạp đồng Đào Thịnh. Trong trò diễn “đập trâu, chém lợn” ở xã Xuân Quang, huyện Tam Thanh, lại phảng phất tục lệ đâm trâu ở Tây Nguyên và hình ảnh lễ đâm trâu bò có trên trống đồng. Quanh vùng Thăng Long xưa cũng có nhiều hội làng và trò diễn quanh năm, trong đó có một số lễ hội tập trung vào dịp Tết với những trò chơi truyền thống, mang đậm bản sắc dân tộc. Sau dịp Tết và mùa Xuân, các hội cũng ít đi cùng với các trò chơi dân gian. Các thú chơi của người Việt trong hội hè và văn hóa dân gian được chắt lọc nghìn đời từ vốn di sản phi vật thể, lại được bổ sung bằng một kho tàng di sản vật thể quý giá. Đó là hàng trăm tác phẩm tạo hình bằng gốm sứ, bằng chạm khắc trên gỗ trong các công trình kiến trúc tôn giáo, tầm cỡ quốc gia có, mà tầm cỡ làng xã cũng có. Bổ sung vào đó lại là nhiều bức ảnh kịp ghi những khoảnh khắc của các thú chơi cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, khi mà nghệ thuật chụp ảnh mới chập chững bước chân vào xã hội Việt. Chèo thuyền, đình Phù Lưu, Bắc Ninh đầu thế kỷ 17. Chúng ta có thể thấy một trong những thú chơi thanh cao của người Việt là thưởng thức âm nhạc và múa. Trên các thành bậc bằng đá ở tháp Chương Sơn hay trên chân cột tháp Long Đọi có khắc hình các vũ nữ Apsara đang múa dâng hoa, chứng tỏ vào thời Lý, người Việt rất hâm mộ các điệu múa ảnh hưởng văn minh Ấn Độ thông qua kênh văn hóa Chăm. Hình ảnh 10 nhạc sĩ trong dàn nhạc được khắc trên đá tảng chùa Phật Tích. Người thì cầm trống cơm, người thì cầm nhị, sáo, tiêu, đàn tỳ bà, phách... Cũng hình tượng nghệ sĩ múa dâng hoa còn thấy được chạm khắc ở chùa Thái Lạc, thời Trần. Tại đây còn thấy được mảng chạm một người đàn ông gẩy đàn tranh ở giữa hai người phụ nữ chơi đàn tỳ bà và đàn tam. Qua các mảng chạm khắc của thời Lê Mạc và Lê Trung Hưng, các thú chơi của người Việt được thể hiện hết sức phong phú trong đình và chùa. Đình Tây Đằng có cảnh làm xiếc, đấu thú, trai gái tình tự ôm cổ nhau, chèo thuyền uống rượu. Một số thú chơi khác cũng được khắc chạm như đấu võ, đấu vật, săn thú, chọi gà, chơi cờ, chèo thuyền, uống rượu, đá cầu, hút thuốc lào với điếu bát, múa và chơi nhạc dân dã. Một điều đáng ngạc nhiên nữa là người Việt vào thời này cũng rất... sexy, khi chạm cả cảnh người phụ nữ khỏa thân hay giao hợp nam nữ. Đó là cảnh 3 cô gái tắm truồng trong hồ sen trên gạch trang trí của đền Sấu Giá. Tại đền Đệ Tam thì có cảnh ba cô gái khỏa thân tay che phần kín bên dưới, trong lúc người đàn ông áo thụng dài nắm tay cô gái, tay kia thì bóp vú. Mạnh bạo hơn nữa là bức chạm tại đình Diềm miêu tả cảnh một người đàn ông thò tay sờ phần dưới cô gái hoặc đình Phù Lão có cảnh người đàn bà nằm ngửa, váy cuộn lên ngực, hai chân co quắp lấy lưng người đàn ông nằm trên. Tại bia chùa Ông, chùa Thổ Hà, chùa Tứ Liên thì có bức chạm chân dung khỏa thân của một cô gái. Các hoạt cảnh này cũng nói lên một nét phồn thực nào đó trong thú chơi của người nông dân đồng bằng Bắc Bộ, suy cho cùng cũng là cầu mong cho mùa màng tốt tươi. Vào thời Nguyễn thì mảng chạm khắc dân dã đầy sức sống dường như không còn tồn tại, mà thay vào đó lại thấy các thú chơi tao nhã như cảnh uống rượu, chơi cờ, câu cá thể hiện ở chạm khắc gỗ cũng như vẽ trên gốm sứ. Với các nguồn tài liệu nói về thú chơi của người Việt, chúng ta càng thấy rằng cha ông ta có một cuộc sống tinh thần hết sức phong phú, lạc quan yêu đời của một cư dân nông nghiệp trồng lúa nước và đã để lại cho con cháu một kho di sản vô giá và đầy bản sắc. Trịnh Sinh ============================ Trò chơi chèo thuyền của người Việt cũng giống cheo thuyền của Ai Cập và trên trống đồng cũng như bích họa Ai Cập cũng thể hiện hình thuyền. Thiên Đồng
-
Bí ẩn các biểu tượng Ai Cập cổ đại Dù luôn có một bức màn bí mật bao quanh niềm tin tôn giáo của người Ai Cập, chúng ta vẫn phải thừa nhận rằng người Ai Cập cổ đại luôn bị ám ảnh bởi các ngôi sao. Những vị thần đứng đầu được đồng nhất với các ngôi sao sáng nhất. Các kim tự tháp được trang trí với các ngôi sao và được mô phỏng theo nguyên mẫu của bầu trời. Mục đích duy nhất của họ là hy vọng sau khi chết sẽ được về cõi vĩnh hằng, được về với thần mặt trời và các ngôi sao bất diệt. Rõ ràng, niềm tin tôn giáo của người Ai Cập là rất khó nắm bắt, và mọi chuyện sẽ sáng tỏ chỉ đến khi chúng ta có được những hiểu biết sâu hơn về niềm tin tôn giáo liên quan đến các ngôi sao của họ. 1. Horus Trong tín ngưỡng của người Ai Cập cổ, mặt trời được đồng nhất với thần Horus, mặt trăng với thần Thoth, chòm Orion với thần Osiris, sao Sirius với thần Isis, và các ngôi sao xuất hiện ở chân trời được coi là những ngôi sao bất diệt. Chúng ta sẽ bắt đầu với việc phân tích tục thờ cúng thần Horus Các vị thần đã xuất hiện ngay từ bình minh của lịch sử Ai Cập. Horus là một trong số đó và vị thần này xuất hiện mọi nơi trong tín ngưỡng của người Ai Cập cổ đại. Bản thân Pharaoh cũng được cho là hiện thân của thần nên niềm tin phản ánh trong cái tên Horus được tạo ra bởi những người trị vì đầu tiên từ triều đại đầu tiên. Horus được coi là một vị thần hoàn hảo mặc dù không có sự nhất trí về nguồn gốc của vị thần này. Horus là vị thần hội tụ được mọi quyền lực. Câu hỏi được đặt ra: đâu là thực thể vũ trụ có thể giải thích tốt nhất cho những quyền năng của Horus trong tôn giáo Ai Cập? Một cuộc khảo sát trong giới học thuật về vấn đề này cho thấy nhiều người quan niệm rằng Horus được đồng nhất với mặt trời. Trong khi đó, các nhà Ai Cập học hàng đầu đã phát triển những luận cứ rằng vị thần này được đồng nhất với sao Kim, với ngôi sao Sirius và với bầu trời rộng lớn. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng những lý giải trên là không chính xác và không đúng hướng khi chúng phản ánh phương pháp tiếp cận còn nhiều khiếm khuyết đối với tín ngưỡng về các ngôi sao của người Ai Cập, đó là việc cố gán những miêu tả cổ đại về các thực thể vũ trụ nổi bật với sự xuất hiện của hệ mặt trời hiện nay. Phương pháp luận sai lầm cùng với lối suy nghĩ không rõ ràng trong giới Ai Cập học hiện đại được thể hiện trong phát biểu của Rudolf Anthes: “ Horus là một ngôi sao và cũng là mặt trời, cũng có thể là mặt trăng. Dường như vị thần này là thực thể vũ trụ hiển hiện rõ ràng cả ngày lẫn đêm”. Hoạt động thờ cúng thần Horus đã có từ thời Tiền triều đại (điều này được ghi lại trong ngôi mộ của Abydos, 3200 trước CN). Những người cai trị vương triều Naqada I đã thờ cúng vị thần đầu chim Ó này trước cả khi thống nhất Ai Cập. Các vị thần đã xuất hiện ngay từ bình minh của lịch sử Ai Cập. Horus là một trong số đó và vị thần này xuất hiện mọi nơi trong tín ngưỡng của người Ai Cập cổ đại. Bản thân Pharaoh cũng được cho là hiện thân của thần nên niềm tin phản ánh trong cái tên Horus được tạo ra bởi những người trị vì đầu tiên từ triều đại đầu tiên. Horus được coi là một vị thần hoàn hảo mặc dù không có sự nhất trí về nguồn gốc của vị thần này. Horus là vị thần hội tụ được mọi quyền lực. Câu hỏi được đặt ra: đâu là thực thể vũ trụ có thể giải thích tốt nhất cho những quyền năng của Horus trong tôn giáo Ai Cập? Một cuộc khảo sát trong giới học thuật về vấn đề này cho thấy nhiều người quan niệm rằng Horus được đồng nhất với mặt trời. Trong khi đó, các nhà Ai Cập học hàng đầu đã phát triển những luận cứ rằng vị thần này được đồng nhất với sao Kim, với ngôi sao Sirius và với bầu trời rộng lớn. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng những lý giải trên là không chính xác và không đúng hướng khi chúng phản ánh phương pháp tiếp cận còn nhiều khiếm khuyết đối với tín ngưỡng về các ngôi sao của người Ai Cập, đó là việc cố gán những miêu tả cổ đại về các thực thể vũ trụ nổi bật với sự xuất hiện của hệ mặt trời hiện nay. Phương pháp luận sai lầm cùng với lối suy nghĩ không rõ ràng trong giới Ai Cập học hiện đại được thể hiện trong phát biểu của Rudolf Anthes: “ Horus là một ngôi sao và cũng là mặt trời, cũng có thể là mặt trăng. Dường như vị thần này là thực thể vũ trụ hiển hiện rõ ràng cả ngày lẫn đêm”. Hoạt động thờ cúng thần Horus đã có từ thời Tiền triều đại (điều này được ghi lại trong ngôi mộ của Abydos, 3200 trước CN). Những người cai trị vương triều Naqada I đã thờ cúng vị thần đầu chim Ó này trước cả khi thống nhất Ai Cập. Dựa vào bằng chứng về những cái tên này, có thể thấy rằng Horus ngay từ đầu đã được xem như một ngôi sao đầy quyền lực, ngôi sao nổi bật nhất trên bầu trời. Tuy nhiên, những cái tên trên là chưa đủ để chỉ ra chính xác thực thể vũ trụ mà Horus đại diện trong giai đoạn này. Bên cạnh việc Horus được xem như có nguồn gốc từ một ngôi sao, còn có những bằng chứng về việc vị thần này được coi trọng như một chiến binh quyền năng cũng từ rất sớm. Điều này xuất hiện trong văn tự về một lời thần chú của Nữ hoàng Neith trong Kim tự tháp của chính bà: “Bay tới bầu trời giữa những ngôi sao, những ngôi sao sẽ ẩn nấp và sợ hãi trước Người, vì Người là Horus của Duat… Người sẽ tấn công và quét sạch chúng tại chiếc hồ, tại địa ngục. Người sẽ đứng trước các ngôi sao bất diệt và ngồi trên chiếc ngai mà cái chết không thể chạm tới.” Tên của các vị Pharaoh đầu tiên cũng phần nào nói đến sự can đảm của một chiến binh mà Horus mang trong mình. Cái tên Horus của vài vị vua thuộc vương triều thứ I thể hiện sự thống trị về uy quyền của Horus, cùng với đó là sự phản ánh quyền lực của nhà vua trong giai đoạn xây dựng đất nước. Những cái tên như “Chiến binh Horus” (Aha), “Horus hùng mạnh” (Djer) hay “Cánh tay đưa lên của Horus” (Qaa) gợi nhớ tới những biểu tượng mang tính chiến tranh trong những công trình kiến trúc có từ thời dựng nước. Bằng chứng này kết hợp với tên của các lãnh địa thời tiền triều đã cho thấy ngôi sao Horus được hình tượng như một chiến binh dũng mãnh. Những thông tin bổ sung liên quan đến ngôi sao thần thánh Horus được tìm thấy trong những văn tự của kim tự tháp được viết từ khoảng 500 năm sau ( 2300 trước CN). Theo đó, Horus không được xem như thần mặt trời. Trong các bài hát ca tụng vị thần này, Horus được phân biệt rõ ràng với thần mặt trời Re. Chẳng hạn như trong đoạn văn tự sau, Horus (được xem như vị vua đã chết) cầu xin được lên thiên đường để tụ hội với thần Re : “Thần mặt trời Re triệu hồi Người về bầu trời như một Jackal, như người cai quản của hai Enneads, và như Người Horus; thần Re có thể đặt Người là ngôi sao buổi sớm giữa cõi vĩnh hằng”... Horus được gắn với ngôi sao buổi sớm và được miêu tả như “con trai” của thần mặt trời nên vị thần này xuất hiện để đại diện cho một thực thể vũ trụ đặc trưng, có thể là một ngôi sao hay một hành tinh. Để làm rõ nguồn gốc của tập tục thờ cúng Horus, việc nhận biết thực thể vũ trụ được gọi là “Ngôi sao buổi sớm” là cần thiết dù đây không phải là một vấn đề đơn giản nếu chỉ dựa vào những văn tự Ai Cập. Những văn tự đầu tiên được ghi trong Kim tự tháp và các quan tài không bao giờ miêu tả ngôi sao của thần theo một cách nhất định hay như trong thiên văn học khi mà việc nhận diện vị thần này với một ngôi sao nào đó là xác định. Thay vào đó, Horus được đưa lên thiên đường để cai quản các ngôi sao bất diệt ở thế giới bên kia. Nhiều người cho rằng sao Kim chính là ngôi sao được nhắc đến trong cụm từ “Ngôi sao buổi sớm”. Horus vì thế được gắn với sao Kim. Chúa tể của địa ngục Những tên gọi khác nhau của Horus cung cấp sự hiểu biết sâu hơn về đặc tính sao của vị thần này. Một tên gọi phổ biến của vị thần này là Duat, nghĩa là “địa ngục”. Tên gọi Duat được rút ra từ một từ có nghĩa là “bình minh”. Nguồn gốc một tên gọi khác của Horus là Neter Dua có nghĩa là “Ngôi sao buổi sớm”. Nguồn gốc và ý nghĩa của tên gọi Duat cho thấy việc đồng nhất Horus như một ngôi sao bình minh không thực sự liên quan đến vai trò chúa tể địa ngục của vị thần này. Tuy nhiên, trong một đoạn văn tự được khắc trong Kim tự tháp, mối liên hệ giữa Ngôi sao buổi sớm và Duat lại được thể hiện khá rõ ràng: “Ngôi sao của buổi bình minh, Horus của địa ngục, Vị thần Ó, con chim được bầu trời tạo ra..” 2. Đầu và thân của vua Seti I Hàng nghìn năm trước, những người Ai Cập cổ đại đã xây dựng những đền thờ nguy nga cho các vị thần họ tôn thờ và những kim tự tháp đồ sộ để lưu giữ xác ướp của các vị vua, những người được tin rằng có liên hệ với các vị thần và được ban cho sức mạnh phép thuật và tinh thần lớn lao. Mũ đội đầu được dệt (hay còn được gọi là nemes) và râu giả là những đặc điểm thần thánh của các vị thần, đã chỉ ra rằng bức điêu khắc dưới đây là của một Pharaoh. Trên thực tế, tên của Seti I được khắc trên nemes và vòng tròn oval phía sau bức tượng. Bức tượng miêu tả một vị vua trẻ (mặc dù ông ta già hơn tại thời điểm được điêu khắc), đẹp trai, nam tính với một nét mặt điềm tĩnh. Một trong những vị Pharaoh vĩ đại của Ai Cập, Seti là một nhà lãnh đạo quân sự thành công và là người bảo trợ của nghệ thuật. Vị vua này đã tiến hành các cuộc chiến chống lại người Hittites, người Phoenician, người Syria và người Libya. Chiến tranh kết thúc với việc biên giới của Ai Cập được mở rộng tới tận Bắc Phi và vùng Cận Đông. Seti I cho khôi phục các ngồi đền bị quên lãng, trong số đó có một ngôi đền ở Abydos để vinh danh vị thần Osiris và ngôi mộ huy hoàng của chính vị vua này tại Thung lũng các vị vua ở Thebes. 3. Quan tài của vua Horankh Quan tài Ai Cập thời cổ đại lưu giữ xác của một người và Ka (linh hồn) của người đó trong chuyến đi tới cõi vĩnh hằng. Những trang trí bên trong và bên ngoài là để đảm bảo cho sự “tồn tại” của người đã chết. Những hình trang trí đó bao gồm thức ăn, đồ uống, người hầu, một cặp mắt để nhìn mặt trời mọc, những câu thần chú và những hình khác phản ánh niềm tin tôn giáo và các hoạt động xã hội. Các quan tài hình người, được đưa ra trong triều đại thứ XII (1985-1795 trước CN) bắt chước hình dạng của một người được bọc trong một tấm vải và sẽ là vật thay thế cho những thi thể trong trường hợp những cái xác bị mất hoặc bị hủy. Quan tài Dallas có khắc tên của vua Horankh trên đó. Đầu của quan tài được trạm khắc một cách tự nhiên trong khi những màu sắc và râu lại mang ý nghĩa biểu tượng: khuôn mặt màu xanh và bộ râu được tết ngược là những đặc trưng của thần Osiris, chúa tể của địa ngục và là vị thần của sự hồi sinh. Sự dâng hiến của vua Horankh tới thần Osiris còn được khắc trên đế của bức tượng. Vua Horankh sống vào khoảng vương triều thứ XXV (747-656 trước CN), cũng được biết đến như triều đại Khushite hay Nubian. Nubia được đặt dọc sông Nile giữa Aswan ở phía Nam Ai Cập và Khartoum ở phía bắc Sudan. Những người Nubian cổ đại ở đó đã phát triển những vương quốc độc lập và hùng mạnh bắt đầu từ khoảng năm 3100 trước CN và cạnh tranh với Ai Cập trong việc sử dụng sông Nile như một con đường thương mại và trong việc chiếm đất. Khi Ai Cập chiếm Nubian, người Nubian đã tận dụng việc Ai Cập bị chia cắt trong năm 747 trước CN và thống trị nó trong vòng một trăm năm. Phía bên ngoài của quan tài này không có những trang trí hoa văn gợi nhớ đến những quan tài thời kỳ Trung vương quốc (2055-1650 trước CN) và làm rõ việc người Nubian đã học theo những mẫu hình quan tài cổ từ các triều đại trước đó như thế nào. Nguồn: Tạp chí nghiên cứu Châu Phi & Trung Đông Trần Anh Đức
-
Tập ở đâu thì tập nhưng phải hợp cảnh hợp tình. Ví dụ đang trong buổi họp mà có một ai đó đứng lên ca hát múa may...thì chắc chắn bị oánh giá là thần kinh, nhẹ hơn nữa là mất lịch sự. Mới đây trong một buổi nhạc thính phòng tại nhà hát lớn Hà nội, từ đầu buổi với cuối buổi cả dàn nhạc và khán thính giả biết thưởng thức phải cả buổi thót tim vì tiếng vổ tay từ những hàng ghế gọi là...VIP. Lịch sự, vip cỡ nào đâu không thấy chỉ thấy người ta ngầm chê là kém hiểu biết. Hic Thót tim vì... tiếng vỗ tay TT - Khán phòng Nhà hát lớn Hà Nội thật sự được hâm nóng trong suốt ba buổi diễn của dàn nhạc giao hưởng tầm cỡ thế giới Berliner Symphoniker: đêm 14, chiều và tối 15-7.Dàn nhạc giao hưởng Berliner Symphoniker biểu diễn tại Nhà hát lớn Hà Nội - Ảnh: VOV Những ai sở hữu một tấm vé vào cửa Nhà hát lớn ở một trong ba buổi diễn đều có thể mỉm cười với may mắn nho nhỏ của mình vì chương trình không có vé để bán, chỉ dành cho các khách hàng VIP của một hãng viễn thông lớn. Nửa đầu của buổi hòa nhạc trôi qua êm ả, với những bản concerto của Chopin và Rachmaninov. Nhưng đến phần thứ hai của chương trình buổi tối: bản giao hưởng Từ thế giới mới của nhạc sĩ vĩ đại người CH Czech Antonín Dvorák, người yêu nhạc giao hưởng được một phen thót tim cùng các nghệ sĩ bởi... những tiếng vỗ tay của các vị khách mời. Nhạc trưởng người Israel Lior Shambadal của Dàn nhạc giao hưởng Berlin đã giơ tay lên đầy ngạc nhiên khi những tiếng vỗ tay hào hứng vang lên ngay sau khi ông và 66 nhạc công vừa dứt chương đầu tiên của bản giao hưởng, ông xua khẽ hai tay về phía khán giả rồi quay lại dàn nhạc vẻ hơi bối rối. Nhưng kết thúc chương thứ hai, khi tiếng violin réo rắt vừa mảnh đi như một nốt cứa, như nỗi lòng nhớ quê da diết của một người tha hương, thì tiếng vỗ tay lại vang lên dồn dập, phấn khích. Dàn nhạc lẫn ông nhạc trưởng lừng danh đều khó xử, rất nhiều sinh viên, giáo viên nhạc viện ngồi trên những hàng ghế tận tầng 3 cũng “suỵt” rất khẽ, cùng với những cái lắc đầu. Kết thúc chương ba, khi những tiếng flute và tiếng kèn tuba chỉ còn ngân rất khẽ, nhiều người đã bắt đầu đặt tay lên ngực, lại thót tim chờ đợi... tiếng vỗ tay. Quả nhiên, tiếng vỗ tay tiếp tục dậy lên như sấm, kèm theo cả tiếng huýt sáo đầy hàm ý khen ngợi (!?). Nhìn nhạc trưởng và dàn nhạc khổ sở vì thứ âm thanh ồn ào phá vỡ khoảng lặng cần thiết của một đêm nhạc giao hưởng, Quyên - một giảng viên trẻ của ĐH Văn hóa nghệ thuật Hà Nội - và người bạn đi cùng thì thầm với nhau: “Ôi, có cần nhiệt tình đến thế này không”. Chương trình chính kết thúc, trong tiếng vỗ tay cuồng nhiệt, nhạc trưởng ra hiệu cho dàn nhạc tặng khán giả thêm một overture (khúc nhạc mở đầu) quen thuộc, và các khách VIP bắt đầu... vỗ tay theo nhạc, như trong một buổi sinh hoạt văn nghệ tập thể hay một chương trình nhạc trẻ. Nhạc trưởng Shambadal tuyệt vọng đề nghị khán giả ngừng vỗ tay bằng cách điều khiển dàn nhạc chơi chậm và nhỏ lại, tiếng vỗ tay ngừng. Nhưng khi dàn nhạc quay về chơi rộn rã tưng bừng như một overture cần phải thế, tiếng vỗ tay lại rầm rập. Nhạc sĩ Đặng Hữu Phúc - giảng viên Nhạc viện Hà Nội, người từng làm nhạc cho những bộ phim được giải quốc tế như Mùa ổi và Thời xa vắng - phát biểu khi được hỏi về những tiếng vỗ tay... lạc nhịp giữa các chương trình giao hưởng: “Nghệ thuật nào cũng cần công chúng, nghệ thuật biểu diễn càng cần công chúng và cần tiếng vỗ tay. Nhạc giao hưởng từ gần 20 năm nay không còn là món ăn quá xa xỉ trên bàn tiệc tinh thần của một bộ phận công chúng VN, nhưng đúng là để có được những công chúng nghe nhạc giao hưởng thật sự, vẫn còn cần rất nhiều thời gian và công sức đào tạo”. Nhưng ông nói thêm: “Dù sao những đêm diễn như thế này cũng là vô cùng quan trọng, đi nghe lần thứ nhất rồi sẽ có lần thứ hai, và rồi cũng đến lúc họ hiểu ra là khi nào cần vỗ tay. Đến lúc đó, đi nghe nhạc sẽ không bị... thót tim nữa”. THU HÀ
