-
Số nội dung
6.278 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
75
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Thiên Đồng
-
Bài chòi là di sản thế giới? Lễ hội Bài chòi lần đầu tiên được tổ chức tại Hà Nội sẽ giúp công chúng hiểu hơn về một di sản đang được Bộ VHTTDL chủ trương lập hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Nhân sự kiện này, NNVN đã trao đổi với GS Hoàng Chương, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu, bảo tồn và Phát huy văn hóa dân tộc Việt Nam. Trình diễn Bài chòi Bài chòi là gì? Xin GS cho biết rõ hơn về loại hình nghệ thuật mà không phải nhiều người đã được biết tới... Bài chòi đã có lịch sử mấy trăm năm ở Nam Trung bộ. Tuy nhiên cái nôi của nó là ở Bình Định và phát triển mạnh mẽ nhất cũng ở Bình Định. Sau Cách mạng tháng Tám, Bài chòi phát triển từ dân gian thành chuyên nghiệp. Với công chúng Hà Nội trước đây, trong những môn nghệ thuật như cải lương, đờn ca tài tử, Tuồng, Bài chòi thì Bài chòi được mê nhất. Đặc biệt, Bài chòi của Đoàn nghệ thuật Quân khu 5 từng làm khán giả Hà Nội mê mẩn. Sau 1975 thì các đoàn về Nam, để lại khoảng trống trong lòng khán giả Hà Nội. Bài có nghĩa là trò chơi văn hóa nghệ thuật. Còn chòi là cái chòi để người chơi ngồi. Bài chòi về sau này phát triển được sáng tác thêm những điệu hát dài hơn, có thể vận dụng nhiều cách hát hơn như trong các vở tuồng, cải lương… Bài chòi chuyên nghiệp hiện nay rất khác với lễ hội Bài chòi truyền thống. Lễ hội Bài chòi trên đất Thăng Long mà khán giả được xem trong dịp Tết Nhâm Thìn này là lễ hội truyền thống. Bài chòi truyền thống có 8 cái chòi dựng 2 bên song song nhau và 1 chòi trung tâm. Người chơi bài ngồi trên chòi, được anh hiệu phát cho 3 thẻ tre (con bài) có vẽ các hình tượng, người, vật tương ứng với những câu hát của anh hiệu. Ví dụ, con bài có hình anh học trò thì sẽ thắng khi anh hiệu hát câu: “Đi đâu đi hủy đi hoài/ Cử nhân không đỗ tú tài cũng không”. Hoặc khi anh hiệu hát câu “Đêm nằm gối ấm không êm/ Gối lụa không mềm bằng gối tay em” thì người thắng là người có thẻ bài có hình con chim gối. Người chơi bài nghe anh hiệu hát trùng tên thẻ bài của mình thì gõ mõ báo hiệu là mình đã trúng. Nếu trúng 3 thẻ thì gõ trống mõ báo mình thắng. Anh hiệu hát chúc mừng và được BTC trao giải thưởng. Cuộc chơi kéo dài cho đủ vòng 9 chòi với 27 câu hát thì kết thúc một ván bài, thời gian chơi dài, ngắn phụ thuộc vào những câu hát ngắn hay dài. Trong quá trình diễn ra từng ván bài đều có những tiết mục biểu diễn xen kẽ chúc mừng của các nghệ sỹ. Vì vậy mà cuộc chơi hết sức hấp dẫn và lôi cuốn người xem suốt ngày, đêm. "Sinh hoạt văn hóa đặc biệt" Công tác bảo tồn, phát huy giá trị của nghệ thuật Bài chòi hiện nay thế nào, thưa GS? Có thực tế là Bài chòi phát triển chuyên nghiệp nhưng lại mất tính dân gian. Bởi vậy, chủ trương của Bộ VHTTDL là phục hồi lễ hội Bài chòi theo đúng dân gian. Việc đào tạo thế hệ trẻ hát Bài chòi cũng không đơn giản. Năm 2010, việc đào tạo thế hệ trẻ hát Bài chòi theo chủ trương của Bộ VHTTDL gặp rất nhiều khó khăn. Không nhiều người trẻ thích hát dân gian nữa. Ở Quảng Nam, Quảng Ngãi chưa phục hồi được lễ hội hát Bài chòi truyền thống. Tuy nhiên, việc bảo tồn Bài chòi ở Bình Định thì khá tốt. Hiện Bình Định có 9 đoàn hát Bài chòi, mỗi đoàn có 5- 6 nghệ nhân trẻ, tuổi tầm 20 trở lên. Họ đều sống khỏe bằng việc đi diễn Bài chòi. Năm 2010, sau quá trình nghiên cứu, sưu tầm, tỉnh Bình Định đã phục hồi thành công lễ hội Bài chòi. GS có tin nghệ thuật Bài chòi sẽ thu hút khán giả? Ở Bình Định, có một điều khác biệt là đoàn nghệ thuật không chuyên lại diễn hay hơn đoàn chuyên nghiệp. Bởi chuyên thì chỉ diễn theo định mức, còn không chuyên lại đi diễn quanh năm, diễn ở khắp nơi để kiếm sống. Lực lượng không chuyên người già thì rất giỏi trong sáng tạo, ứng biến, còn người trẻ thì thuộc bài và hát rất ngọt. Ngồi trên chòi trong những ngày lễ tết, chơi Bài chòi là hoạt động được nhân dân Nam Trung bộ nói chung và người dân Bình Định nói riêng rất yêu thích. Đây cũng là sinh hoạt văn hóa đặc biệt thể hiện được nét độc đáo của con người, vùng đất Nam Trung bộ. Những người dân miền Trung mê Bài chòi nên đã có ca dao: Mải mê cái thú bài chòi/ Để con nó khóc mà lòi rốn ra… Bởi vậy, chủ trương của Bộ VHTTDL là hoàn thiện phục hồi lễ hội và giới thiệu đến đông đảo nhân dân nhằm lập hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận bài chòi là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại trong thời gian tới. Xin cám ơn GS! Tùng Linh ======================= Nghe hát Bài chòi thử: http-~~-//www.youtube.com/watch?v=_JaCzbV_8PY&feature=related
-
Thủ Ấn trong Bà La Môn, Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo Thiên Đồng Hãy quan sát kỹ, sẽ nhận thấy trong từng linh ảnh các vị Phật, Bồ tát, Chúa, các Thánh tông, được vẽ lại, đồ đều có chung thủ ấn, qua đó sẽ thấy được cả ba tôn giáo lớn dường như đều có cùng chung một mật pháp. Bà La Môn giáo, Phật giáo đều có pháp hành trì thủ ấn, nhưng ít ai nhận ra Thiên Chúa Giáo cũng hành trì thủ ấn. Bởi mật pháp ở trong tôn giáo này không được phổ chúng phổ thông trong dân gian như Phật giáo và Bà La Môn Giáo, đến nỗi những hình ảnh của Chúa Jesus hay các Thánh Tông Đồ ở tư thế thủ ấn dường như không tìm thấy, không được để ý hay ít được nhận ra. May thay những hình ảnh đẹp ấy vẫn được vẽ lại bằng cả sự mến yêu của đức tin, nhưng hầu như tín đồ Thiên Chúa lại không biết đó là thủ ấn của mật pháp đầy huyền năng huyền diệu. 1.Bàn tay thuyết pháp: Thần Vishnu với tay thuyết pháp Thần Rama với bàn tay thuyết pháp Phật với bàn tay giảng pháp Jesus với bàn tay thủ ấn thuyết giảng 2. Thủ ấn : "Nhĩ Căn viên thông" Quán thế Âm là nghe tất cả các tiếng khổ đau trong cõi Ta Bà, do vậy hình tượng Quán Thế Âm thường thấy với thế thủ ấn "Nhĩ căn viên thông", dấu hiệu của nghe tất cả mọi tiếng khổ đau của chúng sanh. Tượng Quan Thế Âm Bồ Tát cao 67m tại Việt Nam với thủ ấn "Nhĩ Căn viên thông", nghe tất cả tiếng khổ đau của nhân gian. Chúa Jesus với thủ ấn "Nhĩ Căn viên thông" và tay trái là cuốn Kinh Thánh, một hình ảnh hiếm phố biến. Hình ảnh hiếm hoi còn lưu lại tại một thánh đường cổ ở Israel, thành phố cổ Jericho 10.000 năm tuổi, Đức Jesus trong tư thế thủ ấn " Nhĩ căn viên thông" và tay kia là cuốn kinh thánh. Thánh tông đồ Barnabas với thủ ấn " Nhĩ căn viên thông". Thánh tông đồ Nicholas với thủ ấn " Nhĩ căn viên thông". Thủ ấn là một nét thể hiện của mật pháp, nhằm phát huy công năng nào đó hổ trợ trong việc hành trì tu tập hay hành pháp. Do vậy sẽ không ngạc nhiên khi các vị Phật, Chúa , Bồ tát, Thánh Tông Đồ trong lúc thiền định hay thuyết pháp được ghi nhận lại trong các tư thế thủ ấn đẹp. Những hình ảnh tương đồng của các đấng giáo chủ hay bổn tôn của ba tôn giáo lớn Bà La Môn Giáo, Phật Giáo và Thiên Chúa Giáo trong tư thế thủ ấn chứng tỏ cả ba tôn giáo đều có cùng chung một pháp nhiệm mầu. TTNC LHDP, ngày 15/6/2012
-
Chuyện Nhà thờ Thiên Chúa Giáo từng phong thánh cho Đức Phật Lời giới thiệu của người dịch: Dịch giả trước đây đã nêu lên chủ đề này qua một bài viết ngắn vào ngày 7 tháng 8 năm 2010, mang tựa đề là "Câu Chuyện về Barlaam và Joasaph: hay một sự trùng hợp lạ lùng giữa các tôn giáo", (có thể xem bài này trên các mạng Thư Viện Hoa Sen, Quảng Đức...). Thế nhưng quả là một sự ngạc nhiên kỳ thú là khi lùng lại các tài liệu cũ thì tình cờ mới thấy rằng trước đó gần một năm Viện Đại Học Phật Giáo Âu Châu (UBE : Université Bouddhhique Européenne) cũng đã đưa vấn đề này lên mạng trong số phát hành ngày 1 tháng 12 năm 2009, tức là vào dịp những ngày lễ cuối năm ở Âu Châu. Bài viết này có thể xem như là một bài khảo cứu nêu lên một số dữ kiện để chúng ta cùng suy tư về một vài khía cạnh nào đó của tôn giáo nói chung. Quả hết sức lạ lùng là một chuyện như thế lại có thể xảy ra được: Nhà thờ Thiên Chúa Giáo và Chính Thống Giáo lại tôn thờ Đức Phật như một vị Thánh của họ dưới danh hiệu là Thánh Josaphat ...! Chuyện này đã xảy ra từ lâu thế nhưng hầu như chẳng có ai hay biết cả! Câu chuyện về Thánh Josaphat và Thánh Barlaam bắt nguồn từ thuở xa xưa ở Ấn Độ, thế nhưng mãi về sau này mới trở thành một câu chuyện "ăn khách nhất" ("best seller" trong nguyên bản) vào thời Trung Cổ (tại Âu Châu). Vào thời đó Thánh Josaphat nổi danh đến độ Giáo Hoàng Sixte Quint đã phải chính thức đưa vào danh sách những người "Tử Đạo" (Martyrology) vào năm 1583. Lễ tưởng niệm vị Thánh này được nhà thờ Thiên Chúa Giáo La Mã ấn định vào ngày 27 tháng 11, trong khi đó thì nhà thờ Chính Thống Giáo Hy Lạp lại chọn ngày 26 tháng 8 và Chính Thống Giáo Nga Sô thì chọn ngày 19 tháng 11. Mãi đến năm 1860 thì mới có hai học giả là Labourlaye và Liebrecht cùng chứng minh một lượt cho thấy là Thánh Josaphat và Đức Phật chỉ là một nhân vật duy nhất, tuy rằng cả hai học giả này trước đó đã nghiên cứu biệt lập với nhau. Thế là tức thời nhiều khảo cứu gia khác thi nhau đổ xô vào vấn đề này để nghiên cứu thêm, và cũng nhờ đó mà mọi người mới biết đến quá trình diễn biến thật lạ lùng của câu chuyện trên đây một cách chính xác hơn... Thánh Josaphat đang thuyết giảng (bản chép tay của Hy Lạp, thế kỷ XII) Từ Ấn Độ đến Địa Trung Hải... Đầu đuôi câu chuyện xảy ra tại Ấn độ, và đúng thật là như thế! Vào khoảng đầu kỷ nguyên Thiên Chúa giáo, người ta mới thấy bắt đầu xuất hiện các kinh sách Phật giáo ghi chép sự tích Đức Phật một cách quy củ. Các mẫu chuyện rời rạc được ghi chép trước đây trong các Kinh (Sutra) và các bộ Luật tạng (Vinaya), tức là các tập sách ghi chép những lời giáo huấn của Đức Phật và các luật lệ quy định cho đời sống xuất gia, đã được gom góp lại để tạo thành những tác phẩm thật quy mô và đầy đủ, trong số này có thể kể ra các tác phẩm quan trọng nhất như tập Phật sở hạnh tán (Buddha-carita - thế kỷ thứ II) do nhà thơ Mã Minh (Asvaghosa) trước tác và tập Phổ diệu kinh (Lalita Vistara - thế kỷ thứ III-IV). Vào các thế kỷ đầu tiên của kỷ nguyên Thiên Chúa giáo, Phật giáo nhờ vào vương quốc Kushan đã bành trướng nhanh chóng trong toàn vùng Trung Á. Lãnh thổ rộng lớn của vương quốc này trải dài từ thung lũng sông Hằng đến những vùng biên giới tận cùng của sa mạc Tukla-Makan, đã tạo ra một cửa ngõ quan trọng giúp cho "con đường tơ lụa" nối liền Trung Quốc và nước Ba Tư (I-ran ngày nay). Dọc theo con đường này và rải rác trong các vùng ốc đảo, đã phát triển nhiều đô thị lớn góp phần không nhỏ vào việc vận chuyển hàng hóa... và luôn cả tôn giáo cũng như các huyền thoại đủ loại của toàn vùng Á Châu! Trong tỉnh Tourfan (còn gọi là Turfan hay Turpan, Việt dịch là Thự Quang, ngày nay thuộc tỉnh Tân Cương - Xinjiang - của Trung Quốc; Tân Cương có nghĩa là biên giới mới) người ta đã khám phá ra một mảnh bản thảo kinh sách của đạo Thiện Ác (Manicheisme, Manichaeism - một tôn giáo xuất hiện vào thế kỷ thứ III, chủ trương nhất thiết phải phân loại tất cả mọi hiện tượng thành Thiện và Ác, tôn giáo này phát triển tại Tây Á và đã từng ganh đua với Thiên Chúa giáo mãi cho đến thời Trung Cổ) viết bằng cổ ngữ Ba Tư ghi lại một mẫu đối thoại giữa hai nhân vật mang tên là Bylwhr và Bwdysf (Budasf). Mẫu đối thoại này trùng hợp với một đoạn trong huyền thoại rất quen thuộc sau này nói về Thánh Barlaam và Thánh Josaphat. Sự kiện các tín đồ của đạo Thiện Ác quan tâm đến sự tích Đức Phật không phải là một chuyện lạ, vì vị sáng lập ra đạo này là một người Ba Tư tên là Mani (216-273) đã từng du hành sang Ấn độ..., và tại đây người ta đã từng xem ông ngang hàng với Đức Phật trước kia! Thật thế, vị này quả là một con người khác thường, nguyên trước đó ông theo Thiên Chúa giáo, và tin rằng một người tông đồ của Chúa là Thánh Thomas (theo huyền thoại thì thánh Thomas đã từng sang Ấn Độ thuyết giáo) giao cho ông sứ mạng kết hợp cả ba tôn giáo là Thiên Chúa giáo, Phật giáo và đạo Dô-rô-át (Zoroastrism, còn gọi là đạo Mazdéisme, là một tôn giáo của xứ Ba Tư, xuất hiện từ thế kỷ thứ VII trước Tây lịch, chủ trương thế giới là một môi trường tranh đấu giữa cái Xấu và cái Tốt, sự chiến thắng cuối cùng sẽ thuộc về cái Tốt). Tuy người ta khó có thể biết được là vị này đã có dịp tiếp xúc với trường phái nào của Phật giáo hay không (vì vào thời kỳ đó nhiều học phái Phật giáo xưa và cả Đại Thừa Phật giáo cũng đã phát triển rộng rãi trong vùng Trung Á), dù sao đi nữa thì rất có thể ông ta đã có dịp nghe kể lại sự tích về cuộc đời của Đức Phật, rất phổ biến tại các nước theo Phật giáo thời bấy giờ, nhất là đối với những đoạn thuật lại tuổi thiếu thời của Đức Phật và thiên hướng tầm đạo của Ngài - và đấy cũng là những gì mà người ta đã tìm thấy trong huyền thoại về Thánh Josaphat. Vị sáng lập đạo Thiện Ác là Mani tỏ ra rất thán phục lý tưởng tu tập khổ hạnh và chủ trương xa lánh những giá trị thế tục của Đức Phật, và thật ra thì giáo lý của Mani cũng chủ trương phải chối bỏ những giá trị đó. Ngoài ra người ta cũng nhận thấy có nhiều điểm tương đồng giữa tăng đoàn Phật giáo và tăng đoàn của đạo Thiện Ác: mối tương quan giữa các vị tỳ kheo (bhikkhu) và các vị ưu-bà-tắc (upasaca, tức các vị cư sĩ) trong Phật giáo cũng tương tự như sự tương quan giữa các vị "được bầu" và các vị "nghe giảng" trong đạo Thiện Ác. Nói chung các vị "tỳ kheo" và các vị "được bầu" phải lo việc tu tập và thuyết giáo, còn các vị "ưu-bà-tắc" và các vị "nghe giảng" thì có bổn phận phải trợ cấp các phương tiện sinh sống cho các vị tu hành trên đây. Ngoài ra vị giáo chủ Mani cũng đưa ra năm "lời khuyên" mà các vị "được bầu" phải noi theo, và năm lời khuyên này cũng khá tương tự với ngũ giới của Phật giáo. Ngoài các điểm tương đồng trên đây thì cũng cần nêu lên là giáo lý của đạo Thiện Ác chủ trương phải khinh thường thân xác vì đấy là nguyên nhân mang lại mọi thứ tai hại cho linh hồn, quan điểm giáo lý này hoàn toàn không có trong Phật giáo! Sự tích Đức Phật sau đó lại được truyền đi từ Trung Á và Ba Tư sang đến tận các vùng bờ biển Địa Trung Hải: một số tư liệu bằng ngôn ngữ Á Rập cho biết là vào hậu bán thế kỷ thứ VIII, quyển sách bằng tiếng Ba Tư nói về Đức Phật đã được cộng đồng những người theo giáo phái Ismailism (Ismaélisme, tức một giáo phái của Hồi Giáo) tại Xiri (Syria, Syrie) chuyển dịch sang tiếng Xiri và sau đó sang tiếng Á Rập, với tựa đề là "Quyển sách nói về Bilawhar và Yûdâsaf" (Kitab Bilawhar wa-Yudasaf). Lý tưởng khổ hạnh không thu hút được người Hồi giáo, vì thế họ vẫn tiếp tục giữ truyền thống tu tập của người Ba Tư trước đây, và đối với các kinh sách dịch thuật thì họ chỉ thêm vào một vài chi tiết nhằm nêu lên tính cách độc thần trong tôn giáo của họ, do đó sự tích Đức Phật trong các kinh sách dịch thuật này không bị biến dạng nhiều. Tranh trên gỗ của Nga Sô và tranh in từ một bảng khắc trên gỗ của Pháp do Jaques Caillot thực hiện (1630), cả hai bức tranh đều trình bày Thánh Barlaam và người đệ tử là Josaphat Câu chuyện về Bilawhar và Yûdâsaf Ngày xưa tại Ấn độ, có một vị vua tên là Abénès theo tà giáo, tôn thờ thần linh. Ông rất đau buồn vì không có con trai để thừa kế ngai vàng, tuy nhiên sau đó thì ông cũng sinh được một đứa con trai và đặt tên là Yûdâsaf. Chẳng may một vị tiên tri lại cho biết sau này đứa bé sẽ không nối ngôi để trị vì xứ sở, bởi vì đứa bé sẽ trở thành một "Vị hướng dẫn vĩ đại trên con đường đưa đến Sự Thật". Nhà vua rất thất vọng liền ra lệnh tống cổ tất cả các vị "phục vụ Trời" ra khỏi vương quốc của ông và giam con ông trong một lâu đài thật nguy nga, biệt lập hẳn với những cảnh tượng khổ đau của thế gian. Ông cấm mọi người không được nói đến "cái chết, sự già nua, tật nguyền và sự nghèo đói", và nếu như có một người hầu cận nào ốm đau thì phải được thay thế ngay. Khi Yûdâsaf trưởng thành thì thường hay than vãn về cảnh sống biệt lập đó. Vua cha đành phải cho tổ chức các cuộc rong chơi, nhưng không được để cho hoàng tử trông thấy các cảnh tượng không hay, hoặc buồn khổ. Thế nhưng làm thế nào tránh khỏi được những chuyện ấy, một hôm hoàng tử trông thấy một người cùi và một người mù và ý thức được bệnh tật là gì, và sau đó lại trông thấy một người già, da dẻ nhăn nheo, lưng còng và không còn một chiếc răng nào, vị hoàng tử lại có dịp hiểu thêm sự già nua là gì. Chưa hết tò mò Josaphat còn hạch hỏi thêm các người hầu cận và họ đành phải cho biết thế nào là cái chết. Những khám phá đó đã làm cho vị hoàng tử trẻ phải suy tư... Hình minh họa trong một bản thảo thời Trung Cổ cho thấy Josaphat ra khỏi thành (đang cưỡi ngựa) và gặp một người cùi (mặt có chấm đen) và một người mù (đang chống gậy). Bên trong thành thì vua cha đang nhìn ra để canh chừng. Những lời giảng dạy của Bilawhar cho Yûdâsaf được dựa vào sự đối nghịch giữa Hiện thực và Ảo giác, và các câu chuyện ngụ ngôn thì mang hậu ý khuyên nên tạo ra các thứ "nghiệp" lành! Bilawar nêu lên những gì thật quan trọng mà người ta thường không nghĩ đến, hay nói cách khác đấy là những gì mà thoạt nhìn thì không thấy và không cần phải quan tâm, thế nhưng thật ra thì đấy lại là những gì hết sức quan trọng. Sau đây là một đoạn trích dẫn từ một câu chuyện ngụ ngôn khác mà Bilahwar đã thuyết giảng cho Yûdâsaf: "Một người biết yêu thương thế giới cũng tương tự như một người có ba người bạn. Đối với người bạn thứ nhất thì hắn yêu thương hơn cả chính mình, với người bạn thứ hai thì hắn yêu thương ngang hàng với mình và với người thứ ba thì hắn yêu thương kém hơn mình. Bỗng một hôm hắn bị nhà vua gọi vào triều và hắn cảm thấy vô cùng sợ hãi vì e rằng mình sẽ bị trừng phạt. Hắn bèn chạy đi tìm người bạn thứ nhất, người này thoái thác rằng mình rất bận và biếu tặng hắn một ít vải để may quần áo. Hắn đành tìm đến người bạn thứ hai, người này cũng lại thoái thác và cho hắn biết rằng mình đang có nhiều chuyện lo buồn, tuy nhiên vẫn chấp nhận đi theo hắn đến tận cổng thành. Hắn vô cùng thất vọng và tìm đến người bạn thứ ba. Hắn tạ lỗi trước và xin người bạn này giúp đỡ cho mình. Không ngờ người bạn thứ ba lại tiếp rước hắn thật ân cần, luôn miệng gọi hắn là người bạn thân thiết nhất của mình, và cho biết là trước đây hắn đã từng giúp đỡ mình từng li từ tí nên không thể nào quên ơn được. Chẳng những người bạn này đi theo vào tận bên trong thành mà còn hết lòng bênh vực cho hắn nữa. Người bạn thứ nhất tượng trưng cho của cải trong thế gian này, của cải ấy không thể giúp đỡ gì cho hắn ngoài việc sử dụng để mua một tấm vải liệm trước ngưỡng cửa của cái chết, người bạn thứ hai tượng trưng cho gia đình và bạn hữu, thế nhưng chính họ thì cũng đang bận tâm với những đau buồn của họ và họ chỉ đủ sức ngồi bên cạnh hắn trong giây phút cuối cùng mà thôi. Người bạn thứ ba tượng trưng cho những hành động từ thiện, và đấy là những gì mà hắn có thể trình ra trước sự phán xét cuối cùng". Sau đó Bilawhar còn đưa ra thêm các lời dạy bảo khác nữa, và trước khi từ giã Yûdâsaf, Bilawhar còn bảo với Yûdâsaf rằng hắn còn phải vượt qua nhiều thử thách khác trong một thời gian nữa trước khi được gặp lại ông ta. Hai hình minh họa trong các bản thảo thuộc thời Trung Cổ, kể lại huyền thoại Barlaam và Josaphat (một người rơi xuống vực sâu với được một cành cây, con kỳ lân một sừng húc vào người này, con rồng thì há miệng để chờ cắn xé) Tranh minh họa in từ bản gỗ của Boetius Adam Bolswert [1580-1634] (một người đang rơi xuống giếng sâu, trên miệng giếng có một con kỳ lân, vách giếng thì có bốn con rắn đang phun nọc độc, dưới đáy giếng có một con rồng đang phun lửa) Điêu khắc trên vòm cổng phía nam của nhà rửa tội tại Parma (nước Ý) tác phẩm của nhà điêu khắc Benedetto Antelami (thế kỷ XIII) (xin chú ý hình chạm nổi ở giữa: bên trên có một người với được một bụi cây, bên dưới là một con rồng....) Thật vậy, sau "bốn lần gặp gỡ" (người mù, người cùi, người già và Bilawhar) Yûdâsaf đã phải chịu đựng đủ mọi thử thách. Vua cha nhận thấy tánh tình con mình bỗng dưng đổi thay, bèn dọ hỏi và biết con mình đã cải đạo. Vua cha liền sử dụng đủ mọi xảo thuật để làm cho con mình đổi ý: trước hết ông tổ chức một buổi tranh luận về thần học, thế nhưng Yûdâsaf đã thắng! Sau đó thì ông xúi bẩy con mình ham muốn xác thịt..., thế nhưng Yûdâsaf chỉ bị cám dỗ có một phần, có nghĩa là sau đó Yûdâsaf đã thoát ra được sự cám dỗ, thế nhưng cũng đã sinh được một đứa bé trai. Thấy có người thừa kế, Vua cha vui mừng trở lại và sau đó ông đã cải đạo theo Yûdâsaf... Cũng khá tương tự với trường hợp của Đức Phật có một người con trai là La-hầu-la (Rahula), Yûdâsaf sau khi có con vẫn tiếp tục lưu lại trong lâu đài của Vua cha, tuy nhiên lúc nào cũng nuôi mộng rời bỏ thế tục để sống cuộc đời khổ hạnh đúng như những gì mà Bilawhar từng đề cao! Một hôm có một vị thiên thần hiện ra và khuyên Yûdâsaf hãy bỏ trốn... Vị hoàng tử bèn rời bỏ lâu đài: đấy là một cuộc "Ra đi Trọng Đại"! Yûdâsaf cởi quần áo để trao đổi với một người ăn mày và sống cuộc đời khổ hạnh mà mình hằng mơ ước. Sau vài năm sống cô đơn "trong sa mạc", Yûdâsaf được thụ giáo về "sự hiểu biết Tối Thượng và Độc Nhất!", và ngay sau đó thì quay lại vương quốc của cha mình để cải đạo cho toàn thể dân chúng, an ủi Vua cha trên giường bệnh và sắp lìa đời. Yûdâsaf phong người giám hộ của con mình làm nhiếp chính, và sau đó thì ra đi vĩnh viễn... Hai bức minh họa thuộc thế kỷ XV Tranh bên trái diễn tả cảnh hoàng tử đang than khóc vì bị nhốt trong lâu đài. Tranh bên phải là cảnh hoàng tử Josaphat ra đi, góc phải phía trên của tấm tranh cho thấy hoàng tử đang cởi áo để trao đổi với một người ăn mày. Thật rõ ràng trên đây là các tình tiết nhắc lại những gì xảy ra từ khi Đức Phật ra đi cho đến khi quay lại kinh đô Ca-tì-la-vệ (Kapilavastu) nơi sinh thành của mình. Vào dịp trở về này Đức Phật cũng đã thuyết giảng cho nhiều người trong vương quốc của Vua cha và sau đó thì họ đã trở thành các vị tỳ kheo..., trong số này có cả con trai của Ngài là La-hầu-la. Thật vậy, hình như các người Á Rập và kể cả những người Ba Tư trước họ nữa, (tức là những người "sáng chế" ra câu chuyện Yûdâsaf và Bilawhar) tất cả có thể đã không hề biết tí gì về các sự kiện trên đây! Đối với chuyện có một thiên thần hiện ra để thúc dục Yûdâsaf rời bỏ lâu đài Vua cha thì cũng không phải là chuyện do người Hồi Giáo tự bịa đặt thêm, vì nhiều kinh sách Phật giáo cũng kể lại là khi hoàng tử rời bỏ lâu đài Vua cha thì có nhiều vì thần linh hiện ra để nâng bốn chân con ngựa của hoàng tử lên, hầu tránh không gây ra tiếng động khiến có thể đánh thức những người hầu cận trong lâu đài. Sau đó thì các tập sách bằng tiếng Á Rập kể lại các câu chuyện trên đây đã được chuyển dịch sang ngôn ngữ của xứ Georgia (thuộc Liên Sô cũ). Đức Phật trở thành thánh Josaphat như thế nào... Xứ Georgia nằm giữa vùng biên giới chia cách Âu Châu và Á Châu và đồng thời cũng nằm giữa Hắc Hải và biển Caspian, là quốc gia đầu tiên trong toàn vùng đã ngả theo Thiên Chúa giáo, và hơn nữa còn đưa tôn giáo này lên hàng quốc giáo vào thế kỷ thứ VI. Do đó chính trên quê hương này câu chuyện về sự tích Đức Phật đã biến thành một huyền thoại Thiên Chúa giáo. Người ta được biết có tất cả ba văn bản bằng tiếng Georgia khác nhau về câu chuyện này, và các nhân vật thì được gọi là Balawhar và Iodasaph. Một văn bản "dài" được lưu lại đến nay là một bản chép tay vào thế kỷ XI, một văn bản khác thuộc loại "ngắn" là một bản chép tay thuộc vào thế kỷ XII, bản thứ ba là bản xưa nhất thuộc thế kỷ thứ IX rất gần với các bản trước tác bằng ngôn ngữ Á Rập trước kia và cũng là bản ít bị Thiên Chúa giáo hóa hơn cả... Các người Thiên Chúa giáo bị thu hút mạnh hơn so với những người Á Rập về lối sống khổ hạnh nêu lên trong câu chuyện. Họ xem đấy là lối sống lý tưởng và gần nhất với cuộc đời của Chúa Giê-Xu - cũng có nghĩa là lối sống của Đức Phật đã được Thiên Chúa giáo hóa. Lối sống khổ hạnh đó đã trở thành một thứ khuôn mẫu cho thiên hướng của những người Thiên Chúa giáo: một thứ động cơ thúc dục họ hãy tìm lấy cho mình sự tuyệt đối trong cảnh cô đơn, biểu trưng cho một sự thách đố trước mọi khó khăn và thèm khát - nhất là thèm khát xác thịt! Dù một vài chi tiết trong huyền thoại trước đây đã bị "sửa đổi" và câu chuyện đã được hoàn toàn Thiên Chúa giáo hóa, thế nhưng nhân vật Iodaphat vẫn là biểu trưng cho một con người cưỡng lại được sự cám dỗ của phụ nữ mà Vua cha đã cố tình tạo ra, và Iodaphat đã rời bỏ lâu đài không cần nghĩ đến vợ con và cả ngai vàng... Sự tích cuộc đời Đức Phật sau khi được truyền bá vào các vùng lãnh thổ Thiên Chúa giáo đã được dịch ra nhiều thứ ngôn ngữ khác nhau và được sửa đổi để thích nghi với các giáo lý mới. Trong hậu bán thế kỷ thứ X, một nhà dịch thuật nổi danh người Georgia là Euthyme ngụ tại tu viện Ivoron trên ngọn núi Athos của xứ Hy Lạp (Athos là một ngọn núi thiêng của xứ Hy Lạp, vào thế kỷ thứ X nơi đây đã từng có 20 tu viện được xây cất và có đến 2.200 tu sĩ, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma cũng đã từng thăm viếng nơi này) đã dịch câu chuyện này từ tiếng Georgia sang tiếng Hy Lạp, và nhân vật Iodasaph trở thành Ioasaph. Bản dịch này còn lưu lại đến nay dưới dạng một bản chép tay năm 1021. Bản này cũng là bản gốc được sử dụng để dịch sang các ngôn ngữ khác nữa, chẳng hạn như các tiếng Ác-mê-ni (Arménien - Amenian), tiếng Slavia và tiếng La Tinh. Trong bản tiếng La Tinh thì Iosaphat lại trở thành Josaphat, và sở dĩ có sự thay đổi đó là vì tiếng La Tinh không phân biệt giữa hai chữ i và j. Vào khoảng năm 1047 hay 1048, có một tu sĩ "thích phiêu lưu" đã đến tận Constantinople (ngày nay là kinh đô Istanbul của Thổ Nhĩ Kỳ) và theo lời của chính ông kể lại, thì ông "rất say mê tìm tòi các sách viết bằng ngôn ngữ Hy Lạp và hy vọng sẽ khám phá ra một thứ gì đó để lưu lại ngàn đời"! Và rồi bỗng nhiên có một người tên là Léon đã trao tận tay ông một quyển sách. Trong quyển sách do ông dịch sau này ông có viết thêm một đoạn như sau: "Vị này (tức người trao quyển sách), nhân danh Chúa Trời và để tôn vinh vị tối thiện Barlaam, đã khẩn cầu tôi dịch tác phẩm này của thời Cổ Đại từ tiếng Hy Lạp sang tiếng La Tinh, một thứ tiếng được nhiều người biết hơn. Quyển sách này trước đây bị vùi sâu trong quên lãng và chưa hề có ai dịch, [...]. Tôi tự hứa sẽ dịch thật trung thực từng chữ một, đúng theo cách diễn đạt của người xưa, thế nhưng sau đó thì tôi cũng lại nghĩ rằng trong công việc dịch thuật này, tôi sẽ phải trả cái giá thật đắt vì tôi sẽ sửa đổi một vài chỗ nhằm mục đích giúp cho bản dịch thu hút mạnh hơn những ai có nhiều đức tin..." Đấy là bản dịch đầu tiên sang tiếng La Tinh và bản này đã được lưu hành trên khắp các quốc gia Thiên Chúa giáo trong thế giới Tây phương thời bấy giờ. Thế nhưng sự thành công vô song của câu chuyện Josaphat thật ra là nhờ vào một tác phẩm của Jaques de Voragine (1225-1298), một nhà thần học thuộc dòng tu Đô-mi-ních, và cũng là vị tổng giám mục địa phận Genova (một thành phố của nước Ý). Tác phẩm này được trước tác vào năm 1264 nhằm ghi lại "Cuộc đời của các vị Thánh" và mang tựa đề là "Huyền thoại Vàng son" ("Légende Dorée"). Quyển sách đã thành công rực rỡ! Câu chuyện về Thánh Barlaam và Thánh Josaphat kể lại trong quyển sách này đã trở thành một câu chuyện ăn khách nhất ("best seller" trong nguyên bản) vào thời Trung Cổ... Thật nhiều các tác phẩm khác, gồm cả văn xuôi lẫn văn vần, đã được trước tác dựa vào bản gốc trên đây, trong số này có cả một số phóng tác dưới dạng kịch bản để trình diễn trên sân khấu, và hầu hết các tác phẩm này vẫn còn được lưu truyền đến nay. Ngoài ra bản gốc trong quyển sách của Voragine trên đây còn được dịch ra hầu hết các ngôn ngữ Âu Châu như: Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, ngôn ngữ Provence (ngôn ngữ địa phương thuộc miền nam nước Pháp), Ái Nhĩ Lan, Đức, Anh, Hòa Lan, Na Uy và Thụy Điển!... Phần đọc thêm: Tài liệu trên đây còn đưa ra một vài thư tịch giúp người đọc tìm hiểu thêm: * Hai bài viết của tác giả Serges Leclerc trong tạp chí "Tao Yin" với tựa đề "Đức Phật, Josaphat và Barlaam: “Huyền thoại Vàng son” và thông điệp do tập sách này gửi gấm" (Bouddha, Josaphat : La légende dorée et son message): http://wusong.free.f...i0/josaphat.htm http://wusong.free.f...i0/josapha2.htm * Nhà xuất bản Editions Gallimard phát hành vào năm 1993 một bản dịch từ tiếng Georgia sang tiếng Pháp về cuộc đời của Thánh Josaphat, do hai dịch giả là Annie và Jean-Pierre Mahé thực hiện. Quyển sách mang tựa đề là "Trí tuệ của Balawhar - Cuộc đời của Đức Phật được Thiên Chúa giáo hóa" (La Sagesse de Balahvar. Une vie christianisée du Bouddha), quyển sách này được xếp vào bộ sách "Tìm hiểu Đông Phương" của nhà xuất bản. Ngoài phần dịch thuật ra, quyển sách còn gồm thêm một phần giới thiệu thật xuất sắc. * Nếu muốn tìm hiểu thêm về cuộc đời của Thánh Josaphat dưới dạng hoàn toàn Thiên Chúa giáo hóa thì có thể xem trang web của Thụy Sĩ. Trang web này đã đưa lên toàn bộ tác phẩm "Huyền thoại Vàng son" của tu sĩ dòng Đô-mi-ních là Jaques de Voragine: http://www.abbaye-sa.../tome03/181.htm Ngoài ra thì bài viết trước đây của người dịch về câu chuyện Barlaam và Josaphat cũng đã được đưa lên một số trang web: http://www.thuvienho...15-2_10-2_12-1/ http://www.quangduc....oasaph-_R1_.pdf Saint Géniès de Magoirès, 24.09.11 Hoang Phong chuyển ngữ * Câu chuyện về Thánh JOSAPHAT hay là chuyện Nhà thờ Thiên Chúa Giáo từng phong thánh cho Đức Phật Tài liệu của Viện Đại Học Phật Giáo Âu Châu (http://www.bouddhismes.net/node/189) (Hoang Phong chuyển ngữ) http://phathoc.net/thoi-su/
-
Có Phải Chúa Giê-Su Đến Ấn Độ Để Học Phật Pháp, Vệ Đà? Tuệ Uyển chuyến ngữ Did Christ come to India to study Buddhism, Vedas? By Madhusree Chatterjee, IANS, December 25th, 2009 Jesus ngồi thiền trong rừng (không rỏ nguồn) New Delhi, India – Vấn đề nổi bật trở lại trên chúa Giê-Su Ki-Tô và sự liên hệ của ngài với Ấn Độ khi thế giới mừng Chúa Giáng sinh vào thứ Sáu. Một số nhà sử học tin rằng ngài đã dành 17 năm trong buổi thiếu thời – từ lúc 13 đến 30 - ở Ấn Độ học hỏi Phật Pháp và kinh Vệ Đà. Có những sự nhắc đến rằng gia đình Giê-Su (cha mẹ) cư ngụ tại Nazareth, nhưng ngài xuất hiện lần kế ở Nazareth, khi Giê-Su 30 tuổi. Ngài được nói đã từng lớn lên trong tuệ giác và phát triển trong những năm vắng bóng, “nhà sản xuất phim Anh quốc Kent Walwin nói với IANS(1). Ở đây để nhận phần thưởng Dayawati Modi vì nghệ thuật, văn hóa , và giáo dục năm 2009, dự án mới nhất của Walwin, “Tuổi trẻ của Giê-Su: Những Năm Vắng Bóng”, sẽ khám phá những năm đầu của chúa cứu thế, những điều không được diễn tả trong Thánh Kinh. Theo Walwin, bộ phim của ông là “trên Phúc Âm Tông Đồ, nói rằng Giê-Su được thấy lần cuối cùng ở Tây Á khi ngài khoảng 13 – 14 tuổi”. Phần thứ nhất của bộ phim sẽ căn cứ trên Phúc Âm và phần thứ hai của phim sẽ là “thuần phỏng đoán căn cứ trên dữ liệu lưu trử”, nhà làm phim nói thế. Có một vài sự nhắc đến sự liên kết ở Ấn Độ. Vào năm 1894, một bác sĩ Nga, Nicolas Notovitch, xuất bản một quyển sách tựa để là “Cuộc đời không được biết của Giê-Su” căn cứ trên hành trình bao quát của ngài ở A Phú Hản, Ấn Độ, và Tây Tạng. Trong một trong những chuyến du hành của mình, ông đã viếng Leh, thủ phủ của Ladakh và ở trong tu viện Phật Giáo, Hemis, một thời gian khi ngài bị gảy chân. Tại tu viện, ngài được thấy hai tập tài liệu lớn màu vàng bằng Tạng ngữ, “Cuộc đời của Thánh Issa”. Giê-Su được liên hệ như Issa – hay con trai của thượng đế - bởi một nhà học giả Vệ Đà, người dạy kèm ngài trong thánh kinh Vệ Đà. Notovitch ghi xuống 200 đoạn kệ từ văn kiện ở phía sau nhật ký của ông mà ông giữ trong suốt chuyến du hành. Tài liệu sau này tạo thành một cơn giông bảo ở phương Tây. Tu sĩ ở tu viện Hemis, tọa lạc khoảng 40 cây số bên ngoài Leh trên đỉnh một ngọn đồi, làm vững thêm huyền thoại của Giê-Su ở Ấn Độ. Giê-Su được nói đã từng thăm viếng đất nước chúng ta và Kashmir để học hỏi Phật Pháp. Ngài được truyền cảm hứng bởi giới luật và tuệ giác của Đức Phật,” một lạt ma lão thành của tu viện Hemis đã nói với IANS. Thượng thủ của trường phái Phật Giáo Drukpa, Gwalyang Drukpa, tu viện trưởng tu viện Hemis, cũng tin tưởng vào huyền thoại. Swami Abhedananda, một học giả tâm linh và nhà tiên tri của Bengal, đã từng du hành đến Hy Mã Lạp Sơn để khảo sát huyền thoại Giê-Su thăm viếng Ân Độ”. Buổi nói chuyện của ông về một quyển sách mang tựa đề “Kashmir O Tibetti”, nói về một cuộc viếng thăm tu viện Hemis ở Ladakh. Nó bao gồm một bản dịch bằng tiếng Bengal hai trăm đoạn kệ về “Huyền thoại Issa” mà Notovitch đã sao chép lại. “Mọi người yêu mến ông bởi vì Issa sống trong hòa bình với những người Vaishyas và Shudras, là những người ông đã chỉ dẫn và giúp đở,” Roerich nói trong sự trường thuật của ông. Sự giảng dạy của Giê-Su ở những thành phố thiêng liêng cổ truyền của Jagannath (Puri), Banares (ở Uttar Pradesh), và Rajagriha (Bihar) và làm những người Bà La Môn phẩn nộ, họ làm áp lực ngài phải lẫn tránh khỏi Hy Mã Lạp Sơn sau sáu năm, những nhà sử học và tác giả nói thế. Giê-Su, nói trong những tài liệu lưu trử, đã dành sáu năm khác nữa để học hỏi Phật Pháp ở Hy Mã Lạp Sơn. Quyển sách của học giả Đức, Holger Kersten, “Giê-Su Đã Sống ở Ấn Độ”, cũng đã kể về câu chuyện những năm đầu của Giê-Su ở Ấn Độ. “Người trai trẻ đến vùng Sindh (dọc theo sông Ấn Hà) cùng với những người buôn bán. Cư ngụ trong những người Arya với mục tiêu hoàn thiện chính mình và học hỏi những giới luật của Đức Phật vĩ đại. Người trai trẻ du hành rộng rãi qua những vùng đất của năm con sông (Punjab), ở lại một thời gian ngắn ngủi với những người Kỳ Na Giáo (2) trước khi tiến tới Jagannath,” Kersten nói trong quyển sách của ông. Trong phiên bản tiếng Anh của Luận thuyết bằng tiếng Urdu được viêt bởi nhà sáng lập phong trào Hồi Giáo Ahmaddiya, Hazrat Mirza Ghulam Ahmad (1835-1908), cũng kể về một “chuyến viếng thăm lần thứ hai của Giê-Su đến tiểu lục địa” (3) sau khi ngài “được báo cáo thoát khỏi Thánh Giá”. Giê-Su đã viếng thăm A Phú Hản, “Nơi ngài đã gặp những người Do Thái” những người đã trú ngụ ở đấy để trốn tránh sự bạo ngược của hoàng đế Do Thái Nebuchadnezzar và rồi thì đến Thung Lũng Kashmir, nơi ngài đã sống nhiều năm. nguồn: http://www.phathoc.net/tieudiem Kính gửi độc giả bộ phim tài liệu cho hãng BBC sản xuất với tựa đề: Chúa Giêsu từng là Tu sĩ Phật Giáo - Jesus was a Buddhist Monk http-~~-//www.youtube.com/watch?v=-YbUEZfJJaQ ĐÔI NÉT SƠ LƯỢC VỀ ‘CHÚA JESUS’ Jesus (Giêsu) là người sáng lập ra Thiên Chúa Giáo (Kitô giáo / Cơ Đốc giáo). Jesus là người Do Thái có tên là Yehoshua. Đối với người đương thời, Jesus còn được biết dưới tên 'Jesus người xứ Nazareth', hoặc 'Jesus con ông Giuse'. Sơ Lược: Jesus, theo các sách Phúc Âm, là một nhà thuyết giáo và người chữa bệnh bằng phép mầu, cũng là người thường bất đồng với giáo quyền Do Thái, và cuối cùng ông bị đóng đinh trên thập tự giá dưới phán quyết của chính quyền Đế quốc La Mã theo ý giáo quyền Do Thái. Cuộc Đời Và Tư Tưởng: Theo Tân Ước, Jesus sinh tại Belem (gần Jerusalem). Mẹ của ông là Maria. Giuse (Joseph) chồng của Maria, chỉ được nhắc đến trong thời thơ ấu của Jesus, dẫn đến những suy đoán rằng Giuse qua đời trước khi Jesus bắt đầu đi thuyết giảng. Jesus trải qua thời niên thiếu tại làng Nazareth thuộc xứ Galilee. Chỉ có một sự kiện xảy ra trong thời gian này được ghi lại là khi cậu bé Jesus theo gia đình lên Jerusalem trong một chuyến hành hương. Bị thất lạc khỏi cha mẹ, cuối cùng cậu bé Jesus 12 tuổi được tìm thấy trong Đền thờ, đang tranh luận với các học giả. (Cuộc đời Jesus từ năm 12 tuổi đến khi ông 30 tuổi là một khoảng trống bỏ ngõ mà các sử gia và các nhà nghiên cứu đặt ra nhiều giả thuyết về giai đoạn này trong cuộc đời ông…) Ngay sau khi chịu lễ rửa tội bởi Gioan Tẩy Giả (John the Baptist), Jesus bắt đầu đi rao giảng, khi ấy ông khoảng ba mươi tuổi. Theo Kinh Thánh, Jesus đã cùng các môn đồ đi khắp xứ Galilea để giảng dạy và chữa bệnh. Cung cách giảng dạy mang thẩm quyền, uy lực cùng với kỹ năng diễn thuyết điêu luyện, Jesus sử dụng các dụ ngôn để giảng dạy quan điểm về tình yêu thương nên đã thu hút rất nhiều người. Họ tụ họp thành đám đông và tìm đến bất cứ nơi nào Jesus có mặt. Jesus có nhiều môn đồ, thân cận nhất là mười hai sứ đồ (Thánh tông đồ), Phêrô (Peter) được Thiên Chúa Giáo Rôma cho là sứ đồ trưởng. Theo Tân Ước, Jesus làm nhiều phép lạ như chữa bệnh, đuổi tà ma… Nhiều người xem Jesus như một nhà cải cách xã hội, những người khác tỏ ra nhiệt thành vì tin rằng ông là vị vua đến để giải phóng dân Do Thái khỏi ách thống trị của Đế quốc La Mã, trong khi giới cầm quyền thời bấy giờ xem Jesus như một thế lực mới đe dọa những định chế tôn giáo và chính trị đương thời. Bị Bắt và Bị Xét Xử: Jesus cùng các môn đồ lên thành Jerusalem vào dịp Lễ Vượt Qua (Passover); ông vào Đền thờ Jerusalem, đánh đuổi những người buôn bán và những kẻ đổi tiền, lật đổ bàn của họ và quở trách họ rằng: "Nhà ta được gọi là nhà cầu nguyện nhưng các ngươi biến thành hang ổ của bọn trộm cướp". Sau đó, Jesus bị bắt giữ theo lệnh của Toà Công luận (Sanhedrin) bởi Thượng tế Joseph Caiaphas. Trong bóng đêm của khu vườn ở ngoại ô Jerusalem, lính La Mã nhận diện Jesus nhờ cái hôn của Judas Iscariot, một môn đồ đã phản Jesus để nhận được tiền. Tòa Công luận cáo buộc Jesus tội phạm thượng và giao ông cho các quan chức Đế quốc La Mã để xin y án tử hình, không phải vì tội phạm thượng nhưng vì cáo buộc xúi giục nổi loạn. Dưới áp lực của giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái, Tổng đốc Pontius Pilate ra lệnh đóng đinh Jesus. Sau khi Jesus chết, Giuse người Arimathea đến gặp Pilate và xin được phép chôn cất Jesus với sự chứng kiến của Maria (mẹ ông), Maria Magdalena (nhiều người cho rằng bà là vợ của Jesus, một số sách Thiên Chúa và Tin Lành mô tả Maria Magdalena là ‘một người phụ nữ theo Jesus’) và những phụ nữ khác. Phục Sinh và Thăng Thiên: Các tín đồ Thiên Chúa Giáo tin rằng Jesus đã sống lại vào ngày thứ ba sau khi chết trên thập tự giá. Sự kiện này được đề cập đến theo thuật ngữ ‘sự Phục sinh của Jesus’, được cử hành hằng năm vào ngày Lễ Phục sinh (Easter). Mẹ, vợ của Jesus (Maria Magdalena) và Salome khi đến thăm mộ với thuốc thơm để xức xác ông (theo tục lệ thời ấy) thì chỉ thấy ngôi mộ trống mà trước đó họ đã an táng ông trong đó. Theo ‘Phúc Âm Gioan’ thuật rằng khi vợ Jesus là bà Maria Magdalena - đến bên ngôi mộ trống thì thấy hai thiên sứ mặc áo trắng. Hai thiên sứ hỏi: "Hỡi đàn bà kia, sao ngươi khóc? Người thưa rằng: Vì người ta đã dời Chúa tôi đi, không biết để Ngài ở đâu". Vừa nói xong người xoay lại thấy Jesus tại đó; nhưng chẳng biết ấy là ‘Đức Chúa Jesus’ (?). Các sách Phúc Âm và Công vụ đều ghi nhận rằng Jesus đã gặp lại các môn đệ tại các nơi chốn khác nhau trong suốt bốn mươi ngày trước khi về ‘Trời’. Hầu hết các tín đồ Thiên Chúa Giáo chấp nhận câu chuyện phục sinh, như được ký thuật trong Tân Ước, là sự kiện lịch sử và xem đây là tâm điểm cho đức tin của họ mặc dù theo quan điểm của một số tín hữu thuộc trào lưu tự do (liberalism), đây chỉ là câu chuyện có tính ẩn dụ. Di Sản của Jesus: Theo hầu hết các giải thích của Thiên Chúa Giáo trong Kinh Thánh, các chủ đề cơ bản của những lời răn dạy của Jesus là sự hối cải, tình yêu vô điều kiện, tha thứ tội lỗi và khoan dung và về ‘Thiên Đường’. Khởi đầu như một giáo phái nhỏ của người Do Thái, nó đã phát triển và trở thành một tôn giáo riêng biệt so với đạo Do Thái vài thập kỷ sau cái chết của Jesus. Thiên Chúa Giáo đã lan rộng ra khắp đế chế La Mã dưới phiên bản được biết đến như Tín điều Nicea và trở thành quốc giáo dưới thời Theodosius I. Qua hàng thế kỷ, nó lan rộng đến hầu hết châu Âu và trên toàn thế giới. Nhận Định Từ Một Số Tôn Giáo: Hầu hết các tín đồ Thiên Chúa Giáo và Tin Lành tin rằng: Jesus là Thiên Chúa, là Đấng Messiah mà sự xuất hiện đã được tiên báo trong Cựu Ước. Họ tin rằng Jesus là Thiên Chúa hóa thành con người, xuống thế gian để cứu nhân loại khỏi tội lỗi và sự chết bởi máu của Jesus đã đổ ra khi bị đóng đinh trên thập tự giá như là sinh tế chuộc tội cho loài người. Họ cũng tin rằng Jesus đã sống lại từ cõi chết… Do Thái giáo thì cực lực phản đối niềm tin nói trên. Họ không xem Jesus là Thiên Chúa xuống thế làm người, cũng không nhận đó là nhà tiên tri, thậm chí coi Jesus là nhà tiên tri giả hay kẻ xúc phạm đến Thiên Chúa của họ. Họ cho rằng, kể từ sau sự sụp đổ lần thứ hai của Đền thờ Jerusalem, không có một tiên tri nào xuất hiện thêm nữa. Cho đến tận bây giờ, họ vẫn đang hy vọng có một Đấng 'Messiah' từ trời xuống. Phật giáo hầu như không đưa ra nhận định nào về vai trò Jesus trong kinh sách Phật giáo. Đối với Phật tử, dựa theo lịch sử, Jesus chỉ là một con người. Tuy nhiên, một vài Phật tử - đứng trên tinh thần ngoại giao - trong đó có Đức Dalai Lama XIV (Tenzin Gyatso) xem Jesus như một vị Bồ tát, người cống hiến đời mình cho hạnh phúc tha nhân. Một người Nhật có tên Kōtoku Shūsui tác giả cuốn “Kirisuto Massatsuron” (基督抹殺論 - Cơ Đốc Mạt Sát Luận) cho rằng Chúa Jesus chỉ là một nhân vật thần thoại và không có thực. Phật Giáo Đại Chúng tổng hợp (dựa theo Wikipedia Việt ngữ)
