-
Số nội dung
6.278 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
75
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Thiên Đồng
-
Truyền thuyết HÙNG VƯƠNG Vài lời bạch Tìm mãi trong đống sách cũ ở nhà, Thiên Đồng mới tìm lại được quyển sách nhỏ trong đó ghi lại những câu chuyện truyền thuyết của dân tộc Việt về thời Hùng Vương. Sách được in vào năm 1984 của thế kỷ XX trước, do Hội văn học nghệ thuật Vĩnh Phú xuất bản . Những câu chuyện trong quyển "Truyền thuyết Hùng Vương" này đa phần là được trích lại từ cuốn "Lĩnh Nam chích quái" hoặc ghi lại từ những câu chuyện truyền khẩu trong dân gian. Tôi cảm thấy đây là phần tư liệu thú vị và quý báu nên giới thiệu và soạn lại vào đây, diễn đàn của website Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông phương, nhằm phổ biến cho mọi người con của Rồng cháu của Tiên được nghe kể hay nhắc nhở về những truyền thuyết đặc sắc của dân tộc với cội nguồn văn hiến 5000 năm huyền vĩ bên bờ Nam sông Dương tử, nền văn minh Văn Lang rực rỡ. Mong rằng quyển sách nhỏ này góp phần cho mọi người hiểu sâu sắc về văn hóa nước nhà, góp phần phục vụ cho những nghiên cứu về cổ sử Việt, về thời đại Hùng Vương một thời huy hoàng rực rỡ. Ngày 23 tháng 11 năm 2012 Thiên Đồng LỜI NÓI ĐẦU Để góp phần vào việc tìm hiểu, nghiên cứu thời đại Hùng Vương, năm 1974, Chi hội văn nghệ dân gian Vĩnh Phú đã xuất bản tập "Truyền thuyết Hùng Vương" do đồng chí Nguyễn Khắc Xương biên soạn. Năm 1981, thể theo yêu cầu của bạn đọc trong và ngoài tỉnh, Hội văn học nghệ thuật tỉnh Vĩnh Phú tái bản tập "Truyền thuyết Hùng Vương" do đồng chí Lê Tượng biên soạn, chú thích và khảo dị. Trong tập, ngoài những truyện đã in trong "Lĩnh Nam chích quái" do Trần Thế Pháp biên soạn (?), Vũ Quỳnh - Kiều Phú chỉnh lý và "Truyền thuyết Hùng Vương" do đồng chí Nguyễn Khắc Xương biên soạn, có bổ sung thêm một số truyện mới do các đồng chí Lê Tượng, Nguyễn Lộc và Bùi Quang Thanh sưu tầm. Lần in thứ ba này, chúng tôi có chọn lọc và sửc chữa đôi chỗ, nhưng chắc chắn sẽ không tránh khỏi sơ xuất. Mong được bạn đọc xa gần góp ý để những lần in sau tập sách sẽ hoàn chỉnh và mĩ mãn hơn. HỘI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT VĨNH PHÚ
-
HỌ HỒNG BÀNG Tục truyền Kinh Dương Vương có tài đi dưới thủy phủ, lấy con gái Long Vương ở hồ Động Đình, sinh ra Sùng Lãm, hiệu là Lạc Long Quân, cho nối ngôi trị nước. Kinh Dương Vương không biết đi đâu mất. Lạc Long Quân dạy dân Việt cày cấy nông trang, đặt ra các đẳng quân, thần, tôn ti, các đạo cha con, vợ chồng, đôi khi trở về thủy phủ mà trăm họ vẫn yên vui...Hễ dân có việc lại lớn tiếng gọi Long Quân rằng: " Bố ơi, sao không lại cứu chúng tôi": Long Quân tới ngay, sự linh hiển cảm ứng của Long Quân, người đời không ai lường nổi...Long Quân lấy Âu Cơ rồi đẻ ra một bọc, cho là điềm bất tường, vứt ra cánh đồng. Qua sáu, bảy ngày bọc nở ra một trăm trứng, mỗi trứng nở ra một con trai, mới đem về nuôi. Không phải bú mớm, các con tự lớn lên, người nào cũng trí dũng song toàn, người người đều kính trọng cho là triệu phi thường (1). Long Quân ở lâu dưới thủy quốc, vợ con ít gặp. Một hôm Long Quân trở về, gặp nhau ở đất Tương, Âu Cơ nói: “Thiếp vốn là người đất Bắc, ở với vua sinh hạ được trăm con trai, vua bỏ thiếp mà đi, không cùng thiếp nuôi con, làm người vô phu vô phụ, chỉ biết thương mình”. Long Quân nói: “ Ta là nòi rồng, đứng đầu thủy tộc, nàng là giống tiên, sống ở trên đất, tuy khí âm dương hợp lại mà sinh ra con, nhưng thủy hỏa tương khắc, dòng giống bất đồng, khó ở lâu với nhau được, nay phải chia li. Ta đem năm mươi con về thủy phủ, chia trị các xứ, năm mươi con theo nàng về ở trên đất, chia nước mà trị. Lên núi xuống bể, hữu sự thì báo cho nhau biết”… Âu Cơ và năm mươi con lên ở đất Phong Châu (2) suy phục lẫn nhau, cùng tôn người con cả lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, lấy tên nước là Văn Lang, đông giáp Nam Hải, tây tới Ba Thục, bắc tới Động Đình Hồ, nam tới nước Hồ Tôn (nay là Chiêm Thành). Chia nước làm mười lăm bộ (còn gọi là quận) là Việt Thường, Giao Chỉ, Lục Hải, Hoài Hoan, Ninh Hải, Dương Tuyền, Chu Diên, Vũ Ninh, Phú Lộc, Cửu Chân, Nhật Nam, Chân Định, Văn Lang, Quế Lâm, và Tượng Quận. Chia các em ra cai trị, lại đặt các em làm tướng văn, tướng võ: văn là lạc hầu, võ là lạc tướng, con trai vua gọi là quan lang, con gái mua gọi là mỵ nương, trăm quan gọi là bồ chính, thần tộc. Nữ lệ gọi là xảo xứng (còn gọi là nô tỳ). Bề tôi gọi là hồn, đời đời cha truyền con nối gọi là phụ đạo. Vua đời đời thế tập gọi là Hùng Vương, không hề thay đổi. Lúc ấy, dân sống ở ven rừng xuống nước đánh cá thường bị giống giao long làm hại, lên nói với vua. Vua đáp: “Giống sơn nam và giống thủy tộc có thù với nhau, thường ghét nhau cho nên hại nhau đó”. Khiến người đời lấy mực xăm vào mình theo hình Long Quân, theo dạng thủy quái. Từ đó dân không bị tai họa giao long làm hại nữa. Tục xăm mình của dân Bách Việt cũng bắt đầu từ đây. Hồi quốc sơ, dân không đủ đồ dung, phải lấy vỏ cây làm áo, dệt cỏ gianh làm chiếu, lấy cốt gạo làm rượu, lấy cây quang lang, cây tung lư làm cơm, lấy cầm thú, cá, ba ba làm mắm, lấy rễ gừng làm muối, cày bằng dao, trồng bằng lúa, sản xuất nhiều lúa nếp, lấy ống tre mà thổi cơm. Bắc gỗ làm nhà để tránh hổ sói, cắt tóc ngắn để dễ đi lại trong rừng núi. Đẻ con ra lấy lá chuối lót cho nằm, có người chết thì giã cối làm lệnh, người lân cận nghe tiếng đến cứu. Chưa có trầu, cau, việc hôn thú giữa nam và nữ lấy gói muối làm đầu, sau đó mới giết trâu, dê làm đồ lễ, lấy cơm nếp để nhập phòng cùng ăn, sau đó mới thành thân. Trăm người con trai chính là tổ tiên của người Bách Việt vậy. (Trích trong :Lĩnh nam chích quát”) ---------o0o--------- (1) Trong truyện này chúng tôi cắt bỏ bớt đoạn nói về Xuy Vưu hiên viên, Hoàng Đế là những nhân vật thần thoại Trung Quốc không liên quan gì tới truyện trăm trứng của ta. (2) Phong Châu: nay là vùng đất thuộc tỉnh Vĩnh Phú và một phần tỉnh Hà Sơn Bình; đúng ra phải gọi là Văn Lang vì tên Phong Châu mới có từ khoảng thế kỷ thứ VII - VIII Khảo dị: Xung quanh truyền thuyết về họ Hồng Bàng, ở Vĩnh Phú còn sưu tầm được những truyện về Lạc Long Quân và bà Âu Cơ: Lạc Long Quân đi thuyền dọc theo sông Đà, đến vùng động Lăng Xương (nay là xã Trung Nghĩa, huyện Tam Thanh) gặp một cô gái xinh đẹp tên là Âu Cơ, đang hái dâu ven sông. Lạc Long Quân lấy Âu Cơ làm vợ, đưa về núi Nghĩa (nay là xã Hy Cương, huyện Phong Châu). Sau khi lấy Lạc Long Quân, bà Âu Cơ có mang ba năm, ba tháng mười ngày thì sinh ra một bọc trứng. Lúc sinh, trên trời có mây sáng chiếu (nên chỗ sinh bọc trứng sau làm chùa và đặt tên Thiên quang thiền tự), bảy ngày sau bọc trứng nở ra một trăm người con trai. Lạc Long Quân không biết đặt tên mới cầu khẩn thiên địa, được lão tiên hay câu cá ở Việt Trì về đặt tên các con giúp (ở Việt Trì vẫn có hòn đá có dấu chân lão tiên này ngồi câu cá). Lạc Long Quân và Âu Cơ cùng chia đôi con, năm mươi người theo cha xuống biển, sinh ra các dân tộc miền xuôi, bốn mươi chín người lên núi, sinh ra các dân tộc miền núi, để người con trưởng ở lại làm vua là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang. Bà Âu Cơ đưa con lên mạn ngược, khi đến vùng Hiền Lương thấy đất tốt mới để một người con lại, dạy cách đốt cỏ mà trồng lúa, lấy gạo giã nhỏ nhào với mật ong cho vào chõ làm bánh. Rồi bà lại đưa tiếp các con theo ngọn suối mà đi mãi vào các cánh đồng phía trong. Mỗi năm bà lại đi thăm các con vài lần, ở lại mỗi chỗ dăm hôm rồi đi nơi khác. Ở xã Hiền Lương nay còn đền thờ bà Âu Cơ, khi cầu có hèm làm bánh mật, và phải do phụ nữ tế. Trong bản “Ngọc phả Hùng Vương” hiện lưu ở đền Hùng được viết từ thời Trần, viết lại năm 1470, còn bản sao năm 1600 (Hoàng định nguyên niên) ghi: Sau khi lấy Lạc Long Quân, bà Âu Cơ có mang ba năm ba tháng mười ngày mới sinh và cũng sinh ra cái bọc có một trăm quả trứng. Lạc Long Quân thấy sự lạ bèn để lên mâm vàng cầu khẩn thiên địa, bảy ngày sau nở ra một trăm người con trai, không ăn uống, bú mớm, chỉ hương hoa, không biết nói, chỉ cười mỗi ngày ba lần. Bảy tháng sau cùng tự nhiên nói to: “Trời sinh thánh đế, trị nước sinh vua, bốn bể thanh bình, thiên hạ yên mạnh”. Đoạn sau cùng giống như truyện trên. Hiện tên một trăm người con của bà Âu Cơ vẫn còn được ghi lại. Đồng bào Mường có bài mo “Đẻ đất, đẻ nước” cũng có dạng tương tự như vậy.
-
Thường là thứ 7 hoặc chủ nhật.Thiên Đồng
-
Xác nhận học viên đóng học phí lớp Phong thủy Lạc Việt nâng cao 05 1. Mộc Bản 3.000.000đ (Học kỳ I) 2. nick??? (Nguyễn Xuân Dũng) 3.000.000đ (Học kỳ I) 3. One_newbie (Nguyễn Anh Tuấn) 3.000.000đ (Học kỳ I)
-
Binh lính thời xưa. Điệu múa quạt truyền thống chốn cung đình. Quan lại triều đình. Chỉnh tề mũ áo khi vào chầu. Một phụ nữ trong Hoàng thất. Theo Baodatviet.vn.
-
Chuyện cung đình Việt Nam lên báo Trung Quốc Trang Tân Hoa Xã (Trung Quốc) đăng tải loạt ảnh thú vị về cung đình Việt Nam cách đây hơn trăm năm. Những tấm hình giúp bạn đọc khám phá thêm nét văn hóa cung đình độc đáo của người Việt thời phong kiến. Loạt hình này được sưu tầm từ những tấm bưu ảnh, chủ yếu lột tả chân thực cuộc sống của quan lại, binh lính triều nhà Nguyễn đóng đô tại Huế. Những lễ nghi truyền thống như hành lễ, múa hát nơi cung đình, hay khung cảnh cờ kiệu long trọng trong những chuyến xuất hành của quan binh đều được lột tả rất chân thực. Một viên quan đang ngồi võng. Đại thần hành lễ. Đại thần hành lễ. Khung cảnh xuất hành.
-
mophong nói đúng, nhưng quan trọng là nón lá hình chóp đã tồn tại trong văn hóa Việt từ lâu. Và thực tế, ngày xưa, đàn ông đội nón lá, phụ nữ đội nón quai thao. Hình của mophong là tư liệu quý minh chứng cho văn hóa Việt trong một vấn đề khác. Thiên Đồng Lính khố đỏ đội nón lá, nón chóp. Quân tượng Việt xưa đội nón lá
-
Cho dù truyền thuyết kể lại hay ghi lại việc Thánh Huyền Thiên đầu thai là Thánh Gióng có là sự thật hay không thì truyền thuyết ghi nhận tức dân gian đã ghi nhận rằng người Việt từ cổ xưa đã có tục lập miếu, lập đền (hay đình) thờ thánh, tức người có công với cộng đồng, dân tộc. Vậy cần gì phải đợi đến có Đạo giáo hay có sự ảnh hưởng của đạo giáo...để nói rằng bị (do) ảnh hưởng văn hóa Tàu hay bị "phong kiến hóa"? Truyền thuyết ghi nhận Thánh Gióng đánh giặc Ân và dân Việt lập đền thờ Thánh thì chí ít thời này cũng ở cái mốc thời gian 1700 hoặc 1500 trc CN, trước cả khi Đạo giáo xuất hiện để có cái gọi là đạo quán. Lại đợi khi có tư liệu hay di vật khảo cổ.! HicThiên Đồng
-
Nếu theo cách giải thích của ông AC gọi "Đền quán" là sai thì ông AC giải thích sao với một di tích sau đây. Nếu cứ theo cách giải thích của ông AC như trên thì chắc phải gọi đây là "đền quan đôi" hay "đền quan thánh đôi", dù cho trong đó không có tượng ông Quan thánh? ====================== Đền Quán Đôi nhận bằng công nhận cây di sản 9/7/2012 2:02:47 PM Nhân dịp lễ hội truyền thống năm 2012 và hướng đến kỷ niệm 15 năm thành lập quận Cầu Giấy (1/9/1997 – 1/9/2012), sáng 9/7, ban quản lý di tích danh thắng đền Quán Đôi chính thức nhận bằng công nhận cụm ba cây là cây di sản Việt Nam từ Hội Bảo vệ Thiên nhiên&Môi trường Việt Nam. Cả ba cây sanh, đa lông, và cây đại hoa trắng được trồng trong khuôn viên đền Quán Đôi, ngôi đền tọa lạc trên bờ sông Tô Lịch, ngõ 1, Hoàng Quốc Việt, phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, TP Hà Nội. Kết quả điều tra xác định cây đa trước cửa đền trên 150 tuổi, chu vi 6,4 mét, cao 25 mét; cây sanh trên 100 tuổi có chu vi tổng (bao gồm toàn bộ rễ phụ) 34 mét, chu vi thân cây 2 mét, cao 13 mét; cây đại trong đền trên 200 tuổi có chu vi 1,2 mét, cao 10 mét. Ông Nguyễn Văn Ngoạn, đại diện ban quản lý di tích đền Quán Đôi, cho biết cụm ba cây được công nhận hôm nay là ba cây đầu tiên ở quận Cầu Giấy được công nhận là cây di sản Việt Nam. Hiện cả ba cây được ban quản lý, chính quyền và nhân dân trên địa bàn đặc biệt quan tâm, giữ gìn, chăm sóc, bảo tồn cùng danh lam thắng cảnh của khu di tích. Theo lịch sử ghi chép, đền Quán Đôi được xây dựng từ thời hậu Lý, thờ hoàng hậu Phương Nương và con là Dũng Vũ Cương Nghị, thống hoàng đế đại vương. Đền Quán Đôi còn lưu giữ nhiều hiện vật có gí trị như tượng gỗ, chuông đồng, và bốn cây cổ thụ, trong đó có ba cây trên 100 năm tuổi. Đặc biệt hiện tại đền Quán Đôi còn lưu giữ bảo tồn được văn bia cổ có từ thời niên hiệu Bảo Đại thứ 16. Trên văn bia ghi rõ sắc cho xã Dịch Vọng, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông, vốn thờ Dục Bảo Trung Hưng, hậu Lý Nam Đế Hoàng Thái Hậu bảo vệ nước cho chở cho dân có nhiều công đức, đã từng được ban cấp sắc chỉ cho phép dân thờ phụng – phải kính tuân theo. Trải qua thăng trầm của lịch sử, đền bị xuống cấp trầm trọng chỉ còn lụp xụp và kệ thờ ngay trên mộ của Mẫu và Hoàng Tử. Năm 2002, ban quản lý di tích đã kêu gọi quý khách thập phương cùng gia quyến góp phần trùng tu lại ngôi đền được khang tranh như ngày nay. Ngày 12/1/2008, đền được UBND TP Hà Nội công nhận là di tích lịch sử văn hóa thành phố. Minh Phúc (Theo vfej.vn)
-
Thưa Sư Phụ, Nhờ trích nguyên bài thông tin như vậy mà đệ tử mới thấy được những sai lầm của ông An Chi (AC) và những tồn nghi cho những cách giải thích của AC trong bài trả lời của tác giả này. Có thể khảo qua như sau: Rỏ ràng câu hỏi của đọc giả là như sau Nhưng khi phần trả lời thì ông AC lại nhầm lẫn hay có tình nhầm lẫn hay theo kiến thức của ông ta hay theo chủ trương của ông AC là như sau: THấy được rằng, rỏ ràng ông AC hoặc không đọc kỹ và trích đúng ý trong câu hỏi của đọc giả hoặc do thiếu kém hiểu biết thuộc kiến thức về lịch sử hay huyền thoại, truyền thuyết của dân tộc Việt mà ghi câu trên hoặc có một ý khác về sự thật văn hóa nước nhà. Tóm lại là có điểm tồn nghi. Đến đoạn sau thì là sự phủ định rõ ràng: Đến đoạn sau thì là "cưỡng từ đoạt lý" bằng cách giải thích về cụm từ "Đền quán thánh", ông AC biện giải hai từ "đền" và "quán" để phủ nhận cái thực tế đang có và gán cho văn hóa Tàu và gán ông Quan Công (Quan thánh) vào, nhưng thực tế là chả có ông Quan thánh nào trong đó cả. Tóm lại ông An Chi nổi tiến với câu là trích dẫn "I Chan" thì nay thấy rỏ ràng thật sự là y chan sự chủ quan của ông AN Chi. Thiên Đồng
-
@ Chim Chich Bông dĩ nhiên là có cái giống mà cũng có cái khác mà. Tròn và vuông là đã khác rồi. Và việc cái nhà và cái tháp cũng khác luôn! Haha. Thế giới nhiều bí ẩn quá à. Thiên Đồng
-
Xác nhận học viên đóng học phí lớp Phong thủy Lạc Việt nâng cao 05 1. Mộc Bản 3.000.000đ (Học kỳ I) 2. nick??? (Nguyễn Xuân Dũng) 3.000.000đ (Học kỳ I)
-
Xác nhận học viên đóng học phí lớp Phong thủy Lạc Việt cơ bản 11 1. Rio_Rio (Nguyễn Thị Cẩm Huyền) 2.000.000đ 2. Bình Định (Đỗ Bình Định) 2.000.000đ 3. mecutun (Trần Thị Diễm Quỳnh) 2.000.000đ 4. dbinh92Nguyễn Đức Bình 2.000.000đ 5. banhmi (Lê Văn Vân) 2.000.000đ 6. tnd (Nguyễn Đình Thái) 2.000.000đ 7. nick ? (Lục Hồng Quang) 2.000.000đ
-
Từ bao đời nay, dân Việt từ lâu đã thiền với chiếc nón lá Việt, hình kim tự tháp. thiền giữa đồng rộng thiền năng động giữa đời thường với chiếc nón lá từ lúc bé đã đội Thiền hành với nón lá Việt
-
Huyền Thiên Trấn Vũ - Vị thần trấn phía Bắc Đền Quán Thánh, có người gọi là Quan Thánh, là một trong “Thăng Long tứ trấn”. Tương truyền được lập từ khi vua Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long (1010). Đền Quán Thánh, thờ Huyền Thiên Trấn Vũ, trấn phía Bắc kinh thành Thăng Long. Đền xưa có tên là Huyền Thiên Trấn Vũ Đại đế quán, đến năm 1823 vua Minh Mạng đổi ra là Trấn Vũ quán, năm 1842 dưới thời vua Thiệu Trị đổi ra tên hiện nay. Thánh Trấn Vũ, vị thần được thờ tại đền Quan Thánh mang tính cách vừa là của Việt Nam, vừa là của Trung Quốc. Theo truyền thuyết, Huyền Thiên Trấn Vũ là thần coi giữ phương Bắc, từng đầu thai làm con vua nước Tinh Lạc (Trung Quốc), lớn lên bỏ ngôi hoàng tử đến tu luyện trong hang ở Vũ Dương liền trong 42 năm, đã giúp người phương Bắc diệt trừ nhiều quỷ dữ, giúp dân đời Chu chiến thắng thần dịch hạch gây bệnh chết người hàng loạt, được Thượng đế phong là Đại Từ, Đại Bi, cuối cùng được phong là Huyền Thiên Trấn Vũ. Huyền Thiên Trấn Vũ sau đó sang nước Việt, giúp các vua Hùng ba lần đánh thắng giặc ngoại xâm. Đời Hùng Vương thứ 6, giặc Ân ở phương Bắc rất hung dữ đem quân xâm lấn đất nước Văn Lang. Quan quân vua Hùng đánh không nổi. Thần đã đầu thai vào một bà mẹ ở làng Phù Đổng bộ Võ Ninh, sinh ra cậu bé chẳng nói chẳng rằng, nhưng khi nghe tin sứ nhà vua đi truyền rao tìm người tài giỏi, đã tự nhiên bật thành tiếng xin sứ giả tâu lên nhà vua, xin vua cấp cho ngựa sắt nặng một nghìn cân và một cây roi sắt nặng một trăm cân. Khi nhận được ngựa sắt, roi sắt vua ban, thần đang từ là một cậu bé bỗng vươn lên thành chàng trai cao lớn dẫn đầu mấy vạn quân Nam xông lên đánh cho giặc Ân tan tành, giữ vững bờ cõi giang sơn. Sau khi đánh tan giặc, thần hóa phép ở núi Vệ Linh bay lên trời. Vua Hùng bèn phong thần là Đổng Thiên Vương và lập cho đền thờ cúng trọng thể. Theo truyền thuyết đó thì Huyền Thiên Trấn Vũ chính là Đức Thánh Gióng có công giúp vua Hùng dẹp giặc Ân mà nhân dân ta đang thờ cúng ở nhiều nơi. Cũng theo truyền thuyết vào đời Hùng Vương thứ 14, thần đã giúp nhân dân làng Bồ Đề cạnh sông Hồng trừ diệt con rùa yêu tinh từng tàn hại nhiều dân lành. Đến thời vua An Dương Vương xây thành Cổ Loa để chống trả quân xâm lược Triệu Đà, có con gà trắng hóa tinh và quỷ ở vùng núi Thất Diệu thường đến quấy phá khiến nhà vua không xây được thành, thần nghe theo lời thỉnh cầu của thần Kim Quy đã giúp vua An Dương Vương trừ hết mọi tà ma, nhờ đó Loa Thành được xây nên vững chắc. Sau đó một thời gian, thần trở lại phương Bắc đầu thai làm con vua Tùy. Sang đời Đường, thần đã giúp vua Đường tiêu diệt con quỷ dữ thường gieo bệnh giết hại trẻ con Trung Quốc. Đến thời vua Lê Đại Hành, thần lại xuống đất Lỗ Lâm gần thành Long Đỗ giúp nhân dân trừ quỷ dữ. Khi bọn tướng nhà Tống là Hầu Nhân Báo và Tôn Toàn Hưng theo lệnh vua Tống đem quân sang cướp nước Đại Cồ Việt, thần đã dâng nước sông Nguyệt Đức (sông Cầu), sông Nhật Đức (sông Thương) lên cao tạo thành hào sâu ngăn cản. Thần còn hiện thành một vị tướng nhà trời cao 10 trượng, mặc chiến bào màu vàng, tay cầm ngọn giáo bằng vàng đứng trên đầu trước mặt quân Tống. Quan quân Tống trông thấy thế sợ quá hoảng hốt quay đầu vắt chân lên cổ tháo chạy. Quân Nam nhân cơ hội đó mãnh liệt truy kích quân giặc, giết chết chủ tướng giặc Hầu Nhân Bảo, bảo vệ toàn vẹn non sông. Sang đời Lý, đời Trần, thần còn xuất hiện nhiều lần giúp nhân dân diệt trừ quỷ dữ./. (Danh nhân Hà Nội/Vietnam+) Cao Sơn - Vị thần trấn phía Nam Thăng Long Thần Cao Sơn được thờ tại đình Kim Liên, một trong “Thăng Long tứ trấn”, trấn phía nam kinh thành Thăng Long. Cổng mới của đình Kim Liên (ảnh trái) và đình Kim Liên cũ Hiện nay đình nằm ở cuối phố Kim Hoa, gần ngã tư Kim Liên. Đình có tên là đền Kim Liên hoặc đền Cao Sơn (gọi theo tên làng - theo tên vị thần được thờ).Văn bản cổ nhất về di tích này (niên hiệu Hồng Thuận 3 - 1510) gọi tên đình là “Cao Sơn đại vương thần từ” (đền thờ thần Cao Sơn đại vương). Theo tư liệu và công tác khảo sát thực tế, thì hiện nay ít nhất là có tới bốn vị Cao Sơn: 1- Theo thần tích Tản Viên, Cao Sơn, Quý Minh được thờ ở làng Đông Xã nay thuộc phường Bưởi, quận Tây Hồ thì đó là ba anh em con chú bác ruột. Tản Viên tên thật là Nguyễn Tuấn, Cao Sơn tên thật là Nguyễn Hiển và Quý Minh tên thật là Nguyễn Sùng. Hiển và Sùng là con chú ruột của Tuấn. Họ quê ở động Lăng Xương (nay thuộc huyện Thành Thủy, tỉnh Phú Thọ) sau được tiên trao cho phép tắc, giúp vua Hùng Vương thứ 18 nhiều phen đánh thắng Thục Phán. Đó là một Cao Sơn còn được coi là ngự ở ngọn núi bên trái của ba ngọn Ba Vì (Tản Viên ở giữa, Cao Sơn bên trái, Quý Minh bên phải). 2- Cao Sơn thứ hai theo thần tích làng Kim Liên thì lại là một trong 50 người con của Lạc Long Quân - Âu Cơ. Đền thờ chính hiện nay ở huyện Phụng Hóa, nay là Nho Quan, tỉnh Ninh Bình. Theo bia “Cao Sơn đại vương thần từ bi minh” dựng năm Nhâm Thìn, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 33 (1772) cho biết khi các bộ tướng của Lê Tương Dực là Nguyễn Văn Lữ, Nguyễn Văn Long, Nguyễn Hoàng Dụ đem quân từ Thanh Hóa ra Bắc diệt Lê Uy Mục, đến giữa cánh rừng có một ngôi đền cổ mang bốn chữ “Cao Sơn đại vương”, rất lấy làm kinh ngạc, bèn vào đó khấn cầu được thần phù trợ và trận đó toàn thắng, nên sau đó xây lại đền thờ Cao Sơn. Sau đó bài vị trôi ra sông Cái, dân làng Kim Liên rước về thờ. Các đời phong Cao Sơn đại vương trấn phía nam kinh thành. 3- Vị Cao Sơn thứ ba được thờ ở làng Lương Nhân, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương lại là một vị thần chuyên chữa bệnh đậu mùa cho dân. Trong một lần dân làm lễ cầu hỏi tên thì thần nhập đồng nói tên là Cao Sơn. 4- Một vị Cao Sơn nữa vốn là người Tàu. Thần tích Đình Đại (Bạch Mai - Hà Nội) kể rằng: Thần họ Cao tên Hiển, tự là Văn Trường, cha là Cao Khánh người Tàu ở vùng núi Bảo Đài, quận Quảng Nam. Do bên Tàu loạn lạc, ông Khánh sang nước Nam, ngự ở Trường Yên, lấy vợ người làng Quang Liệt là bà Trần Thị Tố. Ông bà nhân hậu, sinh được một người con trai ngày 16 tháng 3 Kỷ Tị, đặt tên là Hiển. Năm cậu 7 tuổi thì mẹ mất. Làm tang xong, cha đem con về Tàu. Cậu học thầy Chu Đường, 27 tuổi đi thi đỗ tiến sĩ, bổ châu mục Ích Châu. Lúc đó ở ta Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần, vua sai Hiển công sang trừ họ Hồ. Công đóng đồn ở Hồng Mai (tức là Bạch Mai, nay là chỗ Đình Đại) và dẹp trừ được họ Hồ. Sau đó ông lại về Bắc, được vua Tàu phong Cao Sơn đại vương, ông tu ở núi Bảo Đài, thọ 103 tuổi. Thực ra ông Cao Sơn người Tàu không chỉ được thờ ở Bạch Mai mà còn ở một số nơi khác ở nội thành, như đình Đồng Tâm. Tóm lại có tới bốn ông Cao Sơn - riêng ông Cao Sơn Tàu có tên trùng với ông Cao Sơn em Tản Viên đều là Hiển và ông bố là Cao Khánh ngụ ở Trường Yên tức gần Phụng Hóa, Nho Quan; nơi cũng có đền thờ Cao Sơn. Sự rối ren đan xen này thật khó giải thích và bóc tách. Có lẽ đó là tính dị biệt của văn học dân gian./. (Danh nhân Hà Nội/Vietnam+) Linh Lang - Vị thần trấn phía tây Thăng Long Linh Lang đại vương là thần hiệu của Hoàng Lang, một hoàng tử thời Lý. Ngài được thờ ở đền Voi Phục, nay tọa lạc tại phường Ngọc Khánh quận Ba Đình, xưa thuộc làng Dịch Vọng, sau gọi là trại Thủ Lệ. Đền Voi Phục xưa Đền Voi Phục nay Ban thờ Linh Lang đại vương Voi phục Dân làng này được vua cấp ruộng, miễn sưu thuế, phu phen để chuyên lo hương khói, “giữ lệ”, thờ cúng ngài. Chính vì vậy nơi đây lưu giữ nhiều thần tích về ngài. Tương truyền ông bà ngoại của ngài là người đất Bồng Lai (nay thuộc Đan Phượng). Ông Nguyễn Thái Công (hay Nguyễn Thực) và bà Dương Thị Triệu (hay Lê Thị Năng) là người tu nhân tích đức, sinh hạ một gái là Nguyễn Thị Hương (hay Nguyễn Thị Hạo) vào 10/2 năm Canh Thìn. Sau khi cha qua đời, mẹ con bà bèn ra Thị Trại ở cùng một bà dì làm nghề buôn tơ lụa. Đến khi nàng Nguyễn Thị Hương vừa tròn 19 tuổi, xinh đẹp như tiên, chim sa cá lặn, hoa nhường nguyệt thẹn. Một hôm vua Lý Thánh Tông ra ngoại thành du ngoạn. Nhân dân đổ ra đường nghênh đón, Nguyễn Thị Hương cũng tham gia đứng bên đường đón vua. Lý Thánh Tông nhìn thấy cô gái xinh đẹp bên vệ đường, bỗng đem lòng yêu mến. Nhà vua sai quan đến thăm hỏi và sau đó đem 100 lạng vàng làm sính lễ rước nàng về cung làm cung phi thứ bảy. Nhà vua xây cho nàng một cung điện ở Thị Trại, tức khu vực Thủ Lệ ngày nay. Đến năm Giáp Thìn, tức năm 1064 sinh hạ hoàng tử Hoàng Lang vào giờ Tí ngày 10 tháng Giêng âm lịch. Vua ban cho tên là Hoàng Lang, hoàng tử thứ tư. Đến năm 1076, nhà Tống sai Triệu Tiết, Quách Qùy và 9 tướng Hồng, Châu, Vũ, Nhị, Dư, Tĩnh, Hoàng, Vĩnh, Trịnh mang quân sang xâm chiếm Việt Nam. Lý Thường Kiệt dẫn quân đánh bại quân Tống ở sông Như Nguyệt (sông Cầu ngày nay). Thần tích ghi Hoàng Lang đánh giặc Vĩnh Trịnh, có thể là đã giao chiến với cánh quân của hai tướng Vĩnh, Trịnh trong đoàn quân của Triệu Tiết, Quách Quỳ… Thần tích đã huyền thoại hóa Hoàng Lang như Thánh Gióng, đang còn nằm ngửa mà nghe tiếng sứ giả đến trại rao hỏi cầu hiền đánh giặc bèn ngồi dậy cất tiếng nhận lời đánh giặc, xin vua một con voi, một lá cờ, một cây dáo lớn rồi vươn mình cao 9 thước, nhảy lên mình voi xông trận đánh tan quân thù. Dân Thị Trại ứng mộ 121 dũng sĩ gồm người các họ Đinh, Nguyễn, Đặng, Trương; trong số đó có hai tướng Lê Công Bảo (hay Công Xứ) và Hoa Công Hoàng nay vẫn có tượng thờ cùng Linh Lang trong đền Voi Phục. Sau khi chiến thắng quân giặc trở về thì Hoàng Lang được nhà vua ban thưởng. Truyền thuyết ghi ngài ném cây cờ lên trời, hễ cây bay đến đâu thì vua sẽ ban cho được thờ ở đó. Cho nên có 269 nơi có đền thờ Linh Lang. Hiện nay còn thấy được thờ ở Hà Tây, Nam Hà, Nam Định, Thái Bình… Trong số thần tích hiện nay đã thu thập được thì có 88 văn bản về Linh Lang; Thái Bình 11 bản, Hà Nội 8 bản, Hà Tây 25 bản, Nam Hà 19 bản, Nam Định 6 bản, Hải Dương 2, Bắc Ninh 1, Phúc Yên 2, Bắc Giang 1, Phú Thọ 5, Thanh Hóa 3, Hưng Yên 5. Như vậy cũng phản ánh tính phổ biến của Linh Lang đại vương. Hoàng Lang mắc bệnh đậu mùa và qua đời ngày 20/7. Truyền thuyết cho ngài hóa ngay sau khi sinh một năm. Tương truyền đền Voi Phục đầu tiên được xây dựng năm 1065, về sau trùng tu nhiều lần. Đến năm 1947 giặc Pháp đã đốt đền cũ. Đền hiện nay vừa mới xây dựng lại. Hoàng Lang được phong Đô Cảnh thành hoàng quốc vương thiên tử Linh thần đại vương tức Linh Lang đại vương. Thần hiệu này hàm ý nói Linh Lang là vị thành hoàng của Thủ đô - Đô Cảnh thành hoàng - địa vị ngang hàng vua - Quốc vương thiên tử. Chính vì vậy, đền thờ Linh Lang trở thành một trong Thăng Long tứ trấn. Lịch sử ngài tuy không được ghi vào chính sử, nhưng nhân dân đã dùng hình thức văn hóa dân gian thiên hóa ngài để tỏ lòng tôn kính và biết ơn đời đời truyền tụng. Thần thoại không phải là sử sách, không thể nghiên cứu như tư liệu sử học. Nói chung chỉ có thể khẳng định vào đầu thời Lý có một nhân vật lịch sử có công với dân với nước được nhân dân và nhà nước phong kiến tôn thờ. Hoàng Lang là một nhân vật lịch sử sinh sống vào khoảng năm Giáp Thìn năm 1064. Nhưng dù thần tích đa dạng như thế nào thì đất phát tích của Linh Lang vẫn là Thăng Long. Linh Lang vẫn là danh tướng đã bảo vệ Thăng Long chống ngoại xâm, có thể trong trận chống quân Tống năm 1076 mà cũng có thể không phải là trong trận đó, là thành hoàng thủ đô Thăng Long. Vì thế đền Voi Phục đã thành một trấn (trấn phương Tây) trong Thăng Long tứ trấn và là một di tích quan trọng thuộc Thủ đô Hà Nội./. (Danh nhân Hà Nội/Vietnam+)
-
Xác nhận học viên đóng học phí lớp Phong thủy Lạc Việt cơ bản 11 1. Rio_Rio (Nguyễn Thị Cẩm Huyền) 2.000.000đ 2. Bình Định (Đỗ Bình Định) 2.000.000đ 3. mecutun (Trần Thị Diễm Quỳnh) 2.000.000đ 4. Nguyễn Đức Bình 2.000.000đ 5. banhmi (Lê Văn Vân) 2.000.000đ 6. TND (Nguyễn Đình Thái) 2.000.000đ
-
Xác nhận học viên đóng học phí lớp Phong thủy Lạc Việt cơ bản 11 1. Rio_Rio (Nguyễn Thị Cẩm Huyền) 2.000.000đ 2. Bình Định (Đỗ Bình Định) 2.000.000đ 3. mecutun (Trần Thị Diễm Quỳnh) 2.000.000đ 4. Nguyễn Đức Bình 2.000.000đ
-
Tìm hiểu trang phục và trang sức Việt đầu thế kỷ XX Chiều tối 8/2/2012, tại Trung tâm Văn hóa Pháp tại Huế (số 1 Lê Hồng Phong, TP Huế) đã diễn ra triển lãm ảnh “Trang phục và trang sức truyền thống người Việt đầu thế kỷ XX” do hội “Những người bạn của Huế xưa” tổ chức. Triển lãm đã trưng bày 400 bức ảnh về truyền thống và trang sức người phụ nữ của người Việt Nam trên khắp ba miền đất nước. Đây là những hình họa được được tập hợp trong ấn phẩm có nhan đề “Tập hợp hình họa Đông Dương” do nhà sách Paul Geuthner, Paris ấn hành. Điều thú vị, các hình họa được triển lãm lần này được các học viên của Trường Mỹ Thuật Gia Định, lúc bấy giờ do ông J.Gustave Besson điều hành, ông đồng thời cũng là thanh tra của các trường Mỹ thuật Nam kỳ được thực hiện từ năm 1934 đến 1937. Nội dung bức ảnh chủ yếu giới thiệu trang phục quần áo, khuyên tai, dép, guốc… với sự đa dạng ở phong cách và kỹ thuật sử dụng (vẽ, bút chì, màu nước, mộc bản…) nhằm giới thiệu Đông Dương truyền thống qua hình ảnh do các học viên của trường khi được đi đến các nước khác nhau, trong đó, các hình ảnh về Việt Nam chiếm gần 70% còn lại là của Campuchia và Lào. Triển lãm ảnh trang phục và trang sức người Việt đầu thế kỷ XX kéo dài từ nay đến hết ngày 4/3/2012. Một số hình ảnh tại buổi triển lãm trang phục và trang sức người Việt đầu thế kỷ XX: Tang lễ những năm 1934-1935. Buôn bán ở Trung Kỳ 1934-1935. Họp chợ ở Nam Kỳ những năm 1934-1935. Trang phục người Ê Đê năm 1934-1935. Kiểu tóc của người phụ nữ Nam Kỳ những năm 1934-1935. Trang phục trong lễ cưới của những người Nam Kỳ năm 1934-1935 Trang phục của người Ê Đê Trung Kỳ những năm 1934-1935. Nam Kỳ - Nhạc công và người xem ở chợ năm 1935. Nam Kỳ - Nhạc công và người xem ở chợ năm 1935. Trang phục của thầy đồ những năm 1934-1935. Kiểu tóc của người nông dân Nam Kỳ những năm 1934-1935 Người nông dân Bắc Kỳ mặc áo tơi những năm 1934-1935. Trang sức của vùng Thượng du Bắc Kỳ Trang phục của dân tộc Mèo - phụ nữ Man đỏ Sa Pa năm 1934-1935 Hình họa giới thiệu triển lãm. Tin, ảnh: Huế Thương http://www.petrotimes.vn
-
Nhân ngày nhà giáo Việt Nam, kính chúc Sư Phụ và các anh chị em khang thịnh, bình an và văn hiến Việt vinh hiển.
