Thiên Đồng

Hội viên
  • Số nội dung

    6.278
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    75

Everything posted by Thiên Đồng

  1. Cứ theo như ông Vũ thế khanh thì cái quạt máy đang chạy vù vù thì cũng là...mọi người bị tự kỷ hết nên mới thấy nó quay. Còn khoa học chứng minh là cúp điện rồi thì nó không thể quay nữa. Hoặc chèn cái cây ngang cánh quạt rồi bật điện, bị chèn nên quạt không quay thì ô hô lên. Úi A khoa học vạn tuế, chèn cái cây vô nên quạt không quay, quạt quay do tự kỷ mà quay, Úi A!!!Thiên Đồng
  2. Đánh Khăng Một trò chơi của trẻ nhỏ. Hai bên đứng đối diện nhau. Một người cầm hai đoạn tre, một ngắn một dài. Đào một hố nhỏ, dài dưới đất, đặt đoạn tre ngắn lên miệng hố, lấy thanh tre dài hất đoạn tre ngắn lên cao đánh thật mạnh văng ra xa. Nếu người đứng đối diện bắt được thanh tre, người đó sẽ được vào chơi thay Đánh khăng, còn gọi là chơi khăng là một trò chơi dân gian của Việt nam. Đây là trò chơi tập thể ngoài trời chủ yếu dành cho các bé trai và được thấy ở nhiều sắc tộc trên khắp lãnh thổ Việt nam. Dụng cụ : Dụng cụ đánh khăng rất đơn giản, bộ khăng chỉ gồm hai thứ là cái và con hay là cọn, có nơi gọi là gà mẹ và gà con. Cái và con là những thanh gỗ hình trụ có kích thước và trọng lượng phù hợp với người chơi. Cái có độ dài vừa phải tùy theo người chơi và thường từ 30cm đến 40cm, đường kính khoảng 2cm đến 3cm. Con có chiều dài phổ biến trong khoảng từ 1/3 đến 1/2 chiều dài của cái. Dụng cụ đánh khăng thường được làm từ những loại gỗ không quá nhẹ để có thể bay xa nhưng không quá nặng dễ gây nguy hiểm khi chơi. Trẻ em thường kiếm những cành tre đực hay cành cây có đường kính và chiều dài thích hợp và chặt ra làm dụng cụ đánh khăng. Sân chơi : Đây là trò chơi tập thể nên sân chơi thường là bãi trống, đường đi...có mặt bằng tương đối phẳng. Sân chơi hình chữ nhật, kích thước linh hoạt và diện tích tùy thuộc số lượng người chơi để có mật độ hợp lý. Một đầu của sân chơi khoét một lỗ nhỏ hình chữ nhật có một cạnh ngắn hơn hướng về phía kia của sân chơi, gọi là lò. Trẻ em tường dùng chính dụng cụ chơi để khoét lò trên nền đất, nếu gặp nền sân chơi cứng thì hay dùng một hoặc hai miếng gạch, đá kê song song và sát nhau làm lò. Chiều rộng của lò hoặc khoảng trống giữa hai miếng gạch, đá...hơi nhỏ hơn con một chút để có thể đặt con nằm ngang lên trên lò. Cách lò một cự ly hợp lý (thường từ 2m đến 3m hoặc quy ước chặt chẽ hơn là 10 lần chiều dài của cái...) kẻ một vạch ngang để làm mốc. Trường hợp sân chơi có không gian quá rộng thì kẻ hai vạch biên dọc từ lò đến cuối sân để giới hạn chiều rộng. Những chỗ chơi có biên dọc sẵn có như đường đi, sân dài vừa phải rất thuận tiện cho đánh khăng. Kỹ thuật : Kỹ thuật đánh - Khấc: là kỹ thuật một tay cầm cái, tay kia đặt con tiếp xúc với cái sau đó buông tay giữ con ra đồng thời dùng cái hất con lên rồi đánh nhẹ cho con nảy trên không với mục đích càng được nhiều lần càng tốt cho đến khi con bị rơi xuống đất. Mỗi lần cái chạm vào con tính là một lần khấc. Trong kỹ thuật khấc có thể dùng cái đánh vào điểm bất kỳ của con hay yêu cầu cao hơn là chỉ đánh vào đầu mút của nó (nếu đánh theo yêu cầu này thì khi chuẩn bị phải để con theo chiều thẳng đứng, một đầu tiếp xúc với cái). - Cầy hay còn gọi là dích (ở miền Trung): là kỹ thuật để con nằm ngang trên lò rồi dùng cái đặt xuống dưới con để hất con bay đi. “Dân ta” hay gọi là con ki lô - Mắm hay phạt: là kỹ thuật cầm cả cái lẫn con bằng một tay sau đó tung con lên rồi dùng cái đánh con bay đi. - Gà: là kỹ thuật khó nhất của đánh khăng, con được đặt nằm dọc theo lò, một đầu (thường là đầu hướng về phía cuối sân), ghếch lên thành lò; người chơi dùng cái gõ vào đầu ghếch lên sao cho con nảy lên; trong khi con chưa chạm đất, dùng cái đánh con bay đi. Nếu dùng gạch, đá... làm lò thì kê con ghếch một đầu lên miếng gạch để thực hiện kỹ thuật này. Luật chơi Mục tiêu để giành chiến thắng: thực hiện lần lượt các kỹ thuật đánh để giành được càng nhiều điểm càng tốt hoặc đạt số điểm mục tiêu trước đối phương. Trò chơi này dành cho hai người trở lên, có thể chơi theo thể thức từng người thi đấu vòng tròn tính điểm hoặc chia thành hai đội chơi có số lượng người bằng nhau và tính điểm đồng đội bằng cách cộng điểm của các thành viên. Để xác định người chơi hoặc đội chơi được quyền đánh trước, những người tham gia thường thực hiện kỹ thuật khấc, người chơi có số lần khấc nhiều hơn được quyền đánh trước. Nếu chơi đồng đội thì mỗi đội cử ra một đại diện để khấc. Một cách xác định quyền đánh trước khác là thay vì thực hiện kỹ thuật khấc sẽ thực hiện kỹ thuật mắm, người đánh được con bay xa hơn có quyền đánh trước. Thể thức ghi điểm: người chơi khi đến lượt sẽ lần lượt thực hiện các kỹ thuật cầy, mắm cho đến gà để ghi điểm tích lũy. Khi đánh cầy hoặc gà, con đặt tại lò còn ở động tác mắm, người chơi cầm con đứng ở sát vạch ngang làm mốc để đánh. Khi một người tìm cách ghi điểm, đối phương sẽ cố gắng cản phá. Những người cản phá đứng ở phía trên vạch ngang làm mốc theo hướng đánh và bao gồm mọi người chơi còn lại nếu chơi theo thể thức cá nhân vòng tròn tính điểm hoặc toàn đội đối phương nếu chơi đồng đội. Điểm của một cú đánh chỉ có thể được tính khi con thoát khỏi sự cản phá và dừng lại trên mặt đất ở phía trên vạch ngang làm mốc theo hướng đánh. Trường hợp bên cản phá bắt được con khi nó chưa chạm đất thì người đánh không được tính điểm cho lần đánh đó và mất lượt chơi. Trường hợp những người cản phá bắt được con khi con đã chạm đất rồi nảy lên thì người bắt được sẽ thực hiện một cú nhảy ba bước về phía lò, điểm tiếp đất sẽ tính là điểm con dừng lại trên mặt đất (đương nhiên nếu điểm tiếp đất vượt quá vạch ngang làm mốc thì con cũng coi như chưa qua vạch). Sau khi đã thực hiện xong kỹ thuật có thể ghi điểm, người đánh đặt cái nằm ngang trên lò. Tại điểm con dừng lại trên mặt đất, một trong những người cản phá sẽ dùng con ném về phía cái sao cho nó bật ra khỏi lò hoặc con dừng lại càng gần lò càng tốt. Nếu cái không bị ném bật ra khỏi lò hoặc con dừng lại cách lò một khoảng dài hơn chiều dài của cái thì cú đánh mới được tính điểm cho người đánh. Trường hợp một trong những người cản phá bắt được con khi nó chưa chạm đất thì điểm lại được tính cho người bắt được. Cách tính điểm như sau: Ở động tác cầy và mắm: người đánh dùng cái để đo từ lò đến điểm con dừng trên mặt đất, được bao nhiêu lần thì ghi được bấy nhiêu điểm. Ở động tác gà: người đánh dùng con để đo từ điểm con dừng lại trên mặt đất về đến lò, được bao nhiêu lần thì ghi được bấy nhiêu điểm. Nếu trong bất kỳ lần đánh nào, người thực hiện không ghi được điểm thì phải nhường quyền đánh cho người kế tiếp. Một số tập quán của trò chơi - Khi người đánh chuẩn bị thực hiện một cú mắm hay gà thường hô to một khẩu lệnh có cấu trúc cơ bản là: KTD + SD!, trong đó KTD là kỹ thuật đánh mà người đó chuẩn bị thực hiện (mắm hay gà); SD là số điểm mà người đó đã ghi được. Ví dụ một khẩu lệnh đầy đủ là: Mắm 30!, người đánh chỉ bắt đầu thực hiện cú đánh khi những người cản phá đã đồng thanh hô trả lời với hàm ý đã sẵn sàng (như hô bắt hoặc bắt rồi, đón rồi). Khẩu lệnh cơ bản có thể được nối dài thêm như mắm 30, bắt chưa? hay mắm 32, đón chưa?... Nếu người đánh hô nhầm một trong hai thành phần cơ bản của khẩu lệnh có thể bị mất lượt. - Người ghi được điểm là người tiến hành đo để tính số điểm và cho đỡ tốn thời gian, người đó thường đo khá nhanh theo cách liên tục xoay đầu mút của cái hoặc con trên nền đất. Vì thực hiện đo nhanh như thế, con hoặc cái không tiếp xúc cả chiều dài với mặt đất mà chỉ có đầu mút chạm đất nên dễ xảy ra trường hợp khoảng cách đi qua sau một lần xoay ngắn hơn chiều dài của dụng cụ đo đo đó điểm được tính