-
Số nội dung
6.278 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
75
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Thiên Đồng
-
Xác nhận học viên đóng học phí lớp Phong thủy Lạc Việt cơ bản 11 1. Rio_Rio (Nguyễn Thị Cẩm Huyền) 2.000.000đ (đã cung cấp thông tin cá nhân) 2. Bình Định (Đỗ Bình Định) 2.000.000đ (đã cung cấp thông tin cá nhân) 3. mecutun (Trần Thị Diễm Quỳnh) 2.000.000đ ( chưa cung cấp thông tin cá nhân về email info@lyhocdongphuong.org.vn) 4. dbinh92Nguyễn Đức Bình 2.000.000đ (đã cung cấp thông tin cá nhân) 5. Bánh Mì (Lê Văn Vân) 2.000.000đ (đã cung cấp thông tin cá nhân) 6. tnd (Nguyễn Đình Thái) 2.000.000đ (đã cung cấp thông tin cá nhân) 7. Quanglh (Lục Hồng Quang) 2.000.000đ ( chưa cung cấp thông tin cá nhân về email info@lyhocdongphuong.org.vn) 9. aulac (Phạm Đức Lãng) 2.000.000đ (đã cung cấp thông tin cá nhân) 10. duyen (Nguyễn Văn Lưu) 2.000.000đ ((đã cung cấp thông tin cá nhân)) 11. Sheryl (Nhuyen Kieu Ngoc) 2.000.000đ 12. ???? (Nguyen Manh Thuong) 2.000.000đ 13. ???? (Tran Hoang Dao) 2.000.000đ
-
Giai thoại về tỷ phú xà bông "Cô Ba" Trương Văn Bền (I) Có một thời, xà bông “Cô Ba” là món mỹ phẩm không thể thiếu của các bà, các cô từ miền Đông Nam bộ đến miền Tây Nam bộ. Tỷ phú Trương Văn Bền Có một thời, xà bông “Cô Ba” đánh bật những thương hiệu xà bông nổi tiếng nước ngoài nhập khẩu vào thị trường Việt Nam, trở thành một “thương hiệu Việt” có tiếng nhất thời bấy giờ. Lớp thanh niên bây giờ không biết, nhưng những người lớn tuổi ở miền Nam nói tới xà bông “Cô Ba” với hình ảnh người phụ nữ Việt có gương mặt phúc hậu in trên bao bì chắc chắn đều nhớ. Ngày nay, trong các hệ thống siêu thị Coo-p Mart vẫn thấy xuất hiện loại xà bông này. Người mua nó là những người già, vẫn hoài cổ, thương nhớ một thương hiệu Việt từng một thời lừng lẫy. Tỷ phú người Việt gốc Hoa Trương Văn Bền – chỉ huy trưởng kỹ nghệ đầu tiên của Việt Nam Người Anh, Mỹ thường gọi những người đầu đàn trong kỹ nghệ là “captains of industry” (dịch nghĩa là “chