Thiên Đồng

Hội viên
  • Số nội dung

    6.278
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    75

Everything posted by Thiên Đồng

  1. Chàng Ngốc học khôn Ngày xưa, ở một làng nọ có anh chàng Ngốc bố mẹ mất sớm. Ngày bố mẹ anh còn sống có cưới cho anh một người vợ và để lại cho hai vợ chồng một ngôi nhà, một đám vườn và vài sào ruộng. Nhưng thấy Ngốc đần độn, vợ anh có ý định bỏ anh đi lấy người khác. Cho nên, sau khi bố mẹ Ngốc nối nhau qua đời, vợ Ngốc cũng bỏ về nhà bố mẹ đẻ hơn một năm trời không trở lại. Giữa lúc ấy có một thầy khóa góa vợ, thấy vợ Ngốc coi được thì muốn lấy tranh. Bố mẹ vợ Ngốc vốn ham của và ham chức vị nên hối hả nhận lời. Bèn bảo chàng rể mới cứ chuẩn bị lễ vật rồi làm lễ cưới bừa, dù Ngốc có biết cũng không hơi sức đâu mà kiện tụng, vả lại anh em họ hàng nhà Ngốc chẳng còn có ai để mà bày vẽ. Về phía Ngốc, tuy bị vợ bỏ, nhưng anh cũng không biết làm thế nào để khuyên dỗ vợ trở lại với mình, cũng chẳng nghĩ gì đến chuyện thưa kiện, vì đối với anh, việc đó to lớn rắc rối quá, y như chim chích lạc vào rừng vậy. Lật đật mà ngày cưới của đôi bên đã đến. Ngốc ta tuy biết, nhưng vì chẳng có ai bày mưu tính kế, nên anh cũng cứ để mặc. Mãi đến trước ngày cưới một hôm, một người đàn bà xóm giềng thương hại Ngốc, bèn đến báo tin: - Này anh kia, anh sắp mất vợ đến nơi rồi. Chỉ nội nhật ngày kia là chúng nó làm lễ cưới đấy. Anh có biết gì không? - Có biết. - Ngốc đáp. - Thế tại sao anh không làm cách gì để trị cho chúng một mẻ? - Tôi có biết cách gì đâu, làm thế nào bây giờ? - Không biết thì phải đi học khôn với người ta chứ! Hôm sau, chàng Ngốc dậy sớm quyết định đi học khôn một phen như lời bà láng giềng khuyên bảo. Anh cứ thẳng đường đi mãi. Khi mặt trời đã lên cao, anh vẫn chưa có dịp học được cái gì, vì mọi người còn bận công việc làm ăn của họ. Qua một bãi cỏ rộng, anh thấy một lũ trẻ chăn trâu đang chơi đùa vui vẻ. Anh sán lại gần, bỗng nghe một đứa nói: - Thênh thênh ngồi đám cỏ xanh hơn ngồi chiếu hoa. Ngốc ta thấy câu nói hay hay, liền lẩm nhẩm học thuộc lòng. Anh lại đi thêm một đoạn đường dài. Đến một bờ ruộng, anh thấy có một người đang lom khom bắt chuột. Người ấy hì hục đào lỗ, đặt hom, rồi đốt một nắm rạ, quạt khói vào hang. Bỗng có một con chuột từ trong hang thò đầu ra khỏi lỗ sắp chui vào trong hom, nhưng thấy bóng người, lại thụt trở vào. Người kia giơ ngón tay chỉ và nói: - Thập thò, thập thò, không lo thì chết! Ngốc ta thấy câu nói hay hay lại lẩm nhẩm học thuộc. Bỏ người bắt chuột, chàng Ngốc lại tiếp tục cuộc hành trình. Qua một cánh đồng khác, anh nhìn thấy có hai người lực điền tát nước, đang ngồi nghỉ dưới gốc cây, hút thuốc. Người này bảo người kia: - Thượng điền tích thủy, hạ điền khan. Ngốc ta cho là câu nói hay, lại lẩm nhẩm học thuộc. Bấy giờ trời đã trưa, anh lại đi thêm một đoạn đường nữa. Trước mặt anh là dòng sông nước chảy xiết. Giữa sông, anh nhìn thấy có một cái bè gỗ đang xuôi dòng. Một ông lão mà anh gặp đứng ở trên đồi nhìn xuống cái bè, rồi bỗng chốc thốt lên một câu: - Đại mộc lưu giang bất đắc hồi cố (Cây gỗ lớn trôi sông không thể quay lại). Ngốc ta cho là câu nói hay quá, lại lẩm nhẩm học thuộc. Buổi chiều, trên đường về, anh đi qua một hàng cơm. Có hai người từ trong cửa hàng bước ra, mặt đỏ gay đang chuyện trò với nhau rôm rả. Sau đó một lát, họ từ giã nhau, người này nói với người kia: - Thôi, cơm no rượu say, tôi xin vô phép, mai ta lên quan sớm. Ngốc ta lại học thuộc lòng câu này. Cho như thế là đã đủ, và đi bộ suốt ngày đã mệt, bụng lại đói, chàng Ngốc bèn trở về nhà thổi cơm ăn, rồi lên giường nằm nhẩm lại những câu vừa học. Đoạn ngủ quên lúc nào không biết. Ngày hôm sau, chàng Ngốc ăn mặc chỉnh tề đi sang nhà bố mẹ vợ. Khi đến nơi đã thấy khách khứa tấp nập, cỗ bàn bày la liệt, hai họ đang chia nhau ngồi vào tiệc. Ngốc ta chẳng nói chẳng rằng bước vào cổng. Một người nhà chạy vào loan báo cho bố mẹ vợ Ngốc và chàng rể mới biết là chàng rể cũ tự nhiên không mời mà đến. Mọi người cười ồ tỏ ý khinh thường, nhưng cũng bảo người nhà ra mời Ngốc vào xem hắn ta định làm gì cho biết. Họ ngạc nhiên thấy Ngốc ung dung ngồi phịch xuống một đám cỏ trước sân, vừa ngồi vừa nói câu nói thứ nhất học được ngày hôm qua: - Thênh thênh ngồi đám cỏ xanh hơn ngồi chiếu hoa. Cho rằng lời nói đó có ngụ ý thách thức, nhiều người từ chỗ coi thường Ngốc chuyển sang lo lắng. Họ bèn đứng lố nhố ở cửa nhìn ra để dò thái độ. Ngốc đang ngồi, nhìn thấy họ, sực nhớ tới câu thứ hai đã học được, liền chỉ ngón tay vào nhà mà nói: - Thập thò, thập thò, không lo thì chết! Từ lo lắng, mọi người chuyển sang sợ sệt khi cảm thấy trong câu nói thứ hai của Ngốc không phải chỉ là sự thách thức mà còn có ý đe dọa. Thầy khóa hết đứng lại ngồi, rấm rứt như sắp có tai vạ. Hắn bảo bố vợ: - Thằng này không phải ngốc nghếch như bố tưởng. Con cho rằng nó đang có âm mưu gì đây. Nhưng người bố vợ thì vẫn coi thường Ngốc, đáp: - Con đừng lo. Nó ù lì như một hòn đá. Bố cam đoan với con rằng nó chẳng có phá đám gì đâu! Tuy nhiên, ông cũng ra lệnh cho mời chàng Ngốc vào nhà, nhưng chỉ đưa anh vào ngồi ở những mâm phía dưới dành cho kẻ hầu người hạ. Đó là hạng cỗ xoàng đã không có nem, mọc, giò, chả, lại cũng không có rượu. Họ thấy Ngốc ta vui vẻ bước vào ngồi lên chiếu. Và sẵn đói bụng, anh cầm đũa bát ăn rất ngon lành. Bố vợ bảo nhỏ chàng rể mới: - Con thấy không. Thậm chí nó cũng không biết nhục. Bố nói có sai đâu mà. Nhưng đang ăn, Ngốc ta cũng không quên câu nói thứ ba đã học được, nên anh ngừng lại, mỉm cười nói: - Thượng điền tích thủy, hạ điền khan... Nghe câu đòi rượu uống một cách rất văn hoa, thầy khóa sợ xanh cả mắt. Hắn bụng bảo dạ: "Nó nói được những câu như thế thì nhất định nó không chịu để mất vợ đâu, chỉ tại lão già khuyên dỗ, một hai nói nó chẳng biết gì. Thực ra nó đâu có ngốc như người ta tưởng. Việc này rồi sẽ lôi thôi to. Cái bằng khóa sinh không khéo bị lột mất, vì ta đã phạm đến danh giáo." Nghĩ vậy, hắn biết là dại, liền hầm hầm làm mặt giận, bỏ ra về. Thấy chàng rể mới toan bỏ dở cuộc, bố vợ chạy ra cố sức níu hắn lại, bảo: - Con cứ nghe bố ngồi lại mà dự cho xong đám cưới. Nó là thằng Ngốc, nó nói gì thì nó cũng không thể làm được gì sất. Những người khác cũng chạy ra giữ thầy khóa ở lại. Trong khi kẻ lôi người kéo ngoài sân thì ở trong nhà người ta bưng rượu đến cho Ngốc. Cầm chén rượu, Ngốc ta sực nhớ tới câu thứ tư, anh nói ngay: - Đại mộc lưu giang bất đắc hồ cố! Thầy khóa đang chần chừ, nửa muốn về nửa muốn ở lại, chợt khi nghe câu nói ấy, thầy liền bước thẳng ra cổng không ngoái cổ lại, vừa đi vừa lẩm bẩm: "Nó "chửi chữ" mình đấy! Thế mà ông lão cứ một hai bảo nó ngốc đặc." Thấy Ngốc ăn nói khôn ngoan khác trước, người bố vợ lúc này mới chột dạ, sai người ra tiếp Ngốc tử tế. Sau khi uống mấy chén rượu mặt đã đỏ gay, chàng Ngốc đặt đũa đứng dậy ra về. Đến sân, anh còn ngoảnh lại nói nốt câu nói cuối cùng: - Thôi, cơm no rượu say, tôi xin vô phép. Mai ta lên quan sớm! Cả nhà nghe câu nói dõng dạc bao nhiêu hồn vía đều lên mây. "Thằng này nó dọa đi kiện đây! Chắc đã có đứa nào làm thầy cho nó. Đành phải bảo con gái trở về với nó, không thì oan gia." Tuy nghĩ vậy, bố vợ Ngốc vẫn chưa tin là Ngốc đã có thể biết đường kiện cáo, bèn cho tên người nhà là Kềnh chạy sang nhà Ngốc rình xem Ngốc làm gì để biết mà lo liệu. Chàng Ngốc từ nhà bố mẹ vợ trở về đánh một giấc ngủ say. Khi tỉnh dậy, thấy trong người ngứa ngáy khó chịu, liền cởi áo xoay trần bắt rận. Giữa lúc đó Kềnh đã lén tới trèo lên một cây ổi ở góc vườn, nhìn vào cửa sổ để nghe ngóng. Hắn chỉ thấy Ngốc quay lưng về phía mình, người đang cúi xuống trước một vật gì trăng trắng. Kềnh bụng bảo dạ: "Có lẽ hắn đang viết đơn kiện". Trong lòng hồi hộp, Kềnh nín thở lắng tai nghe. Lúc này, Ngốc ta bắt được hai con rận lớn, bèn reo lên: - A! Thằng Đực và con Cái! Phải giết (Tiếng "giết", có một số địa phương phát âm nghe dễ lẫn với tiếng "viết") chúng mày mới được! Kềnh giật thót mình. Chưa bao giờ hắn lo sợ đến thế. Vì Đực và Cái chính là tên vợ chồng lão chủ nhà hắn. Hắn nói thầm: "Như vậy là hắn đã viết tên ông bà chủ mình vào đơn". Kế đó, Kềnh lại nghe tiếng Ngốc nói: - Lại thằng Béo, giết. Béo là tên thầy khóa. Kềnh vẫn cố lắng tai nghe. Tiếng của Ngốc lại vọng ra: - Lại con Lớn, giết. Lớn là tên vợ Ngốc. Kềnh vẫn lắng tai. Lại có tiếng của Ngốc. - À, thằng Kềnh! Giết, giết. Kềnh sửng sốt: "Không ngờ hắn viết cả tên mình vào đơn. Thật là tai hại." Bèn tụt xuống đất rồi chạy vào nhà van lạy, nước mắt giàn giụa: - Thưa ông, ông tha cho con. Việc gả bán là ở ông bà chủ của con và thầy khóa cả. Phận con là đầy tớ, có biết gì đâu. Xin ông sinh phúc tha cho, đừng viết tên con vào đơn! Ngốc nói: - Vậy thì mày hãy về bảo với ông bà phải trả vợ cho tao. Nghe nói, Kềnh ba chân bốn cẳng chạy về. Đến nhà, hắn vừa thở hổn hển vừa kể lại mọi việc. Mẹ vợ Ngốc bảo chồng: - Thôi ông ạ! Vô phúc đáo tụng đình! Bảo con chịu khó trở về với nó đi thôi. Trả lễ cho thầy khóa! Đừng để của trong nhà tự dưng vô cớ đội nón ra đi!