-
Ái chà chà, Thiên Đồng cũng mắt tròn mắt dẹt không để ý mà người vẽ tranh thiệt là...hết biết nói sao luôn! Nhưng tìm trên mạng rồi mà không có tranh Phật di Lặc với 6 trẻ nhỏ. Hic
-
Ngũ Trí Như Lai Ngũ Trí Như Lai là ngũ phương Phật tượng trưng cho 5 phương , đông, tây, nam ,bắc , trung tâm; 5 bộ : Bảo bộ , Liên hoa bộ , Kim cang bộ , Nghiệp bộ , Phật bộ; 5 sắc : xanh, đỏ, vàng, trắng, đen...; mà nội dung chính yếu là 5 trí chuyển hóa từ 5 uẩn. Hình : Ngũ phương Phật theo Thai Tạng Giới Mạn đà la Ngũ phương Phật tượng trưng cho Ngũ uẩn không còn bị chấp thủ trong một bản ngã, gọi là Ngũ trí Như Lai : Ở trung ương, đức Tỳ Lô Giá Na tượng trưng Sắc uẩn và cũng là Pháp giới thể tính trí. Đông phương là Phật Bất Động hay A Súc Bệ, tượng trưng Thức uẩn đã chuyển thành Đại viên cảnh trí. Nam phương là Phật Bảo Sinh, tượng trưng Thọ uẩn đã chuyển thành Bình đẳng tính trí. Tây phương là Phật A Di Đà, tượng trưng Tưởng uẩn đã chuyển thành Diệu quan sát trí. Bắc phương là Phật Bất Không Thành Tựu, tượng trưng Hành uẩn đã chuyển thành Thành sở tác trí. Mật tông khi truyền sang Trung Quốc còn chịu ảnh hưởng Dịch lý, nên Ngũ phương còn tượng trưng Ngũ hành trong Dịch học. Theo ý nghĩa đó, trong Phật giáo Mật tông Ngũ phương Phật là một hệ thống phối trí chư Phật, chư Bồ Tát, chư Hộ pháp hết sức thâm diệu; và là sự phối hợp giữa ngũ phương, ngũ trí, ngũ Phật, ngũ bộ và ngũ hành (sắc của -) trong Thai Tạng Giới Mạn đà la và Kim Cang Giới Mạn đà la. Do đó đàn tràng ngũ phương cũng được lập hai cách khác nhau : + Lập theo Thai Tạng Giới Mạn đà la : 1/ Trung ương : Tỳ Lô Giá Na (Ðại Nhật Như Lai) Hiển thân sắc màu vàng, đối diện bàn Giác Hoa. 2/ Phương Ðông : A Súc Phật (Bất Ðộng Như Lai) Hiển sắc màu xanh, trở mặt vào bàn trung ương. 3/ Phương Tây : Phật A Di Ðà. Hiển sắc màu trắng, trở mặt vào bàn trung ương. 4/ Phươmg Nam : Bảo sanh Phật. Hiển sắc màu đỏ, trở mặt vào bàn trung ương. 5/ Phương Bắc : Bất Không Thành Tựu Phật. Hiển sắc màu đen, trở mặt vào bàn trung ương. + Lập theo Kim Cang Giới Mạn Ðà La: 1/ Trung ương : Tỳ Lô Giá Na Phật - Phật bộ. Pháp giới thể tánh trí, thân sắc màu trắng. 2/ Phương Ðông : A Súc Phật - Kim Cang bộ. Ðại viên cảnh trí, thân sắc màu xanh hoặc màu lam. 3/ Phương Tây : A Di Ðà Phật - Liên Hoa bộ. Diệu quan sát trí, thân sắc màu đỏ. 4/ Phương Nam : Bảo Sanh Phật - Bảo bộ. Bình đẳng tánh trí, thân sắc màu vàng. 5/ Phương Bắc : Bất Không Thành Tựu Phật - Yết Ma (Nghiệp) bộ. Thành sở tác trí, thân sắc màu lục. Sở dĩ có sự khác biệt về thân sắc của ngũ phương Phật là do nhiều nguyên nhân như: Truyền bá đến các nước Phật giáo bằng nhiều đường khác nhau, ảnh hưởng truyền thống văn hóa của mỗi quốc gia dân tộc, tiến trình kết cấu và phát triễn Mạn Ðà La.v.v...Ngoài ra ấn tướng của chư Phật trong ngũ phương cũng có khác nhau theo sự phát triễn không ngừng của triết học Mạn Ðà La. Nhưng đây chỉ là những dị biệt nhỏ về hình thức, còn nội dung và mục đích tu chứng hoàn toàn không có gì thay đổi. Con người là một tiểu vũ trụ đầy đủ tất cả tiềm năng của đại vũ trụ bên ngoài, vì được cấu tạo bởi cùng những nguyên tố là địa thủy hỏa phong, và cũng theo những quy luật âm dương ngũ hành như vũ trụ. Vì tự giam mình trong cái vỏ cứng của sự chấp thủ, gọi là năm thủ uẩn, ta tự tạo ra một bản ngã hẹp hòi mà chỉ là ảo tưởng, và bản ngã ấy cứ ràng buộc lên xuống qua lại trong các nẻo luân hồị. Vì bản ngã đã phi thực, nên khổ cũng phi thực, chỉ như người và cảnh trong mộng. Khi tỉnh mộng rồi ta mới biết cái "tôi" trong mộng và những gì cái "tôi" ấy kinh nghiệm trong mộng đều không thực có. Giải thoát là lìa chấp thủ, khi hết chấp thủ vào một cái tôi riêng rẽ, thì con người và vũ trụ là một. Ngũ uẩn thành ngũ trí Như lai, nghĩa là thành những năng lực độ tận chúng sinh . Nhưng chúng sinh vốn là Phật, chỉ vì chấp thủ mà thành chúng sinh, cho nên trong việc "cứu độ" của Phật, cần có sự hợp tác chặt chẽ của chính những chúng sinh được cứu. Trong không gian luôn luôn có những luồng điện đủ các tần số đang phát sóng, mỗi chúng sinh ví như một cái radio, cần phải bật lên và vặn đúng tần số mới nghe được. Sự tu tập và cứu độ trong Mật tông căn cứ trên nguyên lý ấy. Tính Không, nguyên lý nòng cốt của mọi sự, gọi là Pháp giới, nằm ở trung tâm. Nó là chỗ phát xuất và chỗ trở về của vạn pháp trong vũ trụ. Tương tự nguyên lý Dịch, từ thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh ra bát quái, từ bát quái biến ra 64 quẻ cho đến vô cùng tận, một đồ hình Mật tông cũng thế, tất cả Phật, Bồ tát, thiện thần, hung thần đều là hóa thân của Kim cương tát đỏa, và Kim cương tát đỏa là hóa thân của đức Tì lô giá na. Năm Phật ở năm phương chỉ cần ngồi đấy không cần phải làm gì cả, nên thường gọi là Phật thiền (Dhyàni Buddhas). Hành động phóng quang cứu khổ, vân vân, đã có các hóa thân thành hai mặt đối kháng như lành và dữ, nam tính và nữ tính, vân vân. Cho nên hai bên mỗi vị Phật thường có hai Bồ tát hầu cận, tượng trưng hai nguyên lý đối nghịch ấy, như lưỡng nghi sinh từ Thái cực. Phật không làm gì, nhưng không có Phật – tức vượt lên các đối cực - thì không xong việc gì cả. Ngài an tọa ở đấy nhưng cứu độ được cả mười phương chúng sinh, khi chúng sinh nâng cao tâm hồn đủ để bắt gặp những tần số rung động của các hóa thân Phật. Ta có thể ví chư vị Phật thiền ở ngũ phương giống như những yếu tố xúc tác (catalyst) trong hóa học, một hiện diện vô hành nhưng rất cần thiết. Lá xanh cần mặt trời như thế nào, thì chúng sinh cũng cần Phật như thế ấy, mặc dù Phật chỉ việc ngồi đấy mà thôi, mọi sự độ sinh đã có chư vị Bồ tát chiếu liệu. Và ở hóa thân, thì có hai mặt lành dữ, nhưng tựu trung cũng chỉ từ một căn bản. Như Bồ tát Quan Âm cứu khổ khi hóa thành Diện nhiên Đại sĩ để thống lĩnh 12 loại cô hồn thì phải có gương mặt thật dữ dằn. Tại vì chúng sinh có kẻ cần phải dùng biện pháp mạnh mới hàng phục được. Trong một Mandala đầy đủ (gồm trên 100 vị phật, Bồ tát, thiện thần, hung thần - ngũ phương Phật chỉ là cái lõm) những hung thần (như Tiêu diện) tượng trưng cho những khuynh hướng xấu ác trong tâm, hoặc sự tự trừng phạt của một lương tâm bất an do ác nghiệp; vì Phật giáo vốn không công nhận có sự thưởng phạt của một quyền năng bên ngoài. Chư thiên thiện thần chỉ đóng vai trò ngoại hộ, hỗ trợ tinh thần cho bậc tu hành, chứ không giải thoát cho ai được cả. Nhiều người xem chẩn tế hiểu lầm Mật tông là một hình thức mê tín đa thần (thần quyền), nhưng Tử thư - quyển sách mà người Tây Tạng đọc để hướng dẫn người sắp chết - luôn luôn nhắc nhở rằng, tất cả hiện tượng gì họ thấy trong tâm nhãn trước giờ chết đều do tâm biến hiện, đừng sợ hãi khiếp đảm mà cần giữ tâm chuyên nhất, hoặc hướng về ánh sáng tiếp độ của Phật thì sẽ được giải thoát. Người giữ được nhất tâm trước những hình ảnh khủng khiếp gọi là giải thoát nhờ thiền định, hay tùy pháp hành, còn người nhờ niệm Phật, sám hối mà không sợ hãi và cuối cùng nhận ra các hiện tượng đó đều do tâm tạo, thì gọi là giải thoát nhờ đức tin, hay tùy tín hành. Nhưng thiền định hay đức tin đều do tự mình khổ công đào luyện suốt cả đời may ra mới công hiệu khi chạm mặt với cái chết. Thần chú (mantra) cũng như chủng tự mỗi vị Phật liên hệ đến một màu sắc khác nhau, như Tỳ Lô Giá Na màu vàng, A Súc Bệ màu xanh, Bảo Sinh màu đỏ, A Di Đà màu trắng, Bất Không Thành Tựu màu đen hay lục. Sự đọc chú, tâm tập trung quán tưởng là điều kiện cần thiết để có cảm ứng chuyển được vật và triệu thỉnh được thần. Điều này có vẻ huyền bí nhưng kỳ thực chỉ là một sự nối dài của nguyên lý vật lý mà ta đã biết về âm thanh đến một tần số nào đó có thể làm vỡ kính, hay một ví dụ khác, người Việt khi nghe tiếng "me chua" thì chảy nước miếng. Nếu không để ý, hoặc phát âm thành "mè" hay "mẻ" thì không có tác dụng gì cả. Theo cuốn Tử thư của người Tây Tạng, một người mới tắt thở, nếu suốt đời đã tu chứng cao, có trí tuệ, khi gặp ánh sáng Pháp giới (biểu trưng năng lực vũ trụ) thần thức sẽ nhập một với ánh sáng và được giải thoát ngay, không phải trải qua giai đoạn trung ấm tức là khoảng thời gian người chết biết rằng mình đã chết (thường là ba ngày rưỡi sau khi tắt thở) cho đến 49 ngày sau. Nếu vụng tu, khi gặp ánh sáng Năng lực vũ trụ, thần thức sẽ vô cùng kinh hãi, trốn chạy như trong một cơn ác mộng, và thế là lỡ mất cơ hội giải thoát. Người mới chết thường chưa biết mình chết, nên thấy bà con khóc lóc thì bực mình. Họ kêu gọi người thân đang khóc nhưng không ai nghe, mặc dù họ vẫn nghe được, biết được mọi sự xảy