nhiều hơn thực tế. Kiểu đo này trẻ em gọi là đo chân chó. Để đảm bảo tính công bằng, đối phương sẽ giám sát việc đo và nhắc nhở hoặc yêu cầu đo lại nếu tình huống đo chân chó xảy ra. Một cách thuận tiện hơn là trước khi cuộc chơi bắt đầu, ngoài vạch kẻ ngang làm mốc, người chơi sẽ dùng cái đo một cách cẩn thận rồi kẻ tiếp một số đường song song và cách đều vạch mốc những khoảng tương đương với 5 hoặc 10 lần chiều dài của cái. Khi tính điểm chỉ cần đo đến vạch gần nhất rồi tính toán ra số điểm (điểm sau cú đánh gà được tính căn cứ vào tỷ lệ giữa chiều dài của cái và con hoặc quy ước một tỷ lệ nào đó cho dễ tính toán). - Phần thưởng cho bên thắng cuộc: những người thắng cuộc được nhận phần thưởng thỏa thuận từ trước và trong trò chơi này một phần thưởng rất thú vị hay được dùng là những người thua phải cõng những người thắng cuộc trên lưng. Đại diện những người thắng cuộc thực hiện một cú mắm không có cản phá, điểm con dừng lại trên mặt đất cho đến vạch ngang làm mốc chính là quãng đường những người thắng cuộc được cõng. Số lượt mà bên thua phải cõng bên thắng có thể thỏa thuận trước hoặc các đôi cõng nhau xuất phát đồng thời, khi về đến vạch ngang làm mốc, một đại diện bên thắng cầm con ném vào cái lúc này đã được đặt nằm ngang trên lò, nếu ném trúng thì lượt cõng lại tiếp tục hay bên thắng cuộc thực hiện một động tác mắm khác để xác định quãng đường mới. Biến thể Cũng như những trò chơi dân gian khác, đánh khăng có một số biến thể trong luật chơi: Khi người đánh thực hiện xong một động tác có thể ghi điểm, những người cản phá thay vì dùng con ném về phía cái đặt ngang trên lò sẽ ném về phía lò sao cho nó dừng lại càng gần lò càng tốt. Người đánh sẽ cầm cái đứng tại chỗ, sát vạch ngang làm mốc và tìm cách đánh vào con do đối phương ném nhằm đẩy nó ra xa lò để có thể ghi được nhiều điểm. Tuy nhiên thể thức này thường kèm theo điều kiện đối phương có quyền cản phá và nếu họ bắt được con thì điểm khi đó thuộc về đối phương. Khi thực hiện kỹ thuật gà, người đánh sau khi đã gõ cho con nảy lên có thể thực hiện động tác khấc không có chuẩn bị rồi mới đánh con bay ra xa. Số điểm (nếu có) sau khi xác định theo cách bình thường sẽ được nhân với số lần khấc để tính cho người đánh hoặc người bắt được con. Trong lần đánh gà, nếu người cản phá bắt được con khi con chưa chạm đất thì người đánh không những mất lượt chơi mà còn mất toàn bộ số điểm đang có trong lượt chơi đó. Khi đại diện bên thắng cuộc thực hiện kỹ thuật mắm để xác định quãng đường được cõng thì bên kia có quyền cản phá và nếu họ cản phá thành công, quãng đường sẽ bị rút ngắn lại hoặc việc cõng bị hủy bỏ. Các bài viết khác về đánh khăng -Về đồ chơi: Gồm "quân cái" dài tầm 30-35 cm (tại sao không chọn dài quá để tí nữa đến phần luật chơi em giải thích tiếp), và "quân con" dài 12-16 cm, cả cái và con to tầm ngón tay cái hoặc ngón chân cái người lớn (sau này theo lý thuyết "Sinh thực khí" thì nó cũng theo nguyên tắc "dùi trống"). Vật liệu thường dùng bằng tre hoặc gỗ (bằng gỗ thì phải nhà thằng nào có bố làm thợ mộc) và không thể thiếu một cái gọi là "lỗ khăng" - lỗ khăng này cũng theo nguyên tắc "Sinh thực khí" chứ không tả loằng ngoằng như cụ Sán. Thường ban đầu chỉ khoét hẹp hẹp - quá trình chơi nó sẽ "doãng" ra là vừa. Tiếp đến là tùy theo quy ước với nhau để vạch một đường các "lỗ khăng" là bao xa. -Cách chơi: Chia làm 2 đội, mỗi đội cử ra một thằng để "khấc" (dùng quân cái tâng quân con lên như kiểu tâng bóng), bên nào khấc được nhiều thì bên ấy chơi trước chứ không ai "oản tù tì" theo kiểu nhà quê thế bao giờ. Các động tác chơi gồm 3 động tác; +Đầu tiên là Cầy: Đặt quân con ngang miệng "lỗ khăng", người chơi khom lưng, chùng gối nửa xổm, nửa ngồi, hai tai cầm quân cái căn chính giữa 2 đùi, xiên xiên một góc 45o vào miệng "lỗ khăng" - nhẹ nhàng hay mạnh bạo tùy tính khí người chơi. Bắt đầu chơi thì người chơi miệng hô "lốc (không) cầy, chịu chưa", bên kia (bị chơi) chia quân đứng hàng ngang hay hàng dọc tính từ cái vạch trở đi để đón bắt quân con. Bên chơi hô xong, bên bị chơi đáp "chịu" thì bên chơi dùng hết sức bình sinh, mím môi, nín thở dùng lực từ bàn chân tiếp lên gối, dồn tới mông và hất (cũng có thể gọi là dập) mạnh một cái - lực từ mông sẽ ra chỗ giữa 2 đùi, truyền xuống quân cái và hất quân con đi, có người thì tì cái xuống lỗ là hất một nhát, có người thì nhấp nhấp vài ba nhát mới hất. Bên bị chơi đón nếu bắt được thì người chơi bị loại, không bắt được thì dùng quân con, đứng sát vạch kẻ và ném trúng quân cái người chơi đặt ngang "lỗ khăng" thì người chơi cũng bị loại. Không trúng thì người chơi tiếp tục chuyển sang động tác thứ hai là "Phạt". +Tiếp đến là động tác "Phạt": Người chơi đứng nghiêng với "lỗ khăng", quân cái nắm trên tay, ngón tay trỏ thò ra quặp lấy quân con, mặt xoay hướng với người bị chơi và hô "lốc phạt, chịu chưa" bên bị chơi hô chịu thì người chơi tung quân con ra rồi vụt quân cái vào quân con. Động tác này thường người bị chơi tìm cách né chứ không mấy khi dám thò tay ra bắt. Trúng tay có khi gãy ngón hoặc giả vào mặt, vào đầu thì cũng biêu đầu mẻ trán. Người bị chơi chỉ nhặt quân con lên rồi đứng sát vạch kẻ và ném tới chỗ người chơi, người chơi lại nhằm quân con đó vụt đi (hình như bọn Mỹ sang ta học mót món này về chế ra món bóng Chày), vụt đến đâu thì người chơi được đo bằng quân cái (vì thế không lên chọn dài quá) từ lỗ khăng đến đó. Tùy theo ban đầu quy ước với nhau bao nhiêu (50, 100, 150,....) là thắng để sang bước tiếp theo. Trong động tác này nếu người chơi vụt hụt trong lần 1 cũng mất quyền chơi, vụt lần do người bị chơi ném trả mà không lên được qua vạch, vọt về đằng sau lỗ khăng hoặc người bị chơi tóm được quân con cũng bị loại. +Tiếp đến động tác "Gà": cái này cụ Sán kể đúng chi tiết, động tác nhưng không có "hồn sinh thực khí" - đề nghị cụ vào kể lại. Và tất nhiên là lại đo, đủ số quy định thì chuyển sang "khấc" như lúc đầu để xác định món "thưởng" sau này. Khấc được bao nhiêu thì sẽ được "thưởng" bấy nhiêu. Số đo dư được chuyển tiếp sang động tác sau, tức là động tác "Gà" nếu đo đủ từ khi Phạt và "Cầy" nếu đo đủ sau khi Gà. Lúc này nếu người bị chơi bắt được quân con thì cả món thưởng, số dư đều mất hết và người chơi cũng mất lượt (chỗ này hơi giống giống quay phải ô "mất điểm" trong trò chơi "Chiếc nón ký diệu"). -Về món "Thưởng" thì người chơi dùng động tác Phạt, vụt quân con đi đến đâu thì bên bị chơi phải cõng bên chơi số vòng từ quân con đến lỗ khăng bằng số bên chơi khấc được. Trò này trong Hội làng thường có cả trai, cả gái tham gia. Trai thì đóng khố, cởi trần, gái thì váy suông, yếm thắm. Biến tấu 01: Một đội chơi, đội còn lại dàn 1 hàng ra phía trước, sau vạch quy định để đón bắt con khăng. - Gẩy: Đặt con khăng ngang lỗ, dùng mũi quân cái gẩy đi càng xa vạch càng tốt. Bước này dễ bị đội bạn bắt được nhất, vì lực không mạnh. - Ngoài: Nắm quân cái giơ lên theo chiều thẳng đứng bằng ba ngón giữa, áp út và út, còn ngón trỏ và cái chĩa ra phía trước, đặt con khăng lên hai ngón này rồi tung lên dùng con cái đánh mạnh vào cho bay càng xa càng tốt. - Trong: Tương tự như ngoài, lúc này con khăng được đặt trên mu bàn tay, rồi cũng làm động tác tung lên oánh cho bay xa. - Mắm: Cầm con cái bằng ba ngón tay, ngón trỏ và cái giữ con khăng theo chiều chéo với con cái rồi cũng tung lên oánh thật lực. Trong 4 động tác trên, khi thực hiện xong đều phải đặt con cái nằm ngang lỗ dưới đất, đội bạn sẽ dùng con khăng ném, nếu trúng người chơi sẽ bị out. Trong trường hợp đội bạn bắt được con khăng ngay trên không, lập tức sẽ ném trả lại, người chơi lúc này phải cố gắng dùng con cái đánh trúng con khăng bật ngược lại, nếu không cũng sẽ bị out. Nếu qua được 4 bước trên, bạn