  2. Theo lý thông thường, giả sử có một anh A học tới đại học và một anh B cũng tới đại học, một người C muốn nhận xét xem anh A đó có thật sự là trình đại học không, giỏi hay dở cỡ nào và so sánh giữa A và B coi ai hơn ai , thì người đánh giá C phải có trình độ bằng hay cao hơn anh A và B là đại học, hoặc cao hơn là cao học và cùng chuyên ngành hay chuyên môn của cả hai A và B thì mới nhận xét được anh A hay B đó giỏi hoặc dở hơn. Theo lý ấy thì người nhận xét câu trên chắc có "trình", chí ít cũng bằng ông Thích Ca Mâu Ni. Thiên Đồng
  3. Cây Cầu Phúc Đức Ngày xưa, có một chàng trai chuyên sống bằng nghề ăn trộm. Trong nhà còn có mẹ già phải nuôi. Tuy có lúc được lúc không, có lúc ít lúc nhiều, nhưng trong nhà chẳng bao giờ có của để dành. Hai mẹ con chàng thường phải chịu bữa ăn, bữa nhịn. Cuộc sống vô cùng nghèo khổ khó khăn. Một hôm, nhân ngày giỗ cha, mẹ chàng kể lại cho chàng nghe cuộc đời của ông và cha chàng xưa kia. Xưa kia ông nội của chàng cũng làm nghề ăn trộm, có đêm kiếm được những món đáng bạc chục, bạc trăm, nhưng bị cường hào chèn ép bắt phải cúng nạp cho chúng mới được yên thân, nên khi nhắm mắt xuôi tay cũng không để lại cho cha chàng được chút gì. Rồi đến đời cha chàng. Lớn lên, không biết chọn nghề gì khác tốt hơn, cha chàng lại nối nghề ông cụ, đến đêm lại đi rình mò hết làng trên đến xóm dưới, mà cũng không bao giờ kiếm được nổi hai bữa cho hai vợ chồng và đứa con. Rồi cha chàng chết đi cũng không có gì để lại. Nay đến đời chàng, lao theo cái nghề này đã gần hai chục năm rồi mà tay trắng vẫn hoàn trắng tay. Đã vậy, chàng cũng không tìm được nổi một người vợ, mặc dầu đã gần bốn chục tuổi đầu. Nghe mẹ kể lại đời cha ông xưa và nhìn cuộc đời mình chàng không khỏi thấy ngán ngẩm. Chẳng bao lâu sau, mẹ chàng ngã bệnh, nhà lại không có gì để ăn. Nghe có ông thầy đồ xóm bên được học trò biếu nhiều thức ngon lành, chàng liền đến rình nhà, định ăn trộm cái miếng giò lợn treo trên gác bếp. Rình mãi tới khuya, ông thầy vẫn chưa đi ngủ, ông đọc hết trang sách này tới trang sách khác. Chợt ông thầy đọc tới câu: "Tích thiện chi gia tất hữu dư hương; tích bất thiện chi gia tất hữu dư ương"[1]. Chàng bụng bảo dạ: "Phải chăng ông cha ta làm nghề thất đức nên để khổ nhục lại cho ta"? Rồi tự đáp: "Phải, quả thật đúng như vậy". Đoạn chàng chạy một mạch về nhà, quyết từ nay bỏ nghề ăn trộm. Sáng hôm sau, chàng vác búa vào rừng hái củi mang ra chợ bán. Công việc thật là vất vả, hái được một gánh củi chàng phải đổi một bát mồ hôi mới kiếm được một món tiền mua gạo, nhưng chàng thấy yên tâm hơn mọi ngày. Tuy vậy, đi đến đâu, chàng cũng nghe tiếng người xì xào: "Cẩn thận đấy! Cái thằng ba đời ăn trộm đã đến kia!". Cái tiếng "ba đời ăn trộm" làm cho chàng buồn bã. Chàng nghĩ: "Từ nay ta phải làm những việc gì phúc đức họa may mới xóa được mấy tiếng đó". Một ngày mùa hạ, trời mưa to nước lũ tràn về. Chàng đem củi đi chợ bán, vì nước lũ tràn về nhanh quá, không thể lội qua sông như mọi hôm được. Hàng trăm người ùn lại vì chưa có đò, mặt trời đã khuất sau rặng núi, mà mọi người vẫn loay hoay ở bờ sông. Chàng bèn nghĩ tới việc bắc một cái cầu. Đêm ấy, ngủ lại bến sông cùng với nhiều người khác, chàng đem chuyện bắc cầu ra hỏi bà con, nhiều người nói: - Đó là một điều phúc đức được muôn ngàn người nhớ ơn. Trước đây cũng đã có người làm nhưng rồi lại bỏ dở... Sáng hôm sau, nước rút, chàng lội sông về nhà, tới nhà, chàng đem ý định bắc cầu ra hỏi ý kiến mẹ. Mẹ chàng rất vui và giục chàng dốc sức bắc cầu! Từ đó, cứ sáng chàng lên rừng chặt cây; chiều ra sức chuyển gỗ; trưa cố hái thêm một gánh củi để về cho mẹ đi chợ. Chàng làm việc quên ngày tháng. Buổi chặt cây, buổi chuyển gỗ, buổi bắc cầu, không bao lâu đã bắc được hơn chục sải cầu. Công việc còn nhiều nặng nhọc vì con sông rộng gần hai trăm sải. Vì ăn đói mà làm nhiều nên chàng bị kiệt sức. Một hôm đói quá chàng nằm lăn ra mê man ở đoạn cầu đang làm dở. Những người đi qua xúm lại cứu chữa, nhưng chàng vẫn chưa hồi tỉnh. Giữa lúc ấy có một viên quan võ đi đến, thấy một đám đông đang xúm quanh một người nằm sõng soài, viên quan xuống ngựa đến gần hỏi chuyện. Mọi người cho biết đây là anh chàng bắc cầu làm phúc đang làm thì vì mệt quá mà lăn ra ngất đi... Viên quan liền mở túi lấy thuốc cho chàng uống. Được một lúc, chàng bắc cầu tỉnh lại, mọi người tản dần ra về, viên quan ngồi lại bên chàng ân cần hỏi chuyện. Chàng thật thà kể hết cho ông nghe cuộc đời của mình và nói rõ ý định cùng công việc đang làm. Viên quan võ nghe nói ra chiều cảm động, ông ngồi ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói: - Xưa kia cha ông chàng làm nghề thất đức để cho chàng ngày nay phải đói nghèo. Nay, chàng muốn làm điều phúc đức để chuộc lỗi lầm xưa kia, quả là hay vô cùng! Về phần tôi, tôi xin nói thật: cha tôi, ông tôi, ông cụ ông kỵ tôi, đời đời làm quan ức hiếp dân lành, bóp hầu bóp cổ để nã tiền, nã của. Đấy cũng là điều thất đức, vì vậy đến tôi ngày nay trời quả báo: lấy vợ đã hơn hai mươi năm rồi mà không có một đứa con để vui cửa vui nhà, cho nên, tuổi đã ngoài bốn mươi, chúng tôi vẫn phải sống hiu quạnh. Nay tôi cũng muốn làm điều phúc đức để chuộc lỗi lầm xưa, chẳng hay chàng có cho tôi góp sức cùng nhau bắc cầu được không? Chàng bắc cầu vui mừng nói: - Nếu quan lớn có chí hướng như vậy thì cái cầu này sẽ chóng xong, dân chúng sẽ mau được qua lại, còn gì tốt hơn! Hai người bèn kể cho nhau biết tên tuổi, quê quán rồi kết làm anh em, viên quan võ hơn chàng bắc cầu bốn tuổi, được nhận là anh. Chàng bắc cầu nói: - Em còn có mẹ già ở nhà, vì nhà nghèo, phải bán củi lấy tiền mua gạo cho nên ngày nào em cũng phải đem củi về nhà để sáng hôm sau mẹ đem củi ra chợ bán lấy tiền. Viên quan võ thân mật bảo chàng: - Anh có nhiều tiền của, anh sẽ bỏ ra nuôi mẹ để em khỏi phải bận tâm, như vậy chúng ta sẽ chuyên chú vào việc bắc cầu, em nghĩ thế nào? Chàng bắc cầu nói: - Nếu vậy thì còn gì hay hơn! Từ đấy, hàng ngày hai anh em cùng nhau lên núi đốn cây, chuyển gỗ. Chẳng bao lâu, hai người đã dựng xong chiếc cầu gỗ hơn hai trăm sải. Dân chúng ai cũng vui mừng, họ đặt tên là cầu Phúc Đức. Các cụ hai làng hoan hỉ cùng nhau bàn định góp tiền làm một bữa tiệc ăn mừng cầu. Ngày ăn mừng chiếc cầu, các vị bô lão và tất cả dân chúng quanh vùng nô nức đến dự, ai cũng cầu xin Ngọc Hoàng ban phúc cho hai người bắc cầu, họ ăn uống linh đình suốt cả buổi sáng. Bỗng một cơn gió bất chợt kéo đến, gió thổi mạnh, làm cúi rạp ngọn cỏ nghiêng ngả cành cây. Gió thổi mỗi lúc một mạnh, rồi bất thình lình cuốn anh chàng bắc cầu đi mất. Viên quan võ thất thanh kêu gọi, tất cả mọi người đều ngậm ngùi. Thấy người em kết nghĩa của mình hết lòng hết sức hàng ba năm trời ra làm cầu mà lại không được hưởng phúc, viên quan xót xa lắm. Sau khi mọi người đã ra về, ông đón vợ sang ở chung với bà cụ để sớm hôm trông nom, phụng dưỡng bà thay người em kết nghĩa. Lại nói đến chàng bắc cầu bị gió lốc cuốn tới một cái hang trên một ngọn núi cao. Chàng lảo đảo đứng chưa kịp vững. Cơn gió bỗng vụt hóa thành người tươi cười nói với chàng: - Nhà ngươi chớ sợ, ta là thần Gió được Ngọc Hoàng sai đi đón nhà ngươi về đây để thưởng cho ngươi cái công thành tâm làm chuyện phúc đức. Bạc vàng đấy, nhà ngươi muốn lấy bao nhiêu thì lấy. Chàng bắc cầu nhìn vào hang thấy đống vàng sáng chói. Chàng cởi áo gói lấy một số vàng, rồi buộc lại cẩn thận, chàng vác gói vàng lên vai, tiến ra cửa hang, thần Gió lại hóa thành cơn gió lốc cuốn chàng đi, trả về bản và đặt chàng nhẹ nhàng xuống giữa sân nhà. Chàng bắc cầu sung sướng để gói vàng xuống rồi lên tiếng gọi cửa. Nghe tiếng gọi, mẹ chàng và hai vợ chồng viên quan võ tưởng là hồn chàng bắc cầu hiện về, liền dắt nhau lại ngồi quanh chiếc bàn thờ thắp hương khấn vái lầm rầm. Nhìn qua kẽ liếp thấy ba người vừa cúi lạy, vừa khấn, chàng bắc cầu bật cười lại một lần nữa chàng lên tiếng gọi: - Mẹ ơi! Anh ơi! Em đây mà! Em hãy còn sống trở về nhà đây! Mau mau mở cửa! Nghe rõ tiếng gọi của con, bà mẹ mừng quýnh, lật đật xuống giường. Vợ chồng viên quan võ cũng chạy ra mở cửa, đón người em kết nghĩa. Chàng bắc cầu ngồi xuống kể lại ngọn ngành câu chuyện được thần Gió đưa đi lấy vàng cho cả nhà nghe, mọi người reo mừng sung sướng. Từ đấy mẹ con chàng bắc cầu bắt đầu trở nên giàu có, chàng mời hai vợ chồng người anh kết nghĩa ở lại và cùng nhau làm ăn. ít lâu sau, vợ viên quan võ có chửa, đến tháng đến ngày chị sinh hạ được một con trai. Hai vợ chồng mừng vô kể. Còn chàng bắc cầu ít lâu sau cũng lấy vợ có con và sống sung sướng đến già. [1]Tích thiện chi gia tất hữu dư hương; tích bất thiện chi gia tất hữu dư ương : Ý nói nhà làm nhiều việc thiện sẽ được tiếng thơm và cái phúc về sau, còn nếu làm nhiều việc trái lương tâm ắt gặp phải tai họa muôn đời. ========== Bỏ công và bỏ của, cái nào cũng làm nên được cái cầu phúc đức cả. Bàn chi công hơn hay của hơn? Thiên Đồng
  4. Cây Cầu Phúc Đức Ngày xưa, có một chàng trai chuyên sống bằng nghề ăn trộm. Trong nhà còn có mẹ già phải nuôi. Tuy có lúc được lúc không, có lúc ít lúc nhiều, nhưng trong nhà chẳng bao giờ có của để dành. Hai mẹ con chàng thường phải chịu bữa ăn, bữa nhịn. Cuộc sống vô cùng nghèo khổ khó khăn. Một hôm, nhân ngày giỗ cha, mẹ chàng kể lại cho chàng nghe cuộc đời của ông và cha chàng xưa kia. Xưa kia ông nội của chàng cũng làm nghề ăn trộm, có đêm kiếm được những món đáng bạc chục, bạc trăm, nhưng bị cường hào chèn ép bắt phải cúng nạp cho chúng mới được yên thân, nên khi nhắm mắt xuôi tay cũng không để lại cho cha chàng được chút gì. Rồi đến đời cha chàng. Lớn lên, không biết chọn nghề gì khác tốt hơn, cha chàng lại nối nghề ông cụ, đến đêm lại đi rình mò hết làng trên đến xóm dưới, mà cũng không bao giờ kiếm được nổi hai bữa cho hai vợ chồng và đứa con. Rồi cha chàng chết đi cũng không có gì để lại. Nay đến đời chàng, lao theo cái nghề này đã gần hai chục năm rồi mà tay trắng vẫn hoàn trắng tay. Đã vậy, chàng cũng không tìm được nổi một người vợ, mặc dầu đã gần bốn chục tuổi đầu. Nghe mẹ kể lại đời cha ông xưa và nhìn cuộc đời mình chàng không khỏi thấy ngán ngẩm. Chẳng bao lâu sau, mẹ chàng ngã bệnh, nhà lại không có gì để ăn. Nghe có ông thầy đồ xóm bên được học trò biếu nhiều thức ngon lành, chàng liền đến rình nhà, định ăn trộm cái miếng giò lợn treo trên gác bếp. Rình mãi tới khuya, ông thầy vẫn chưa đi ngủ, ông đọc hết trang sách này tới trang sách khác. Chợt ông thầy đọc tới câu: "Tích thiện chi gia tất hữu dư hương; tích bất thiện chi gia tất hữu dư ương"[1]. Chàng bụng bảo dạ: "Phải chăng ông cha ta làm nghề thất đức nên để khổ nhục lại cho ta"? Rồi tự đáp: "Phải, quả thật đúng như vậy". Đoạn chàng chạy một mạch về nhà, quyết từ nay bỏ nghề ăn trộm. Sáng hôm sau, chàng vác búa vào rừng hái củi mang ra chợ bán. Công việc thật là vất vả, hái được một gánh củi chàng phải đổi một bát mồ hôi mới kiếm được một món tiền mua gạo, nhưng chàng thấy yên tâm hơn mọi ngày. Tuy vậy, đi đến đâu, chàng cũng nghe tiếng người xì xào: "Cẩn thận đấy! Cái thằng ba đời ăn trộm đã đến kia!". Cái tiếng "ba đời ăn trộm" làm cho chàng buồn bã. Chàng nghĩ: "Từ nay ta phải làm những việc gì phúc đức họa may mới xóa được mấy tiếng đó". Một ngày mùa hạ, trời mưa to nước lũ tràn về. Chàng đem củi đi chợ bán, vì nước lũ tràn về nhanh quá, không thể lội qua sông như mọi hôm được. Hàng trăm người ùn lại vì chưa có đò, mặt trời đã khuất sau rặng núi, mà mọi người vẫn loay hoay ở bờ sông. Chàng bèn nghĩ tới việc bắc một cái cầu. Đêm ấy, ngủ lại bến sông cùng với nhiều người khác, chàng đem chuyện bắc cầu ra hỏi bà con, nhiều người nói: - Đó là một điều phúc đức được muôn ngàn người nhớ ơn. Trước đây cũng đã có người làm nhưng rồi lại bỏ dở... Sáng hôm sau, nước rút, chàng lội sông về nhà, tới nhà, chàng đem ý định bắc cầu ra hỏi ý kiến mẹ. Mẹ chàng rất vui và giục chàng dốc sức bắc cầu! Từ đó, cứ sáng chàng lên rừng chặt cây; chiều ra sức chuyển gỗ; trưa cố hái thêm một gánh củi để về cho mẹ đi chợ. Chàng làm việc quên ngày tháng. Buổi chặt cây, buổi chuyển gỗ, buổi bắc cầu, không bao lâu đã bắc được hơn chục sải cầu. Công việc còn nhiều nặng nhọc vì con sông rộng gần hai trăm sải. Vì ăn đói mà làm nhiều nên chàng bị kiệt sức. Một hôm đói quá chàng nằm lăn ra mê man ở đoạn cầu đang làm dở. Những người đi qua xúm lại cứu chữa, nhưng chàng vẫn chưa hồi tỉnh. Giữa lúc ấy có một viên quan võ đi đến, thấy một đám đông đang xúm quanh một người nằm sõng soài, viên quan xuống ngựa đến gần hỏi chuyện. Mọi người cho biết đây là anh chàng bắc cầu làm phúc đang làm thì vì mệt quá mà lăn ra ngất đi... Viên quan liền mở túi lấy thuốc cho chàng uống. Được một lúc, chàng bắc cầu tỉnh lại, mọi người tản dần ra về, viên quan ngồi lại bên chàng ân cần hỏi chuyện. Chàng thật thà kể hết cho ông nghe cuộc đời của mình và nói rõ ý định cùng công việc đang làm. Viên quan võ nghe nói ra chiều cảm động, ông ngồi ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói: - Xưa kia cha ông chàng làm nghề thất đức để cho chàng ngày nay phải đói nghèo. Nay, chàng muốn làm điều phúc đức để chuộc lỗi lầm xưa kia, quả là hay vô cùng! Về phần tôi, tôi xin nói thật: cha tôi, ông tôi, ông cụ ông kỵ tôi, đời đời làm quan ức hiếp dân lành, bóp hầu bóp cổ để nã tiền, nã của. Đấy cũng là điều thất đức, vì vậy đến tôi ngày nay trời quả báo: lấy vợ đã hơn hai mươi năm rồi mà không có một đứa con để vui cửa vui nhà, cho nên, tuổi đã ngoài bốn mươi, chúng tôi vẫn phải sống hiu quạnh. Nay tôi cũng muốn làm điều phúc đức để chuộc lỗi lầm xưa, chẳng hay chàng có cho tôi góp sức cùng nhau bắc cầu được không? Chàng bắc cầu vui mừng nói: - Nếu quan lớn có chí hướng như vậy thì cái cầu này sẽ chóng xong, dân chúng sẽ mau được qua lại, còn gì tốt hơn! Hai người bèn kể cho nhau biết tên tuổi, quê quán rồi kết làm anh em, viên quan võ hơn chàng bắc cầu bốn tuổi, được nhận là anh. Chàng bắc cầu nói: - Em còn có mẹ già ở nhà, vì nhà nghèo, phải bán củi lấy tiền mua gạo cho nên ngày nào em cũng phải đem củi về nhà để sáng hôm sau mẹ đem củi ra chợ bán lấy tiền. Viên quan võ thân mật bảo chàng: - Anh có nhiều tiền của, anh sẽ bỏ ra nuôi mẹ để em khỏi phải bận tâm, như vậy chúng ta sẽ chuyên chú vào việc bắc cầu, em nghĩ thế nào? Chàng bắc cầu nói: - Nếu vậy thì còn gì hay hơn! Từ đấy, hàng ngày hai anh em cùng nhau lên núi đốn cây, chuyển gỗ. Chẳng bao lâu, hai người đã dựng xong chiếc cầu gỗ hơn hai trăm sải. Dân chúng ai cũng vui mừng, họ đặt tên là cầu Phúc Đức. Các cụ hai làng hoan hỉ cùng nhau bàn định góp tiền làm một bữa tiệc ăn mừng cầu. Ngày ăn mừng chiếc cầu, các vị bô lão và tất cả dân chúng quanh vùng nô nức đến dự, ai cũng cầu xin Ngọc Hoàng ban phúc cho hai người bắc cầu, họ ăn uống linh đình suốt cả buổi sáng. Bỗng một cơn gió bất chợt kéo đến, gió thổi mạnh, làm cúi rạp ngọn cỏ nghiêng ngả cành cây. Gió thổi mỗi lúc một mạnh, rồi bất thình lình cuốn anh chàng bắc cầu đi mất. Viên quan võ thất thanh kêu gọi, tất cả mọi người đều ngậm ngùi. Thấy người em kết nghĩa của mình hết lòng hết sức hàng ba năm trời ra làm cầu mà lại không được hưởng phúc, viên quan xót xa lắm. Sau khi mọi người đã ra về, ông đón vợ sang ở chung với bà cụ để sớm hôm trông nom, phụng dưỡng bà thay người em kết nghĩa. Lại nói đến chàng bắc cầu bị gió lốc cuốn tới một cái hang trên một ngọn núi cao. Chàng lảo đảo đứng chưa kịp vững. Cơn gió bỗng vụt hóa thành người tươi cười nói với chàng: - Nhà ngươi chớ sợ, ta là thần Gió được Ngọc Hoàng sai đi đón nhà ngươi về đây để thưởng cho ngươi cái công thành tâm làm chuyện phúc đức. Bạc vàng đấy, nhà ngươi muốn lấy bao nhiêu thì lấy. Chàng bắc cầu nhìn vào hang thấy đống vàng sáng chói. Chàng cởi áo gói lấy một số vàng, rồi buộc lại cẩn thận, chàng vác gói vàng lên vai, tiến ra cửa hang, thần Gió lại hóa thành cơn gió lốc cuốn chàng đi, trả về bản và đặt chàng nhẹ nhàng xuống giữa sân nhà. Chàng bắc cầu sung sướng để gói vàng xuống rồi lên tiếng gọi cửa. Nghe tiếng gọi, mẹ chàng và hai vợ chồng viên quan võ tưởng là hồn chàng bắc cầu hiện về, liền dắt nhau lại ngồi quanh chiếc bàn thờ thắp hương khấn vái lầm rầm. Nhìn qua kẽ liếp thấy ba người vừa cúi lạy, vừa khấn, chàng bắc cầu bật cười lại một lần nữa chàng lên tiếng gọi: - Mẹ ơi! Anh ơi! Em đây mà! Em hãy còn sống trở về nhà đây! Mau mau mở cửa! Nghe rõ tiếng gọi của con, bà mẹ mừng quýnh, lật đật xuống giường. Vợ chồng viên quan võ cũng chạy ra mở cửa, đón người em kết nghĩa. Chàng bắc cầu ngồi xuống kể lại ngọn ngành câu chuyện được thần Gió đưa đi lấy vàng cho cả nhà nghe, mọi người reo mừng sung sướng. Từ đấy mẹ con chàng bắc cầu bắt đầu trở nên giàu có, chàng mời hai vợ chồng người anh kết nghĩa ở lại và cùng nhau làm ăn. ít lâu sau, vợ viên quan võ có chửa, đến tháng đến ngày chị sinh hạ được một con trai. Hai vợ chồng mừng vô kể. Còn chàng bắc cầu ít lâu sau cũng lấy vợ có con và sống sung sướng đến già. [1]Tích thiện chi gia tất hữu dư hương; tích bất thiện chi gia tất hữu dư ương : Ý nói nhà làm nhiều việc thiện sẽ được tiếng thơm và cái phúc về sau, còn nếu làm nhiều việc trái lương tâm ắt gặp phải tai họa muôn đời.
  5. Sự Tích Con Nhái Ngày xưa có hòa thượng trẻ, nổi tiếng chân tu. Mọi "thị dục" của bản thân, hoà thượng đều kiên quyết cắt đứt, chỉ một lòng chuyên chú vào lẽ hư vô của đạo Thiền. Nhà Vua trong nước nghe nói vô cùng kính trọng hòa thượng, liền mời hoà thượng về cung phong cho chức quốc sư, và sai tu bổ một ngôi chùa ở phía nam kinh thành để cho hòa thượng trụ trì. Nhưng hòa thượng từ chối, chỉ xin phép đi quan chiêm các chùa chiền, các cảnh đẹp trong thiên hạ. Từ lâu Phật bà Quan âm đã nghe tiếng đồn về hòa thượng. Nhân cuộc đi chơi của hòa thượng, Phật bà định bụng thử xem con người đó như thế nào. Nếu quả đúng là chân tu thì sẽ đưa về Tây trúc cho hóa thành Phật. Lúc hòa thượng sắp đi qua một con sông rộng, Phật bà hóa ra một cô gái rất đẹp, chống đò cập bến chờ khách qua sông. Hôm đó cũng theo cách mầu nhiệm của Phật bà, khúc sông đó trở nên vắng vẻ, người và thuyền qua lại rất ít. Khi hòa thượng chui vào trong khoang đò thì cô gái nhổ sào chèo ra giữa sông, đoạn nàng chèo thuyền đến một bãi cát vắng rồi đậu lại. Hòa thượng hỏi vì sao thì cô gái mỉm cười hóm hỉnh trả lời sẽ đi ngay. Rồi cô gái chui vào khoang tỏ tình cách trắng trợn là thấy nhà sư đẹp quá nên vào đây xin chút tình yêu. Hòa thượng đã nghe nói gái ở vùng này đáo để, nên nghiêm nét mặt trả lời: - Adi đà Phật, mong người trần giới buông tha cho kẻ tu hành này. Nhưng cô lái đò đâu có buông tha, cố sấn lại gợi tình. Hòa thượng không nói gì lẳng lặng mở cuốn kinh Kim cương tam muội ra tụng. Tiếng đọc của hòa thượng mỗi lúc mỗi lớn át tiếng nài nỉ của cô lái đò. Nhưng cô lái đò vẫn cười cười lấy tay che quyển kinh. Hòa thượng nghiêm khắc cảnh cáo: - Adi đà Phật, trong người bần tăng có một tờ lệnh của hoàng đế. Hoàng đế ra lệnh cho ai chạm vào bần tăng sẽ bị án trảm quyết, bần tăng mong người đừng chạm vào phép của thiên tử. Lời cảnh cáo của nhà sư không làm cho cô gái nhụt chí, cô van xin: - Em đang muốn chết đây, chỉ mong chàng đoái thương em một tí rồi chết cũng thỏa. Hồi lâu thấy lòng nhà sư không chuyển, cô lái đò thi hành mưu khác, cô nhất định quyến dũ cho bằng được. Cô bắt đầu cởi áo ra. Khi chiếc cổ yếm buông xuống thì hòa thượng nhắm mắt lại. Hòa thượng lấy chiếc áo trong gói của mình khoác vào người nàng, tay hòa thượng vẫn lần hạt, miệng nhẩm nhẩm tụng kinh. Phật bà quan âm rất cảm động, nhìn người con Phật như thế xứng đáng chiếm một chỗ trên Niết bàn. Nhưng đã thử phải thử cho trót. Sau lần tấn công thứ 9, cô gái vẫn bị cự tuyệt, dù hơi thở của cô gái phảng phất trên mặt hòa thượng, hòa thượng vẫn không đổi nét mặt. Nhưng đến lần thứ 10, tường thành kiên cố sụp đổ, bàn tay hòa thượng tự nhiên bỏ lên mình nàng, thế là phút chốc mất hết 20 năm tu luyện. Phật bà không được hài lòng, giận vì hòa thượng không kiên quyết trước cám dỗ của thị dục, bà nắm đầu hòa thượng vứt ngay xuống sông, lại còn bắt hóa thân thành con nhái, mất hết thanh danh của một bậc tu trì lâu năm. http://diendan.game....u-Tich-Con-Nhai
  6. Ai Mua Hành Tôi Ngày xửa ngày xưa, có một anh nông dân hiền lành chăm chỉ. Cha mẹ không may mất sớm, vợ con chưa có, mình anh suốt ngày cặm cụi với công việc đồng áng. Hàng xóm láng giềng cần gì, anh vui vẻ giúp mà chẳng quản ngại khó khăn. Một hôm anh vào rừng đốn củi, chợt nghe thấy tiếng chim kêu thoảng thốt:" Tẹc! Tẹc! Cứu! Cứu" Một con chim sẻ bé bỏng đang tìm cách thoát khỏi chiếc mỏ dữ tợn của con quạ to tướng, đen ngòm. Anh nông dân thương con chim nhỏ, vội vàng nhặt đá ném quạ ác. Qụa giật mình bỏ mồi bay lên, miệng kêu quàng quạc: "Quà! Quà! Cứ đợi đấy, tao sẽ cho mày biết tay!". Chim sẻ được chàng trai chăm sóc, trong giây lát đã hồi tỉnh. Chim chấp chới bay đi, lát sau quay lại, thả vào tay anh một chiếc lọ nhỏ rồi nói: -"Ðây là lọ nước thần có phép làm cho người già thì trẻ lại, vật nhỏ thì lớn thêm, trần gian không ai có". Từ chiếc lọ nhỏ, mùi hương ngào ngạt bay ra. Anh nghĩ bụng: - Những thứ này chỉ để cho các bà quan làm đỏm, có đâu để hạng chúng ta dùng". Rồi anh từ biệt chim sẻ, gánh củi về và treo lọ trên kèo nhà. Mấy năm sau, ở làng bên có cô gái thấy anh hiền lành chăm chỉ, nên đem lòng thương yêu rồi nhận lời làm vợ. Cuộc sống tuy vất vả, nghèo khó, song hai vợ chồng rất mực thương nhau. Hôm ấy anh nông dân đi cày ruộng xa, chị ở nhà quét dọn nhà cửa; Thấy chiếc lọ con bị mạng nhện bám đầy trên kèo nhà, chị tò mò bắc ghế lấy xuống mở nút ra xem. Mùi hương ngào ngạt từ chiếc lọ bay ra, khiến chị hít hà hoài mà không chán. Công việc xong xuôi, chị nấu nước tắm gội sạch sẽ, sẵn tiện có chiếc lọ hương, chi đổ ra rồi xức lên tóc tai, mình mẩy. Chị bỗng trở lên xinh đẹp lạ thường. Nước thần rơi xuống mấy khóm hành bên giếng, làm chúng lớn phồng lên, củ to như bình vôi, dọc dài bằng đòn gánh. Khi người chồng đi cày về nhìn mặt vợ thì ngẩn cả người cứ tưởng là tiên sa xuống cõi trần, nếu không có tiếng nói thì cơ hồ anh không nhận ra là vợ mình. Nghe vợ nhắc đến lọ nước thơm, anh mới sực nhớ tới chuyện đền ơn của con chim sẻ trước đây. Nỗi mừng biết lấy chi cân, anh ngắm vợ mãi không chán mắt, rồi kể lại câu chuyện cũ cho vợ nghe. Từ đấy anh cứ quấn quýt lấy vợ không rời. Công việc đồng áng vì thế cũng mười phần bê trễ. Nhưng không làm thì lấy gì mà ăn. Anh đành thuê thợ vẽ hình chị, để mỗi khi ra đồng ngắm cho đỡ nhớ. Mấy hôm sau, có một con quạ cứ lượn lờ nơi anh cày ruộng. Nó chờ đến buổi trưa, lúc anh sơ sểnh liền xà xuống quắp lấy bức tranh mang đi. Qụa vội vã cất cánh bay cao, chỉ trong một thoáng là mất hút. Anh nông dân chỉ biết nhìn theo, giậm chân kêu trời. Quạ bay mãi tới kinh đô, thả xuống ở sân rồng. Bọn thị vệ thấy sự lạ lùng, bèn nhặt lên đem trình vua. Cầm lấy bức truyền thần vua ngắm nghía mãi không chán mắt, quên cả các quan đang đứng chầu. Vua nghĩ thầm: "Trong ba cung sáu viện của ta đã có nhiều người đẹp, nhưng chưa có người nào đẹp bằng người đàn bà trong tranh này. Hẳn là trời sai con quạ đến mách cho ta đây!". Lập tức vua ban chiếu chỉ lệnh, lệnh cho quân quan phải tìm cho được người đàn bà đã vẽ trong tranh mang về. Ai tìm thấy sẽ được trọng thưởng.Các quan không bỏ lỡ dịp lập công, liền cho người về các địa phương sục sạo khắp hang cùng ngõ hẻm. Họ bày ra nhiều hội hè ở các khắp nơi cho dân chúng đổ về xem . Mỗi lần thấy dân tập hợp đông đúc, chúng đưa bức tranh ra giả tảng nói là tình cờ bắt được, người nào mất thì đến mà nhận, hoặc giả ai biết chủ nhân của bức tranh sẽ được thưởng hậu, nghe thế, mọi người nghe vậy, liền rủ nhau đổ về xem đông nghịt. Anh nông dân biết tin ấy, vội vã tới nơi xem hội. Khi vừa nhìn thấy bức tranh, anh mừng rỡ chạy tới, miệng rối rít cảm ơn: " May cho con quá, đây là bức tranh của con bị mất. con đi tìm mãi! Con đội ơn các quan!" Đám quân quan chỉ chờ có thế, vội vã lén theo anh về nhà. Khi vừa nhìn thấy vợ anh, lũ lính liền bắt trói anh lại, rồi đưa nàng lên kiệu về kinh, mặc kệ anh nông dân đang kêu khóc van xin. Từ khi bị bắt vào cung, chị vợ không nói không cười, áo đẹp không mặc, đầu không chải và không cho một ai đến gần. Suốt ngày chỉ u rũ, và ngồi bên bâu cửa buồn bã. Vua làm mọi cách dỗ dành, chiều chuộng, song chị vẫn không mở miệng cất tiếng 1 câu. Vua đành hạ lệnh cho rao trong dân chúng hễ ai có cách gì làm cho nàng cười nói lên được, thì sẽ ban thưởng cho quan cao lộc hậu. Nghe tin này, có nhiều người, từ những vai hề nổi tiếng, những ông trạng cười cho đến các bậc lương y, các pháp sư phù thủy v.v... đua nhau trẩy kinh hy vọng dùng tài phép làm cho người đẹp phải buột miệng nói cười. Nhưng dù đã giở đủ mọi trò, đều vô hiệu. Người chồng ở nhà buồn rầu héo hon. Khi nghe tin loan báo, biết vợ mình đang ở cung vua, anh nhổ mấy khóm hành cạnh giếng quẩy vào kinh tìm vợ. Ðến kinh đô, anh quảy gánh của mình đi lại trước cửa hoàng cung rao to: Dọc bằng đòn gánh Củ bằng bình vôi Ai mua hành tôi Thì thương tôi với! Nghe tiếng rao nét mặt của người đẹp tự nhiên tươi tỉnh. Cuối cùng, nàng quay lại bảo thị nữ: - Em hãy gọi người bán hành vào cho ta! Khi nhìn thấy mặt chồng, chi bật cười vui mừng. Thấy người đẹp đột nhiên thay đổi, vua mừng rỡ như mở cờ trong bụng. Vua ngỡ là nhờ những cây hành kỳ lạ này mà người đẹp nói cười. Ngài liền bảo anh chồng: - Hãy đặt gánh hành lại đó và cởi áo ra mau! Vua đổi áo cho anh nông dân, rồi nhún nhảy trước sân rồng đọc câu hát rao. Thấy người đẹp cười nghiêng ngả, ông ta càng lấy làm thích chí rao to: " Dọc bằng đón gánh"... Đám chó trong cung không nhận ra vua, liền nhảy xổ tới cắn. Vua sợ hãi chạy đi, la lớn: "Lính đâu mau cứu ta!" Nhưng tất cả quan quân trong triều đều chán ghét ông vua tham tài, háo sắc, nên chẳng ai đáp lại lời kêu ấy. Thần dân trăm họ thấy anh nông dân hiền lành đức độ, chị vợ đẹp người đẹp nết, liền tôn lên làm vua và hoàng hậu. Đức vua mới lên ngôi đã chăm lo việc triều chính, lo cho cuộc sống an lạc của nhân dân. Dưới thời trị vì của chàng, ai có công thì được thưởng, có tội thì phạt. Dân chúng sống trong cảnh lo ấm. yên vui. (dị bản) sưu tầm