-
Bài chòi Huỳnh Hữu Uỷ trích từ Tạp chí Văn số Xuân Bính Tuất 2006 Suốt trên dải đất dọc miền Trung Trung bộ, từ Bình Trị Thiên qua Nam Ngãi và vào đến Bình Định, Phú Yên, cứ vào những ngày Tết đến lại xuất hiện trong sinh hoạt giải trí dân giã một trò chơi bài bạc mang nặng tính chất đình đám hội hè: trò chơi bài chòi. Bài chòi sử dụng những quân bài của bộ bài tới thường được chơi giữa sáu người là anh em, bà con trong gia đình, rồi biến thành một lối chơi nơi công cộng, trước sân đình làng hay bên đình chợ, ngồi trên 11 nhà chòi cao hai hay ba thước, năm chòi dựng bên trái, năm chòi dựng bên phải, ở giữa là một chòi “trung ương”. Đánh bạc không cốt ăn thua, mà chỉ để vui xuân, để giải trí, cốt để hô bài chòi, một loại sinh hoạt văn nghệ rất đặc biệt, đậm đà tính dân tộc, và có lẽ ít nhiều cũng mang hơi hướm một buổi trình diễn hát bội hay chèo tuồng nơi hương thôn ngày trước. Bài chòi, trước đây đã có nhiều người nghiên cứu và khảo sát khá kỹ, riêng về bài tới, cũng có một đôi người để ý đến nhưng chưa được đầy đủ gì lắm. Hôm nay, chúng ta sẽ thử lật lại xem một số quân bài tới, đặc biệt lưu ý đến những nét vẽ, hình tượng độc đáo trên các quân bài, độc đáo đến độ đôi lúc rất kỳ dị, khó hiểu [1] . Tổ tôm điếm (trích từ sách Connaissance du Việt Nam) Bài tới ở miền Trung cũng như tranh Tết ở miền Bắc, thường chỉ xuất hiện vào những ngày Tết đến, kéo dài trong tháng Giêng là tháng ăn chơi, rồi sẽ tàn nát đi vì chất liệu thô sơ, giản dị, nghèo nàn khi tháng Hai đến, khi nhân dân bắt đầu bắt tay trở lại với nhịp sống lao động sản xuất bình thường. Không được bền chắc, đẹp đẽ và sang trọng như một bộ bài Tây hay bài Tàu, bài tới thường được in ra từ những làng quê xa xôi, hẻo lánh, theo kỹ thuật mộc bản, in trên giấy dó, giấy bản đã được phủ qua một lớp điệp, rồi bồi lên một lớp giấy cứng, mặt sau con bài được quét một lớp phẩm màu đỏ, xanh lá cây hay xám sẫm. Trong chừng vài mươi năm trở lại đây, cách in ấn cũng như chất liệu làm thành quân bài chẳng được canh tân hơn chút nào mà lại còn kém đi nhiều, vẫn nét vẽ thô sơ, ngưòi ta không còn phủ điệp trước khi in nét vẽ đen lên, giấy in thì mỏng và xấu, rồi dán lên trên những tấm bìa cũng rất xấu. Chỉ có một điều mới, là ngày xưa, trên quân bài có những tên gọi ghi bằng chữ Nôm thì nay đã được đổi thành chữ quốc ngữ [2] . Bốn người chơi bài tam cúc (trích từ sách Connaissance du Việt Nam) Ở Huế, có một địa phương là làng Sình, nơi mà cho đến hiện nay cũng còn để lại rất nhiều vết tích về dân tộc học, về những đình đám hội hè, trò vui chơi ngày Xuân như đấu vật, bơi thuyền, nằm về phía đông bắc kinh thành Huế, đi về phía chợ Bao Vinh thuộc làng Thế Lại, từ đấy vượt qua sông Bao Vinh sẽ gặp làng Sình. Sình là tên gọi quen thuộc trong dân gian, tên chính thức là làng Lại An, nằm cận kề vùng duyên hải, nơi có tiếng lắm tôm nhiều cá như trong dân ca Huế vẫn thường nhắc nhở: “Cá tôm mua tại chợ Sình. Triều Sơn bán nón, Bao Vinh bán đường”, mà cũng là nơi chuyên nghề in tranh cung cấp cho các cửa hàng vàng mã, đặc biệt nhất là sản xuất những bộ bài tới, cung cấp cho đồng bào quanh Huế và các vùng phụ cận vui chơi, giải trí trong những ngày Xuân mới. Về sau này, người Tàu sinh cư buôn bán quanh vùng cầu Gia Hội, ngay ở chính trung tâm thành phố, đã in ấn bộ bài tới một cách có kế hoạch và qui mô hơn, tuy cũng chỉ bằng kỹ thuật mộc bản mà thôi. Nếu bài chòi là một thú vui chơi hoàn toàn Việt Nam, do người Việt tự nghĩ ra, không vay mượn của nước nào thì bài tới cũng thế, rất Việt Nam, cả hình thức cũng như nội dung. Ở miệt Huế và Quảng Nam, trong dân gian có bài vè: Nghe vẻ nghe ve Nghe vè bài tới Cơm chưa kịp xới Trầu chưa kịp têm Tôi đánh một đêm Thua ba tiền rưỡi Về nhà chồng chửi Thằng Móc, Thằng Quăn Đánh sao không ăn Mà thua lắm bấy Tôi lấy tiền cấy Cho đủ mười ngày Bảy giày bảy sưa Cũng là nhịp kéo Chị em khéo léo Dễ mượn dễ vay Thân tôi ngày rày Dầm sương dãi nắng Chị em có mắng Tôi cũng ngồi đây Nó là năm giày Nó cũng a dua Ăn thì tôi lùa Thua thì tôi chịu. <a href="http://www.xuquang.com/mambo/index.php?option=com_content&task=view&id=214&Itemid=43#baichoi-3" title="baichoi-3a">[3] Một số lá bài vẽ theo bộ bài do Ðoàn Viết Hùng sưu tầm được ở Phú Yên (Xem chú thích số 2). Hàng trên, từ trái sang: Cửu gấu, Thất liễu, Ngũ trợt, Tam quăng, Nhứt nọc. Hàng dưới, từ trái sang: Ông ầm, Bát dừng, Lục chạng, Tứ tượng, Nhì nghèo. Thằng móc, thằng quăn, bảy giày, bảy sưa, năm giày, là tên gọi của mấy quân bài, chỉ cần kể đủ tên của ba mươi quân bài cũng đủ làm cho chúng ta hết sức buồn cười. Những tên gọi nôm na, dễ dãi, hài hước, tinh nghịch, tiếng Nôm pha tiếng Hán, khi gọi thế này, khi gọi thế khác, có khi tên gọi chẳng gợi ý nghĩa gì cả mà phải xem vào nét vẽ trên con bài mới thấy được một điều gì đó. Xin kể đủ tên tất cả ba mươi con bài [4] dưới đây, để trong thoáng chốc chúng ta có thể sống lại và hoà vào giữa các trận cười ồn ào, dân dã, rất ngây ngô, hồn nhiên. Tiếng cười của những bà mẹ quê chất phác, hiền hoà vang lên dòn tan khi đang cùng nhau ngồi chơi bài tới giữa những ngày Xuân Tết, trên một chiếc giường tre nơi góc nhà vừa được trải lên một chiếc chiếu hoa mới, nghe gọi tên những con bài rất vui tai, ngộ nghĩnh, đôi lúc tưởng như tục tĩu, thô lỗ, nhưng vẫn rất tự nhiên: bảy giày, bảy sưa, ba gà, ba bụng, nọc đượng, năm rún, ông ầm, bạch tuyết (đôi nơi gọi là bạch huê, có khi còn gọi là con l…), tứ tượng, ngủ trưa… Tiếng cười cợt ồn ào ấy đúng là chỉ phát xuất ở chốn thôn dã, đồng quê, chợ búa, nơi sinh hoạt của quần chúng nhân dân lao động bình thường, chứ chẳng thể nào nổ bung ra giữa những nho sĩ nghiêm trang, đạo mạo, đúng mực chi hồ giả dã của một thời nào, thời mà đạo lý, nếp nghĩ và nếp sống phong kiến đang đè nặng lên các phần đất tổ quốc. Bộ bài tới cũng là một tấm gương nhỏ phản ảnh phần nào dòng văn hoá nghệ thuật sống động và tự do của nhân dân, không dính líu gì đến dòng nghệ thuật cung đình chính thống. Ba mươi con bài này cũng được xếp thành ba pho: văn, vạn, sách như trong lối chơi tài bàn, tổ tôm, mỗi pho là chín con (9x3=27), ba con còn lại được xếp thành ba cặp yêu: cặp ông Am, cặp Thái tử, cặp Bạch Tuyết. Như vậy, lúc chơi bài tới giữa sáu người với nhau, phải có 60 quân bài tức 30 cặp tất cả (27x2=54+3 cặp yêu). Dưới đây là tên tất cả 30 quân bài: Chín Gối, Lục Xơ, Nhì Nghèo, Thất Nhọn, Trường Hai, Trường Ba, Tứ Hường, Tám Giây, Đỏ Mỏ, Sáu Tiền, Tám Tiền, Học Trò, Cửu Thầy, Bảy Sưa, Bảy Liễu, Ngủ Trưa, Tam Quăn, Năm Giày, Ba Gà, Nọc Đượng, Tứ Gióng, Bát Bồng, Nhị Đấu, Tứ Tượng, Chín Xe, Năm Rún, Bằng Đầu, Bạch Tuyết, Thái Tử, Ông Am. Tên gọi các quân bài đã lạ lùng, kỳ dị, hình vẽ trên các quân bài càng kỳ dị và lạ lùng hơn, nó gợi lên một thế giới đầy bí hiểm, vượt lên trên cách nhìn bình thường. Tựa như cách nhìn của những trường phái hội hoạ mới, từ chối hình thể hay thanh lọc thực tại đến kỳ cùng, trừu tượng hoá sự vật, hoặc là đi đến chỗ siêu thực tại, hoặc cách điệu và ghi nhận thực tại một cách ngây ngô, hồn nhiên như trẻ con, Những hình vẽ mà chúng ta không sao hiểu nổi đã phát xuất từ những cơ cấu trí tuệ như thế nào. Nó phảng phất đâu đây một chút không khí u uất rất Chàm hay Phù Nam, những hình ảnh, đường nét, kiểu thức rất Tây Nguyên, có khi gợi dậy một chút xa xăm phi thực, mù mờ của bùa chú, hay của một cuộc sống hoang dã bên ngoài cõi đời văn minh. Trong một khảo sát về trò chơi bài chòi trước đây, Võ Phiến đã nhận xét về hình tượng các quân bài này: Nó gợi lên cảm tưởng hoặc nét vẽ của các hoạ phái siêu thực, vô hình dung, lập thể, hoặc nét vẽ trên các mộ cổ Ai Cập. Nhận xét ấy tương đối tinh tế, thú vị và xác đáng [5] . Về hình vẽ trên các quân bài, sắp riêng theo từng pho một, chúng ta sẽ thấy ở mỗi pho có một cách biểu đạt gần gần giống nhau. Các quân bài thuộc pho văn sử dụng những cách điệu gần gũi lối hình học, có những miếng tròn như bánh xe, đồng tiền hay nửa đồng tiền. Hình các con bài, trái: Nhị đấu [thuộc pho Vạn]; phải: Bảy liễu [thuộc pho Văn] Các quân bài thuộc pho vạn thì đều vẽ mặt người với những nét rằn rịt theo kiểu tranh thờ khắc gỗ dân gian, trên mỗi quân bài có ghi thêm hai chữ nho từ nhất vạn đến cửu vạn như chín quân bài trong bộ bài tổ tôm. Ba cặp bài yêu cũng chứa đựng lối vẽ như thế. Các quân bài thuộc pho sách thì đặt biệt có những nút tròn nhỏ, giữa vòng tròn có một chấm đen, ngoài những vòng tròn này còn có những đường vạch ngang rất đều, có thể hình dung như được quấn tròn đều đặn bằng dây mây. Ông Nguyễn Văn Y, nguyên Giám đốc Viện Bảo tàng Mỹ thuật Hà Nội, trong một bài giới thiệu sơ lược về những bản in tay khắc gỗ của bộ bài tới, trên tuần báo Văn hoá Nghệ thuật khoảng giữa năm 1977, do vậy, đã tạm xếp các quân bài theo lối vẽ này là quấn mây thắt nút. Chúng ta hãy lật lại một số quân bài đầy thú vị này, thưởng thức hương vị kỳ lạ của cuộc sống dân dã, là bó hoa đồng nội mà chắc chắn đã được dần dà hình thành từ một trường kỳ lịch sử, trên chuyến viễn du hùng tráng và kỳ thú của dân tộc, giữa những giao lưu, gặp gỡ của đất nước anh hùng và cuộc sống mới trong thời quá vãng. Trước tiên hãy xem qua vài quân bài thuộc pho văn, với lối vẽ gần gũi những cách điệu hình học, chỉ trừ con chín gối (còn gọi là chín nút), những điểm chính giống với loại quấn mây thắt nút, có chín nút tròn nhỏ và những vạch ngang. Con sáu tiền, vẽ sáu nửa đồng tiền ghép lại với nhau, từng đôi một, đôi này chồng lên đôi kia. Hình này khá giản dị, ai cũng hình dung được, nếu vận dụng để đưa vào trong những mô típ đề-co hiện đại cũng sẽ rất hay. Con tám tiền cũng như thế, là tám nửa đồng tiền ghép lại. Ở vùng Bình Định, lại gọi là sáu miểng, tám miểng (miểng: tiếng địa phương có nghĩa là mảnh). Hình các con bài, từ trên xuống, từ trái sang: Tám tiền, Học tro, Bạch tuyết, Cửu thầy, Tứ tượng (con Voi) và Ngủ trưa. Con bảy liễu (thất liễu), tính cách trang trí đã phức tạp hơn con sáu tiền và tám tiền, vẽ bốn đồng tiền ghép lại với nhau, ở chỗ ghép lại có một nút tròn nhỏ. Giữa các khoảng trống do các đồng tiền ghép lại có một cành liễu nhỏ không có vẻ gì là liễu, trông đúng là một thứ phức diệp (foliole), hay thứ lá có răng cưa (feuille dentée) nhưng vì có chữ liễu trên các con bài nên ta hãy xem đây là một cành lá liễu. Phía trên bốn đồng tiền có một hình xoắn trôn ốc như ta vẫn bắt gặp chạm trổ trên các đồ dùng của người Tây Nguyên. Con voi, cũng gọi là tứ tượng, ở Quảng Nam lại gọi rất nghịch ngợm là dái voi. Chúng ta sẽ không thể nào hình dung được đây là con voi, nhưng với chữ voi chú thích trên con bài, hãy tập trung cách nhìn, gạn lọc đối vật đến mức độ giản dị nhất, nghĩa là trừu tượng hoá hình ảnh một con voi được trang trí vào ngày lễ hội, nhìn từ trên xuống, chúng ta sẽ đoán được các phần đầu voi, hai tai voi, lưng voi, bành voi. Lối trang trí cách điệu này vẫn thường được gặp khắp các vùng dân tộc thiểu số như Thái, Mường, H’ Mông, Dao, Ê-đê, v.v… đặc biệt nhất là trên các cạp váy, đồ thêu, những chạm khắc bằng tre, gỗ, đồng ở vùng Tây Nguyên. Lấy một vài mẫu thêu, vài mẫu khắc trang trí rất trừu tượng của người miền núi, hỏi về ý nghĩa, chúng ta sẽ được giải đáp rất rành mạch, đây là hoa ban, cây Kơ-nia, đoàn người, là những thứ hoa sặc sỡ và vui tươi nhất của dân tộc Ê-đê: hoa Dua, hoa Ê-prang, hoa Gấc, hoa Mi-ê, là chim Xìn-tra của dân tộc Ta-pan, là hình cỡi ngựa, chim đậu trên cây trên các trang phục của người Dao. Con trường hai, vùng Bình Định gọi là nhì bánh, tương tự như một phần của hình con voi, in hình hai mảnh hình thuẫn, có người cho là hình hai chiếc bánh xe, thực ra, có thể đây là hình ảnh của bất kỳ thứ bánh gì: bánh xe, hay là hai ổ bánh lớn để ăn, muốn nghĩ thế nào thì ra thế ấy. Con trường ba, cũng như con trường hai, nhưng khác ở chỗ là chồng vào giữa hai mảnh hình thuẫn trên một mảnh hình thuẫn khác, và giữa mảnh hình thuẫn này là những đường hình thoi lớn nhỏ, chồng chồng lên nhau. Con trường ba rất nhiều người ở Huế gọi là trạng ba, cắt nghĩa là ông Trạng đỗ ba khoa, nhưng như vậy có nghĩa là thế nào? Chẳng có chút gì ở đây để có thể gợi nên hình ảnh một con người, chứ chưa nói đến hình ảnh một ông Trạng, chẳng có một chút liên hệ nào giữa tên gọi và hình vẽ. Với con bài Trạng ba chẳng hạn, người ta có thể cắt nghĩa rằng đây là quân bài do một hoạ sĩ tài tử nào đấy vẽ ra, hình vẽ đôi lúc chẳng cần biểu lộ một ý nghĩa nào cả, nó chỉ mang tính chất một dấu hiệu mà thôi. Những người lưu đãng xa nhà, không có sẵn trong tay một bộ bài thực đàng hoàng để giải trí với nhau, đành tự tạo ra ba mươi dấu hiệu cho ba mươi quân bài, để làm thành một bộ bài hoàn toàn mới mẻ. Và cũng do tính cách tài tử ấy mà chúng ta có một bộ bài vô cùng hấp dẫn, cái hấp dẫn của một thứ mời gọi bí hiểm, lạ lùng. Vậy nên, trước một quân bài, đôi lúc phát giác thêm một ý nghĩa mới, người ta lại đặt thêm một cái tên nữa cho lá bài, có lúc rất vui, rất dí dỏm, bộc ra được tất cả tiếng cười đùa tự nhiên, thoải mái. Tên gọi những con bài do thế cũng thay đổi tuỳ vào địa phương, như con voi cũng gọi là tứ tượng, dái voi; tám giây cũng gọi là tám hột; trường hai có nơi gọi là nhì bánh, có lúc gọi là nhì xe; chín gối có khi gọi là nhất gối, có khi gọi là chín nút; con tứ hường cũng gọi là cẳng hương, hay tứ cẳng v.v… Và ở vùng Qui Nhơn, Bình Định, Phú Yên lại có những tên gọi rất quái quỷ, không có nghĩa gì cả, mà âm thanh gọi lên lại bày ra cả một thế giới của những trận cười cợt ồn ào, thô sơ, hoang dã: cửu điều, ngũ trợt, ngũ dụm, ngũ dít, đổ ruột, sáu miểng, chín gan, lục chạng, sáu bường… Bây giờ chúng ta xem đến một số quân bài thuộc pho sách, đặc biệt có những nút tròn nhỏ và các vạch ngang đều đặn, rồi phía dưới là những vạch chồng chéo đối xứng nhau. Trước tiên là con tứ gióng, vẽ một đôi quang gióng, ở trên có quai xách, dưới có chân đế kiềng ra hình tam giác, thân gióng là bụng phình hình bầu dục, nơi điểm tiếp giáp của thân gióng, quai xách và chân đế là hai nút tròn nhỏ, giữa nút tròn là chấm đen như mắt cua. Đã nhìn thấy đôi gióng ở miền Trung Trung bộ, rất giản dị, bằng tre, mây hay bằng thép, có bốn quai, phía trên túm lại, phía dưới xòe ra và thắt nút rồi quấn chặt cân bằng trên bốn điểm của một vòng tròn, chúng ta sẽ không thể tưởng tượng nổi làm thế nào nhà nghệ sĩ dân gian tài tử của chúng ta đã quan sát, suy nghĩ và vẽ nên đôi gióng trên con bài này. Hẳn rằng đấy là cách thu nhận sự vật với đôi mắt thơ dại tuyệt vời. Về mặt nội dung, dù thế nào cũng hiển nhiên là những đôi gióng này đã nặng nợ lắm với dân tộc trên hành trình tay xách nách mang tiến về phương Nam, đấy là hình ảnh đôi gióng của gần 10 thế kỷ trước, từ thời quân đội nhà Lý đặt chân lên thành Đồ Bàn, hay từ hơn ba thế kỷ trước, cùng với những bước chân của lưu dân đi xây dựng đất mới dưới thời các Chúa Nguyễn? Con nọc đượng có lẽ là con bài đáng chú ý nhất, đối lập với con bạch tuyết sẽ đề cập ở dưới. Trong một cuộc chơi bài chòi, khi rút đến con nọc đượng, anh hiệu, một người có nhiều khả năng văn nghệ giữa thôn xóm, làng mạc, hô những câu hát bài chòi báo hiệu cho mọi người trong cuộc chơi về quân bài vừa rút được, có thể sẽ hô lên như vầy: Cần trúc, ống trắc, lưỡi sắc, chỉ nọ tơ Tàu Anh đây muốn câu con cá mại biển Cá mại bàu sá chi! Mấy câu trên, nghe qua, chúng ta cũng phần nào thấy được cái chí của kẻ nam nhi; sống đời phong lưu thì cũng phải vác cần đi câu ngoài biển Đông, chứ sá gì con cá mại tẹp nhẹp trong vũng bàu. Mà hơn thế nữa, câu hát cũng có gợi lên đôi chút hình ảnh chiếc cần câu ngúc ngắc, vậy thì đúng là con nọc đượng rồi. Cũng có lúc anh hiệu lại cất lời với một câu thai man mát, có gợi âm gợi hình đôi chút về chiếc cọc đã cắm xuống rồi lại nhổ lên; cắm xuống để giữ con thuyền, rồi nhổ lên để đẩy thuyền đón khách. Đò em đưa rước bộ hành Thuyền nan một chiếc tử sanh trọn bề Trải qua bãi hạc, gành nghê Quanh năm chèo chống, tứ bề sóng xô Tiếng ai văng vẳng gọi đò Mau mau nhổ nọc chèo qua đón người. Cắm cọc, cắm nọc, hay cắm sào đợi khách sang sông, những từ ngữ và hình ảnh ấy đều để dẫn đến con nọc đượng, hay nọc thược, hay nhất nọc trong pho sách của bộ bài chòi. Có lúc khác nữa, mấy câu hát trên chưa đủ mạnh, anh hiệu sẽ cương lên mà hô với giọng nghịch ngợm, pha đôi chút phấn khích, hồ hỡi. Năng cường, năng nhược, Năng khuất, năng sanh, Nó thiệt cục gân, Ngồi gần con gái trân trân chẳng xìu. Lời hô trên nghe có vẻ như tục tĩu, thô lỗ, sống sượng, nhưng đào sâu vào chúng ta sẽ thấy đáng được quan tâm nghiên cứu đến, bởi lẽ nó mang nhiều dấu vết về cách nhìn của con người trước thế giới tự nhiên, dấu vết của một vũ trụ quan vào những thế kỷ xa xưa. Ngày nay, đi ngược lên những vùng thượng du, quan sát sinh hoạt của người miền núi, chúng ta sẽ thấy đời sống sinh dục ở nhiều nơi vẫn còn là một điều rất tự nhiên. Người ta tắm rửa với nhau trần truồng bên bờ suối không một chút e dè. Những phần cơ thể cần phải che giấu, cấm kỵ ở miền xuôi, nơi đây ngượi lại, hoàn toàn phô bày ra không có gì phải xấu hổ. Người Ê-đê và Gia-rai vẫn nói đến cái đẹp của một đôi vú cong vút lên như ngà voi, đôi mông tròn đầy như trứng chim. Cái đẹp ấy rất phù hợp với bản năng sinh tồn để bảo vệ giống nòi. Xa xôi hơn trong lịch sử và thời gian, trên suốt dải đất miền Trung và Nam Trung bộ hiện nay, người Chàm của đất nước Champa cổ có tục thờ Linga tượng trưng cho dương vật và Yoni tượng trưng cho âm vật. Việc thờ phượng vật tổ này, bắt nguồn từ tục thờ đá rất xưa ở hải đảo và khắp vùng Đông Nam Á, chắc chắn phải có nhiều liên quan đến hình thái thờ phượng đất đai, là thần linh mang lại sức sống, năng lực sinh tồn, sự phồn thịnh của mọi loài sinh thực vật trên địa cầu. Linga là một cột đá, gồm ba phần: đầu tròn, thân tám cạnh và một chân đế hình vuông. Yoni là một chậu đá hình vuông hay chữ nhật, có một rãnh nước thoát gần như phần dưới của một cối đá xay bột. Các vua Chàm lúc vừa lên ngôi đều cho dựng cột Linga quốc bảo, có nghĩa là nhà vua đã tự mình đồng nhất với thần linh, với con mắt thấu suốt và tái tạo, với năng lực sinh tồn hằng cửu, khẳng định quyền lực của mình và dòng họ trước trời đất và con người. Các tô-tem này cũng thường được rước theo trong những ngày hội có nhảy múa, ca hát. Trên miền Bắc đất nước, một số nhà nghiên cứu văn học, sử học, dân tộc học, khảo cổ học cũng ghi nhận được nhiều vết tích còn đậm nét những hình thái tương tự như thế, đề cao sự sinh sôi nẩy nở, đề cao tính năng và sự tự do luyến ái, như việc thờ dâm thần và một số tập tục khác rải rác nhiều nơi tỏ ra rất quí trọng sinh thực khí, như đám rước âm vật ở làng Đông Kỵ, rồi trò chơi tranh giành nõn nường, mà theo Bình Nguyên Lộc thì dân miền Trung gọi là lỗ lường. Với tục múa mo, âm vật và dương vật được thay bằng cái mo và cây tre; con trai được gọi là Chày, và con gái là Sọt, y hệt như các tiệm chạp phô ở Ấn Độ bày chày và cối bán cho người ta mua về để thờ. [6] Một hình ảnh khác được ghi nhận cũng rất sống động là chiếc thạp đồng Đào Thịnh (Yên Bái) cao trên 80 phân được tìm thấy năm 1960 đã trở nên quen thuộc với nền văn minh Đông Sơn của người Việt cổ. Trên nắp chiếc thạp này, bốn chiếc quai đắp nổi là bốn cặp nam nữ đang giao hợp xen kẽ vào giữa những hoa văn chạm nổi. Người dân Việt cũ, trên đường thiên cư từ Bắc vào Nam, mang những cảm quan và suy nghĩ ấy đi theo cuộc hành trình, đã gặp gỡ quan niệm của dân tộc Champa, và khi vì nhu cầu giải trí, phải làm ra một bộ bài để vui chơi với nhau, những hình tượng ấy đã xuất hiện trở lại trên hai con bài bạch huê, nọc đượng. Ông Hoàng Chương, trên tạp chí Văn nghệ xuất bản ở Hà Nội, số 50, tháng 7-1961, trong một bài nghiên cứu về hát hô bài chòi đã cho rằng: Những vật thể ấy (tức là Linga và Yoni của người Chiêm Thành) được vẽ trên những con bài gọi là bạch huê, nọc đượng, của bài chòi hiện nay. Tôi không biết lúc viết bài này, ông Hoàng Chương có nắm trong tay các quân bài hay không, nhưng thực sự chỉ có con bạch huê, về mặt hình tượng, gợi lên ít nhiều hình dạng của âm vật, còn con nọc đượng, chỉ có tên gọi gợi lên một cách khá sống động hình ảnh Linga, hình vẽ thì tuyệt nhiên không còn liên hệ gì đến vật thể ban đầu. Hình các con bài, từ trái sang: Ba gà, Tứ gióng, Nọc đượng, Nhì nghèo. Hãy đối chiếu với hình chim và mái nhà sàn trên trống đồng Ngọc Lũ (Bản vẽ của Hà Nguyên Ðiểm) để có thể cảm ra một bầu không khí chung, một gốc gác chung của nền văn minh trải rộng ở vùng Ðông Nam Á cổ đại và cận đại mà bộ bài tới hẳn có nhiều liên hệ đến. Con nọc đượng, từ Quảng Nam đến Bình Định thì gọi khác đi một chút, là nọc thược. Nọc đượng, có lẽ chỉ nhấn mạnh ở chữ nọc, đượng là từ phụ không có nghĩa gì cả, ghép vào chỉ để hài thanh, tạo nên sự trôi chảy về âm thanh, cho dễ đọc, dễ nói, dễ hô lên mà thôi. Tuy nhiên, đượng cũng có thể là do biến âm, hoặc đọc trại ra từ tiếng dượng hay trượng. Dượng có nghĩa là bố ghẻ hoặc chồng cô, chồng dì, như trong câu hát Dì rằng mang rổ hái dâu, gặp dượng thằng đỏ ngồi câu bên đường. Thấy dì dượng nó cũng thương. [7] Và trượng, từ Hán-Việt, có nghĩa là cây gậy hay cái hèo. Một chữ trượng khác trong trượng phu lại có nghĩa là người đờn ông, hoặc là tiếng vợ gọi chồng [8] Như vậy, có thể tạm hiểu nọc đượng như là hình ảnh của cái cọc hay một cây gậy thẳng đứng được vạt nhọn để cắm vào đất, và bóng bẩy hơn, đó chính là tiếng gọi thông tục của linga. Hình vẽ con nọc đượng quả là hết sức lạ. Xem kỹ, chúng ta sẽ thấy là một mái nhà sàn ở Tây Nguyên, nhìn từ một bên (profil), mái nhà nghiêng dốc cao vút. Trên đỉnh mái nhà, đầu một con chim đã được kiểu thức hoá, khó lòng mà biết loại chim nào, trông tương tự như chim gõ kiến mà cũng có thể là đầu một con gà, bởi vì cũng chính đầu con chim ấy lại xuất hiện trên nhiều quân bài khác, và trên con ba gà thì lại ghi rõ ràng là gà. Ở đây, tại sao là đầu của một con chim mà không phải của một loài thú khác? Ở Trung bộ, tiếng chim vẫn được dùng để chỉ đến dương vật, nhưng thường thì để nói đến trẻ con hơn là người lớn. Cũng rất có thể, khi vẽ con bài nọc đượng, người vẽ đã chọn biểu tượng ấy như một ngôn ngữ gián tiếp để phô diễn nội dung muốn đạt đến. Trước hình vẽ này, có lẽ chúng ta cũng nên nhớ đến những mái nhà sàn trên các trống đồng Ngọc Lũ, Hoàng Hạ, chắc chắn rằng sự đối chiếu cũng sẽ rất hữu ích. Những nhà sàn trên các trống đồng, ngược lại, được nhìn thẳng vào chính diện, hai đầu cuối cùng của mái nhà cũng có những nút tròn nhỏ, ở giữa có chấm, trông tựa như mắt của hai con chim đang vươn cánh bay lên trời, trên mái nhà thường khắc hình chim rất lớn, đè nặng cả mái nhà. Chim mỏ ngắn, chân ngắn, mào nhỏ, lông đuôi dài và to, nên có người đã ước đoán là người làm trống đồng muốn thể hiện hình dáng con gà lôi (Lophura Nycthemera). Cũng là chim (hay gà) đậu trên mái nhà sàn, nhưng mỗi nơi lại được nhìn theo một cách, người nghệ sĩ tài tử của bộ bài tới ghi nhận và cách điệu sự vật khác hẳn hoàn toàn với người thợ chuyên nghiệp tài tình đã sản sinh ra những trống đồng của mấy ngàn năm trước [9] . Con ba gà và con nhì nghèo, cũng gần với thế giới của nọc đượng, vậy nên sự gợi cảm mang lại cho người xem đều từ bầu khí chung ấy. Phần trên quân bài là một đầu chim, bên dưới là hình ảnh của một mái nhà sàn, từ giữa thân bài, có một đường giải chạy viền lên đến đầu chim, có thể đấy là túp lông từ cổ qua bụng nối liền với đuôi chim được cách điệu như thế. Toàn bộ con nghèo, đầu chim, mình chim, hai nút tròn nhỏ chồng lên nhau nằm ở giữa thân thắt eo lại, thêm vào đấy là phần cái nhà sàn bên dưới ghép vào như một thứ đuôi chim xòe ra, tất cả hợp lại thành hình ảnh một con chim rất kỳ dị giữa những giấc mộng lạ lùng của chúng ta. Con ba gà, cũng gần như con nọc đượng và nhì nghèo nhưng có khác đi một tí. Trong cuộc chơi bài chòi, khi bốc đến con ba gà, anh Hiệu sẽ hô lên hai câu rất vui, lột tả được tất cả tính mèo mả gà đồng của họ gà, se sua chưng diện, áo quần sặc sỡ xinh đẹp, suốt ngày là anh chàng họ Sở ngoài đường phố nhưng tối về cũng chỉ co ro buồn thiu một mình. Mình vàng bận áo mã tiên, Ngày ba bốn vợ tối nằm riêng một mình. Khi bốc được con Nhì nghèo, anh hiệu lại hô lên mấy câu nói về cảnh nghèo, mà lại rất vui, đúng ra đó chỉ là một tiếng cười đùa dí dỏm, vô hại. Mẹ ơi chớ đánh con đau Để con bắt ốc hái rau mẹ nhờ Bắt ốc, ốc nhảy lên bờ Hái rau rau héo, mẹ nhờ chi con. Đến như than vãn thân phận nghèo khổ, thì cũng là lời bông phèng vui vẻ. Ngày thường thiếu áo thiếu cơm Đêm nằm không chiếu lấy rơm làm giường Dù dơi, dép bướm chật đường Màn loan, gối phượng ai thương thằng nghèo. Con Tám giây, cũng gần tựa như hai cặp gióng chồng lên nhau nhưng không có quai xách. Tám giây cũng gọi là tám hột vì nó có tám nút tròn nhỏ cân đối trên hình vẽ của quân bài. Và gọi tám giây có lẽ vì có tám sợi dây hình vòng cung nối tám nút trong quân bài thành hai cặp gióng. Chúng ta hãy xem đến vài con bài thuộc pho vạn gồm chín con từ thất vạn đến cửu vạn. Phong cách khá lạ, chủ yếu trên mỗi quân bài là một mặt người tạo thành bằng những nét rằn rịt, gần với bầu khí chung của loại tranh thờ dân gian nhưng pha nhiều vẻ hoang sơ hơn. Thô kệch, ngô nghê, vụng về nhưng chính vì thế rất hấp dẫn, rất gần với cái đẹp hoang dại nơi các điêu khắc gỗ mộc mạc của Tây Nguyên, của Phi Châu đen hay một số bộ tộc Úc Châu và Mỹ Châu La Tinh. Con cửu thầy tức cửu vạn, cũng gọi là cửu chùa vì vẽ hình một đầu người đội chiếc mũ như các ông thầy cúng, thầy pháp, rất nhiều nơi không có sự phân biệt rõ ràng, là tình trạng nhập nhằng của một số người lợi dụng tiếng kinh mõ ê a, rồi cũng khua chiêng đánh trống, thổi kèn, trộn nhào cả kinh Phật với bùa chú, bắt quyết gọi âm binh, trừ tà ma, để nhận xôi, gà, oản chuối của những gia chủ rước thầy về. Con ngủ trưa tức ngũ vạn, cũng cùng một lối vẽ như con cửu thầy, chỉ đổi khác đi một chút mà thôi. Ngay giữa con bài, hình một người có vẻ như đang ngái ngủ, gật gà gật gưỡng giấc trưa. Hình vẽ này có lẽ cũng mang một chút tinh thần châm biếm trào lộng đối với những kẻ thích ngủ trưa, mang tật chây lười. Con lục xơ tức lục vạn, cũng như các con trên, ở đầu quân bài có chữ xơ, kế tiếp là hai chữ nho lục vạn, kế đến là hình người. Không có gì chắc lắm, nhưng có người đã giải thích rằng sở dĩ có có tên là lục xơ hay lục chuôm vì phía trên đầu hình người có những ô chéo như mảng xơ hay hình nan chuôm. Tất cả chín con trong pho vạn đều có cùng một phong cách, chỉ thay đổi thêm bớt một đôi tí mà thôi. Như con học trò (nhất vạn) thì ở trên đầu nhân vật có đội thêm một cái khăn đóng cho ra vẻ hẳn hoi là con nhà nghiên bút! Anh Hiệu sẽ hô về con học trò: Đi đâu ôm tráp đi hoài, Cử nhân không thấy tú tài cũng không. (Là con học trò) Nghe hô như thế, lại nhìn vào con bài thì người đến giải trí trong cuộc chơi bài chòi sẽ có thể phá lên mà cười như nắc nẻ. Con tứ cẳng cũng gọi là con cẳng hương (tức tứ vạn): cũng như tất cả các con bài thuộc pho vạn nhưng chỉ riêng ở con này là khuôn mặt người không nhìn thẳng mà hơi lệch đi, ở phần dưới có bốn mảnh hình tam giác gần như bốn màng chân vịt xòe ra, có thể vì thế mà gọi là tứ cẳng. Ở Huế, người ta còn gọi là tứ hường. Hường tức là hàm Hồng Lô Tự Khanh của triều đình nhà Nguyễn cũ, kêu tắt lại, như trong các tiếng quan hường, quan thị. Như vậy con bài ở đây cũng mang một nội dung châm biếm trào lộng cay độc, quan hường đã xuất hiện nơi đây với một thể dạng xô lệch rằn rịt, không mang bài ngà mà lại kéo theo bốn cái chân vịt lạch bạch. Xét về mặt kỹ thuật khắc gỗ, nét vẽ đen nổi trên nền trắng, chỗ đậm chỗ nhạt đặt đúng nơi đúng chỗ, phải công nhận là lối cách điệu này tuy giản dị nhưng rất tài, bố cục chặt chẽ, nhuẫn nhuyễn, hấp dẫn. Phải nhớ một điều, nếu là người nghệ sĩ chuyên nghiệp, rất khó mà cống hiến được cho ta một hình tượng như thế, ở đây là nghệ thuật của bản năng, của tài tình tự phát, của tài tử nghiệp dư mà dần dà, vì gần gũi với cuộc sống của đại chúng nên đã nhập vào sâu sắc trong cuộc sống của nhân dân. Những nét nghệ thuật độc đáo của một dòng nghệ thuật tự do như vậy rất đáng cho chúng ta ngày nay phải lưu tâm nghiên cứu và học hỏi. Ba lá bài thuộc ba cặp yêu: ông ầm, thái tử, bạch tuyết, về mặt phong cách tạo hình, có thể xếp luôn vào loại vừa đề cập. Con bạch tuyết, đối lập với con nọc đượng, là quân bài cũng hết sức đáng chú ý. Nọc đượng là biểu tượng của dương vật thì bạch tuyết là biểu tượng của âm vật, là vật tổ Iôni của dân Champa cổ tái hiện trở lại theo một cách khác. Bạch tuyết ở vùng Bình Định gọi là bạch huê, và khi rút được từ trong ống lá bài này giữa một hội chơi bài chòi, anh Hiệu có thể rề rà hát lên một bài thơ lục bát, chữ nghĩa dân dã nhưng cũng pha một chút văn chương bác học, phảng phất chút đỉnh hơi thơ Hồ Xuân Hương: Hoa phi đào phi cúc Sắc phi lục phi hồng Trơ như đá vững như đồng Ai xô không ngã, ngọn gió lồng không xao Mỉa mai cụm liễu cửa đào Ong qua muốn đậu, bướm vào muốn bu Bốn mùa đông hạ xuân thu Khi búp, khi nở, khi xù, khi tươi. Chúa Xuân ngó thấy mỉm cười, Sắc hay vương vấn mấy người tài danh. Có bông, có cuống, không cành Ở trong có nu, bốn vành có tua. Nhà dân cho chí nhà vua Ai ai có của cũng mua để dành. Tử tôn do thử nhi sanh, Bạch huê mỹ hiệu xin phành ra coi. Trong không khí riêng của đất Huế, về con bạch tuyết, anh hiệu lại có thể cất giọng hát lên mấy câu rất dân dã mà vẫn óng ả, cầu kỳ, và kiểu cách: Cần vàng, ống bạc, chỉ tơ Anh móc mồi thơm thả xuống Cá nọ giả lơ không thèm. Cũng vậy, là mấy câu khác nữa: Tiếc con tôm rằn nấu với rau má Tiếc con cá bống thệ nấu với lá cỏ hôi Tiếc công em trang điểm phấn dồi Ra lấy chồng không đặng cân đôi cũng buồn. Chúng ta hãy xem qua hình vẽ trên quân bài này. Hình tượng trông tựa như hai nhánh lá hoặc hai nhánh rong, nhánh ở trên là nét đen nổi bật trên nền trắng, nhánh dưới là nét trắng nổi bật trên nền đen. Nhánh lá rất có thể là một nhành liễu vẫn tượng trưng cho người phụ nữ, nhưng theo ý tôi, đấy là âm vật được cách điệu một cách bay bướm, nhẹ nhàng, do thế đã tránh được cái nặng nề phải mô tả đối tượng theo lối chính xác. Về mặt kỹ thuật, với nét đen và trắng của hai nhánh lá ở đây, tuy rất giản dị nhưng đã tỏ ra biết đào sâu vào phương thức tạo hình của nghệ thuật mộc bản dân tộc, biết khắc hoạ những nét đen, biết đục sâu vào nền gỗ để tạo những nét trắng, gây nên tương phản về sắc độ rất hấp dẫn. Con thái tử vẽ hình người mang hia, đội mão ra vẻ con nhà vua, người được chỉ định sẽ nối nghiệp cha trị vì đất nước. Hình vẽ giản lược phần thân mình, chỉ còn là một hình vuông giữa một khối bầu dục có những nét rằn rịt, hình vuông chứa những chấm đen nhỏ chạy thành hàng đều đặn. Hình vẽ nặng tính cách biểu tượng với thể dạng cái mão và đôi hia, lộ ra ngay dáng dấp áo mão cân đai. Phía trên đầu nhân vật, một mảnh son đỏ hình hơi tròn in chồng lên đấy như một dấu triện. Sự tham dự của màu đỏ son ấy cũng tìm thấy trên con đỏ mỏ tức con ác, con ma trùng, và đặc biệt nhất là trên con ầm tức con sấm, người ta in chồng lên các nét vẽ đen một lớp son đỏ phủ lấy toàn thể quân bài như vẫn thấy trên các đạo bùa, những nét vẽ đen, đỏ, ngoằn ngoèo chồng chéo lên nhau. Nhắc đến con ầm tức con sấm, có lẽ chúng ta cũng nên nhớ lại hai câu hát bài chòi khá vui mà anh hiệu có thể sẽ hô lên khi rút đến thẻ bài này. Chỉ cần một tiếng ầm âm vang để mọi người dự cuộc chơi biết ngay là đã bốc trúng con Am, chứ chẳng cần tiếng ầm ấy liên hệ gì với cái nghĩa tiếng sấm ầm ầm, giữa bầu trời đầy mây tối hay mưa gió bão bùng mù mịt. Nửa đêm gà gáy le te Muốn đi rón rén đụng nghe cái ầm. (Ông Am!) Chúng ta vừa xem qua một số hình tượng lạ lùng trên các quân bài tới. Với các hình ảnh ấy, với những ý nghĩa ấy, có lẽ chúng ta phải thừa nhận rằng chúng hết sức lạ lùng, hấp dẫn, đặc sắc. Từ hình vẽ cho đến tên gọi, đều là quá đỗi kỳ lạ. Ở nơi đây, tất cả đều tan biến,chỉ còn lại tiếng cười đùa dí dỏm, thoải mái, nghịch ngợm của nhân dân. Chúng ta thấy những hình ảnh con gà nằm cạnh ông Thái tử, đôi gióng đứng bên ông ầm, con voi chơi đùa với ông thầy chùa, anh học trò, anh chàng ngủ trưa, con nọc đượng cũng như con bạch huê đuề huề với một quan hường (cẳng hương). Dưới những triều đại phong kiến cũ, tiếng cười dòn dã và hồn nhiên ấy tất nhiên còn phải được lý giải trên cả những nhịp điệu của đời sống chính trị, đó cũng là một thứ vũ khí, dù tiêu cực và có thể là vô thức, để đấu tranh chống bạo lực và cường quyền thống trị. Về mặt nghệ thuật tạo hình là điều cốt yếu mà bài viết này nhằm đạt đến, bộ bài tới chắc chắn sẽ có nhiều đóng góp hữu ích, phong phú đối với kho tàng nghệ thuật đất nước. Các nghệ sĩ hiện đại chắc chắn sẽ tìm được ở đây nhiều điều rất mới mẻ. Và hẳn rằng các nhà dân tộc học, khảo cổ học cũng sẽ còn nhiều vướng bận ở đây. Viết ở Sài Gòn năm 1985 Sửa chữa lại ở California, 2005. [1] Về bài chòi, xem thêm: “Khảo về bài chòi”, Võ Phiến, Tân Văn, số 1 tháng 4, 1968 “Bài chòi ở Bình Định”, Tạ Chí Đại Trường, Sử Địa số 5, tháng 1, 2, 3, 1967. “Những hội mùa Xuân”, Nguyễn Văn Xuân, Tân Văn, số 9, 10, tháng 1, 2, 1969. Nước non Bình Định, Quách Tấn, Nam Cường xuất bản, Sài Gòn, 1967. “Phong thổ Huế” trong Lược khảo về mỹ thuật Việt Nam, Từ Lâm Nguyễn Xuân Nghị, Quốc Học thư xã, Hà Nội 1942. Đào Đức Chương,“Bài Chòi Bình Định”, Giai phẩm Tây Sơn Xuân CanhThìn2000 http://chimviet.free...oi/baichoi1.htm (18 tháng 4, 2005). Cũng xin xem thêm Connaissance du Việt Nam, Pierre Huard và Maurice Durand, Ecole Francaise d’Extrême-Orient xb, trang 224-226, Hà Nội, 1954, viết về Tổ tôm Điếm, cũng là một loại bài chòi nhưng có vẻ sang trọng hơn. Nhân đây, chúng tôi trích in lại bản vẽ về Tổ tôm Điếm trên đất Bắc ngày trước, từ sách Connaissance du Việt-Nam. Cạnh đó, chúng tôi cũng trích in hình vẽ cảnh bốn người chơi bài tam cúc, chẳng khác mấy với cảnh tượng một đám chơi bài tới, tuy nhiên chơi bài tới đòi phải có 6 tay, để chúng ta có thể sống lại phần nào một khía cạnh sinh hoạt của đất nước ngày xưa. [2] Về sau này, ở vài nơi sản xuất bài tới, người ta còn xoá hết tất cả phần chữ viết, bất kể Nôm, Hán, Quốc ngữ, hoặc chỉ còn giữ lại vài chữ mà thôi trên toàn thể các con bài. Ví dụ, đó là bộ bài tới do ông Đoàn Việt Hùng sưu tầm được ở thôn Phú Ấn, xã Hoà An, huyện Phú Hoà, tỉnh Phú Yên, in đính kèm bài viết “Ngày Tết đánh bài chòi” của Trần Sĩ Huệ trên tạp chí Xưa và nay của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Xuân Quý Mùi, TP Hồ Chí Minh, số 132-133, tháng 1-2, 2003, trang 62-64. Xoá hết chữ thì không nói làm gì, nhưng đáng tiếc là hình vẽ trên các quân bài giản lược rất cẩu thả, khờ khạo, hoặc vẽ thay vào bằng một hình ảnh khác, không còn chút gì cái đẹp dân dã mạnh khỏe, kỳ lạ và đầy tính sáng tạo của các hình tượng trên bộ bài tới xưa nay nữa. Tuy nhiên, về chuyện này thì chúng ta có thể yên tâm phần nào, vì cách đây khoảng 20 năm, chúng tôi có nhìn thấy trong bộ sưu tập của Viện Bảo tàng Mỹ thuật Hà Nội một bộ bài tới rất đẹp. Không những thế, các hình vẽ của từng quân bài còn được phóng lớn cỡ bàn tay và in trên giấy dó rất hấp dẫn. Vết tích này còn được giữ gìn như vậy, có lẽ nhờ ở sự lưu tâm đặc biệt của ông Nguyễn Văn Y thuở còn sinh thời, lúc bấy giờ đang đảm trách chức vụ giám đốc của Nhà Bảo tàng. Ông Nguyễn là một nhà nghiên cứu mỹ thuật, hoạ sĩ mà cũng là nhà tạo hình về gốm rất đặc sắc. Nhắc lại sự kiện này cũng là dịp để chúng ta tưởng nhớ và bày tỏ đôi chút lòng biết ơn đối với một con người tâm huyết trước sự nghiệp văn hoá nghệ thuật của đất nước. [3] Bài vè này chúng tôi ghi chép lại được ở Huế. Trong Thi ca bình dân Việt Nam của Nguyễn Tấn Long và Phan Canh, Nxb Sống Mới, Sài Gòn, 1971, ở trang 391, bài vè có khác một đôi chữ. Và trong Tự điển thành ngữ điển tích của Diên Hương, bản chụp in lại của Nxb Zieleks ở Houston Texas, năm 1981, cũng vậy, lại có khác một số chữ nữa, như vậy rõ ràng là do tam sao thất bổn, hoặc có thể vì đã biến đổi dần do giọng phát âm của từng địa phương chăng? [4] Con bài: Tiếng miền Trung, ở miền Bắc gọi là quân bài. [5] Võ Phiến, “Khảo về bài chòi”, bài đã dẫn, trang 5. [6] Bình Nguyên Lộc, Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam, Xuân Thu tái bản ở Hoa Kỳ, chụp lại bản in ở Sài Gòn năm 1971, trang 387. [7] Trích dẫn theo Việt Nam tự điển, hội Khai Trí Tiến Đức, Nxb Trung Bắc Tân Văn, Hà Nội, 1931, Mặc Lâm tái bản ở Sài Gòn, không ghi năm xb, trang 162. [8] Đại Nam quấc âm tự vị, Huình Tịnh Paulus Của, bản chụp in lại của Nxb Khai Trí, Sài Gòn, 1974, trang 503. [9] Từ hình dáng mái nhà sàn trên con nọc đượng hay nhì nghèo, biến dạng hơn một chút là con ba gà, biến dạng nhiều hơn nữa là các con bảy sưa, năm giày, đỏ mỏ, chúng ta đang đứng trước một đề tài khá lớn vô cùng thích thú trong lĩnh vực dân tộc học và cả mỹ học, khi đối chiếu với nhiều vết tích về nhà sàn trên suốt vùng Đông Nam Á và hải đảo, chưa kể đến những mái nhà sàn khác xa xôi hơn bên kia nửa trái đất. Trong chừng mực của bài viết này, chúng ta không thể đi xa hơn được. Đề nghị xem thêm: “Tìm hiểu Nhà Đông Sơn qua ngôi nhà cổ của người Toradja (Indonesia)”, Tạ Đức, Khảo sổ học số 1, 1987. Những trống đồng Đông Sơn đã phát hiện ở Việt Nam, Nguyễn Văn Huyên, Hoàng Vinh, Viện Bảo Tàng Lịch Sử Việt Nam xuất bản, 1975. Introduction à l’Etude de l’habitation sur pilotis dans L’Asie du Sud-Est. Nguyễn Văn Huyên, Librairie Orientaliste, Paul Geuthner, Paris, 1934. The Art of East Asia, Gabriele Fahr-Becker (Ed.), Volume 1, Konemann Verlagsgesellschaft mbH, An bản tiếng Anh, Oldenburg, Germany, 1999. Phần viết về Nam Dương của Sri Kuhnt-Saptodewo, “Indonesia, Architecture and Symbolism”, p.p 312-324.