ra trong thế giới người sống. Sau đó, người chết rơi vào một trạng thái bất tỉnh trong ba ngày rưỡi; và khi tỉnh dậy, có một sự sáng suốt bừng lên, biết mình đã chết, và do không chịu nổi trạng thái không thân, họ toan tìm lối nhập vào một bào thai để có một thân xác. Trạng thái 49 ngày của thân trung ấm khởi đầu từ đây. Ngày thứ nhất (tức khoảng ba ngày rưỡi sau khi tắt thở), hào quang vàng của Pháp thân Tì Lô Giá Na chiếu đến cứu độ và đồng thời lại có ánh sáng cõi trời màu trắng đục chiếu đến. Ánh sáng của Phật rất xốn xang (nhất là đối với người không quen nghe kinh niệm Phật) còn ánh sáng cõi trời thì dịu hơn, thế là người ấy tái sinh lên trời. Nếu là người ác, họ có thể để tuột mất cả hai ánh sáng này, lang thang qua ngày thứ hai. Khi ấy Kim cương tát đỏa hóa thân của Phật A Súc tượng trưng Thức uẩn thuần tịnh chiếu đến ánh sáng màu xanh; ngày thứ ba đức Bảo Sinh (tượng trưng thẩm mỹ) chiếu đến ánh sáng màu đỏ; ngày thứ tư Phật A Di Đà chiếu ánh sáng màu trắng (tưởng uẩn thuần tịnh); ngày thứ năm Phật Bất Không chiếu đến ánh sáng màu lục. Mỗi lần ánh sáng cõi Phật chiếu đều có thêm ánh sáng tương tự nhưng dịu và đục cũng chiếu đến, và những ánh sáng này tương đương với các cõi a tu la, người, địa ngục, ngạ quỷ. Do vậy, người chết được nhắc nhở luôn luôn đừng đi theo những ánh sáng đục, dịu vì đấy là những nẻo luân hồi mà họ sẽ rơi vào. Hãy luôn luôn đi theo những ánh sáng chói chang của Phật. Điều này theo quy luật đồng thanh tương ứng, nếu người chết từng nặng về sắc, hay thọ, hay tưởng, hay hành, hay thức, thì khi chết sẽ đi theo những gì mà họ khoái nhất lúc sinh tiền, tượng trưng bằng những ánh sáng của Phật và các cõi. Nếu người chết vẫn trốn chạy tất cả ánh sáng, do sợ hãi và lưỡng lự, thì qua ngày thứ sáu, tất cả hóa Phật ở năm phương hướng đồng loạt chiếu hào quang đến một lần chót, tựa như một mẻ lưới cuối cùng, để cứu vớt. Kể từ ngày thứ bảy trở đi, thần thức mò mẫm qua các nẻo luân hồi để tìm một thân xác, cho đến khi gặp một hoàn cảnh thích ứng với nghiệp của nó, và như thế là có tái sinh, nhập thai và già chết như cũ nên gọi là trôi lăn hay luân hồi. Đấy là sơ lược tiến trình của một thân trung ấm qua 49 ngày sau khi chết, vì lý do đó mà có sự kết giới ngũ phương tượng trưng năng lực cứu độ của chư Phật đối với 12 loại cô hồn. Ở đây có thể khởi lên một câu hỏi: nếu không có một bản ngã, nếu là vô ngã, thì Ai luân hồi? Trả lời: không ai cả, chỉ có luật ĐỒNG KHÍ TƯƠNG CẦU vận hành ở đây. Năm uẩn khi tan rã, cái gì thuộc đất trở về đất, nước đi theo nước, hơi trở về hư không, đó là phần "sắc uẩn" tức thân xác. Phần vô hình cũng có nhiều yếu tố như thương, giận, sợ, si, thù, ghét, buồn, hận, vân vân, mỗi thứ đều có những "phóng xạ" những tần số rung động khác nhau. Nếu một người khi sống tham dục nhiều, thì phần "khí" của họ có rất nhiều phóng xạ tham dục, và sẽ bị thu hút tới những chỗ nào nhiều tham dục nhất như loài heo, nếu người ấy đồng thời không có một nghiệp lành nào, không ưa gì khác ngoài sự hưởng thụ vật dục. Con heo kiếp sau và con người kiếp trước không phải là một, nhưng quả có chịu ảnh hường của con người kiếp trước, nên cũng không thể nói là hoàn toàn khác. Cũng giống như trong một đời người, lúc sơ sinh khác hẳn lúc trưởng thành, từ thân thể cho đến tính tình, tri thức, đến nỗi ta khó mà nhận ra cả hai chỉ là một. Nếu ta ý thức sự cứu tế xã hội cần thiết trong cõi người sống như thế nào, thì trong cõi vô hình, sự bạt độ vong linh cũng cần thiết như thế ấy: "Sống làm sao, chết làm vậy". Con người không những chỉ sống bằng lý trí mà còn sống bằng tình cảm. Cúng giỗ người chết cũng như tiếp tế cho người thân ở xa, chẳng những làm ấm lòng kẻ ra đi mà còn an lòng người ở lại. Điều cần thiết là phải làm thế nào để sự cúng tế vừa hợp lý vừa hợp tình "Lý" đây là chân lý Phật đã dạy, theo đó chết chỉ là một chuyển tiếp qua đời sống khác, nếu còn ở trong vòng luân chuyển. Như vậy, rất cần chuẩn bị cho người chết một tái sinh tốt đẹp bằng phương pháp thực hành các việc phước như ăn chay, bố thí, phóng sinh nhân danh người quá cố. Dù người chết không thực sự hưởng các đồ cúng, vẫn nhờ công đức bố thí ấy mà được lợi lạc. (Theo lời Phật dạy, chỉ có kẻ đọa vào loài quỷ đói mới hưởng đồ cúng.) Huống hồ, trong một trai đàn, phẩm vật hiến cúng tuy nhiều song vẫn chưa quan trọng bằng "pháp thí", cam lồ pháp thực để cảnh tỉnh người còn kẻ khuất. Đó mới thực là cuộc lễ hội bố thí vĩ đại đem đến kết quả quốc thái dân an. Nguồn mạch tâm linh
-
Lịch Sử Kim Cương Thừa Khamtrul Rinpoche Jigme Pema Nyinjadh khai thị Con đường đạt đến giải thoát giác ngộ nhiều vô số ngoài sức nghĩ bàn của phàm tình chúng sinh. Đức Phật đã tùy theo căn cơ của chúng sinh tuyên thuyết vô lượng giáo pháp không thể tính đếm nhằm một mục đích dẫn dắt chúng sinh đạt giác ngộ. Theo Tantra Mahayoga, giáo pháp xuất phát từ tâm trí tuệ chứng ngộ của Đức Phật sẽ tùy theo căn cơ của chúng sinh lãnh hội lợi ích khác nhau. Trong đạo Phật chia ra nhiều thừa: Thanh văn thừa , Duyên giác thừa và Đại thừa. Đại thừa lại được chia thành hai thừa : 1. Nhân thừa (Hiển giáo)– chú trọng tới sự thực hành công hạnh sáu Balamật và 2. Quả thừa hay Kim cương thừa, con đường hợp nhất đại hỷ lạc và tính không. Kim cương thừa có bốn thứ lớp Tantra: Kriya Tantra, Carya Tantra, Yoga Tantra và Annutarayoga Tantra. Cũng như tất cả mọi dòng sông đều hội tụ về biển, bản chất của giáo pháp tất cả các thừa đều hội tụ trong giáo pháp Mahamudra. Bởi vậy, Mahamudra (Đại Thủ ấn), Prajnaparamita (Bát Nhã Ba-la-mật), Madhyamika (Trung luận) và Zogpa Chenpo (Đại Toàn thiện) v.v…xét về mục đích tối thượng đều không khác. Trong giáo pháp Mahamudra, có Căn bản Mahamudra, Đạo Mahamudra và Quả Mahamudra. Căn bản Mahamudra là bản chất bất nhị, hợp nhất của hết thảy vạn pháp; Đạo Mahamudra trong truyền thừa Drukpa là Sáu Pháp Yoga của Naropa và những khai thị về những thứ lớp thiền định của Mahamudra; còn Quả Mahamudra là sự chứng ngộ tự tính tâm chính đẳng chính giác. Theo lịch sử Kim Cương thừa, một lần vị vua Indrabodhi của xứ Odiyana miền Tây Varanasi đã nhìn thấy rất nhiều bậc Arahat bay thẳng trên bầu trời về phía phương Đông. Thấy tò mò và kinh ngạc, ông đã hỏi vị tể tướng là Dawa Zangpo xem những bậc Arahat đó là ai. Vị tể tướng đã thỉnh tâu rằng đó là đệ tử của đấng giác ngộ Sidhartha và họ đang tới thành phố Varanasi nơi đức Phật chuyển Pháp luân. Ngay khi nghe danh hiệu đức Phật, trong lòng vị vua tự nhiên trào dâng một niềm hỷ lạc và tín tâm vô bờ, ông nghĩ rằng nếu đệ tử của đức Phật có được những khả năng thần thông như vậy thì chắc chắn đức Phật cũng có tâm đại từ bi vô lượng và pháp thần thông vi diệu. Khi đó, vị vua ngay lập tức quỳ xuống, hướng về phương Tây và đỉnh lễ, cầu nguyện thỉnh đức Phật tới cung điện của ông vào trưa ngày hôm sau. Đức phật đã nghe thấy lời thỉnh cầu của vị vua. Ngày hôm sau, Ngài và các đệ tử, những bậc có thần thông siêu việt đã từ Varanasi bay thẳng tới hoàng cung. Vị vua đã cung đón đức Phật với lòng kính ngưỡng vô bờ và thỉnh ngài ban cho giáo pháp giải thoát luân hồi khổ đau. Mặc dù đức Phật đã biết những gì mong muốn trong tâm vị vua, nhưng ngài vẫn khuyên vị vua hãy từ bỏ tất cả mọi thứ, của cải, ngôi báu, gia đình v.v… để xuất gia tu hành, chỉ khi đó ngài mới ban cho vị vua giáo pháp giải thoát. Vị vua đáp lại: “Kính bạch đức Phật toàn tri! Tâm chúng con còn đầy năm độc nhiễu hại, nhất là ái dục, chúng con không thể từ bỏ những vui thích của giác quan được. Xin ngài rủ lòng từ bi khai thị con đường giải thoát luân hồi khổ não nhưng không phải từ bỏ những đối tượng của giác quan”. Đức phật biết rằng vị vua đã tích lũy được vô số công đức, tâm đại từ bi và trí tuệ, bởi vậy là người có thể đảm trách bổn phận hoằng dương chính pháp Kim Cương thừa, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni từ Hóa thân thị hiện Báo thân AXúcBệ Phật, hiển lộ Mandala về Guhyasamja (Tantra Cha) và khai thị cho vị vua giáo pháp Kim cương thừa. Vị vua đã được thuyết giảng để chứng ngộ tự tính Phật trong vạn pháp, bởi vậy ông có thể quán tự thân là tứ đức Phật Vairochana, còn bốn người con trai là bốn đức Phật Thiền na, quán năm hoàng hậu là năm minh phi, còn các quan đại thần trong triều là các Bồ Tát nam và Bồ Tát nữ. Tất cả phàm thân của họ đều chuyển hóa thành sắc thân cầu vồng và ngay lập tức đều đạt giác ngộ. Thông qua giáo pháp giải thoát, toàn bộ thần dân trong thành phố cũng đều thành tựu sắc thân cầu vồng. Vùng