  7. Uống bia mà sưng mỏ thì cũng...lạ...hix.
  8. Cuộc Đời Đức Thích Ca Mâu Ni Nhân dịp Phật đản 2555 lại về, Ban Biên Tập Gia Đình Phật Tử ( GĐPT )Từ Nghiêm kính xin giới thiệu với các anh chị em cuộc đời đức bổn sư Thích Ca Mâu Ni của chúng ta. Toàn bộ 35 tấm ảnh này sẽ giúp cho tất cả mọi người hiểu biết thêm về cuộc đời hành đạo vĩ đại ấy. Từ cung trời Ðâu-suất, Bồ-tát Hộ Minh được Phạm thiên và Tứ Thiên vương thỉnh mời tái sinh xuống thế. Khi Hoàng hậu Maha Mada, mẹ của Ðức Phật, thụ thai, bà nằm mộng thấy một voi trắng từ một ngọn núi vàng bạc mang một đóa hoa sen đến dâng cho bà. Ðản Sanh: Vào đêm trăng tròn tháng tư, năm 625 trước Tây lịch, Ðức Phật ra đời tại vườn Lâm-tì-ni. Sau khi sinh ra, Ngài bước bảy bước, mỗi bước có hiện ra một hoa sen nâng đở chân Ngài. Ngài tuyên bố là:” Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn” Lễ đặt tên cho Thái Tử Khi ẩn sĩ Kaladevila (A Tư Đà) đến thăm hoàng nhi, vị hoàng tử trẻ lập tức hiện ra trên đầu vị ẩn sĩ. Vua Tịnh-phạn, cha của Ngài, và dòng họ Thích-ca, đãnh lễ với Ngài. từ: http://gdpttunghiem....a-tranh-ve.html
  9. Vào ngày Hoàng tử Nanda, em cùng cha khác mẹ, sửa soạn lễ kết hôn, Ðức Phật giao bát cho Nanda. Nanda miễn cưởng mang bát đi theo Ðức Phật về tinh xá. Sau đó, Ðức Phật truyền giới xuất gia cho Nanda, và đem chàng đi xem các cung trời. Về sau, Nanda đắc quả A-la-hán. Đức Phật thuyết pháp cho vua cha lúc lâm chung, Khi vua cha qua đời, Ðức Phật châm lửa thiêu xác vua cha Tịnh-phạn trong buổi lễ Trà Tỳ, và dạy tứ chúng về lòng hiếu thảo. Ðức Phật đến cung trời Ðao-lợi để giảng Thắng Pháp - Vi Diệu Pháp (Kinh Địa Tạng) cho thân mẫu là Hoàng hậu Ma-ha Ma-da. Vào ngày Ðức Phật từ cung trời Ðao-lợi trở về, chư thiên và loài người tề tụ nghênh đón. Ðức Phật dùng thần thông cho họ thấy được toàn thể mọi thế giới. Đức Phật hiện tướng bệnh trước khi nhập diệt Ðức Phật nhập Bát-Niết-bàn trong rừng Sala, gần thành Kusinara, năm 543 trước Tây lịch, sau 45 năm hoằng pháp độ sinh Đây là cuộc đời vĩ đại của Đức Phật Thích Ca Phân chia Xá-lợi của Ðức Phật: Một vị bà-la-môn tên là Tona khuyên các vua đến từ bảy vương quốc không nên tranh nhau về Xá-lợi của Phật, mà hãy nghiêm túc thực hành theo Giáo Pháp. Sau đó, vị nầy phân chia đồng đều các phần Xá-Lợi cho các vị vua đó. Ban Biên Tập Trang Nhà Từ Nghiêm
  10. Giác Ngộ: vào buổi sớm mai vào ngày trăng tròn tháng tư (tháng Vesak), năm 588 trước Tây lịch, Ðức Phật thực chứng Tứ Diệu Ðế: Khổ, Nguyên Nhân của Khổ, sự Diệt Khổ, và Con Ðường Diệt Khổ. Ba người con gái của Ma vương tìm mọi cách để quyến rủ Ngài. Nhưng họ đều thất bại. Phạm Thiên thỉnh mời Ðức Phật giảng dạy Giáo Pháp vì hạnh phúc cho chư thiên và nhân loại. Ðức Phật giảng bài Pháp đầu tiên (Chuyển Pháp Luân) cho năm ẩn sĩ tại vườn Nai, Sarnath. Vào ngày Magha, Ðức Phật truyền Ðại Giới Bổn cho 1250 vị Tỳ kheo, và tóm tắt: “Không làm các điều ác; Gắng làm các điều lành; Luôn tu tâm tịnh ý; Chư Phật đều dạy thế.” Đức Phật về cung thăm người thân Gặp lại Da Du Đà La Vua Tịnh-phạn và Công chúa Da-du-đà-la khuyên La-hầu-la đến đòi Ðức Phật phần gia tài di sản. Ðức Phật cho phép cậu xuất gia Sa-di. Vua Tịnh-phạn rất buồn phiền về việc này. Sau đó, nhà vua đề nghị Ðức Phật không làm lể xuất gia cho những ai chưa có sự đồng ý của cha mẹ. Ðức Phật chấp nhận đề nghị đó.
  11. Thái tử Tất-đạt-ta xuất gia, rời bỏ gia đình. Ngài cùng người thị giả, Xa-nặc, cởi ngựa đến bờ sông Anoma. Thái tử Sĩ-đạt-ta cắt tóc với một nhát gươm Tự hành hạ thể xác: Thái tử Sĩ-đạt-ta, vị Phật sắp thành, hành pháp ép xác trong 6 năm đến khi Ngài trở nên rất gầy yếu. Xương trong thân lộ ra ngoài. Nhưng sự hành hạ xác thân không đưa đến giải thoát. Khi Ngài nghe một bài hát do Phạm thiên Indra đánh đàn, Ngài liên tưởng đến loại đàn với dây không căng không chùng, và từ đó Ngài khám phá con đường trung dung, Trung Ðạo. Nàng Sujata cúng dường vị Bồ-tát một bát cháo sữa với mật ong. Sujata tưởng Ngài là một vị trời. Sau khi thọ thực, Ngài ném cái bát ấy vào dòng nước (và bát ấy từ từ trôi ngược dòng). Quán tướng Duyên Khởi Long Vương hộ pháp Bồ-tát chiến thắng Ma vương Vasavatti và đoàn tùy tùng khuấy nhiễu Ngài tại cội cây Bồ-đề. Một vị nữ thần từ lòng đất hiện ra để giúp Ngài đánh bại Ma vương. Sau đó, Ma vương chịu khuất phục, và ca tụng Ngài
  12. Trong buổi lễ Hạ điền, Hoàng tử Sĩ-đạt-ta ngồi dưới một cụm cây to bóng mát và hành thiền. Mặc dù các bóng cây khác dần dần ngã dài ra theo thời gian trong ngày, bóng cây nơi Ngài ngồi thiền vẫn giữ yên như cũ. Vua cha rất vui mừng, và một lẫn nữa cúi đầu lễ Ngài. Thái tử Hoàng tử Sĩ-đạt-ta có tài thiện xảo bắn cung, và đã nâng cánh cung rất nặng mà từ trước đến nay có rất ít người nâng và dùng nó. Việc hiển thị sức mạnh phi thường nầy chứng tỏ Ngài sẽ là Ðế Vương Vũ trụ. Lễ Thành hôn: Các vị trời đến rải nước chúc phúc từ vỏ sò khi Thái tử Sĩ-đạt-đa kết hôn với Công chúc Da-du-đà-la. Thái tử sống hạnh phúc trong ba cung điện trong mọi ngày và đêm. Ngày nọ, Thái tử Sĩ-đạt-ta dạo chơi trong thành và thấy bốn dấu hiệu của một ông già, một người bệnh hoạn, một tử thi, và một ẩn sĩ. Ngài trân quý dấu hiệu sau cùng. Khi hoàng nam La-hầu-la chào đời, Thái tử Sĩ-đạt-ta quyết định lìa bỏ đời sống thế tục. Ngài đến thăm Da-du-đà-la lần cuối. Và Ngài thấy các cung phi nằm ngủ mê mệt, như những xác chết xấu xí trong nghĩa địa
  13. Tổ Tỳ Ni Đa Lưu Chi (Vinitaruci) (Trước khi chưa làm rõ vị Tổ Thiền đầu tiên sang Việt Nam là Khương Tăng Hội thì Thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi được công nhận là Thiền tổ truyền Thiền Tông sang Việt Nam – Nay đã xác định là Khương Tăng Hội thì Thiền sư là người đầu tiên truyền Thiền phái Tỳ Ni sang nước ta)) Sư là người Nam Thiên Trúc (Nam Ấn Độ) dòng Bà-la-môn tên Vinitaruci. Thuở nhỏ đã có chí khác thường, đi khắp miền Tây Trúc (Tây Ấn Độ) để tham khảo Thiền tông. Nhưng vì cơ duyên chưa gặp, Sư lại sang Đông Nam. Sư sang Trung Quốc nhằm đời Trần Tuyên Đế niên hiệu Thái Kiến năm thứ sáu (574) vào đến Trường An. Gặp thời Chu Vũ Đế phá diệt Phật pháp, Sư lại phải sang qua đất Nghiệp (Hồ Nam). Lúc ấy, Tổ Tăng Xán đang mang y bát ở ẩn trong núi Tư Không, bỗng nhiên Sư tìm gặp được Tổ. Thấy cử chỉ phi phàm của Tổ, Sư phát tâm kính mộ, đến trước vòng tay ba lần, Tổ vẫn ngồi im nhắm mắt không nói. Sư đứng suy nghĩ giây lát bỗng nhiên tâm có sở đắc. Sư liền sụp xuống lạy ba lạy, Tổ cũng chỉ gật đầu ba cái. Sư lùi lại ba bước thưa: - Đệ tử lâu nay không được an, Hòa thượng vì lòng đại từ bi, xin cho con theo hầu hạ Ngài. Tổ bảo: - Ngươi nên mau qua phương Nam giáo hóa, không nên ở đây lâu. Sau khi được tâm ấn nơi Tổ, Sư từ biệt sang Quảng Châu trụ trì tại chùa Chế Chỉ. Thời gian sáu năm ở đây, Sư dịch xong bộ kinh “Tượng Đầu Tinh Xá” chữ Phạn ra chữ Hán(1). Đến niên hiệu Đại Tường năm thứ hai nhà Chu (580), Sư sang Việt Nam trụ trì tại chùa Pháp Vân(2). Nơi đây, Sư dịch xong bộ kinh Đại Thừa Phương Quảng Tổng Trì(3). Một hôm, Sư gọi đệ tử nhập thất là Pháp Hiền bảo: - Tâm ấn của chư Phật, không có lừa dối, tròn đồng thái hư, không thiếu không dư, không đi không lại, không được không mất, chẳng một chẳng khác, chẳng thường chẳng đoạn; vốn không có chỗ sanh, cũng không có chỗ diệt, cũng chẳng xa lìa, mà chẳng phải chẳng xa lìa. Vì đối với vọng duyên mà giả lập tên ấy thôi. Bởi thế, chư Phật trong ba đời cũng như thế, nhiều đời Tổ sư cũng do như thế mà được, ta cũng do như thế được, ngươi cũng do như thế được, cho đến hữu tình vô tình cũng do như thế được. Tổ Tăng Xán khi ấn chứng tâm này cho ta, bảo ta mau về phương Nam giáo hóa, không nên ở đây lâu. Đã trải qua nhiều nơi, nay đến đây gặp được ngươi quả là phù hợp với lời huyền ký. Vậy ngươi khéo giữ gìn, giờ đi của ta đã đến. Nói xong, Sư chắp tay thị tịch. Pháp Hiền làm lễ hỏa táng, lượm xá-lợi năm sắc, xây tháp cúng dường. Năm ấy nhằm niên hiệu Khai Hoàng thứ mười bốn nhà Tùy (594). Về sau, vua Lý Thái Tông (1028-1054) có làm bài kệ truy tán phong tặng Sư: Mở lối nước Nam đến Nghe Ngài giỏi tập thiền. Hiện bày các Phật tánh Xa hiệp một nguồn tâm. Trăng Lăng-già sáng rỡ Hoa Bát-nhã ngạt ngào. Bao giờ được gặp mặt Cùng nhau bàn đạo huyền. (Sáng tự Nam lai quốc Văn quân cửu tập thiền Ứng khai chư Phật tánh Viễn hợp nhất tâm nguyên Hạo hạo Lăng-già nguyệt Phân phân Bát-nhã liên Hà thời hạnh tương kiến Tương dữ thoại trùng huyền.) từ: http://gdpttunghiem.com/