-
MA ĐÓI (KHÚC SÁO ÂN TÌNH) Ở Mỹ vào đêm thứ Bẩy cuối tháng 10 chuyển sang tháng 11 hằng năm thì phải vặn đồng hồ lại một tiếng. Vào mùa này đêm dài hơn ra, mới bốn giờ chiều mà trời đã tối sập xuống rồi. Bóng đêm qua bao đời vẫn là hình ảnh của một thế giới khác, thế giới bên kia. Cũng vào dịp này, ở khắp các đường phố, người ta dựng những ngôi nhà ma với những cảnh rùng rợn kinh hồn. Chỗ này là một cái xác bị treo lên lè lưỡi thòng xuống phát rợn người. Chỗ kia là một con ma với khuôn mặt méo lệch kỳ quặc đến khủng khiếp, máu me bê bết, vừa đi vừa thở phì phì nhọc mệt như kiếm chác một thứ gì hiếm lạ... Còn các trẻ em thì đóng vai những con ma đói đi xin ăn khắp các ngả đường, không cho ăn thì sẽ bị phá phách. Có điều ma Mỹ đói mà đòi ăn sang lắm, chỉ đòi ăn kẹo loại ngon thôi, cho thứ rẻ tiền là ma chê liền. CHUYỆN DÀI NHỮNG NGÔI NHÀ MA Xã hội này thừa mứa đồ ăn mà có thể lại nhiều ma đói. Chuyện thật về những ngôi nhà có ma thì nhiều lắm, nơi nào cũng có. Nguyên ở New Orleans cũng có tới cả chục ngôi nhà ma được báo địa phương cho địa chỉ đàng hoàng để những ai tò mò có thể tìm đến. Tại số nhà 1113 đường Chartres đối diện với nhà dòng Ursuline cũ, lâu lâu người ta thấy hồn tướng Beauregard đi lại điều khiển trận đánh Shiloh với quân quốc rầm rập. Đây là địa điểm xảy ra trận đánh nhau chết nhiều người trước kia có ghi lại trong lịch sử. Ở ngôi nhà ma số 1447 đường Constance thì thấy hai người lính nét mặt ủ rũ nhợt nhạt đi lại và hát nghêu ngao. Người ta kể lại câu chuyện về hai người lính này vốn là hai người giữ kho thời nội chiến Bắc Nam. Một hôm bị phát giác phạm tội biển thủ lớn nên phải ra tòa án quân sự lãnh án tử hình. Đêm đó hai tên liền rủ nhau kề súng vào nhau mà bắn để cùng chết một lúc. Hiện tượng thật lạ là ma Hermann Grima ở số nhà 820 đường St Louis không hề phá phách làm ai sợ sệt, nhưng thường tỏa mùi hoa hồng thơm dịu; trời lạnh thì sưởi ấm cho nhà. Nhưng bọn ma LaLaurie Hona ở 1140 đường Royal thì ồn ào động đạc quá sức: chúng là hồn những người nô lệ bị hành hạ trước kia chết ở đây. Ở ngôi nhà ma Garlette-LePretre ở đường Dauphine thì thường thấy hồn của cặp vợ chồng người Thổ Nhĩ Kỳ bị giết. Và còn nhiều địa chỉ khác nữa như ma Vodoo Queen Marie Lavean ở số 1020 đường St Ann; Ma ở nghĩa địa St Louis I, St Louis II, ma ở 514 đường Chartres; ma ở 739 đường Bourbon v.v. LỄ VU LAN VỚI VIỆC THỜ CÚNG TỔ TIÊN Ai cũng thấy rõ rằng sau khi chết, con người hoặc được siêu thoát, hoặc còn bị trói buộc cách này cách khác. Họ không tự cứu mình được, nhưng phải trông nhờ những người còn sống tu thân tích đức bù đắp cho. Những hành động ma phá phách là có ý nhắc xin cứu giúp, và khi được cứu giúp giải thoát thì yên ngay. Ma đói đúng là tình trạng của những người chết mà chưa được siêu thoát. Thì ra bên Tây cũng như bên Đông, bên Đạo Phật cũng bên Đạo Chúa... tất cả đều tin và thấy ma đói có thật. Truyền thống Đạo Phật từ Ấn độ có lễ Vu Lan vào dịp rằm tháng 7 âm lịch, từ tích truyện Mục Kiền Liên chuyển hóa cứu khổ cho mẹ đã chết nhưng còn nhiều vướng mắc nên bị treo ngược ở địa ngục. Có lần Mục Kiền Liên được phép thần thông thấy mẹ bị đói quá liền thương mà dâng cơm cho mẹ, nhưng cơm vừa đưa vào miệng thì hóa thành lửa không ăn được. Quả thực ma đói cũng không ăn cơm ăn kẹo được, mà phải cho đồ ăn tinh thần là tu thân tích đức theo đúng truyền thống Ngày Rằm Xá Tội Vong Nhân, để những người còn bị giam trong vòng tăm tối được bước vào cõi sáng êm ả như trăng rằm. Vu Lan là chữ tắt bởi Vu Lan Bồn, phiên âm tiếng Phạn Ullambana. Đạo Hiếu vốn đã ăn sâu trong máu người Việt, nên việc thờ cúng tổ tiên đã trở thành nét đặc trưng của văn hóa người mình, có trước khi các tôn giáo du nhập vào Việt Nam. Quả thực mỗi tôn giáo đều có một hệ thống niềm tin riêng với cả một truyền thống nhằm mục đích giải thoát cứu khổ con người, nhưng đặc biệt khi vào Việt Nam, các tôn giáo đã có được một điểm gặp gỡ chung rất gần gũi thân thương, đó là Đạo Hiếu. Đây cũng chính là mẫu số chung để xây niềm tin chung tạo sức mạnh chung cho dân Việt như giáo sư Kim Định đã có lần đề cập đến trong “Hồn Nước Với Lễ Gia Tiên”. Căn bản của Đạo Hiếu là niềm tin vào hồn thiêng bất tử. Mỗi người nhận được sức sống từ cha mẹ, ông bà, tổ tiên, như một dòng sức sống vẫn tiếp tục chảy. Cắt đứt dòng sức sống sẽ gây cho mình tự tắc nghẽn héo tàn như thằn lằn cụt đuôi giẫy chết và làm mồi ngon cho kiến. Như vậy Đạo Hiếu là hướng về, là nối vào được dòng sức sống này. Mỗi gia đình dòng họ là những nhánh sông nhỏ, lại cần nối vào một dòng sống lớn hơn, đó là tổ tiên của cả một dòng giống. Nhưng dòng sống không chỉ ngưng lại ở tổ tiên của một dòng tộc, một giống nòi, mà phải nối tới tột đỉnh Cội Nguồn là chính Đức Chúa Trời Nguồn Sống. Như vậy Đạo Hiếu trong tâm thức Việt rất gần với niềm tin Đạo Chúa. Nguyễn Du đã diễn tả tài tình được niềm tin vào cuộc sống mai sau trong Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh: Hương khói đã không nơi nương tựa Phận bồ côi lần lữa đêm đen. Còn chi ai khá ai hèn Còn chi mà nói ai hiền ai ngu. Người mình không chỉ tin mà luôn thấy được rằng người chết vẫn còn sống. Khi được siêu thoát thì hiển linh phò trợ cho con cháu như truyện vua Hùng trong Bộ Truyện Thiêng Lĩnh Nam cầu khẩn với tổ tiên mà được ơn soi sáng đi tìm được nhân tài giúp nước là Phù Đổng Thiên Vương. Thục Phán An Dương Vương xây thành Cổ Loa hoài không xong, cũng đã cầu khẩn thần linh. "Ngày mồng bẩy tháng ba bỗng có một ông già tiến thẳng vào cửa thành, vừa đi vừa nói rằng: "Xây kiểu này thì bao giờ mới xong! Nếu không có sứ giả nhà Trời cùng xây thành, thì mọi cố gắng cũng thành uổng công. Thành xây xong lại bị sập là do ma quỉ quấy phá.” Còn những người chưa được giải thoát mà trở thành những cô hồn, những con ma đói, thì mình có bổn phận lo cứu đói bằng đồ ăn tinh thần là những việc lành phúc đức và lời cầu nguyện. TIN VUI GỬI NGƯỜI BIẾT BÁO HIẾU Đạo Chúa khi vào Việt Nam đã gặp được một độ rung hài hòa rất nhuần nhuyễn trong Đạo Hiếu, như đã có sẵn trong mạch máu. Ngoài những ngày giỗ, Đạo Chúa dành cả tháng 11 hằng năm để lo “cứu đói”, gọi là tháng các linh hồn, cầu nguyện cho những người chết mà còn bị vướng mắc cần phải được thanh tẩy trong nơi luyện tội, nhất là các linh hồn những người trong gia tộc. Đúng là Mùa Báo Hiếu, mà cũng là mùa mỗi người dừng chân để nhìn vào cuộc sống của chính mình, để thấy rằng mình sẽ trở thành hồn sống siêu thoát hay phải chịu số phận ma đói lang thang kiểu “phách đơn hồn chiếc lênh đênh quê người”! Người theo đạo Chúa không chỉ dâng hoa thắp hương kính nhớ ông bà đã qua đời, mà còn hơn thế nữa, phải có bổn phận dâng lời cầu nguyện và thánh lễ, làm các việc từ bi bác ái trong ý nghĩa hiệp thông sâu xa nhất. Đó mới là những đồ ăn dâng cúng đúng nhất. Nhìn xa hơn về bên kia thế giới, tự nhiên mọi giá trị về danh lợi cao thấp hơn thiệt ở đời đều trở thành tương đối. Và thấy rõ hơn cái gì thực sự mới làm cho mình no thỏa ở đời sau mà tội nghiệp cho những ai sống như không bao giờ phải chết, chỉ lo bon chen tích trữ bằng đủ mọi cách, mánh mung để có thêm chút danh hão, lên mặt lãnh tụ chỉ đường "chơi cha" thiên hạ. Mà cơn đói danh và khát lợi cứ theo đà thành chứng nghiện khốn khổ. Để rồi đến lúc chết ra đi chẳng mang theo được gì, mà trở thành những con ma đói thèm khát khủng khiếp. Chính vì thấy được như vậy mà Chúa Giêsu đã loan báo Tin Vui: "Anh em cũng đừng để ai gọi mình là người lãnh đạo, vì anh em chỉ có một vị lãnh đạo, là Đức Ki-tô. Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em. Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên." (Mt 23:10-12) PHÚT NHÌN CAO LÊN Thử hình dung hôm nay là ngày mình chết. Sau bằng ấy năm tích trữ trên cõi đời này, mình sẽ mang theo được gì về đời sau? Người Việt mình gọi giờ chết là sinh thì, là giờ bắt đầu sống. Đúng là "birthday", vì thế người Việt nhớ rất kỹ ngày giỗ của ông bà cha mẹ, chứ mấy ai nhớ ngày sinh vào đời này đâu. Sau một cuộc sống ăn ngay ở lành, tu thân tích đức, con người không lo sợ phải trở thành ma đói lang thang trong cõi đêm dài u tối, mà thực sự được bước sang một cõi sống mới đầy ánh sáng và âm thanh phúc lạc, như cái thấy của thi hào Hàn Mặc Tử: Sáng vô cùng, sáng láng cả mọi miền Không u ám như cõi lòng ma quỉ Vì có Đấng Hằng Sống hằng ngự trị Nhạc thiêng liêng dồn trổi khắp hư linh. Tác giả Trần Cao Tường, Lm. (Linh mục) http://www.dunglac.org
-
Bài Tam Cúc Bài Tam Cúc. Môn bài bạc này thường chơi giữa những đám trẻ đã có trí khôn, các bà, các cô cũng rất thích chơi Tam Cúc.Cỗ bài Tam Cúc gồm 32 con bài, tên gọi giống như tên con cờ tướng: Tướng, Sĩ Tượng (voi), Xe, Pháo (súng ca-nông), Mã (ngựa), Tốt (lính).Trên đầu mỗi hình vẽ con bài, có tên của nó viết bằng chữ Nho. Mỗi cỗ bài 32 có lá, 16 con đỏ và 16 con đen, trong đó mỗi bên: 1 tướng, 2 sĩ, 2 tượng, 2 xe, 2 pháo, 2 mã và 5 tốt. Theo thứ tự, con tướng lớn hơn sĩ; sĩ lớn hơn tượng, tượng lớn hơn xe, xe lớn hơn pháo, pháo lớn hơn mã, mã lớn hơn tốt. Ngoài ra, cùng loại con bài (thí dụ mã đỏ, còn gọi là hồng, và mã đen), con đỏ lớn hơn con đen. Tướng đỏ gọi là Tướng Ông, Tướng đen thường gọi là Tướng Bà, tướng đen thua tướng đỏ. 1/ Cách chơi.Sắp bài: Bài Tam Cúc được sắp theo bốn cách:- Bộ Ba: Mỗi bộ ba gồm 3 con liên tiếp nhau, cùng màu đỏ hay đen. Bộ ba trên gồm tướng sĩ tượng; bộ ba dưới là xe pháo mã.- Đôi cây: cứ hai con giống nhau, cùng mầu là một đôi.- Những con lẻ không vào đôi nào thì đứng riêng.- Đặc biệt: nếu có 4 con Tốt cùng mầu gọi là tứ tử, năm con Tốt cùng mầu thì gọi là ngũ tử. 2/ Cách gọi và hơn thua.32 lá bài chia đều theo số người chơi. Ván bài đầu tiên phải bắt cái xem ai được gọi trước. Một người nào đó rút ra một cây, rồi bắt đầu đếm từ người rút. Thí dụ rút con mã thì đếm: tướng, sĩ, tượng, xe pháo mã. Ai trúng tiếng “Mã”õ thì được làm cái, tức được gọi lá bài đầu tiên. Những ván bài sau, lần lượt tính từ bên tay phải, làm cái.Các người chơi, kín đáo xếp những lá bài trên tay thành đôi hay ba. Nhà cái có quyền gọi 1 cây (cây bài lẻ), đôi cây hay ba cây tùy theo bài mình có và tùy theo cách tính toán, kinh nghiệm chơi bài của mình, và úp những cây bài mình, để riêng ra. Những chân kia phải theo cách gọi của người cái xuống bài. Ai có đôi hay ba và đoán là lớn hơn lá bài của người gọi, lấy ra, úp xuống và để trước cửa của mình. Nếu không có, mình chọn hai hoặc ba cây bài lẻ, tương ứng với bài gọi, để chui. Sau khi tất cả người chơi đã “ra quân”, người cái lật bài của mình trước. Các người khác cũng lật bài của họ lên. So sách những đôi hay ba với nhau. Bộ ba trên (tướng sĩ, tượng) ăn những bộ ba dưới (Xe, pháo Mã), rồi, bộ đôi, ba cùng loại thì bộ đỏ ăn bộ đen. Ai được thì ngửa bài mình để trước cửa, ai thua thì bài úp và để chung một chỗ (gọi là “túp” hay chui bài).Người thắng này trở thành người có quyền gọi lá bài kế tiếp.Luật chơi thường cấm không được ra đầu một, đôi hay bộ ba có những con bài Tướng, Sĩ Tượng. 3/ Số người chơi.Sau khi chơi hết các con bài trên tay, nếu bốn người chơi (chân bài), mỗi người có 8 cây, thì mỗi người phải có 2 lá bài thắng, chân bài coi như hòa hay bình chân. Nếu không có cây nào hay chỉ được một thì phải trả tiền bấy nhiêu cây mình thiếu đó từ người khác có nhưng con bài thắng (sau khi trừ hai con bình chân của mình) hay ngược lại, người thắng quá 2 con, số thừa bán cho những ai thiếu. Nếu có ba ngưòi chơi (3 chân), cỗ bài bỏ ra hai con tốt một đỏ và một đen, hay 2 con Tướng (mỗi người 10 lá bài). Cách bỏ haitướng, trong những cây còn lại thì sĩ đỏ lớn nhất và lúc đó mỗi chân bài phải có 3 cây thắng… Riêng người cái phải có 4 cây thắng. Bài Tam Cúc có thể chơi tay đôi. Chơi hai thì mỗi người có16 cây bài. Cách chơi này hai bên đều biết bài của mình cũng như bài của đối phương. Vì thế, cuộc chơi khó thắng. Nhưng cái hay của lối chơi này cao thấp tùy thuộc vào người khôn ngoanbiết đoán ý của đối phương. Những lá bài đặc biệt. a/ Tứ Tử hay ngũ tử: Nếu vừa lên bài mà ai có 4 hay năm cây tốt đỏ hoăïc đen thì được “trình làng” (gọi tứ tử hay ngũ tử trình làng) trước khi nhà cái gọi cây bài đầu và coi như được thắng 4 hay năm cây này. Riêng ai có ngũ tử thì còn dành được quyền là cái, tức là gọi cây đầu tiếp theo đó. Tứ tử thì sau khi trình làng, người cái vẫn gọi lá bài đầu.Nếu có tới hai nhà có ngũ hay tứ tử thì ai có quân đỏ sẽ thắng tứ hay ngũ tử đen. Nếu một bên có tứ tử, một bên ngũ tử thì bên ngũ tử thắng. Bên có tứ tử có thể giữ 4 quân tốt của mình lại. Nếu may mắn mình thắng một hai cây kế tiếp, có quyền làm cái thì gọi 4 cây tứ tử của mình. Nếu không có dịp gọi thì tứ tử này đành phải chui. b/ Toàn Hồng hoặc Toàn Đen: Nếu khi lên bài của mình mà các lá bài đều đỏ hoặc đen cả, không cần đánh tiếp vì người này được coi như thắng cả bằng ấy lá, các người khác phải mua những con bài của chân mình ( hai hay ba cây).5/ Ăn kết:Đây là phần phụ của môn chơi tùy thuộc vào giao hẹn trước.a/ Kết thường: nếu ai đương là cái (có quyền gọi) thắng lá bài cuối cùng là những đôi từ xe đen trở xuống, hoặc bộ ba đen dưới thì gọi là “ăn kết”. Nếu người cái gọi đôi cây pháo đen mà bị một người khác có đôi xe đen bắt thì người có đôi xe đen không được coi là “ăn kết” (nếu giao hẹn trước cho đôixe này cũng được ăn kết thì gọi là “ăn kết đè”). Cũng tùy theo giao ước, người ta lại cho ăn kết xe, pháo , mã, tốt đỏ (hồng).Một người có lá bài ăn kết thì mỗi nhà thua phải trả gấp đôi số lá bài cần có của mình. Thí dụ chơi bốn ngưới thì cuối bàn chơi, mỗi người phải có hai lá bài thắng. Trong trường hợp có người ăn kết thì người có hai lá này phải trả cho người ăn kết tiền 2 cây bài. Nếu có 3 cây thì trả một. Nếu có 4 cây thì hòa.b/ Kết Nhất bộ Nhị: Trường hợp người gọi lần cuối cùng là đôi tốt đen mà thắng (không ai có đôi lớn hơn để bắt) thì người này được ăn kết nhất bộ nhị. Thắng cái kết này, mỗi người phải trả gấp 4 lần cây bài thua. Thí dụ trường hợp trên, người không thắng cây nào phải trả cho người thắng kết nhất bộ nhị tiền 8 cây bài, người thắng 2 cây phải trả người ăn kết tiền 6 cây bài v.v. c/ Đè kết: Trong trường hợp người gọi đôi cây cuối cùng là tốt đen, thắng kết nhất bộ nhị. Nếu lúc đó, một ai có đôi tốt đỏ (những chân khác không ai có đôi lớn hơn)thì người có đôi tốt đỏ thắng đôi tốt đen ăn kết của người gọi, người ta gọi là đè kết. Người gọi đôi tốt đen thua sẽ phải đền cho người có đôi tốt đỏ những số tiền mà lẽ ra họ thu được nếu thắng lá bài đôi tốt đen. Tùy theo hẹn trước, nếu ván bài có người ăn kết nhất bộ nhị, nhà nào có đôi sĩ hay đôi tượng (đỏ hay đen) mà ra vào cây bài thứ hai củng bị đền thay mọi người trả tiền cho người thắng (các chân bài khác không bị mất tiền) vì đã ra quá sớm, không giữ lại để có thể phá cái kết tốt đen này (luật này hơi khắt khe nên chỉ có những người lớn chơi với nhau mới có). d/ Xe kè hay xe cọc cạch: cũng theo giao hẹn, mọi người chấp nhận chơi xe kè. Khi vừa lên bài, nếu ai có những con xe khác mầu nhau (một đôi cùng mầu không được) thì được ăn xe kè, mỗi chân bài kia phải trả ngay cho người có xe kè tiền một cây bài.. Đôi khi họ góp tiền trước (người nào không muốn chơi thì khỏi góp, nếu có xe kè cũng không được hốt), ai có “xe kè” trình ra thì hốt. Nếu có hai người trở lên đều có xe kè thì hòa, tiền để lại ván sau. Thường khi chơi ăn kết thì không ai chơi xe kè vì sợ làm trống bài.Bọn trẻ hay chơi đi đêm nhất là với người lớn, bà nội bà ngoại. Đi đêm hai người bí mật úp bài khơng cho ai biết) trao đổi với nhau một vài con bài. Bà thì muốn cho cháu vui nên bao giờ cũng đi con bài lớn (sĩ, tượng…) còn các cháu thì lại đi những con bài nhỏ vì biết thóp ý bà. Ngày Tết chơi Tam Cúc khá thú vị, nhất là lại có sự tham dự của bà nọâi, bà ngoại với các cháu thì vui không tả được. Thường giá mỗi quân bài chừng một vài hào (ngày xưa). Ở nhà quê tôi xưa, bọn trẻ được phép chơi Tam Cúc cả ba ngày Tết, anh chị em, bạn bè chơi trong ổ rơm (nhà quê) hay giường ngủ rất ấm cúng. Có khi không chơi bằng tiền mà bằng một hai cái kẹo một cây bài. Bài Tam Cúc đã từng đi vào văn học Viet Nam.Trong truyện Lan Và Hữu của Nhượng Tống (hình như tác phẩm này đã mất vì từ lâu không thấy xuất hiện hoặc nhắc tới). Câu truyện rất “Đường Thi” vì xẩy ra thời còn có những nhà Nho. Một nho sinh đẹp trai tên Ngọc được hai cô gái Lan và Hữu cùng yêu, nhưng Ngọc yêu cô em họ xa là Hữu hơn. Trong một đêm đi đò lên chùa Hương, ba người chơi tam cúc. Một ván bài cô nàng Lan gọi đôi cuối cùng là tốt đen để ăn kết Nhất Bộ Nhị. Anh chàng Ngọc lại có đôi tốt đỏ, lẽ ra phải bắt cái kết này. Nhưng vì sợ Lan buồn, Ngọc lặng lẽ chui hai con tốt đỏ để Lan thắng. Nhưng không may, cô nàng Hữu trông thấy, lật tẩy anh chàng Ngọc, làm toáng lên khiến cuộc chơi phải chấm dứt trong trong hờn giận lẫn bẽ bàng.Sau đây là mấy lá bài lần lượt là: Tướng, Sĩ, Tượng, Xe, Pháo, Mã, Tốt. Vì không có mầu nên không phân biệt được đen hay đỏ. Hoàng Cầm có, một bài thơ Tam Cúc rất “lá diêu bông”: Cây Tam Cúc Cỗ bài tam cúc mép cong cong Rút trộm rơm nhà đi trải ổ Chị gọi đôi cây Trầu cay má đỏ Kết xe hồng đưa Chị đến quê Em. Nghé cây bài tìm hơi tóc ấm Em đừng lớn nữa Chị đừng đi Tướng sĩ đỏ đen chui sấp ngửa Ổ rơm thơm đọng tuổi đương thì. Đứa được Chinh chuyền xủng xoẻng Đứa thua Đáo gỡ ngoài thềm Em đi đêm tướng điều sĩ đỏ Đổi xe hồng đưa Chị đến quê Em. Năm sau giặc giã Quan Đốc đồng áo đen nẹp đỏ Thả tịnh vàng cưới Chị võng mây trôi Em đứng nhìn theo Em gọi đôi. Hồ Dzếnnhh cũng có bài thơ về Tam cúc: Ngày Tết mải chơi tam cúc Không hay anh tới sau lưng Ghé lại gần em mách nước Kết luôn xe pháo mã hồng Ồ ván bài em đỏ quá Đỏ như đôi má ngày xuân Em có ăn trầu đâu nhỉ Mà sao người thấy bâng khuâng? Nắng mới rọi vào song cửa Rung rinh bóng lá cành doi Năm ấy em mười sáu tuổi Trăng tròn – anh chẵn đôi mươi Từ đó mỗi mùa đào nở Pháo xe lại rộn cây bài Có độ anh về, có độ Vắng anh, em nhớ mong hoài Mấy chục mùa xuân thấm thoát Nhớ thương hờn giận chen nhau Một bức tranh thơ bát ngát Quý thay cái thuở ban đầu! Nay tóc đời ta điểm bạc Bể đâu thời thế phôi pha Em ạ, cỗ bài tam cúc Vẫn thơm nguyên vẹn tình ta. (Hồ Dzếnh) http://cachdanh.com/cach-danh-bai/ Mùa xuân chơi bài Tam cúc Ở tuổi tôi, chơi tam cúc đã là một trò cờ bạc xa lạ. Năm nay, tôi gần 60 tuổi, thế mà khi đọc hoặc nghe những câu thơ viết về thú chơi tam cúc , tôi có cảm giác như nghe lại một chuyện cổ tích truyền kỳ nào xa xôi lắm. Ở ngoài bắc ngày xưa, chơi tam cúc như một thông lệ ngày tết và với tiết trời lạnh lạnh lập xuân, cả nhà xúm vào chơi tạo ra một không khí xum họp đầm ấm. Bộ bài gồm những quân tướng sĩ tương xe pháo mã mầu đen mầu đỏ … và là một trò chơi cờ bạc khá dân giã và phổ thông của thời xưa cũ. Nhưng, cũng có nhiều thi sĩ đã viết những bài thơ mà chơi tam cúc là một đề tài độc đáo cho tình yêu đôi lứa… Đọc những câu thơ , như một hướng vọng về một thời gian nào đã đi qua hàng thế kỷ. Tôi tưởng tượng. Bên ngoài , mưa phai phai những bụi nước. Những cơn gió bấc và bầu trời đầy mây đen, tạo một không gian lạnh lẽo. Nhưng bên trong, bên bếp lửa đỏ rực của nồi bánh chưng tỏa hơi ấm, cả nhà xúm nhau chơi tam cúc , ồn ào trong cái ấm áp bên trong đối nghịch với cái băng giá bên ngoài. Có những mối tình đã bắt đầu từ những ván bài tam cúc. Và có những thi sĩ đã nhắc đến, như một kỷ niệm luôn trân trọng của cả một đời người Một người làm thơ thuở ấy, là Hồ Dzếnh , đã nhắc đến ván bài tam cúc mà đến khi mái đầu đã điểm bạc mà vẫn không nguôi nhung nhớ.Cỗ bài tam cúc , của một thời hoa niên , của những ngày đầu năm tràn đầy ước mơ , luôn luôn hướng vọng đến mọi sự tốt lành. “ Ngày Tết mải chơi tam cúc không hay anh tới sau lưng ghé lại gần anh mách nước kết luôn xe pháo mã hồng ô ván bài em đỏ quá đỏ như đôi má ngày xuân em có ăn trầu đâu nhỉ mà sao người thấy bâng khuâng…” Phải rồi, men trầu cau đâu có nồng nàn bằng men tình yêu. Nỗi ngất ngây của hai kẻ yêu nhau chen lẫn với nỗi e thẹn ngượng ngùng như men cay của những ván bài kết đôi xe pháo mã nồng thắm. Tình yêu như dệt bằng mơ ước , của những ngày sắp tới đẹp như trong chuyện thần tiên. Lúc ấy, chúng mình còn rất trẻ… “ nắng mới rọi vào song cửa rung rinh bóng lá cành doi. Năm ấy em mười sáu tuổi Trăng tròn-anh chẵn đôi mươi Từ đó mỗi mùa đào nở Pháo xe lại nối cây bài Có độ anh về , có độ Vắng anh , em nhớ mong hoài..” Chơi bài , chỉ là để nhìn nhau , ngồi bên nhau. Chơi bài, là để chỉ ngửi thấy mùi hương tóc, để những ngón tay đan với nhau. Chơi bài, để mong ván bài kết bằng những đôi hồng điều thắm thiết tươi đẹp. Và , những ván bài ấy, đẹp suốt một đời. “ mấy chục mùa xuân thấm thoát nhớ thương hờn giận chen nhau một bức tranh thơ bát ngát quý thay cái thuở ban đầu nay tóc đời ta điểm bạc bể dâu thời thế phôi pha Em ạ, cỗ bài tam cúc Vẫn thơm nguyên vẹn tình ta..” Không phải chỉ có một mình thi sĩ Hồ Dzếnh làm thơ về ván bài tam cúc đầu xuân . Một thi sĩ khác , Hoàng Cầm. cũng có một bài thơ đươc truyền tụng và được coi như là “ hạt ngọc thi ca bắt được của giời “. Tên của thi sĩ là một vị thuốc đắng nhưng thơ tình của ông thì rất ngọt ngào. Mà bài thơ “ Cây Tam Cúc “ là điển hình. “ Cỗ bài tam cúc mép cong cong rút trộm rơm nhà đi trải ổ Chị gọi đôi cây! Trầu cay má đỏ Kết xe hồng đưa chị xuống quê Em..” Ván bài như một gợi ý cho tình yêu. Chị gọi đôi cây mà trầu cay má đỏ. Không biết có phải vì rơm ấm , hay vì men tình , để “ kết xe hồng đưa chị đến quê Em”. Có chút nồng nàn của mối tình ngây thơ của cậu bé yêu người lớn tuổi hơn. Ngồi trên ổ rơm trời lạnh , để kết đôi cây bài gơi nhớ đến chuyện tính ái bâng khuâng . Chị thì vô tư má hây đỏ hồng men trầu cay còn Em thì cũng rộn rực vì được sưởi ấm bằng hơi thiếu nữ thanh tân của tuổi đương htì.. Câu thơ có nét của một không gian nào mơ hồ , của đời sống dân giã nào ẩn hiện. Cỗ bài tam cúc đã cũ , đem rút trộm rơm để làm ổ đánh bài , những điều ấy đã tình cờ làm câu thơ có hồn và gợi lại một lãnh địa thi ca riêng của một hti sĩ hào hoa biết yêu từ thuở còn bé tí!! “ Nghé cây bài tìm hơi tóc ấm Em đừng lớn nữa Chị đừng đi Tướng sĩ đỏ đen chui sấp ngửa Ổ rơm thơm đọng tuổi đương thì. Đứa được Chinh chuyền xủng xoẻng Đứa thua Đáo gỡ ngoài thềm Em đi đêm tướng điều sĩ đỏ Đổi xe hồng đưa chị đến quê Em..” Em đánh bài không màng thua được mà chỉ là cái cớ để được ngồi cạnh người mình yêu để “ nghé cây bài tìm hơi tóc ấm “ để ván bài ấy cứ ngưng đọng lại để mãi mãi em vẫn còn bé bỏng. Em chơi bài mà “ tướng sĩ đỏ đen chui sấp ngửa “, đánh bài mà bất kể thua được . Trong thâm tâm, chỉ muốn được gần chị để hương thơm của ổ rơm vẫn còn náo nức tuổi đương thì. Ván bài có đứa thua kẻ được , trinh tiền xủng xoẻng nhưng Em thì vẫn muốn đi đêm để đánh đổi cây bài tướng điều sĩ đỏ cao giá hơn để lấy cây xe hồng với ước nguyện đó là phương tiện để đưa chị về quê em như một ước mơ ấp ủ cả đời. chơi bài Tam cúc Mối tình nam nữ của Chị và Em là một nét đặc biệt của Hoàng Cầm . Mối tình khá đặc biệt và cũng thật say đắm lạ lùng. Trong cái chênh lệch tuổi tác , đã có mầm của chia phôi. Người em, ở tuổi vừa hiểu biết , đã thấy mình rung động trước cái hồn nhiên vô tư của người tình lớn tuổi già dặn hơn và lại càng thấy tha thiết hơn trước những hấp dẫn của người khác phái. Trong niềm luyến ái có sự chiếm hữu vị kỷ , tuy rất ngây thơ đáng yêu:” Em đừng lớn nữa , chị đừng đi”. Em đừng lớn nữa để cái mơ mộng vẫn còn trong khi “ chị đừng đi” để mãi mãi Chị là của Em để em “ đi đêm “ tướng điều sĩ đỏ , những hào quang danh vọng để đổi lấy xe hồng kết đôi đưa Chị “ đến quê em” Nhưng , thực tế , thì buồn lắm . vẫn là một mối tình đơn phương. Em thì mê đắm trong khi Chị lại vô tình chẳng biết. Kết cuộc “ Em đứng nhìn theo em gọi đôi”. Chỉ đứng lại mà gọi trong khi chị đã sang ngang. Bởi vì trời làm binh lửa , chiến tranh: “Năm sau giặc giã Quan Đốc đồng áo đen nẹp đỏ Thả tịnh vàng cưới Chị Võng mây trôi” Bài thơ này Hoàng Cầm viết năm 1960 sau khi ông bị liên quan đến vụ án Nhân văn Giai Phẩm. Mãi về sau này bài thơ mới được chính thức phổ biến . Khi nó ra đời , chỉ được truyền tụng trong giới những người yêu thơ. Lúc được in lại trong tập “ 99 Tình Khúc” gồm những bài thơ tình chọn lọc , bài thơ này được xếp vào phần đầu “ Thời 1. Chị và Em” với câu thơ kế bên “Em đừng lớn nữa . Chị đừng đi..” Tôi thấy rõ cái tâm sự muốn mãi mãi thơ ngây và sống cùng kỷ niệm suốt cả đời. Ai mà cứ trẻ thơ hoài , trẻ thơ mãi, nếu không là nhà thơ . Thi sĩ , có trời đất vũ trụ riêng , và trong cái tư riêng ấy có những điều mà người thường không ngộ hiểu được. Hoàng Cầm hình như sống thật nhiều với kỷ niệm. Cuộc sống lẫn lộn giữa mê và tỉnh, giữa đêm và ngày, giữa mê đắm và tỉnh táo. Bất cứ hình ảnh nào cũng gợi lại bóng hình xưa, khuôn vóc cũ. Trong bài “ Gọi đôi” ông làm những câu thơ thật tha thiết: “…Áp môi bóng cõi mưa dài khát thêm từng trận khát hoài tuổi xưa Em về chưa? Chị đến chưa? Bỗng dưng hai đứa khóc mờ đêm trăng Chị đây có phải Em chăng Em đâu có thật Em rằng Chị không Xiết tay kết một vô cùng Lơi tay lại vẫn đôi dòng lửng lơ Song song có gặp bao giờ Hai dòng lệ chảy hai bờ sông trôi Mưa nhung áp má bồi hồi Nghe khô từng sợi mưa dài lặng im Em không nổi. Chị không chìm Chị tung gió tím Em tìm sang xuân Nằm trong mắt bão tuyệt trần Mưa nhung tung cánh trắng ngần… Em bay…” Em. Chị . Chị .Em. những mối tình lạ lùng cứ ám ảnh suốt đời người thơ. Cái cảm giác lúc mười hai tuổi sao cứ kéo dài mãi, để lửng lơ trong tâm hồn những xao động khôn nguôi” dưới kia sông chẳng quay đi. Mười hai tuổi cũ biết gì Chị ơi.Một con bướm lửa đậu môi.Hai nhành hoa lửa chia đôi tay cầm…”Tha thiết quá một thời yêu ngây thơ, của đứa trẻ sớm dậy thì.Thật lạ lùng, cậu bé ấy cứ muốn muôn năm thời trẻ dại, để yêu mê một hình dáng nữ lớn tuổi chững chạc hơn… Một nhà thơ khác , Y Dịch Lê Đình Điểu cũng có bài thơ viết về mùa xuân và bộ bài tam cúc . Cũng chỉ có hai người và cái dễ thương là chính sự ngây thơ của thuở mới lớn. Ván bài tam cúc bắt đầu cho một mối tình : “ Tốt đỏ mà đè tốt đen kết nhất bội nhị làm em phải đền. Ứ ừ người ta đang đen Không thèm chơi nữa giả tiền tôi đây Ơ ơ bêu chửa cô này bị đè còn khóc giơ tay đòi tiền Có gan để kết tốt đen tất có gan để chịu đền chứ sao? Ứ ừ , sao ở trên cao Người ta thua mất sáu hào hai xu!..” Những đoạn đối thoại tự nhiên của hai cô cậu mà bây giờ có lẽ ít ai còn nghe lại . Nó nhắc lại cả một tuổi thơ , của bắt bướm hái hoa , của những nỗi niềm giàn trải mông mênh đã theo thời gian mất hút. Nếu những chuyện tình như Love Story đã làm hàng triêu người đọc hâm mộ vì những câu đối thoaiï ngổ ngáo đặc biệt tuổi trẻ thì bài thơ này cũng làm cho nhiều người đọc bâng khuâng. Cô bé và cậu bé đã hé mở ra một chút tình ý nào , nhẹ nhàng . “ Mưa phùn trông như sương mù mắt em như có sương mù đọng mi chiếu điều xô chẳng nói gì cỗ bài vung vãi rơi đi đâu rồi? Thôi đây( anh thấy em cười) Giả em tất cả cười tươi lên nào..” Dù cãi lẩy đôi co, nhưng trước sương mù đọng trên mi cô bé thì cậu trai kia cũng phải đầu hàng. Sáu hào hai xu cũng lớn lắm với tuổi bé con nhưng cũng chưa bằng sự giận dỗi của cô bé. Đổi cả cuộc đời còn được , xá gì món tiền ấy. Chỉ để lấy lại một nụ cười. Và: “ Mười năm đi dưới trăng sao bây giờ dừng lại ( nơi nào đây em?) ván bài đời có tốt đen trăm lần để kết phải đền cả trăm thơ ngây thua nhẵn mười năm xòe tay thấy trắng khóc thầm cả đêm ngày xưa em khóc anh đền bây giờ anh khóc ai đền cho anh? Lúc trắng tay , lại thấy cần người chia sẻ . Ngày xưa , anh dỗ dành em , thì bây giờ ai an ủi anh khi gặp những lần kết tốt đen bị đè phải đền …Mười năm , một tình yêu nuôi dưỡng bằng một ván bài tam cúc. Nhưng, kết cuôc lại vuông tròn. Ván bài tam cúc ngày xưa lại là dịp để anh sẽ “chui” tốt đỏ để em kết tốt đen tha hồ. Anh sẽ không lý gì đến ván bài nữa mà cứ “chui” mãi “chui “hoài để cho em cười để cuộc đời sẽ có đôi mãi mãi: “ Trời cho mười mấy lênh đênh đời cho anh mấy điêu linh của đời tết này anh chẵn hai mươi trở về tìm lại nụ cười sương mi bâng khuâng biết nói năng gì mưa phùn giăng mắc buồn tê lưng giời chiếu điều lại giở ra rồi cỗ bài lại sắp em ngồi tay trên tha hồ để kết tốt đen anh chui tốt đỏ cho em đây này run run ép chặt bàn tay sợ làng bắt được biết ngay.. chúng mình anh chui cho lấp điêu linh anhchui cho hết điêu linh cuộc đời em được thì em mới cười thế gian thua thế gian cười làm sao! Ừ thì sao ở trên cao Anh thua anh bán ngôi sao trên giời Bán cho em lấy nụ cười Bán cho em lấy.. cuộc đời đôi ta!” Bài thơ đẹp như một ván bài thắng lớn . Anh thua bạc nhưng rất đỏ cuộc tình. Thơ Y Dịch rất .. Bắc kỳ với những ngôn ngữ của tuổi thơ ngây làm người đọc cảm thấy có một chút Nguyễn Bính vương vấn ở bên trong . Nhưng thơ thật dễ thương ! Dễ thương như mối tình hơn mười mấy năm của hai cô câu bé… Ngày đầu năm, tự nhiên tôi bị lạc bước vào những thế giới tình yêu của những thi nhân có nhiều nỗi niềm riêng . Nếu mang cái tâm tư của người bình thường , có lẽ khó mà thấu đáo được cái tâm tình sôi nổi của người làm thơ. Một thời kỳ , với tôi có lẽ xa xăm lắm. Thời buổi bây giờ , có ai còn quây quần bên ván tam cúc, để nghe hương của tình cảm thơ ngây đã từ từ nhú mầm yêu thương. Ngồi cạnh nhau trong buổi đầu xuân , trong ván bài tam cúc có lẽ cũng thú vị . nhưng , với giới trẻ , cái thơ mộng lãng mạn ngày xưa như thế chỉ còn trong kỷ niệm. Bây giờ, có một người làm thơ trẻ hơn , đón xuân bằng một cách khác . Aám cúng hơn và cũng đời thực hơn. Bài “Anh Em mùa xuân”: “ Da thịt Em, tuyết mùa xuân hồ nghi, dường có gót chân ngại ngùng lạnh vai , hẹp tấm chăn chung tay Anh, chợt ẩm lạnh cùng hạt mưa ngón tay Em, nhắc ngày xưa người dưng sao lại nửa khuya gũi gần xiết vào nhau, cõi phân vân lửa nào đốt giữa châu thân mịt mùng mùng một Tết, nắng rưng rưng. Gió ve vuốt chốn chập chùng bâng khuâng Hình như từ sợi lông măng Có mênh mang một vết răng còn hằn Lạnh Em, sao hẹp góc chăn Đôi gối lệch vẫn ân cần thấp cao Này Anh , vài sợi nắng đào Rơi trong mắt, xuống lũng sâu vô thường. Kỳ cục, tại sao đang đọc từ bài thơ về ván tam cúc của những nhà thơ nổi danh từ hơn nửa thế kỷ nay lại lạc bướcc sang bài thơ của một thi sĩ vô danh như thế. Có phải , liên tưởng đến một trời xuân nồng nàn của quê hương chỉ còn trong quá vãng của kỷ niệm . Dù lãng mạn , dù thực tế, thì hôm nay, đọc vài bài thơ , trong cái xôn xao của đất trời, cũng là một cách thưởng xuân. Vui xuân , kẻo hết xuân đi… Nguyễn Mạnh Trinh
-