sẽ tới bước sau: -Nhị: Cũng vẫn cầm cái bằng ba ngón tay, 2 ngón kia thì nắm một đầu con khăng, đặt theo chiều vuông góc với con cái, rồi cũng tung lên oánh cho bay thật xa. Bay xa cỡ nào thì đội bạn phải cõng mình xa chừng đó. Trong quá trình đánh, nếu đội bạn bắt được con khăng thì người chơi bị out, để cho đồng đội khác đánh, cứ thế cho hết lượt. Kiểu thứ hai chỉ có 2 bước là Gẩy, và Kề. Kiểu này 2 đội sẽ thoả thuận một con số cụ thể nào đó như cụ Hút đã trình bày. - Kề: Để con khăng xuống cái lỗ hướng lên trên một góc khoảng 30 độ, đầu nhô lên khỏi mặt đất một chút, dùng con cái đánh nhẹ vào đầu con khăng cho nẩy lên khỏi mặt đất mắm môi mắm lại phang một phát thật mạnh. Khi con khăng rơi xuống đất, người chơi sẽ dùng con cái đo từ lỗ tới điểm rơi (Thường thì ước lượng thôi, chứ ai mà cặm cụi đo như thế, trừ khi 2 bên không thoả thuận được, ví như em đánh đến khoảng cách ấy, em không đo mà ra giá 50 chẳng hạn, nếu đội bạn đồng ý thì chơi tiếp, còn không thì phải đo cho chính xác). Cứ thế hai bên thay nhau chơi, bên nào đạt đến con số ấy trước thì sẽ thắng. Biến tấu 02 "Ốc vít ốc tán" (ngoài bắc gọi là đánh khăng) hình như có phong phú hơn tí !!!. Gọi là Ốc vì khi khởi đầu trò chơi, chưa có điểm thì đọc là "ốc" (có nghĩa là zê rô, hay ốc tọt). Ví dụ như người chơi trước khi bắt đầu, thay vì phải hô (báo cho đội bạn chuẩn bị phản ứng) lung tung thì chỉ cần hô: "ốc vít" (zéro, vít nhé) hay "35 tán" (35 điểm, tán nhé). Đầu tiên: Cầy (chắc đọc trại của Gẩy) Nấc 2: mắm (cầm con tung lên rồi vụt). Nấc 3: gà. Chỗ này biến tướng đi nhiều thứ. Khi đạt tới số điểm qui định thì ngoài chặt gà còn được chặt chó, lợn, voi bằng cách đặt khăng con như gà nhưng phải luồn tay cầm khăng mẹ qua háng. Có 3 kiểu luồn: - từ sau ra trước, hệ số nhân 2, gọi là lợn; - từ trước ra sau, hệ số 3, gọi là chó; - vòng tay qua 2 chân mà chặt thì gọi là voi, quả này nhân 5, lại đo bằng khăng con. Khi tới điểm đối phương thua phải cõng thì có 2 cách kiếm số vòng thưởng: - Khấc khăng: dùng khăng mẹ khấc khăng con, bao nhiêu chạm thì bấy nhiêu vòng. - Chặt gà: (ai can đảm thì chặt lợn, chó, voi). Khăng không qua vạch thì coi như mất thưởng; nếu bị bắt thì còn bị phạt ngược, kiểu bị chặt tứ quí. Nếu đối phương không bắt được thì ném về lồ, bên chặt gà có quyền bảo vệ lồ; số gậy từ khăng con đến lồ sẽ là số vòng phải cõng. Kĩ thuật đo khăng cũng là cách chơi ăn gian. Phải ngoáy tay sao cho khăng bước ngắn hơn độ dài của nó thì sẽ được nhiều điểm hơn. Biến tấu 03: Các bước chơi gồm có: Vít: tức "cầy" hay "gẫy" hay "Tậm Tịt' Tán. Gà: Giống như các nơi khác cũng gọi là "gà". Lòn trôn: Hai tay cầm cả quân cái lẫn quân con, luồn tay qua háng vứt quân con qua đầu rồi dùng quân cái tán. Gác vai: Gác quân cái trên vai, lòn quân con qua háng, vứt qua đầu rồi chụp quân cái và tán. Đội đầu: Gác quân cái trên đầu. Xỏ mũi: Gác quân cái ngang lỗ mũi (phải ngửa mặt lên trời) Hết động tác xỏ mũi mà vẫn còn sống thì quay lại chơi từ đầu băng bước "vít". Riêng phần phạt thì nếu tán 3 lần, đối phương cõng ko nỗi, ko về tới đích được thì phạt bằng "u", cứ 3 lần tán, đối phương phải vừa chạy vừa "u", bị đứt hơi chỗ nào là cứ nhè chỗ đó mà tán tiếp (khi cõng cũng vậy). Ở mức Cầy, khi người chơi bên bắt mà bắt được coi như là out. Nếu không bắt được thì bên đánh đặt ngang con "mẹ" khăng trên miệng lồ, bên bắt cử người ném tài nhất dùng con "con" khăng ném vào con mẹ. Nếu ném trúng con mẹ văng ra thì bên đánh cũng thua, hoặc nếu ném con con chui trúng lồ cũng thua. Còn nếu không thì tùy vào độ dài của của đoạn ném không trúng cách lồ mà đo con "mẹ" tính điểm. Điểm lên "hạng" thì thỏa thuận lúc đầu, và đến đủ điểm nhưng phải đủ tất cả lượt người đánh qua thì mới được lên. Khi từ "hạng" O Cầy lên hạng O Mắm thì người đánh chơi như các cụ đã tả. Các tính điểm là ném về Lồ, càng gần Lồ càng tốt. Tính điểm là đo khoảng cách "con khăng" tới Lồ. Khi đã lên tới Gà thì cũng như các cụ đã nêu. Khi chơi có thể quy định chơi có tụt lồ hay không khi người bắt ném "con khăng" về Lồ và người đánh dùng "mẹ khăng" vụt "con khăng" bay đi. Nếu bằng ngang Lồ hặc tiến lên phía trước thì được cộng điểm theo cách đo. Còn tụt Lồ thì bị đo và trừ điểm trong số điểm đã có. Như vậy thì mới có cái kỹ thuật đo và xảy ra cãi nhau của các bên chơi. Khi cộng thì đo sao cho ngắn hơn "mẹ khăng", còn trừ thì sao cho dài hơn "mẹ khăng". Khi đã lên "hạng" Gà thì cũng phải dạt tới một số điểm thì bắt đầu được cõng. Các cách hô khi chơi: O cầy bắt chưa -----> bắt O Mắm bắt chưa -----> bắt O gà bắt chưa -----> bắt Hoặc O tí cầy, mắm, gà Khi bắt được thì mất lượt chơi cũng như mất cả số điểm và quay về chơi từ cầy. Sưu tầm
  3. Nếu Có Phật thì dĩ nhiên phải có Ma. Nếu không có Ma mà chỉ có Phật thì vô lý. Nếu chỉ có Phật không thôi hay chỉ có Ma không thôi thì lý thuyết Âm Dương Ngủ Hành sẽ sụp đổ và bỏ xó. Bởi vì lý nhị nguyên trong lý thuyết đó bị sai, bị phá vở do chỉ có một cực Âm mà không có Dương, hay chỉ một cực Dương mà không có Âm. Vô lý! Vậy thì, có Phật thì phải có Ma, có Ma tức là phải có Phật. Hoặc Không có Phật để nói đến Ma, không có Ma để nói đến Phật, chả có khỉ gì cả! Thiên Đồng
  4. Em hay rủ bọn trẻ cùng tắm sông. Nhảy ùm thật là khoái!!! Tụi mày theo phe tao! Canh chừng... thụt tụi nó!! Coi nè! Cho mầy chết! Ốc vít...ốc...tán!!! Ối trời! Mãi mê chơi nên quên cái bàn ủi Liên Xô còn ở nhà...Thôi về mau! Trò này em dùng để...bói. Bói xem em chạy về nhà có bị ăn đòn không? hix
  5. Cái truyền hình nhà em nó là hàng của Liên Xô, bền không thể tưởng, bây giò còn là không đụng hàng! Em tha hồ xem phim lúc 18g, nó có nhảy hình cà tưng hay "bi muỗi" thì vổ vài cái hay chỉnh ăng ten thì rỏ lại như xưa. Em nhớ bộ phim "Ngôi nhà trên thảo nguyên" Hắn bây giờ lớn thuộng và chắc có bồ rồi. Nhưng hồi đó thì hắn đóng trong phim "Đất phương Nam" trông ngáo ngáo thế nào ý! "Cô gái đại dương" này em thích lắm nha! Nữ ca sĩ- diễn viên lừng danh Mexico Verónica Castro khi trẻ, vai chính bộ phim "Người giàu cũng khóc". Em coi mà...cũng khóc.
  6. Hàng này hiện nay là hàng cổ, hiếm. Ngày xưa bấm mãi quên ăn cơm. Cái này ngon hơn Hic, gà của em chết rồi, vì quên cho nó ăn. huhu, game nuôi gà! Cái này không có điện tử gì, chỉ là hơi và nước nước, nhưng cũng khó chơi lắm nha! Chơi thì phải có ăn, em thích ăn cái này nè: Bao bì không bắt mắt nhưng...ngon! Bi giờ tim không có đâu, hàng hiếm đấy! Kem chuối là món tuyệt cú mèo, nhưng giờ không làm bẹp như thế này. Nhưng em thích bẹp như thế này cơ. Cái này ăn không với bột nêm, nhai rôm rốp cho vui miệng. Bây giờ chắc không cạnh tranh nỗi với vô số mì ơi là mì! Món này em nào cũng hí hửng đây. Giờ cũng có khi đi quán...nhậu, đôi khi người bán trình diễn nhảy Mai Cồ xong rồi mới mời mua. Do ăn vặt như thế nên chúng em phải có cách ngừa...giun
  7. Dường như ai cũng thuộc cái này. Viết HERO, món hàng VIP, oách không thể tưởng khi đeo vào túi áo, nhưng cẩn thận... kẻo bị chôm! Cái này khỏi chuốt, nhưng viết mạnh tay thì nó thụt vào. Cục gom này xài từ lớp 1 đến lớp 12 vẫn còn tốt, vào đại học...vẫn gom tốt chán lun! Nhưng gom, tẩy không được...tình yêu! Bóp nổ lốp bốp...thay cho pháo! Tròn tròn, mềm mềm...nhờ vậy mà tay cũng mềm có kinh nghiệm... Kỷ vật của em còn sót lại nè!
  8. Vé tàu đi về tuổi thơ Ngày ấy "xưa" rồi chỉ...mươi năm Lưu giấu bao nhiêu kỷ niệm thương Những lúc mơ về "thời xưa lắm" Buồn vui chan chứa lệ vấn vương Thiên Đồng ngẫu bút Hồi đó là 200đ/ "băng đạn" súng thì có 5 hay 7 nghìn thôi,có cả loại có ống giảm thanh Bây giờ thì...tuyệt tích rồi!!! Hồi nhà mình tân gia nhà,vẫn dc nổ hẳn 1 bánh bình đà năm 2-3 tuổi thì vẫn có bán pháo tép Truyện tranh ưa thích Là "Bé ngoan" nên giữ rất kỹ cái này.