-
Cái thời ấy đã xa rồi...cũng chỉ hơn 20 năm thôi, nhưng bây giờ kể lại thì dường như nó xa lạ, chuyện lạ không thể tưởng đối với các "ten" hay 8X, 9X biết lên mạng lướt web, chát, dùng điện thoại di động, quẹt Ipad, Galaxie, xem phim 3D 4D... mà còn cảm thấy...lạc hậu. ============================ Tem phiếu, xếp hàng thời bao cấp Thời kỳ bao cấp (1976 - 1986) đã lùi xa nhưng ký ức về các tờ tem phiếu, về thời ăn bo bo thay cơm vẫn còn đọng mãi trong tâm trí của những con người thời kỳ đó. Đối với thế hệ trẻ chúng ta, thật khó để có thể hình dung trọn vẹn về giai đoạn lịch sử này. Những gì chúng ta biết được chỉ là qua lời kể của ông, bà, cha, mẹ hay tìm hiểu trên sách báo… Cùng xem chùm ảnh về cảnh xếp hàng mua lương thực thời bao cấp để có cách nhìn rõ ràng hơn, đa dạng hơn về cuộc sống một thời - cuộc sống mà cha, mẹ ta từng trải qua. Những kỷ vật còn lưu giữ lại được rõ ràng nhất là các loại tem phiếu: Tem lương thực được sử dụng khi đi công tác. Với chiếc tem này, ta có thể đổi lấy các loại lương thực như: gạo, sắn, ngô, khoai tây, hạt lúa mỳ... với trọng lượng tương đương ghi trên tem. Phiếu mua chất đốt và tem đường. Với phiếu mua chất đốt thì có thể sử dụng để mua: dầu hỏa, củi, than... Mỗi lần sử dụng, mậu dịch viên sẽ cắt bỏ một ô trên tờ phiếu tương ứng với số lượng mua. Phiếu mua thịt. Đây là phiếu có thể sử dụng được tại các cửa hàng bán thực phẩm mậu dịch quốc doanh trên cả nước. Phiếu mua xăng mô tô, xe máy. Phiếu này được mua theo mệnh giá lít ghi trên phiếu. Tem mua vải. Tem này có thể dùng để mua vải hoặc mua sản phẩm may mặc. Phiếu mua vải. Mỗi năm, trung bình một người dân sẽ được mua khoảng 4m vải (tùy vào từng thời kỳ). Phiếu mua lương thực. Bìa mua phụ tùng xe đạp. Tiếp theo là những hình ảnh về các cửa hàng và cảnh xếp hàng, chờ đợi đổi tem phiếu lấy đồ tiêu dùng: Cửa hàng giày dép. Cửa hàng tạp hóa.
-
@cloudyle Bạn nên tham khảo các phong cách bàn thờ sau đây Bàn thờ theo phong cách Nam bộ. Rất kiêng kị bàn thờ theo như dưới đây: Thiên Đồng
-
@anhnk Con Chào chú Thiên Đồng! con là nữ sinh năm bính dần hỏi lúc 15h37 PM Thưa chú con mới mua một cái sim điện thoại dùng để làm kinh doanh, con mua rồi nhưng chưa lắp sim để sử dụng. Con muốn nhờ chú xem giúp ngày 6/8/2012 hoặc ngày (vào giờ sửu (1h00-3h00 AM) 07/8/2012 thì có tốt cho công việc của con không ạ. Nếu tốt thì con nên lắp vào giờ nào và nếu không tốt thì ngày giờ nào con nên lắp sim ạ. Con cảm ơn chú! con hỏi kết thúc lúc 15h43 PM Nên là ngày 6/7/2012, từ 1g40 - 3g40 hoặc 17g40 - 19g40. Chúc tốt lành Thiên Đồng
-
ĐẠO SƯ CHÂN CHÍNH Việt dịch: Tuệ Tạng TRƯỚC KHI BẮT ĐẦU TRÊN CON ĐƯỜNG giải thoát và giác ngộ, chúng ta cần gặp một vị đạo sư chân chính đầy đủ phẩm chất. Để tìm thấy một người như vậy, đầu tiên ta cần hiểu các đặc điểm tiêu biểu của một con người như vậy. Khi chúng ta đến trường, chúng ta cần một người giáo viên tốt. Nếu giáo viên của bạn là một người hoàn toàn khờ dại chẳng có kĩ năng gì, liệu bạn có thể học gì từ họ? Tương tự như vậy, người thầy tâm linh mà chúng ta tìm kiếm là người mà chỉ dẫn chúng ta trên toàn bộ chặng đường đi đến giải thoát và trạng thái thấu suốt của giác ngộ. Điều đó không đúng hay sao? “Giải thoát” ở đây nghĩa là tái sinh vào một cõi tịnh độ sau đời này. “Trạng thái thấu suốt của giác ngộ” là Phật quả hoàn hảo với mọi phẩm tánh hoàn thiện và hoàn toàn thoát khỏi bất cứ lỗi lầm nào. Chúng ta nên tìm một vị thầy mà chắc chắn có thể dẫn chúng ta đến trạng thái đó. Một vị thầy đầy đủ năng lực được gọi là “bậc trì giữ Kim Cương sở hữu ba giới nguyện.” Ngài sở hữu những phẩm tánh hoàn hảo được trao cho bên ngoài với các biệt giới giải thoát, hay còn gọi là pratimoksha, trong khi bên trong sở hữu sự rèn luyện của một vị Bồ Tát. Ở mức độ bí mật sâu xa, một vị thầy chân chính cần đạt đến một trạng thái định chân thực. Một người mà sở hữu chỉ sở hữu các biệt giới thoát liên quan đến các thực hành Tiểu thừa, được gọi là “một người dẫn đường đức hạnh.” Nếu thêm vào đó, người này sở hữu sự rèn luyện Bồ Tát, họ được gọi là “một vị thầy tâm linh.” Nếu người đó giỏi về các thực hành Kim Cương thừa cùng với các giới nguyện và sự rèn luyện này, họ được gọi là dorje lobpon, hay một “vị Đạo sư Kim Cương.” Một vị Đạo sư Kim Cương chân chính cần phải là người đã giải thoát khỏi dòng suối sinh tử tồn tại thông qua sự chứng ngộ, Điều này có nghĩa là hiện thực hóa trạng thái xác thực của định. Hơn thế nữa, ngài cũng cần có thể giải thoát người khác thông qua lòng từ bi và sự yêu thương; đó là phẩm tánh cần thiết thứ hai. Để minh họa cho một vài đặc điểm của một vị Đạo sư Kim Cương có đủ phẩm chất, tôi sẽ kể cho các bạn nghe về thầy của tôi. Đạo sư của tôi chính là bác tôi, ngài Samten Gyatso. Samten Gyatso là anh trai của bố tôi và là hóa thân thứ tư của Đức Ngawang Trinley. Ngawang Trinley đệ nhất là một trong ba anh em trai; hai người còn lại là Sonam Yeshe và Namgyal Tulku. Họ nổi tiếng là “ba trưởng tử như ý.” Trong các đời tiếp theo của mình, các hóa thân của Ngawang Trinley được biết đến dưới cùng một tên, Ngaktrin, phụ thuộc vào nơi mà ngài đản sinh; bởi vậy, Argey Ngaktrin, Tersey