TẾT QUA HÌNH ẢNH XƯA Tết Việt Nam ngày nay khác xa với Tết truyền thống dân tộc ngày xa xưa. Ngay tại quê nhà, không khí Tết cũng ồn ào, náo nhiệt, bận rộn với ăn uống, tiệc tùng và biếu quà là chính. Các tập tục đón ông bà, mừng tuổi, chúc thọ, trồng nêu, đốt pháo... giảm dần hay bãi bỏ. Chúng ta người Việt xa quê hương tuy mong ước gìn giữ những hình ảnh cũ, nhưng ở đất mới, không gian xa xôi lại còn phải hòa nhập với lối sống địa phương, cũng không thể làm sống lại những ngày Tết cổ truyền trên đất mẹ. Nhìn lại vài hình ảnh cũ để cùng suy ngẫm ý nghĩa những sinh hoạt Tết của ông cha xưa. Ngày đầu tiên của tiết xuân trong một năm tính theo âm lịch, gọi là Tết. Thời gian này, xưa kia dân chúng sống nghề nông việc vườn ruộng đã rảnh rang, thời tiết mát mẻ không còn lạnh rét; mùa màng đã gặt hái xong nên có của ăn, của để dành. Mọi người chờ đón một cái Tết để có những ngày nhàn hạ, quây quần bên gia đình, tưởng nhớ, ngợi khen công lao, phúc đức ông bà tổ tiên và trong bộ quần áo mới, thăm viếng bà con, bạn hữu, vui với những trò chơi dân giã, hưởng những món ăn ngon truyền thống... Đám cưới chuột Phụ bản Văn Nghệ Mới, Thái Tuấn thực hiện Ngày Tết mọi nhà đều thích treo tranh Tết, ngoài màu sắc, hình vẽ gần gũi với đời sống dân dã, tranh Tết còn có nhiều ý nghĩa. Trong số các tranh Tết được ưa chuộng nhất, tranh Đám cưới chuột vừa nhiều hình ảnh linh động, màu đẹp vừa vui và ngộ nghĩnh được nhiều người ưa thích, treo trong nhà ngày Tết. Với nhiều hình ảnh mèo, chuột, ngựa, gà, cá kèm thêm kiệu, lọng, kèn… được nhân vật hóa thành đám cưới vừa hài hước vừa ý nghĩa: Bức tranh có hai họat cảnh, phần trên bốn chú chuột mang đồ lễ bác Mèo; phần dưới chú rể chuột cưỡi ngựa phía trước, cô dâu chuột ngồi kiệu theo sau, xung quanh các chú chuột cầm đèn, tán, lộng theo hầu... Mèo tượng trưng cho quyền sinh sát, chuột chỉ là phận nhỏ bé, tôi đòi, nhưng khôn lanh. Hạng thứ dân muốn sống còn, hạnh phúc phải biết cống lễ cho quan chức uy quyền. Triết lý sống mà ông cha chúng ta biết từ nhiều đời, đến nay thời đại toàn cầu hóa vẫn còn là bài học chua chát, châm biếm và hài hước ở quê nhà. Hàng bán tranh Tết đầu đầu thể kỷ 20 tại Hà Nội Carte postale Một trăm năm trước khi máy ảnh chưa thông dụng, một sinh viên Pháp Henri Oger đi quân dịch, phục vụ tại Việt Nam đã muốn ghi lại hình ảnh sinh hoạt, Oger đã thuê nhiều người Việt khéo tay vẽ, khắc gỗ và in hàng ngàn hình ảnh thành nhiều tập. Nhờ đó ngày nay chúng ta biết được khá chính xác mọi sinh họat, cảnh sống của ông bà những năm đầu thế kỷ 20. Viết và treo câu đối Vào cuối năm âm lịch, khoảng một tuần trước Tết, các nhà nho cũng gọi là cụ đồ đến các thị tứ, chợ búa, nơi nhiều người qua lại, ngồi trên chiếu, bên cạnh một tráp gỗ, trong để bút lông, mực tàu (thỏi mực vuông vức, dài cỡ ngón tay, màu đen) và cuốn giấy để viết lời chúc, cầu may... Câu đối mua về được treo trước cửa nhà, trong gian chính nơi trang trọng hay hai bên bàn thờ. Câu đối viết chữ Hán, thường có ý nghĩa chúc cho chủ nhà và gia đình nhiều phúc, lộc, thọ, khang, ninh. Một câu chúc cho nhiều tiền, bạc, của cải (lộc): Môn đa khách đáo thiên tài đáo (Cửa nhiều khách đến nhiều tiền đến) Gia hữu nhân lai vạn vật lai (Nhà có người vào lắm của vào) Cây nêu làm từ một cây tre để nguyên ngọn và cành lá. Cây nêu thường được cắm trước nhà, sâu dưới đất để gió không làm đổ. Trên cành nêu treo các khánh, mảnh kim loại hay lục lạc bằng đất nung... khi gió thổi qua sẽ phát ra âm thanh. Trên ngọn cây nêu có máng chiếc mũ hay nón vải, áo dài hay dải vải, quanh gốc nêu thường rắc vôi trắng thành vòng tròn hay hình cánh cung. Cây nêu là dấu chỉ mảnh đất và căn nhà đã có người làm chủ, tà ma không được lai vãng. Dựng cây nêu ngày cuối năm âm lịch và hạ nêu vào mùng bảy Tết. Đốt pháo – Trồng cây nêu Pháo là một cuốn giấy thật chặt, loại thường nhỏ hơn ngón tay, loại lớn bằng ngón chân cái, bên trong chứa thuốc cháy, một đầu bịt kín, đầu kia có một ngòi cháy. Khi đốt đầu ngòi pháo, lửa bén chừng hai giây đồng hồ chuyền vào thuốc cháy, hơi nóng thuốc cháy tạo nên áp xuất rất cao bên trong và làm cuốn giấy bị vỡ tung, tạo nên tiếng nổ. Có các loại pháo nổ như pháo tép, pháo tràng, pháo dây, pháo đại, cối, pháo thăng thiên… Một công thức chế thuốc pháo quen thuộc thời xưa: Nhất đồng thán, bán đồng sinh, lục đồng diêm. Một phần than tốt nhất là than gỗ cây soan, nửa phần diêm sinh mầu vàng và nhiều nhất tới sáu phần diêm tiêu màu trắng. Tiếng pháo nổ trong các dịp Tết xưa kia hoặc đám cưới ngày nay, đều khiến người nghe cảm thấy không khí vui nhộn, náo nhiệt, lôi cuốn sự chú ý. Tiếng pháo ngày Tết còn có ý nghĩa xua đuổi tà ma, những điều xui xẻo. Những gì không hay của năm cũ theo tiếng pháo bay xa chỉ còn lại xác giấy hồng quanh nhà tượng trưng cho màu sắc hạnh phúc, vui vẻ, thịnh vượng. Cảnh đánh đu tám cột do Hồ Xuân Hương diễn tả: Tám cột khen ai khéo khéo trồng, Người thì lên đánh, kẻ ngồi trông, Trai đu gối hạc, khom khom cật, Gái uốn lưng ong, ngửa ngửa lòng. Đánh đu, trò chơi ngày Tết là cơ hội cho trai gái làm quen. Chơi bài Tam Cúc Mồng một Tết ở nhà làm cỗ, mừng tuổi, chúc tết ông bà, cha mẹ; ngày mồng hai mang đồ biếu và chúc tết bên ngoại, thày dạy học; ngày mồng ba thăm bà con, tảo mộ... Sau ba ngày Tết là vui chơi. Người khá giả, giới thượng lưu như các bà họp nhau chơi bài tam cúc, các ông đánh chắn, tổ tôm. Bộ bài tổ tôm, chắn có 120 cây, người chơi thường có bốn chân, luật lệ tổ tôm chặt chẽ hơn chắn nên môn này chỉ dành cho các cụ khá giả. Bài tam cúc có thể từ hai đến bốn tay, chỉ có 32 quân làm bằng bìa mỏng, bề rộng dài cỡ hai ngón tay, một mặt cùng màu, mặt kia có vẽ hình, chia thành 16 quân đỏ và 16 quân đen. Các hình vẽ có tên tướng, sĩ, tượng, xe, pháo, mã, tốt như trong bộ cờ tướng. Bài tam cúc nay ít còn thấy. Chơi bài là thú giải trí tao nhã, họp bạn thân thiết không phải để ăn thua. Đám xóc đĩa Chơi xúc xắc Giới bình dân thích quây quanh đám xóc đĩa và xúc xắc... Xóc đĩa dùng bốn đồng tiền hai mặt, một mặt có chữ Hán, mặt sau trơn, để trên một đĩa có bát úp lên. Khi nhà cái cầm đĩa và bát lắc, bốn đồng tiền bên trong đảo lộn, lắc xong đặt đĩa xuống, các nhà con bắt đầu đặt tiền ở hai cửa chẵn hoặc lẻ. Sau khi đặt tiền xong, nhà cái mở bát và hô chẵn hoặc lẻ. Người đặt chẵn sẽ thắng nếu số mặt các đồng tiền hiện ra 2 hay 4 mặt giống nhau và ngược lại bên lẻ sẽ thắng. Xúc xắc gần tương tự trò chơi xóc đĩa, thay vì bốn đồng tiền là một con xúc xắc. Nhà con đặt tiền vào các cửa số từ 1 đến 6, khi mở bát, cửa nào có số trùng với một trong sáu mặt số của xúc xắc sẽ trúng. Đây là thú giải trí phổ thông của ba ngày Tết cho người dân thường, còn là sự cầu may, hên xui trong năm mới. Trò chơi xóc đĩa và xúc xắc đơn giản, dễ đánh hơn tài xỉu của Tàu và bầu cua tôm cá sau này. Đám xóc đĩa Chơi xúc xắc Tết là ngày hội vui và thiêng liêng nhất vào mùa xuân trong năm, cả nước từ vua quan đến thứ dân đều tham gia các lễ hội. Xưa kia không có các tòa nhà, hội trường lớn rộng nên các lễ hội có nhiều người dự thường diễn ra tại các bãi đất, sân đình. Quan quân tham dự lễ tế đầu xuân tại thành nội Huế Vào thời kỳ thuộc địa của Pháp, những bưu thiệp (Carte Postale) được phát hành từ những năm đầu của thế kỷ 20, đến nay đã một trăm năm, ghi lại nhiều hình ảnh sinh họat và phong cảnh của đất nước và con người Việt Nam. Những hình chụp in trên bưu thiệp từ các máy ảnh to, nặng và cồng kềnh. Lúc ấy máy ảnh chỉ mới phổ biến được vài chục năm, còn rất xa lạ với người dân thuộc địa. Nhưng nhờ vào hàng ngàn tấm ảnh in trên các lọai bưu thiệp mà ngày nay còn thấy được các hình ảnh rõ ràng, cụ thể con người và đất nước. Những hình ảnh đã qua trên cả trăm năm, người xem chắc vẫn cảm nhận được không khí thanh bình, cuộc sống nhàn hạ và thú chơi bình dị của ông bà tổ tiên những ngày Tết thời xa xưa. Đội múa rồng ngày Tết, Sài Gòn Nguyễn Xuân Sơn, http://www.diendantheky.net/
-
Nồi lẩu che đĩa trái cây Thiên Đồng nấn ná ngồi đây cười cười
-
Giám mục Bá Đa Lộc (Mgr. Pigneau de Béhaine) (Kẻ gian số một) Giáo sĩ Bá Đa Lộc là ai ? Động lực nào đã đem con người này, xuất thân từ nơi làng quê hoang dã này, đến bỏ xác ở VN 208 năm trước đây ? Hoàn cảnh nào đã đưa đẩy Nguyễn Phúc Ánh gặp Bá Đa Lộc và cầu viện nước Pháp ? Ngược dòng lịch sử để tìm hiểu về quan hê. Việt-Pháp trong quá khứ, khoảng thời gian trước khi cái mốc Điện Biên Phủ, chiến thắng quân sự vào ngày 07 tháng 5 năm 1954, một trong những yếu tố quan trọng đưa đến sự kết thúc vĩnh viễn sự cai trị và bảo hộ của nước Pháp tại VN, thật là một công việc vào rừng hốt lá, càng đọc càng thấy thiếu hiểu biết. Vì một bài hát của Georges Villard viết lời – La petite tonkinoise – và Vincent Scotto soạn nhạc vào năm 1906 do Esther Lekain trình diễn, rồi Joséphine Baker hát lại năm 1930 làm cho bản nhạc trở thành nổi tiếng rộng rãi, với những câu õng ẹo vô duyên như “…cest moi qui suis sa petite, son Anana, son Anana, son Annammite… Il mappelle sa ptite bourgeoise sa Tonkiki, sa Tonkiki, sa Tonkinoise…” nghe chói lỗ tai tức cả mình mà tôi bực bội phải tìm kiếm cho ra, tại sao thực dân pháp gọi miền Bắc là Tonkin, miền Trung là Annam, và miền Nam là Cochinchine. Từ thế kỷ thứ mười ba, Marco Polo đã ghi chép chuyến đi đến nước :Giao chỉ” năm 1292 theo phiên âm là “Caugigu”, người Mã Lai đọc trại là “Kutchi”, người Nhật đọc trại là “Kôtchi”, người Bồ Đào Nha lại đọc trại là “Cauchi-China”, để rồi trở thành “Chochichine”, cuối cùng thành “Cochinchine”. Còn cách gọi “Tonkin” là do phiên âm chữ “Đông Kinh” mà ra, vì người Trung Hoa phát âm chữ “Đ” thành chữ “T”, để phân biệt với Bắc Kinh và Tây Kinh. Người Pháp viết theo phiên âm La tinh, bỏ chữ “h” vì trong mẫu tư. Pháp, chữ h là chữ câm không được phát âm, cho nên miền Bắc bị gọi là Tonkin. An Nam là danh xưng của Tàu đặt cho lãnh thổ và dân tộc VN suốt thời kỳ VN bi. Tàu đô hộ. Nhà Đường ở Tàu đã đặt tên cho khu vực lãnh thổ tương ứng với khu vực miền Bắc VN ngày nay là An Nam đô hộ phủ (673-757 và 768-866). Sau khi giành được độc lập, các triều vua VN thường phải nhận thụ phong của Tàu, nhận lãnh danh hiệu An Nam Quốc Vương. Từ đó người Tàu thường gọi nước VN là An Nam, bất kể quốc hiệu là gì. Cách gọi này đã ảnh hưởng đến cách gọi của người châu Âu trước năm 1945. Tuy thế, thực dân Pháp vẫn dùng danh xưng “Annam” để chỉ nước Việt và gọi người Việt là dân “Annammite” dù là ở miền nào đi nữa. Người Việt lại còn dặm thêm chữ tiếng lóng “dân Mít” để tự nói về mình ! Hiện tại, thật là một điều tốt, khi không có một vùng địa lý nào ở VN giữ những cái tên này. Cái tên Indochine là một sản phẩm do các nhà địa lý người Pháp đặt ra để chỉ chung ba nước Việt-Miên-Lào thành một khối thuộc địa, là phần đất địa lý nằm giữa Ấn Độ (Indo) và Trung Hoa (Chine) cho dân Pháp dễ hiểu-dù dân tộc Việt không có khi nào là dân “Indochinois” cả, bỏ qua sự thật cơ bản rằng Việt-Miên-Lào là ba nước khác nhau và ba dân tộc tự trị tự chủ khác nhau. Bây giờ, hễ ai nói đến “Indochine” và “Indochinois” là tôi bực cả mình ! Tôi lần mò đi ngược lịch sử từ thời Bảo Đại lên đến thời Gia Long, chưa đủ, phải học thêm đến thời nhà Lê, không quên bỏ qua thời Tây Sơn, để tìm câu trả lời cho câu hỏi “Người Pháp can thiệp vào VN từ bao giờ ? và tại sao ?”. Ngày xưa, lúc còn mài đũng quần trên ghế nhà trường, những bài học về sử địa đều là những bài học nằm lòng, ê a như con vẹt, trả bài véo von như con két, mà không hiểu tại sao mình phải học và cùng không hiểu các bối cảnh lịch sử chủ yếu và liên quan. Cũng như đi học trường mẫu giáo hát nghêu ngao “Frère Jacques…” một cách rất hồn nhiên ngây thơ. Giờ đây, tôi có cái thích thú ngồi học lại các bài học lịch sử, đi tìm lại những dấu vết về lịch sử VN trên đất Pháp. Cũng vì thế mà một ngày mùa đông, sáng sớm và ban đêm đều có sương mù ảm đạm, mưa nhè nhẹ dai dẳng suốt ngày, cái lạnh ẩm làm cho người ta mau mau đi tìm chỗ ấm áp khô ráo cho khỏe, tôi lên đường đi tìm dấu vết của Giáo sĩ Bá Đa Lộc-tức là Giám mục Monseigneur Pigneau de Béhaine-người đã giúp Nguyễn Phúc Ánh lập nên cơ nghiệp nhà Nguyễn. Kể từ năm 1801 khi Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi Hoàng Đế lấy hiệu là Gia Long – cho đến năm 1955 khi người Mỹ giúp Ngô Đình Diệm mở một cuộc trưng cầu dân ý để lật đổ vua Bảo Đại, tên tục là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy – mười ba vua Nguyễn đã trị vì được 154 năm. Đường đi không xa lắm, nhưng lái xe chạy quanh co các đường quốc lộ và đường liên địa phương mãi cũng ê ẩm cả lưng. Tôi đến một vùng thôn dã, rải rác đó đây một vài cơ sở công nghiệp, thí dụ như một nhà máy làm đường nổi tiếng, một nhà máy làm xi măng, và một nhà máy chế biến thực phẩm. Các mảnh ruộng nho nhỏ không bị cải cách lại thành những cánh đồng mênh mông như ở các vùng khác, còn nguyên những bờ giậu xưa cũ, thường được dân chúng xử dụng làm đồng cỏ chăn nuôi bò, ươn ướt sương mù và mưa bụi, những con đường đất mòn nho nhỏ len lỏi dưới những hàng cây trơ cành trụi lá. Trên ruộng không một bóng người. Hoang vắng. Trên vỉa hè, cũng không một ai, không một con chó chạy rông, một con mèo hoang đi ăn vụng. Chỉ có xe cộ chạy qua lại hấp tấp, vội vã. Thành phố nhỏ lưa thưa vài cửa hàng đèn điện sáng hiu hắt, vắng khách. Làng mạc mấy chục nóc nhà giàu nghèo to nhỏ lẫn lộn ẩn mình trong màn sương mưa xám đục. Dân ở vùng này chuyên nghề chăn nuôi bò, lấy sữa, làm phô ma, trồng trọt, đốn gỗ rừng để bán. Họ không hiếu khách lắm, có vẻ lạnh nhạt, nghi ngờ. Vùng này không phải là một vùng du khách tới lui nhiều dù là cũng có nhà cho du khách thuê. Có sách viết Origny-Ste-Benoite, gần thành phố Saint Quentin, là nơi sinh trưởng của Giáo sĩ Bá Đa Lộc, nhưng đúng ra là Origny-en-Thiérache trong vùng Picardie, gần thành phố Hirson. Cũng may là hai địa điểm này chỉ cách nhau mấy chục cây số đường làng hẻo lánh. Dù đã quen mắt với các cảnh làng mạc nước Pháp, nhưng nhìn khung cảnh nơi đây, trong thời đại này, đường làng cũng đã được tráng nhựa, đèn đường sáng vàng vọt mọi nẻo, nhà bê tông xám hay gạch nung đỏ mọc lên thay cho nhà tường bằng trụ gỗ trám đất sét và rơm rạ khi xưa, các bảng quảng cáo của nhà hàng, quán nhậu, tạp hóa, nhà thuốc tây sáng nhấp nhánh xanh xanh đỏ đỏ, tôi không khỏi tưởng tượng khung cảnh làng quê này mấy trăm năm trước, thời đại của đường đất, xe ngựa, và thầm nghĩ: Ít còn ai nhắc đến nhân vật lịch sử này. Người bạn Pháp đi cùng với tôi lắc đầu, khi tôi hỏi anh ta có biết đến tên Pigneau de Béhaine không. Anh ta cười bảo rằng: tôi không phải là người không thích học giờ Lịch sử, nhưng tôi chưa bao giờ nghe nói đến tên này, và cô là người đầu tiên nhắc đến. Ấy, tóc anh ta đã bạc trắng, và anh cũng là người cùng quê hương với Giám mục Bá Đa Lộc ! Giáo sĩ Bá Đa Lộc là ai ? Động lực nào đã đem con người này, xuất thân từ nơi làng quê hoang dã này, đến bỏ xác ở VN 208 năm trước đây ? Hoàn cảnh nào đã đưa đẩy Nguyễn Phúc Ánh gặp Bá Đa Lộc và cầu viện nước Pháp ? Rẽ vào làng Origny-en-Thiérache, trong thung lũng La vallée du Thon, tôi hơi thất vọng vì thấy nhiều nhà mới xây bằng bê tông, không cổ kính như trung tâm của thành phố Senlis. Làng Origny rộng khoảng 17 cây số vuông, có chừng 1.500 dân, mật độ dân số khoảng 94 dân trên một cây số vuông. Tự động, tôi chạy vào trung tâm làng, ngang qua Tòa Thị sảnh, qua chiếc cầu bắc ngang con sông nhỏ. Lúc tôi vào tiệm thuốc tây nằm trên con đường chính trong làng hỏi tìm căn nhà của Bá Đa Lộc thì cô bán thuốc há họng, lắc đầu không biết. May có bà chủ đứng sau lưng, nghe câu hỏi, bèn mỉm cười chế riễu cô gái trẻ: “Tôi biết ngay là cô không trả lời được” và nhìn tôi bà bảo “cứ đi đến nhà thờ là bà tìm ra !”. Tìm nhà thờ thì dễ quá, cứ nhắm nóc chuông mà đi tới. Mỗi làng, dù chỉ có một hai chục nóc nhà, cũng có một nhà thờ to tướng. Nhưng vùng dân chúng sùng đạo nhất bên Pháp là các vùng Vendée, Alsace-Lorraine. Nhà thờ làng Origny mang tên Saint-Cyr-Sainte-Julitte xây theo kiến trúc thành cổ kiên cố, một tầng của tháp chuông duy nhất được xây theo kiểu tháp chuông của nhà thờ Đức Bà. Đến nhà thờ, tôi xuống xe, đi bộ vào con đường nhỏ bên tay phải, chừng một trăm thước, thì thấy hiện ra trong một góc bên tay trái một nóc nhà cổ kính, có ngọn thánh giá trên nóc, tôi biết ngay đây là ngôi nhà sinh trưởng của Giám mục Bá Đa Lộc. Ngôi nhà lớn, xây từ thế kỷ 16 bằng gạch đỏ và đá trắng, nằm sát cạnh nhà thờ trên một mỏm đất cao, cửa sổ lớn bằng kính trắng, vừa có vẻ nửa cổ nửa tân. Trên mặt tiền nhà có khắc biểu hiệu của Bá Đa Lộc. Tôi đi lên đi xuống cầu thang gần bên cạnh nhà, nhìn loanh quanh khung cảnh nhà quê im ắng. Cũng như mọi nơi, ngoài đường không một bóng người, chỉ có một con chó nhỏ, thấy người lạ, chồm lên khung cửa sắt đóng kín, sủa gâu gâu inh ỏi. Một người lạ vào làng là cả làng đều biết ! Ngôi nhà sinh trưởng của Giám mục Bá Đa Lộc, phía bên nội, được ghi nhận từ năm 1628 qua một văn tự bán nhà. Kiến trúc hiện tại đã được sửa sang thêm vào thế kỷ 18. Qua đến năm 1823 ngôi nhà được bán lại một lần nữa, một bản vẽ hiện trạng ngôi nhà được thiết lập và ngôi nhà trở thành trụ sở linh mục của nhà thờ ngay bên cạnh. Mấy chục năm sau, năm 1862, ngôi nhà lại trở thành hoang phế, không thể sử dụng làm nhà ở được, linh mục Jules Jardinier bèn mua lại và sửa chữa, trong mục đích biến ngôi nhà thành một địa điểm hành hương cho tín đồ. Theo sổ sách ghi chép thì linh mục Jules Jardinier mua ngày 12 tháng 3 năm 1865 với giá là 3.525 quan Pháp (1). Ông cho tu sửa nhiều chỗ, mái nhà lợp bằng ngói bản thạch (ardoise), và thiết kế lại mặt phía đông bằng gạch nung đỏ và đá vôi trắng, thiết kế huy hiệu của Giám mục d’ Adran còn tồn tại tới ngày nay. Linh mục Jules Jardinier đã phải chịu trả một phí tổn khoảng 20.000 quan pháp thời ấy cho các công việc sửa chữa và thiết kế. Người thiết kế là một nhà điêu khắc đá tên là André Lecompte. Nghĩa địa chung quanh ngôi nhà và nhà thờ cũng được dời đi chỗ khác, nhưng tấm bia mộ của cha me. Giáo sĩ Bá Đa Lộc còn được giữ lại làm hiện vật triển lãm hiện nay, dù đã bể và hư hỏng nhiều. Năm 1875 ngôi nhà được thừa kế lại bởi Hội đồng quản lý xây dựng nhà thờ, và được cho thuê để lấy tiền trợ giúp các bà nữ tu dạy học. Ba mươi năm sau, 1905, ngôi nhà lại bị bỏ hoang một lần nữa và bị dự tính phá hủy hoàn toàn vào năm 1910. Nhưng nhờ sự can thiệp kịp thời của André Salles, một người đã làm việc tại thuộc địa, ngôi nhà được Hiệp hội Địa lý Paris (Société de Géographie de Paris) mua lại năm 1911 và sau đó được bảo trì bởi chính quyền thuộc địa Đông Dương và trợ giúp tư nhân. Nhưng vì nhiều trở ngại hành chánh, ngôi nhà không được xếp loại là di tích lịch sử, cho nên không một cơ quan nào chịu bỏ tiền ra bảo quản ngôi nhà. Kiến trúc sư Bertoue ra công sửa chữa lại. Ngày 01 tháng 6 năm 1914, một viện bảo tàng tại ngôi nhà được khai mạc với sự trưng bày các hiện vật sưu tầm được của Hiệp hội Địa lý Paris. Năm 1953 ngôi nhà Bá Đa Lộc được Hiệp hội Địa lý trao tặng lại cho chính quyền địa phương làng Origny-en-Thiérache. Có lẽ, nhân vật lịch sử Giám mục Bá Đa Lộc đã chìm sâu vào quên lãng của nước Pháp, ít người biết Bá Đa Lộc là ai, cho nên ngôi nhà này không phải là một địa điểm thu hút du khách để đem lại nhiều nguồn lợi kinh tế cho làng, vì thế chính quyền địa phương không tha thiết lắm khi lai rai chỉ có một vài khách muốn đến thăm. Gọi là viện bảo tàng chứ muốn vào thăm không phải dễ, vì ngôi nhà này cửa đóng then gài im ỉm và người được cử làm quản gia ngôi nhà Bá Đa Lộc, một phụ tá của ông Trưởng làng, vừa là người bán bảo hiểm, không thích tiếp khách, lấy cớ là “vợ tôi không đồng ý mở cửa vì không có thì giờ”, chỉ muốn mở cửa mỗi năm một lần, nhân ngày Bảo tàng toàn quốc. Tôi buồn cười nhớ đến chính sách bế quan tỏa cảng thời Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức khi xưa. Trong nhà có vài đồ đạc thế kỷ 16, hai bản sao bằng sơn dầu của hai bức tranh nguyên thủy do họa sĩ Mauperin vẽ Bá Đa Lộc và Hoàng tư? Cảnh năm 1787, một bản sao bằng thạch cao bức tượng Giám mục Bá Đa Lộc, một tay nắm Hoàng tư? Cảnh, một tay giơ bản hiệp ước Versailles 1787, bảo đảm viện trợ của nước Pháp cho vua Gia Long, do nhà điêu khắc Edouard Lormier (1847-1919) tạc năm 1901 và tặng cho viện bảo tàng làng Origny – tượng chính bằng đồng đặt trước nhà thờ Đức Bà năm 1902 không còn nữa, một bản sao tấm phướng phúng điếu của vua Gia Long tặng cho Bá Đa Lộc sau khi Bá Đa Lộc qua đời, vài hiện vật tượng trưng cho công nghệ làm rổ rá, công nghệ sản xuất chính của làng Origny-en-Thiérache thời ấy, và các hiện vật khác. Các nguồn sử sách chép rằng, Bá Đa Lộc – tên phiên âm VN của Giáo sĩ Pierre-Joseph-Georges PIGNEAU DE BÉHAINE (trong các sử liệu Công giáo ông còn được gọi là “Đức Thầy Vêrô”), sinh ngày 2 tháng 9 năm 1741 tại làng Origny-en-Thiérache, thuộc địa phận Aisne vùng Picardie phía bắc nước Pháp. Chính ra, ông ký tên là Pigneaux, nhưng sách vở chỉ viết là Pigneau, không có chữ x. Người ta kèm thêm vào họ của ông cái tên địa danh Béhaine, nơi gia đình ông có một sở hữu nho nhỏ, để xác định cho rõ xuất xứ địa phương. Vì thế tên ông trở thành Pigneau de Béhaine. Giám mục Bá Đa Lộc là con của ông Georges Pigneau và bà Marie-Louise Nicaut, con trưởng của một gia đình có 19 người con. Theo cách đặt tên của người Pháp, khi đặt tên đứa con mới sinh, cha mẹ thường đặt theo truyền thống, ít nhất là ba tên, theo tên của những người trong gia đình thuộc thế hệ đi trước: con trai thì đặt theo tên cha, ông ngoại, ông nội, ông cố nội, ông cố ngoại, hay chú ruột, con gái thì cũng đặt tên theo tổ tiên người nữ, theo tên mẹ, bà ngoại, bà nội, dì, cô, theo thứ tự yêu thích (2). Trong ba tên của Giám mục Bá Đa Lộc thì tên của cha ông “Georges” đứng vào hàng thứ ba, như thế tên gọi của ông phải là “Pierre”: Pierre Pigneau. Ông nội của Giám mục Bá Đa Lộc là Charles Pigneau (1659-1732), sinh thời là một thương gia, cố vấn của vua và quản lý vựa muối, tức là một nhân vật có địa vị khá cao trong xã hội. Vào thế kỷ thứ 17 thì muối còn là một thứ “quốc cấm”, việc tích trữ muối thành vựa, mỗi thành phố lớn có một vựa muối, chuyên chở muối, phân phối bán muối và thâu thuế muối là độc quyền của các lãnh chúa và vua chúa. Qua hai tấm tranh vẽ ông nội Charles Pigneau và bà nội, người vợ thứ hai của Charles Pigneau, tên là Marie-Louise Montpellier (1665-1754), của Giám mục Bá Đa Lộc, người ta nhận thấy rằng, người đàn ông trong tranh đang tuổi trung niên, mặc bộ quần áo thương nhân, đầu đội tóc giả theo kiểu quý phái, ánh mắt nhìn năng nổ, soi mói, còn người đàn bà trung niên, bà nội, cũng còn đẹp, mặc quần áo sang trọng thuộc loại tầng lớp trưởng giả theo kiểu cuối đời vua Louis XIV. Các tấm tranh này, có thể đã được vẽ vào năm 1732 khi Charles Pigneau qua đời, cùng với hai tấm tranh vẽ Giám mục Bá Đa Lộc và Hoàng tư? Cảnh đã được triển lãm trong Hội chơ. Thuộc địa tại Vincennes năm 1931. Hai tấm tranh trưng bày tại làng Origny vẽ Giám mục Bá Đa Lộc và Hoàng tư? Cảnh là do bà góa phu. Lesur, vợ của Charles-Louis Lesur, một người cháu của Giám mục Bá Đa Lộc trao tặng cho chính quyền ngày 16 tháng 8 năm 1855. Pierre Pigneau (Bá Đa Lộc) bắt đầu đi học ở thành phố Laon, cách làng Origny-en-Thiérache về hướng nam khoảng 60 cây số, sau đó tiếp tục học tại một chủng viện ở Paris rồi nhập Viện Giáo sĩ Truyền đạo Nước ngoài năm 1765, khi ông được 24 tuổi, và rời khỏi Paris ngày 09 tháng 9 cùng năm để đi thi hành nghĩa vụ truyền đạo tại Cochinchine. Chàng trai tre? Pierre Pigneau đã từ một khung cảnh làng quê thôn dã, đến Laon, là một thành phố lớn thời Trung cổ đi học, rồi lại đến Paris vào chủng viện, tức là vừa có khả năng kinh tế để ăn học, vừa có tri thức, vừa có quan hệ xã hội cấp cao. Nhưng, thay vì tiếp tục con đường sự nghiệp trong nước Pháp, thì có lẽ dòng máu phiêu lưu, ham thích khai phá, chinh phục, năng động, tìm cái mới, cái lạ đã đưa Pierre Pigneau đi đến quyết định lên đường, đi đến một chân trời hoàn toàn xa lạ cách nước Pháp cả vạn dặm. Cá tính độc đáo của Pierre Pigneau được chứng minh sau này bằng cuộc đời của ông. Có người xuống tàu đi nhưng chết giữa đường, trên đại dương mênh mông. Nhưng ông, suốt đời, chạy hết nơi này đến nơi kia, trốn lên trốn xuống, lên tàu xuống tàu, đi hai lần Pháp-Việt qua lại, mỗi lần đi về mất cả mấy năm, lúc cần phải tự vệ, cũng biết múa gươm bắn súng như ai, biết cố vấn về quân sự, chiến tranh, ngoại giao, biết mộ lính, mua bán vũ khí, dạy học, quản lý, và không quên lý tưởng truyền đạo. Ông không phải là một người chỉ biết chắp tay bó gối cầu nguyện, so với thời nay, nhiều thanh niên đồng tuổi với ông, còn bám gấu cha mẹ. Nếu nói rằng các nhà truyền đạo là gián điệp thời xưa thì hơi gay gắt. Nhưng trong khi vua chúa Pháp còn mê mải bởi các trận chiến tranh giành đất giành người hay vì tam thê tứ thiếp, cản trở vì quyền thần, triều đình, hay hưởng thụ, thì Giáo hoàng đã gởi các giáo sĩ đi khắp nơi trên thế giới. Chính vì các giáo sĩ đi đó đi đây, biết cảnh biết người, tiếp xúc nhiều, có khả năng phán đoán và nhận xét một cách khoa học, được giáo dân tôn trọng kính nể, họ là những nguồn tin tức sống động và đáng tin cậy, và trên thực chất họ là những người đi khai phá. Theo truyền thuyết thì vào thế kỷ thứ hai, thứ ba… đã có các nhà truyền giáo đạo Thiên chúa theo chân các thương nhân đến VN, nhưng không có dấu tích lịch sử nào để lại. Mãi cho đến thế kỷ thứ 16, theo lịch sử chánh thức của triều đình VN (Khâm định Việt sử) thì từ năm 1533 đời vua Lê Trang Tông có chiếu chỉ cấm đạo Công Giáo ở VN. Giữa thế kỷ thứ 16 nhà Hậu Lê dần dần suy yếu, sau khi anh là Nguyễn Uông bi. Trịnh Kiểm giết, năm 1558 Nguyễn Hoàng, con của Nguyền Kim, xin Trịnh Kiểm cho vào trấn đất Thuận Hóa ở phía Nam. Nguyễn Hoàng đem theo khoảng một ngàn quân sĩ, bầu đoàn thê tử, thu phục nhân tâm, kêu gọi anh hùng hào kiệt về giúp, và từ đó sáng lập ra cơ nghiệp nhà Nguyễn, tự xưng là Chúa Tiên. Đất nước, tuy dưới danh nghĩa triều Lê, nhưng trên thực tế đã chia ra làm Đường Ngoài (miền bắc) thuộc chúa Trịnh và Đường Trong (miền nam) thuộc chúa Nguyễn. Sách truyền đạo bằng hai thứ tiếng của Alexandre de Rhodes Sử liệu Pháp ghi lại rằng vào năm 1516 có một nhà hàng hải Bồ Đào Nha tên là Fernao Perez de Andrade đã đến tận bờ biển VN. Năm 1596 thầy dòng người Tây Ban Nha tên là Don Diego dAverte đã đặt chân đến Huế, nhưng bị đuổi đi ngay. Hội Ái hữu Thiên chúa (La Compagnie de Jésus) thành lập một tổ chức truyền đạo tại miền Nam VN (la Mission de Cochinchine) năm 1615. Năm 1613 nhà thám hiểm người Anh tên là Richard Carwarden bị giết trên vùng biển Đà Nẵng. Năm 1614 những nhà truyền đạo dòng Tên theo chân các thương nhân người Bồ Đào Nha từ Macao, qua phía nam Trung Hoa, để đến VN. Năm 1625, khi một giáo sĩ, sinh tại thành phố Avignon thuộc miền nam nước Pháp, nhưng gia đình ông thuộc gốc Do Thái ở thành phố Rhodes (bán đảo Iberia) ), tổ tiên sang tị nạn dưới bóng Giáo hoàng vì thời ấy Avignon là đất của Giáo hoàng, tên là Alexandre de Rhodes (A Lịch Sơn Đắc Lộ) cập bến Hội An, thì việc truyền đạo Thiên chúa mới chuyển qua khúc quanh quan trọng. Người Việt gọi Alexandre de Rhodes là Giáo sĩ Đắc Lộ (3). Sau này, thành phần thực dân Pháp “nhận quàng làm họ”, cho Alexandre de Rhodes là người Pháp và cũng quên vai trò của các linh mục Bồ Đào Nha trong việc đặt ra chữ quốc ngữ luôn. Từ năm 1640 các thương nhân người Bồ Đào Nha, Anh và Hòa Lan đã tìm cách thiết lập một quan hệ thương mại tại các hải cảng về phía Bắc và Nam VN, và các giáo sĩ đi truyền đạo cũng theo thuyền thương nhân vào VN. Nhận thấy vấn đề ngôn ngữ bất đồng giữa người Pháp và người VN là cản trở chính cho công việc sinh sống và truyền đạo, Giáo sĩ Đắc Lộ bèn học tiếng Việt. Nhưng công lao của những người Việt đã dạy Alexandre de Rhodes học tiếng Việt và góp phần phiên âm tiếng Việt qua mẫu tư. Latinh thì không một sách vở nào nói đến. Alexandre de Rhodes trở nên thành thạo ngôn ngữ, lịch sử và địa lý VN, và đi truyền đạo ở Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài tổng cộng 20 năm. Năm 1645 ông bị chúa Thượng (Nguyễn Phúc Lan) trục xuất vĩnh viễn khỏi VN. Vì thế khi trở về Paris năm 1649, được sự ủng hộ của Giáo hội Thiên chúa Pháp, Giáo sĩ Đắc Lộ đã vận động hai Giáo hoàng Innocent XI và Alexandre VII đồng ý thành lập Viện Giáo sĩ Truyền đạo nước ngoài Paris (Société des Missions Etrangères de Paris, viết tắt là MEP, các sách còn gọi là Hội Thừa sai), với mục đích đào tạo và đưa các nhà truyền giáo người Pháp đến vùng Viễn Đông. Bốn Giám mục được coi như là những người đã thành lập Hội Thừa sai là François de Laval Montmorency, François Pallu, Lambert de La Motte và Ignace Cotolendi. Trong lệnh truyền năm 1659 Giáo hoàng Alexandre VII đã ấn định nhiệm vụ của Hội Thừa sai là đào tạo và thiết lập một tầng lớp giáo sĩ địa phương, không hoạt động chính trị, chú ý đến văn hóa cổ truyền địa phương, và mọi quyết định đều phải được thông qua La Mã. Hội Thừa sai bắt đầu hoạt động năm 1660, Giám mục François Pallu được cử đặc trách miền Bắc, mà người pháp gọi là Tonkin, Giám mục Pierre Lambert de la Motte đặc trách miền Nam, gọi là Cochinchine. Từ thế kỷ 17 cho đến nay, Hội Thừa sai đã gới khoảng 4.500 giáo sĩ đến châu Á, nhất là các nước Xiêm La, VN, Cam bốt, Trung Hoa, Ấn Độ, Đại Hàn, Nhật, Mã Laị… Năm 1651 Giáo sĩ Đắc Lộ cho in cuốn tự điển Dictionnarium annamiticum, lusitanum et latinum (tự điển Việt-Bồ-La) dựa theo cách phiên âm tiếng Việt qua hệ thống mẫu tư. Latinh, trước đó đã được các giáo sĩ người Bồ Đào Nha và Ý bắt đầu biên soạn, người Việt góp phần, do ông thay đổi và tu chỉnh. Cách viết này đã thay thế chữ Nho, giúp cho các giáo sĩ truyền đạo Pháp học tiếng Việt nhanh chóng, truyền đạo dễ dàng, và sau này đã trở thành chữ quốc ngữ. Gần đây cuốn tự điển “Dictionnarium annamiticum, lusitanum et latinum” được dịch ra tiếng Pháp hiện đại và phát hành tại Pháp. Những nỗi thăng trầm khi thi hành nhiệm vụ Khi đặt chân đến Cochinchine năm 1767 thì Bá Đa Lộc, nhờ có khả năng giáo dục, được cử làm giáo sư trong chủng viện của Hội Thừa sai tạm đặt cơ sở tại Hòn Đất (gần Rạch Giá thuộc tỉnh Kiên Giang ngày nay). Năm 1768 Bá Đa Lộc bi. Mạc Thiên Tứ, Đô đốc Hà Tiên, giam cầm khoảng hai tháng vì bị buộc tội đã che chở cho một người thuộc hoàng tộc Xiêm La, kẻ thù của ho. Mạc. “…Khoảng gần cuối năm 1769 nước Xiêm lại bị nội biến lây sang Cao Miên. Một người Xiêm lai Trung Hoa là PhaJa-Tak, tên Tàu là Trịnh Quốc Anh, cướp ngôi vua. Một hoàng thân Xiêm là Chang-Si-Sang trốn sang Hà Tiên nhờ các thừa sai Pháp giúp ông ta mua vũ khí và chiếm lại ngai vàng. Bị từ chối, ông hoàng chạy sang Cao Miên trên một chiếc thuyền đang chở lương thực cho chủng viện. Đây là việc tình cờ gây tai hại cho chủng viện: PhaJa-Tak (Trịnh Quốc Anh) mua được sự ủng hộ của Đô đốc Hà Tiên Mạc Thiên Tứ (còn gọi là Mạc Thiên Tích, 1706-1780, con của Mạc Cửu) ngày 19.1.1768 họ Mạc bắt giam các thừa sai mấy tháng, dẫn đến sự bùng nổ dân Miên đốt phá nhà thờ, sát hại người Việt ở Cảng Khẩu và Hòn Đất. Sau nhờ sự can thiệp của một người con Đô đốc họ Mạc, cơn chém giết bắt bớ đốt phá lắng dịu…” (trích Nhân vật Công giáo – Lê Ngọc Bích) Ngày 11 tháng 12 năm 1769, dù đã trở thành Linh mục Giám đốc chủng viện tại Hòn Đất, khi chủng viện Hòn Đất bị quân Cao Miên tấn công đốt cháy, ông phải rời khỏi VN cùng với Linh mục Morvan và 13 nhân viên chủng viện để đi đến Malacca (nằm ở phía tây của Mã Lai, cách Singapur khoảng 200 cây số) rồi từ đó xuôi về hướng nam đến Pondichéry (nằm ở vùng đông nam Ấn Độ trong vịnh Bengale, nơi đã có nhiều cơ sở thương mại và hành chánh của Pháp từ năm 1673 ), sau đó năm 1770 ông thành lập một chủng viện ở làng Virampatnam cách Pondichéry một dặm về hướng bắc. “Năm 1771, chủng viện có 39 học viên gồm 12 người Tàu, 16 người Đàng Trong, 5 người Đàng Ngoài, 4 người Thái Lan, 1 người Cao Miên (?) và 1 người Mã Lai. Các học viên được chia thành 4 ban: ban thứ nhất là ban thần học và 3 ban còn lại học tiếng La-tinh, học văn chương và tôn giáo”. (Trương Bá Cần, Công giáo Đàng Trong thời Giám mục Pigneau, Tủ sách Đại Kết 1992, tr. 36-37). Năm 1771 ông được Giáo hoàng Clément XIV tấn phong Giám mục Adran và được bổ nhiệm làm Giám mục Tông tòa phụ tá Giám mục Guillaume Piguel. Nhưng cũng trong năm ấy Giám mục Piguel qua đời ngày 21 tháng sáu, Bá Đa Lộc thay thế Piguel rồi được tấn phong tại Madras ngày 24 tháng 2 năm 1774 (Madras được đổi tên là Chennai năm 1996, là một hải cảng mằm trên bờ biển đông nam Ấn Độ tại vịnh Bengale), và ông lên đường trở lại Đông Dương ngày 12 tháng 3 1775 với chức vi. Giám mục Đại diện Tông tòa Đàng Trong. Thời ấy các linh mục giả trang làm đủ thứ nghề: thợ mộc, thợ nề, thợ đóng cối xay, thầy lang, bán thuốc thậm chí gánh nước thuê, người đi câu, lái buôn… để truyền đạo, và được sự trợ giúp tích cực của các thương nhân, thậm chí có lúc các giáo sĩ đào tạo chủng sinh trên các thương thuyền. Các chủng viện thời đó là nhà tranh vách đất thiếu thốn mọi thứ, thường bị di chuyển nơi này qua nơi khác, chủng sinh học đạo bằng tiếng Latinh, luân lý hay giáo sử, địa lý, toán pháp căn bản, và thiên văn học, nhưng việc học tập khó khăn vì thiếu sách vở và tự điển, và họ sống trong lo sợ bị cấm đạo. Việc truyền đạo thường gặp khó khăn vì lý do ngôn ngữ bất đồng, nhưng cản trở chính là sự đòi hỏi người muốn tin theo đạo Chúa phải từ bỏ tục lệ thờ cúng ông bà tổ tiên, không lấy năm thê bảy thiếp mà chỉ một chồng một vợ, ngoài những khó khăn hình thức khác, thí như xây nhà thờ, đúc tượng, đúc chuông, tổ chức hệ thống họ đạo trên dưới quy củ, mang tên thánh bằng tiếng Pháp… Về đến chủng viện Prambey Chhom trên một hòn đảo của sông Mékong ở tỉnh Kong-Pong-Soai, do Giám mục Piguel ra lệnh xây dựng từ đầu năm 1770, Bá Đa Lộc ra lệnh di chuyển chủng viện Prambey Chhom từ Cao Miên về VN. Trong khi đó, sau cái chết của Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát vào năm 1765, triều đình chúa Nguyễn ở Đàng Trong bị quyền thần Trương Phúc Loan lũng đoạn. Ba anh em Tây Sơn Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ chiêu mộ tướng tài và quân lính, nổi lên năm 1771, kiểm soát vùng đất từ Quy Nhơn đến Bình Thuận, làm suy yếu chính quyền chúa Nguyễn. Cũng nhân cơ hội chúa Nguyễn suy yếu, năm 1774, chúa Trịnh Sâm sai đánh thành Phú Xuân. Triều thần chúa Nguyễn hoảng sợ, bèn mưu bắt Trương Phúc Loan đem nộp. Định Vương Nguyễn Phúc Thuần và các quan phải chạy vào Quảng Nam. Năm 1775, Nguyễn Phúc Ánh mới 13 tuổi, sinh ngày 15 tháng giêng năm 1762, con của Hoàng tư? Nguyễn Phúc Côn và Bà Nguyễn thị Hoàng, cháu của