  14. ThanhHuong_Geo, Nhã Khanh, Thiên Anh ...chúc mừng nha...dzô dzô dzô!!!....
  15. Các truyện phụ lục Của đạo nhân quán Tam Thanh TRẦN TRIỀU HƯNG ĐẠO ĐẠI VƯƠNG Vương họ Trần tên Quốc Tuấn, con An Sinh Vương Liễu, phong tước là Hưng Đạo Đại Vương. An Sinh Vương cùng vua Thái Tông có hiềm khích; lúc ông sắp chết, cầm tay Vương trối rằng: - Mày hãy vì ta lấy cho được thiên hạ, nếu không thì ta chết chẳng nhắm mắt. Vương tuy vâng dạ nhưng trong lòng không lấy làm phải, mỗi khi làm gì thì hết sức cẩn thận. Khoảng năm Trùng Hưng, Vương hai lần đánh lui quân Nguyên, làm võ công bậc nhất lúc ấy. Đến khi Vương mất, vua lập đền thờ, mỗi khi có giặc đến cướp phá thì lấy gươm thời trong đền ra đánh đều được đại thắng. Vương trị bệnh tà Phạm Nhan rất linh nghiệm. Phạm Nhan miếu tại huyện Đông Hồ làng An Bài, sông Lương Giang. Tục truyền rằng: Phạm Nhạn họ Nguyễn tên Bá Linh, cha là khách buôn tỉnh Quảng Đông, mẹ là người làng An Bài nước ta, đậu tiến sĩ nhà Nguyên, giỏi thuật phù thuỷ, thường lén vào hậu cung làm sự bất chính, bị bắt được, sắp đem đi chém nhưng vừa gặp lúc nhà Nguyên qua đánh ta nên Bá Linh tình nguyện xin làm hướng đạo để chuộc tội. Nhà Nguyên thuận cho. Trận đánh sông Bạch Đằng, Bá Linh bị Vương bắt sống, đem chém ở làng mẹ, quăng đầu xuống sông; có hai người kẻ chài cứ chài được đầu lâu mãi, mới van vái rằng: - Nếu như có linh thì giúp bọn chúng tôi chài cá cho thật nhiều, chúng tôi sẽ chôn cất hẳn hoi. Quả nhiên ngày ấy họ chài được rất nhiều cá, nhiều gấp mấy ngày trước, mới đem đầu lâu lên bờ chôn cất. Hai người kẻ chái thường van vái mời Bá Linh đi theo thuyền chài chơi, lâu thành ra quen. Bá Linh thường chỉ đàn bà bảo hai người ấy ghẹo chơi thì đều được cả. hai người mới lập đền thờ phụng. Trước kia, Bá Linh sắp bị chém có hỏi Vương rằng: - Bây giờ Vương cho tôi ăn gì? Vương giận bảo rằng: - Cho mày ăn sản huyết của đàn bà. Sau khi chết, Bá Linh đi khắp trong nước, hễ gặp chỗ nào có sản phụ là theo ngay và tức thì người đàn bà ấy mê man bất tỉnh, thuốc men không thể chữa được. Nhà bệnh đến đền Vương cầu đảo, lấy chiếu cũ ở trong đền thình lình đắp lên người bệnh hay trải cho người bệnh nằm, và lấy tàn nhang nước thải cho uống thì lập tức lành ngay, có người mới đem chiếu về đến nhà là đã lành rồi, anh linh kỳ nghiệm như thế cả. Tiếm bình Vương là dòng dõi họ Đông A, chịu lời trối của cha là An Sinh Vương nhưng không chịu theo loạn mệnh, thế thì ở nhà là hiếu tử. Gặp biến loạn ở Trùng Chưng mà lập công lớn thì ở nứơc là trung thần, duy trung duy hiếu, mới che nổi cái lỗi của Tiền nhân. Công trùm thiên hạ, ngôi tột nhân thần, tiếng vang hoa di, sau khi chết lại được muôn đời huyết thực. Triều nhà Trần, tướng võ tướng văn nhiều kẻ làm danh thần, như Quốc Điền ở Chí Linh, Khắc Chung ở Lập Thạch, Quốc Điện ở Tiên Phong nhưng cuối cùng không lừng lẫy bằng Vương, đó là trung hiếu báo đền vậy chăng? Nước Mông Cổ quật khởi ở phương Bắc, nuốt nước Linh Hạ, uy hiếp Cường Kim, đánh úp nhà Cự Tống, mang cung tên đến đâu thì các nước ngoài núi biển đều trông gió mà tan vỡ, đem quân sang Nam ào ào như núi lở sông băng, gió rung mây cuốn; Vương chỉ một nhóm tàn quân dám ra chống cự, khác nào như núi Thái Sơn đè trứng, thế mà một hồi trông sông Bạch Đằng, quân Mông Cổ phơi thây nghìn dặm, há chẳng phải là việc hiếm có ở trời đất sao? Không những có công lớn với nhà Trần mà cũng có công lớn với thiên hạ đời sau nữa, nếu không có Hưng Đạo Đại Vương thì nước Nam Giao đã phải để tóc đuôisam rồi vậy. Bây giờ miếu của Vương ở giáp giới Phụng Nhãn và Chí Linh; làng Vạn Kiếp, làng Lạn Sơn hai làng phụng sự, đất ấy gần Cổ Phao, đồ sộ thiên nhan vạn hác; miếu ở lưng chừng núi, tả hữu có núi Nam Tào, Bắc Đẩu, mặt ngó xuống sông Hựu Giang, cây cỏ um tùm, đứng xa mà trông rõ ràng như một thắng cảnh ở Bồng Lai, xa gần đến cầu đảo, trên đường đong như dệt. Miếu chúc có hai người, một người ở làng Vạn Kiếp, xưng là Bắc Chúc, hễ có ai từ đường phương Bắc đến hành hương thì người này làm chủ. Một người ở làng Lạn Sơn, xưng là Đông chúc, hễ có ai từ đường phương Đông đến hành hương thì người này làm chủ. Mỗi năm tiền bổng của khách đi lễ Đông và Bắc đều cân nhau, linh dị đại khái như thế. Phụ xét các tạp thư Thái Bình, Quảng Ký có nói Trung Quốc có loài yêu hồ ly hay dâm hãm đàn bà. Nước ta không có giống quái ấy, duy có tà Phạm Nhan, ai mắc phải đến cầu tại đền Vương là lành, việc có khác nhau, chớ nên lấy hình tích mà câu nệ. ---------------------------------------- CHÉP RÕ SỰ TÍCH TỪ ĐẠO HẠNH ĐẠI THÁNH Xưa Đạo Hạnh họ Từ, tên huý là Lộ, ông thân tên là Vinh lấy đạo Thích làm Giáo tông, làm quan triều Lý đến chức Tăng Quan Đô Sát, thường qua chơi làng An Lãng, cưới con gái họ Tăng tên là Loan, làm nhà ở xóm Lang Nam làng An Lãng, được chỗ ở đúng chỗ quý địa, bẩm sinh ra Đạo Hạnh, có tiên phong đạo cốt. Đạo Hạnh lúc nhỏ du đãng nhưng có chí lớn; khi ở nhà cũng như khi ra ngoài, người đời không thể dò biết được, thường cùng với nhà nho Phí Sinh, nhà Đạo sĩ Lê Toàn Nghĩa, kép hát Phan At kết làm bạn thân; đêm thời chăm chú đọc sách, ngày thời đá cầu, thổi sáo, đánh bạc làm vui. Cha thường chửi mắng là phóng đãng, nhưng một hôm, ông lên nhòm vào phòng Vạn Hạnh thấy ngọn đèn leo lét như hạt đậu, sách vở bừa bãi; Đạo Hạnh tựa án ngủ mà tay còn cầm quyển sách, từ đó mới không la rầy con nữa; về sau, Đạo Hạnh đi thi khoa Bạch Liên tông giáo được đậu đầu nhưng ông không muốn làm quan, đêm ngày chỉ lo trả thù cho cha. Nguyên ông cha ngày trước lấy diệu thuật phạm đến Diên thành hầu, nhà Diên thành hầu có thầy pháp Đại Điên dùng phù yểm giết chết đi, quăng thây xuống sông Tô Lịch, trôi đến cầu Tây Dương, chỗ nhà Diên thành hầu ở, thây dừng ở đó, cách ngày không chịu trôi đi. Diên thành hầu sợ, đi báo thầy Đại Điên; Đại Điên đến, niệm kệ rằng: - Tăng còn giận chưa mãn túc hay sao? Sống là một cảnh hí trường, chết mới thành Bồ Đề. Dứt lời, thây liền trôi đi, đến sông Hàm Rồng làng Nhân Mục Cựu thì dừng lại. Người ta thấy có linh dị, làng ấy chôn cất rồi dựng miếu, tạc tượng mà phụng thờ, mỗi năm ngày mồng mừơi tháng giêng là ngày kỵ. Bà mẹ chôn ở chùa Ba Lăng làng Thượng An, tức nay là chùa Hoa Lăng, chùa ấy thờ hai vị thánh phụ và thánh mẫu. Đạo Hạnh chăm lo trả thù, nghĩ chưa ra kế gì, một bữa dòm thấy Đại Điên ra đi sắp làm pháp thuật đâu đó; Đạo Hạnh lấy gậy đánh Đại Điên, bỗng nghe trên không có tiếng mắng bảo thôi. Đạo Hạnh quăng gậy về nhà, thương cảm và oán hận muốn qua Tây Thiên An Độ học thêm dị thuật để về chống trả Đại Điên, mới cùng đi với hai người bạn là Minh Không và Giác Hải. Đến xứ Xỉ Man, đường sá hiểm trở, đi rất khó khăn đang muốn trở về thì thấy một ông già chèo một chiếc thuyền con đang dạo chơi trên sông; ba ngừơi cùng đến hỏi rằng: - Thưa ông, đường đây đến qua Tây Thiên còn bao xa nữa. Ông già trả lời: - Đường núi hiểm trở, đi chân không đi được đâu. Lão này có chiếc thuyền con xin chở giúp các người, và có cái gậy con, nhắm thẳng nước Tây Quốc mà đến chẳng xa là bao nhiêu, để lão chở giúp. Rồi lão đọc một bài kệ rằng: Đạo lý đương nhiên giúp các anh, Khen ai viễn học chí thành danh. Mênh mông muôn ngả qua nào khó, Chỉ một Hoàng Giang thấy thánh sinh. Đọc xong bài kệ, ngửa mặt trông chừng giây lát đã đến bờ Tây Thiên, có nhiều thần thông linh pháp. Đạo Hạnh ở lại giữ thuyền, Giác Hải, Minh Không lên bờ trước, học được linh pháp rồi bỏ đi về trước; Đạo Hạnh giữ thuyền đã ba ngày, không thấy hai người trở về, tự nhiên gặp một bà lão bên sông liền đến vái chào mà hỏi rằng: - Bà lão có thấy hai người cầu đạo đã trở về chưa? Bà lão đáp: - Hai người ấy, ta đã dạy cho linh pháp đắc đạo trở về rồi. Đạo Hạnh vừa lạy vừa nói duyên cớ ba người cùng đi với nhau như thế nào, nay lại bỏ nhau, rất là ân hận. Bà lão nghe nói, bảo Đạo Hạnh: - Hãy gánh đôi thùng nước về nhà, ta sẽ dạy linh pháp cho ngươi, cho thêm thuật thu đất và bài chú Đà La Ni nữa. Đạo Hạnh học được tất cả, nghĩ giận hai bạn thất ước mới niệm chú; Minh Không, Giác Hải đi được nửa đường, bị chú, đau bụng như cắt, Đạo Hạnh dùng thuật thu đất lại, băng bộ về trước, rồi hóa ra hổ mà núp ở trong bụi rậm làng Ngải Cầu huyện Từ Liêm, gầm thét vài tiếng, lân cận đều kinh hãi. Minh Không, Giác Hải đi ngang qua đấy, nhìn nhau ngạc nhiên, bề ngoài tuy hơi sợ nhưng trong bụng nghĩ có linh thuật lại sẵn có thông minh, biện biệt hư thực biết quả là Đạo Hạnh hóa tướng, mới ngó lui bảo rằng: - Mày muốn biết hậu thân của thân mày, đến đây ta bảo cho. Bảo Đạo Hạnh rằng: - Bọn ta cùng được Thế Tôn dạy dỗ, đạo quả đã tròn, hậu thân mày phải ra lại thế gian làm vua, nhưng bệnh trái khó bề tránh được. Bọn ta với mày có duyên, phải đến cứu giúp nhau. Đạo Hạnh khi ấy bỏ hết giận cũ, cùng nhau truyền đổi phép tiên, đi trên mặt nước, bay ở không trung, rồng phải xuống chầu, hổ phải nép, bay lên trời thu đất lại, muôn quái nghìn kỳ, vào thần ra quỷ, chẳng ai dò được huyền diệu. Khi ấy mới nhường Đạo Hạnh làm anh cả, Minh Không làm anh thứ, Giác Hải làm em út, chỗ ấy nay gọi là Bán Kiều. Minh Không, Giác Hải từ về chùa Giao Thuỷ, Đạo Hạnh tu luyện ở chùa Thiên Phúc, núi Thạch Thất; trước chùa có hai cây cổ tùng, người đời gọi là long thụ. Đạo Hạnh ngày thường chuyên đọc bài chú Đại Bi Tâm Đà La Ni, cứ đủ ức vạn nghìn lần thì cây tùng rụng xuống một nhánh. Đọc chú xong, hai cây tùng đều trụi hết. Đạo Hạnh tưởng được Quan Thế Am đã đến ứng hộ, cái sức phù chú của mình đã thấu đến Thiên Đường. Một hôm thấy có một vị thần đến, chân trước đi không bén đất, Đạo Hạnh hỏi: - Ngươi là thần gì? Thần trả lời: - Đệ tử là thần Tứ Trấn Thiên Vương, cảm vì cái công đức của Sư đã tụng kinh nên đến đây hầu Sư để Sư sai khiến. Đạo Hạnh tự biết lục trí của mình đã viên mãn, có thể trả được thù cha rồi mới trở về ở lại làng cũ là An Lãng, thân đến cầu An Quyết sông Tô Lịch, phóng cái gậy xuống dưới nước, hốt nhiên cái gậy dựng thẳng trên mặt nước rồi đi ngược dòng như bay đến cầu Tây Dương thì dừng lại. Đạo Hạnh cả mừng mà rằng: - Phép của ta hơn Đại Điên rồi đây. Rồi đi thẳng đến chổ Đại Điên ở. Đại Điên trông thấy bảo rằng: - Mày không nhớ việc ngày trước hay sao? Đạo Hạnh ngó lên trên không thì vắng vẻ không thấy gì, liền lấy gậy đánh chết Đại Điên, lại đem thây quăng ra sông Tô Lịch để trả thù xưa. Trả được thù cha, lòng trần khoan khoái mới đi chơi khắp các rừng núi, tìm hỏi cao tăng, nghe cao tăng Trí Huyền ở Thái Bình tu hành đắc đạo mới tìm đến yết kiến, tỏ hết chân tâm, cóbài kệ rằng: Lâu đọa phàm trần chửabiết kim. Chẳng hay đâu đó thật chân tâm. Xin nhờ chỉ dạy đường phương tiện, Khỏi đến Bồ Đề ngặt khó tìm. Trí Huyền cũng đáp lại bài kệ rằng: Bí quyết chân truyền giá vạn câm. Ơ trong đầy mắt thảy thuyền tâm. Hà sa thế giới nên đừng nói. Bất tất Bồ Đề cách vạn tầm. Từ Đạo Hạnh mờ mịt không hiểu ra làm sao, bỏ đi qua chùa Pháp Vân hỏi sư Sùng Phạm Hội rằng: - Thế nào gọi là chân tâm? Phạm Hội bảo cho, Đạo Hạnh quát nhiên tự ngộ bèn trở về chùa Thiên Phúc núi Thạch Thất, tu đạo luyện pháp như xưa. Từ đó pháp lực càng tăng gia, lòng thuyền thêm chín chắn, hay khiến chim núi, thú rừng, từng đoàn đến chùa đi quanh quẩn, hiền lành tử tế. Hễ phương dân ai có đau ốm đến cầu khẩn thì phi phù niệm chú linh nghiệm tức thì, dùng đạo giúp người, ai nấy đều đội ơn cả. Lúc bấy giờ Lý Nhân Tông không có con, cầu đảo đều không linh nghiệm. Hoàng đệ Sùng Hiền Hầu mời Đạo Hạnh đến nhà cùng nói chuyện về việc cầu tự. Đạo Hạnh nguyện thác thai để đền ơn Sùng hiền hầu ngày trước. Lúc ấy Phu nhân đang tắm gội ở hậu đường, hốt nhiên thấy Đạo Hạnh hiện vào trong thùng nước. Phu nhân sợ, nói với Sùng hiền hầu. Hầu vẫn biết ý, mật bảo Phu nhân rằng: - Trong thùng nước thấy hiện hình tức là chân nhân đã vào thai cung rồi. Phu nhân đừng kinh hãi. Phu nhân ý cảm như đã có thai. Đạo Hạnh từ tạ mà về, dặn rằng: - Hễ khi nào lâm bồn phải đến nói cho tôi biết. Đến ngày thai đủ tháng, Phu nhân thấy trong mình khó chịu, chuyển bụng muốn đẻ nhưng đẻ không được. Sùng thiên hầu bảo: - Thế thì phải gấp đến báo với cao tăng. Từ Đạo Hạnh nghe tin báo, bảo với đệ tự rằng: - Ta nghiệp trần chưa dứt, phải tạm ra làm vua ở nhân gian, khi hết thọ lại làm chủ ba mươi ba trời; nếu thấy chân hình của ta bị nát hết, đó là ta vào Nê Viên chớ không có sinh diệt gì đâu. Đệ tử nghe xong, ai nấy đều cảm kích mà khóc, Đạo