Ngaktrin và Tsangsar Ngaktrin. Hóa thân thứ tư đến từ dòng truyền thừa máu Tsangsar là bác của tôi. Tôi cảm thấy khá xấu hổ khi kể câu chuyện này bởi vì không có cách nào để tôi tránh tán dương con người này. Tôi thực sự không muốn nó trở thành như thể tôi đang gián tiếp tán dương bản thân bằng cách ca tụng một thành viên trong gia đình. Tuy nhiên, có một ví dụ khá bình phàm tôi có thể sử dụng để minh chứng điều này. Đạo sư của tôi rất xuất sắc, và tôi liên quan đến ngài, theo cách mà phân liên quan đến thức ăn ngon mà từ đầu nó vốn là. Hãy hiểu sự phân tích này. Tôi đang rất thành thật. Mặc dù tôi đang nói sự thật, có vẻ khá ngượng ngùng bởi vì tôi phải tán dương một ai đó trong dòng truyền thừa của tôi. Hoàn cảnh của Samten Gyatso, toàn bộ gia đình và dòng truyền thừa Pháp đều là Barom Kagyu. Dòng truyền thừa này khởi nguồn từ một vị đạo sư tên là Barom Dharma Wangchuk, một trong các vị đệ tử chính của Đức Gampopa. Thầy của ngài Gampopa là Milarepa. Thầy của Milarepa là đại dịch giả Marpa. Thầy của Marpa là Naropa. Thầy của Naropa là Tilopa. Thầy của Tilopa là Đức Kim Cương Trì. Đó là ngược lên dòng truyền thừa. Bây giờ, chúng ta đi xuống, Barom Dharma Wangchuk có một đệ tử tên Tishi Repa. Đến lượt Tishi Repa, ngài có đệ tử tên Sangwa Repa Karpo, người mà lại có đệ tử là Tsangsar Lumey Dorje, tổ tiên của gia đình chúng tôi. Đệ tử chính của ngài là Tsangsar Jangchub Shonnu, cháu trai của ngài. Dòng truyền thừa Barom Kgayu truyền từ cha sang con trai qua mười thế hệ xuống đến Đức Tsangsar Lhatsun, người đã đạt đến thân cầu vồng. Những người đàn ông này là vua của vùng Nangchen. Thêm vào đó, các ngài có cả vị trí chính trị và tâm linh, được gọi là Tishi, Pakshi hay Gushi, được trao tặng bởi hoàng đế Trung Quốc. Khi vùng Nangchen bị chia đôi, gia đình tôi đã từ bỏ quyền nắm giữ ngai vàng và trở thành các vị ngakpa mang y trắng và quàng khăn. Dòng truyền thừa máu vẫn tiếp tục, nhưng các thành viên của gia đình không còn trị vì đất nước. Trong thời gian đó, được chúng tôi gọi là Đại Tây Tạng được chia thành nhiều vùng bao gồm Trung Tạng và các vương quốc miền đông là Derge và Nangchen. Sau khi Tsangsar Lhatsun chứng thân cầu vồng, bảy thế hệ tiếp theo cho đến tận cha tôi [đã chứng thân cầu vồng]. Tôi không đề cập tới điều này để khoe khoang về hoàn cảnh gia đình đặc biệt, mà để giải thích rằng giáo lý và dòng truyền thừa gia đình là một. Như tôi đã đề cập từ trước, bác của tôi, đạo sư gốc của tôi, đến từ dòng truyền thừa gia đình Tsangsar. Mẹ của Samten Gyatso, bà Konchok Paldron, là con gái của terton Chokgyur Lingpa. Samten Gyato còn nắm giữ truyền thừa Chokling Tersar, Kho tàng Mới của Đức Chokgyur Lingpa. Trong dòng truyền thừa Barom Kagyu, Samten Gyatso được coi là hóa thân của Đức Mahakala tứ thủ. Hóa thân thứ hai của Đức Chokgyur Lingpa đã có một linh kiến thanh tịnh về Samten Gyatso, trong đó ngài là một hóa thân của Vimalamitra. Bên ngoài, Đức Samten Gyatso giữ gìn các giới luật vô cùng thanh tịnh và nghiêm khắc. Trong suốt cuộc đời, ngài chưa từng uống rượu hay ăn thịt. Bên trong, đúng theo sự rèn luyện Bồ Tát, ngài luôn giữ hạnh khiêm cung. Ngài chưa bao giờ ăn mặc đẹp; thay vào đó ngài khoác y của một tăng sĩ bình thường. Ngài chưa bao giờ mang các thứ đồ trang sức đặc biệt, như là gấm kim tuyến. Mọi người nói rằng ngài có tri kiến hay sự chứng ngộ rất cao, nhưng ngài chẳng bao giờ nói về điều đó. Mặc dù một lần, ngài nói với tôi, “Thời trẻ, ta được giới thiệu đến bản chất của tâm. Kể từ đó đến nay, ta chưa bao giờ gặp phải vấn đề với việc duy trì tri kiến; sự thật là, dường như không có bất cứ khác biệt nào giữa ngày và đêm.” Cần phải lặp lại rằng, “một vị trì giữ Kim Cương sở hữu ba cấp độ giới nguyện” nắm giữ các giới nguyện bên ngoài, sự kỉ luật đạo đức của giải thoát cá nhân. Ngài cũng nắm giữ các giới nguyện bên trong, sự rèn luyện bồ tát, và các giới nguyện bí mật của Kim Cương thừa, được gọi là samaya. Ngài Samten Gyatso đã hoàn thiện cả ba điều này. Đạo sư của ngài là Đức Karma Khenpo, Đức Rinchen Dargye, con trai của Chokgyur Lingpa, Tsewang Norbu và Đức Karmapa thứ 15, ngài Khakyab Dorje. Bên cạnh đó, ngài còn nhận giáo lý từ rất nhiều vị đạo sư khác. Sau đó, sự trao truyền Chokling Tersar mà phần lớn các vị đạo sư ngày nay nhận được đến từ Đức Samten Gyatso. Ngài trao trọn vẹn sự trao truyền Chokling Tersar cho Đức Karmapa thứ 15, Đức Drukchen Rinpoche, trưởng dòng Drukpa Kagyu và Đức Taklung Tsetrul Rinpoche, ở trụ xứ của dòng Taklung Kagyu ở miền trung Tây Tạng. Samten Gyatso cũng được mời đến tu viện Tsechu ở Nangchen, tu viện vĩ đại nhất trong vùng. Ở đây, ngài ban sự trao truyền Chokling Tersar đến vua vùng Nangchen và như thế trở thành một trong các vị đạo sư của nhà vua. Ngài Samten Gyatso cũng được mời đến tu viện Palpung, một trong các tu viện chính của vùng Derge, được lãnh đạo bởi Đức Situ Wangchok Gyalpo, người tiền nhiệm của Situ Rinpoche hiện tại. Ngài trao một phần của Chokling Tersar cho Đức Situ Wangchok Gyalpo và như thế được xem là một trong các vị đạo sư của Situ Rinpoche. Dzongsar Khyentse, hóa thân của Đức Jamyang Khyentse Wangpo, đến khu ẩn cư trên đỉnh núi Randza Dzong-po của ngài Samten Gyatso. Ở đó, Dzongsar Khyentse thỉnh cầu sự trao truyền các phần của Chokling Tersar biên soạn bởi Đức Karmapa thứ 15, ngài Khakyab Dorje, những thứ mà ngài chưa nhận. Người ta nói rằng sự tin tưởng vào Pháp ảnh hưởng đến kinh nghiệm của mọi người. Bởi vì sở hữu sự can đảm này, Đức Samten Gyatso chưa bao giờ sợ hãi một ai. Ngài luôn mặc những thứ đồ đơn giản bình thường. Ngài không bao giờ mặc theo một phong cách đặc biệt, dù ai đến gặp ngài hay ai mà ngài gặp, dù ngài gặp các vị đạo sư cao nhất của Tây Tạng. Mặc dù ngài chưa bao giờ mặc những thứ đồ bắt mắt, khi ngài vào một căn phòng, mọi người luôn tránh đường cho ngài. Thậm chí họ là những chức sắc quan trọng, mọi người hoàn toàn sợ ngài. Họ ngay lập tức tránh sang một bên để dọn đường cho ngài đi. Thậm chí Đức Karmapa cũng khá sợ ngài Samten