chúa Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1738 – 1765), cùng với tôi chúa ho. Nguyễn phải xuống thuyền chạy vào Gia Định. Nguyễn Nhạc nhân thời cơ đó mang quân hai đường thuỷ bộ ra đánh Quảng Nam. Nguyễn Phúc Thuần vội bo? Quảng Nam theo đường biển trốn vào Gia Định, để lại Nguyễn Phúc Dương. Tháng 2 năm 1775, quân Trịnh tiến vào Quảng Nam. Quân Tây Sơn cũng tiến ra, lùng bắt được Nguyễn Phúc Dương. Quân Trịnh vượt đèo Hải Vân và đụng độ với quân Tây Sơn. Hoàng Ngũ Phúc đang đà thắng lợi, đánh bại quân Tây Sơn ở Cẩm Sạ Nguyễn Nhạc phải rút quân về Quy Nhơn, rồi xin đầu hàng quân chúa Trịnh, mặt khác cử em là Nguyễn Huệ, mới 23 tuổi, làm chủ tướng mang quân vào Nam đánh nhà Nguyễn ở Phú Yên. Sau khi thắng ở Phú Yên, Nguyễn Huệ đem quân đánh quân chúa Nguyễn lấy lại đất Quảng Nam. Tháng 3.1776 Bá Đa Lộc trở về đến Hà Tiên, được Đô đốc Mạc Thiên Tứ cho một khu đất khá rộng gọi là Cây Quao, xéo phía nam Hà Tiên, ông lập một họ đạo mang tên Pi-Nha-Lêu. Tại họ đạo nầy, Bá Đa Lộc thiết lập một chủng viện đặt dưới quyền điều khiển của Linh mục Morvan. Tháng 10.1776, Nguyễn Phúc Dương bỏ trốn từ Quy Nhơn về Gia Định, gọi Lý Tài, người Hoa, vốn là tướng của Nguyễn Huệ được cắt giữ thành Phú Yên khi Nguyễn Huệ ra Bắc, phản bội Nguyễn Huệ, làm vây cánh. Lý Tài ép Nguyễn Phúc Thuần nhường ngôi cho Nguyễn Phúc Dương làm Tân Chính Vương, còn Thuần làm Thái Thượng Vương. Những trận đánh tấn công Gia Định của anh em Tây Sơn đều là những trận đánh lớn. Tháng 3 năm 1777, Nguyễn Huệ đem thủy quân vào đánh Gia Định. Lý Tài thua trận cùng hai chúa Nguyễn chạy về Hóc Môn, rồi cầu viện Tổng binh Hà Tiên là Mạc Thiên Tứ. Tháng 9 năm 1777, Nguyễn Huệ mang quân bao vây tấn công Ba Việt, bắt sống Nguyễn Phúc Dương và toàn bộ quân tướng. Nguyễn Phúc Dương và 18 tướng tuỳ tùng bị đưa về Gia Định xử tử. Nguyễn Phúc Thuần bại trận bo? Cần Thơ sang Long Xuyên, định chờ Mạc Thiên Tứ lấy tàu để chạy sang Tàu cầu viện nhà Thanh nhưng bị quân Tây Sơn Nguyễn Huệ đánh bại Mạc Thiên Tứ, đuổi đến nơi, bắt được Nguyễn Phúc Thuần mang về Gia Định xử tử tháng 10 năm 1777. Nguyễn Phúc Ánh, Đỗ Thanh Nhân và Mạc Thiên Tứ trốn thoát mỗi người một nơi. Năm 1778, nhiều toán cướp ở Cao Miên tràn vào đốt phá khu chủng viện, giết chủng sinh. Bá Đa Lộc cho dời chủng viện về Tân Triều (Đồng Nai). Bá Đa Lộc và Nguyễn Phúc Ánh Năm 1780 sau khi Nguyễn Huệ rút đại quân về, các tướng họ Nguyễn lập Nguyễn Phúc Ánh làm chúa, chiếm lại Gia Định, lập triều đình, xây đắp lại thành Gia Định theo kiểu bát quái có tám cửa xây bằng đá ong. Do đó vùng này gọi là Tân Triều. Một quan hệ có tính cách thân hữu giữa Bá Đa Lộc và Nguyễn Phúc Ánh nảy sinh ra từ giai đoạn này và Bá Đa Lộc được phép hoạt động trên các vùng do Nguyễn Phúc Ánh kiểm soát. Được các lực lượng phương Tây như Pháp, Bồ Đào Nha giúp sức, Nguyễn Phúc Ánh lại mạnh lên. Nguyễn Nhạc sai tướng vào đánh nhưng lại bị thua và mất thêm Bình Thuận. Tháng 3 năm 1782, Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc mang quân thủy bộ nam tiến, phá tan quân Nguyễn, giết chết cai cơ người Pháp là Manuel (Mạn Hoè). Nguyễn Phúc Ánh bị đánh bật ra khỏi đất Gia Định bỏ chạy về Hậu Giang. Anh em Tây Sơn chiếm lại Nam Bộ, sai người giao hảo với Chân Lạp (Campuchia) và đề nghị hợp tác đánh Nguyễn Phúc Ánh. Chân Lạp chia quân đón bắt được đoàn cầu viện Xiêm La của Nguyễn Phúc Ánh và suýt bắt được Nguyễn Phúc Ánh. Nguyễn Phúc Ánh trốn ra đảo Phú Quốc. Bá Đa Lộc cũng phải chạy trốn sang Cao Miên cùng với chủng viện. Cuối tháng 10-1782, sau khi anh em Tây Sơn rút quân về Quy Nhơn, Nguyễn Phúc Ánh dần dần chiếm lại được Gia Định và Saigon. Bá Đa Lộc đưa chủng viện về đặt tại họ đạo Mặc Bắc, Vĩnh Long. Ngày nay Mặc Bắc là một giáo xứ đông đảo trong địa bàn xã Long Thới, huyện Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh, giáo phận Vĩnh Long. Năm 1783 Chu Văn Tiếp lại từ Bình Thuận mang quân vào đánh chiếm được Sài Côn Gia Định và đón Nguyễn Phúc Ánh trở về. Tháng 2.1783, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ mang quân nam tiến, Nguyễn Phúc Ánh bỏ chạy về Đồng Tuyên, đến Hà Tiên rồi trốn ra đảo Phú Quốc. Tháng 8 năm 1783, quân Tây Sơn truy kích, Nguyễn Phúc Ánh chạy ra các đảo Cổ Long, Cổ Cốt rồi lại quay về Phú Quốc. Nhân có bão biển, Nguyễn Phúc Ánh chạy ra đảo Thổ Chu, rồi đầu năm 1784 tự mình sang Xiêm cầu viện. Vua Xiêm sai hai tướng là Chiêu Tăng, Chiêu Sương đem hai vạn thủy binh cùng ba trăm chiếc thuyền sang giúp. Ngoài ra còn có ba vạn quân bộ tiến sang Chân Lạp với danh nghĩa giúp vua Chân Lạp, thực chất với ý đồ tạo gọng kìm phía tây, chờ cơ hội tiêu diệt quân Tây Sơn. Do tình hình ba vạn quân Trịnh đang rình rập ở phía bắc, ba vạn quân bô. Xiêm chực chờ ở phía tây, với hai vạn quân thủy Xiêm ở phía nam, Nguyễn Huệ ra quyết sách nhanh chóng, chủ yếu đánh tiêu diệt hai vạn quân chủ lực đường thủy của quân Xiêm. Sau khi vào Gia Định, Nguyễn Huệ cho bố trí trận địa và nhử quân Xiêm đến gần Rạch Gầm và Xoài Mút ở phía trên Mỹ Tho, rồi đánh một trận, tiêu diệt quân Xiêm vào tháng 1.1785. Đêm 19 rạng 20 tháng 1 năm 1785 quân Xiêm lợi dụng thủy triều xuôi theo dòng sông để tấn công Mỹ Tho nhằm phá vỡ đội thuyền phòng thủ của Tây Sơn. Quân Tây Sơn giả thua rút dần về hướng Mỹ Tho, nhử đối phương lọt vào trận địa mai phục đoạn Rạch Gầm – Xoài Mút. Quân Xiêm và Nguyễn Phúc Ánh thua to, chạy bộ về Xiêm Lạ Nguyễn Ánh một lần nữa chạy ra biển thoát thân. Bá Đa Lộc cũng phải chạy trốn ra các hải đảo ở vịnh Xiêm Lạ Chuyến đi Pháp của Bá Đa Lộc và Hoàng tư? Cảnh Mặc dù thất vọng vì không thuyết phục được Nguyễn Phúc Ánh theo đạo, nhưng trước tình hình nhà Tây Sơn cấm đạo nghiêm ngặt, và để cạnh tranh ảnh hưởng với các nhà truyền giáo đến từ Anh, Bồ Đào Nha, Hà Lan, cho nên Bá Đa Lộc tiếp tục giúp đỡ quân Nguyễn Phúc Ánh qua cơn ngặt nghèo và đề nghị Nguyễn Phúc Ánh xin trợ giúp của triều đình Pháp. Nguyễn Phúc Ánh ưng thuận gởi Bá Đa Lộc làm sứ giả qua Pháp xin cầu viện và để làm tin, Nguyễn Phúc Ánh giao cho Bá Đa Lộc một dấu ấn của vương triều chúa Nguyễn và đem theo Hoàng tư? Cảnh, tên tục là Nguyễn Phúc Cảnh, năm tuổi rưỡi, sinh ngày 6 tháng 4 năm 1780 tại Gia Định, con của Nguyễn Phúc Ánh và bà Tống thị Lan, con gái quan Chưởng doanh Tống Phúc Khuông (sau được truy phong là Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu). Bá Đa Lộc, khi ấy 44 tuổi, khởi hành cùng với Hoàng tư? Cảnh vào tháng 2 năm 1785 để đến Pondichéry. Nhưng tại đây ông gặp khó khăn phải chờ hơn một năm mới tiếp tục đi Pháp được. Ông và Hoàng tư? Cảnh cập bến Lorient vào tháng 2 năm 1787. Đoạn đường đi mất đúng hai năm. Nhiều bộ trưởng của triều đình Louis XVI chống lại một sự can thiệp ở Đông Dương, nhưng các nhân vật quan trọng Công giáo ủng hộ đề nghị của Bá Đa Lộc. Vua Louis XVI tiếp Bá Đa Lộc tại triều đình vào ngày 5 hay 6 tháng 5 năm 1787, trước sự hiện diện của các bộ trưởng và các nhân vật quan trọng. Bá Đa Lộc trình bày tình hình Đông Dương và những quyền lợi về kinh tế thương mại, vật chất, cũng như về việc truyền đạo Thiên chúa qua sự thuận tình của nhà Nguyễn. Chính ra, vua Louis XVI ngần ngại dấn thân vào một cuộc phiêu lưu quân sự tốn kém và nghi ngờ lợi ích sẽ thu hoạch được sau này, nếu đạt được mục đích quân sự. Một chi tiết đáng chú ý là thời ấy dân chúng đang oán ghét và dèm pha nặng nề ảnh hưởng chính trị của hoàng hậu Marie-Antoinette đối với triều đình vua Louis XVI và cách tiêu xài quá phung phí của bà, thí dụ như đề tài hoàng hậu mua một chuỗi kim cương đáng giá một triệu sáu trăm ngàn quan tiền vàng Pháp, trong khi các bộ trưởng đều than phiền là công quỹ quốc gia hao hụt trầm trọng. Triều đình Louis XVI chấp thuận can thiệp, một hiệp ước giữa vua nước Pháp và vua nước VN (người Pháp gọi Nam Kỳ là Cochinchine) được ký kết bởi công tước Montmorin, bộ trưởng của vua Louis XVI và Giáo sĩ Bá Đa Lộc tại Versailles ngày 28 tháng 11 năm 1787. Theo hiệp ước này, nước Pháp giúp Nguyễn Phúc Ánh giành lại ngai vàng, ngược lại, nhà Nguyễn nhượng tuyệt đối cho Pháp cửa bê? Đà Nẵng, Côn Đảo và độc quyền thương mại tại VN. Tại Bắc Hà, từ năm 1782, khi Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm chết, Thế tư? Trịnh Cán được lập làm Điện Đô vương, ho. Trịnh ngày càng suy yếu. Năm 1786, lúc Bá Đa Lộc và Hoàng tư? Cảnh còn lênh đênh trên biển, Nguyễn Huệ được Nguyễn Nhạc cử làm tổng chỉ huy cùng Nguyễn Lữ đánh ra Bắc với danh nghĩa “Phù Lê diệt Trịnh”, Quân Trịnh rệu rã bỏ trốn. Chúa Trịnh không được lòng dân, bỏ thành Thăng Long chạy, bị dân bắt đem nộp Tây Sơn. Trên đường áp giải, Trịnh Tông tự sát. Xem như nhà Trịnh từ đó bị tiêu diệt. Nguyễn Huệ vào thành Thăng Long yết kiến vua Lê Hiển tông. Do sự sắp xếp của Nguyễn Hữu Chỉnh, vua Lê Hiển Tông gả công chúa Ngọc Hân cho Nguyễn Huệ. Tháng 7 năm 1786, vua Lê Hiển Tông qua đời, thọ 70 tuổi. Nguyễn Huệ lập Lê Duy Kỳ lên ngôi vua, lấy hiệu là Lê Chiêu Thống. Ít lâu sau, Nguyễn Huệ đem công chúa Ngọc Hân cùng Nguyễn Nhạc rút quân về Nam. Giữa năm 1787, Nguyễn Ánh từ Xiêm quay trở lại Gia Định. Nguyễn Lữ yếu thế phải rút về Quy Nhơn. Trở về VN Bá Đa Lộc và Hoàng tư? Cảnh lên đường trở về Đông Dương ngày 27 tháng 12 năm 1787 trên chiến thuyền La Dryade. Nhưng vì sự cản trở của các thế lực của chính quyền Pondichéry do công tước Conway lãnh đạo, và sự rối rắm của triều đình Louis XVI, nước Pháp đã không gởi quân cứu viện như đã hứa. Bị bỏ rơi, nhưng Bá Đa Lộc không tự bỏ rơi. Với số tiền 15.000 quan tiền vàng của gia đình và bạn bè cho ông, cộng thêm sự giúp đỡ của các thế lực thương mại, ông thực hiện điều mà triều đình Pháp không muốn thực hiện. Bá Đa Lộc mua vũ khí, súng ống, đạn dược, chiến thuyền và mộ binh để giúp Nguyễn Phúc Ánh. Khi ấy, Nguyễn Huệ phải giải quyết vấn đề chuyên quyền của Nguyễn Hữu Chỉnh và sau đó của Vũ Văn Nhậm, giết Chỉnh và Nhậm, rồi lại rút quân về Phú Xuân. Trong Nam, Nguyễn Phúc Ánh chiếm lại được thành Gia Định. Cuối năm 1788 đang chuẩn bị đánh Nguyễn Phúc Ánh thì Nguyễn Huệ được tin vua Càn Long nhà Thanh nghe lời Lê Chiêu Thống cầu viện, sai Tôn Sĩ Nghị mang 29 vạn quân tiến vào biên giới chiếm đóng Thăng Long. Các tướng giữ Bắc Hà của ông lui về giữ Biện Sơn cố thủ. Nghe tin báo, Nguyễn Huệ quyết định chọn cách đánh thần tốc để chống quân nhà Thanh, đội tiếng phù nhà Lê để xâm lăng. Để lấy danh nghĩa chính thống, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng Đế kỷ nguyên là Quang Trung ngày 25 tháng 11 năm 1788, rồi ngày 22 tháng 12 năm 1788 (25 tháng 11 năm Mậu Thân) xuất quân tiến ra Bắc Hà, truyền hịch hẹn ba quân là ngày mồng bẩy Tết sẽ quét sạch quân Thanh, vào ăn tết ở Thăng Long. Đêm mồng bốn Tết Kỷ Dậu 1789, cánh quân của đô đốc Long bất ngờ tập kích đồn Khương Thượng khiến quân Thanh không kịp trở tay, bị giết hàng vạn. Tướng Sầm Nghi Đống tự vẫn. Xác quân Thanh chết sau xếp thành mười ba gò đống lớn, có đa mọc um tùm nên gọi là Gò Đống Đa. Sáng mồng năm Tết Kỷ Dậu 1789, Quang Trung mới cùng đô đốc Bảo tổng tấn công vào đồn Ngọc Hồi. Tôn Sĩ Nghị sợ hãi đã bỏ chạy trước. Lê Chiêu Thống cũng chạy theo Tôn Sĩ Nghị thoát sang bên kia biên giới. Trưa mồng năm Tết, Quang Trung tiến vào thành Thăng Long. Chỉ trong vòng sáu ngày, quân Tây Sơn đã đánh tan hai mươi chín vạn quân Thanh. Hai trận chiến, trận Rạch Gầm – Xoài Mút chống quân Xiêm phía Nam và trận đại phá quân Thanh Ngọc Hồi – Đống Đa, ghi nên những trang sử oai hùng của nhà Tây Sơn. Trong khi đó tại Pháp, cuộc phá ngục Bastille xảy ra ngày 14 tháng bẩy 1789 đã mở đầu cho cuộc cách mạng đặt nền móng cho một chính thể dân chủ, mà hiện nay ngày 14.07 vẫn là ngày lễ trọng đại của nước Pháp. Mười ngày sau đó, ngày 24 tháng 7 năm 1789 Bá Đa Lộc và Hoàng tư? Cảnh trên chiến thuyền Méduse cùng với khoảng ba trăm thủy quân, tám mươi pháo binh và năm mươi phụ binh người da đen, cập bến Bãi Dừa, Cap Saint-Jacques (Vũng Tàu) . Như thế là Bá Đa Lộc và Hoàng tư? Cảnh đã mất bốn năm rưỡi để đi Pháp và về VN. Trong khi đó, tại Pháp, sau sự kiện cuộc cách mạng năm 1789, vua Louis XVI và gia đình tìm cách trốn ra nước ngoài nhưng không thành. Ngày 10 tháng 8 năm 1792 vua Louis XVI bị bắt tại cung điện Tuileries và bi. Quốc Hội kết tội phản bội chính thể tự do, với 387 phiếu thuận và 334 phiếu chống án tử hình. Ngày 21 tháng 1 năm 1793 đao phu? Sanson chém rơi đầu vua Louis XVI tại quảng trường Cách Mạng, ngày nay là quảng trường Concorde tại Paris. Mười tháng sau đó, hoàng hậu Marie-Antoinette lên máy chém ngày 16 tháng 10 năm 1793 cũng tại quảng trường Cách Mạng. Thời vận Nguyễn Phúc Ánh đã đến Bấy giờ Nguyễn Phúc Ánh đã tái chiếm Gia Định, từ năm 1788. Tình hình đã thay đổi thuận lợi, Bá Đa Lộc chuyển chủng viện từ Xiêm về Đàng Trong và chọn địa điểm là Lái Thiêu làm trung tâm của giáo phận Đàng Trong, lập Tòa Giám mục. Tháng 6.1792, Bá Đa Lộc chuyển chủng viện ra Tân Triều, kinh đô mới của Nguyễn Ánh tại Đồng Nai. Nguyễn Phúc Ánh ban cho Bá Đa Lộc một đội ngự lâm quân gồm 200 người và đặt Bá Đa Lộc là Đặc ủy viên của vua Pháp, làm cố vấn chiến tranh kiêm ngoại giao. Khoảng hai mươi sĩ quan Pháp, và hơn ba trăm năm mươi thủy binh, pháo binh tình nguyện ở lại huấn luyện quân lính và thủy quân VN, xây dựng thành lũy theo hệ thống của Vauban. Nhiều người trở thành quan dưới trướng Gia Long và được đặt tên Việt, như Jean Marie Dayot (Ông Trí) lãnh đạo đội thủy quân, Philippe Vannier (Ông Chấn) chỉ huy chiến thuyền le Dong Nai, De Forsans (Ông Lăng) chỉ huy chiến thuyền LAigle, Jean-Baptiste Chaigneau chỉ huy chiến thuyền le Dragon, Julien Girard de lIsle-Sallé chỉ huy chiến thuyền Le prince de la Cochinchine, Laurent Barisy (Ông Mân) coi về huấn luyện, Olivier de Puymanel (Ông Tín) chỉ huy bộ binh, pháo binh và phụ trách xây thành, Desperles và Despiau, hai nhà giải phẫu và bác sĩ quân đội phụ trách về sức khỏe và thương binh, Theodore Lebuen, Guilloux. Vào năm 1792, Nguyễn Nhạc đóng nhiều tàu thuyền ở cửa Thị Nại để nam tiến. Nhưng lúc đó là mùa gió nồm, thuận gió cho quân nam ra, Nguyễn Phúc Ánh thừa dịp cùng quân Pháp, Bồ Đào Nha đánh úp cửa Thi Nại, đốt cháy nhiều thuyền chiến của Tây Sơn. Nguyễn Nhạc phải thu quân về Quy Nhơn. Trước sự kiện này, Nguyễn Huệ chuẩn bị huy động hơn hai mươi vạn quân thuỷ bộ, chia làm ba đường đánh Nguyễn Phúc Ánh. Chính các giáo sĩ Pháp giúp Nguyễn Phúc Ánh lúc đó cũng rất lo lắng và dự liệu Nguyễn Phúc Ánh khó lòng chống lại được Tây Sơn trận này. Tuy nhiên, cái chết đột ngột của vua Quang Trung Nguyễn Huệ vào tháng 9 năm 1792 khiến kế hoạch nam tiến này không bao giờ trở thành hiện thực. Vua Quang Trung Nguyễn Huệ sinh năm 1753, (sinh trước Nguyễn Phúc Ánh chín năm) mất ngày 15 tháng 9 năm 1792, thọ 39 tuổi, miếu hiệu là Thái Tổ Võ Hoàng Đế. Thời đại hiển hách vủa vua Quang Trung chỉ kéo dài từ năm khởi nghĩa 1771 cho đến năm 1792 là được hai mươi mốt năm, làm vua được gần bốn năm. Năm 1799, Bá Đa Lộc lâm bịnh nặng trong khi hộ tống Nguyễn Phúc Ánh đánh chiếm Quy Nhơn, trung tâm của nhà Nguyễn Tây Sơn. Sau hai tháng lâm bệnh, ông mất ngày 9 tháng mười 1799 tại cửa Thị Nại – Quy Nhơn, tỉnh Bình Định, thọ 58 tuổi. Lễ táng Bá Đa Lộc được cử hành trọng thể do Nguyễn Phúc Ánh chủ tọa và đọc điếu văn. Một lăng mộ của Bá Đa Lộc được Nguyễn Phúc Ánh cho xây dựng trong khu vườn thuộc giáo phận Chí Hòa, thuộc tỉnh Gia Định, cách trung tâm thành phố khoảng ba cây số, sau này dân chúng gọi là Lăng Cha Cả. Nhưng có sách viết rằng lăng mộ chính của Bá Đa Lộc nằm ở cửa Thị Nại, Lăng Cha Cả trong nam chỉ là mộ vọng. Năm 1801, hai năm sau khi Bá Đa Lộc qua đời, Nguyễn Phúc Ánh chiếm lại được Phú Xuân, lên ngôi vua lấy niên hiệu là Gia Long ngày 2 tháng 5 năm 1802, rồi tận dụng thời cơ nhà Tây Sơn suy yếu sau cái chết của vua Quang Trung, tiến ra Bắc, đánh quân Tây Sơn tan rã, làm chủ đất nước từ nam chí bắc. (4) Thời đại mười ba vua nhà Nguyễn bắt đầu Và để trả thù, Nguyễn Phúc Ánh sai đào mô. Nguyễn Huệ và Nguyễn Nhạc, giã hài cốt thành bột và bỏ xương sọ vào vò, giam cầm trong ngục tối, và tru diệt các tướng lãnh Tây Sơn, gây ra cái chết thảm thiết của vợ chồng Trần Quang Diệu và Bùi thị Xuân. Bà Bùi Thị Xuân là một nữ tướng xuất sắc của vua Quang Trung, có tài luyện voi đánh giặc, được vua Quang Trung phong làm Đô Đốc, cùng chồng là Trần Quang Diệu, đã hết lòng phò tá Nguyễn Huệ, bi. Nguyễn Phúc Ánh bắt năm 1802 cùng với chồng. Trần Quang Diệu bi. Nguyễn Phúc Ánh xử lột da đến chết, bà Bùi thị Xuân, và đứa con gái nhỏ bị xử voi giầy cho đến chết. Theo lịch sử Công giáo thì dưới thời vua Gia Long, Giáo Hội Công Giáo có 320.000 giáo dân, 119 Linh mục VN, 15 nhà truyền giáo ngoại quốc và 3 Giám mục. Điều đáng chú ý là tám mươi phần trăm các Linh mục và Giáo chức VN đều ở miền Bắc. Vua Gia Long Nguyễn Phúc Ánh mất ngày 19 tháng 12 năm 1820, thọ 58 tuổi, làm vua được 18 năm, có 31 người con. Hoàng tư? Nguyễn Phúc Đảm, sanh năm 1791 tại Gia Định, con của Nguyễn Phúc Ánh và Bà Trần thị Đặng, lên làm vua lấy niên hiệu là Minh Mạng, chết năm 1840 thọ 49 tuổi, làm vua được 20 năm, để lại 142 người con. Họ Nguyễn, từ Nguyễn Hoàng cho đến Bảo Đại, chín chúa mười ba vua, đã in dấu ấn lịch sử gần bốn thể kỷ (từ 1558 cho đến 1955 là 397 năm). Bảo Đại, Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy, vua cuối cùng của triều Nguyễn chết ngày 31 tháng bẩy năm 1997 tại Pháp, mộ chôn ở Paris. Tro xương của Giám mục Bá Đa Lộc được đem về Pháp năm 1983 và cất giữ tại hầm mộ của Viện Giáo sĩ Truyền đạo nước ngoài Paris. Sau này, khi Pháp xâm lược VN, họ viện dẫn hiệp ước Versailles 1787 để đòi triều đình Huế phải nhân nhượng điều này điều nọ. Nhưng hiệp ước Versailles không có giá trị pháp lý, vì triều đình Louis XVI đã không thực hiện các điều khoản cam kết để giúp Nguyễn Phúc Ánh (giả dụ là triều đình Pháp thực sự muốn giúp), và nhất là triều đình Louis XVI đã bị lật đổ hai năm sau đó (1789), trước khi Nguyễn Phúc Ánh đạt được mục đích của mình. Do đó, triều Nguyễn không có “nghĩa vụ ” thi hành những điều khoản trong hiệp định Versailles 1787. Còn Hoàng tư? Cảnh ? Năm 14 tuổi (1792) Hoàng tư? Cảnh được lập làm Đông Cung, phong chức Nguyên Súy Quận Công. Năm 1797, Hoàng tư? Cảnh theo cha đi đánh quân Tây Sơn ở Qui Nhơn. Vua Gia Long đặt Bá-Đa-Lộc là Sư Phó, Ngô Tòng Chu làm Phụ đạo, và các thầy học khác, trong số này có Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Phó tướng Tả quân Phạm văn Nhân, Đốc học Nguyễn Thái Nguyên, Nguyễn Gia Cát, Tiến sĩ nhà Lệ Ảnh hưởng của Bá Đa Lộc lên Hoàng Tử Cảnh không phải là nhỏ, vì Hoàng Tử Cảnh ăn ở chung sống với Bá Đa Lộc nhiều năm, được Bá Đa Lộc dậy dỗ theo đạo Thiên Chúa, cho nên có cảm tình với người Tây Dương, ra mặt che chở cho tất cả những người Âu, bảo vệ cho đạo Thiên Chúa. Khi ở bên Pháp, Hoàng tư? Cảnh được Hoàng Hậu Marie Antoinette cho sửa đổi lại trang phục, thay thế quần lĩnh áo the và khăn vấn, và sai họa sĩ vẽ tranh kỷ niệm. Ngày 20 tháng 3 năm 1801, sau khi lấy được Thị nại, Hoàng Tử Cảnh mắc bệnh đậu mùa, mất năm 22 tuổi, chỉ hai năm sau khi Bá Đa Lộc qua đời, an táng ở Bình Định, năm 1809 cải táng về Dương-xuân, và được truy tụng là Anh Duệ Hoàng Thái Tử. Hoàng Tử Cảnh kết duyên với Tống thị Quyên, sinh được hai con trai là Mỹ Đường và Mỹ Thùy. Năm Gia-Long thứ 16 (1818), phong cho Mỹ Đường là Ứng Hòa Công, Mỹ Thùy là Thái Bình Công. Sau khi Hoàng Tử Cảnh qua đời, có người tố cáo Mỹ Đường thông gian với mẹ đẻ là Tống thị Quyên. Lê văn Duyệt tâu kín. Vua Minh-Mệnh sai bắt người vợ của Hoàng Tử Cảnh giao cho Lê văn Duyệt dìm chết và cấm Mỹ Đường không được chầu hầu. Năm 1824 Nguyễn Phúc Mỹ Đường dâng sớ nói có bệnh, xin nộp trả sách và ấn, về ở nhà riêng, làm thứ dân. Năm 1826, Nguyễn Phúc Mỹ Thùy bị quân lính ở Dực Chấn kiện, sắp giao xuống cho đình thần nghị tội thì bị bệnh chết, không có con (có sách viết ông có một con gái). Cuối cùng, con trai của Mỹ Đường, Nguyễn Phúc Lệ Trung, bị bỏ tước hiệu Ứng Hòa Công, giáng xuống là Thái Bình Hầu. Kỳ Ngoại Thái Bình Hầu Cường Để tên húy là Nguyễn Phúc Vân, đích tôn dòng Hoàng Tử Cảnh, đời thứ sáu kể từ vua Gia Long (Mỹ Duệ Anh Cường Tráng…), được Phan Bội Châu tôn làm Minh chu? Việt-Nam Quang Phục Hội, và giúp Cường Để xuất du, sang Nhật hoạt động (1906). Tuyết Trần, France, Xuân Đinh Hợi 2007 Tôi chỉ là người học sử, nếu có sai sót xin vui lòng chỉ giáo. Xin cảm ơn trước. Chú thích : (1) Quan tiền Pháp đầu tiên trong lịch sử nước Pháp là “quan cỡi ngựa” (Franc à cheval) từ thế kỷ thứ XIV vì có in hình vua Jean le bon (1350-1364) cỡi ngựa, bằng vàng nhuyễn nặng từ 3,8 đến 3,9g, tương đương với một chỉ vàng ròng hiện nay. Sau đó, vua Charles V (1364-1380) ấn định chính xác một quan Pháp nặng 3,826g. Đồng quan này được gọi là “quan đi bộ” (Franc à pied) vì in hình vua đứng trên ngai vàng có phủ trướng. Năm 1785 vua Louis XVI ấn định đơn vị tiền tệ một quan vàng (gọi là 1 livre tournois) nặng 0,29g vàng ròng, còn một quan bạc (gọi là 1 livre) thì nặng 4,45g bạc ròng. Từ năm 1879 đến năm 1928 một quan vàng Pháp được ấn định nặng 0,3225g, nhưng tiền vàng dần dần được thay thế bằng tiền giấy kể từ năm 1914, khi Đệ nhất thế chiến bắt đầu. (2) Người bạn Pháp đi cùng với tôi mang ba tên: tên của ông nội là tên chính của anh ta, tên một người chú chết trận khi còn trẻ tuổi và tên chạ (3) Giáo sĩ Đắc Lộ Alexandre de Rhodes, con của Bernardin de Rhodes và bà Jeanne de Tolède, sinh ngày 15 tháng 1 năm 1591, qua đời ngày 05 tháng 11 năm 1660 tại Isfahan, Ba Từ (Persian), cho nên không thể nhầm lẫn với Giáo sĩ Bá Đa Lộc sanh năm 1741, tức là 81 năm sau. (4) Các quốc hiệu chính thức của VN theo dòng lịch sử là Văn Lang , Âu Lạc, Vạn Xuân, Đại Cồ Việt ( từ thời nhà Đinh năm 968 đến đời vua Lý Thánh Tông năm 1054), Đại Việt ( từ thời nhà Lý đến năm 1804 , nhưng không liên tục vì nhà Hồ đổi thành Đại Ngu năm 1400, cho đến khi nhà Hậu Lê giành lại độc lập cho VN, quốc hiệu của VN đổi lại thành Đại Việt. Nhà Nguyễn Tây Sơn cũng gọi tên nước là Đại Việt. VN được Vua Gia Long Nguyễn Phúc Ánh ban hành là quốc hiệu chính thức. Nhà Thanh chính thức tuyên phong tên VN năm 1804. Theo các tác giả nghiên cứu khác thì tên gọi “VN” đã xuất hiện từ thế kỷ 14. Qua thế kỷ 15 hai chữ “VN” được tìm thấy trong các tác phẩm của Nguyễn Trãi (1380-1442) và của trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585). Vua Minh Mạng công bố quốc hiệu mới Đại Nam vào ngày 15 tháng 2 năm 1839. Quốc hiệu Đại Nam tồn tại đến năm 1945. http://ttvnol.com
-
" Chơi Xuân " đã dễ mấy người... Nguyễn Dư Ngày xưa Xuân thắm quê tôi... Mỗi năm hoa đào nở... Khách tha hương chạnh nhớ Tết quê nhà. Nhớ tha thiết muôn vàn hình ảnh, hương vị. Nhớ những mẩu chuyện kỷ niệm của cha mẹ, ông bà kể làm quà cho con cháu. "Ngày xưa Tết đến, làng ta tổ chức hội hè vui chơi. Muôn màu muôn vẻ...". Một vài nét điển hình của hội hè cổ truyền ngày Tết đã được các nghệ sĩ dân gian trình bày cô đọng trong một tấm tranh với bài thơ nôm quen thuộc. Đây là " một bức tranh dân gian làng Hồ, nhan đề Du Xuân Đồ (bức vẽ chơi Xuân) được "chú thích " bằng bốn câu thơ Nôm : Thời bình mở hội Xuân Nô nức quyết xa gần Nhạc dâng ca trong điện Trò thưởng vật ngoài sân " (1). " Từ cảnh vui Xuân ngày Tết của tầng lớp vua quan, quý tộc, xa hoa ăn uống rượu chè, đàn hát phục dịch trong cung điện, đến những trò vui chơi của nhân dân : đánh vật, bắt chạch, đánh bài lấy giải ở ngoài sân đều được phản ánh trong tranh "Du Xuân đồ", kèm theo bốn câu thơ nôm phụ họa ở góc tranh : Thời bình mở hội Xuân ... Trò thưởng vật ngoài sân " (2). "Tranh Du Xuân Đồ vẽ những cảnh vui chơi hội hè gồm có hát ả đào, đánh vật, đánh bài phu. Có bốn câu thơ đề vịnh (...)" (3).Tấm tranh Du Xuân đồ và bài thơ nôm nổi tiếng này được in trong sách Imagerie populaire vietnamiennecủa Maurice Durand (4). Thoạt nhìn tấm tranh, mới đọc bài thơ, khách thưởng lãm thích thú, sảng khoái ... " Bài thơ được minh họa bằng cảnh nhạc công và ca sĩ đang biểu diễn trước mặt hai ông quan ngồi ( uống rượu) ở bàn. Hai ông chủ trì một cuộc thi hát, chấm điểm và trao tặng giải thưởng. Giữa tấm tranh vẽ hai đô vật đang thi đấu. Phía trên bên trái, vẽ hai người đàn ông, có lẽ là hai người dự thi đấu vật, đang thò tay vào một chiếc bị. Bên trên hai người là hàng chữ "Hai ta quyết lấy giải làng". Không biết có phải là chiếc bị dùng để bốc thăm tên đô vật hay là hai người này đang chơi trò chơi gì khác ? Khó mà biết chắc được. Căn cứ vào mấy câu thơ nôm của tranh thì giả thuyết thứ nhất có vẻ thích hợp hơn ". (Pour illustrer ces vers nous voyons un musicien et un chanteur en action devant deux mandarins assis à une table. Ceux - ci sont juges des concours de chants et distribuent les récompenses. Au centre, des lutteurs combattent. En haut à gauche, deux hommes, probablement deux candidats au concours de lutte, plongent leurs mains dans un sac. Au-dessus d'eux sont inscrits les caractères Hai ta quyết lấy giải làng " Nous sommes tous deux décidés à gagner les récompenses du village." Le sac contient-il les noms des adversaires qu'ils vont tirer au sort, ou bien le groupe de ces deux personnages fait-il allusion à un autre jeu, il est difficile d'en décider. La première hypothèse, prenant appui sur les vers inscrits en légende, semble la meilleure interprétation.) (4). Qua mấy lời nhận xét trên đây của Durand thì tấm tranh và bài thơ cũng có điều khó hiểu, cần được xem kỹ hơn ? Giả thuyết thứ nhất của Durand, cho rằng đây là hai đô vật đang bốc thăm, có nhiều điểm không hợp lý. Để ý một chút chúng ta sẽ nhận ra rằng tranh vẽ một chàng trai và một cô gái mặc yếm. Họ quàng vai nhau. Tay chàng trai có vẻ như đang sờ ngực cô gái. Hai người này khó có thể là đô vật được. Hơn thế nữa, câu Hai ta quyết lấy giải làng tỏ rằng họ thuộc về cùng một phe của trò chơi. Để ý một chút thì ai cũng nhận ra đây là một cặp trai gái đang chơi trò "quàng vai bắt chạch ". Durand đã lẫn lộn trò chơi này với trò đánh vật. Điều làm cho Durand lúng túng có lẽ là vì bài thơ nôm chỉ nói đến ca hát, đánh vật, chứ không đả động gì tới trò chơi bắt chạch và đánh bài phu ? Người vẽ đã vẽ thừa hay bài thơ còn thiếu chăng ? Thật ra thì ... không thừa mà cũng chẳng thiếu ! Sở dĩ có chuyện thơ không ăn khớp với tranh là vì tấm Du Xuân đồ của Durand không phải là một tấm tranh được sáng tác theo ý tác giả ban đầu của nó! Nghe như chuyện lạ, bông đùa. Nhưng đúng là chuyện thật. Tranh Du Xuân đồcủa Durand đã được ghép từ hai tấm, tôi tạm gọi là tranh A và tranh B, của bộ sưu tập Henri Oger (5). Bài thơ nôm Du Xuân đồ của tranh A như sau : Thời bình mở hội Xuân Nô nức quyết (a) xa gần Nhạc dâng ca trong điện Trò thưởng cuộc (B) ngoài sân Bên dưới bài thơ là câu "Hai ta quyết lấy giải làng". (a) Chữ quyết ( quyết tâm, quyết chí ...) của tiếng Việt luôn đứng trước một động từ, thí dụ : quyết tranh đua lấy giải, quyết học hành đến nơi đến chốn v.v. Chữ quyết không thể đi với một trạng từ chỉ nơi chốn. Cụm từ "quyết xa gần " không có nghĩa. Tôi đoán rằng chữ quyết (bộ băng hay bộ thủy) là do chữ khoái (bộ tâm) bị viết nhầm. (Bộ băng, bộ thủy, bộ tâm đứng, viết gần giống nhau). Chữ khoái được đọc sang chữ nôm thành khắp. " Nô nức khắp xa gần " nghĩa là khắp mọi nơi đều nô nức. Câu thơ vừa đúng văn phạm vừa tả đúng không khí ngày hội, ngày Tết ở thôn quê. Các học giả sau này đều chép là "quyết xa gần", chép đúng cả cái sai, cái vô nghĩa của nguyên bản ! (B) Chữ cục (hán việt, nghĩa là một ván cờ, đánh bạc) chuyển sang nôm thành cuộc. Cuộc vừa có nghĩa là một ván, một bàn (chén rượu cuộc cờ, cuộc đỏ đen), vừa có nghĩa là đánh cuộc, một hình thức đánh bạc (miền Nam gọi là đánh cá). "Trò thưởng cuộc ngoài sân" là trò chơi quàng vai bắt chạch, vừa có giải thưởng là bánh pháo treo đầu nhà, vừa là trò vui cho mọi người đánh cuộc với nhau. Cặp trai gái nào mà chả háo hức, tự nhủ phen này "hai ta quyết lấy giải làng". Người ghép tranh Durand đã đổi chữ cuộc thành chữ vật cho hợp với trò đánh vật của tranh B. Thế là dùng câu thơ của trò chơi này gán cho trò chơi khác, nên mới vô tình gây ra tình trạng tranh và thơ không ăn khớp với nhau, khập khiễng khó hiểu. Tranh B ( nửa dưới của tranh Durand, từ đây viết tắt là tranh D) không có tên, vẽ cảnh đánh vật và bốn người đàn bà chơi bài phu, ngồi bốn cửa : Bính Giáp Đinh Ất Mỗi cửa có hai câu thơ nôm trình bày diễn tiến của ván bài. Cửa Giáp : Bán chi không đánh nhất văn Bát văn cầm kết muôn phần © giá cao Cửa Ất : Bài tôi ăn thưởng không thang (d) Lục văn cũng nghĩ kết ngang (e) chẳng cầm Cửa Bính : Tam khôi bắt kiệt (g) tưng bừng Tinh thần đứng dậy (h) tâm trường múa lên Cửa Đinh : Hàng văn làng hãy còn nhiều (i) Cầm chơi một ván đánh liều thử xem © Tranh D : bấyphần. Muôn phần, hay muôn vàn thông dụng và nghĩa rõ hơn là bấy phần. (d) Durand giải thích rằng không thang nghĩa là không có quân thang thang (Mes cartes ne présentent point de thang). Nếu đúng như vậy thì câu thơ sáu chữ được hiểu là "bài của tôi được ăn thưởng vì nhờ không có quân thang thang". Điều này cũng có nghĩa gián tiếp là bài có quân thang thang thì bị phạt hay không được ăn ? Không có quân bài nào lại tai hại đến mức như vậy ! Thực ra thì Durand quên rằng chính ông đã cho biết rằng không thang là tên quân bài thường được gọi là thang thang (6). Cỗ bài tổ tôm, cũng dùng để chơi bài phu, gồm có : - Hàng sách, có các quân không thang hay thang thang, nhất sách ... cửu sách. - Hàng vạn, có các quân bách vạn hay ông lão, nhất vạn ... cửu vạn. - Hàng văn, có các quân bán chi hay chi chi, nhất văn ... cửu văn. Câu thơ trong tranh muốn nói rằng "bài của tôi được ăn thưởng nhờ có quân không thang". Xin mở dấu ngoặc để nói thêm rằng hai tiếng Tổ Tôm là đọc trại từ Tụ Tam ( ba quân bài để làm thành một phu). Nhân sinh quý thích chí Chẳng gì hơn vui cuộc tụ tam ( Nguyễn Công Trứ, 1778-1859) Bực chăng nhẽ anh hùng khi vị ngộ Như lúc đen chơi cuộc tổ tôm ( Trần Tế Xương, 1869-1906) Tụ Tam biến thành Tổ Tôm. Tổ Tôm là ... Nid de crevettes (6). Ngày xưa người ta "Đố ai biết đâu là tổ con chuồn chuồn", ngày nay có thể thêm" Đố ai biết đâu là tổ con tôm "! (e) Kết ngang : ba quân bài cùng bậc của ba hàng, thí dụ lục văn, lục sách, lục vạn. (g) Tranh B viết chữ hồng ( thần chú bằng tiếng Phạn (Thiều Chửu), như trong câu Úm ma ni bát minh hồng). Chữ hồng âm nôm có thể đọc là hỏng (?). Nhưng bắt hồng hay bắt hỏng đều không hợp nghĩa. Tôi cho rằng đây không phải là chữ hán, người viết dùng một nửa chữ kiện và bộ khẩu để viết chữ nôm kiệt. Quân bài kiệt (hay cạn), tức là quân bài hiếm. " Đánh tổ tôm, nước ăn, nước bốc cũng lắm nước cao, mà được trúng ý mình thì thích chí lắm. Có lúc bốc được những con bài kiệt thì sướng vô cùng, cho nên có câu rằng :"thiên tử bất như tứ vạn" (7). Ù tam khôi ( bài vừa có tôm, vừa có lèo) ăn rất lớn. Chờ quân bài kiệt để được ù tam khôi mà tinh thần nôn nao như chỉ chực đứng dậy, tâm trường bị kích thích tưởng chừng như muốn múa lên ! (h) Tranh D : bắt ngỏ. Chữ ngỏ (nôm) được viết bằng chưõ ngọ (hán việt). Bắt ngỏ nghĩa là làng đánh ra bất cứ quân gì mình cũng ăn được. (i) Tranh D : Mừng bỏ đứng dậy. Ván bài chưa xong, còn đang chờ bắt ngỏ thì làm sao có thể mừng bỏ đứng dậy được ? Hai câu thơ của tranh D ý không thông. (j) Tranh D : còn cầm. Hai câu thơ không hợp vần. Tranh dân gian, đặc biệt là tranh Tết, từ xưa đến nay được nhiều người ưa thích. Các nghệ nhân một mặt phải cố gắng sáng tác tranh mới, mặt khác phải lo phục hồi vốn cổ, khắc lại những tấm ván tranh bị mòn hỏng, để bảo đảm cho dòng tranh được tiếp nối liên tục. Phục hồi vốn cổ là việc làm đáng được biểu dương, cổ vũ nhưng đồng thời nó lại hay gây ra tình trạng "tam sao thất bản", "râu ông nọ cắm cằm bà kia", như trường hợp tấm Du Xuân đồ được nói tới trong bài này. " Chơi Xuân" đã dễ mấy người... biết tranh ? Thói quen tuỳ tiện sửa đổi thơ, thậm chí thay đổi cả bố cục của tranh thường chỉ làm giảm cái hay của thơ, làm mất cái đẹp hài hòa của tranh. Nguyễn Dư (7/11/2000) (1) Trần Quốc Vượng, Hội hè dân gian, Nguyệt San Trăm con, số 8, Canada, 1993. (2) Nguyễn Bá Vân - Chu Quang Trứ, Tranh dân gian Việt Nam, tr. 71, Văn Hóa, 1984. (3) Nguyễn Bá Lăng, Tranh Tết, trong Phong tục Tết Việt Nam và các lân bang, Đông Nam Á, Paris, 1986. (4) Maurice Durand, Imagerie populaire vietnamienne, EFEO, tr. 48, Paris, 1960. (5) Henri Oger,Technique du peuple annamite, Hà Nội, 1912. (6) Pierre Huard, Maurice Durand, Connaissance du Vietnam, tr. 244, EFEO, Paris, 1954. (7) Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, tr. 353, Tổng hợp Đồng Tháp, 1990.