đất đó trở thành sa mạc khô cằn và tại đây hình thành nên một hồ thiêng nơi Nagas (Long Vương) trú ngụ. Đệ tử của đức Phật, Vajrapani (Kim cương thủ) là một Arhat Kashyap đã ghi chép lại tất cả giáo pháp của đức Phật vào Những Bộ kinh điển và ban giáo pháp cho Nagas tại hồ, và Nagas thậm chí cũng tu tập Kim cương thừa và thành tựu giác ngộ. Nơi này sau đó trở thành Ugyen Khadroe Yul (miền đất của các Dakini). Sau đó, Vajrapani đã hiện thân là đức Drang Song Ugjin và ban giáo pháp Kim Cương Thừa cho chúng sinh có duyên pháp và vô số trong số họ đã đạt giác ngộ giải thoát. Bởi vậy, truyền thừa khởi nguồn từ đức Phật Thích ca, truyền xuống đức Vajrapani, Sarha, Lohipa, Dinggipa, Lodroe Rinchen, Nagarjuna, Mataki, Thanglopa, Shinglopa, Kanari, Dombipa, Binasa, Lawapa, vua Indrabodhi đời thứ II (có ba vị vua Indrabodhi trong lịch sử Kim cương thừa) và truyền xuống tới đức Tilopa và Naropa và trải qua chư tổ sư truyền thừa không gián đoạn cho tới tận ngày nay. Truyền thừa được tôn xưng là truyền thừa Kim cương thừa. Tân truyền thừa được bắt đầu từ Đại Thành tựu giả Tilopa, Ngài không chỉ thụ nhận giáo pháp từ những đạo sư trong hình tướng loài người mà đón nhận trực tiếp từ đức Phật Kim Cương trì trong cõi tịnh độ Akanishta (Sắc cứu kính thiên). Bởi vậy Phật Kim cương Trì chính là Pháp thân của đức Phật Thích ca. Kinh điển Kim cương thừa đã đề cập, trước khi đức Phật Thích ca giáng sinh trong cõi Sa bà, Ngài đã giác ngộ trong cõi tịnh độ Akanishta trong Pháp thân Phật Kim Cương Trì, sau đó thị hiện Sắc thân là Thái tử Siddharta và tiếp tục thực hành mười hai công hạnh lợi tha. Bởi vậy theo quan điểm của Đại thừa, thái tử Siddharta chính là Bồ tát ngôi thập địa, còn từ quan điểm của Kim cương thừa, đức Phật Thích-Ca-Mâu-Ni đã giác ngộ trước khi ngài giáng sinh là thái tử Sidharta. Bởi vậy truyền thừa giáo pháp mà đức Tilopa thụ nhận từ đức phật Kim Cương trì, truyền xuống Naropa, qua các chư tổ sư truyền thừa và tiếp tục tới tận ngày nay được tôn xưng là truyền thừa thù thắng. Truyền thừa thứ ba trong Kim cương thừa là Truyền thừa Linh kiến Thanh tịnh. Truyền thừa này dựa trên nền tảng giáo pháp được trao truyền bởi chư tổ sư truyền thừa theo linh kiến thanh tịnh của các ngài. Lấy ví dụ, Đức Pháp vương Gyalwang Drukpa Tsangpa Gyare, người sáng lập truyền thừa Drukpa, đã có linh kiến về bảy đức Phật và ngài đã được thụ nhận trực tiếp những khai thị cốt tủy từ bảy đức Phật. Tương tự như vậy, Pháp vương Gyalwang Kunga Paljor đời thứ II đã có linh kiến về đạo sư Liên Hoa Sinh và thụ nhận trực tiếp giáo pháp Dzongpa Chenpo từ đức Liên Hoa sinh. Tất cả đều được tôn xưng là Truyền thừa Linh kiến Thanh tịnh. Bởi vậy, trong truyền thừa Drukpa, quan kiến hay nền tảng là Mahamudra và phương tiện thể nhập tự tính vạn pháp hay Mahamudra là con đường Sáu Pháp Yoga của Naropa và pháp tu của hành giả dòng truyền thừa là Sáu Pháp Vị Bình Đẳng, còn quả là Bảy Khai thị Nhân duyên. Giáo pháp tu tập thâm diệu nhất của truyền thừa Drukpa là Guru Yoga, đây là pháp tu tập chứng ngộ tất thảy vạn pháp là bản chất Thượng sư và thấu hiểu rằng Thượng sư vốn bất khả phân với tự tính tâm của chính mình. Nguồn: www.Khamtrul.org
-
Đức Di Lặc và ý nghĩa sáu đứa bé Mỗi mùa Xuân đến, mọi người đều in thiệp chúc Tết nhau. Trong nhà chùa nói chung, nhất là Phật giáo Bắc tông, hầu hết đều chúc nhau một mùa Xuân Di-lặc. Như vậy đức Phật Di-lặc có liên hệ gì đến mùa Xuân, mà chúng ta cầu chúc nhau như thế. Có nhiều người cho rằng ngày mồng một Tết là ngày vía đản sanh của đức Di-lặc. Tôi chưa biết đó là ngày đản sanh của Hóa thân nào, vào thời đại nào. Bởi vì lịch sử của Bồ-tát ứng thân vô lượng, làm sao chúng ta căn cứ một bề, lấy đó làm tiêu chuẩn. Chúng tôi chỉ biết một điều thật là quan trọng trên danh nghĩa Di-lặc mà chúng ta thường tụng thường nguyện. Khi chúng ta tụng: Nam-mô Long Hoa giáo chủ đương lai hạ sanh Di-lặc Tôn Phật, đó là thể theo lời huyền ký của đức Bổn sư Thích-ca Mâu-ni rằng, sau khi Bồ-tát Di-lặc sanh lên cung trời Đâu-suất mãn công hạnh, sẽ đến thế giới Ta-bà này thuyết giảng. Lúc tuổi thọ con người giảm tột cùng chỉ còn mười tuổi, rồi do nhờ phát tâm tu hành, gìn giữ Thập thiện, tuổi thọ tăng lên đến sáu mươi bốn ngàn tuổi, chừng đó đức Phật Di-lặc ra đời. Như vậy thời gian Ngài ra đời còn xa lắm. Tôi đã từng nói mỗi đức Phật ra đời không làm việc trùng lập nhau. Bao giờ giáo lý của đức Phật Thích-ca Mâu-ni, danh từ Tam Bảo không còn được biết tới nữa thì đức Phật Di-lặc mới ra đời. Đức Phật Thích-ca được gọi là Ta-bà giáo chủ, là vị Giáo chủ trong cõi Ta-bà này. Còn đức Phật Di-lặc sẽ thành đạo dưới cội Long Hoa, cho nên được gọi là Long Hoa giáo chủ. Tuy thời gian Ngài ra đời còn lâu xa, nhưng chúng ta tin rằng tương lai sẽ có Phật ra đời. Đức Phật ra đời, đó là một diễm phúc cho chúng sanh, là ngọn đuốc sáng cho nhân loại. Vì vậy khi nghĩ đến đức Phật ra đời, chúng ta cảm thấy cả một nguồn hạnh phúc an lành. Ngày mồng một Tết là ngày vía đức Phật Di-lặc, cũng là ngày hứa hẹn hạnh phúc cho chúng sanh. Hạnh phúc bằng cách giải thoát khổ đau, ra khỏi luân hồi, chớ không phải hạnh phúc trong ngũ dục tầm thường. Đầu năm Tăng Ni cùng Phật tử lễ vía đức Phật Di-lặc, Ngài là hình ảnh bên ngoài mà cũng là sự hứa hẹn ở nội tâm chúng ta. Nhớ đến đức Phật sẽ thành, chúng ta cũng nhớ luôn mai kia mình sẽ thành Phật. Vì vậy chúng ta không chỉ lạy đức Phật với lòng thành kính, mà còn cầu chúc cho nhau một mùa Xuân hứa hẹn sẽ thành Phật. Đó là ý nghĩa thâm sâu của ngày vía đức Phật Di-lặc. Bây giờ chúng ta đi vào ý nghĩa hình tượng của Ngài. Chắc rằng chúng ta ai cũng từng thấy hình tượng đức Di-lặc ở các ngôi chùa. Có khi người ta thờ Ngài với vẻ mập mạp, cười toe toét; có chỗ khác cũng thờ hình tượng như vậy mà có sáu đứa nhỏ: đứa thì chọc ngón tay vô rún, đứa thì móc lỗ mũi, đứa thì móc miệng, đứa thì dùi lỗ tai v.v... mà Ngài cứ vui cười không phiền, không chướng ngại gì hết. Tại sao như vậy? Hình ảnh đó nói lên cái gì? Điều này rất thiết yếu, chúng ta nên chú tâm như trong kinh Lăng Nghiêm, có đoạn mười phương chư Phật dị khẩu đồng âm tuyên bố cho ngài A-nan và đại chúng: “Khiến ông phải luân hồi sanh tử, chính là sáu căn của ông, chớ không phải vật gì khác; khiến ông chóng chứng Vô thượng Bồ-đề, cũng chính là sáu căn của ông, chớ không phải vật gì khác.” Như vậy cội gốc sanh tử cũng là sáu căn của chúng ta: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; cội gốc Bồ-đề Niết-bàn cũng là sáu căn của chúng ta. Như vậy con đường trở về giác ngộ hay con đường sanh tử luân hồi là một hay hai? Sanh tử luân hồi cũng đi con đường đó mà Bồ-đề Niết-bàn cũng đi con đường đó, có khác nhau. Người thì đi theo chiều thuận gọi là thuận lưu, người đi theo chiều nghịch, gọi là nghịch lưu. Đi theo chiều thuận là sanh tử luân hồi, đi theo chiều nghịch là giải thoát sanh tử. Như vậy thì không có hai đường. Ví dụ chúng ta về Sài Gòn, cũng đi trên đường Vũng Tàu - Sài Gòn. Sài Gòn - Vũng Tàu cũng đi đường đó. Nhưng nói về Sài Gòn là đi trở về, nói đi Vũng Tàu là đi trở ngược ra. Chỉ khác một người đi trở ra, một người đi trở vô thôi. Khác nhau ở chỗ đó. Đường thì một mà hai người đi nghịch hoặc thuận chiều, kết quả sẽ có hai ngả khác nhau, và hai địa điểm khác nhau. Cũng như vậy, nếu sáu căn của chúng ta nếu ta thuận chiều với nó, đó là chúng ta đi trong luân hồi sanh tử. Chúng ta đi ngược chiều với nó là chúng ta trở về Niết-bàn, Bồ-đề, giải thoát v.v... Nếu sáu căn đi theo sáu trần gọi là thuận lưu, đi theo chiều luân hồi. Nếu sáu căn không chạy theo sáu trần, không nhiễm, không dính, không mắc, đó là người trở về Bồ-đề Niết-bàn không đâu xa lạ. Như vậy để thấy rõ con đường tu tuy có rất nhiều, nhưng sự tu căn bản chỉ đừng cho sáu căn chạy theo sáu trần bên ngoài. Đức Phật Di-lặc là một vị Phật sẽ thành ở ngày mai do Ngài tu hạnh gì? Chính hình ảnh đó là câu trả lời cụ thể nhất. Mỗi đứa bé soi lỗ tai móc lỗ mũi của Ngài mà Ngài vẫn cười không tỏ vẻ bực dọc, không tỏ vẻ chướng ngại buồn bã. Vì vậy Ngài sẽ thành Phật chắc chắn. Còn chúng ta thì sao? Nếu ai móc lỗ tai mình thì không đánh cũng đá, không đập cũng la; móc lỗ mũi mình cũng thế... Như vậy đối sáu căn, có ai động tới thì chúng ta không chịu nổi. Chỗ không chịu nổi đó làm chướng ngại chúng ta. Sáu đứa bé gọi là lục tặc, tức là sáu đứa cướp phá phách. Nhưng thật tình chúng có phá mình hay không? Nếu bị móc lỗ tai mà mình không cảm thấy khó chịu lại thấy đã ngứa thêm thì không bị