  9. @ vyn Chào anh Thiên Đồng, mong anh luận giải giúp em. Nữ, tuổi Ất Sửu 1985 Hỏi lúc 23g20 ngày 18/8/2012. 1. Hãng của chồng em đang làm cuối tháng 8 này sẽ đóng cửa, và anh ấy muốn chuyển sang 1 chi nhánh khác và sẽ làm đến 31/12/2012 vì chi nhánh này cũng sẽ đóng cửa vào cuối năm. Em muốn hỏi là anh ấy có xin chuyển được ko? Có thể không. 2. Sau đó anh ấy muốn dọn đến tiểu bang khác sống và xin việc làm ở tiểu bang này. Cho em hỏi là có dọn qua tiểu bang khác được ko và khi nào sẽ có được việc làm ổn định? Việc làm này là ở tiểu bang mới hay vẫn ở tiểu bang đang sống. Tháng 8, 9 âm có việc, làm ở gần, chuyển qua tiểu bang khác có khó khăn lúc đầu về thủ tục, nhưng cũng sẽ được. 3. Anh ấy nói dạo gần đây thường hay nghe tiếng động, tiếng người nói chuyện, mặc dù anh ấy sống một mình, và ở khu vực rất yên tĩnh, và tinh thần của anh ấy cũng thất thường vì lo lắng về công việc. Cho em hỏi là có gì bất thường với anh ấy ko, và khi nào mọi thứ mới ổn định với anh ấy? Chồng em tuổi Bính Thìn 1976 Chồng đang trong năm tam tai, có khó khăn, Xuân năm sau ổn định, nhưng tránh cự cải để mang tiếng bực mình. Em cám ơn anh Thiên Đồng rất nhiều. Anh Thiên Đồng cho em hỏi thêm 1 câu nữa nha. Câu này em hỏi lúc 23g48 ngày 18/8/2012. 4. Khi nào vợ chồng em mới gặp lại? Khi nào tụi em mới có thể đoàn tụ ko phải sống mỗi người 1 nơi nữa? (Chồng em ở Mỹ, em ở VN, xa nhau từ tháng 1/2011 đến nay, giấy tờ bảo lãnh em chưa xong) Tính từ lức hỏi, 1 năm sau găp nhau. Em cám ơn anh. @haphoi Chào anh Thiên Đồng!! Nick của em là Hấp Hơi chứ không phải ý nghĩa kia đâu ạ,hic.hic... Anh Thiên Đồng ơi, em sinh 19/7/1981 dương lịch, chồng em sinh 31/3/1982 dương lịch các anh bên luận tuổi tư vấn là em nên sinh con út 2013 anh ạ 2013, 2016 đều tốt cả. @nangmoi Em chào anh Thiên Đồng! Cảm ơn anh vừa qua đã xem giúp em nhiều câu hỏi. Lần này anh lại giúp em nhé. Nữ giáp tý 1984 Hỏi vào lúc: 8h13 sáng ngày 20/08/2012 Câu hỏi 1: Anh xem giúp em trai em đến tháng mấy năm nay thì xin được việc ạ? NHanh thì tháng 8 âm, chậm thì tháng 11 âm Câu hỏi 2: Công việc em trai em xin được có tốt và ổn định không. Hợp khả năng và ổn định Câu hỏi 3: Chuyện tình cảm của em trai em đến khi nào thì suôn sẻ và có tốt đẹp không ạ? Tình sâu thì nợ dài, duyên chắc đến. Cảm ơn anh nhiều! @lienanh28 Chào anh Thiên Đồng, Em giúp em xem về đường công việc với ạ. Em sinh ngày 28/2/1981. Hiện tại em đang thất nghiệp, đi xin việc mãi chưa được, anh xem giúp em khi nào em sẽ có công việc trở lại, và công việc có thuận lợi may mắn không? Hỏi vào lúc 10.30 sáng ngày 20/8/2012 và kết thúc vào lúc 10h34 phút Nhanh tháng 8 âm, chậm tháng 10 âm có việc làm, thuận lợi, có người to béo giúp đỡ. Cảm ơn anh nhiều. @boorinkk50 Cháu chào chú Thiên Đồng. Chú xem giúp cháu 1 quẻ với ạ Nữ Bính Dần 1986 Hỏi lúc 11h02 sáng ngày 20/08/2012 1. Cháu đã định ngày cưới vào ngày 16/08 âm lịch năm 2012, vậy sau khi cưới xong cháu sinh em bé luôn được không ạ? Nếu cưới xong mà xin năm quý tị thì có khó khăn, chịu khó vài năm sinh 2016 đứa út thì ổn. Hoặc sinh 2014, cũng chịu khó một đoạn rồi sinh 2016. 2. Cháu sẽ sinh con trai hay con gái đầu lòng ạ? Giống mẹ. 3. Sau khi cưới thì giữa cháu và gia đình nhà chồng liệu có hòa thuận không ạ? Sẽ vui vẻ cả nhà. Cháu cảm ơn @CB6 Chúc mừng CB6.Nhập trạch ngày 8 tháng 8 âm trong khoản 11g00 đến 13g00. Hay ngày 17/8 âm, 15g00 - 17g00. Chúc hạnh phúc Thiên Đồng
  10. Tác giả sách giải thích: Hai Bà Trưng đánh giặc nào? Sau khi bài viết 'Hai Bà Trưng đánh giặc nào' được đăng tải, GS.TS Nguyễn Minh Thuyết, Chủ biên Sách Giáo khoa Tiếng Việt lớp 3 đã gửi tới VietNamNet bài viết: "Về bài tập đọc "Hai Bà Trưng": Đừng suy diễn, nặng lời". Dưới đây là nội dung bài viết. VietNamNet ngày 4/9/2012 có đăng bài của một bạn đọc ký tên Trần Cao Duyên chỉ trích nặng nề SGK “Tiếng Việt 3, tập hai” trong bài tập đọc Hai Bà Trưng “không hề dám nửa lời chỉ đích danh bọn xâm lược là giặc Hán (Trung Quốc)”. Vậy, sự thật như thế nào? Chỉ cần giở thêm vài trang quyển “Tiếng Việt 3, tập hai” đã có thể thấy nhận xét của bạn Trần Cao Duyên có thật khách quan không và có đúng là tác giả SGK không dám gọi tên các loại giặc từ nước láng giềng phương Bắc ra không (thời phong kiến nước này chưa có tên gọi là Trung Quốc). Sau bài “Hai Bà Trưng” đúng 6 trang, bài chính tả "Trần Bình Trọng" ở trang 11 mở đầu: "Năm 1285, giặc Nguyên sang cướp nước ta". Đến trang 17, bài tập "Lê Lai cứu chúa" lại viết: "Giặc Minh xâm chiếm nước ta". Cũng ở trang 17 còn có một bài tập yêu cầu học sinh nói về một vị anh hùng có công lao to lớn trong sự nghiệp bảo vệ đất nước mà các em biết, trong đó có nêu tên các danh nhân Trưng Trắc, Trưng Nhị, Triệu Thị Trinh, Lý Bí (Lý Nam Đế), Triệu Quang Phục (Triệu Việt Vương), Phùng Hưng, Ngô Quyền, Lê Hoàn (Lê Đại Hành), Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn (Trần Hưng Đạo), Lê Lợi, Nguyễn Huệ (Quang Trung), Hồ Chí Minh. Mười hai trong mười ba vị được nhắc tên là những anh hùng trong các cuộc chiến tranh chống quân xâm lược phương Bắc. Như vậy, đâu có phải tác giả sợ, không dám hé răng gọi đến tên bọn xâm lược! Còn bài “Hai Bà Trưng” trong SGK “Tiếng Việt 3, tập hai” chỉ là một truyện kể. Nó có tên các nhân vật lịch sử: bên ta là hai Bà Trưng Trắc, Trưng Nhị, bên địch là Tô Định - không phải một kẻ vô danh tiểu tốt mà là một viên thái thú có tên trong sử sách Việt Nam, Trung Hoa. Nhưng môn Tiếng Việt không phải môn Lịch sử. Không nhất thiết lúc nào truyện kể hay thơ cũng phải kể thật đủ tên giặc nọ giặc kia, nhất là đối với học sinh lớp 3 (mới 8, 9 tuổi). Thời các con tôi học tiểu học vào những năm 80 của thế kỷ trước, SGK của các cháu vẫn trích 10 dòng thơ “Đại Nam quốc sử diễn ca” về Hai Bà Trưng làm bài tập đọc: “Bà Trưng quê ở Châu Phong Giận người tham bạo, thù chồng chẳng quên Chị em nặng một lời nguyền Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân Ngàn tây nổi áng phong trần Ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên Hồng quần nhẹ bước chinh yên Đuổi ngay Tô Định, dẹp yên biên thành Kinh kỳ đóng cõi Mê Linh Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta.” Ai cũng biết sau 10 dòng này còn 10 dòng nữa, trong đó có những dòng chỉ đích danh nhà Hán: “Uy danh động tới Bắc phương/Hán sai Mã Viện lên đường tấn công” nhưng SGK không dạy, có lẽ vì bài đã dài mà ý cũng đã đủ. Lúc các con tôi học tiểu học, cuộc chiến tranh chống quân Trung Quốc xâm lược ở biên giới phía Bắc vừa kết thúc, nhân dân ta vừa phải khắc phục hậu quả chiến tranh, vừa phải chống chọi với bao khó khăn của thời cấm vận. Nhưng không hề có ai vì căm thù quân xâm lược mà cực đoan đến mức lên án SGK chỉ dạy cho các cháu bé có 10 dòng thơ đầu. Các cháu còn nhỏ, đường học còn dài. Những bài học đầu tiên chỉ gieo những hạt đầu tiên. Điều chưa biết ở môn này, lớp này, đến môn khác, lớp khác sẽ được học. Ví dụ, về Hai Bà Trưng, chỉ sau 1 năm, SGK “Lịch sử và Địa lý lớp 4” sẽ dạy các cháu đầy đủ hơn: “Đầu thế kỉ I, nước ta bị nhà Hán đô hộ. Thái thú quận Giao Chỉ là Tô Định nổi tiếng tham lam, tàn bạo.” Còn đối với những cháu sớm hiểu biết, không đợi đến lớp 4 được thì thầy cô, cha mẹ, ông bà hoàn toàn có thể giải thích cho các cháu, thậm chí các cháu cũng có thể chủ động tìm kiếm thông tin trên mạng hay trong sách vở về thời kỳ này. Việc bài tập đọc Hai Bà Trưng trong sách “Tiếng Việt lớp 3” nêu hay không nêu tên nhà Hán là chuyện nhỏ. Không nên vội thêu dệt thành những chuyện sai lạc với bản chất của sự việc. GS.TS Nguyễn Minh Thuyết
  11. Trò chơi Ném Còn Với người Việt cổ xưa, trò chơi này thường dành cho giới nữ, con nhà quý phái, xưa kia là các Mỵ nương, con gái Lạc hầu, Lạc tướng. Đối với các dân tộc Mường, Tày, H’mông, Thái... ném còn là trò tín ngưỡng hấp dẫn nhất của trai gái trong dịp hội xuân. cô gái dân tộc Tày đang ném còn Quả "còn" hình cầu to bằng nắm tay trẻ nhỏ, được khâu bằng nhiều múi vải màu, bên trong nhồi thóc và hạt bông (thóc nuôi sống con người, bông cho sợi dệt vải). Quả còn có các tua vải nhiều màu trang trí và có tác dụng định hướng trong khi bay. Sân ném còn là bãi đất rộng, ở giữa chôn một cây tre (hoặc vầu) cao, trên đỉnh có “vòng còn” hình tròn (khung còn), khung còn một mặt dán giấy đỏ (biểu tượng cho mặt trời), mặt kia dán giấy vàng (biểu tượng cho mặt trăng). Cả mặt giấy là biểu tượng cho sự trinh trắng của người con gái. Người chơi đứng đối mặt với nhau qua cây còn, ném quả còn lọt qua vòng còn trên đỉnh cột là thắng cuộc. Ném còn ngày xuân Mở đầu cuộc chơi là phần nghi lễ, thầy mo dâng hai quả còn làm lễ giữa trời đất, cầu cho bản làng yên vui, mùa màng tươi tốt, nhà nhà no ấm. Sau phần nghi lễ, thầy mo cầm hai quả còn đã được “ban phép” tung lên cho mọi người tranh cướp, khai cuộc chơi ném còn năm đó. Các quả còn khác của các gia đình lúc này mới được tung lên như những con chim én. Trước khi khép hội, thầy mo rạch quả còn thiêng (đã được ban phép) lấy hạt bên trong, tung lên để mọi người cùng hứng lấy vận may. Người Tày quan niệm hạt giống này sẽ mang lại mùa màng bội thu và may mắn, vì nó đã được truyền hơi ấm của những bàn tay nam nữ (âm - dương). Ném còn làm cho người trong cuộc hào hứng, người đứng ngoài hò reo cổ vũ khiến không khí cuộc chơi rất sôi nổi, hấp dẫn. Ném còn là trò chơi không những thu hút nam nữ thanh niên mà nhiều người lớn tuổi cũng rất thích. Trò vui này mang ý nghĩa phồn thực, cầu mong giao hoà âm - dương, mùa màng tươi tốt. Vietbao (Theo: quehuongonline.vn) ném còn cầu duyên