-
Bài Tổ tôm và văn hiến Việt Trong tác phẩm đầu tay của tôi: “Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại”, với những chứngv cứ di sản phi vật thể tôi đã cho rằng: Cội nguồn của dân tộc Nhật chính là một bộ phận của một tộc người sinh sống trên đất Văn Lang xưa, trong cơn quốc nạn (Mà tôi giả thiết là vào cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng thất bại), họ đã di cư sang đảo quốc Phù Tang và sau vài thế kỷ tồn tại phát triển, đã lập thành một quốc gia trên biển Đông. Những di sản mà chúng ta có thể nhận thấy là: Tục ăn trầu và nhuộm răng đen vẫn tồn tại trong giới quý tộc Nhật đến thế kỷ thứ X . Người Nhật Bản còn phổ biến tục xăm mình chính là một tập tục của Văn Lang cổ và một hiện tượng thứ ba mà tôi trình bày dưới đây chính là bài tổ tôm trong văn hóa Việt với y phục và kiến trúc cổ Nhật Bản. Chơi bài tổ tôm chỉ phổ biến ở Việt Nam, dân tộc Nhật hầu như không hề biết đến cách chơi bài này. Nhưng những hình ảnh trên bài tổ tôm lại ghi dấu ấn trang phục cổ Nhật Bản và những di sản kiến trúc của họ. Điều này cho chúng ta thấy một mối liên hệ văn hóa từ cội nguồn của lịch sử Nhật Việt mà tôi sẽ phân tích trong bài này. Bây giờ các bạn hãy quán xét những hình ảnh sau đây: Bát sách.....................Tứ sách............................Tam vạn..................Nhị văn Các bạn hãy so sánh hình ảnh trên với hình ảnh minh họa cô Geisha Nhật Bản dưới đây. Nhưng y phục dân thường trong bài Tổ tôm cũng chính là y phục cổ Nhật: Chưa hết. Hình dưới đây trên con bài tổ tôm cho thấy một mẫu kiến trúc tương tự kiền trúc cổ truyền thống Nhật Bản. Các bạn hãy quan sát hình con bài Ngũ Vạn và ngôi chùa cổ Nhật dưới đây: Trên con bài tổ tôm, các bạn so sánh với những ký tự chữ khoa đẩu trên trống đồng Lạc Việt và của nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền thì chúng ta sẽ thấy những nét tương đồng. Đồng thời chúng ta cũng thấy rằng chữ viết trên con bài tổ tôm hoàn toàn không phải chữ Hán và cách viết là cách ghép vần như cách viết chữ Khoa Đẩu của người Việt cổ. Xin xem hình minh họa dưới đây: So sánh chữ viết trên lá bài và chữ khoa đẩu Chữ khoa đẩu do nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền phát hiện Dấu ấn chữ khoa đẩu trên con bài tổ tôm Ghép vần bằng ký tự khoa đẩuBản dịch thơ của nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền Nghêu ngao vui thú sơn hà Mai là bạn cũ, hạc là người quen Ký tự khoa đẩu trên trống đồng Lạc ViệtBản chính trồng đồng này ở một viện bào tàng của nước ngoài (Thông tin từ nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền) Dấu ấn chữ khoa đẩu trong chữ viết Nhật Bản hiện đại(Hình ảnh quảng cáo trên báo Nhật bản) Nguyễn Vũ Tuấn Anh - Thiên Sứ
-
Vụ án tổ tôm và khí tiết lương y Đinh Nhật Thận http://www.doctin.vn - Đinh Nhật Thận (1815 - 1866) là một nhà thơ, đồng thời là một thầy thuốc giỏi thời nhà Nguyễn. Nhưng do tính cương trực nên bước đường công danh của ông không thuận lợi. Ông từ quan về quê mở trường dạy học và làm thuốc giúp dân. Bị bắt vì bức thư mời đánh tổ tôm Ông là người làng Thanh Liên, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, đỗ Tiến sĩ khoa Mậu Tuất (1838) năm Minh Mạng thứ 19. Đinh Nhật Thận nổi tiếng là một thầy thuốc giỏi đương thời, danh tiếng chữa bệnh của ông không chỉ được biết ở vùng Nghệ Tĩnh mà còn được truyền tụng khắp kinh thành Huế. Chính nhờ tài chữa bệnh, ông đã thoát khỏi án tử hình trong một vụ án văn tự nổi tiếng thời Tự Đức mà người thời ấy gọi là "Vụ án tổ tôm". Đinh Nhật Thận là bạn thân của Cao Bá Quát. Cũng vì chuyện này sau khi Cao Bá Quát làm quân sư cho Lê Duy Cự khởi nghĩa chống lại triều đình nhà Nguyễn, ông bị nghi kỵ, gọi về Huế để tiện theo dõi. Tại Huế, ông bị theo dõi nghiêm ngặt nhất cử nhất động đều được báo cáo với phủ doãn Thừa Thiên. Một lần mật thám của phủ Thừa Thiên thấy người nhà ông cầm một bức thư sang sông. Tên này giật lấy xem, thấy viết: "Tứ tướng dĩ cụ, chỉ khiếm nhất viên, tương nhất bách nhị thập tinh binh, độ hà lai chiến", nghĩa là: "Bốn tướng đã có mặt, chỉ thiếu một tướng, hãy đem đủ 120 tinh binh, qua sông giao chiến". Chỉ vì bức thư mời bạn đến đánh tổ tôm mà quan nghè Đinh Nhật Thận bị kết án tử hình và nhờ tài chữa bệnh ông đã thoát chết. Lập tức tên này hăm hở cầm "mật thư" về trình quan. Đinh Nhật Thận liền bị bắt giải về phủ Thừa Thiên. Ông giải thích với quan phủ rằng: "Thưa, đây chỉ là một giấy mời đánh tổ tôm. Tôi đã có ba người bạn đến rủ đánh tổ tôm, với tôi là bốn, đó là "Tứ tướng dĩ cụ". Nhưng đánh tổ tôm phải có năm người, nên "Chỉ khiếm nhất viên". Tôi mời một người bạn nữa ở bên kia sông sang chơi và mượn cả cỗ bài 120 quân, nên phải: "Tương nhất bách nhị thập tinh binh, qua sông giao chiến". Nhưng quan phủ doãn không chấp nhận lời biện bạch của ông, kết án là "yêu thư yêu ngôn" rồi gửi ông về trình bộ Hình. Không may cho ông, quan thượng thư bộ Hình vốn có thù sẵn với ông, nay được dịp báo thù nên cố tình ghép ông vào tội tử hình vì có âm mưu làm loạn. Thoát chết nhờ tài chữa bệnh Lúc ấy, cụ cố thân mẫu quan thượng thư bộ Hình đang bị bệnh nặng, các thầy thuốc ở kinh thành đều bó tay. Danh tiếng chữa bệnh của Đinh Nhật Thận đã được truyền khắp kinh thành Huế từ lâu, nên cụ cố muốn mời ông đến chữa. Bất đắc dĩ quan thượng thư phải cho lính xuống nhà giam đòi ông. Đinh Nhật Thận trả lời: Chú về bẩm hộ, quan lớn mời thầy thuốc chữa bệnh cho cụ cố mà làm như gọi dân đến hầu kiện. Như vậy thầy vừa mất thể diện, quan lớn vừa mang tội bất hiếu. Khi nào quan lớn thân hành tới đón ta, ta mới đi. Quan thượng lâm vào tình thế khó xử. Nhưng một mặt bị cụ cố thúc bách, một mặt được những người chung quanh khuyên nhủ, quan thượng đành nén giận đến nhà giam mời Đinh Nhật Thận. Thuốc thang ít lâu, cụ cố khỏi bệnh, thầy thuốc cũng được thoát chết vì sau khi bình phục cụ cố buộc quan thượng phải tìm cách tha tội cho ân nhân đã cứu sống mình. Chỉ vì bức thư mời bạn đến đánh tổ tôm mà quan nghè Đinh Nhật Thận bị kết án tử hình và nhờ tài chữa bệnh ông đã thoát chết. Ngày nay nghe kể lại vụ án thật vô lý, nhưng là chuyện thật đã xảy ra. Những vụ án văn tự như vậy, thời phong kiến xưa đời nào cũng có! Chúc Phong ======================== đọc thêm:
-
HỌC ĐÁNH TỔ TÔM (ĐÁNH CHẮN ) “Nghề ăn nghề chơi cũng lắm công phu” – tục ngữ Việt Nam. Tổ Tôm và Chắn là một trò chơi bài lá dân gian phổ biến của người dân Việt Nam. Tên gọi của Tổ Tôm được đọc chệch ra từ chữ "Tụ Tam" nghĩa là hội tụ của ba lại hàng Văn, Vạn và Sách. Trong các ngày lễ, Tết, Tổ Tôm thường được nam giới và người già chơi vì nó có một số luật khá khó, nhiều nước biến hoá, thanh niên và phụ nữ thời xưa ít chơi. Tổ Tôm không phổ biến và bình dân bằng trò chơi Tam Cúc. Do Tổ Tôm khá khó nên người xưa có câu ca dao đề cao Tổ Tôm, nó thể hiện trình độ và cái oai phong của bậc quân tử : Làm trai biết đánh Tổ Tôm Uống chè mạn hảo xem nôm Thuý Kiều. Cũng có tài liệu nói rằng Tổ Tôm xuất phát từ Nhật Bản do các hình vẽ đều là hình vẽ theo kiểu của Nhật, theo lối tranh mộc bản (mokuhan) đơn giản và tất cả các nhân vật đều mặc "Kimono" thời Edo (trước khi Nhật hoàng Minh Trị lên ngôi và trị vì 1868-1912), trong số này có 18 hình đàn ông (có 8 người bó chân), 4 hình phụ nữ và 4 hình trẻ em. Các hình cá chép, trái đào, thành, thuyền cũng là những hình ảnh rất Nhật. Tổ tôm được các cụ ưa chuộng hơn, tuy nhiên thanh niên lại thích chơi chắn. Người chơi đều cảm giác rất hồi hộp khi được chờ ù và vui sướng như thế nào khi ù được. Đánh chắn sướng hơn đánh phỏm nhiều vì hầu hết các ván, bạn đều có cảm giác chờ ù và khi xướng: ”tám đỏ lèo” rõ ràng là sướng hơn nhiều so với ù trong đánh phỏm chỉ hô được mỗi tiếng ù. Cứ mỗi khi mọi người tụ họp được đầy đủ, lại có thời gian dông dài, ai cũng muốn ngồi xuống chiếu làm vài ván chắn. Đánh chắn rất mất thời gian vì tính lôi cuốn của nó khi được hô ù rồi chíu chít tính điểm. Thường thì ít ai đánh chắn suông mà đánh ăn tiền. Ít thì đánh vài nghìn, nhiều thì đánh cả chục thậm chí cả trăm nghìn. Nhưng nếu đánh bạc dạng to thì người ta ít chọn chắn làm phương tiện vì có những hình thức khác tiện lợi hơn như 3 cây, xóc đĩa. Bởi vậy chắn thường được anh em trong gia đình, bạn bè thân thiết hoặc hàng xóm gần gũi chọn trong các chiếu vì nó ít mang tính sát phạt hơn. Những người đánh chắn quen thường rất thích thú món chắn này và cảm thấy đánh phỏm nhạt nhẽo và đơn điệu. Nó cũng giống như khi chuyển từ chơi cờ vua sang chơi cờ tướng vậy. Bây giờ chúng ta hãy bắt đầu khám phá những điều thú vị về môn “khoa học của những khoa học” này nhé. 1. QUÂN BÀI Chắn và Tổ Tôm ít nhiều giống nhau. Bài Tổ Tôm có 120 quân, gồm có 3 hàng Vạn (萬), Văn (文), Sách (索). Các hàng quân này được viết bằng chữ Nho và cách nhận biết 3 hàng quân này theo câu "Vạn vuông, Văn chéo, Sách loằng ngoằng". Hình 1: Vạn vuông - Văn chéo - Sách loằng ngoằng Bộ chắn bao gồm 100 cây được rút ra từ 120 cây của bộ Tổ Tôm (bỏ đi 20 cây là nhất văn, nhất vạn, nhất sách, thang thang). Bộ bài chắn chỉ có 20 cây đỏ, tức là 5 quân Chi chi, Cửu vạn, Cửu Sách, Bát Vạn, Bát Sách, còn lại là 80 cây đen. Trong đó có 4 cây “chi chi” còn lại 94 cây, số cây còn lại này đều có một nguyên tắc để gọi và nhận mặt quân là tên quân bài được hợp thành từ phần số (từ 2 đến 9 , tiếng Khựa bẩn là nhị, tam, tứ, ngũ,lục, thất , bát, cửu) và phần chữ (bao gồm văn ,vạn, sách). Ví dụ : nhị vạn,tam văn ... như vậy tổ hợp của những quân bài này sẽ có 8 x 3=24 quân. Mỗi quân bài này có 4 con giống nhau , như vậy tổng số quân bài là 24 x 4 = 96 quân thường và 4 quân chi chi ( còn gọi là ông cụ). Bên phải các quân bài Chắn có chữ số từ Nhị đến Cửu. Khi ghép với các hàng Vạn, Văn, Sách sẽ tạo ra các quân tương ứng. Hình 2: Nhị vạn, tam vạn, tứ van, ngũ vạn, lục vạn, thất vạn, bát vạn, cửu vạn. Hình 3: Nhị văn, tam văn, tứ văn, ngũ văn, lục văn, thất văn, bát văn, cửu văn. Hình 4: Nhị sách, tam sách, tứ sách, ngũ sách, lục sách, thất sách, bát sách, cửu sách, chi chi. Như vậy để nhận mặt nhanh các quân bài thì trước hết bạn nên nhận mặt các số từ nhị đến cửu. Những người mới chơi thường hay nhìn nhầm thất với cửu vì hai ký hiệu này thoáng nhìn có vẻ giống. Khi đã nhận được mặt chữ rồi thì bạn cũng nên thử tìm hiểu xem các hình ứng với các chữ đấy xem thế nào khi đó bạn sẽ hiểu được tại sao trong dân gian người ta gọi là cửu vạn, bát sách … Tại sao một số đức ông sau khi bia rượu xong ròi cứ đòi “bát sách”. 2. CÁCH ĐÁNH CHẮN Có hai cách chơi đánh chắn, trong dân gian gọi là Bí tứ : chơi chắn 4 người và Bí ngũ: chơi chắn 5 người. Mục đích của trò chơi này là làm tròn bài thông qua chắn và cạ cùng với việc ăn bài theo giá trị của các hàng quân mà bài của mỗi người có thể tiến tới ù. Sau đây là một số khái niệm cơ bản: Chắn: là hai lá bài giống hệt nhau cả về hàng lẫn số. Ví dụ: hai lá bài Lục Vạn tạo thành 1 chắn Lục Vạn, hai lá bài Thất Sách tạo thành 1 chắn Thất Sách. Cạ: là hai lá bài giống nhau về số nhưng khác hàng. Ví dụ : hai lá bài tam Văn và tam Sách tạo thành cạ tam Văn-Sách. Ba đầu: là ba lá bài cùng số nhưng khác hàng. Ví dụ : tam Văn, tam Sách, tam Vạn được gọi là ba đầu tam. Cửa trì: là cửa ở trước mặt người chơi. Đây là cửa người chơi được ưu tiên khi ăn quân và ù. Tríu (chíu?!): Khi có một người nào đó đánh một quân, mà trên tay người chơi cùng đã có 3 quân cùng tên, cùng số thì người này có quyền lấy lá bài đó về và đánh trả lại một bài khác vào cửa đó. Trong trường hợp này quyền ưu tiên ăn quân ở cửa trì không áp dụng. Thiên khai: trên bài có sẵn 4 quân giống nhau (sau khi chia). Ăn bòn: từ một chắn trên bài, tách ra, ăn thêm được hai chắn để dưới bài. Trường hợp, ăn thêm một chắn mà ù thì gọi là ù bòn. Lá què: là những lá bài không thể xếp lại với nhau thành chắn hoặc cạ. Tôm: Là một nhóm quân gồm tam vạn, tam sách, thất văn. Hình 5: Tam vạn, tam sách, thât văn Lèo: là một nhóm quân gồm cửu Vạn, bát Sách, Chi Chi. Hình 6: Cửu vạn, bát sách, chi chi Ù bạch thủ: khi đã có 5 chắn, và ăn thêm được 1 chắn nữa để ù. Bạch thủ ở đây nghĩa là chỉ chờ được 1 quân. Vì vậy khi có sẵn 5 chắn và ba đầu, chẳng hạn ba đầu ngũ, bốc nọc lên được bất kỳ con ngũ gì thì cũng ù. Trong trường hợp này mặc dù ù 6 chắn nhưng cũng không phải là ù bạch thủ. Với lá bài chờ ù là Chi Chi, thì chỉ được chờ bạch thủ. Có nghĩa là khi ù, tính cả chắn ù, là 6 chắn và còn lại là 4 cạ. Bạch định: là bài không có một quân đỏ nào. Tám đỏ: khi ù, bài có 8 quân màu đỏ. Thập thành: là khi ù, bài ù có 10 chắn. Ù thông: khi ù ván thứ hai liên tiếp. Ù rộng: Khi chơi bài mỗi người có 19 cây, khi ăn một cây bạn phải đánh trả đi một cây nên số cây không đổi và vẫn là 19 cây. Khi bài bạn đủ điều kiện chờ ù ghép với 1 cây ăn sau cùng (để ù) là vừa tròn 20 cây. Bài đang chờ ù rộng có nghĩa là trên tay bạn và cả ở dưới chiếu nữa (Khi ăn chẵn học cạ thì bạn phải hạ chắn hoặc cạ mình ăn xuống chiếu) đã có ít nhất 6 chắn, 3 cạ và một con què chính là con chờ ù . khi rút nọc con ở nọc hợp với con bạn đang chờ thành một chắn hoặc một cạ nữa thì có nghĩa là bạn ù. Ù đã có 6 chắn sẵn thì gọi là ù rộng. Hoa rơi cửa Phật: là trường hợp khi bài dưới chiếu có một chắn ngũ Vạn hoặc cạ ngũ trong có ngũ Vạn, người chơi lại bốc lên được lá bài nhị Vạn (hình cánh hoa đào) đúng ở cửa trì. Mặt trời hồng: là trường hợp bạn ù khi trên tay bạn có 20 quân bài đều là quân đỏ. Cả bộ chắn có đúng 20 quân đỏ là: Chi Chi, Cửu Vạn, Cửu Sách, Bát Vạn, Bát Sách, do đó cước ù này đặt ra hầu như là cho vui, như kiểu là một bí kíp thất truyền trong giang hồ. Đời đánh chắn 14, 15 năm của tớ cũng chưa có may mắn gặp trường hợp này bao giờ. Như vậy có thể hiểu Ù thời điểm đầu tiên bài của bạn và bài nọc hợp lại chỉ có chắn và cạ. Nói chung chỉ có đủ chắn và cạ thì mới “thăng” được. Nếu có đúng 6 chắn thì là ù bạch thủ, nhiều hơn 6 chắn là ù rộng. Khi chờ bạch thủ (còn gọi là chờ hẹp) nghĩa là chờ thêm chắn nữa còn chờ rộng thì chờ hoặc cạ hoặc chắn đều ù được chờ hẹp thì bạn chỉ có tối đa 3 cơ hội ù còn chờ rộng thì bạn sẽ có tối đa 11 cơ hội ù, thử nghĩ xem có đúng không. Bạn có thấy ù trong chơi phỏm và trong chơi chắn có nguyên tắc cũng “rưa rứa” đúng không ? Tuy nhiên khi ù chắn bạn có điều thú vị hơn là nó còn các cước sắc – hô sướng mồm hơn phỏm nhiều . Bây giờ thử ngâm cứu quả cước sắc trong chắn xem thế nào nhé 3. CƯỚC SẮC VÀ CÁCH TÍNH ĐIỂM CƯỚC SẮC Xuông: 2 điểm, ù rộng và ko có cước nào, còn gọi là ù nhạt. Thông: 3 điểm, 1dịch: Ván trước vừa ù, thì ván ù tiếp theo sẽ có cước thông. Thiên ù: 3 điểm, 1dịch: Người có cái là người có 20 cây trên bài, nếu có đủ luôn chắn, cạ và ít nhất đáp ứng yêu cầu cơ bản thì ù luôn, gọi là Thiên ù. Địa ù: 3 điểm, 1dịch: Cây đầu tiên từ dưới nọc lật lên cho phép mình ù luôn, thì ù này là địa ù. Trì: 3 điểm, 1dịch: tất cả các trường hợp ù tại Cửa mình thì gọi là Ù trì, tức là cây để ù hiện lên ở Cửa mình. Các cước trên là những cước trời cho- may mắn thì được và không cần gò bài còn những cước sau đây thì phải tính toán để gò bài (gò bài ở đây là chọn quân ăn và chờ ù). Tôm: 4 điểm, 1dịch: trên bài có Thất Văn, Tam sách, Tam vạn. Nếu có 3 chắn này thì tức là có đôi Tôm. Lèo: 5điểm, 2dịch: trên bài có Chi chi, Cửu vạn, Bát sách. Nếu có 3 đôi này thì tức là có đôi Lèo. Bạch định: 6điểm, 3dịch: Trên bài ko có 1 cây đỏ nào, toàn cây đen. Hình 7: Điếm tổ tôm Tám đỏ: 7điểm, 4dịch: Trên bài có 8 cây màu đỏ, 12 cây đen. Kính tứ Chi: tính điểm bằng 8 đỏ 2 lèo: 11điểm, 8 dịch: Trên bài có 4 con Chi Chi, còn lại là toàn cây đen. Thập thành: tính điểm bằng 8 đỏ 2 lèo : 11điểm, 8dịch: Bài ù toàn Chắn, kô có 1 cạ nào. Có thiên khai: 3 điểm, 1dịch : Trên bài có sẵn 4 cây giống hệt nhau. Có ăn bòn: 3điểm, 1dịch: Trên bài có sẵn 1 chắn nào đó, ví dụ có chắn Tam vạn, nếu ăn được thêm 2 cây Tam vạn nữa để có 2 chắn Tam vạn để dưới chiếu thì gọi là có ăn bòn. Nếu ăn bòn để ù thì phải Hô là Ù bòn. Nếu ăn bòn xong mà chưa ù, thì sau này, khi ù rồi, nhớ hô thêm cước có ăn bòn để thêm điểm. Có Chíu: 3điểm, 1dịch: trên bài có 3 cây giống y hệt nhau, nếu ai đánh ra hoặc nếu từ lọc lật lên 1 cây y hệt 3 cây này thì có thể chíu nếu thích, và phải hạ cả 3 cây trên bài xuống để tạo với cây vừa ăn được thành 1 cột 4 cây (2 chắn). Nếu chíu rồi ù ngay (bất kể là cây bị chíu được đánh ra hay dược lật từ nọc) thì phải hô là chíu ù, nếu chíu xong mà chưa ù thì sau này khi ù rồi nhớ phải hô là có chíu để thêm điểm. Nhớ là sau khi chíu xong thì phải Trả Cửa, tức là mình lấy về cây chíu được từ chỗ nào, thì phải trả lại (đánh ra) 1 cây vào vị trí đó; trừ trường hợp cây chíu được là cây mà người ở Cửa trên (ngồi bên trái mình) đánh xuống vị trí Cửa trên của mình(**), sau khi chíu xong thì không cần Trả cửa mà có thể đánh như bình thường 1 cây nào đó xuống Cửa mình. Bạch thủ: 4 điểm, Nếu tính cả trên bài và dưới chiếu có 5 chắn và 4 cạ, thì coi như là đang đợi ù bạch thủ con lẻ còn lại. Từ lọc lật lên con nào y hệt con lẻ này thì mình sẽ được ù. Riêng bạch thủ ù chi được 5 điểm. Gà: Những cước sau là có thêm Gà, tức là sẽ được cộng thêm 5 điểm: Trì bạch thủ, Bạch thủ ù bòn. Bị chê là “gà” nhưng cứ thỉnh thoàng lại có gà là lại ấm rồi. 4. MỘT SỐ LƯU Ý - Nếu là ù bạch thủ = điểm ù bạch thủ+dịch của các cước còn lại+gà(nếu có). Ví dụ : bạch thủ ù chi tám đỏ hai lèo có chiếu =bạch thủ ù chi 5+tám đỏ 5+hailèo*2 +chiếu 1 =15 điểm. - Nếu là ù rộng = Điểm của cước to nhất + dịch của các cước còn lại + gà (nếu có). Ví dụ : chì tám đỏ lèo có tôm có chiếu =tám đỏ 7+lèo 2+tôm 1+chiếu 1+chì 1=12 điểm. Tùy theo từng nơi còn có thêm một số cước nữa và cách tính điểm của từng cước cũng khác nhau, nhưng phổ biến giang hồ nhất là những Cước và cách tính điểm như trên. - Nếu đợi ù con Chi Chi, chỉ được phép đợi ù bạch thủ, nếu đã có 6 chắn trở lên thì được phép ăn Chi chi để tạo thành Chắn Chi, rồi tính toán để đợi ù con khác. - Khi ù ba đầu thì không được hô bạch thủ, ví dụ Nếu trên bài có 5 chắn, 3 cạ, và 3 đầu:Tam sách, Tam Vạn, Tam Văn, thì gọi là Ba đầu Tam; nếu dưới nọc lật ra 1 con Tam bất kỳ nào, thì sẽ đựơc ù, nhưng ko được phép hô là ù bạch thủ. - Không được ăn cạ đổi chờ : ví dụ : trên bài đang đợi ù bạch thủ con Tam Sách, và có 1 cạ Nhị vạn Nhị văn, nếu dưới nọc lật ra 1 con Tam Vạn thì tức là chưa ù được, nhưng mình sẽ không được phép ăn con Tam Vạn này (để thành Cạ Tam sách, Tam Vạn) rồi đánh ra 1 trong 2 con Nhị để đợi ù con Nhị. - Nếu đã khhông ăn cạ hoặc chắn ở cửa trên thì cũng không được ăn cạ hoặc chắn ở cửa trì. - Nếu người bên tay trái đánh 1 cây ra Cửa trên, hoặc lật lọc vào Cửa trên hay Cửa trì mà bị người khác Chíu, cây Trả cửa được phép ăn, không được phép ù, dĩ nhiên là trừ trường hợp Chíu ù. - Nếu mình đánh ra hoặc Trả cửa vào Cửa mình mà bị người khác Chíu thì dĩ nhiên là cây Trả của người đó không được ăn, chỉ được phép Chíu ù. - Nếu gặp trường hợp mình Trả cửa vào Cửa trên, và cây này bị người khác Chíu, thì cây Trả cửa của người đó mình vẫn có thể ăn được. - Được phép đánh ra 1 cây y hệt cây Trả cửa của người khác vào Cửa mình (cái cây Trả cửa này trước đó mình kô được phép ăn theo . Ngoài ra thì không được phép đánh ra 1 cây giống y hệt 1 cây bất kỳ ở Cửa trên, Cửa mình, hay Chắn, Cạ của mình ở dưới chiếu. - Nếu chơi chéo cánh, không được phép chíu ù cây mà người chéo cánh mình đánh ra. - Nếu chơi chéo cánh, người chéo cánh mình bị báo thì mình ù không được tiền, nhưng ván sau nếu ù thì vẫn được hô thêm cước thông. - Nếu mình bị ù báo, ván sau cho dù có ù thì cũng không được hô thêm cước thông. - Những trường hợp ù mà không bị mất tiền, kô được thu tiền là do bị lỗi Treo Tranh thường, lỗi Trái vỉ (sẽ trình bày về những lỗi này ở dưới), ván ngay sau có ù thì cũng không được hô thêm cước thông, trừ trường hợp như chú ý nêu trên. - Không được ăn cạ rồi lại đánh đi một cạ trên bài mình cũng như nếu đã đánh đi một cạ rồi thì chỉ được ăn chắn. - Xướng (tức đọc các cước ù của mình sau khi ù) là một khâu rất quan trọng, thông thường người mới chơi chưa quen xướng ù, có thể nhờ người chơi cùng xướng hộ. Xướng thiếu (tức xướng thiếu những cước bài mình ù, VD bạch thủ trì chỉ xướng bạch thủ): Xướng bao nhiêu, ăn bấy nhiêu. - Xướng thừa (tức xướng những cước bài mình không có): Xướng bao nhiêu, đền bấy nhiêu. - Xướng lỗi/sai (xướng nhầm cước hoặc trong khi xướng đọc 2 lần từ ù): xướng những cước nào thì đền những cước ấy. Đặc biệt chú ý từ ù mỗi lần xướng chỉ được đọc một lần, và có thể không đọc từ ù, VD đọc thông trì bạch thủ ù chi ù có chíu là lỗi. 5. CHIA BÀI VÀ CẮT CÁI Sau khi ù thì ván bài đó kết thúc và chuyển chơi ván tiếp theo ,người thắng và người đối diện người thắng sẽ không phải chia bài, 2 người còn lại đều phải chia, mỗi người chia đều 5 phần rồi 2 bên ném bài hợp lại nhau theo kiểu gì cũng được, số cây lẻ ra sau khi chia hợp lại bằng 5 tức là chia đủ .Chia đúng tức là bài nọc có 24 cây còn bốn phần còn lại mỗi phần 19 cây. Người bắt cái phải kiểm tra nọc trước khi bắt cái và thông báo nọc thừa thiếu để các nhà biết. Sau khi xếp bài xong, phải kiểm tra xem mình có thừa thiếu hay không. Sau vòng đầu tiên mới phát hiện mình bị thừa, thiếu thì ngồi im… không được ù, dĩ nhiên là cũng kô bị báo, bị đền, ngồi mà đì nhà dưới cánh, hehe… Người làm cái phải vứt 5 cây kia vào 1 trong 5 bài vừa chia, vứt vào bài nào cũng được, bài đó sẽ được gọi là nọc, sau đó chọn ra 1 cây bất kì trong Nọc để ném ngửa vào 1 bài bất kì trong 4 bài còn lại, cây này sau khi ngửa ra thì làng sẽ biết được nó có thứ tự thế nào, và dựa vào đó mà phân cái theo chiều ngược kim đồng hồ, nhất là Chi, nhị là người bên phải, tam là người trước mặt, tứ là người bên trái, ngũ lại là nhất, lục lại là người bên phải… Khi có kinh nghiệm có thể lấy bài theo nguyên tắc: Chi,ngũ,cửu: nhất cái (cái người bắt). Nhị,lục: cái tiến (cái người bên phải người bắt). Tam, thất: cái đối (cái người đối diện người bắt). Tứ, bát: cái lùi (cái người bên trái người bắt). Mọi người nhặt bài theo chiều ngược kim đồng hồ, xếp bài, rồi bắt đầu chơi. Những cước quên không hô sẽ kô được tính điểm; hô sai, hô thừa cước thì bị báo(*), bị phạt bằng đúng số điểm hô sai, hô thừa; còn ù phá bạc tức là chưa ù mà đã hô láo(vô tình hoặc cố ý) thì sẽ bị phạt nặng bằng 8 đỏ, hay như thế nào thì tùy thuộc vào từng nơi. 6. CÁC NGÓN NGHỀ VÀ THUẬT NGỮ Đơn giản như đánh phỏm cũng cần một số thủ thuật và ngón nghề như “câu bài”, “bắt móm”. Nếu các bạn đã hiểu qua cách đánh cơ bản thì cũng nên tìm hiểu các kỹ thuật nâng cao, tạm gọi là ngón nghề. Mỗi người chơi sau một thời gian đều rút cho mình những chiêu cao thấp khác nhau. Dưới đây là một số ngón nghề cơ bản, nếu áp dụng thường xuyên cũng mang lại hiệu quả rất cao. Câu: là cái tưởng như dễ nhất trong các cái trên. Giống hệt như khi câu kéo trong phỏm. Không có gì nhiều để nói. Chỉ lưu ý là khi câu con gì thì cũng phải tính xem liệu nó có còn hay không, liệu thằng đầu cánh có què con đó hay không? Làm thế nào để tính được như vậy thì không có cách nào khác là các chú phải chịu khó nộp học phí nhiều nhiều chút vì chính đoạn này mới là high-tech. Hình 8: Chiếu chắn các cụ ngày xưa Xé cạ (chắn): Thường khi đánh chắn thì bài càng “tròn” (nhiều chắn và cạ, ít cây què) càng tốt. Nhưng có khi vì một lý do nào đó mà ta không có cây thích hợp để đánh cho nhà dưới (VD như không dám đánh vì biết nó đang rình ăn cây đó của mình, bài tròn vo, thèm ăn cây gì đó nên phải đánh để câu, đang chờ bạch thủ bị lấp lỗ…) thì ta phải xé cạ, thậm chí trong một số trường hợp phải xé cả chắn. Xé cạ nói đơn giản là đánh 1 cây trong 1 cạ trên tay xuống, nhưng đánh con nào thì lại là cả một nghệ thuật, đặc biệt khi xé cạ chờ ù. Đánh con nào để thằng dưới cánh không ăn hoặc phải ăn (đánh để bắt nó ăn còn khó hơn đánh để nó không ăn được), để con nào để có cơ hội thằng nhà dưới tự thúc vào đít mình hay vồ được dưới nọc) thì phải nhìn bài trên mặt, tính bài trong nọc và nếu có thể, nhìn bài thằng bên cạnh . Xé chắn thì nói chung ít khi làm, vì xé cạ thì còn đánh được cả cạ (nếu các chú chỉ ăn toàn chắn dưới mặt), còn nếu đã xé chắn thì bị bó chờ, không thể đánh cả chắn đi được. Đì: Trong Chắn học, đì là chỉ một sê-ri đòn đánh cho thằng dưới cánh những quân mà nó không thể ăn được, hoặc là có thể ăn được nhưng mà ăn thì sẽ dở cười dở mếu. Đì là một thuật ngữ mang tính chuyên môn cao. Đì mang tính trừu tượng nên người ta thường hiểu Đì qua những ví dụ của nó. Ví dụ: Thằng ấy bị sếp đì sấp mặt. Hoặc Mày mà làm vậy thì thế nào cũng bị nó đì. Áp dụng Đì thế nào? Thực ra không có một cách chính tắc nào nói về Đì. Đì phụ thuộc rất nhiều vào kinh nghiệm và sự tính toán bài trước đó, nhìn bài hiện tại và nhìn vào tâm trạng của bọn cầm bài. Nhớ bài trước đó là một đòn rất lợi hại, nếu càng nhớ được nhiều ván trước đó thì khả năng Chờ, Đì và Ù là rất cao. Tuy nhiên khả năng này ít người có, hoặc có thì cũng không cao nên thường nhìn vào bài hiện tại. Ở chắn việc này không mấy khó khăn bởi ăn vào là đặt ngay xuống nên việc nhìn bài đánh là khá dễ dàng. Nhìn vào tâm trạng của bọn cầm bài cũng là một biện pháp hay nhưng thường chỉ áp dụng được với newbie, còn với bọn già đời lọc lõi thì cực khó. Đì đặc biệt hữu hiệu với những kiểu đánh chéo cánh (Đặc biệt là đánh hội ăn ngô cay), một thằng đì, một thằng nhẩn nha ăn rồi chờ ù. Một số chú y khi Đì: Chú trọng Đì nhưng nếu đánh lẻ thì vẫn phải chú y Ù. Nếu đánh chéo cánh cần phân công rõ thằng nào Ù, thằng nào Đì. Có thể dùng mật hiệu. Tẩy: Thuật ngữ chuyên dùng chỉ việc đánh hết các quân đỏ trên tay đi để ù bạch định. Thường xảy ra khi bài các chú có hai hoặc ba đỏ. Nếu các con đỏ này đều trơ lơ (què) thì dễ ra quyết định tẩy hơn vì ngoài hậu quả là nhà dưới có thể ù 8 đỏ ra thì không khó khăn gì khi thực hiện. Nếu dính một hoặc hai cạ thì công việc khó khăn hơn nhiều. Trường hợp cả hai cây trong cạ đều đỏ thì bắt buộc phải tẩy cả cạ. Nếu là cạ có một con văn thì thường cũng phải tẩy cả cạ, nhưng đôi khi nhà dưới hoặc nọc sẽ cho ta ăn con văn ấy và công việc lại trở nên dễ dàng như các Hải đăng đi cóp & pết. Tuy vậy cũng không nên hy vọng nhiều quá. Và nhiều khi các chú sẽ phải cầm chính cái con văn ấy để chờ ù. Trong trường hợp này thì cố gắng chờ bạch thủ. Đôi khi bài các chú có quá nhiều đỏ đến mức phải đánh bớt đi để ù tám đỏ. Quả này ít xảy ra nhưng khong phải không có. Vụ này cũng là tẩy đỏ, nhưng là tẩy ngược. Gò: Đây là kỹ thuật thường áp dụng khi bài các đồng chí có nhiều khả năng sẽ ù suông mà lại muốn kiếm tí cước sắc để xướng cho sang mồm. Có nhiều loại hình gò khác nhau, tớ sẽ mô tả lần lượt từ dễ đến khó. Gò tôm: Thường diễn ra khi các chú cầm một con thất sách/vạn, một con tam sách/vạn hoặc mọt chắn tam sách/vạn và 1 con tam văn. Gò tôm nói chung dễ. Chỉ cần ăn con thất văn hoặc con tam còn thiếu rồi chờ cây còn lại. (Trường hợp ăn được cả tam lẫn thất rồi chờ nhị thì ko noi làm gì) Gò lèo: Diễn ra khi các chú cầm một cạ cửu/ bát, một con chi và một con bat/cửu trơ lơ mà lại không dám hoặc không muốn tẩy đi để ù bạch định. Lúc này cũng giống như gò tôm, cần ăn cho được một/hai con cần thiết rồi chờ con còn lại. Thường là sẽ chờ chi, nếu nhà dưới nó thúc chi vào đít rồi hoặc chi nổi sớm thì chờ bát hoặc cửu. Gò tám đỏ: Nói chung là khó. Nếu đã có từ năm đỏ trên tay thì công việc tương đối dễ dàng và không gọi là gò nữa. Gò là khi ta chỉ có bốn, thậm chí ba đỏ cùng hai con văn. Bốn đỏ gò tám đỏ thì dễ hình dung hơn, cứ một ăn một. Ba đỏ gò tám đỏ thì thiên nan vạn nan. Thường chỉ gò kiểu này khi nhà dưới khát đỏ ra mặt và nhà trên thì tẩy thật lực. Cộng với nọc chiều thì cũng có thể thành công. Cũng tương tự với gò bạch định: khi bài chỉ có 1-2 cây đỏ thì ta tẩy đỏ đi để cày cước bạch định (trên bài không có con đỏ nào là bạch định). Bên cạnh đó khó hơn là không được ăn thêm cây đỏ nào. Cày Bạch định khó ở luật nếu ta không ăn cây nào thì cũng không được đánh cây đó đi (chỉ có cách ghép cạ hoặc cầm chờ ù), nên VD bài bạn đang có Chi Chi mà bị nhà trên đút Chi vào mồm thì không ăn không được, dở khóc dở cười. Chíu: Cầm ba con giống hệt nhau trên tay, khi con còn lại do bất cứ nhà nào đánh ra hoặc do rút nọc mà lên, dù ở bất cứ đâu, thì hô chíu rồi lôi về cửa mình mà chén. Quả này thường được 1 dịch. Ăn bòn: Cầm một chắn bài trên tay, thường do tránh treo tranh, đôi khi do cố tình (cấu lại của nhà dưới một cây nó thèm ra mặt chẳng hạn) nên tách chắn ra đưa xuống mặt một cây, trên tay còn lại một cạ hoặc 1 cây trơ lơ mà lại ăn được nốt cây còn lại thì gọi là ăn bòn. Quả này cũng được 1 dịch. Ăn cạ đổi chờ: Ví dụ trên bài có cạ thất văn vạn, 1 con tam vạn. Đang chờ tam sách lên lấy tôm, thằng trên đánh ra thì tham (đã đủ tôm), ăn vào, đánh thất vạn chờ thất lấy tôm cho chắc cờ<--- ăn cạ tam đổi chờ từ tam sang thất <--- không được ù, nếu ù bị đền. Hình 9: Các cụ trên chiếu chắn ngày nay Treo tranh: Khi ăn 1 cây nào đó để tạo thành 1 Cạ để dưới chiếu, ví dụ như trên bài có cây Nhị Văn, ta ăn cây Nhị vạn để tạo thành Cạ Nhị vạn Nhị văn, phải để ý xem trên bài có Chắn nhị vạn không. Nếu có phải hạ cây Nhị vạn trên bài xuống chiếu để tạo thành Chắn nhị vạn đặt dưới chiếu, còn trên bài thì ta đã có Cạ nhị vạn nhị văn. Nếu có chắn này mà không phát hiện ra, thì mình sẽ bị mắc lỗi Treo Tranh. Ở những nơi nghiêm khắc, hạ tịch bất hồi, vi phạm lỗi là phải để nguyên, ai phát hiện ra thì nói, ko thì thôi. Còn thông thường thì sau 1 vòng mới bắt lỗi, tức là ta có thể thay đổi, trong ví dụ trên: giả sử nhầm lẫn hạ con Nhị văn xuống, ta có thể thay đổi ngay, hạ con Nhị vạn trên bài xuống, cầm con Nhị văn lên. Để tránh trường hợp này, thông thường khi ăn để tạo Cạ, người ta thường úp cây từ trên bài xuống rồi đánh đi cây khác cho nhanh ván bài, rồi kiểm tra xem trên bài mình có chắn nào trùng với cây vừa ăn không. Một lỗi Treo Tranh nghiêm trọng là nếu mình Chíu mà lại không hạ cả 3 cây xuống, thường là do mình quên mà ra, tức là sẽ dẫn đến việc không Trả cửa, nếu may mắn rơi vào trường hợp (**) thì sẽ chỉ bị lỗi Treo Tranh thường, ván sau có ù thì kô được hô thông, còn không thì sẽ bị nặng hơn là bị báo. Gà: nói chung cái này vô biên không biết quy định thế nào, có chỗ gà mỗi bạch thủ trì, có chỗ ù linh tinh cũng được gà. Nhớ hồi xưa, mãi không được gà bèn nghĩ ra cước thông trì chíu (ăn bòn hoặc ù bòn, thiên khai) cũng được gà <--- tùy chỗ chơi quy định. Nói chung thường những cái sau được gà: trì bạch thủ, bạch định, 8 đỏ, thập thành, kính tứ chi ( 2 cái sau tính bằng 8 đỏ 2 lèo, thường là thế). Suông: ù không có cước gọi là ù suông, các bác cho em bao nhiêu thì cho. Có nơi quy định không được ù suông, cho nó vui thôi. Khi đó thì được bỏ ù, chờ nó lên cửa trì ù lấy cước trì cũng đc. À nói đến bỏ chờ, có nghĩa là ví dụ bác chờ rộng, trên tay bác có đôi thất văn, lẻ con tam vạn chờ ù. Bài nó lên tam văn (or tam vạn)<-- bác chỉ ù suông. Nếu bác không ù, tham chờ tam sách lên để ù tôm <- bỏ ù tam trước (văn hoặc vạn)<-- tam sau (sách) lên không được ù. Báo (phải đền): không có cước mà lúc ù lại nói thì là báo. Ví dụ rõ nhất vừa nêu trên, không có thông mà đòi hô <-- báo. Trái vỉ : ăn con gì xếp con đó nằm dưới, chỉ áp dụng cho ăn cạ vì ăn chắn thì con nào chẳng như con nào. Ví dụ trên bài có tam vạn, ăn tam sách/tam văn thì khi xếp cạ, con tam vạn phải nằm trên con tam văn/tam sách. "Con" nào "ăn" "con" khác thì nằm trên còn "gay" thì "con" nào nằm trên cũng được nhờ bà con nhờ. Làm như thế để thiên hạ có thể phỏng đoán bài. Nếu vi phạm thì gọi là bị lỗi Trái vỉ. Bí ngũ: ko còn là tám đỏ mà là mười đỏ (các cụ xướng là thập điều) vì sử dụng hết cả 120 cây nên nhiều đỏ hơn , ngoài ra còn có cước "kính cụ", tương đương bạch định nhưng có một con yêu "ông cụ" duy nhất trong bài. Thêm phát nữa là "kính tứ cố", tương tự "kính tứ chi" nhưng thay 4 con chi bằng 4 con "ông cụ" trên nền bài đen xì Nhưng cước này đặc biệt kiêng hô nhất là khi trong hội đánh có cụ cao tuổi hoặc là trong dịp Tết nhất vì là điềm xấu các cụ cao tuổi dễ "đi". Nên trong trường hợp đó cứ hô "kính tứ chi", làng sẽ không phạt mà vẫn trả tiền như thường. 7. BÊN LỀ CHIẾU CHẮN Bên lề chiếu chắn cũng hình thành những câu, từ tiếng lóng hình thành từ quân bài chắn hoặc có liên quan đến những quân bài chắn cũng khá thú vị. Cửu vạn = chỉ dân bốc vác ( hình Cửu Vạn là anh chàng vác đồ). Đi một lèo (ví dụ như Vợ bỏ , Hết Tiền , Cháy nhà cũng một lúc). Đồ tam văn (thằng thọt). Nhà trên đì nhà dưới thật lực. Nhà dưới oánh con nào, nhà trên đì con đấy! Làng gọi đấy là: Nhà máy in. Thấy bác nào hơi giống Lưu Dung thì gọi là cụ Nhị Sách. Chú nào có bồ ngồi bên đếm tiền mấy lị mái xùy, làng gọi là: ấp Bát Sách. Các cô ở đây cẩn thận! Nhỡ có chú nào khen là "Em đẹp như nàng Bát Sách!" thì phải xét lại chú ấy ngay. Bài không có cơ cấu lấy cước sắc, gọi là Tôm cong Lèo cụt. Chíu ở cửa trì nhà mình thì gọi là: chíu tại mả! Bác ngồi dưới em, nọc ra con bát sách bác thèm lắm, nhưng mà em cấu xừ mất, đánh trả con khác bác không ăn, bốc nọc lại nguyên con bát sách. Người ta gọi đấy là cấu lại mọc. Đang đánh, bác buồn quá, đứng dậy đi thăm anh WC không ngờ bốc cái đúng bác, thế là cả hội phải ngồi chờ bác. Thế gọi là cái thằng đi đái. Đang chơi có thằng bảo tao đi thăm anh WC cái, rồi chờ mãi 1 đi không trở lại, thôi chết mẹ nó ăn non bùng mất rồi. Anh em chửi: bố cái thằng đi đái Sài Ghềnh. Đang đánh đen quá bảo chéo cánh đổi chỗ gọi là xoay bàn thờ. Đang oánh thì đi đái gọi là: đi đếm tiền giả làng. Nhà cái bận chuyện riêng để làng chờ gọi là: bắt cái đúng thằng đi đái. 8. CHẮN VÀ VĂN HỌC Nhà thơ Nguyễn Khuyến có nhắc đến Tổ Tôm trong bài "Tự trào" : ...Mở miệng nói ra gàn bát Sách Mềm môi chén mãi tít cung Thang Nghĩ mình lại gớm cho mình nhỉ Thế cũng bia xanh cũng bảng vàng. Còn nhà thơ Trần Tế Xương cũng có đề cập đến trò chơi này: Bực chăng nhẽ anh hùng khi vị ngộ Như lúc đen chơi cuộc tổ tôm. Riêng nhà thơ Nguyễn Công Trứ đã viết cả một bài thơ, câu nào cũng có tên một quân bài Tổ Tôm, theo tương truyền là để khất nợ : Thân "bát văn" tôi đã xác vờ. Trong nhà còn biết "bán chi" giờ? Của trời cũng muốn "không thang" bắc, Lộc thánh còn mong "lục sách" chờ. Thiên tử "nhất văn" rồi chẳng thiếu. Nhân sinh "tam vạn" hãy còn thừa. Đã không "nhất sách" kêu chi nữa? "Ông lão" tha cho cũng được nhờ! Đọc thêm:
-
2. Bảo tàng Làng truyền thống Hàn Quốc ở thành phố Yongin: Khác với Bảo tàng Dân tộc ở thủ đô Seoul, Bảo tàng Làng truyền thống Hàn Quốc ở thành phố Yongin có nhiều hoạt động cho cả người lớn và trẻ em. Trong những ngày Tết, không chỉ có các gia đình người Hàn Quốc mà còn có rất đông khách du lịch từ các nước như Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ... cũng đến tham gia vui chơi. Nổi bật trong số các trò chơi và lễ hội ở Bảo tàng Làng truyền thống Hàn Quốc là Lễ hội làm bánh Injeolmi (인절미), biểu diễn đua ngựa và Lễ đốt cây nêu. Ngoài ra còn có các trò chơi dân gian khác mà các gia đình có thể cùng nhau vui chơi, như: bập bênh, ném lao, nhảy dây... Cùng với nhiều hoạt động sẵn có của Bảo tàng khiến du khách luôn cảm thấy hào hứng. Làm bánh Injeolmi (인절미) Cắt bánh để phát cho người tham dự lễ hội Hào hứng xếp hàng chờ tới lượt được thưởng thức bánh Những chiếc bánh và những vị khách cuối cùng Các nghệ sĩ đang chuẩn bị cho Lễ đốt cây nêu Làm lễ trước khi đốt cây nêu Cây nêu ngày Tết được làm từ thông và tre Xay lúa, giã gạo Trò chơi cưỡi ngựa được rất đông khán giả hưởng ứng Trò chơi nhảy dây. Mỗi gia đình một sợi dây thừng để cùng chơi Trò chơi bập bênh (Trích: Thông Tin Hàn Quốc) ================================= Văn hóa Hàn Quốc có những tương đồng vơi văn hóa Việt Nam thể hiện trong các trò chơi dân gian: 1. Làm diều giấy 2. Đánh cù (đánh quay, đánh gụ) 3. Làm bỏng ngô. 4. Cối chày xây lúa giã gạo. 5. Trồng cây nêu Thiên Đồng
-
TRÒ CHƠI DÂN GIAN TRONG NGÀY TẾT CỦA NGƯỜI HÀN QUỐC Cũng giống như Trung Quốc và Việt Nam, người dân Hàn Quốc cũng ăn Tết Âm lịch. Tết Âm lịch của người Hàn Quốc bắt đầu từ ngày 30 Tết và kéo dài đến hết ngày mùng 2 Tết. Trong những ngày này, người dân Hàn Quốc trở về quê hương vui Tết cùng với gia đình. Phóng viên của TTHQ đã ghi lại những hình ảnh vui chơi ngày Tết của người dân Hàn Quốc tại cố cung Gyeongbokgung và Bảo tàng Làng truyền thống Hàn Quốc (한국 민속촌) - hai trong số những bảo tàng dân tộc lớn nhất ở Hàn Quốc. Trong những ngày Tết, người dân Hàn Quốc, sau khi đi thăm và chúc Tết họ hàng, thường cùng nhau đến các tụ điểm văn hóa để thưởng thức không khí ngày Tết cổ truyền. Cố cung Gyeongbokgung ở thủ đô Seoul với Bảo tàng Dân tộc, và Bảo tàng Làng truyền thống Hàn Quốc (Korea Folk Village) ở thành phố Yongin thuộc tỉnh Gyeonggi-do là hai trong số những điểm đến được các gia đình người Hàn Quốc ưu tiên nhất. Tại đây bạn được tham gia không khí của ngày Tết truyền thống thực sự với các trò chơi dân gian như đánh cù, nhảy dây, bập bênh, ném lao hoặc đu dây... thưởng thức các món ăn truyền thống như bánh Injeolmi (인절미), bỏng ngô hoặc kẹo bột... và tham gia các lễ hội như lễ hội làm bánh, lễ hội đốt cây nêu... Tất cả đều miễn phí. 1. Cố cung Gyeongbokgung ở thủ đô Seoul: Hầu hết những trò chơi, những lễ hội văn hóa ở Gyeongbokgung diễn ra trong những ngày Tết đều dành cho trẻ em, mặc dù vậy, cha mẹ các em và các đôi nam thanh nữ tú đều có thể tham gia vui vẻ. Bên cạnh đó, khách tham quan còn được tham quan miễn phí Bảo tàng Dân tộc bên trong Cố cung, Các hoạt động văn hóa bên ngoài khu vực Bảo tàng Dân tộc bao gồm: làm diều, trang trí mặt nạ hổ bằng giấy, trang trí hộp, làm sáo trúc, uống trà, thưởng thức kẹo bột và bỏng ngô. Các trò chơi dân gian thì có: đi goòng, đánh cù, ném lao, nhảy dây. Trẻ em được bố mẹ diện cho những bộ Hanbok truyền thống Bố làm diều giúp bé Mẹ và bé cùng nhau trang trí mặt nạ ông Hổ Cùng làm sáo trúc Thưởng thức trà theo phong tục truyền thống của Hàn Quốc Cả gia đình cùng chơi Đánh cù Xếp hàng chờ lấy bỏng ngô Hai bà cháu cùng vui Tết
-
Những trò chơi dân gian thú vị ngày Tết So với những dịp khác, trò chơi dân gian ngày Tết có phần đặc biệt hơn với bầu không khí cực kỳ sôi động, rạo rực tinh thần đua tranh và đầy ắp tiếng cười. Từ nhiều thế kỷ, Tết cổ truyền của người Việt luôn là thời điểm nở rộ của những trò chơi dân gian vô cùng phong phú, mang bản sắc riêng của từng địa phương. So với những dịp khác, trò chơi dân gian ngày Tết có phần đặc biệt hơn với bầu không khí cực kỳ sôi động, rạo rực tinh thần đua tranh và đầy ắp tiếng cười. Dưới đây là một số trò chơi dân gian đem lại tiềng cười sảng khoái ngày Tết: Bắt trạch trong chum Với trò chơi bắt trạch trong chum, người ta đặt sẵn 5-7 chiếc chum thành một hàng ở sân đình, mỗi chum được đổ 2/3 nước và thả vào đó một con trạch. Khi trò chơi bắt đầu, từng đôi trai đến bên mỗi chiếc chum, mỗi người phải đưa một tay ra ôm nhau, còn tay kia thò vào chum bắt trạch. Cứ như vậy, cả hai choàng tay cho đến khi bắt được trạch. Trạch trơn nên luôn luôn chạy thoát, thành ra đôi trai gái chỉ bắt được tay nhau. Dân làng đứng xung quanh reo hò cổ vũ và trêu đùa các đôi, nhắc nhở đôi nào mải bắt trạch mà quên ôm nhau. Tiếng cười nói, tiếng chiêng trống náo động. Khi bắt được trạch, cả hai cùng giơ cao tay lên để mọi người xem đồng thời tiến lên lĩnh thưởng. Đánh phết Đánh phết là trò thi đấu chơi vào ngày hội xuân ở đồng bằng Bắc Bộ. Sân chơi là sân đình, hai đầu sân (theo hướng đông - tây) có vòng tròn vạch vôi hay đào lỗ làm mục tiêu. Người đánh phết chia làm hai phe dùng gậy tre để cả gốc dài 1 m đánh vào quả phết (làm bằng gỗ tròn sơn đỏ, tượng trưng cho Mặt Trời), hễ quả chuyển vào vòng tròn (hay lỗ) của đối phương là thắng cuộc. Có người cho rằng trò đánh phết có nguồn gốc từ tục thờ Mặt Trời (quả phết chuyển động từ đông sang tây và ngược lại). Dân gian còn gắn trò chơi này với sự tích Hai Bà Trưng luyện tập binh sĩ. Các cuộc thi đấu phết đều thu hút đông đảo người xem, mọi người cùng hò reo khích lệ trong không khí ồn ào sôi động. Cũng bởi vậy mà có câu khẩu ngữ “Vui ra phết”. Đập niêu đất Đập niêu đất cũng là trò chơi dân gian khá phổ biến ở nhiều làng quê miền Bắc. Trò chơi thường diễn ra ở sân đình hay trên sân rộng. Trước khi chơi, người ta trồng ở giữa sân hai chiếc cột cách nhau 5m, buộc dây thừng nối 2 thân cột làm giá treo niêu. Một vạch mốc cách giá treo niêu khoảng 3 đến 5m được kẻ làm điểm xuất phát. Trước khi chơi, trọng tài sẽ trao cho người chơi một chiếc gậy dài khoảng 50cm, những người tham gia chơi đứng dưới vạch mốc và bị bịt mắt nên họ phải định hình hướng đi và ước lượng khoảng cách treo niêu để đập cho trúng một trong những chiếc niêu đang treo trên dây. Người đập trúng niêu sẽ có được phần thưởng ghi trong mảnh giấy nhỏ trong chiếc niêu bị đập vỡ… Bịt mắt bắt vịt Ngày Tết hầu hết các làng Việt xưa đều có các trò vui để dân làng cùng chơi lấy may, lấy phước. Trò bịt mắt bắt vịt là trò chơi khá phổ biến. Người chơi và người xem tập trung tại một bãi đất rộng quây thành một vòng tròn. Ai muốn tham gia bắt vịt thì đăng ký với ban tổ chức. Người ta chọn những con vịt to, khỏe để chúng có thể chạy và bay nhanh. Hai người chơi bị bịt chặt mắt và đưa vào vòng tròn. Người ta thả vào vòng tròn một con vịt. Con vịt sợ hãi kêu và bay, chạy loạn xạ. Người bắt vịt cứ theo tiếng vịt kêu mà chạy theo bắt. Khi con vịt bị bắt thì cuộc chơi kết thúc. Hai người khác lại tiếp tục vào chơi tiếp. Bắt vịt dưới ao Vào những năm Tết ấm trời, một số vùng quê còn tổ chức trò chơi bắt vịt dưới ao. “Sân” chơi là một khoảng ao sâu, bờ cao hoặc dùng lưới hay que tre quây xung quanh. Người chơi từ 2 đến 4 người tùy theo diện tích của ao rộng hay hẹp. Người ta thả xuống ao 2 con vịt to khỏe và lần luợt 2 hoặc 4 người đăng ký xuống bắt. Trò chơi này người chơi không bị bịt mắt nhưng đòi hỏi nhanh nhẹn và bơi giỏi. Bịt mắt bắt dê Trò chơi bịt mắt bắt dê diễn ra trên một sân cỏ, người chơi quây xung quanh làm vòng tròn. Trò chơi chủ yếu là vui, tùy chỗ cũng có thể treo giải thưởng. Những người chơi đăng ký và chia thành các cặp. Mỗi cặp lần lượt vào sân chơi. Người ta bịt mắt 2 người thật chặt. Một trong 2 người làm dê, người kia bắt. Người làm dê trong quá trình chạy trốn thỉnh thoảng phải gây ra tiếng động để người bắt biết mà đuổi theo. Một hình thức khác của trò chơi này cũng tương tự như trò bịt mắt bắt vịt, với những chú dê sống là đối tượng của cuộc đuổi bắt. Đi cầu kiều Đi cầu kiều là một trò chơi rất đơn giản mà không kém phần thú vị. Người ta lựa chọn một bờ đất cao trên một hố đất rộng, bắc một đoạn tre làm cầu. Đoạn tre ấy một đầu nằm ghếch trên bờ đất, đầu kia buộc vào sợi thừng hay chão, dây buộc vào chiếc cột chôn vững chắc. Làm sao để chiếc cầu đung đưa khó đi. Giải thưởng được treo trên cột, đến lượt ai, người đó leo cầu lấy thưởng. Có người mới leo được vài bước thì đã ngã. Có người ra tới mút đầu cầu lấy được thăng bằng nhưng khi với tay lấy giải thưởng thì loạng choạng lăn tùm xuống ao. Cuộc chơi càng hấp dẫn và kích thích sự hiếu thắng của mọi người. Đi cà kheo Đi cà kheo là một trò chơi đòi hỏi người chơi phải lấy được thế cân bằng, có bước đi chính xác, sức khoẻ tốt kết hợp nhịp nhàng cả chân lẫn tay. Để làm chủ được đôi cà kheo đòi hỏi một khoảng thời gian tập luyện, dài hay ngắn trùy theo sự khéo léo của mỗi người. Các cuộc thi cà kheo tại các vùng quê vào dịp Tết thường tạo được tiếng cười sảng khoái cho người theo dõi bởi sự hấp dẫn, bất ngờ của trò chơi. Sau khi chọn được người thắng cuộc, đội cà kheo cùng các cổ động viên của làng sẽ sang làng khác để thi tiếp. Theo Đất Việt
-
ĐỒNG DAO và TRÒ CHƠI TRẺ CON Tranh minh họa dân gian của Henry Oger và Võ Đình Đồng dao, đồng diêu: câu hát chơi, con nít hay hát. Đó là định nghĩa đơn giản nhất của Huình Tịnh Paulus Của, trong Đại Nam Quấc Âm Tự Vị, cuốn tự điển đầu tiên của Việt Nam, xuất bản năm 1895 tại Sàigòn. 36 năm sau, Ban Văn học Hội Khai Trí Tiến Đức khởi thảo Việt Nam Tự Điển, Mặc Lâm xuất bản tại Hà Nội năm 1931 và Nhà In Imprimarie Trung Bắc Tân Văn phát hành, cũng định nghĩa ngắn gọn. Đồng dao: câu hát trẻcon. Hơn thế kỷ sau, tức là cả 103 năm sau, Đại Từ điển Tiếng Việt của Nguyễn Như Ý, do Bộ Giáo dục và Đào tạo, Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Cộng hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam, nhà xuất bản Văn hóa Thông tin phát hành năm 1998, định nghĩa đồng dao: lời hát truyền miệng của trẻ con, nhưng không đưa ra một câu nào. Đồng dao được truyền từ đời này tiếp đời nọ, vùng này qua vùng kia, có khi thay đổi, có khi sai lạc, có khi thất truyền, và bị quên lãng. Tác giả hẩu hết vô danh, hay nói đúng hơn, chính dân gian là tác giả. Dạy con từ thuở lên ba, nhưng từ lúc lọt lòng mẹ qua ba tháng biết lẩy bẩy tháng biết bò cho đến khi lổm ngổm tập ngồi bi bô tập nói lựng chựng bước đi, với Việt Nam ta, tiếp nối lời mẹ ru, đồng dao giữ phần quan trọng trong giáo dục gia đình, chuẩn bị cho trẻ đến trường với khoa sư phạm áp dụng phương pháp giúp trẻ con vừa vui chơi giải trí vừa học hỏi, phát triển các khả năng cơ thể và mở mang trí tuệ. Hát mà chơi. Hát mà học. Hát chơi mà học thật. Thuở ban đầu, đồng dao chỉ được truyền miệng, nhưng nhờ ngắn gọn đơn giản ba, bốn hoặc năm chữ, có khi ngô nghê, nhưng vần điệu tiết tấu nhịp nhàng nên rất dễ hiểu dễ nhớ. Về sau, rất nhiều bài đồng dao được đặt nhạc nên được phổ biến rộng rãi. Trong hàng trăm bài đồng dao truyền miệng và hàng ngàn bản nhạc, chúng tôi chỉ nêu một số bài đồng dao truyền miệng từ Bắc qua Trung vào Nam, còn nhớ hoặc tìm tòi sưu tầm được, và đồng dao được phổ nhạc, cùng một số nhạc phụ lục. Chuyện bổ túc theo đà tiếp nối rất dễ dàng thuận tiện. Chơi Diều, tranh Võ Đình, UNICEF 69 Những trò chơi đầu tiên chỉ có mẹ và con. Khi trẻ bớt ngủ ngày, tức vào khoảng một tháng sau khi ra đời, trẻ bắt đầu biết nghe và nhìn. Bài học đầu tiên có thể chỉ tập cho con theo dõi, nhận xét, ghi nhận. Mẹ chỉ cho con biết những phần trên cơ thể, cả danh từ lẫn động từ tĩnh từ: mắt mở mắt nhắm, mắt đen mắt nâu, miệng nói môi cười, răng trắng, tai nghe, tóc đen tóc trắng, tóc ngắn tóc dài, tay nắm, chân đạp … Trẻ chưa biết ngổi, có thể cùng mẹ chơi trò Cất Rớ Chống Rớ , đặt con nằm ấp trên hai ống chân mẹ, mông con an vị trên hai bàn chân mẹ, hai tay nắm chặt hai tay con, mẹ nằm ngửa, vừa nâng hai chân lên cao vừa đọc: Cất rớ lên! Bỏ rớ xuống! Cá chi? Cá bống! Chống rớ! Cá chi? Cá rô! Chống rớ!! Cá chi? Cá hồng! Chống rớ! … Vẫn vị thế đó, có thể đổi cách chơi qua trò cỡi ngựa, hát mà chơi, nhún nhẩy đong đưa theo bài đồng dao: Nhong nhong nhong nhong Ngựa ông đã về Cắt cỏ bồ đề Cho ngựa ông ăn Nhong nhong nhong nhong … Mẹ tập con chơi mà học, quan sát theo dõi: Một ngón tay nhúc nhích này/ một ngón tay nhúc nhích này Một ngón tay nhúc nhích cũng đủ cho ta vui vầy… Hai ngón tay nhúc nhích này/ hai ngón tay nhúc nhích này! Hai ngón tay nhúc nhích cũng đủ cho ta vui vầy! … và cứ thế tiếp tục cho đến mười ngón. Bài này có phần nhạc ở phụ lục. Tay mẹ tay con có nhiều trò thú vị. Hát mà chơi với bài đồng dao Kéo Cưa Lừa Xẻ, khi con biết ngồi, hai mẹ con cùng nắm tay nhau kéo qua kéo lại: Kéo cưa lừa xẻ/ ông thợ nào khỏe/ về ăn cơm trưa Ông thợ nào thua/ về bú tí mẹ hay: Cút ca cút kít/ làm ít ăn nhiều/ nằm đâu ngủ đấy Nó lấy mất cưa/ lấy gì mà kéo!!! Vẫn tay mẹ tay con: Xỉa cá mè/ đè cá chép Tay nào đẹp/ đi hái hoa Tay nào thô/ đi mót củi Tay dính bụi/ đừng dụi mắt … Cũng bài Xỉa Cá Mè nhưng chơi với hai chân: Xỉa cá mè/ đè cá chép Chân nào đẹp/ đi buôn men Chân nào đen/ ở nhà làm… chó (hay mèo) và sủa gâu gâu như chó hoặc kêu meo meo như mèo để mẹ con cùng vui. Mẹ con vuốt tay vỗ đập tay nhau nhịp hai theo bài đồng dao Vuốt hột nổ nói đến những vật dụng hàng ngày. Bảo con chắp tay lai, mẹ cũng chắp tay xong mở ra vuốt hai bàn tay con, vừa vuốt vừa đọc, mỗi lần vuốt xong là vỗ tay, và có thể tiếp nối vô tận: Vuốt hột nổ Đổ bánh bèo Xao xác … quạ kêu Nồi đồng vung méo/ cái kéo thợ may Cái guộng đắp bờ/ cái cờ làng tế Cái ghế để trèo/ cái khoèo mót củi Cái chủi tòe loe/ cái khe nước chảy Cái xảy xảy rơm/ cái nơm chơm cá Cái ná bắn chim/ cái kim may áo Cái gáo múc nước/ cái lược chải đầu Cái câu câu cá/ cái rá vo gạo … Mẹ con ngồi đối mặt nhau, mẹ vừa hát vừa tập con vỗ tay. Hát mà học, vì khi lớn lên bé sẽ cùng vui chơi với anh hoặc chị, và cách chơi khó hơn: vừa đọc bài đồng dao vừa tự vỗ tay mình xong vỗ tay trái chéo vào tay trái người kia; trở lại tự vỗ tay, rồi vỗ tay phải mình chéo qua tay phải người kia, và tiếp tục ban đầu chậm sau nhanh dần cho đến hết bài. Một bài đồng dao khác cho trò chơi này là: Tập tầm vông Chị lấy chồng/ em ở góa/ chị ăn cá/ em mút xương Chị nằm giường/ em nằm đất/ chị húp mật/ em liếm ve Chị ăn chè/ em liếm bát/ chị coi hát/ em vỗ tay Chị ăn mày/ em xách bị/ chị làm đĩ/ em thâu tiền Chị đi thuyền/ em đi bộ/ chị kéo gỗ/ em lợp nhà Chị trồng cà/ em trồng bí/ chị tuổi Tý/ em tuổi Thân Chị tuổi Dần/ em tuổi Mẹo Chị kéo kẹo/ em nấu đường/ chị trồng thơm/ em trồng khóm Chị đi xóm/ em coi nhà/ chị thờ cha/ em nuôi mẹ Chị trồng hẹ/ em trồng hành/ chị để dành/ em ăn hết Chị đánh chết/ em la làng/ chị đào hang/ em chui tuốt … Vẫn trò chơi dùng hai tay nhưng đông người hơn, có thể dùng một cái gậy hay thanh trúc để các em nắm tay chồng lên nhau lần lượt và tiếp tục cho hết bài. Không có gậy thì chỉ cần chồng tay lên nhau. Trò chơi này gọi là Hát Đúm/ Cùm nụm cùm nịu hay Tay tí tay tiên: Cùm nụm cùm nịu/ tay tí tay tiên Đồng tiền chiếc đũa/ hột lúa ba bông Ăn trộm ăn cắp trứng gà Bù xa bù xít/ con rắn con rít Thì ra tay này! Vẫn tay mẹ tay con, khi con biết xử dụng tay chân, mẹ con cùng chơi trò thi chân đẹp hoặc mẹ giúp con theo dõi chơi Nu na Nu nống cùng các anh chị. Ngồi trong lòng mẹ, bé chỉ tập trung theo dõi, chăm chú nghe và nhìn, lanh mắt lẹ tay nhanh chân học mà chơi theo luật chung: Nu na nu nống/ cái cống nằm trong Cái ong nằm ngoài/ củ khoai chấm mật Phật ngồi Phật khóc/ con cóc nhảy ra/ con gà ú ụ Nhà mụ thổi xôi/ nhà tôi nấu chè Tè he cống rụt! Nu na nu nống/ thằng công cái cạc Đá xỉa đá xoi/ đá đầu con voi/ đá lên đá xuống Đá ruộng bồ câu/ đá râu ông già Đá ra đường cái/ gặp gái đi đường Có phường trống quân/ có chân thì rút! Nu na nu nống/ đánh trống phất cờ/ mở cuộc thi đua Thi chân đẹp đẽ/ chân ai sạch sẽ/ gót đỏ hồng hào không bẩn tí nào/ được vào đánh trống! Khi trẻ khá lớn đi đứng chạy nhảy vững vàng và đến trường, gia nhập những trò chơi tập thể dễ dàng cũng như học những bài đồng dao dần dà dài khó hơn, và mẹ chỉ để mắt theo dõi, hướng dẫn hoặc nhắc nhở giúp đỡ khi cần. Có những bài đồng dao kết cấu liên hoàn lập đi lập lại, làm điệu bộ theo lời diễn đi diễn lại cho đến khi mệt nghỉ: Con vỏi con voi/ cái vòi đi trước Hai chân trước ịch đi ịch trước Hai chân sau ịch đi ịch sau Còn cái đuôi thì đi là sau rốt Tôi xin kể nốt cái chuyện con voi i í ị con voi Cái vòi í i ị đi trước … Con công hay múa/ nó múa làm sao? Nó rụt cổ vào/ nó xòe cánh ra Nó đỗ cành đa/ nó kêu ríu rít Nó đỗ cành mít/ nó kêu vịt chè Nó đỗ cành tre/ nó kêu bè muống Nó đỗ dưới ruộng/ nó kêu tầm vông Con công hay múa … Lúa ngô là cô đậu nành/ đậu nành là anh dưa chuột Dưa chuột là ruột dưa gang/ dưa gang là nàng dưa hấu Dưa hấu là cậu lúa ngô/ lúa ngô là cô đậu nành … Ba bài liên hoàn khác về chim: Ác- là là cha ca-cưỡng/ ca-cưỡng là dượng bồ câu Bồ câu là dâu ác- là/ ác-là là cha cà- cưỡng … Bồ-các là bác chim gi/ chim gi là dì sáo sậu Sáo sậu là cậu sáo đen/ sáo đen là em tu-hú Tu-hú là chú bồ-các/ bồ-các là bác chim gi … Cái cò mày mổ cái tôm/ cái tôm quắp lại mà ôm cái cò Cái cò mày mổ cái trai/ cái trai quặp lại mà nhai cái cò Cái cò mày mổ cái tôm … Một bài đồng dao liên hoàn khác được Đức Quỳnh phổ nhạc và hát từ Bắc vào Nam, lời lẽ ngụ ý hài hước châm biếm: Con chim chích chòe/ nó kêu chích chòe Nó đậu cành chanh/ nó kêu chích chòe Tôi ném hòn sành/ nó quay lông lốc Tôi làm một chốc/ được ba mâm đầy Ông thầy ăn một/ bà cốt ăn hai Cái đầu cái tai/ đem về biếu chúa Chúa hỏi chim gì? – Là con chim chích chòe! Nó kêu chích chòe/ nó đậu cành chanh … Bài đồng dao có nhạc trong Nam lời hát như sau: Con chim manh manh/ nó đậu cây chanh Tôi vác miểng sành/ tôi liệng nó chết Tôi làm được bảy mâm/ tôi dâng cho ông một mâm Tôi dâng cho bà một đĩa/ bà hỏi tôi con chim gì? Tôi nói con chim manh manh … Có một trò chơi trong Nam gọi là Bắc Kim thang, dùng bài đồng dao ngô nghê ngộ nghĩnh khi các em làm thành vòng tròn, chân trái xỏ rế ngoéo vào chân trái bạn, vừa vỗ tay vừa nhảy lò cò bằng chân phải và giữ không bị té, cùng hát: Bắc kim thang, cà lang bí rợ Cột qua kèo là kèo qua cột Chú bán dầu qua cầu mà té Chú bán ếch ở lại làm chi? Con le le đánh trống thổi kèn Con bìm bịp thổi tò te tí te …… Em nào không vững thăng bằng bị té là thua, bị phạt búng tai hoặc khẻ tay nếu là con gái, hoặc phải cõng bạn cùng cặp chạy một vòng nếu là con trai. Vui tếu thì phạt bằng quẹt nhọ nồi/ lọ nghẹ lên mặt. Các em trai còn bị phạt làm ngựa cho bạn cỡi, nhẹ thì dùng bài đồng dao ngắn Nhong nhong nhong nhong, mà phạt nặng hoặc trẻ lớn thì dùng bài Lý Ngựa ô. Lý Ngựa ô cũng có ba điệu phổ nhạc, Bắc, Trung và Nam. Trò trốn tìm/ ú tim/cút bắt được trẻ con khắp thế giới vui chơi, và đồng dao ta có rất nhiều bài cả đám cùng loạt đọc lên để chọn người phải đi tìm. Bài đặc biệt có tính cách một bài sấm dính đến lịch sử, nói về giai đoạn rối loạn của triều đình Nhà Nguyễn và phong trào Cần Vương, thời ta bị Pháp đô hộ: Chu tri rành rành/ Cái đanh nổ lửa Con ngựa đứt cương/ ba vương tập đế Cấp kế đi tìm/ ú tim … òa ập! Bài đồng dao trốn tìm/ thả đỉa ba ba: Thả đỉa ba ba/ con đỉa đeo bà Con gà tục tác/ mỏ-nhát cầm chầu Con mèo cầm lái/ con rái chạy buồm Con tôm tát nước/ vọc nước giỡn trăng Bài Thả đỉa ba ba khác: Thả đỉa ba ba hớ bắt đàn bà/ phải tội đàn ông Cơm trắng như bông/ gạo tiền như nước Sang sông về đò/ đổ mắm đổ muối Đổ nải chuối tiêu/ đổ niêu cứt gà Đổ phải nhà nào/ nhà ấy phải chiu! Khi đám trẻ chạy tìm chỗ nấp, em còn lại phải bịt mắt đọc bài đồng dao khác đến hết mới được mở mắt đi tìm: Mít mật mít gai/ mười hai thứ mít Đi vào ăn thịt/ đi ra ăn xôi Bởi chẳng nghe tôi/ tôi bịt mắt chú Ăn đâu ẩn kín/ lúa chín thì về! Chơi bịt mắt bắt dê, tranh Võ Đình Ngoài Bắc có bài đồng dao khác và Phạm Duy đã mượn ý phổ nhạc: Ông trẳng ông trăng Xuống chơi với tôi/ có bầu có bạn Có oản cơm xôi/ có nồi cơm nếp Có nệp bánh chưng/ có lưng hũ rượu Có chiếu bám đu/ thằng cù xí xoại Bắt trai bỏ giỏ/ cái đỏ ẵm em Đi xem đánh cá/ đem rá vo gạo Có gáo múc nước/ có lược chải đầu Có trâu cầy ruộng/ có muống thả ao Ông sao trên trời … Hoặc: Ông tiễn ông tiên Ông có đồng tiền/ ông giắt mái tai/ ông cài lưng khố Ông ra hàng phố/ ông mua miếng trầu/ ông nhai tóp tép Ông mua con tép/ về ông ăn cơm Ông mua mớ rơm/ về ông đánh thổi Ông mua cái chổi/ về ông quét nhà Ông mua con gà/ về cho ăn thóc Ông mua con cóc/ về thả gậm giường Ông mua nén hương/ về cúng ông cụ! Tranh dân gian của Henry Oger đầu thế kỷ XX,chú thích bằng chữ Nôm: Đánh Cờ Chân Chó Làm Hùm Bắt Lợn Khi trẻ đã lớn, đã đi học và có nhiều bạn cùng lứa, có rất nhiều trò chơi dùng những thứ kiếm được ngay chung quanh hoặc tự chế lấy, ví như bắn ná làm bằng nạng ổi, bắn súng bẹsống láchuối, bắn súng ống hóp đạn hạt sầu đông hoặc hạt mâm xôi, bắt chuồn chuồn, buôn bán bằng hoa lá, cái lung tung/ cái trống bỏi, chong chóng bằng lá dừa, con gà đất có gắn ống cói ống sậy thổi te te, con giống, cối xay làm bằng hạt xoài cưa hai, đánh căn với hai khúc tre hay gỗ, đánh bi, đánh cờ chân chó, cờ gánh bằng vỏ nghêu vỏ sò, đánh đáo, đánh đu dựng bằng tre, đánh trận giả với cây cành hoa lá như Cờ Lau Tập Trận của Đinh Bộ Lĩnh thuở còn chăn trâu, đánh thẻ, đánh vụ làm bằng gỗ, đá kiện làm bằng đồng xu buộc lông, đá cầu lông,đạp mạng, đạp lon, đi chợ về chợ, kéo co với giây dừa, làm hùm bắt lợn, lộn cầu vồng, lộn chuồn chuồn, liệng cống, năm tiền liền quan, ném còn làm bằng vải vụn, ném vòng làm bằng tre hoặc mây vào cọc tre hay gỗ, nhảy giây làm bằng giây dừa, nhảy lò cò với mảnh ngói mảnh sành mảnh sứ , rải ô quan/ rải ô làng dùng sỏi, sạn hay hạt đậu, xây khăn/ bỏ khăn/ chuyền khăn, thả diều làm bằng tre dán giấy … vô số kể. Cờ Lau Tập Trận, tranh Võ Đình Những trò chơi hầu hết cần vận dụng đầu óc bén nhạy tinh tế tính toán chính xác, điều động tay chân nhanh nhẹn, thích nghi với môi trường thiên nhiên và luyện tập quen dần với đời sống tập thể trong cộng đồng. Hát chơi mà học thật. Bài đồng dao trò chơi Xây khăn trong Nam, trẻ ngồi thành vòng tròn, một em cầm khăn chạy ngoài, cùng đọc cho đến hết thì bỏ khăn sau lưng một bạn. Em này phải chú ý theo dõi để nhặt khăn chạy vòng, nhường chỗ cho bạn, nếu không biết sẽ bị loại khỏi cuộc chơi. Đá cầu bằng đồng xu, tranh dân gian của Henry Oger Xây khăn, khăn nổi khăn chìm Ba bên bốn phía đi tìm cái khăn Thằng chăn bận áo rách vai Không ai may vá, thằng chăn bận hoài Trò chơi Chuồn chuồn miền Trung và Lộn Cầu Vồng ngoài Bắc có cách chơi giống nhau nhưng khác bài đọc: - Chuồn chuồn đạp nước kim cang/ bên tê mở cửa bên ni sang lòn - Lộn cầu vồng nước trong nước chảy Có anh mười bảy có chị mười ba Hai chị em ta cùng lộn cầu vồng Bài đồng dao trò Dung giăng dung giẻ đọc khi đi quanh nhiều vòng tròn, những vòng này luôn thiếu một để đến cuối khi ngồi xệp xuống sẽ có một em chậm chạp bị loại: Dung giăng dung giẻ/ dắt trẻ đi chơi Đi tới cổng trời/ gặp cậu gặp mợ Cho cháu về quê/ cho dê đi học Cho cóc ở nhà/ cho gà bới bếp Ngồi xệp xuống đây! Một bài đồng dao về cuộc sống luẩn quẩn loanh quanh trong nhà ngoài vườn trong xóm ngoài làng là Ông Ninh Ông Nang được Lê Thương phổ nhạc: Ông Nỉnh ông Ninh/ ông ra đầu đình/ ông gặp ông Nảng ông Nang Ông Nảng ông Nang/ ông ra đầu làng/ ông gặp ông Nỉnh ông Ninh Nang Ninh đầu đình/ và Ninh Nang đầu làng Nang Ninh làng đình/ rồi Ninh Nang đình làng Nang Ninh làng đình Nang Ninh/ Ninh Nang đình làngNang Ninh Nang Ninh làng đình Ninh … Cô Chiểu cô Chiêu/ cô qua cầu Kiều/ cô gặp cô Thỏa cô Thoa Cô Thỏa cô Thoa/ cô qua vườn cà/ cô gặp cô Chiểu cô Chiêu Thoa Chiêu cầu Kiều/ và Chiêu Thoa vườn càRồi Thoa Chiêu cầu Kiều/ rồi Chiêu Thoa vườn dừa Cả Chiêu Thoa cầu Kiều Chiêu Thoa/ Thoa Chiêu vườn cà Chiêu ThoaThoa Chiêu vườn cà Thoa … Em Thở em Thơ/ em qua hàng dừa/ em gặp em hải em Hai Em Hải em Hai/ em qua vườn xoài/ em gặp em Thở em Thơ Thơ Hai vườn xoài/ và Hai Thơ vườn dừa Rồi Thơ Hai vườn xoài/ và Hai Thơ vườn dừa Cả Thơ Hai vườn xoài Thơ Hai/ Hai Thơ vườn dừa Thơ Hai Thơ Hai vườn xoài Thơ … Một bài đồng dao khác được phổ nhạc là Trằng Bờm, nói lên đầu óc thực tiễn của dân quê không cần xa hoa phù phiếm cung ngũ long lầu ngũ phụng dinh thự cao ốc hay đặc sản miếng ngon vật lạ, mà chỉ muốn no bụng: Thằng Bờm có cái quạt mo/ phú ông xin đổi ba bò chín trâu Bờm rằng Bờm chẳng lấy trâu/ phú ông xin đổi ao sâu cá mè Bờm rằng Bờm chẳng lấy mè/ phú ông xin đổi ba bè gỗ lim Bờm rằng Bờm chẳng lấy lim/ phú ông xin đổi một đôi chim mồi Bờm rằng Bờm chẳng lấy mồi Phú ông xin đổi nắm xôi… Bờm cười!!! Thuở nhỏ tôi nghịch ngợm hát bài đồng dao Thằng Bờm và có nhịp điệu khác: Thì ra mo cau vàng mới tinh/ phú ông lập tâm mua liền! Thằng Bờm mà biết cóc chi/ Thằng Bờm mà biết cái cóc chi! Chăng chẳng lấy trâu/ Bờm rằng thì là Bờm chăng chẳng lấy trâu đâu!!! Trò chơi tôi thích nhất hồi còn tiểu học là đánh thẻ chuyền/ đánh banh đũa, nhưng đến nay không nhớ được trọn bài đồng dao đọc đệm. Duyên may quen một gia đình nhà quê mộc mạc, bà mệ tám mươi sáu và bà mạ sáu mươi, không biết đọc biết viết nhưng còn nhớ kỹ. Bỏ một ngày thăm hỏi cùng ôn trí nhớ, ghi trọn được trò chơi này. Dùng tay phải nắm nguyên bó đũa 6 chiếc hoặc nhiều hơn, cùng một trái banh, có khi chỉ là quả chanh hay một bó vải vụn cuộn thành hình trái banh. Vừa thảy banh lên là trải đũa ra nhanh cho kịp bắt chụp lại trái banh, rồi lần lượt ném banh vừa bắt từng cây đũa một, rồi hai, ba, bốn … tức là phải tính chính xác làm sao vừa ném banh lên là phải nhanh mắt nhanh tay tính toán nắm đúng số đũa cần lấy đưa ngay sang tay kia và kịp thời bắt chụp lại trái banh. Trò chơi này hình như chỉ có trẻ Việt Nam ta yêu thích và hợp với con gái. Bài đồng dao đọc theo lúc ném banh, bắt đầu ném banh và bắt một đũa, đọc tối đa đến cuối câu phải tóm lại được trái banh, nếu trật phải nhường người kia chơi: Cái mốt (bắt một đũa) Cái mai/ con trai/ con hến Con nhện/ giăng tơ/ quả táo/ cái gáo Lên đôi (bắt hai đũa) Đôi cái mõ/ đôi nồi chõ Đôi thổi xôi/ đôi nấu chè/ đôi cành tre Lên ba (bắt ba đũa) ………. Khi nhặt hết đũa thì bỏ tất cả xuống để ném banh bốc cả nắm đổi sang các giai đoạn kế tiếp là con ba lại, con gang, sang tay cầm, kẹp nách, cầm quạt rẽ xương, sang tay giã, giã đơn hoặc giã đôi tùy giao ước ban đầu, nhập giã, rút ống, nhập ống, sang tay tao tức là chuyền. Mỗi giai đoạn này đọc tên báo sự thay đổi chuyển tiếp. Giai đoạn chuyền, một vòng hoặc hai vòng tùy giao ước trước khi chơi, vừa chuyền vừa ném banh rồi chụp banh lại và đọc: Chuyền chuyền một/ chuyền chuyền hai/ chuyền chuyền ba Chuyền chuyền bốn/ chuyền chuyền năm/ chuyền chuyền sáu Cuối cùng là nẻ hay khẻ, tức là đập cả bó đũa vào chân người thua cuộc, vừa đập vừa thảy banh vừa đọc đoạn cuối bài đồng dao: Qua cầu, lặn cỏ/ núi đỏ như ma/ hầm sa/ mây sắc Bắt con cá, chặt đuôi, chặt đầu Têm miềng trầu, hầu chén rượu Ai có tiền, ngồi liền lên ghế Ai không tiền, liệu thế liệu thần Sang tay nẻ, khẻ chân Nẻ/ khẻ chân xong là thắng, Đoạn đồng dao cuối này lại khác nếu do các nữ sinh Đồng Khánh mà nay là những mệ có cháu nội ngoại đề huề: Ai muốn cao, ngồi ghế/ ai muốn thấp, ngồi đòn Ai muốn đỏ, bôi son/ ai muốn vàng, bôi nghệ Qua cầu Chợ Kệ/ về cầu Thanh Lương Sang tay bắt con một. – Ăn! (tức là thắng) Đoạn cuối lúc nẻ, mấy mệ ngoài Bắc lại đọc khác: Đầu quạ quá giang/ sang sông về đò Cò nhẩy gãy cây/ mây bay bèo trôi Ổi xanh, hành bóc/ róc vỏ, đỏ lòng Tôm cong đít vịt Sang cành nẻ/ bẻ cành xanh Vét bàn thiên hạ (tức là thắng) Trong số 54 sắc dân sinh sống tại Việt Nam, người Mường là chị em của người Việt, cùng thờ Vua Hùng, cùng chung truyền thuyết một mẹ trăm con, cùng mặc yếm váy và áo tứ thân và đặc biệt cùng nói chung ngôn ngữ. Trẻ con Mường cũng có đồng dao kèm trò chơi. Ghi lại sau đây một: Lếu lêu làng lộc Tộc ngộc ngọn cơn bo (cây hoang nhỏ có trái trẻ hay hái ăn) Bò ăn no bò ngứa củ ráy Ngứa củ ráy ngứa cả cơn rư (cây nưa) Đưa bò về Mường Tráng Tám mươi người kiếm cỏ/ bò đỏ bò nhà lang Bò vàng, bò nhà đạo Ống Tùng tùng tùng tùng/ ai đánh trống mường trên Lền khên con ca trống gáy (con gà) Gáy gáy trong rẫy ngoài mường/ vườn như vườn nhà ai Ông mo biểu mụ máy/ trấy bín biểu trấy bù (trái bí/bầu) Măng mu biểu măng nứa/ bố đạo biểu mệ nàng Quan sang biểu kẻ khó/ bó ló biểu bó nếp (bó lúa) Cơm nếp biểu cơm chim/ cào cào biểu châu chấu (một loại gạo ngon) Cắt nứa rào cho ta chào cấm/ lấy lưỡi lấm cho ta cầm tiền Lấy lưỡi liềm cho ta cắt bái (cỏ tranh) Lấy lưỡi hái cho ta hái ló (lúa) Náng lấy chó cho ta ăn thịt/ náng con vịt cho ta ăn đùi (nướng) Nuôi con ca cho ta lấy mỡ (gà) Dệt lấy mớ lụa điều/ dệt nhiều nhiều cho ta cưới vợ … Trẻ con miền Bắc ngày trước rất thích chơi Phụ đồng Phụ chổi, có tính cách huyền bí như lên đồng. Bài đồng dao được đọc đi đọc lại cho đến khi đứa trẻ ngổi đồng được vía nhập: Phụ đồng phụ chổi/ thổi lổi mà