Gyatso. Ngài từng nói với một người đồng hành, “Ta thực sự sợ vị Lama đó. Ta không biết tại sao, nhưng ông ấy thực sự làm ta sợ.” Thậm chí tôi tự nói với mình rằng, “Tôi không cần phải sợ; xét cho cùng, ngài vẫn là chú của tôi!” Nhưng mỗi sáng khi tôi trước cửa phòng của ngài, tôi luôn do dự và suy nghĩ trước khi dám mở cửa. Không có điều gì cần phải sợ hãi, nhưng mọi người, trong đó có tôi, vẫn sợ Đức Samten Gyatso. Ngài sở hữu những phẩm tánh phi thường, một sự hiện diện đầy quyền uy. Một trong các vị thầy của Samten Gyatso, Karmey Khenpo Rinchen Dargye, tái sinh làm con trai của em gái ngài Samten Gyatso. Ngài được gọi là Khentrul, có nghĩa là hóa thân của Karmey Khenpo. Vị hóa thân trẻ này từng nói với tôi, “Tại sao chúng ta phải sợ ngài: Samten Gyatso là bác của chúng ta.” Vị Khentrul trẻ tuổi khá dũng cảm và hùng hồn theo một cách đáng ngạc nhiên. Tuy thế, bất cứ khi nào ngài gặp Đức Samten Gyatso và nhìn thấy cái đầu trọc, Khentrul sẽ quên cái ngài sắp muốn nói. Ngài cúi xuống nhìn đăm đăm và bắt đầu run sợ. Bởi vì ngài [samten Gyatso] là đạo sư của nhà vua, ngài thường được mời vào cung điện, nơi ngài chủ trì nhiều buổi lễ tôn giáo khác nhau. Ngài sẽ ở trong cung điện cổ, trong khi nhà vua và gia đình ngự ở cung điện mới. Trong cung điện mới có phòng họp lớn được gọi là Phòng Vuông, nơi mà các vị thủ lĩnh, các bộ trưởng và các viên chức ngồi với vẻ đầy kiêu mạn. Nhà vua, một người khá lập dị, không cho phép bất cứ chiếc ghế nguy nga nào trong phòng này – chỉ có chiếc ghế gỗ thô cứng. Dù vị bộ trưởng đặc biệt đến đâu, họ cũng phải ngồi trên một miếng gỗ trần. Tuy nhiên, họ ngồi ở đó trong những chiếc chuba thêu kim tuyến với tay áo dài. Khi họ kiêu mạn, họ vênh mặt và không thèm chú ý đến người thường. Khi ngài Samten Gyatso đến thăm gia đình hoàng gia vào mỗi sáng, ngài đi qua căn phòng này. Ngài thường ho nhẹ trước khi vào. Khi các vị quan chức nghe thấy tiếng họ, họ đều cố gắng đứng dậy ngay lập tức. Đôi khi họ cố gắng đứng dựa vào vai người bên cạnh. Sau đó, bởi vì họ sử dụng hệ thống hỗ trợ, tất cả ngã nhào ra và tạo thành một đống hỗn độn. Tất cả hoàn toàn sợ Đức Samten Gyatso. Tôi thường là một trong hai vị thị giả đi cùng ngài Samten Gyatso trong chuyến viếng thăm của ngài đến căn phòng của gia đình hoàng gia. Khi ngài vào phòng họ, hoàng hâu, hoàng tử và công chúa đều bỏ lại tất cả những việc họ đang làm và nhảy lên. Nhà vua từ lâu đã trao quyền cai trị cho hoàng tử và hiếm khi được trông thấy bởi vì ngài đã nhập thất thiền định. Samten Gyatso không bao giờ bợ đỡ người khác bằng cách nịnh bợ hay nói rằng họ mới tuyệt làm sao. Ngài luôn nói rất thẳng thắn. Nếu điều gì đó đúng, ngài sẽ nói rằng nó đúng; nếu nó sai, ngài sẽ nói là sai – không thêm hay bớt điều gì. Ngài không bao giờ nói vòng vo về điều gì. Nếu ai đó bắt đầu nói với ngài liên quan trực tiếp đến các phẩm tánh đáng ngạc nhiên của ngài, ngài thậm chí chẳng cho họ bắt đầu. Ví dụ, nếu họ bắt đầu nói, “Rinpoche, ngài rất uyên bác …” hay “Ngài chắc hẳn đã rất chứng ngộ …” ngài lập tức sẽ quở trách họ. Ngài không bao giờ tha thứ cho điều đó. Samten Gyatso đã trung thành với “phong cách yogi ẩn mật” vì thế ngài không bao giờ bộc lộ những thành tựu của mình với bất kì ai, và dứt khoát không cư xử như thể ngài là một người đặc biệt. Ngài không bao giờ gia trì cho ai bằng cách đặt tay lên đầu họ, ngài không cho phép người khác lễ lạy ngài và ngài không bao giờ ngồi ở một vị trí cao. Ngài dành phần lớn thời gian đầu của cuộc đời trong các hang động. Nếu ngài có bất cứ sức mạnh thấu hiểu hay đặc biệt nào, ngài cũng không cho ai biết. Ngài không xây chùa hay đắp tượng. Trong phần đầu tiên của cuộc đời, ngài luôn có bốn hay năm người viết thuê cùng với ngài. Ngài có trọn vẹn [terma] Chokling Tersar, khoảng 40 bộ, được sao chép. Trên thực tế, đây là điều duy nhất mà ngài thực sự dành những nỗ lực, có được toàn bộ giáo lý Chokling Tersar được ghi chép chính xác. Vậy thì làm sao mà ngài được coi là một vị thầy Kim Cương? Nó đã xảy ra như sau. Đức Karmapa thứ 15 mong muốn nhận sự trao truyền Chokling Tersar từ con trai của Đức Chokgyur Lingpa, ngài Tsewang Norbu. Vào thời điểm đó, ngài Tsewang Norbu đã đến miền Trung Tây Tạng và ở tại Lhasa trong gia đình một thí chủ. Đức Khakyab Dorje mời ngài đến và ngài đồng ý. Không may thay, vị thí chủ quan trọng của ngài không muốn ngài đi, và gây nhiều khó khăn. Tsewang Norbu đã mất trước khi có cơ hội đến Tsurphu và trao truyền Chokling Tersar. Sau đó ngài Karmapa mời cháu trai của Tsewang Norbu, ngài Tersey Tulku. Ngài là hóa thân của em trai ngài Tsewang Norbu, một người con khác của Đức Chokgyur Lingpa đã mất khi còn rất trẻ và cuối cùng tái sinh là con trai của người con gái ngài Chokgyur Lingpa, bà Konchok Paldron. Ngài là người trẻ nhất trong bốn người con trai, là chú của tôi và là em trai của Samten Gyatso. Tersey Tulku cực kì uyên bác và chú ý đến từng chi tiết. Ngài hoàn toàn đủ năng lực để trao truyền Chokling Tersar theo một cách vô cùng chính xác. Và sau đó ngài đến miền Trung Tây Tạng, Đức Karmapa gửi cho ngài lời nhắn, hãy đến Tsurphu. Đức Karmapa gửi cho ngài Tersey Tulku một người phục vụ đáng tin cậy nhất, một vị tăng đến từ Golok tên là Jampal Tsultrim, để thỉnh cầu. Jampal Tsultrim sinh ra trong một dòng họ tốt và có nhiều phẩm tánh như vậy. Mặc dù là một người phục vụ cho Đức Karmapa, ngài thực sự là một vị đạo sư. Ngài là người viết thuê cho Đức Karmapa và là một vị tăng thanh tịnh. Ngài rất ấn tượng và là một vị đạo sư tâm linh, bởi vậy Đức Karmapa giao cho ngài trọng trách này. Tuy nhiên, bởi vì ngài đến từ Golok, tâm tánh ngài khá thô ráp và cực kì tự tin vào bản thân. Khi ngài gặp Đức Tersey Tulku, ngài nói với tulku rằng, “Đức Karmapa yêu cầu ngài đến và ban giáo lý Chokling Tersar.” Giống như anh trai Samten Gyatso, Tersey Tulku là một vị yogi ẩn mật, bởi vậy ngài từ chối thẳng thừng, nói rằng, “Thật buồn cười! Làm sao một con chó có thể để móng lên đầu con người? Tại sao ngươi dám ra lệnh như vậy?” Gelong Jampal