Hạnh thuyết bài kệ rằng: Cuối thu chẳng báo nhạn về đây. Dễ khiến nhân gian động nhớ thầy. Tỏ dấu người đời không ý tiếc, Sư xưa mấy độ lại sư nay. Đọc xong, đi lên tiên động, va đầu vào vách đá, giẫm chân lên bàn đá, nghiễm nhiên thây rã ra rồi hóa, nay dấu in vẫn còn. Năm ấy là năm Bính Thân, niên hiệu Hội Tường Đại thánh thứ ba, ngày mồng bảy tháng ba mùa xuân. Từ khi Niết Bàn xuất thế, Đạo Hạnh làm con Sùng hiền hầu, không phiền dưỡng dục mà mau lớn, không cần huấn giáo mà thông minh, diện mạo khôi ngô, tài biện bạt chúng, vua chiếu đòi vào cung giáo dưỡng, sắc phong làm hoàng tử. Vua Nhân Tông băng, hoàng tử lên ngôi tức là vua Thần Tông. Đến năm Bính thìn, thời kỳ hai mươi mốt tuổi xuân, tự nhiên vua thấy thân mình hóa lông mọc vuốt, dần dần biến thành hổ; danh sư bốn phương chữa không thấy khỏi; Minh Không, Giác Hải nghe vua bị tật lạ, quả nghiệm lời nói trước mới làm ra một bài ca dao mà dạy cho trẻ hát rằng: Muốn lành bệnh Thiên tử, Phải tìm sư Minh Không. Khi ấy trẻ con hát rầm, triều đình sai Sứ đến chùa Giao Thuỷ yết sư Minh Không rằng: - Nay Thiên tử bị kỳ tật, triều đình sai Sứ qua rước Sư để chữa bệnh cho Thiên tử. Minh Không, Giác Hải lấy cái nồi nhỏ nấu cơm rồi mời Sứ giả và quân lính tuỳ tùng rằng: - Bần đạo có nấu ít cơm, xin mời chư quân tạm dùng bữa. Quan quân ăn đều no nê, nhưng niêm cơm nhỏ vẫn còn. Hai Sư cùng với Sứ giả xuống thuyền. Minh Không bảo quân lính rằng: - Các ngươi hãy tạm nghỉ ngơi, đợi con nước lên rồi đi đến Kinh Sư. Khi ấy quan quân trong thuyền đều ngủ ngon cả. Hai Sư làm phép cho thuyền không cần chèo mà tự nhiên đi bay như tên bắn, nói cười khoảnh khắc đã đến trên bờ Đông Tân. Hai Sư vội gọi quan quân dậy thì đã thấy tháp Báo Thiên rồi; quan quân rất đỗi kính phục. Khi ấy rước hai sư vào thẳng trong đền vua; các thầy thiên hạ trông thấy hai Sư hình dung cổ quái, ăn mặc quê mù thì miệt thị chẳng lấy làm kính nể, cứ ngồi yên một chỗ chẳng thèm đứng dậy chào hỏi. Hai Sư mới thò tay vào trong túi lấy ra một cái đinh sắt dài chừng năm tấc găm vào cột điện, lấy tay vỗ thì cái đinh lút mất vào cột điện. Bảo rằng: - Ai nhổ được cái đinh này ra thì chữa được bệnh Thiên tử. Nói đi nói lại hai ba lần mà không nghe ai trả lời gì cả. Minh Không lấy hai ngón tay trái nhổ đinh, đinh ở trong cột theo hai ngón tay ra ngay. Mọi người trông thấy đều phục diệu pháp. Minh Không bảo lấy ra một cái đỉnh lớn với mười hai thùng dầu, đinh sắt một trăm cái, một nhánh cây hòe, khiến đỡ Ngự giá đến hỏa đàn. Minh Không nhường cho Giác Hải châm lửa nấu dầu, lửa cháy bừng bừng, dầu sôi sùng sục. Giác Hải lấy tay rờ vào trong đỉnh, lấy ra đủ một trăm cái đinh rồi Giác Hải nhường lại cho Minh Không làm phép, Minh Không lấy nhánh hoè tẩm vào dầu, rẩy khắp mình vua, đọc chú rằng: - Quí là làm Thiên tử, lại còn đau gì! Tự nhiên lông vuốt rụng hết, lành lặn như xưa rồi lại làm vua như thường. Sau khi vua thăng hà, chùa Thiên Phúc có linh khí khác thường, người trông thấy đều kinh hãi, đem việc ấy tâu lên Tự Quân; Tự Quân sai quan đến tế, tôn phong chùa ấy là Thượng Đẳng Tối Linh Tự. Còn chỗ thây cởi bỏ ở trong động, người làng cho là linh dị đem thây bỏ vào trong lồng phụng sự. Đến niên hiệu Vĩnh Tạc nhà Minh, sứ Minh qua nứơc ta, đi ngang qua đấy nghe mùi thơm nông nực như trầm hương liền đi tìm, trông thấy thây nằm trong lồng, diện mạo như ngừơi sống, cho là ngừơi tiên ảo thoát bèn rứơc về chùa Hương Sơn làm phép hỏa táng, nhưng lửa cháy không được, trải qua bảy ngày đêm mà vẫn y nguyên không biến; người Minh không biết làm sao, toan muốn đình bãi. Đêm mộng thấy một ngừơi bảo rằng: - Ta trải nhà Lý, nhà Trần đến nay, chân thân không nát kỳ linh diệu pháp có phải ngẫu nhiên mà được thế đâu. Lòng này như muốn xin linh ứng thì phải lấy cây ở mộ ta mới chôn mà đốt mới được. Ngừơi Minh làm y như lời trong mộng, quả thấy hiệu nghiệm, bèn lấy củi đốt còn lại mà tạc tượng, để vào trong lòng mà thờ bên tả chùa Thiên Phúc. Đến đời vua Lê Thánh Tông, bà Quang Thục Hoàng Thái Hậu khiến quan Thái Uý Trinh Quốc đem lễ vật đến trước cầu đảo, bài sớ văn rằng: “Trẫm nghe Phật vốn từ bi, cũng là chỉ ư chí thiện, ra dạy thánh cho rộng thêm. Phúc khắp quần sinh, ơn thì bốn biển. Trẫm thọ mệnh Hoàng thiên giữ lấy nghiệp cả, chỉ lo gánh nặng không kham, sợ nỗi tai ương xảy đến. Vì vậy, một lòng run sợ chỉ lo cho nước thọ dân an. Nên chỉ thốn niệm kinh thành, cầu trời sức mạnh. Kính nghe chùa Tiên Tích sẵn có linh ứng người đều thấy nghe, đặc sai quan Võ vệ, trai thanh đến trước Phạm cung cầu xin thổ khảo, phỏng chẳng được như Thái Mậu nhà Thương sống hơn trăm tuổi, thời cũng được như vua Cao Tông nhà Thanh tám mươi chín năm, lại cầu cho Từ Vy thánh thọ vô cương, dân làng yên ổn làm ăn, thật nhờ ân tứ của Phật khôn xiết kể”. Dâng lễ và đọc văn xong, thoắt có điểm phi thạch; Thái Hậu trong lòng có cảm, kết thành thai nghén sinh ra Hiến Tông Hoàng Đế. Từ đó nước đảo, dân cầu đều có linh dị phi thường, nghìn thu hương hỏa, đền chùa trang nghiêm vậy. ---------------------------------- LINH CHƯƠNG LINH ỨNG ĐẠI VƯƠNG TỰ NHIÊN PHƯƠNG DUNG CÔNG CHÚA (Chuyện Triệu Xương và phu nhân) Thần này họ Triệu tên Xương, thời nhà Đường, sang làm Đô hộ nước An Nam, xe ngựa thường đi tuần chơi trong hạt. Đến làng Minh Luân huyện Đường An (Cẩn án: Phủ Bình Giang ở đời nhà Lý nhà Trần làm phủ Hồng Lộ, triều Lê chia ra đổi làm Thượng Hồng, Đường An xưa với Đường Hào làm một, trung gian chia làm Nam Bắc, Đường An thời như cũ. Đơn Loan xưa là Đơn Luân, đầu niên hiệu Gia Long đổi tên Đơn Loan) Triệu Xương mến cảnh núi lạ sông trong, người đông đất rộng, có chỗ hứng mát, có đình nghỉ chân, cảnh trí thiên nhiên thưởng ngoạn không chán, nhân lập trường học ở phía đông ấp ấy, gọi là “Đông Giao Hương hiệu”. Từ đó dân ở miền Đông, những trang anh tuấn mạo sĩ đều đến học tập, dân được nhờ có biết nhiều lễ nghĩa. Những người ở xa nghe tiếng cũng giày dép đến học. Học trò đông như mây nhóm, thành nơi đô hội, ban đầu còn xưng là Độc thôn, sau biệt ra làm xã Đơn Luân, học trò trường này đến sau có rất nhiều ngừơi thành đạt, làm quan vinh hiển. Sau khi ông mất, sĩ dân thương tiếc nhớ ơn, bèn nhân nơi nền cũ trường học mà lập đền thờ Vương, cùng với bà vợ đều xưng thần cả, hễ có cầu đảo đều được linh ứng. Trải qua các triều gia phong: Bảo Hựu Phò Vận Dực Thánh Khuông Tế Chánh Thuận Dương Vũ Uy Dũng Hậu Đức Chí Nhân Đại Vương. Phu Nhân: Gia Hạnh Trinh Thục Từ Huệ Công Chúa. (Cẩn án: niên hiệu Quang Thiệu nhà tiền Lê về sau, niên hiệu Hoàng Định nhà Hậu Lê về trước, đông thổ bị binh hỏa luôn luôn, hiện thần tuy còn mà đời này hưng, đời khác phế, tản mát đi chẳng biết đâu mà xét cho đúng…… ) Hoàng triều Minh Mạng năm thứ hai, ngày hai mươi tháng bảy năm Tân tỵ, phụng vua Thế tổ Cao Hoàng Đế, cả chấn anh oai, khai bờ mở đất, nên nay nối theo mạng lớn, sáng nối hồng đồ, gia tặng Hưng Đạo Phụ Chính Trung Đẳng Thần. Đến nay đền miếu chỉnh đốn, đền thờ trang nghiêm, linh dị càng rõ rệt hơn lúc xưa vậy. ------------------------------- BÀI BẠT TÙNG BỔ TẬP VIỆT ĐIỆN U LINH TOÀN BIÊN Nước Việt ta lập quốc, sơn kỳ thuỷ tú, địa linh nhân kiệt, liệt vào hàng với các nước trên toàn cầu, những kẻ tài năng lỗi lạc vốn chẳng kém người. Duy khí thiêng un đúc lại, sinh ra có nhiều bậc kỳ tài, sống làm danh tướng, chết làm danh thần, đàn bà thì kẻ tiết nghĩa, người trinh liệt, chính khí ấy thường chu lưu bàng bạc ở khoảng trời đất, hoặc tan ra làm Đạo cốt, làm Tiên phong, còn mãi trên đời không tiêu diệt. Xem như các sách: Công Dư Tiệp Ký, Truyền Kỳ Mạn Lục, Lĩnh Nam Chích Quái, Tang Thương Ngẫu Lục thì thấy rõ vậy. Nay tập lục của Lý Tế Xuyên, theo trong Tự Điển đời Trần mà chép ra, còn nhiều điều chưa chép nên còn thiếu sót. Ta nay quên mình là bỉ lậu, cố gắng tùng bổ, đúng như lời Lý Tế Xuyên đã bảo “Đồng hiếu sự” ấy vậy. Hoặc có kẻ bảo: những chuyện người thêm đó, anh liệt chính khí vẫn có; đến như truyện thần thông chân khí của Đạo Hạnh, Minh Không e không khỏi quá hoang đường. Vâng! Có hoang đường thực, nhưng vì lời truyền lại như vậy. Ta cũng bảo rằng: đó là chép lại những việc đã nghe mà thôi. Còn như lấy lý mà suy xét, bỏ điều quái mà giữ lại điều thường thì tại nơi người xem chứ người chép có can dự gì? Vậy nên có vài lời làm bài Bạt ghi ở sau toàn biên. Đêm Tuất tịch năm Kỷ Tỵ, Tam Thanh Quán Đạo Nhân đề.
  16. Thôi miên liệu pháp Một bà nọ mắc chứng rối loạn tuần hoàn chữa trị bằng nhiều loại thuốc men mãi không khỏi. Nghe nói bệnh này có thể điều trị bằng thôi miên, bà cũng thử xem sao. Ông thầy thôi miên nhìn xoáy sâu vào mắt bệnh nhân và bảo: - Bà hãy nhắc lại từng lời tôi nói: "Tôi đã khỏi bệnh! Đã khỏi bệnh!". Người bệnh mừng rỡ reo lên: - Tôi đã khỏi bệnh! - Bà phải trả tôi 500 đôla! - Ông thầy thôi miên nói. Bà bệnh nhân liền nhìn sâu vào mắt người vừa điều trị cho mình, niệm thần chú: - Tôi đã trả tiền rồi. Thầy hãy nói theo: "Vâng! Bà đã trả tiền rồi!". Luật không cho phép Một cô giáo miền xuôi lên dạy bổ túc văn hóa cho các cán bộ dân tộc thiểu số miền núi. Một hôm, trong giờ học toán, cô giáo cầm thước kẻ chỉ mấy chồng sách trên bàn rồi gọi một học viên nam đứng dậy, hỏi: - Nếu tôi đã có một chồng rồi, tôi lấy thêm ba chồng nữa, hỏi tất cả tôi có mấy chồng? Học viên này vội đáp: - Không được đâu, thưa đồng chí giáo viên! - Vì sao? - Pháp luật không cho phép! sưu tầm
  17. Gã Tây 'thôi miên' lừa tiền bị camera ghi hình Gã Tây bước xuống sang trọng từ xe hơi, nhân viên của cửa hàng ra đón tiếp vồn vã. Thế rồi gã ta xì xào tiếng gì đó rồi nhờ đổi tiền. Chỉ mấy phút sau, chủ tiệm hoảng hốt vì thấy mình bị mất 16 triệu đồng. >Camera chộp cảnh 2 tên trộm laptop ở làng đại học Video này do bạn đọc Dương Hoàng chia sẻ. Vụ việc xảy ra vào gần trưa ngày 23/10 tại thị trấn Đồng Văn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. Người đàn ông trung niên có vẻ ngoài Trung Đông bước trên xe hơi xuống, rồi vào tiệm nhờ đổi tiền. Camera cho thấy vụ việc diễn ra thật bất ngờ. Bởi chỉ vài động tác nhanh tay , tên lừa đảo đã lấy đi số tiền mà nạn nhân không hề hay biết, cứ như bị "thôi miên". Sau đó, hai nhân viên cửa hàng lục tung túi quần, ngăn kéo ... nhưng không thấy tiền đâu. Một người lao ra phóng xe máy đuổi theo thì đã muộn... >>Xem hình ảnh diễn biến vụ lừa đảo >>Xem clip lừa đảo do camera an ninh ghi lại Người đàn ông ngoại quốc đi xe hơi giả vờ đổi tiền để trộm cắp. Chỉ trong tháng 10/2012 ở vùng này đã có ít nhất 3 vụ lừa đảo như trên làm xôn xao dư luận, vì số tiền mà bọn lừa đảo chiếm đoạt được của người bị hại không hề nhỏ, có vụ lên tới hàng chục triệu đồng. Nạn nhân của các vụ lừa đảo này thường là các đại lý buôn bán lớn, cây xăng, hay tiệm vàng... Theo lời các nhân chứng thì thủ phạm chủ yếu là người nước ngoài có cách ăn mặc và hình dáng giống với người Trung Đông hoặc Ấn Độ. Thời điểm mà bọn chúng thường chọn để ra tay là gần trưa khi các cửa hàng này chuẩn bị đóng cửa hay có ít người qua lại. Sau khi xác định được mục tiêu, bọn chúng sẽ chủ động tiếp cận con mồi bằng kiểu hỏi đường hay nhờ đổi tiền có mệnh giá lớn. Các nhân chứng kể lại rằng bọn lừa đảo rất khôn khéo khi giả vờ như không biết tiếng Việt để đánh lạc hướng. Trong khi tiếp xúc với chúng hầu hết nạn nhân đều có chung cảm giác hoa mắt, đầu óc choáng váng, mơ màng không hoàn toàn nhớ được hành động của mình. Điều đặc biệt là bọn tội phạm này không lấy hết mà chỉ lấy một phần số tiền nạn nhân rồi nhanh chân tẩu thoát. Vì vậy nạn nhân không phát hiện ra ngay chỉ đến khi kiểm tra lại tá hỏa ra bị mất thì bọn chúng đã cao chạy xa bay. Thực tế thì đây không phải là hình thức lừa đảo mới nhưng bọn tội phạm vẫn có thể ra tay được, một phần vì tâm lý chủ quan của người bị hại, cộng thêm vài tiểu xảo tinh vi, chứ không hề có màu sắc bùa chú hay thôi miên như lời đồn thổi. Vì vậy để tránh sập bẫy của bọn tội phạm người dân cần phải luôn đề cao cảnh giác, khi phát hiện hành vi tương tự cần tỉnh táo và báo ngay cho cơ quan công an. http://vnexpress.net...amera-ghi-hinh/ Dương Hoàng