lên Ba bề bốn bên/ sôi lên cho chóng Nhược bằng cửa đóng/ phá ra mà vào Cách chuôm cách ao/ cách ba ngọn rào Cũng vào cho lọt Cái roi von vót/ cái vọt cho đau Hàng trầu hàng cau/ hàng hương hàng hoa Là đồ cúng Phật Hàng chuối hàng mật/ hàng kẹo mạch nha Nào cô bán quế/ vừa đi vừa tế Một lũ học trò/ người cầm quạt mo Là vợ Ông Chổi Thổi lổi mà lên … Một trò chơi được đám trẻ gái yêu thích, cách chơi giống nhau nhưng ngoài Bắc gọi là là Trồng Nụ Trồng Cà/ Trồng Nụ Trồng Hoa, và miền Trung gọi là Đi Chợ Về Chợ. Phải có bốn em, chia làm hai cặp. Một cặp ngồi, lần lượt duỗi chồng từng bàn chân lên nhau rồi chồng bàn tay làm hoa, trong khi cặp kia đi qua đi lai rồi nhảy qua nhảy lại, vừa đọc: Đi chợ/ về chợ (chưa đưa chân) Đi canh một/ về canh một (đưa một bàn chân) Đi canh hai/ về canh hai (chồng thêm một chân, là hai bàn chân) Đi canh ba/ về canh ba (chồng thêm, ba bàn chân) Đi canh tư/ về canh tư (chồng thêm, bốn bàn chân) Đi sen búp/ về sen búp (chồng thêm một bàn tay chụm lại) Đi sen nở/ về sen nở (chồng thêm bàn tay hơi xòe nở) Đi sen tàn/ về sen tàn (bàn tay hoa nở xòe rộng hết cỡ) Đi Chợ Về Chợ, tranh Võ Đình, XI-07 Trong trò chơi này, hai em ngồi chồng chân và xòe tay phải giữ thăng bằng, nếu bị đổ chân là thua. Hai em đi qua đi lại nhảy qua nhảy về nếu bị đụng chân hay tay hai em kia là thua. Cặp thua bị loại để hai em khác vào thay. Nhưng trong mấy trò chơi tập thể nhân Tết Trung Thu và Ngày Nhi Đồng Việt Nam, trẻ con Bắc Trung Nam đểu thích trò Rồng Rắn, gồm một đoàn ôm eo ếch nhau nối dài đi vòng vòng quanh sân, vừa đi vừa reo hò theo một em dẫn dầu làm thầy thuốc đọc : - Này, rồng kia! - Dạ! - Rồng đen hay rồng trắng? - Rồng trắng! - Rồng trắng lấy nước gạo mùa Rồng đen lấy nước cho vua đi cày! - Anh em ta cùng kéo lúa về! Dô ô ô ô ô ô ô … Ttranh dân gian của Henry Oger Chú thích bằng chữ Nôm: Trẻ Con Làm Rồng Rắn Bài đồng dao Rồng Rắn cản thầy thuốc cầm cái quạt mo không cho ông bắt em nào trong đoàn, vừa đi vừa hát: Rồng rồng rắn rắn/ kéo rắn lên mây Thấy cây lúc lắc/ hỏi ông thầy thuốc có nhà hay không? - Có! - Mở cửa cho vào! - Vào làm gì? - Mượn cái liềm - Liềm làm gì? - Hái củi - Củi làm gì? - Nấu bánh chưng - Cho thầy ăn không? - Không! Trò chơi Rồng Rắn không rõ có từ giai đoạn lịch sử nào, có thể liên hệ đến thảm kịch thời Trịnh Nguyễn phân tranh chiến tranh đẫm máu giữa Đàng Ngoài Đàng Trong, hay gần hơn, là cuộc nội chiến Quốc Cộng xốc nổi đến tận cùng đời sống … với những nhân vật níu áo số mệnh nhau, như truyện dài Rồng Rắn của Lê Thị Huệ dẫn nhập. Trò Rồng Rắn được trẻ con tham dự đông đảo nhất, cũng ôm eo ếch nối dài làm con rồng, vừa chạy vòng vòng vừa cùng đọc: Rồng rắn lên mây có cây xúc xắc Xúc xắc xúc xẻ … Có thầy thuốc ở nhà không? Một trẻ lớn làm ông thầy thuốc cầm quạt nan phe phẩy đi ra, đủng đỉnh hỏi: Thầy thuốc: - Rồng rắn đi đâu? Rồng rắn: - Rồng rắn đi lấy thuốc cho con. Thầy thuốc: - Con lên mấy? Rồng rắn: - Dạ, con lên một. Thầy thuốc: - Thuốc chẳng ngon! Rồng rắn: - Con lên hai. Thầy thuốc: - Thuốc chẳng ngon! Rồng rắn: - Con lên ba. Thầy thuốc: - Thuốc chẳng ngon! Rồng rắn: - Con lên bốn. Thầy thuốc: - Thuốc chẳng ngon! Rồng rắn: ….. Thầy thuốc: ….. Rồng rắn: - Con lên chín. Thầy thuốc: - Thuốc chẳng ngon! Rồng rắn: - Con lên mười. Thầy thuốc: - Thuốc ngon vậy! Xin khúc đầu! Rồng rắn: - Những xương cùng xẩu! Thầy thuốc: - Xin khúc giữa! Rồng rắn: - Những máu cùng me! Thầy thuốc: - Xin khúc đuôi! Rồng rắn: - Tha hồ mà đuổi! Đến đây thì đoàn rồng rắn vẫn ôm eo ếch nối nhau chạy đuổi bắt ông thầy thuốc cho kỳ được mới tan cuộc, giữa những tiếng vỗ tay reo hò cổ võ của những người đứng xem, trong số có những bà mẹ chứng kiến con mình lớn khôn trong tập thể, trong cộng đồng. Bài đồng dao này có giá trị như một bài sấm, một bài học lịch sử, và cũng là một bài luân lý giáo khoa thư nói lên tình đoàn kết nhất trí của Rồng Rắn, toàn dân quyết giữ gìn trọn khối chung, đánh đuổi quân xâm lược lăm le chiếm đất đai, đã hớt khúc đầu Nam Quan, lại xén đoạn giữa Trường Sa và gây tai hại đồng bằng Cửu Long miền Nam. Những bài đồng dao và trò chơi trẻ con góp nhặt ở đây chưa đầy đủ và cần bổ túc, nhưng có chủ đích góp phần gìn giữ kho tàng văn học dân gian trước khi bị thất truyền hay quên lãng, chôn vùi dưới hàng hàng lớp lớp đồ nhựa lắp ráp máy móc Toys ‘R’ Us, CDs, DVDs, video games, PC Games, puzzles, dominos, bingo, i-pods, cell phones … và vô số trò khác ào ạt trên mạng lưới điện tử của thời đại @ còng. Ngay tại các nước Âu Mỹ, nhiều tài liệu cũng sưu tầm ghi lại trò chơi trẻ con kèm những ballads, là thơ xưa từ thế kỷ XV/ XVI được phổ nhạc có điệp khúc lập đi lập lại, và Shakespeare từng trích dẫn vào tác phẩm. Chúng ta đang ở đầu thế kỷ XXI. Mai sau, dù có bao giờ, phần sưu tầm biên khảo nhỏ nhoi này mong còn được đôi khi lần giở trước đèn, để may ra có người mở trang sách cũ tìm hiểu về đất lề quê thói, thấy rõ ràng kho tàng văn học dân gian đặt nặng giáo dục gia đình trên vai người mẹ. Những lời ru ca dao ạ ơi ời hà hơi văn hóa mẹ vào tâm hồn trẻ từ lúc mở mắt chào đời cho đến khi chập chững lững thững những trò chơi đi kèm đồng dao, để từ đó vững bước vào xã hội. Hát mà chơi. Hát mà học. Hát chơi mà học thật. Học làm NGƯỜI. Trần thị Lai Hồng Từ tiểu bang xanh 1987 qua Hoa bang 2007 Tài liệu tham khảo: - Ban Văn Học Hội Khai Trí Tiến Đức, Việt nam Tự Điển, Mặc Lâm xuất bản, Hà Nội 1931 - Henry Oger, La Technique du Peuple Annamite, NXB Jouve & Cie, Paris 1908 - Hùinh Tịnh Paulus Của, Đại Nam Quấc Âm Tự Vị, Imprimerie Rey, Curiol &Cie, Saigon 1895 - Hướng Đạo Ca, Kỷ niệm70 năm Hướng Đạo Việt Nam 1930-2000 - Jack Maguire, Hopscotch, Hangman, Hot Potato & Ha,Ha, Ha, Rockefeller Center, 1990 - Lê thị Huệ, Rồng Rắn, Lũy Tre Xanh xuất bản, San José 1989 - Lư Nhất Vũ/ Lê Giang, Tìm Hiểu Dân ca Nam bộ, NXB TPHCM, 1983 - Mệ Bê, tài liệu sống, San Diego, CA - Mệ Nguyễn Đề, tài liệu sống, West Palm Beach, FL - Minh Hiệu, Tục ngữ Dân ca Mường Thanh Hóa, NXB Văn Hóa Dân Tộc, Hà Nội 1999 - Nguyễn Mạnh Hùng, Ký họa Việt nam, NXB trẻ, Saigon 1989 - Nguyễn Như Ý, Đại Tự diển Tiếng Việt, Bộ Giáo dục và Dân Tộc, Trung tâm Ngôn ngữ và Văn Hóa CHXHCN, Hà Nội 1998 - Nguyễn Tấn Long/Phan Canh, Đất Lề Quê Thói, NXB Sống Mới, Saigon 1970 - Nguyễn Thuyết Phong and Patricia Shehan, From Rice Paddies and Temple Yards: Traditional Music of VietNam, World Music Press 1989 - Nguyễn Trúc Phượng, Văn học Bình dân, Nhà Sách Khai Trí, Saigon 1964 - Nguyễn Văn Vĩnh, Trẻ Con hát Trẻ Con Chơi, NXB Alexandre de Rhodes, Hà Nội 1943 - Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc, Thi Ca Bình Dân Việt Nam, NXB Sống Mới, Saigon 1978 - Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc, Tục Ngữ Phong Dao, NXB Vĩnh Hưng Long, Hà Nội 1928 - Trần Quang Đức, 175 Trò Chơi Tập thể, NXB Thanh Niên, Hà Nội 2006 - Trương Anh Thụy, Trường ca Lời Mẹ Ru, NXB Cành Nam 1989 - Trương Tửu, Kinh Thi Việt Nam, Tủ Sách Văn Hóa Hàn Thuyên, Saigon 1940, Xuân Thu tái bản Houston, TX - Vũ Ngọc Phan, Tục Ngữ và Dân ca Việt Nam, NXB Văn Sử Địa, Hà Nội 1956 - William Wells Newell, Games and Songs of American Children, Dover Publications, Inc. New York 1903 Nguồn: http://www.gio-o.com/TranThiLaiHong
-
"Bắc kim thang" hay "Bắt kim than"? Các em học sinh sinh hoạt tập thể. Tình cờ tôi bắt gặp trong tập sách Hát nhạc lớp 2 (do Nguyễn Thị Nhung và Hoàng Long biên soạn, NXB Giáo dục 1997 - in lần thứ năm), ở các bài 26, 27 và 28 có dạy: “Học bài hát: Bắc kim thang”, dân ca Nam bộ, ghi là một bài hát vui của trẻ em nông thôn Nam Bộ, các em hát khi chơi trò “khoèo chân”. Nguyên văn: "Bắc kim thang cà lang bí rợ Cột bên kèo là kèo bên cột Chú bán dầu qua cầu mà té Chú bán ếch ở lại làm chi Con le le đánh trống thổi kèn Con bìm bịp thổi tí tò te". Là người An Giang – Nam Bộ “chính cống”, ngay từ tuổi ấu thơ tôi đã từng hát và chơi trò dân gian này nên xin được phép phát biểu vài ý kiến. Trước hết, về nhan đề bài hát, theo tôi nghĩ, viết “Bắc kim thang” là không đúng, mà phải viết “Bắt kim than”. Vì sao, rất đơn giản, vì con ngựa kim màu nâu sậm. “Bắt kim than” là bắt con ngựa ấy (xin xem Huỳnh Tịnh Paulus Của, Đại Nam quốc âm tự vị, in năm 1895). Với lời bài hát, theo như sách Hát nhạc thì cả về lời và ý nghĩa chừng như không hợp lý. Chẳng những nó hoàn toàn xa lạ với những gì chúng tôi – người trong cuộc – đã biết mà còn vô lý không muốn nói là có ác ý, và không mạch lạc. Xin nêu ra mấy nhận xét: - Ở câu 1: Có lẽ những người biên soạn hiểu “Bắc kim thang” là bắc cái thang màu vàng (hoặc cái thang nhỏ – kim) lên đùa giỡn trên đống bí, tất nhiên phải đổ choài xuống, lăn văng tung toé! Chơi như vậy vừa nghịch ngợm vừa rất nguy hiểm không thể chấp nhận được! - Ở câu 2: Kết cấu khung sườn nhà, người ta xẻ ngoàm (ngàm) đầu trên của cây cột để nó đội chịu cây kèo, chứ không thể rời nhau kiểu cột một bên kèo một bên. Đối với nhà lá cột tre hoặc “nhà đá nhà đạp”, cột cũng đỡ kèo bằng “con sẽ” xỏ ngang qua, tức nó có sự liên kết chắc cứng chứ không thể “kèo bên cột, cột bên kèo” (hay “kèo qua cột, cột qua kèo) như có một dị bản mà tôi đã bắt gặp trong một sách khác. Tuy có lời lắp láy – dụng ý nhấn mạnh chúng không liên quan gì nhau, nhưng xét ra câu này cũng không đến nỗi quá vô lý. - Ở những câu còn lại: Không chỉ quá gượng ép mà còn “nhẫn tâm”! Thấy chú bán dầu té cầu (rơi xuống nước, có khả năng bị chết đuối) đã không tim cách cứu mà còn chế nhạo chú bán ếch sao không té theo! Nói “ở lại làm chi” là muốn cho “chú bán ếch” phải té luôn đặng cùng nhau “chết chùm”, đặng cùng nhau cười cho thỏa thích. Tuy nhiên, chỉ chú bán dầu té thôi, lũ le le và bìm bịp cũng đã “nổi trống thổi kèn” lên cười chộ vang rân. Chứng kiến, các em cũng đã tỏ ra rất khoái chí (không một tiếng rầy la phê phán bọn ấy, cũng không tìm cách cứu giúp chú bán dầu, không thương xót, không giúp đỡ người lâm nạn)! Đề cập đến 2 loài chim, tưởng không thể không nói qua vài nét đặc trưng của chúng: - Chim le le là loài vịt chuyên sống dưới nước, săn bắt tép, cá, hễ gặp người thì lặn trốn rất tài tình. Nếu không nhờ bẫy lưới giăng ngầm dưới nước thì không ai dễ gì bắt được chúng, do đó le le trở nên quý hiếm. Hiếm thì đã rõ, nhưng vì sao quý? Ta đã biết, thịt chim le le không ngon thậm chí hôi, song dân gian cho rằng rất bổ dưỡng, đặc biệt là cường dương, có tác dụng giải quyết bệnh yếu sinh lý, vì vậy ca dao có câu: "Thương chồng nấu cháo le le Nấu canh bông bí nấu chè hột sen" - Con bìm bịp cũng gọi chim bịp, sách viết là báo triều điểu (khi nước lên thì nó kêu, nên gọi báo triều – Gia Định thành thông chí) to hơn, hình dạng xấu xí, trông rất buồn bã, được cái là có “dược tính”, song “dân số” bìm bịp rất ít nên cũng thuộc loại quý hiếm. Dân gian cho rằng, thịt bìm bịp là vị thuốc, ngâm rượu uống (rượu bìm bịp) trị được chứng tổn thương xương (gãy, trật khớp), đặc biệt là giải quyết được chứng nhức mỏi. Ca dao: "Bìm bịp kêu nước lớn anh ơi, Buôn bán không lời chèo chống mỏi mê" Như vậy, cả hai loài chim này không hề tiêu biểu cho vui múa lăng xăng (lại luôn luôn tránh xa con người) nên đặc trưng của nó là không thể “đánh trống thổi kèn” vui nhộn! Còn trò chơi với bài hát này cũng không phải là trò “khoèo” chân với “bộ dạng chết cứng” như trong sách mô tả. Kiểu trò chơi như vậy là hoàn toàn xa lạ với lứa tuổi ham vui, hiếu động của các em thiếu nhi. Là người đã từng mê thích trò chơi này thời thơ ấu, và khi đã hết tuổi thiếu nhi, vẫn được nghe “đàn em” trong xóm diễn đi diễn lại nên cho đến nay tôi vẫn còn nhớ rất rõ đích thực bài hát và trò chơi ấy như sau: "Bắt kim than Cà lang bí rợ Cột quai chèo Chèo qua chèo lại Bắt ngựa ô Chạy vô vườn mít Hái lá mít Chùi đít ngựa ô" Bài hát được kết hợp với trò chơi vui nhộn thường được diễn ra lúc trời chập choạng tối, gồm 4 em nắm tay nhau, bung ra thành vòng tròn, em nào cũng chân trái đứng, chân phải đưa thẳng ra phía trước, gác lên chỗ tay của 2 em đối diện đang nắm chặt, 4 chân ấy của các em đan luồn vào nhau “xoắn xuýt” như dây quai chèo. Tuy mỗi em chỉ đứng có một chân nhưng nhờ được chịu vào nhau nên chắc, vững. Vì thế các em không cần nắm tay nhau nữa mà buông ra rồi cùng nhau hát bài này. Vừa hát vừa vỗ tay nghiêng mình qua, nghiêng mình lại ăn rập theo nhịp điệu, hình dung tư thế người chèo mái dài: một chân trụ chắc còn chân kia “thả” để cân bằng khi thân mình chồm tới hay ngã lui, nhịp nhàng theo động tác. Song do chỉ đứng một chân lâu nên không thể không tê mỏi, vì vậy thỉnh thoảng có em phải nhảy khựng khựng để lấy lại thế cân bằng. Một em “điều chỉnh” tất nhiên ba em kia cũng phải nương theo y như mấy con ngựa bị thắng dây cương nhảy dựng dựng tại một chỗ, nên gọi “bắt kim than”. Bắt xong con ngựa im màu nâu sậm (kim than) ở cà lang bí rợ (sân rộng chất toàn trái bí rợ – nông phẩm mới vừa thu hoạch ở rẫy, chờ chuyển xuống ghe đem đi tiêu thụ), các em tiếp tục “bắt ngựa ô” – ngựa ô là ngựa có sắc lông màu đen. Khi hát đến câu cuối (chùi đít ngựa ô) thì các em đồng loạt ngưng vỗ tay, đặng em này vỗ đít em kia và cùng phá lên cười ngặt nghẽo. Lúc này cả bốn em đều không thể không té nghiêng té ngửa. Rồi mạnh ai nấy lồm cồm ngội dậy, tiếp tục chơi. Bởi những lẽ ấy, tên bài hát không thể “Bắc kim thang” mà là “Bắt kim than”. Cần hiểu lại cho đúng. Đồng thời xin kiến nghị với những người có trách nhiệm hữu quan nên nghiên cứu bỏ ngay toàn bộ bài hát “Bắc kim thang” độc hại ấy, thay vào là bài (và trò chơi) “Bắt kim than” chính xác vừa nêu. Nguyễn Hữu Thiệp (An Giang) ======================== Chú thích thêm: Trẻ em miền Nam thường đọc như vầy: "Bắc kim thang cà lang bí rợ Cột qua kèo là kèo qua cột Chú bán dầu qua cầu mà té Chú bán ếch ở lại làm chi Con le le đánh trống thổi kèn Con bìm bịp thổi tí tò te" (đế thêm: tò te) Do vậy theo Thiên Đồng, chữ "qua" có thể là trại âm của chữ "quai". Theo đó, chữ "quai" hợp lý hơn vì kèo và cột là hai yếu tố của khung sườn nhà, một cái đứng, một cái ngang phải quai vào nhau để tao thành một cấu trúc thế chịu lực. Từ quai cùng một họ âm với quải = quài = gài = cài, cùng biểu ý cho việc mắc dính, nối kết. Cho nên có thể câu gốc phải là: Cột quai kèo là kèo quai cột Vài ý nói thêm, chắc phải hỏi lại bác Lãn Miên thì hạ hồi phân giải. Thiên Đồng
-
Tổ sư Marpa Marpa (1012 - 1096) Marpa sinh trưởng tại Chukhyer miền Nam Tây Tạng. Ngài học tiếng Phạn và thụ nhận một số giáo pháp từ Lama Drogmi Lotsawa thuộc dòng Sakya. Không bằng lòng với sự tu học này, Marpa quyết định bán hết tất cả tài sản của mình lấy vàng để đi Ấn Độ tìm cầu giáo pháp và truyền bá về Tây Tạng. Trên chuyến hành trình tới Ấn Độ đi qua Nepal, Marpa đã gặp gỡ và thụ nhận giáo pháp từ hai đệ tử của Ngài Naropa là Kantapa và Pentapa. Marpa có ấn tượng sâu đậm với hai Ngài đến nỗi quyết định tìm gặp trực tiếp Naropa xin được thụ pháp. Marpa tu học dưới sự chỉ giáo của Naropa trong suốt nhiều năm. Ban ngày Ngài thụ pháp, ban đêm chuyên tâm hành trì, vì vậy Ngài thành thục cả hai phương diện giáo lý và thực hành của Đại Thừa cũng như Kim Cương Thừa. Cuối cùng, Naropa truyền cho Marpa làm người kế tục dòng truyền thừa Tây Tạng và huyền ký rằng: Dòng truyền thừa của Ngài sẽ hưng thịnh ở Miền Đất Tuyết. Vì lợi ích của người dân Tây Tạng, Marpa thực hiện nhiều cuộc hành trình đến Ấn Độ, Nepal và mang rất nhiều giáo pháp về Tây Tạng, chuyển dịch từ tiếng Phạn sang tiếng Tạng. Ngài đã vượt qua vô vàn khó khăn thử thách, nhiều khi suýt mất mạng trong cuộc hành trình gian nan tìm cầu Phật Pháp. Ngài hạnh ngộ vô số bậc đạo sư trong đó Naropa và Maitripa là hai đại đạo sư quan trọng nhất. Mặc dù Ngài là bạch y cư sĩ, đã lập gia thất nhưng sự chứng ngộ của Ngài là vô song, thanh tịnh không chút nhiễm ô giống như hoa sen mọc lên từ bùn lầy. Đối với Ngài, luân hồi và niết bàn là bất nhị, hết thảy sắc tướng thế tục với Phật tính đều không khác. Vì thế, Ngài có thể vẫn sống trong cuộc đời trần lụy mà không bị nhiễm ô. Marpa thực sự đã đốn chứng thể Kim Cương Trì hay Phật tính ngay trong một đời. Ngài phiên dịch rất nhiều giáo pháp Mahamudra, Kim Cương Thừa sang tiếng Tạng đồng thời hoằng dương giáo pháp rộng khắp. Ngài đã chọn Milarepa làm người kế tục dòng truyền thừa. Nguồn: Marpa - Lineage - www.Drukpa.org
-
NÉT ĐẸP TRUYỀN THỐNG TRONG CÁC TRÒ CHƠI DÂN GIAN Cập nhật: 25/1/2012 14:24 Mỗi khi tết đến xuân vê, những người dân quê lúa Thái Bình lại nô nức đón xuân vui tết bằng những lời ca tiếng hát và những trò chơi dân gian độc đáo đặc trưng riêng của vùng quê chiêm chũng, thuần nông. Việc tổ chức trò chơi dân gian truyền thống trong dịp tết Nguyên đán không chỉ tạo ra không khí vui tươi, phấn khởi mà còn góp phần gìn giữ nét đẹp văn hoá truyền thống quê hương. Cứ vào ngày mùng 2, mùng 3 tết hàng năm, tại một cái ao lớn trước sân đình tại xã Vũ Chính, tỉnh Thái Bình, lại diễn ra trò chơi “cơm thi - bắt vịt”. Người tham gia chơi được chia thành hai đội cả nam và nữ, mỗi đội 10 người. Ban tổ chức cắm 10 cây tre ở dưới ao và để 2 quả trứng vào bất kỳ chân của cây tre nào, sau đó thả 2 con vịt xuống ao. Khi nghe hiệu lệnh từ Ban tổ chức, bỏ qua cái lạnh cắt da cắt thịt của thời tiết, 2 người của 2 đội chơi nhảy xuống ao để mò trứng ở các chân cây tre, đội nào mò được trứng trước thì đưa về cho Ban tổ chức. Lúc này, Ban tổ chức cho phép những người còn lại của đội đó được đổ thóc vào cối giã để lấy gạo, đồng thời lúc này người ở dưới ao mới được phép vây bắt vịt. Khi người ở dưới ao bắt được vịt thì đồng đội ở trên bờ bắt đầu cuộc đua lấy bật lửa. Việc lấy bật lửa là phần chơi vô cùng khó khăn và được chờ đợi nhất vì nó được để ở ngọn một cây chuối hột cao khoảng 4 mét, trên thân cây được trát bùn xung quanh. Trong tiếng trống đánh dồn đập và tiếng hò reo cổ vũ của người xem, người trèo lên cây chuối phải rất khó khăn mới lấy được bật lửa vì cứ trèo lên một bước thì lại bị tụt xuống 2 đến 3 bước vì thân cây quá trơn. Khi lấy được bật lửa cũng là lúc bộ phận giã gạo đã xong, lúc này gạo được sàng sảy sạch sẽ, vo thật trắng và cho vào nồi đất, đổ nước nấu cùng với quả trứng vừa mò được ở dưới ao. Nồi đất được đưa vào quang sắt, hai người khiêng ở hai đầu đòn khênh, một người cầm đuốc đốt ở dưới, việc nấu cơm phải di chuyển trên đoạn đường dài 500m. Khi quay trở lại vị trí ban đầu cũng là kết thúc trò chơi. Các đội chơi mang vào khu Di tích lịch sử văn hoá thắp hương, sau đó Ban tổ chức kiểm tra, chấm điểm, đội nào cơm chín đều, dẻo, ngon, không khê, sống; trứng phải chín là thắng cuộc. Phần thưởng rất khiêm tốn, chỉ vài chục ngàn đồng song đội nào đội ấy rất vui vẻ, họ kéo nhau về tập trung giết vịt liên hoan. Ngoài trò chơi “Cơm thi - bắt vịt” thì vào các ngày từ mùng 3 đến mùng 8 tết, nơi đây còn diễn ra nhiều trò chơi dân gian hấp dẫn khác như: leo cầu phao, vần củ chuối, vật võ, đánh cờ, cướp cầu… Các trò chơi đều được tổ chức trên nền hình thức hát trống quân, đối đáp nhau về các sản vật chỉ có ở trong làng mình. Nhưng có lẽ trò chơi được đông đảo bạn trẻ, trai gái trong làng, thậm trí là các em bé “mê” nhất là “Đánh đu”. Ngay từ những ngày trước tết (khoảng 27-28 tháng Chạp), làng cử một nhóm trai đinh khoẻ mạnh đi tìm chọn những cây tre to, đẹp nhất và không bị sâu bệnh về để dựng cột đu. Cây đu thường được dựng ở khu bãi đất rộng trước sân đình, chùa của làng. Cây đu được cấu tạo gồm 4 cây tre lớn tạo thành 2 trụ đu, bàn đu và thượng đu. Thượng đu làm bằng thanh tre ngang nối 2 phần trụ đu với nhau. Tay đu là 2 cây tre già, nhỏ vừa với tay cầm và được chốt rất chắc chắn để người đu cầm được khi đu, bàn đu là chỗ để người chơi đặt chân đứng lên đó. Có nhiều cách đu nhưng phổ biến nhất vẫn là đu đơn và đu đôi; đu đơn là đu một người, đu đôi là đu hai người. Đu đơn nữ thường thể hiện sự nhịp nhàng, nhẹ nhàng và duyên dáng của người chơi, đu đơn nam thường thể hiện sự khoẻ mạnh, bay bổng và thường đu cao tít lên. Đu đôi gồm có đôi nam, đôi nam nữ. Tuy nhiên đẹp nhất, hấp dẫn và thích thú nhất vẫn là chơi đu đôi nam nữ, bởi giữa đất trời mùa xuân, vạn vật, hoa cỏ đang khoe sắc đua hương, những đôi trai gái đang độ tuổi xuân thì đều phơi phới đam mê muốn kết duyên, tìm bạn. Chơi đu đôi nam - nữ thể hiện rất rõ quan niệm cổ xưa có âm -dương, trời - đất, núi - sông, nam - nữ giao hoà… khiến cho cảnh vật, không khí ngày xuân thêm bay bổng, nhịp nhàng và hứng khởi hơn. Hai người lên đu quay mặt vào nhau, dùng tay vịn thân đu, dùng sức nhún từ đôi chân đẩy cho đu bay bổng, càng vượt cao càng hay và giật giải treo trên ngọn đu. Nhiều nơi treo giải thưởng ở ngang ngọn đu để người đu giật giải. Nhún đu cũng là một sinh hoạt giao đãi tình cảm của trai gái. Chơi đu là trò chơi mang tính phổ biến và dân dã ở nhiều vùng nông thôn, không phân biệt đẳng cấp, giới tính, lứa tuổi…, ai cũng có thể tham dự. Chính vì vậy, trò chơi này luôn thu hút đông người tham gia, cổ vũ làm không khí ngày xuân ở những làng quê thêm sôi động, vui tươi. Không khí đua tài náo nhiệt của các trò chơi dân gian trong lễ hội đầu năm còn diễn ra ở khắp các vùng khác trong tỉnh như: xã Kiến Xương có trò vần củ chuối, đấu cờ người; xã Đông Hưng có trò ném pháo đất, cơm thi - bắt vịt… Mặc dù phần thưởng dành được trong những cuộc chơi ngày Xuân có giá trị kinh tế chẳng đáng là bao nhiêu nhưng người chơi nào cũng cố gắng hết sức để giành được giải thưởng cao nhất, vì theo quan niệm dân gian nếu giành giải thưởng đầu xuân năm mới thì sẽ gặp được nhiều điều may mắn trong năm đó. Cứ mỗi dịp tết đến, xuân về nam thanh, nữ tú trong làng Tống Vũ quê tôi lại rủ nhau chọn lựa những cây tre ưng ý, tìm những con vịt to khoẻ, những mẻ gạo ngon để chờ ngày khai hội đình làng. Ông Trần Văn Tín, Trưởng ban Văn hóa xã Vũ Chính, tấm tắc: “Qua các trò chơi dân gian ở mỗi lễ hội giáo dục tinh thần đoàn kết tình làng nghĩa xóm của người dân quê tôi, dù cuộc sống hiện đại với nhiều trò chơi công nghệ cao nhưng đã là con em xã Vũ Chính thì dù đi làm ăn nơi đâu, đến ngày tết cũng tha thiết nhớ về quê hương, nhớ về các trò chơi dân gian đã gắn bó với họ suốt thời thơ ấu…”. Bởi thế mà đến ngày nay, các trò chơi dân gian ấy vẫn được duy trì và ngày càng được tổ chức phổ biến ở nhiều vùng miền khác trên cả nước như: Nam Định, Bắc Giang, Hải Dương… Ngọc Hà, http://www.anhp.vn
-
Đại thành tựu giả Naropa Theo cuốn “Cây Tích Trượng Khai Tâm Nhãn và Tiêu Trừ Màng Vô Minh” (cuốn sách tóm tắt tiểu sử các đời hóa thân chuyển thế của Pháp Vương Gyalwang Drukpa), Đại Thành Tựu Giả Naropa đản sinh khoảng năm 956 sau CN và viên tịch khoảng năm 1050 sau CN. Tuy nhiên, nhiều nguồn tư liệu khác lại cho rằng Ngài sống vào khoảng từ năm 1016 tới 1100 sau CN. Naropa đản sinh trong một gia đình hoàng tộc ở xứ Bengal, Ấn Độ. Phụ thân Ngài là Shantivarman, tộc trưởng của vùng, còn mẫu thân là Srimati. Ngay từ khi mới lên tám, lòng khao khát tìm cầu khai mở tâm linh của Ngài mạnh mẽ đến mức, Ngài đã lên đường đi Kashmir (một trong những chiếc nôi tu học Phật pháp trong lịch sử) để học đạo từ đạo sư Gaganakirti. Ngài đã được đạo sư thụ tam quy ngũ giới. Naropa đã ở lại Kashmir trong ba năm để tu học giáo lý và triết học Phật pháp từ nhiều đạo sư. Cuối cùng, Ngài đã trở thành một học giả trứ danh. Sau khi trở về nhà đã có rất nhiều đệ tử theo học và tôn kính Ngài là đạo sư. Ba năm sau khi trở về nhà từ chuyến tham học Phật Pháp tại Kashmir, Naropa đã bị cha mẹ ép buộc phải cưới công chúa Bà la môn là Vimaladipi (tên đẳng cấp của nàng là Niguma). Mặc dù, họ sống hạnh phúc nhưng Naropa luôn nhất tâm hướng tới việc dành trọn cuộc đời cho việc tu tập tâm linh trong môi trường tự viện ngày càng trở nên mạnh mẽ còn Niguma cũng bắt đầu thực hành tâm linh một cách cơ bản. Sau tám năm thành thân, hai người đã quyết định chia tay và thọ giới tu tập. Sau đó Niguma trở thành một trong những đệ tử cao cấp nhất của Naropa và trở thành người đồng hành tâm linh. Bà đã phụng sự Naropa trong thời gian Ngài sống ở Pullahari, Kashmir. Sau khi dời bỏ cuộc sống gia đình, Naropa đã tới nơi ẩn cư Anadarama, tại đây Ngài đã được phương trượng Buddhasarana và bậc thầy Jnanaprabha truyền giới Sa di. Trong ba năm, Ngài đã tu học với hai đạo sư, Ngài đã tinh thông triết học Mật thừa và Đại thừa. Sau đó, Ngài ở lại Pullahari trong sáu năm và đã viết một vài bộ luận giải về Guhyasamajatantra, Abhidharma – uttaratantra, Samvara – udbhava và Hevajratantra, Ngài soạn nhiều tác phẩm dựa trên giáo lý Phật Pháp. Pullahari sau này trở thành một trong những nơi triều bái thánh địa quan trọng trong truyền thống Phật giáo Tây Tạng. Bởi vì đó là một trong những nơi mà Marpa đã thụ nhận giáo huấn khai thị từ Naropa. Sau khi ở Pullahari, Naropa đã tới đại học Nalanda. Tại đây với trí tuệ, tài hùng biện và sự hiểu biết tâm linh của mình, Naropa đã được phong làm viện trưởng đại học Nalanda. Ngài cũng trở thành vị “Bảo Hộ Trấn Cửa Phương Bắc”. Trong suốt tám năm cư trú tại Nalanda, Ngài đã thường phải đối mặt với những cuộc tranh biện khó phân thắng bại với Tirthikas, và Ngài luôn giành phần thắng trong tất cả những cuộc tranh biện đó. Vào thời gian này, ngài được tôn kính là Mahapandita Ahbaya Kirti (Tiếng Tạng là Jigme Dragpa). Những năm tháng của Naropa tại đại học Nalanda hầu hết là tham dự vào những hoạt động tri thức tới tận khi một người phụ nữ già và xấu – hiện thân chân thực của Vajra Yogini đã xuất hiện trước Ngài. Bà đã giúp Ngài nhận ra rằng, Ngài vẫn chưa thể đánh đổ hết những hiểu biết sai lầm và tà kiến trên con đường tâm linh của mình. Bà đã khai thị rằng Naropa nên tìm cầu bậc đạo sư Tilopa tiền định nếu Ngài mong nguyện đạt được Giải Thoát Tuyệt Đối. Sau lần hạnh ngộ này, Naropa đã rời Nalanda, Naropa đã nhiệt thành tìm cầu đấng Tilopa, đại đạo sư có thể giúp Ngài chứng ngộ tự tính bản tâm tuyệt đối. Sau bao nhiêu thử thách cuộc hành trình hướng về phương đông, cuối cùng Naropa đã hạnh ngộ được căn bản thượng sư tiền định Tilopa. Naropa đã phải vượt qua 12 thử thách lớn, 12 thử thách nhỏ để tịnh hóa ác nghiệp và những ám chướng. Nhờ thụ nhận sự gia trì vĩ đại từ Tilopa và thành tựu tịnh hóa của chính mình, Naropa đã chứng ngộ bản tâm quang minh hỷ lạc, thể nhập cảnh giới Kim Cương Trì. Sau khi đã thành tựu chứng ngộ siêu việt, Naropa đã truyền dạy Phật Pháp cho vô số đệ tử ở rất nhiều nơi, đặc biệt tại vùng Kashmir và Zanskar, nơi Ngài kiến lập rất nhiều tự viện. Theo như Pháp Vương Gyalwang Drukpa đời thứ XII, Sani cũng là một thánh địa, nơi đức Naropa đã bay lên không trung thành tựu giác ngộ trong khi Ngài đang khoác Sáu Sức Trang Hoàng Bằng Xương nổi tiếng. Naropa đã thiền định trong một am thất nhỏ đối diện với tháp Kanishka, Ngài đã truyền dạy Phật Pháp cho người dân vùng Sani trong rất nhiều năm. Khi thời điểm Naropa phải dời vùng Sani đã tới, người dân địa phương đã chân thành thỉnh Ngài an cư tại đây. Đức Naropa đã lấy ra bức tượng Kim Cương Trì bằng vàng khỏi lọn tóc trên đỉnh đầu và nói rằng: “Không có sự khác biệt giữa Kim Cương trì và ta. Hãy tôn kính bức tượng Kim Cương Trì này như là các con đang tôn kính ta, các con sẽ nhận được ân phúc gia trì như nhau không khác”. Đức Naropa đã rời đi sau khi trao bức tượng bằng vàng cho người dân địa phương. Ngày nay bức tượng này vẫn còn được giữ và yểm tâm trong một bức tượng Naropa rất đặc biệt, bức tượng này đã được trưng bày mỗi năm một lần cuối tháng 7 vào đêm trước của đại pháp hội Naro-Nasjal. Người dân từ tất cả vùng thung lũng Zanskar đều tham dự pháp hội này. Vào khoảng thời gian pháp hội diễn ra, chư tăng từ tự viện Bardan cử hành những vũ điệu mặt nạ cùng những nghi lễ cúng dường. Đức Naropa đã giành 12 năm phụng sự bản sư Tilopa tới tận khi Tilopa viên tịch. Người ta cho rằng chính Tilopa đã sống tới tận năm 1050 hoặc 1100 SCN (theo nhiều nguồn tư liệu khác nhau) và sau đó Ngài đã thị tịch hóa quang ánh sáng cầu vồng không để lại nhục thân. Tilopa và Naropa đều được công nhận là hai trong số 84 đại thành tựu giả trong lịch sử Phật giáo. Marpa là một trong những đại đệ tử chân truyền thành tựu của Naropa. Ngài là một đại dịch giả, là bậc truyền nhân kế tục Naropa trong dòng truyền thừa đã đem toàn bộ giáo pháp chuyển giao vào Tây Tạng. http://www.drukpacouncil.org
-
Nhớ tuổi thơ quá ! Bắn bi. (Ảnh trong chủ đề Ha Noi) Trò nhảy nụ xoè hoa. (Ảnh trên trang cá nhân Lê Hà Phương) Trò rồng rắn lên mây. (Ảnh trên trang Ấu thơ trong tôi là...) Trò ô ăn quan. (Ảnh trên trang cá nhân Annabel Nguyen) Ngày bé được mẹ/bà chở đi chợ, ngồi trong giỏ xe. (Ảnh trong chủ đề Ha Noi) Một trong những chiêu trò "dữ dội" nhất tuổi thơ: bắt chuồn chuồn cắn rốn để biết bơi. (Ảnh trên trang cá nhân Bống Xinh) Trò chơi trốn tim, ai đã từng "ti hí" như thế này? (Ảnh trên trang cá nhân Hưng Nguyễn) Chọi cỏ gà. (Ảnh trên trang Ha Noi) Tết hình lá dứa, lá cọ. (Ảnh trên trang Ha noi) Chiếc phiếu bé ngoan đơn giản, in hình bông sen hoặc hình Bác Hồ, cùng chữ "Bé Ngoan" rất có thể sẽ chỉ còn là kỷ niệm. (Ảnh trên trang Ha Noi) Kẹo kéo. Ngày trước, trẻ em đem đổi nhôm đồng, sắt vụn và giày dép hỏng lấy kẹo. (Ảnh đăng trên trang cá nhân Nguyễn Hiệp) Nhớ kẹo kéo xưa. Chương trình quen thuộc dành cho trẻ em tuổi 8X, phát sóng vào giờ ăn cơm buổi tối. (Ảnh trên trang cá nhân Việt Anh) Lớn lên, nhiều bạn trẻ vẫn đi tìm những lý giải cho hồi ức tuổi thơ.
-
Trò chơi ném còn Quả "còn" hình cầu to bằng nắm tay trẻ nhỏ, được khâu bằng nhiều múi vải màu, bên trong nhồi thóc và hạt bông (thóc nuôi sống con người, bông cho sợi dệt vải). Quả còn có các tua vải nhiều màu trang trí và có tác dụng định hướng trong khi bay. Sân ném còn là bãi đất rộng, ở giữa chôn một cây tre (hoặc vầu) cao, trên đỉnh có “vòng còn” hình tròn (khung còn), khung còn một mặt dán giấy đỏ (biểu tượng cho mặt trời), mặt kia dán giấy vàng (biểu tượng cho mặt trăng). Cả mặt giấy là biểu tượng cho sự trinh trắng của người con gái. Người chơi đứng đối mặt với nhau qua cây còn, ném quả còn lọt qua vòng còn trên đỉnh cột là thắng cuộc Mở đầu cuộc chơi là phần nghi lễ, thầy mo dâng hai quả còn làm lễ giữa trời đất, cầu cho bản làng yên vui, mùa màng tươi tốt, nhà nhà no ấm. Sau phần nghi lễ, thầy mo cầm hai quả còn đã được “ban phép” tung lên cho mọi người tranh cướp, khai cuộc chơi ném còn năm đó. Các quả còn khác của các gia đình lúc này mới được tung lên như những con chim én. Trước khi khép hội, thầy mo rạch quả còn thiêng (đã được ban phép) lấy hạt bên trong, tung lên để mọi người cùng hứng lấy vận may. Người Tày quan niệm hạt giống này sẽ mang lại mùa màng bội thu và may mắn, vì nó đã được truyền hơi ấm của những bàn tay nam nữ (âm - dương). Ném còn làm cho người trong cuộc hào hứng, người đứng ngoài hò reo cổ vũ khiến không khí cuộc chơi rất sôi nổi, hấp dẫn. Ném còn là trò chơi không những thu hút nam nữ thanh niên mà nhiều người lớn tuổi cũng rất thích. Trò vui này mang ý nghĩa phồn thực, cầu mong giao hoà âm - dương, mùa màng tươi tốt. Thiếu nữ chơi trò ném Còn truyền thống. Đánh quay (đánh cù) Gọi là đánh quay, chơi quay, đánh cù. Trẻ em miền Nam gọi là chơi đánh bông gụ hay chơi gụ. Đánh quay là trò chơi dành cho con trai. Chơi thành nhóm từ 2 người trở lên, nếu đông có thể chia thành nhiều nhóm. Một người cũng có thể chơi quay, nhưng nếu chơi nhiều người và có nhiều người ở ngoài cổ vũ thì sẽ sôi nổi và hấp dẫn hơn nhiều. Đồ chơi là con quay bằng gỗ hay sừng hình nón cụt, có chân bằng sắt. Dùng một sợi dây, quấn từ dưới lên trên rồi cầm một đầu dây thả thật mạnh cho quay tít. Con quay của ai quay lâu nhất, người đó được. Có thể dùng một con quay khác bổ vào con quay đang quay mà nó vẫn quay thì người chủ của con quay đó được nhất. Trẻ nhỏ đánh quay Trổ tài đánh quay