  12. Mừng Sinh Nhật Thiên Bồng Mát trời nha...
  13. QUÁN TƯỞNG Năng lễ, sở lễ tánh không tịch, Cảm ứng đạo-giao nan tư nghì, Ngã thử đạo tràng như Ðế-châu, Thập phương chư Phật ảnh hiện trung, Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền, Ðầu diện tiếp túc quy mạng lễ. CHÚ ÐẠI-BI Nam-mô Ðại-Bi Hội-Thượng Phật Bồ-Tát. (3 lần) Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại-bi tâm đà-la-ni. Nam-mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam-mô a rị da, bà lô yết đế, thước bát ra da, Bồ-đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da, án, tát bàn ra phạt duệ số đát na đát tỏa. Nam-mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da, bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam-mô na ra cẩn trì hê rị ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu thâu bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ-đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na a ra sâm Phật ra xá-lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ-đề dạ bồ-đề dạ, bồ-đà dạ, bồ-đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà du nghệ thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta bà ha. Nam-mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam-mô a rị da, bà lô yết đế, thước bàng ra dạ, ta bà ha. Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha. (3 lần) MA-HA BÁT-NHÃ BA-LA MẬT-ÐA TÂM KINH Quán-tự-tại Bồ-tát, hành thâm Bát-nhã Ba-la mật-đa thời, chiếu kiến ngũ-uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách. Xá-Lợi-Tử ! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị. Xá-Lợi-Tử ! Thị chư Pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung, vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức, vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý-thức-giới, vô vô-minh diệc, vô vô-minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão-tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc. Dĩ vô sở đắc cố, Bồ-đề tát-đỏa y Bát-nhã-ba-la mật-đa cố, tâm vô quái-ngại; vô quái-ngại cố, vô hữu khủng-bố, viễn ly điên-đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết-bàn. Tam-thế chư Phật, y Bát-nhã-ba-la mật-đa cố, đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề. Cố tri Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thị đại-thần chú, thị đại minh chú, thị vô-thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hư. Cố thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa chú, tức thuyết chú viết: Yết-đế yết-đế, ba-la yết-đế, ba-la-tăng yết-đế, Bồ-đề tát bà ha. (3 lần)
  14. @ ReQuat Đạo nào thì cũng sẽ thấy câu sau đây đều hợp với mình cả: "Năng lễ, sở lễ tánh không tịch, Cảm ứng đạo-giao nan tư nghì," Theo cái hiểu của Thiên Đồng thì nghĩa của câu này tựu trung vẫn là năng lễ bái, hành lễ, cầu nguyện, sám hối...thì sẽ cảm nhận được mầu nhiệm đức tin. Đạo nào cũng vậy. Đây là nói theo cảm nghĩ thôi nhé, vì phàm phu mà. Chứ, chỉ có hàng A La Hán mới được phép thuyết kinh, giảng pháp. Thiên Đồng
  15. * Chuyện kể: Ông Tử Trương muốn đi xa, đến chào Đức Khổng Tử và xin Ngài một lời khuyên. Đức KhổngTử nói: “Chữ “nhẫn” đứng đầu trăm nết. – Trương Tử hỏi lại: “Làm sao phải nhẫn?” * Đức Khổng Tử trả lời: “Thiên Tử mà nhẫn thì nước không sinh hại. - Chư hầu mà nhẫn thì nước sẽ mạnh lớn thêm. - Quan lại mà nhẫn thì chức vị sẽ thăng tiến. – Anh em mà nhẫn thì cửa nhà giầu sang. - Vợ chồng mà nhẫn thì ở được với nhau trọn đời.- Bạn bè mà nhẫn thì thanh danh không mất. - Hễ nhẫn thì không lo tai hoạ.” * Ông Trương Tử hỏi lại: “Nếu bất nhẫn sẽ ra sao? - Đức khổng Tử nói: “Thiên Tử mà bất nhẫn thì nước sẽ trống không. – Chư hầu mà bất nhẫn thì mất mạng. – Quan lại mà bất nhẫn thì sẽ bị hình phạt. – Anh em mà bất nhẫn thì sẽ chia rẽ. - Vợ chồng mà bất nhẫn thì phải xa nhau (ly thân, ly dị). - Tự mình mà bất nhẫn thì không thể tránh được lo lắng.” Trương Tử nói: “Phải lắm ! Phải lắm ! St
  16. Trò chơi dân gian: Thiên đường Địa ngục Đây là TCDG mang tính chất diễn xướng và có hát đồng dao. Không gian chơi là một khoảng sân rộng; số lượng người chơi không giới hạn. Hai em trong nhóm tự đề cử mình làm quản trò. Hai em này cùng đi ra một chỗ khuất hay xa để bàn một chuyện bí mật không để cho những em khác biết. Sau đó, 2 em này đi ra, đứng đối diện, đan hai bàn tay vào nhau và dơ tay lên cao làm “cổng”. Những em còn lại nối đuôi nhau tạp thành một đoàn rồi chui qua “cổng”, đuôi hết thì lại đến đầu. Khi những em này chui qua cổng thì hai em vòng tay làm cổng kia hát đồng dao: Thiên đường địa ngục Ai khôn thì lên thiên đường Ai ngu thì xuống địa ngục. Khi câu hát vừa kết thúc thì cũng là lúc hai em đó hạ nhanh tay xuống để chụp lấy một (có thể là hai) em khác. Em nào bị chụp sẽ được hai em làm cổng hỏi: - Sầu riêng hay măng cụt? Khi đó em bị chụp sẽ phải lựa chọn một trong hai quả đó bằng cách trả lời: - Sầu riêng (hoặc Măng cụt), hay: Sầu riêng/măng cụt ngon hơn. Tao chọn sầu riêng/măng cụt. Trò chơi cứ thế tiếp diễn, em nào chọn măng cụt đứng sang một bên, em nào chọn sầu riêng đứng một bên. Khi tất cả các em kia bị bắt hết thì hai em làm cổng đó “dỡ” cổng ra và thông báo: - Ai ăn sầu riêng thì lên thiên đường, ai ăn măng cụt thì xuống địa ngục. Truớc đó, những em bị bắt kia rất hồi hộp lo sợ xem mình có bị xuống địa ngục không? Thì ra lúc trước, hai em làm cổng đi ra chỗ khuất là để bàn xem sẽ chọn loại quả nào mà ăn vào sẽ được lên thiên đường, loại nào sẽ xuống địa ngục. Em nào được lên thiên đường sẽ được chọn cách đi: đi kiệu, đi võng hoặc đi máy bay, và hai em kia có nhiệm vụ thực hiện sự lựa chọn đó. - Đi kiệu: hai em ngồi đối diện nhau, một em lấy tay phải gập lại 90 · ngang mặt rồi nắm vào tay trái, em kia làm ngược lại. Tay hai em đó ghép lại tạo thành ba hình vuông sát nhau như sau: Làm kiệu tay để công kênh nhau Em nào chọn đi kiệu thì sẽ bỏ hai chân của mình vào ô 1 và 3; hai tay ôm lấy cổ của hai bạn, còn hai em kia phải nhấc em đó lên đi một đoạn, vừa đi vừa đung đưa. - Đi võng: Hai em cầm hai tay song song với nhau, hạ thấp xuống cho người được lên thiên đường ngồi hay nằm ngửa lên trên đó. Hai em kia phải nhấc em đó lên đi một đoạn vừa đi vừa đung đưa như đi bằng võng thật. - Đi máy bay: Làm tương tự như đi võng nhưng người lên thiên đường sẽ nằm xấp. Sau khi đã đưa hết những bạn ăn sẫu riêng lên thiên đường rồi thì bây giờ đến lượt xử tội những người xuống địa ngục. hai em kia bắt chéo tay sao cho để trống một khoảng ở giữa. Ai bị xuống địa ngục sẽ phải để đầu mình vào đó để hai người kia “chặt đầu” (lôi đi kéo lại, quặt trước, quặt sau), rất chóng mặt. Sau khi đã “chặt đầu” xong thì “cái xác” vẫn phải đứng im đó trong khi hai em kia nhanh chóng nhả tay ra rồi lại đan tay lại song song với nhau. “Cái xác” ở trong vòng tay đó. Hai em “đao phủ” xoay tay 90 ·, một phía qua đầu “cái xác”, một phía đẩy ở đằng sau của “cái xác” đẩy nó ra ngoài. Những người bị xuống địa ngục khác thì cũng làm tương tự. Sau khi hoàn thành tất cả thì trò chơi hết một vòng. Nếu muốn chơi tiếp thì hai em khác tự xung phong ra làm, chọn ra hai loại quả khác với hai loại quả trước (ví dụ: bưởi – nho, …) và xác định trước ăn quả nào thì lên thiên đường, ăn quả nào thì xuống địa ngục. Chú ý: Đây là trò chơi dân gian của người Việt được các thế hệ trẻ em, thiếu niên thanh niên, phụ lão...truyền qua bao thế hệ không dứt và có những biến tấu theo thời đại. Ai trích lại thì nhớ ghi dòng: "Trò chơi của dân gian Việt Nam"
  17. Phẫn Nộ Phật Nhẫn không nhất thiết là không phẫn nộ. Phẫn nộ cũng là từ bi. Phẫn nộ một cách đầy từ bi. Phẫn nộ trí cũng là độ sanh. Mahakala Mahakala
  18. Viết vào hai từ : “giặc Hán” thì là "sáng tạo ra một từ mới" hay sao?"chưa thấy ai viết, ai nói “giặc Hán” bao giờ,", trời ạ! Chưa nghe, chưa thấy ai nói viết! Ông Thuyết là con dân nước Việt thật sao? Bao nhiểu kiến thức từ vựng Ông Nguyễn Minh Thuyết học được cho tới nay không tồn tại trong đầu ông 2 chữ “giặc Hán”? Và ông thật sư không nghe, không thấy ai nói viết? Trời ơi... Thiên Đồng
  19. Thưa Sư Phụ, Theo lời Sư Phụ nói thì từ đó có thể suy ra: Việc đeo nhẫn cưới xuất phát từ phong tục người Việt. Bởi cái vận đeo tên gọi là "nhẫn", đeo vào ngón tay, tức đeo vào thịt, mà thịt gọi là "nhục". Như vậy sự thâm thúy của tục này là nhắc nhở các đôi phải chịu..."nhẫn nhục". Vậy là đủ 2 chữ nên có căp có đôi, "Nhẫn Nhục".