Tsultrim trả lời, “Tôi không yêu cầu ngài làm điều này; Đức Karmapa bảo tôi ra lệnh. Ngài muốn phá hỏng giới nguyện với ngài [Karmapa]?” Tersey Tulku nói, “Không, ngài là vị Bồ Tát ở địa thứ mười. Tôi chỉ như con chó. Tôi chẳng là gì hết. Làm sao tôi có thể là vị đạo sư của ngài, ban cho ngài các quán đảnh? Chẳng cần nghi ngờ gì hết – làm sao tôi có thể làm như vậy?” Sau đó họ tranh luận dữ dội và Gelong Jampal Tsultrim tát cho ngài một cái vào mặt và quát, “Đồ kém cỏi!” Sau đó ông ta đi mất. Ông ta trở về với Đức Karmapa và nói rằng, “Không thể là người đàn ông đó – thấp nhất của những kẻ thấp kém! Con đã tranh cãi với ông ta, và ông ta hoàn toàn từ chối đi.” Đức Karmapa không buồn vì điều này. Ngài chỉ nói rằng, “Ổn thôi. Chúng ta chờ xem. Có lẽ mọi việc cuối cùng sẽ ổn.” Khakyab Dorje sau đó mời Đức Samten Gyatso đến Tsurphu, nhưng ngài không nói chính xác mục đích của chuyến viếng thăm. Một thời gian sau khi Samten Gyatso đến Tsurphu, ngài được mời đến phòng riêng của Đức Karmapa. Khi ngài đến đó, ngài được trao một ngai cùng với y áo thêu gấm, một vương miện và mọi thứ đồ tâm linh của một vị đạo sư Kim Cương. Ngài được yêu cầu ngồi lên Pháp tòa. Ban đầu có rất nhiều sự phản đối, nhưng cuối cùng, Khakyab Dorje nói rằng, “Ta ra lệnh cho ông ngồi lên đó. Từ nay trở đi, ta đặt ông vào vị trí của một vị Đạo sư Kim Cương.” Không chỉ có Đức Karmapa thúc ép vai trò một vị đạo sư Kim Cương lên Đức Samten Gyatso; Tsewang Norbu cũng đã làm như vậy. Tsewang Norbu đã từng được mời đến Riwoche để ban quán đảnh Rinchen Terdzo. Bởi vì Đức Chokgyur Lingpa đã mất, họ muốn nhận được bộ giáo lý này tốt nhất, từ Đức Jamgol Kongtrul, nhưng ngài khá già và yếu. Kế đó, họ muốn ngài Khyentse, nhưng ngài cũng quá già. Và sau đó, cả Đức Khyentse và Đức Kongtrul đều quyết định gửi con trai của Chokgyur Lingpa, Tsewang Norbu, như đại diện của các ngài để trao truyền quán đảnh Rinchen Terdzo. Rất nhiều vị tulku đã có mặt ở đó, bao gồm cả hai hóa thân của Chokgyur Lingpa. Mỗi buổi tối sau các buổi lễ, các vị tulku và đại Lama lại tập trung trong phòng riêng của Tsewang Norbu để thảo luận, hỏi và trả lời. Một đêm, họ đang tranh luận về tương lai của Chokling Tersar. Tsewang Norbu là một người đàn ông to lớn, với sự hiện diện đầy uy quyền và đôi mắt dữ. Ngài nhìn trừng trừng vào bọn họ. Sau đó ngài chỉ tay vào Samten Gyatso, người đang ngồi im lặng gần cửa ra vào, giữ hạnh khiêm cung. Tsewang Norbu nói rằng, hãy nhìn Tersey Tulku [Tersey nghĩa là con trai của vị terton], “Các ông nghĩ rằng các ông là hóa thân của con trai ngài Chokgyur Lingpa!” Nhìn hai vị tulku Chokling, ngài nói, “Hai người nghĩ mình là hóa thân của Chokgyur Lingpa. Cả ba người nghĩ mình rất đặc biệt! Nhưng các người không thể so sánh với người đó!” Chỉ tay về phía Samten Gyatso, ngài nói tiếp, “Ông ấy là người có ảnh hưởng hơn trong việc duy trì truyền thừa.” Samten Gyatso sợ hãi trước câu nói này. Mặc dù Tsewang Norbu là cậu của ngài, mọi người khá sợ ngài. Khi ngài tuyên bố như thế, nó như một sự tiên tri mà thực sự thấm vào. Khi Tsewang Norbu rời miền Trung Tây Tạng nhiều năm sau đó, ngài dường như biết sẽ không bao giờ gặp lại Samten Gyatso nữa. Ngài làm lễ đăng ngôi cho Samten Gyatso một cách bí mật trong phòng riêng và trao cho ngài, chuông và chày Kim Cương, Tsewang Norbu nói rằng, “ Tôi giao phó cho ông dòng truyền thừa Chokling Tersar. Ông sẽ trao truyền nó trong tương lai.” Mặc dù Đức Samten Gyatso phản đối, ngài vẫn dành nhiều nỗ lực cho trách nhiệm này. Đó là lý do tại sao sau đó khi Đức Khakyab Dorje thỉnh cầu ngài đến Tsurphu, ngài nói rằng, “Ổn thôi” và đã ban các quán đảnh. Khi Đức Samten Gyatso sắp ban cho Khakyab Dorje toàn bộ trao truyền Chokling Tersar, Khakyab Dorje không ở tại Tsurphu, mà ở trong khu nhập thất bên trên Tsurphu. Ngài lúc đó đã già. Cách đấy không lâu, ngài đã kết hôn và vị phối ngẫu của ngài tên là Khandro Chenmo, nghĩa là vị Dakini vĩ đại của Karmapa. Bà lúc đó mới chỉ 16 tuổi; Đức Karmapa mất ba năm sau đó khi bà 19. Tersey Tulku cũng có mặt lúc đó. Ngài không còn rụt rè với việc đi đến Tsurphu bởi vì anh trai ngài đã đồng ý ban quán đảnh. Các buổi tối, họ thường nói về Khakyab Dorje, đôi khi cho đến nửa đêm hay muộn hơn. Khakyab Dorje sau đó rời túp lều ẩn cư của Samten Gyatso và trở về phòng của mình. Một đêm, sau khi họ chia tay, ngài Khakyab Dorje chắp tay và nói với vị phối ngẫu, “Vào thời điểm này và trong thời đại này, có lẽ không có ai ngoài Samten Gyatso có được sự chứng ngộ tinh túy bí mật của Đại toàn thiện.” Đó là một cách tán dương mà ngài Karmapa đã giành cho Samten Gyatso. Vị phối ngẫu của ngài, Đức Dakini vĩ đại nói điều này với tôi sau đó. Để thiết lập vài trò như một vị Đạo sư Kim Cương cũng là vấn đề. Trong trường hợp của Đức Samten Gyatso, ngài bị thúc ép đảm nhận vị trí đó bởi Đức Tsewang Norbu, đạo sư gốc của ngài, và bởi Khakyab Dorje. Ngài Samten Gyatso không bao giờ nói điều này với ai. Không lâu trước khi ngài thị tịch, tôi đã dành nhiều đêm trong phòng của ngài. Samten Gyatso nằm trên giường và tôi ngủ dưới chân ngài trên sàn nhà gần đó. Một đêm, chúng tôi đang nói chuyện, và Samten Gyatso bắt đầu kể lần đầu tiên về sự chứng ngộ bí mật của ngài. Ngài cũng kể các chi tiết mà tôi nói ở trên về mối liên hệ của ngài với Khakyab Dorje, Tsewang Norbu và nhiều người khác. Ngoại trừ khoảng thời gian này, ngài chưa bao giờ kể các thông tin cá nhân này cho bất kì ai. “Từ thời điểm đó,” ngài nói với tôi, “ta rơi vào năng lực của một trong bốn Mara, ma quỷ của sự xao lãng được gọi là “trưởng tử cõi trời.” Trước đó, hoài bão của ta là ở trong một hang động và thực hành. Nhưng vì Đức Karmapa đã buộc ta làm điều này, giờ đây ta phải cư xử như một vị Đạo sư Kim Cương và ban các quán đảnh, trao truyền qua sự đọc, …” Đây là điều mà trước kia ngài chưa làm. Ngài luôn tránh nó hoàn toàn. Nhưng kể từ đó, ngài phải đảm trách vị trí đó. Khi nhìn trở lại, không có nghi ngờ gì ngài đã chịu trách nhiệm cho việc phổ biến các giáo lý Chokling Tersar. Samten