  18. Chuyện lạ về ngôi làng nói tiếng thời Âu Lạc ở Hà Nội? 10/06/2012 06:08 | Phóng sự - Khám phá Cách trung tâm Thủ đô khoảng 40km là Đa Chất (Đại Xuyên, Phú Xuyên) - làng đang lưu giữ một dòng ngôn ngữ cổ. Người dân ở đây có một thứ tiếng nói để trao đổi riêng với vốn từ vựng rất phong phú, ít phải vay mượn. Một số người đã tìm đến nghiên cứu về dòng ngôn ngữ này và đưa ra nhận định: Đây là những biệt ngữ có sự kết hợp giữa âm Nôm và âm Hán Việt. Thậm chí căn cứ vào phát tích và phả hệ của làng, một số người còn cho rằng đây là thứ ngôn ngữ thời Văn Lang - Âu Lạc còn bảo lưu được. Vào làng phải có… phiên dịch Nằm giữa ngã ba của sông Lương và sông Măng Giang (tên cổ của sông Nhuệ) là làng Đa Chất. Xã Đại Xuyên có 6 làng (nay là 6 xã) nhưng từ lâu nay Đa Chất vẫn được các làng trong xã coi là “anh cả”. Vào ngày hội các làng đều phải đem vật phẩm đến ngôi đình 500 năm tuổi, đã được xếp hạng Di tích Quốc gia để cúng tế. Đình Đa Chất (còn được gọi là đình ba nóc, đình tám mái). Đa Chất có không gian yên lành của chốn đồng quê ngoại thành với những đình, chùa, miếu, mạo và một cảm giác khác biệt. Đến đây như lạc vào một vùng đất lạ vì dân làng sử dụng một thứ ngôn ngữ riêng để trao đổi. Nếu không phải là người dân sở tại, muốn nghe được thì bạn phải có người… phiên dịch! Gặp tôi ở cổng ngôi đình, ông Thủ từ có tên Nguyễn Văn Đoàn, năm nay 73 tuổi cất giọng hỏi anh bạn đi cùng, vốn là người gốc của đất này: Mỗ khái, mỗ lõng ngoại? Nghe ông Đoàn hỏi vậy, anh bạn tôi cười rồi nói lại: Ông ấy hỏi cậu từ thành phố hay người làng khác đến? Bạn tôi dùng thứ ngôn ngữ của làng trả lời, lúc đó ông Thủ từ Đoàn mới dùng tiếng phổ thông để nói chuyện. Đường vào xã Đại Xuyên - nơi có làng Đa Chất có ngôn ngữ cổ. Mời tôi vào bệt cưu (đình làng) ông Nguyễn Văn Đoàn cho biết: Cái lệ tục của làng tôi nó vậy. Gặp người làng đầu tiên là phải dùng thứ ngôn ngữ này để trao đổi với nhau không các cụ quở chết. Tôi chả biết các cụ tổ trong làng chúng tôi sáng tạo ra thứ ngôn ngữ này từ bao giờ. Nhưng khi được sinh ra thành người chúng tôi đã thấy ông cha mình nói thứ tiếng ấy rồi. Có thể trao đổi công việc cả ngày mà không bao giờ hết vốn từ vựng. Lệ làng thưở xưa quy định tất cả những người sinh ra ở Đa Chất đều phải học thứ tiếng này. Người dân nơi đây có nghề đóng cối, sinh nhai cũng bằng thứ nghề này nên lang bạt tứ xứ, nhưng đến đâu, thấy ai nói thứ tiếng này dân tôi nhận ra nhau ngay mà không phải hỏi. Một ngày, thử làm “nhà ngôn ngữ học”, tìm hiểu tôi thấy thứ ngôn ngữ lạ mà người Đa Chất đang dùng này vô cùng phong phú. Thứ tiếng này rất ít vay mượn từ ngữ của nơi khác. Điều này có thể khẳng định rằng, ngoài giá trị khoa học về mặt ngôn ngữ thì còn có cả một quá trình phát triển mà thời gian ước tính có thể đến vài trăm năm mới hoàn thiện được về mặt tín hiệu quy định. Ngoài sự phong phú về vốn từ vựng, phải khẳng định một điều rằng thứ ngôn ngữ tạm coi là cổ (nhiều người còn cho là tiếng lóng) này của người Đa Chất rất giàu biểu cảm. Từ ngữ và cách sử dụng của họ cũng hết sức hình tượng, mà khi được nghe, tuy chưa biết nhưng cũng dễ để người ta hình dung ra được những gì mà người Đa Chất đang muốn nói. Trong ý kiến của những người biết và quan tâm đến thứ ngôn ngữ này, có người quả quyết đây là thứ ngôn ngữ thời Văn Lang - Âu Lạc còn lưu giữ lại. Sở dĩ tại sao lại dám đưa ra nhận định như vậy, tìm hiểu thêm tôi thấy rất nhiều từ ngữ mà chúng ta đang dùng hiện nay có sự vay mượn hay hoán cải của ngôn ngữ người Đa Chất. Chẳng hạn như để chỉ người bề trên, người quan trọng thì người Đa Chất dùng từ: Chóp bu. Từ này ngày nay đã phổ biến với ngôn ngữ phổ thông, chúng ta cũng hay dùng, ví như nhân vật chóp bu, quan chức chóp bu… Cứ nói đến từ này, bất cứ người Việt nào cũng hiểu đó là những người quan trọng. Hay như từ Xấn xổ, người Đa Chất dùng để nói đến một hành vi tiến tới dùng sức lực và kể cả bạo lực để làm một cái gì đó mà người khác không muốn hay bị cưỡng ép. Ngày nay tiếng phổ thông ta cũng dùng từ này để chỉ những hành vi như trên như: Hắn ta xấn xổ đến, người ta xấn xổ tới… Cùng với từ xấn này, người Đa Chất đã ghép nó với các âm khác để hội thoại như: Xấn vụ (đóng cối), xấn đìa (làm ruộng), xấn bệt (làm nhà). Ngay từ bệt để chỉ cái nhà thôi cũng rất hay, giàu hình ảnh và có sức liên tưởng. Chúng ta thường dùng từ như đánh bệt, ngồi bệt xuống để chỉ hành động và trạng thái rất thoải mái của con người. Bệt - nhà, ai cũng vậy, khi về đến nhà, người ta về với cái riêng của mình, lúc đó mọi sinh hoạt và giao tiếp cũng được cho là thoải mái nhất. Để chỉ cái đẹp, người Đa Chất dùng từ choáng. Bệt choáng (nhà đẹp), nhát choáng (gái đẹp)… Và nay, người ta vẫn dùng từ này để chỉ những cái đẹp đến sửng sốt như: Cô ấy trông choáng nhỉ? Ông ấy có cái nhà choáng nhỉ… Không chỉ hình tượng và tạo sự liên tưởng, hệ số đếm của làng cũng được hình thành với những cách đếm riêng và không phải vay mượn. Nhất (một), nhị (hai), thâm (ba), chớ (bốn), dâu (năm)… mười là lạp. Lái Lạp (hai mươi), thâm lạp (ba mươi)… bích (một trăm), bích rộng (một nghìn)… Thậm chí một số vật dụng thời hiện đại cũng đã được người dân ở đây chuyển theo ngôn ngữ riêng của mình. Đồng hồ (sưỡn nhật), sưỡn mỗ (ô tô), sưỡn trì (tàu thuỷ), sưỡn xì thiên (máy bay)… Có thể khẳng định rằng, với quy định và việc hình thành ngôn ngữ, người Đa Chất đã có tới 99% ngôn từ giao tiếp cho tiếng nói riêng của mình. Nơi còn lại duy nhất ngôn ngữ cổ Văn Lang - Âu Lạc? Vì theo lệ quy định nên người Đa Chất rất có chủ định về việc bảo lưu thứ ngôn ngữ này. Làng quy định chỉ truyền cho những người thuộc làng mình mà thôi. Vậy nên, tuy cận kề với các thôn khác như Cổ Trai, Thường Xuyên, Thái Lai, Kiều Đông, Kiều Đoài nhưng ở các làng này người dân đều không biết và không nói được thứ ngôn ngữ của người Đa Chất. Về hiện tượng ngôn ngữ khác lạ này, hiện nay có rất nhiều quan điểm và cũng mới manh nha đánh giá. Nhưng tập trung lại, nhiều người cho rằng đó là thứ tiếng lóng và thứ ngôn ngữ cổ của thời kỳ Văn Lang - Âu Lạc còn bảo lưu được. Thế nhưng trong hai quan điểm này, tiếng lóng đã gần như bị loại trừ vì tiếng lóng thường được coi là biệt ngữ - những tín hiệu ngôn ngữ riêng biệt của một nhóm người nào đó diễn ra trong một thời gian, không gian và hoàn cảnh nhất định. Như vậy, nếu là tiếng lóng thì việc sử dụng chỉ có ở một số người, không bền truyền và không thể có sự phong phú như thứ tiếng mà hiện nay người Đa Chất đang dùng. Vậy nên hiện nay, giả thiết được coi là khoa học và phù hợp nhất: Đây là một dòng ngôn ngữ cổ, có thể là ngôn ngữ Văn Lang - Âu Lạc. Ông Chu Huy (Hội viên Hội Ngôn ngữ Việt Nam) và Nguyễn Dấn (Hội viên Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam) đã bước đầu khẳng định: “Tìm hiểu những biệt ngữ này thấy có sự kết hợp giữa âm Nôm và âm Hán Việt, âm thông dụng và âm ít dùng, âm nói tắt, âm nói gọn và âm dân dã”. Hơn thế, người dân ở đây còn truyền tụng một câu nói: “Sinh Bạch Hạc, thác Ba Lương”. Theo thần phả của làng, đình Đa Chất hay đền Ba Lương chính là nơi thờ tự Trung Thành Đại Vương làm thành hoàng làng. Mà Trung Thành Đại Vương còn được gọi là Thổ Lệnh Trưởng - là Tướng chỉ huy Thuỷ quân thời Vua Hùng. Ngài là con thứ ba trong một bọc gồm 5 người con của vị Hào trưởng vùng Hồng Giang (sông Hồng) có tên là Đào Công Bột. Câu “Sinh Bạch Hạc” nói về Đào Công Bột còn “Thác Ba Lương” nói về sự hoá của Thổ Lệnh Trưởng con Ngài trong cuộc chiến Hùng - Thục. Có thể đây là một “khoá mở” cho dòng ngôn ngữ này vì với giả thiết, trước đây Trung Thành Đại Vương đã mang thuỷ quân của Hùng Vương xuống đây trấn đóng. Và với sự trấn đóng này, Ngài đã truyền thụ thứ ngôn ngữ cổ trên vùng đất này. Sự hiện diện của một hệ thống ngôn ngữ mà người Đa Chất đang sử dụng, việc đóng thuỷ trại của Thổ Lệnh Trưởng vùng Bạch Hạc, Hồng Giang có một mối liên hệ với nhau như thế nào về ngôn ngữ? Và “nghi vấn” về một nền ngôn ngữ cổ thời Văn Lang - Âu Lạc đang hiện diện ở Đa Chất có chính xác hay không? Câu hỏi này người Đa Chất và những người quan tâm đang trông chờ lời giải từ các nhà khoa học về ngôn ngữ, lịch sử và khảo cổ. nguồn: http://vtc.vn/394-336189/ =========== Vấn đề này phải nhờ đến chú Lãn Miên giải mã, chắc sẽ biết mối dây?
  19. Ảnh đẹp vũ trụ ấn tượng Cập nhật vào: 03:26 - 24/01/2011 Dưới đây là những bức ảnh vũ trụ đẹp nhất được công bố trên tạp chí National Geographic. Hình ảnh rực rỡ này là của những đám mây trong tinh vân Orion – cách Trái đất của chúng ta 1.350 năm ánh sáng. Bức ảnh được ghi lại bởi kính viễn vọng Southern Observatory của châu Âu. Tàu thăm dò sao Hỏa Mars Reconnaissance Orbiter đã ghi lại được hình ảnh mới nhất về các đụn cát hình lưỡi liềm trên bề mặt của Hành tinh Đỏ. Hình ảnh này được ghi nhận tại miệng hố lớn Arkhangelsky ở bán cầu nam của sao Hỏa. Kính viễn vọng vũ trụ Hubble của cơ quan vũ trụ Mỹ (NASA) đã chụp được những vòng ‘lửa’ xoáy chân ốc ở trung tâm của thiên hà M51. Hình ảnh này được công bố trên tạp chí National Geographic trong tuần vừa qua. Cách Trái đất của chúng ta hơn 12 triệu năm ánh sáng, những ngôi sao nằm trong thiên hà M82 phát ra những ánh sáng kỳ ảo khi được ghi lại bằng công nghệ tia X trên kính viễn vọng Chandra X-ray Observatory của NASA. Nếu nhìn qua, chúng ta dễ lầm tưởng đây là hai hình ảnh khác nhau của Mặt trăng được ghép lại. Nhưng thực tế, đây là hình ảnh của hai vệ tinh Dione và Enceladus của sao Thổ được tàu thăm dò Cassini của NASA ghi lại. Kính viễn vọng Chandra X-ray Observatory của NASA đã ghi lại được hình ảnh mới nhất của tinh vân Crab. Tinh vân này là một dấu tích siêu tân tinh, tất cả những gì còn lại của một vụ nổ sao lớn. Các quan sát tại Trung Quốc và Nhật Bản đã ghi nhận vụ nổ sao này xảy ra gần 1.000 năm trước. Ảnh vũ trụ ấn tượng Hai thiên hà va chạm, vỏ tàu vũ trụ của Nhật Bản bốc cháy do cọ xát với khí quyển trái đất, là các hình ảnh thiên văn khó quên trong tuần này (21/6/2010). Thiên hà Whirlpoll (Xoáy nước) va chạm với một thiên hà nhỏ hơn có tên NGC 5195 (trái). Whirlpool cách trái đất khoảng 37 triệu km. Ảnh: National Geographic. Đèo Moselle River tại Đức uốn lượn như con rắn khi nhìn từ trên cao. Ảnh: NASA. Giống như một quả pháo hoa, phần lớn lớp vỏ ngoài của tàu vũ trụ Hayabusa tách thành nhiều mảnh khi nó tiến vào bầu khí quyển trái đất vào ngày 13/6. Con tàu trở về cùng với nhiều mẫu đất, đá từ một thiên thạch. Những mẫu đó sẽ giúp các nhà khoa học tìm hiểu lịch sử tiến hóa của hệ Mặt Trời. Ảnh: NASA. Hồ chứa nước Bamenjing (màu xanh dương) tại Cameroon được vệ tinh nhân tạo chụp từ trên không. Ảnh: NASA. Tinh vân IRAS 05437 2505 có hình dạng giống chiếc boomerang. Ảnh do kính viễn vọng không gian Hubble chụp. Giới thiên văn phát hiện tinh vân này từ năm 1983, song tới nay họ vẫn chưa hiểu nhiều về nó. Ảnh: NASA. Hình ảnh bầu khí quyển trái đất nhìn từ Trạm Không gian quốc tế. Tầng trên cùng có màu xanh dương thẫm. Nó khiến bầu trời trở nên xanh trong mắt chúng ta. Tầng bình lưu có màu vàng nhạt và cách bề mặt trái đất chừng 50 km. Mây hiếm khi xuất hiện ở tầng bình lưu vì nó rất khô. Tầng đối lưu có màu da cam và giữ phần lớn hơi nước bốc lên từ mặt đất. Nằm cách trái đất từ 6 tới 20 km, tầng đối lưu giữ khoảng 80% khối lượng bầu khí quyển. Ảnh: NASA Những đám mây hình xoáy nước phía trên quần đảo đảo Canary của Tây Ban Nha. Mây hình xoáy nước thường xuất hiện khi hơi nước lưu chuyển quanh một vật cản. Trong trường hợp này thì vật cản chính là quần đảo Canary. Ảnh: NASA. Minh Long nguồn: http://vnexpress.net...10/06/3ba1d284/