  20. Thưa Sư Phụ, Bức tranh dưới đây có ghi chú thích là "Chuyện Thạch Sanh", Nhưng người gảy đàn thì hầu như "nuy" 100%. Đệ tử thấy lạ. Xin Sư Phụ giải thích giùm đệ tử cho tường minh? Đây là sản phẩm tranh Đông hồ. Sau khi hỏi Sư Phụ xong, Thiên Đồng tìm thêm thì phát hiện, à thì ra Thạch Sanh có mặc gì đó. Thạch Sanh gặp Bụt Thạch Sanh bắn đại bàn Mẹ con Lý Thông bị trừng phạt Chi tiết đáng chú ý: Người đàn ông được vẽ với áo chéo vạt bên trái
  21. Trích sách tham khảo: Tính minh triết trong tranh dân gian Việt Nam - Phần I - 6 Tác giả: Nguyễn Vũ Tuấn Anh Nguồn: Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông Phương - Nhà xuất bản văn hóa thông tin Chọi trâu Tranh dân gian Đông Hồ Nếu hiểu theo nghĩa trực tiếp và gần gũi là trâu của xã Đông và xã Tống chọi nhau. Với cách hiểu này thì hai cái bảng trên bức tranh và dòng chữ “Hội chí lầu” sẽ là chi tiết thừa. Người ta chỉ cần thể hiện lá cờ biểu tượng cho lễ hội và hai con trâu là đủ. Xã Đông và xã Đoài, thôn Thượng và thôn Hạ, tổng Bắc và tổng Nam cũng có thể đem trâu chọi thi vậy? Nhưng những chi tiết này sẽ không thừa một chút nào, nếu chúng ta đặt vấn đề về nội dung sâu xa của bức tranh này. Giá trị của hình ảnh hai tấm bảng và lá cờ chính là tính hướng dẫn để tìm hiểu nội dung đích thực của nó. Chính chữ “xã” trên bức tranh có bộ “thổ” nghĩa là “đất”; chữ “lầu” là nhà cửa; chữ “chí” trên lá cờ có nghĩa là sự cản trở, sự khó khăn phải vượt qua; chữ “hội” nghĩa là sự tập trung cho một vấn đề, mục đích…. Hình tượng con trâu – trong kinh Dịch là quái Khôn (tức Địa – đất), Thuyết quái viết: “Khôn vi địa,… vi tử mẫu NGƯU…”. Từ những ý nghĩa trên cho chúng ta một ý nghĩa gần gũi và liên hệ đến thuật Phong thủy Đông phương. Vì vậy, có thể hiểu rằng: hai tấm bảng và lá cờ trên muốn nói tới tính chất đối nghịch của Đông trạch và Tây trạch trong thuật Phong thủy (qua hình tượng hai con trâu chọi nhau). Theo quan niệm của thuật Phong thủy thì địa bàn chia làm tám hướng; trong đó có 4 hướng thuộc Đông trạch và 4 hướng thuộc Tây trạch. Tên gọi đủ của khái niệm này là: Đông tứ trạch và Tây tứ trạch. Nếu mọi chuyện chỉ dừng ở đây thì bức tranh này về nội dung sẽ không hơn một cuốn sách dạy về thuật phong thủy Đông phương phổ biến trên khắp thế giới, những ai có tìm hiểu về thuật Phong thủy đều biết điều này. Trước khi trình bày nhận xét riêng của mình về nội dung sâu xa của bức tranh, bạn đọc xem hình dưới đây miêu tả đồ hình Hậu thiên Bát quái liên hệ với Lạc thư, diễn tả vị trí Đông tứ trạch và Tây tứ trạch theo quan niệm của thuật Phong thủy từ những bản văn cổ chữ Hán như sau: Qua hình trên, bạn đọc cũng nhận thấy rằng: “Đông tứ trạch” – màu đỏ – theo cổ thư chữ Hán gồm: Hướng chính Bắc (Quái Khảm); hướng chính Đông (Quái Chấn); Hướng Đông Nam (Quái Tốn); hướng chính Nam (quái Ly). “Tây tứ trạch” – màu đen – theo cổ thư chữ Hán gồm: Hướng Tây Nam (quái Khôn), hướng chính Tây (quái Đoài); hướng Tây Bắc (quái Càn); hướng Đông Bắc (quái Cấn). Theo thuật Phong thủy năm sinh của mỗi người ứng với một cung trong Bát quái Hậu thiên và chia làm Đông & Tây tứ trạch. Hướng tốt của người Đông trạch là hướng xấu của người Tây trạch và ngược lại. Hay nói một cách khác: Đông trạch và Tây trạch đối chọi nhau. Bây giờ chúng ta xét đến bức tranh “Chọi Trâu” nói trên. Trên mình hai con trâu này tổng cộng 9 vòng xoắn, một con có 4 vòng xoắn, một con có 5 vòng xoắn. Đây chính là độ số của hành Kim trên Hà đồ (Độ số 4 và 9). Trên mình con trâu 5 vòng xoắn có chữ Sơn, tức là núi – tượng của quái Cấn – trong kinh Dịch. Như vậy, hai con trâu chọi nhau ngoài biểu tượng của sự xung khắc giữa Đông và Tây trạch, còn là sự đối xứng (đối chọi) của quái Tốn () và quái Cấn ( ). Hành Kim thuộc Dương, theo qui tắc Dương trừ (5), Âm cộng (5) đã trình bày trong mục tranh “Đàn Lợn”. Theo đồ hình trình bày ở trên từ cổ thư chữ Hán (Hậu thiên bát quái liên quan đến Lạc thư) thì quái Tốn – độ số 4 thuộc hành Kim trên Lạc Thư , nhưng quái Đoài – trong kinh Dịch cũng thuộc Kim – lại có độ số 7 trên Lạc thư. Nếu bây giờ ta đổi chỗ quái Tốn sang quái Khôn trong Hậu thiên Bát quái từ cổ thư chữ Hán, và đặt lên Hà đồ thì sẽ hoàn toàn thỏa mãn những yếu tố mà bức tranh “Chọi trâu” đề cập đến theo nhận xét của người viết. Bạn đọc xem đồ hình trình bày dưới đây: Hà đồ Hậu Thiên và Bát Quái nguyên thủy bổ xung Đông & Tây trạch Qua đồ hình trên, bạn đọc cũng thấy mọi yếu tố đã giải mã trong bức tranh “Chọi Trâu” đều thỏa mãn:@ Quái Tốn độ số 4 nằm ở hành Kim, vẫn thuộc Đông tứ trạch đối chọi với Tây tứ trạch là quái Đoài (thuộc Kim trong kinh Dịch) độ số 9. Đây là tổng độ số vòng xoắn trên mình hai con trâu. @ Quái Cấn (chữ sơn) thuộc Tây tứ trạch đối chọi (đối xứng) với quái Tốn thuộc Đông tứ trạch. Trong bức tranh này có một chi tiết cũng rất đáng lưu ý. Đó là tại sao hai con trâu lại chỉ có 3 cái sừng. Người viết xin được tạm trình bày ba cách giải thích sau đây: 1) Ba cái sừng tức là tam giác. Phải chăng, khi đổi chỗ hai quái Tốn và Khôn và kết hợp các quái điên đảo dịch sẽ tạo ra được 2 tam giác như sau: 2) Trong kinh Dịch – thuyết quái viết “ Khôn vi địa, vi mẫu, vi lận tường, vi quân, vi tử mẫu ngưu, vi đại dư, vi văn, vi chúng, vi nạp, kỳ dư địa dã, vi hắc”. Chữ “Ngưu” trong một số bản văn tiếng Việt dịch là “Bò”. Nhưng chữ “Ngưu” dịch ra tiếng Việt còn có nghĩa là “Trâu”. Như vậy, quái Khôn liên quan đến con trâu và ba cái sừng ở phía trên đầu hai con trâu, phải chăng là chỉ quái Chấn độ số 3 phải ở trên quái Khôn?3) Ba cái sừng là bố cục chặt chẽ nhất trong phần giữa của bức tranh. Nếu thêm cái sừng thứ tư vào sẽ bị thừa? Người viết tự nhận thấy cả ba nhận xét trên đều chưa rốt ráo, rất mong sự minh xét của các bậc trí giả quan tâm. Hiện nay còn có một dị bản của tranh “Chọi trâu” mà người viết sưu tầm và trình bày với bạn sau đây. Mặc dù về hình thức tương đối giống nhau, nhưng vì chỉ thể hiện đơn thuần một cảnh chọi trâu, cho nên bức tranh này không nói lên điều gì. Hiện tượng này cho thấy sự tam sao thất bản trải qua hàng thiên niên kỷ cho những di sản văn hóa Việt Nam. Tuy nhiên, với phong cách thể hiện gần giống nhau và không giống với phong cách thể hiện tranh dân gian hiện đại cũng cho thấy cả hai đã tồn tại từ thời rất xa xưa. Phụ lục Sự đối xứng của quái Cấn và Tốn trong bức tranh trên, còn phù hợp với hai câu đối lưu truyền trong dân gian Việt Nam (cả hai câu đối này đều ở trong truyện dân gian Việt Nam, không rõ tác giả) mà chắc nhiều người cũng biết. Đó là câu đối: 1) Lợn CẤN ăn cám TỐN & Chó KHÔN chớ cắn CÀN. 2) Chồng phương Đông, vợ phương Tây, hòa hợp cùng nhau, đừng lòng Nam Bắc & Trai phương CẤN, gái phương TỐN, chớ nên cãi lộn, trái đạo CÀN KHÔN. Nếu theo cổ thư chữ Hán thì các phương vị của câu đối thứ nhất theo Hậu thiên Bát quái sẽ sắp xếp như sau: Câu đối 1 Câu đối 2 Nếu theo phương vị đã hiệu chỉnh hai quái Tốn & Khôn thì phương vị của câu đối 1 sẽ sắp xếp như sau: Câu đối 2 theo Hậu thiên Bát quái nguyên thủy đã hiệu chỉnh vị trí hai quái Tốn & Khôn sắp xếp như sau: Như vậy, với sự hiệu chỉnh phương vị, câu đối sẽ rất hoàn chỉnh. Điều này chứng tỏ rằng: Sự thay đổi vị trí Tốn Khôn từ văn minh Lạc Việt, là một sự thay đổi hợp lý từ căn để của thuyết Âm Dương Ngũ hành và Bát quái, xuyên suốt cho đến tận những chi tiết trong sinh hoạt văn hóa dân gian. Đây là một hiện tượng khẳng định nền văn minh Lạc Việt chính là cội nguồn văn hóa Đông phương. Chỉ có nền văn minh Lạc Việt và hậu duệ của nó là dân tộc Việt Nam hiện nay, mới có khả năng phục hồi lại một cách hoàn chỉnh một học thuyết lớn đã tồn tại lâu nhất trong lịch sử văn minh nhân loại.