Gyatso nói rằng, “Ta rất hạnh phúc khi sống trong các hang động. Ta chẳng bao giờ có ý định hay mong ước trở thành một vị Lama. Lên tám tuổi, ta được giới thiệu đến bản tánh của tâm, và ta đã duy trì trong đó càng nhiều càng tốt cho đến ngày hôm nay.” Bởi vậy khi Đức Samten Gyatso già hơn, ngài thường nghĩ rằng, “Ta cần phải sống trong các hang động; thay vào đó, ta lại rơi vào vòng ảnh hưởng của những chướng ngại.” Nó không phải những lời nói suông khi ngài nói vậy; ngài thực sự đã cảm thấy thế. Ngài không có tham vọng trở thành một vị Đạo sư Kim Cương hay ngồi trên người khác. Ngài từng nói với tôi rằng, “Thành công thực sự được gọi là “những chướng ngại dễ chịu.” Trong khi các chướng ngại không dễ chịu dễ dàng được nhận ra, chướng ngại dễ chịu hiếm khi được công nhận là một chướng ngại.” Ví dụ, các chướng ngại không dễ chịu như là bị nói xấu hay dính vào các xì căng đan, bị ốm, gặp phải vận rủi và nhiều điều khác. Phần lớn các hành giả có thể đối phó với chúng. Họ nhận ra chúng là những chướng ngại và sử dụng chúng như là con đường. Nhưng các chướng ngại dễ chịu, như là nổi tiếng, có nhiều đệ tử, và giả vờ hành xử vì lợi lạc của người khác thì dễ nhầm lần hơn. Người ta bắt đầu nghĩ rằng, “Tôi thật tốt! Tôi đang trở nên rất đặc biệt! Tôi đang làm lợi lạc cho nhiều chúng sinh. Mọi thứ rất hoàn hảo!” Họ chắc chắn không nhận ra mình đang trở thành con mồi của các chướng ngại dễ chịu, và đây là lý do tại sao chúng là chướng ngại chính yếu cho sự tiến bộ. Samten Gyatso cảnh báo rằng mọi người cần nhận ra những chướng ngại này. Họ thường chỉ nghĩa, “Khả năng làm lợi lạc cho người khác của tôi là vô hạn!” Tốt thôi, đó là điều mà người ta tự nói với mình khi không chú ý đến việc họ đã trở thành nạn nhân của các chướng ngại. Trích dịch: Bức tranh cầu vồng, Tulku Urgyen Rinpoche. http://www.thuvienhoasen.org/
-
Kinh hoàng khi thực phẩm đóng hộp gây biến đổi giới tính Những cảnh báo đáng sợ từ các nhà khoa học Gần đây, các nhà nghiên cứu của Đại học Havard (Mỹ) và Tổ chức bảo vệ môi trường Chemtrust (Anh) cho biết: các loại thực phẩm được đóng trong hộp thiếc như pate hay các loại nước ngọt có ga… và các loại thực phẩm đóng gói trong túi nilon, hộp xốp có chứa lượng hóa chất Bisphenol-A (BPA) cao gấp 1.000 lần so với thực phẩm tươi sống. Qua khảo sát, các nhà khoa học phát hiện, BPA lâu nay vẫn được sử dụng để làm lớp lót trong các hộp thiếc cũng như trong các hộp làm bằng nhựa cứng chai như đựng nước, hộp đựng thức ăn, hoa quả... Qua thời gian, hóa chất này có khả năng chuyển từ vỏ hộp sang thực phẩm mà chúng mình không hề hay biết. Trong khi đó, từ lâu, chất hóa học này đã được chứng minh là có liên quan đến sự vô sinh ở nam giới, các rối loạn cảm xúc và hành vi ở XX và đặc biệt, nó có thể làm biến đổi giới tính của con người. Chưa hết, các nghiên cứu khoa học còn cho hay, với những người có thói quen làm nóng các loại thực phẩm này thì mức độ nguy hiểm còn tăng lên rất nhiều. Lý do vì trong túi nhựa, hộp xốp có chứa chất cực độc – DOP (dioctin phatalat) có khả năng gây ảnh hưởng đến cơ quan sinh sản của XY. Và chỉ cần chúng mình làm nóng chúng ở mức nhiệt khoảng 70 – 800C thì chất hóa học này sẽ hòa tan vào thực phẩm được rồi đấy! Biến đổi giới tính – Nó là cái gì? Biến đổi giới tính luôn là một vấn đề mà các nhà khoa học phải dày công nghiên cứu, khám phá. Đây là hiện tượng trên cơ thể XY dần có các biểu hiện bề ngoài của XX, thậm chí còn biến đổi cả giọng nói và tính cách. Điều này cũng xảy ra ngược lại với teen girl và tạo ra những biến đổi bất thường về giới tính. Nguyên nhân gây ra nó có thể tạm chia thành 3 dạng như sau: - Các rối loạn về nhiễm sắc thể giới tính do di truyền, do tác động bất thường từ một số hóa chất có độc tố cao… - Sự rối loạn của nội tiết tố nam. Cụ thể là, trong cơ thể chúng mình, bất luận XX hay XY, chất bì ở tuyến thượng thận trên cơ thể đều sản sinh ra nội tiết tố nam tính. Đây là một nhóm loại alcohol compound có tác dụng thúc đẩy phân hóa các hình thái cơ thể đặc trưng cho giới tính. Ở các trường hợp bình thường thì nó không hề có tác dụng chủ đạo gì nhưng nếu cơ thể sản sinh quá nhiều hoặc quá ít chất này thì nó sẽ tạo nên sự bất thường về giới tính. Một trong những nguyên nhân chính gây ra hiện tượng này là do chúng mình đã ăn phải quá nhiều thực phẩm chứa hormone tăng trọng, gây ra sự biến đổi về lượng nội tiết tố nam, nữ trong cơ thể đấy các ấy ạ! - Biến đổi giới tính do tác động của tâm lý. Lưu ý cho teen khi sử dụng thực phẩm nè! Thật khó để phân biệt thức ăn nào mới có chứa chất tăng trọng và cũng không có nghĩa cứ ăn đồ hộp thì teen sẽ bị biến đổi giới tính. Tuy nhiên, chúng mình vẫn có thể hạn chế tối đa được tác động của chúng chỉ bằng ghi nhớ chú ý trong việc chọn lựa thực phẩm như sau: - Tránh đựng các đồ ăn còn nóng, đồ vừa qua chiên, rán trong hộp xốp hay túi nhựa. - Hạn chế sử dụng đồ hộp khi không cần thiết. Tốt nhất, các ấy nên lựa chọn những sản phẩm tươi sống để đảm bảo chất lượng dinh dưỡng và tránh các hóa chất bảo quản, giữ tươi nha! - Tuy rất khó phân biệt thịt lợn có hormone tăng trọng với thịt lợn thường nhưng chúng mình có thể nhận biết qua một số dấu hiệu để phòng tránh trước: thịt chứa hormone thường sẽ rất nạc, khi nấu ra nhiều nước, ăn bở, không đậm đà, hơi có màu nhạt, sắc thịt kém hồng hơn…
-
@ Kẻ ham học Con chào chú, con vừa có việc làm con lo lắng nên lại phải làm phiền chú xem cho con 1 chút. Con vừa được giao nhiệm vụ làm Liên đội trưởng để chỉ huy các em thiếu nhi lên xã cắm trại hè, thi đội hình đội ngũ với các thôn khác. Mà con thì lại không có chút kinh nghiệm gì về việc làm Liên đội trưởng, thổi còi chỉ huy... Con sợ sẽ mắc lỗi làm ảnh hưởng đến đội của mình. Vậy con mong chú xem cho con : 1. Con có hoàn thành nhiệm vụ không? Không 2. Đội của con thực hiện các bài tập có tốt không? tạm ổn, cỡ trung bình 3. Đội của bọn con xếp thứ mấy trong 5 đội tham gia? xếp thứ 4 Con hỏi lúc 10h20 phút sáng ngày 31 tháng 7 dương. Con chân thành cảm ơn chú ạ. Chúc thành công Thiên Đồng