chướng ngại. Hiện tại hầu hết chúng ta đều bị chướng ngại bởi những lời nói bên ngoài. Nếu những lời chửi mắng gièm pha, nguyền rủa tới lỗ tai, mà mình coi như gió thổi lá dương cành liễu cho nó nương theo gió đi đâu thì đi, đừng vướng mắc tự nhiên mình an lành tự tại. Nếu thấy đó là lời nói thù hằn, mỉa mai sâu độc mà mình bực bội tức tối, ghi nhận nó vào với những tâm niệm hận thù, đen tối thì nó sẽ thành giặc cướp làm tan hoang của báu nhà mình. Tai nghe những tiếng khen chê hoặc là chửi bới đề cao v.v... mình cũng xem thường, vì tiếng nói không thật. Chính bản thân mình còn không thật, huống là tiếng nói bên ngoài. Tâm không động đó là mình đã thắng đứa bé móc lỗ tai rồi. Khi con mắt thấy tất cả hình ảnh phía trước, có đẹp có xấu, dù hình ảnh nào mình cũng dửng dưng không lay động không dính mắc, như vậy bao nhiêu hình ảnh dàn trải tràn trề trước mắt, mình cũng vẫn an lành tự tại. Ngược lại khi thấy một hình ảnh, mình liền cho là đẹp là xấu, đẹp thì sợ mất, xấu thì sanh tâm bực tức, thế là hình ảnh nào cũng gây phiền não hết, không có hình ảnh nào là an vui tự tại. Sự thật những hình ảnh đó có phải là phiền não không? Phiền não là tự ai? Gốc tại mình. Nếu thấy nó mà không luyến ái, không ghét bỏ, thì nó vẫn là nó. Có lỗi lầm gì đâu! Lỗi lầm là chính lòng luyến ái, lòng sân hận của mình chớ không phải hình ảnh có lỗi lầm. Khi chứa chấp sân hận, chứa chấp luyến ái, thì của báu nhà mình bị cướp mất. Con mắt đem những hình ảnh vào để cướp mất của báu nhà mình, đó là cái chướng biểu trưng qua hình ảnh đứa bé móc mắt. Còn nếu ngược lại mình không mắc kẹt, hình ảnh là hình ảnh, mình vẫn an nhiên, thì đứa bé ấy có làm gì thì làm, mình vẫn an ổn. Lỗ mũi cũng thế, ngửi mùi hôi mùi thơm đừng mắc kẹt, coi như khói như gió vừa qua mũi rồi mất, không có gì thật, thì có gì làm cho mình nhiễm, tự nhiên trong lòng được tự tại. Ngược lại, tại chúng ta si mê, cho nên mùi thơm đến thì thích, mùi hôi đến thì bực. Do đó tự mình đem giặc vào cướp của báu nhà mình, tự làm chướng ngại. Như lưỡi chúng ta nếm những vị cay, đắng, mặn, ngọt; cái nào hợp thì thích, cái nào không hợp thì không thích. Vì vậy mà chúng ta chạy tìm kiếm, khổ từ năm này sang năm khác. Mỗi khi lên mâm cơm, thấy món gì mình cảm nghĩ là hợp với lưỡi của mình thì vui, món gì không hợp thì bực. Vui và bực đó làm mình phải chướng, rồi nói lời thô ác làm cho người chung quanh không vui. Vì lẽ đó chúng ta tập cho lưỡi mình đừng tham đắm vị. Tất cả cái ngon cái dở chẳng qua là tạm mà thôi, cốt sao cho mình được an ổn tu hành là quí. Như vậy chúng ta thắng được các thứ vị, tức là đã thắng đứa bé móc miệng rồi. Tôi đã đơn cử các căn như mắt tai mũi lưỡi để thấy chúng ta tu là phải tu ngay tại sáu căn của mình, đó là các cơ quan hằng tiếp xúc với những hoàn cảnh thuận tiện làm cho mình ưa, những hoàn cảnh trái ngược làm cho mình giận. Tuy nói sáu căn chớ thật tình có năm căn quan trọng, tức là mắt tai mũi lưỡi thân, năm cửa đón tiếp bên ngoài. Mỗi khi năm căn tiếp xúc với năm trần thì ý theo đó phân biệt để thương ghét buồn giận. Vì vậy, ngay năm căn kia mà chúng ta đón nhận đúng pháp thì căn thứ sáu (ý căn) không còn trở ngại nữa. Khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần mà chúng ta mắc kẹt, nhiễm theo thì gọi là sáu đứa cướp, bởi vì kho báu nhà mình bị chúng cướp đi. Cướp bằng cách nào? Ví dụ lỗ tai nghe tiếng rồi phân biệt tiếng khen tiếng chê, sanh buồn sanh mừng là bị mất của. Của đó giặc mang đi đường nào và lấy ở đâu? Nói suông thì khó biết. Cần phải biết của mình ở đâu và dấu vết giặc mang đi đường nào, mới có thể giữ của được. Sự thật nó không mang đi đâu, đó chỉ là hình ảnh tượng trưng thôi. Nhưng chúng ta thường nghĩ khi có lấy tức là có mang đi, không ngờ nếu thật tình nó mang đi thì sau này dù có giữ cũng là giữ cái kho không còn của đâu mà giữ. Vì vậy phải biết rõ ràng là tuy nói nó cướp của mình, nhưng không cướp gì hết. Chỉ do năm căn tiếp xúc bên ngoài, rồi tâm mình xao xuyến hoặc buồn hoặc giận. Đó là những đám mây đen nổi dậy che lấp mặt trời trí tuệ của mình, gọi là đã cướp. Khi nào nghe những tiếng khen chê mà trong lòng không xao động, những đám mây đen không nổi dậy, thì mặt trời trí tuệ của chúng ta vẫn sáng rực, gọi là giữ được của báu. Khi trí tuệ chúng ta hằng sáng tỏ, lúc đó gọi là giàu. Còn nếu phút giây nào trí tuệ bị mờ tối không còn phát hiện nữa gọi là mất của báu, ta nghèo đi. Cái nghèo đó là cái nghèo tạm thời, nhưng cũng có thể là nghèo muôn kiếp. Nếu giờ phút nào bị mây phiền não che khuất thì chúng ta mất trí tuệ, nhưng khi nào chúng ta dẹp tan những đám mây đó, thì mặt trời trí tuệ sáng trở lại gọi là nghèo tạm thời. Còn cứ nuôi dưỡng những đám mây đen, hết đám này tới đám khác, dù có mặt trời trí tuệ mà cả đời vẫn sống trong đen tối. Đời này đen tối, đời sau đen tối, cứ tiếp nối như thế mãi thì không bao giờ hết nghèo. Thế nên người biết tu và không biết tu khác nhau tại chỗ đó. Dù chúng ta cũng bị cướp của báu, cũng bị mây đen che lấp mặt trời trí tuệ, nhưng chúng ta tin rằng chỉ bị che trong một phút một giây, rồi sẽ sáng lại. Vì vậy ý nghĩa Đương lai hạ sanh của đức Phật Di-lặc là một ý nghĩa hứa hẹn trong tâm chúng ta, chúng ta sẽ sáng ra ở ngày mai chớ không tối mãi. Đó phải là cái hứa hẹn thật sự chớ không phải hứa hẹn suông, hứa hẹn rỗng. Có người cũng hứa hẹn, nhưng hứa hẹn suông, nghĩa là cũng có hình thức người tu, đi chùa lễ Phật, nhưng cứ chất chứa bao nhiêu phiền não. Tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, cứ như thế mà dồn hết vào trong lòng. Lo kiếm những món ngon, lo chứa những mùi thơm, lo chứa những hình tướng đẹp v.v... cả ngày cứ xao xuyến lo buồn làm khuất đi mặt trời trí tuệ sáng ngời, cho nên phải chịu khổ đen tối. Còn người biết tu, khi trí tuệ bị che khuất thì hối hận, ăn năn cố làm cho tan đám mây mờ, và nguyện làm sao đừng để mặt trời trí tuệ bị che khuất phút giây nào hết. Đó là hứa hẹn thật, hứa hẹn của người biết tu, chớ không phải hứa hẹn suông. Chính chỗ thiết yếu đó mà đức Phật Di-lặc được gọi là con người hạnh phúc, con người hạnh phúc thường mập mạp vui tươi. Cái mập mạp vui tươi đó là nhờ trong lòng không có những đám mây phiền não che lấp mặt trời trí tuệ, mà dù sáu đứa giặc có móc tai, móc mũi v.v... Ngài vẫn thấy như không. Còn chúng ta thấy chướng nên trán nhăn, mày cau, mắt đỏ, gương mặt đau khổ. Cái khổ đó chính vì mình không chịu nổi sáu đứa giặc phá phách nên tự nhiên sanh ra bực dọc, khó chịu. Nếu nó phá phách mà mình không thấy chướng, thì cái phá đó trở thành đùa vui với nhau. Chúng ta không ai chẳng có sáu đứa giặc, sáu đứa cướp đó nhưng nó thành giặc hay bạn là chính tại mình. Thế nên biết tu nơi sáu căn rồi tự nhiên được an lành tự tại. Dù chưa thành Phật, hiện đời ta cũng hạnh phúc tràn trề. Ngày nào tháng nào cũng đều là ngày tháng vui tươi, năm nào cũng là năm đẹp đẽ. Vì vậy mà chúng ta hay chúc nhau một mùa Xuân viên miễn. Đó là mùa Xuân Di-lặc, mùa Xuân hạnh phúc, mùa Xuân mà trong lòng không phiền muộn lo âu. Còn lo âu, còn phiền muộn thì chưa phải là hạnh phúc. Cho nên nhớ đến đức Phật Di-lặc, nhớ đến sáu đứa bé móc tai, móc mũi của Ngài, chúng ta nên hằng giờ hằng phút kiểm điểm lại mình, thử xem giặc có cướp của mình hay không. Nếu chúng ta cứ nuôi dưỡng sáu đứa giặc khiến chúng luôn cướp của mình, thì dù có khao khát nguyện cầu thành Phật mấy đi nữa, quả Phật cũng còn xa lơ xa lắc. Trái lại nếu chúng ta ở mọi trường hợp, đi đứng nằm ngồi, tiếp duyên đối cảnh, đều sống đúng với tinh thần của đức Phật Di-lặc thì tôi tin rằng dù không cầu được an vui, tự nhiên cũng được an vui, không cầu thành Phật, tự nhiên cũng thành Phật. Tóm lại chỗ tu thiết yếu là biết trở về mình, chính là đừng để cho sáu căn dẫn giặc vào, gọi là nghịch lưu. Nghịch lưu tức là trở về Tánh giác. Còn nếu luôn luôn bị sáu căn dẫn giặc về cướp mất của báu nhà mình gọi là thuận lưu, tức là thuận theo chiều sanh tử. Do đó, hôm nay nhân ngày vía đức Phật Di-lặc và cũng là ngày Tết Nguyên Đán, tôi cầu chúc cho tất cả quí vị Tăng Ni, cư sĩ nam nữ đều trở về nguồn giác của mình. Nguyện cầu cho tất cả quí vị kể từ ngày mồng một Tết này cho đến trọn năm và cho đến suốt đời đều luôn luôn là “bối trần hiệp giác”. Trích từ sách: Xuân trong cửa thiền
-
Xác nhận đã nhận học phí của Đỗ Bình Định, nick Bình Định, 2.000.000 đ (Hai triệu đồng chẳn).
-
Đã nhận được học phí chuyển khoản 3.000.000đ (Ba triệu đồng chẳn) của Katya Trần, tên chuyển Trần Thị Phương Dung. Thiên Đồng