  22. Chọi trâu Nét đẹp văn hóa vùng đất biển Nước ta nhiều nơi có tục chọi gà. Nhưng chọi trâu thì chỉ độc nhất vô nhị có ở Đồ Sơn. Dù ai buôn đâu bán đâu Mồng chín tháng tám chọi trâu thì về Dù ai buôn bán trăm nghề Mồng chín tháng tám thì về chọi trâu. Hội chọi trâu có từ bao giờ, tới nay chưa có lời giải chuẩn xác. Có người cho rằng thế kỉ XVIII, khi Nguyễn Hữu Cầu dấy binh, lấy Đồ Sơn làm căn cứ chống lại chúa Trịnh, để khích lệ quân sĩ, đã nghĩ ra tục chọi trâu. Nhưng trong cuốn Lịch sử người Thăng Long, Hà Ân lại viết: “... Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng đến xem hội chọi trâu ở Đồ Sơn, gặp Kỳ Vĩ là người đã cứu Nhượng Vương khỏi nạn cướp, mới kết nghĩa huynh đệ... “. Vậy theo sách này, chí ít tục chọi trâu Đồ Sơn đã có từ đời Trần. Các cụ già ở Đồ Sơn thì khẳng định rằng tục chọi trâu có lâu lắm rồi, từ thời những người tứ xứ về đây khai phá, sinh cơ lập nghiệp. Khi đến vùng đất mới, người ta muốn có một vị thần bảo trợ. Với người Đồ Sơn sơ khai, vị thần hoàng làng đó là Điềm Tước Đại Vương. Theo sách Đồng Khánh địa dư chí lược, biên soạn từ thời nhà Nguyễn thì dân Đồ Sơn cho rằng vị thần hoàng làng của mình rất thích xem trâu chọi nhau. Lai có truyên thuyết cho rằng khi thần xuất hiện thường có hai áng mây giống hình hai con trâu húc nhau. Cũng có sách giải thích, mỗi khi thần giáng hạ, đều có hai con trâu chọi nhau. Vì vậy để đẹp lòng thần, cứ vào ngày mồng chín tháng tám hàng năm, người Đồ Sơn lại tổ chức lễ tế và bày trò chọi trâu để vui lòng thần. Song, cũng còn có cách giải thích khác nữa: biển Đồ Sơn thường bị thủy quái quấy nhiễu. Để được yên, dân làng lập đàn cúng bái cầu thần làng giúp đỡ. Hôm sau thủy quái đầu rồng, mình trâu rất lớn bị chết nổi lên; ở cổ có một dấu chân chim. Dân làng cho rằng thần làng đã giúp dân diệt họa, mới mua trâu về mổ nhằm lễ tạ. Những con trâu lạ từ các nơi về, tự dưng chọi nhau. Từ đấy mỗi năm, mỗi khi mổ trâu tạ thần, người ta lại cho trâu chọi nhau, dần dà thành tập tục, thành lễ hội. Nhưng cũng có người nói, do thủy quái đầu rồng, mình trâu nên sau này người Đồ Sơn mới cho trâu chọi nhau, bắt chúng “ đền tội “ cho tổ tiên đã sát hại dân lành. Cũng bởi thế mà trâu chọi sau đó đều bị giết, kể cả con thắng lẫn con thua để tế thần... Như vậy, tục chọi trâu xuất hiện trên cơ sở huyền thoại, cũng có thể tục chọi trâu có trước, sau đó xuất hiện huyền thoại để giải thích. Đồ Sơn không phải là vùng đất nông nghiệp. Cư dân sống chủ yếu bằng nghề đánh bắt hải sản, trồng lúa nước chỉ là nghề phụ; vậy tại sao có tục chọi trâu? Đây không hẳn là điều dễ lý giải. Song dù thế nào, chọi trâu là một mỹ tục hào hùng mang tính thượng võ và rất độc đáo. Đầu tháng tám, khi lúa ở đồng đang vào thì con gái, ngư dân cũng vừa kết thúc vụ xăm, người ta bắt đầu chọi trâu. Hội kéo dài từ mồng 1 đến 15 tháng tám. Song chỉ có một ngày, ngày mồng 9 là diễn ra chọi trâu. Để có ngày hội náo nức đó, người Đồ Sơn phải chuẩn bị trong vòng tám tháng. Việc tìm mua trâu và nuôi dưỡng trâu chọi là điều quan trọng bậc nhất. Sau tết âm lịch, người các giáp tự nguyện góp tiền và cử người có kinh nghiệm đi các nơi để tìm mua. Trước khi đi, giáp nào cũng làm lễ tế thần, cầu mong mua được trâu tốt. Người được dân làng ủy nhiệm có khi lặn lội hàng tháng trời vào tận Nghệ An, Thanh Hóa, ra Ninh Bình, Nam Định, có khi ngược lên Tuyên Quang, Bắc Cạn, rồi lộn về Hải Dương, Quảng Ninh.v..v...mới chọn được trâu vừa ý. Kinh nghiệm nhiều đời cho hay, ở chợ Gồi (Nam Định); ở chợ Thủy Tú, Thủy Đường (Thủy Nguyên, Hải Phòng) ; ở chợ Thanh Hà (Hải Dương) thường có trâu hay, dễ đoạt giải! Chọn trâu là một công việc cầu kì và tỉ mỉ. Những con trâu đủ tiêu chuẩn là những con đực khỏe mạnh, sừng cánh cung, ức rộng, cổ tròn, dài và hơi thu nhỏ về phía đầu, vẫn gọi là trâu cổ cò. Lưng trâu dày, càng phẳng càng tốt. Lưng con nào để được bát nước đầy lên đó không đổ là quý. Háng trâu phải rộng nhưng thu nhỏ về phía hậu. Trong những đặc điểm đó thì đặc điểm trâu cổ cò là quan trọng nhất vì trâu cổ cò có ưu điểm là cúi xuống không biết mỏi. Tránh nhất là trâu cổ vại. Sừng trâu phải đen như mun, vểnh lên như hai cánh cung, giữa hai sừng có túm lông hình chóp, trên đỉnh đầu là xoáy tròn. Mắt trâu phải đen, tròng đỏ. Mặt trâu giống mặt ngựa là trâu chọi hay. Răng trâu cũng rất đáng lưu ý. Răng phải đều không sứt mẻ. Dân Đồ Sơn thích những con trâu trên thân có bốn hoặc hai xoáy giao nhau, chân ngắn, mập, đầu gối có lông, giống trâu rừng. Việc mua trâu đã khó nhưng huấn luyện trâu càng khó hơn. Đàn bà con gái khồng được cho trâu ăn. Những người được dân làng cử ra chăm sóc là người già có kinh nghiệm. Họ coi đây là một nhiệm vụ, một vinh dự. Trâu được nuôi ở chuồng riêng, kín đáo, không cho thấy trâu nhà. Mục đích là để khôi phục bản năng hoang dã. Giáp ngày thi đấu, khẩu phần ăn được tăng cường. Ngoài cỏ non còn có thêm một lượng cám nhất định. Trâu được huấn luyện ở các giáp. Sới tập chọi là bãi đất rộng. Người ta cố tình đứng kín xung quanh, gõ chiêng trống và hò hét, mục đích là để trâu quen với không khí ngày hội. Phải là những người dư kinh nghiệm mới huấn luyện được cho trâu có những miếng đánh hay. Qua huấn luyện người ta phát hiện sở trường của trâu mà vót sừng theo kiểu mũi đinh hay mũi khế. Trước đây, ngày rằm tháng năm bắt đầu đấu loại vòng thứ nhất. Ngày tám tháng sáu đấu loại vòng hai. Đến ngày hội (mồng 9 tháng 8),dân Hà Nội, Hải Phòng, Thái Bình, Hải Dương và nhiều nơi nô nức đổ về Đồ Sơn. Thời Pháp thuộc, những tên Toàn quyền Đông Dương, Thống sứ Bắc Kỳ, Công sứ các tỉnh đều đưa vợ con xuống. Ngoài xem chọi trâu, người ta mở sòng bạc để sát phạt nhau. Rồi cá cược. Không ít kẻ mất gia sản ruộng vườn. Trâu chọi được gọi là ông trâu. Trâu nào đoạt giải được tôn lên hàm cụ: cụt trâu. Xưa kia, sới chọi là sân đình Công (chỗ trường phổ thông trung học Đồ Sơn ngày nay). Mở đầu hội chọi là lễ tế thần Điểm Tước. Từ chiều 29 tháng 7, nhân dân rước bát nhang từ đền Nghè, nơi thờ thần Điểm Tước, tới đình Công để thờ. Thờ suốt trong 15 ngày hội. Cũng thời gian ấy, các đình làng đều thắp hương nhằm cầu mong cho trâu làng mình đoạt giải cao. Mỗi giáp góp một trâu, một lợn, một thúng thóc nếp để làm lễ. Đến ngày hội chính, trâu thi đấu đi đầu trong lễ rước nhằm trình diện thần. Mình trâu được kết hoa và trùm nhiễu điều. Đi sau trâu là 12 chàng trai y phục mầu đỏ, kế đó là đội nhạc và dân làng. Xong lễ tế, trâu và người cùng đi ra sới. Gần đây thủ tục trước khi chọi có bị giảm bớt, nhưng không vì vậy mà lượng người xem ít đi. Quanh sân vận động người tứ xứ đông nghịt vòng trong vòng ngoài. Sau hồi trống mở màn, từ hai phía đấu trường các chàng trai y phục mầu đỏ tiến vào, thực hiện nghi thức múa cờ. Mỗi trận đấu đượcc gọi là “ kháp”. Tiếng loa vừa dứt, chủ trâu y phục mầu đỏ dẫn trâu vào sới. Khi cách nhau 20 mét, hai đối thủ được bỏ “sẹo”. Đấu trường lặng phắc. Bất thần hai trâu lao vào nhau. Cuộc tỉ thí diễn ra giữa tiếng reo hò vang dậy của hàng vạn khán giả. Có “kháp” chỉ năm phút, sự thắng thua diễn ra rất nhanh. Song có trận xẩy ra hàng giờ, vẫn không phân thắng bại. Không khí sới chọi hết sức sôi động. Người ta cổ vũ, người ta vỗ tay reo hò và người ta nín thở. Cuối trận đấu là màn thu trâu. Màn thu trâu diễn ra rất hùng tráng, rất thượng võ và tính nghệ thuật cao. Khi trâu thua bỏ chạy, trâu thắng hăng máu đuổi theo. Để trâu không xông vào đám đông khán giả, người bắt trâu phải tìm cách giữ cho được trâu thắng trận dừng lại. Đây là hành động rất dũng cảm. Vì hai trâu chỉ cách nhau vài mét, lại đang hăng, không có kinh nghiệm sẽ hết sức nguy hiểm. Trong trận đấu năm 1973, khi trâu thắng đang lao đuổi trâu thua, cả hai chạy với vận tốc rất nhanh thì ông Nguyễn Văn Ghé lúc ấy 64 tuổi xuất hiện. Với y phục đỏ rực trên người, tay trái nắm lấy sừng trâu, tay phải và vai độn dưới cổ trâu, ông khiến con trâu đang chạy phải dừng lại, hai chân trước giơ lên chới với trên không. Rất thuần thục, ông luồn nhanh dây thừng vào mũi nó. Con trâu hung dữ, hai mắt đỏ nọc chợt trở nên ngoan ngoãn để ông ghé dắt đi. Cảnh tượng ngoạn mục có một không hai đó khi được phát trên đài truyền hình Nhật Bản đã làm sửng sốt hàng triệu khán giả màn ảnh nhỏ nước Phù Tang. Người ta cho rằng chọi trâu ở Đồ Sơn Việt Nam thể hiện rất rõ tính thượng võ, sự hào hùng, lòng dũng cảm và hấp dẫn hơn cả đấu bò tót ở Tây Ban Nha. Tuy nhiên, mọi sự so sánh chỉ là ... so sánh. Làng có trâu thắng được rước bát nhang thờ thần Điểm Tước ở đền Nghè về đình làng mình. Song cũng chỉ được thờ từ mồng 10 đến 15 tháng tám. Ngày mồng 10 là ngày các làng mổ trâu cúng thần. Ngày 16 là ngày mao huyết (bát tiết) được đổ xuống ao làng để “tống thần”, sau đó rước bát nhang trở lại đền Nghè. Bát nhang được đặt trên kiệu sơn son thếp vàng trong sự thành kính, ngưỡng vọng của dân Đồ Sơn. Những năm gần đây, năm nào Đồ Sơn cũng tổ chức chọi trâu, số trâu tham gia cũng đông hơn, cũng như số người đến xem ngày càng đông đúc. Chọi trâu Đồ Sơn từ lâu trở thành một mỹ tục văn hóa, một lễ hội truyền thống ngày càng hấp dẫn ở vùng đất biển Đồ Sơn. Tại sao lễ hội chọi trâu là ngày mồng 9 tháng 8? Điều này vẫn là một ẩn số. Xin mời bạn đến lễ hội chọi trâu Đồ Sơn để nghiên cứu và tìm hiểu. ĐÌNH KÍNH