  20. Đồ hình âm dương Việt: Phản ánh thực tại vũ trụ Đồ hình âm dương Việt, với sự tồn tại âm thầm trong văn hóa dân gian Việt, không bị lai tạp, mai một hay biến tướng, ghi dấu một biểu tượng mô tả nhận thức thực tại vũ trụ uyên thâm. Trên những bức tranh dân gian, tranh Đông Hồ, tranh Hàng Trống, đồ hình âm dương Việt không phải chỉ tồn tại như một yếu tố điểm xuyết cho tranh mà đó là những ẩn ngữ, những bí tích hàm chứa nội dung của một học thuyết bao trùm vũ trụ: học thuyết Âm dương ngủ hành thuộc nền văn hiến Việt. Những hình ảnh trích từ tác phẩm nghiên cứu "Tính minh triết trong tranh dân gian Việt Nam", tác giả nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh, cho thấy rõ điều này: Lưỡng nghi sinh tứ trượng (Tranh dân gian Hàng Trống) Đàn lợn Tranh dân gian Đông Hồ Ta có thể nhìn rõ hơn khi trích cắt phần đồ hình để quan sát. Hình Thái Cực trong tranh dân gian Việt Nam Hình Thái Cực phục chế từ tranh dân gian Việt Nam Một đồ hình âm dương Việt ở Hội An, Việt Nam Khởi sinh từ nền văn hiến Việt 5000 năm rực rỡ, hai vầng xoáy âm dương hòa quyện, uyển chuyển ôm lấy nhau chặt chẻ, được gọi là Đồ hình Thái Cực hay Thái Cực đồ mô tả tư duy nhận thức thực tại vũ trụ uyên áo. Ngày nay, nhờ vào phượng tiện khoa học kỹ thuật hiện đại, phục vụ cho công việc nghiên cứu, quan sát thiên nhiên vũ trụ, con người đã phóng tầm mắt ra xa xâm đến các ngân hà, thiên hà bao la và đã có thể kiểm chứng được một thực tại vũ trụ được miêu tả từ hàng nghìn năm theo chiều dài lịch sử nhân loại. Kính viễn vọng vũ trụ Hubble của cơ quan vũ trụ Mỹ (NASA) đã chụp được những vòng ‘lửa’ xoáy chân ốc ở trung tâm của thiên hà M51. Hình ảnh này được công bố trên tạp chí National Geographic vào năm 2011. Thiên hà Whirlpool (Xoáy nước) va chạm với một thiên hà nhỏ hơn có tên NGC 5195 (trái). Whirlpool cách trái đất khoảng 37 triệu km. Bức ảnh Vòng xoáy thiên hà Whirlpool do Kính viễn vọng Hubble chụp có thể được xem lại trên mạng qua chương trình Google Sky. Tinh kỳ trong đàn lễ Nam Giao tai kinh thành Huế vào những năm 1935 với hình xoáy âm dương Việt Đồ hình âm dương Việt Thái cực đồ Việt trên văn bia vua Tự Đức, Việt Nam. Đồ hình âm dương Việt tồn tại trong đời sống văn hóa Việt, một hình ảnh của những thập niên 30, 40, được ghi lại bởi những tay ảnh người Pháp. Từ hai hình ảnh được chụp lại do cơ quan nghiên cứu không gian, cơ quan vũ trụ Mỹ, NASA, và đã công bố trên tạp chí khoa học National Geographic thì sự vận động tự nhiên trong vũ trụ theo chiều xoáy trôn ốc, hoàn toàn trùng lập với mô hình Thái cực đồ thuộc nền văn hiến Việt. Điều này chứng tỏ sự nhận thức về thực tại vũ trụ đã từng được diễn tả trong lý thuyết Âm dương ngủ hành, thuộc nền văn hiến Việt 5000 rực rỡ, mà đồ hình Âm dương Việt vẫn còn tồn tại trong văn hóa dân gian là biểu tượng đặc sắc miêu tả cho sự nhận thức đó. Và hiện tượng tự nhiên trong vũ trụ, được NASA ghi nhận bằng phương tiện quan sát hiện đại, là một phần thực tại được phản ánh của đồ hình Âm dương muốn miêu tả, cũng là một phần minh họa cho lý thuyết của học thuyết cổ xưa Âm dương ngủ hành. Thiên Đồng
  21. @ duyen tham khảo bài sau: http://diendan.lyhoc...-hop-huong-nao/ Thiên Đồng
  22. “Giải mã” thời Hùng Vương thông qua khảo cổ học Thời Hùng Vương đã không chỉ tồn tại một cách trừu tượng, mơ hồ qua những truyền thuyết mà thời đại ấy còn được hiện lên thực hơn, rõ ràng và khoa học hơn qua những công trình nghiên cứu về khảo cổ học. Từ những cuộc khảo cổ học mở đầu trên vùng đất Tổ như Phùng Nguyên (xã Kinh Kệ), Gò Mun (xã Tứ Xã) của huyện Lâm Thao, Phú Thọ, đến nay, khảo cổ học đã góp phần giải mã thời Hùng Vương trên mảnh đất đầy truyền thuyết và tín ngưỡng này. Theo phó giáo sư-tiến sĩ Trịnh Sinh, Viện Khảo cổ học Việt Nam, khảo cổ học đã chứng minh được, trên địa vực miền Bắc Việt Nam có một nền văn hóa vật chất thực sự phát triển rực rỡ, mang tên là nền văn hóa Đông Sơn. Đây là nền tảng vật chất dẫn đến hình thành các thủ lĩnh luyện kim, quân sự của ba lưu vực sống Hồng, sông Mã và sông Lam. Các thủ lĩnh cai quản một địa vực thống nhất và hùng mạnh đó chính là các vua Hùng theo như thư tịch và truyền thuyết nói đến cũng như tín ngưỡng dân gian đang thờ cúng. Bởi vậy, ông Sinh nhấn mạnh, muốn đi sâu giải mã thời Hùng Vương thì cần phải nghiên cứu nền văn hóa sinh thành ra một thời kỳ dựng nước này là văn hóa Đông Sơn. Các nhà khảo cổ học Việt Nam và nước ngoài đã khai quật, thăm dò hàng trăm di tích thuộc nền văn hóa này. Qua đó, họ bước đầu đã dựng lại được diện mạo đời sống vật chất và tinh thần của cư dân văn hóa Đông Sơn. Ảnh ST Khảo cổ học đã khẳng định, chính nền văn hóa Đông Sơn là nền tảng vật chất để ra đời nhà nước sơ khai Văn Lang và Âu Lạc. Ông Sinh đưa ra những bằng chứng về không gian phân bố và thời gian tồn tại của văn hóa Đông Sơn. Cụ thể, các di tích tiền Đông Sơn của cả ba lưu vực các con sông Hồng, sông Mã và sông Lam đã hòa đồng với nhau để tiến lên một nấc thang văn minh vật chất mới là nền văn hóa Đông Sơn thống nhất trong đa dạng. Điều này thể hiện rõ nét ở bộ sưu tập hiện vật đã khá thống nhất trong một không gian rộng lớn, nhất là đồ đồng mang chung một phong cách như trống, thạp, giáo, rìu… “Các nhà khảo cổ học Việt Nam đã dựng được bản đồ phân bố văn hóa Đông Sơn với hàng trăm địa điểm trên cả một khu vực châu thổ của ba con sông,” ông Sinh cho biết. Văn hóa Đông Sơn không chỉ được phát hiện qua hàng trăm làng cổ, khu mộ cổ mà một lượng khổng lồ các di vật đã được tìm thấy với nhiều chất liệu khác nhau từ đồ đồng, đồ sắt, đồ đá, đồ gốm. Việc nghiên cứu các hiện vật này, nhất là những hiện vật tùy táng trong mộ đã cho trong cộng đồng người Việt cổ đã có sự phân hóa giàu nghèo rõ rệt. Cũng theo ông Sinh, sự phân hóa giàu nghèo dẫn đến việc phân các giai tầng trong xã hội và là một trong những tiền đề dẫn đến xung đột, hình thành các thủ lĩnh cộng đồng và nhà nước sơ khai. Qua những mộ táng ở Việt Khê, Làng Cả, Gò De, Làng Vạc và phát hiện trống Cổ Loa cùng nhiều tư liệu mộ táng khác đã cho thấy những thủ lĩnh giàu có của người Việt cổ khi chết họ được chia của. Các thủ lĩnh này đều là những người lãnh đạo cư dân Đông Sơn suốt từ thời Hùng Vương qua thời An Dương Vương đến thời Nam Việt Vương và thời Hán. Vai trò của họ có thể hết sức quan trọng trong xã hội và họ có thể là nòng cốt trong một dạng nhà nước sơ khai. Theo giả định của phó giáo sư-tiến sĩ Trịnh Sinh, cư dân Đông Sơn thời đó đã có những thủ lĩnh địa phương là những người giàu có, họ có thể là người điều hành được sự sản xuất trong cộng đồng người Việt cổ. Trong những ngành sản xuất lúc bấy giờ thì ngành luyện kim đòi hỏi có nhiều kỹ năng, bí quyết cao. Người nào nắm được kỹ nghệ luyện đồng cũng là người giàu có và có khả năng được suy tôn là thủ lĩnh. Ông Sinh cho rằng, viêc Hùng Vương đóng đô ở vùng giữa lưu vực sông Hồng có một lý do là kiểm soát được nguồn mỏ đúc đồng từ thượng nguồn dòng sông này để phát triển ngành luyên đồng, một ngành kinh tế có tác động mạnh vào các ngành kinh tế khác. Bởi vậy, có thể Hùng Vương đã là một thủ lĩnh luyện kim ở buổi ban đầu của nước Văn Lang. Trong bối cảnh có chiến tranh, thủ lĩnh luyện kim cũng là thủ lĩnh quân sự hoặc tồn tại một dạng thủ lĩnh quân sự riêng. Một trong những bằng chứng về việc ra đời thủ lĩnh trong văn hóa Đông Sơn còn thể hiện ở hàng trăm chiếc trống đồng Đông Sơn tìm được trong địa bàn phân bố của nền văn hóa này. Trong thư tịch cổ đã nói đến chuyện người nào sở hữu vài chiếc trống đồng Đông Sơn là có thể tiếm hiệu xưng vương. Theo đó, trong các thủ lĩnh đương thời thì vua Hùng phải là thủ lĩnh lớn nhất. Cớ thể nói, trong "mây mù" của tín ngưỡng thờ Hùng Vương và các truyền thuyết lễ hội, các nhà khoa học đã phục dựng được một nền văn minh vật chất của thời đó dựa trên các bằng chứng khảo cổ học và khoa học liên ngành khác. Như lời khẳng định của phó giáo sư-tiến sĩ Tống Trung Tín, Viện trưởng viện khảo cổ học: “Những nghiên cứu về khảo cổ học này đã làm rõ thêm và cung cấp chứng cứ thuyết phục hơn về việc hình thành nhà nước đầu tiên của Việt Nam.” Theo Thiên Linh Vietnam+ ============ Hết biết nói sao cho "nghiêng kíu" này. Một cái "giải mã" thật pha học. Hic Thiên Đồng
  23. Đệ tử đã sửa và đưa tên nguồn bài viết vô rồi, Sư Phụ.
  24. Giải mã sự thật về 18 đời Hùng Vương Theo vnmilitary Các bộ sử cũ đều chép rằng, mở đầu lịch sử nước ta là họ Hồng Bàng. Mở đầu họ Hồng Bàng là Kinh Dương Vương (tức Lộc Tục), làm vua nước Xích Quỷ. Kinh Dương Vương lấy con gái của Động Đình Quân là Thần Long, sinh ra Lạc Long Quân (tức Sùng Lãm). Lạc Long Quân lấy Âu Cơ, sinh ra 100 người con. Sau, con trưởng của Lạc Long Quân được phong làm Hùng Vương Hùng triều ngọc phả cho hay họ Hồng Bàng truyền được 18 đời 1 Lãnh thổ nước Văn Lang của các vua Hùng Nước Văn Lang của các vua Hùng là một sự thật của lịch sử Việt Nam. Sách Đại Việt sử kí toàn thư là bộ chính sử đầu tiên của nước ta chép về Văn Lang, và theo đó thì nước Văn Lang “Đông giáp Nam Hải, tây giáp Ba Thục, bắc giáp Hồ Động Đình, nam giáp nước Hồ Tôn” (1). Nam Hải tức biển Đông. Nước Ba Thục là một vương quốc cổ, có lãnh thổ nay là vùng tỉnh Tứ Xuyên (Trung Quốc). Hồ Động Đình là một thắng cảnh nổi tiếng ở tỉnh Hồ Nam (Trung Quốc). Và, cùng với Chăm-pa, Chiêm Thành, Hoàn Vương… Hồ Tôn là một trong những tên gọi quốc gia của người Chăm. Quốc gia này đại để, có lãnh thổ tương ứng với vùng từ Quảng Bình đến Bình Thuận của nước ta ngày nay. Giang sơn rộng lớn nói trên có lẽ không phải là của riêng Văn Lang mà là của chung các tộc người thuộc Bách Việt. Điều đáng lưu ý là sử cũ vừa phác họa một biên cương bao la cho Văn Lang, lại vừa thống kê được 15 bộ (2) mà địa chỉ của 15 bộ đó lại nằm rải rác trên vùng đất tương ứng với lãnh thổ của nước ta từ tỉnh Thừa Thiên – Huế trở ra và lan sang một ít ở hai tỉnh của Trung Quốc là Quảng Đông, Quảng Tây. Chúng ta không có tài liệu đáng tin cậy nào về dân số của nước Văn Lang, nhưng dựa trên cơ sở thống kê hộ tịch của nhà Hán thống trị sau này và căn cứ vào một số cơ sở khác, các nhà nghiên cứu đoán định rằng, dân số nước ta thời Văn Lang áng chừng một triệu người. 2 Hùng Vương là gì? Các nhà nghiên cứu hiện nay cho rằng tên gọi Hùng Vương gồm hai thành tố khác nhau. Thành tố thứ nhất là Hùng. Thành tố này có thể là do phiên âm Hán Việt một từ Việt cổ nào đó, có ngữ âm và ngữ nghĩa gần với chữ Kun, Khun hay Khuntz của đồng bào các dân tộc anh em như: Mường, Thái và Mun-đa. Trong đồng bào các dân tộc anh em nói trên, những từ như Kun, Khun, Khuntz đều có nghĩa là trưởng, thủ lĩnh, người đứng đầu. Thành tố thứ hai của Hùng Vương là Vương. Thành tố này hoàn toàn do người chép sử đời sau thêm vào, cốt để chỉ rằng, thủ lĩnh hay người đứng đầu (Hùng) là của cả nước. Người đứng đầu quốc gia thì không đế cũng vương mà thôi. Tóm lại, Hùng Vương là tên của một chức danh, hình thành do phiên ám một từ Việt cổ nào đó. 3 Có hay không có 18 đời Hùng Vương? Các bộ sử cũ đều chép rằng, mở đầu lịch sử nước ta là họ Hồng Bàng. Mở đầu họ Hồng Bàng là Kinh Dương Vương (tức Lộc Tục), làm vua nước Xích Quỷ. Kinh Dương Vương lấy con gái của Động Đình Quân là Thần Long, sinh ra Lạc Long Quân (tức Sùng Lãm). Lạc Long Quân lấy Âu Cơ, sinh ra 100 người con. Sau, con trưởng của Lạc Long Quân được phong làm Hùng Vương Hùng triều ngọc phả cho hay họ Hồng Bàng truyền được 18 đời, gồm: 1 - Hùng Dương (tức Lộc Tục). 2 - Hùng Hiền (tức Sùng Lãm). 3 - Hùng Lân. 4 - Hùng Việp. 5 - Hùng Hy. 6 - Hùng Huy. 7 - Hùng Chiêu. 8 - Hùng Vỹ. 9 - Hùng Định. 10 - Hùng Hy (3). 11 - Hùng Trinh. 12 - Hùng Võ. 13 - Hùng Việt. 14 - Hùng Anh. 15 - Hùng Triều. 16 - Hùng Tạo. 17 - Hùng Nghị. 18 - Hùng Duệ. 18 đời nối nhau trị vì 2622 năm (từ năm 2879 trước công nguyên đến năm 258 trước công nguyên). Đó là những con số rất khó thuyết phục người đọc. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, với người Việt, số 9 là số thiêng, các bội số của số 9 (như 18, 36, 72, 99 v.v… ) cũng là những số thiêng tương tự như vậy. Cho nên, con số 18 đời Hùng Vương mà Hùng triều ngọc phả nói tới cũng chỉ là con số ước lệ, biểu tượng của một ý niệm thiêng liêng nào đó. Trái với ghi chép của chính sử cũ và các tài liệu dã sử khác, các nhà nghiên cứu cho rằng, nước Văn Lang của các vua Hùng chỉ tồn tại trong khoảng 300 năm, và niên đại tan rã là khoảng năm 208 trước công nguyên chứ không phải là năm 258 trước công nguyên. Với 300 năm, con số 18 đời vua Hùng là con số dễ chấp nhận. Tuy nhiên, cũng không vì thế mà khẳng định rằng nước Văn Lang thực sự có đúng 18 đời vua Hùng nối tiếp nhau trị vì. Tóm lại, nước Văn Lang là một thực thể có thật của lịch sử nước ta, nhưng Văn Lang chỉ tồn tại trước sau trong khoảng ba trăm năm và con số 18 đời Hùng Vương cho đến nay vẫn là con số của huyền sử. nguồn: http://www.lamsao.com/giai-ma-su-that-ve-18-doi-hung-vuong-p214a45838.html ============= Cái khôi hài ở chổ là lấy con số 300 năm để cho hợp lý với con số 18 đời vua Hùng, nhưng sau đó lại bác bỏ ngay con số 18 đời vua Hùng để gọi "chỉ là con số ước lệ, biểu tượng của một ý niệm thiêng liêng nào đó" cho có vẻ "pha học". Buồn cười thay! Thiên Đồng
  25. Tuổi nữ Tỵ, đại lợi tháng 3 và 9. Chỉ còn tháng 9 âm thôi, các tháng còn lại phạm kỵ rồi. Nhưng tháng 9 thì gần hết rồi chắc để sang năm. Thiên Đồng