  23. Chùm ảnh trò chơi dân gian Bắn bi Bịt mắt bắt dê Thổi bong bóng Chơi chuyền Chong chóng Đánh khăng Kéo co Lò cò Ném còn Nhảy dây Nhảy ngựa Rước đèn Thả diều ... Bắn bi Bịt mắt bắt dê Thổi bong bóng Chơi chuyền Chong chóng Đánh khăng Kéo co Lò cò Ném còn Nhảy dây Nhảy ngựa Rước đèn Thả diều DDL Sưu tầm
  24. Trước 1995, cứ đến dịp Tết là tụi mình được chơi pháo, nghe tiếng pháo nổ đì đùng, thật vui tai, báo hiệu một năm mới rộn ràng đã đến. Cái cảm giác tiếng pháo nổ trong đêm giao thừa, xua tan những điều không may trong năm cũ để đón một năm mới với nhiều may mắn hơn, thật là thiêng liêng và xúc động. Nhưng từ khi Việt Nam mình cấm đốt pháo vì những hậu quả của nó mang lại, hẳn nhiều bạn thấy buồn và hụt hẫng hẳn. :( Nếu được sinh sớm hơn một chút, chúng mình còn có thể rủ nhau đi bắt dế ở triền đê nữa cơ. Rồi còn thi nhau ăn hồng bì và nhãn để dành hạt chơi ô ăn quan nữa chứ. Bịt mắt bắt dê thật dễ thương! Ngày nay, trò chơi này vẫn được teen nhà ta chơi đều trong mỗi lần sinh hoạt tập thể các ấy nhỉ! Bổ quay nè. Trông thế thôi chứ chẳng đơn giản đâu nhé. Cái khó là phải bổ làm sao để con quay của mình quay tít và lâu hơn hẳn con quay của đối phương cơ. Nhưng trò này cũng tiềm ẩn nguy hiểm nếu không may bổ trúng vào người khác. Trong khi con trai mê tít món bổ quay thì con gái thích thú phô diễn kỹ thuật nhảy dây siêu đẳng. Từ bàn bụng trở lên là có thể đèo nhau được rồi đấy. Ngoài nhảy dây ra, còn một trò chơi khiến nhiều teen mê mệt, đấy là trò song phi các teen ạ. Nhảy lò cò nữa này. Ném lon ném lon đi! ^^ Vỏ lon coca ngày xưa uống xong toàn được để dành, phòng có lúc mang ra chơi ném lon ý. Lon được đặt cố định ở một vị trí, rồi oẳn tù tỳ, ai thua phải đứng canh lon, còn các bạn khác đứng tại vạch rồi cầm dép ném. Bạn nào ném không đổ lon là bị bắt làm "con tin" luôn, chờ các bạn ném giỏi giải cứu. :P Hồi còn đi học nhà trẻ, mẫu giáo, các ấy đã gặt được bao nhiêu phiếu bé ngoan rùi? Thậm chí ngày ấy, chúng mình ai cũng thuộc làu làu câu hát: "Thứ hai là ngày đầu tuần, bé hứa cố gắng chăm ngoan, thứ hai thứ ba thứ tư, ngày nào cũng luôn cố gắng, thứ sáu rồi đến thứ bảy, cô cho phát phiếu bé ngoan, chủ nhật cả nhà đều vui vì bé ngoan nhất nhà". Cho dù ngày nay, hàng triệu teen có mê mẩn Angry bird, Đế chế hay hàng nghìn những trò chơi điện tử với công nghệ hiện đại khác thì có một điều không thể phủ nhận rằng, hiếm có bạn nào lại không bị đốn tim với chiếc máy điện tử Brick Game màn hình đen trắng một thời. Ngày ấy, có cảm giác nhà nhà, người người mê mẩn ngồi chơi xếp gạch vậy. Brick Game như một phát nổ thành công đầu tiên trong thế giới trò chơi điện tử, để rồi sau đó, điện tử 4 nút - sản phẩm "huyền thoại" của hãng Nintendo, Nhật Bản xuất xưởng, cùng theo đó là trò bắn xe tăng, bắn ruồi, Contra, đặt mìn... và kinh điển nhất là Super Mario Bros (Trò hái nấm) phát hành năm 1985. Đó là thời kỳ mà hiếm có đứa trẻ nào có thể bỏ qua Mario, cũng giống như bây giờ hiếm nhóc tỳ nào lại không đọc truyện Doreamon vậy.
  25. Chuyến tàu đưa em về tuổi thơ Bắn bi, ô mai giun, kẹo kéo, pháo tì tạch ngày Tết… là những thứ đã biến mất khỏi thì hiện tại. Những hình ảnh sau sẽ giúp mỗi bạn tìm lại được phần nào ký ức tuổi thơ của mình Ngày bé, tụi con trai tụm năm tụm bảy, chơi bắn bi ve ở sân nhà, góc vườn... Chỉ cần 200 đồng là mua nhòe bi luôn, tha hồ đem khoe lũ bạn. Không những chơi bi, các chàng còn thi nhau làm bộ sưu tập các viên bi đẹp và độc nữa. Bạn đã bao giờ chơi bi và thắc mắc tại sao người ta có thể nhét những cánh hoa bảy màu sặc sỡ và đẹp thế kia vào những viên bi trong suốt chưa? Một điều hết sức thú vị, những viên bi ve tròn vo này đã xuất hiện từ rất rất lâu đời. Viên bi cổ nhất được tìm thấy trong một ngôi mộ trẻ em tại Nagada, Ai Cập có niên đại khoảng 3.000 năm trước Công nguyên. Bảo tàng Anh cũng lưu giữ những viên bi được tìm thấy ở đảo Crete, Hy Lạp có niên đại từ 2.000 năm đến 1.700 năm trước Công nguyên. Còn thời La Mã cổ đại, đánh bi là trò chơi đã khá phổ biến, đặc biệt là trong lễ hội Saturnalia với tên gọi là "nuts". Những viên bi này chủ yếu được làm bằng đá và đất sét. Tụi con trai say bắn bi như điếu đổ thì tụi con gái cũng có thú vui riêng, rủ nhau chơi chuyền bên hiên nhà. Đây là trò chơi dân gian đòi hỏi khéo léo lắm đấy nhé, chỉ cần một quả bóng (hoặc quả cam) và 10 que tre vót tròn là hội con gái có thể ngồi chơi cả chiều không chán. Cách chơi là tung bóng lên không trung - nhặt que - bắt bóng sau khi bóng nảy một nhịp xuống đất hoặc bắt bóng trước khi bóng chạm đất. Khoảng 10 lần là hết một bàn chuyền, đi liền mấy ván sau và tính điểm được thua theo ván. Ai không nhanh tay hay nhanh mắt để bắt được bóng và que cùng một lúc sẽ bị mất lượt. Vui nhất là trong khi chơi, các bạn còn đọc làu làu câu đồng dao "Cây mốt, cây mai, lá trai, lá hến, con nhện giăng tơ, quả mơ có hạt...". Nhảy ngựa cũng là một trò chơi vui khiến các teen nhà mình ngày xưa "kết nổ đĩa" và cho đến tận bây giờ, trò chơi này vẫn lác đác được teen thế hệ mới duy trì và chơi nhiệt tình. "Rồng rắn lên mây. Có cây lúc lắc. Có nhà điểm danh. Hỏi thăm thầy thuốc có nhà hay không...". Đọc đến đây, hẳn các anh chị 8x nhớ đến quay quắt một thời dầm nắng, nối đuôi nhau và cười phớ lớ chơi trò rồng rắn lên mây nhỉ. Đây là một trong những trò chơi dân gian bất hủ cùng với "chi chi chành chành", "nu na nu nống"... mà có lẽ không một bạn nào có thể quên được. Thế còn món ăn gì khiến teen thế hệ trước bồ kết nhỉ. Những buổi trưa hè nắng nóng, chỉ cần nghe thấy tiếng bác bán kem dạo "Ai kem đậu xanh, kem cốm, sữa dừa nào", cùng với tiếng còi bíp bíp nữa là dù có đang làm gì, trẻ con cũng túa ra, vây quanh thùng xốp đòi mua kem. Kem que ngày ấy rẻ hều à, chỉ 200 đồng một chiếc thôi, có 1000 đồng là có thể khao kem "cả làng" rồi ý chứ! ^^ Món ăn ưa thích của các bạn gái hồi xưa còn có kẹo kéo nữa. Kẹo kéo là món ăn vặt giá cực rẻ, thường được bán rong nên được học sinh tụi mình rất ưa thích. Kẹo kéo rất dẻo, dễ kéo dài nhưng khi đã tạo thành thanh nhỏ thì lại trở nên giòn. Thậm chí, người bán hàng còn để nguyên nồi kẹo vừa nấu (kẹo mạch nha) cực kỳ mềm dẻo, dùng 2 chiếc đũa lấy kẹo rồi đưa cho người mua tự kéo nữa cơ. Không thể không nhắc đến món ăn cực hot từng làm các teen nhà mình điên đảo một thời, đó là món ô mai giun hay còn gọi là ô mai Thái, được bọc trong túi đỏ in hình hoa mai vàng. Thời ấy, có lẽ chẳng ai trải qua những ngày thơ ấu mà không măm măm ô mai giun đâu. Tuối thơ chúng mình ngày trước còn gắn với món sữa chua túi chỉ 500 đồng một gói được bày bán trước cổng trường mầm non và cấp 1, ăn xả láng luôn. Sau đó, giá cả tăng cao, món ăn yêu thích này tăng lên 1.000 đồng, 1.500 đồng, rồi 2.000 đồng và hiện tại là 3.000 đồng nhé. Giờ hiếm lắm mới tìm được nơi bán sữa chua túi để mà gặm, mà nhấm nháp như ngày xưa, các ấy nhỉ. Có ai nhận ra chị Bống Hồng Nhung đứng ngoài cùng bên phải đang véo von hát trong chương trình Những bông hoa nhỏ không nào? :P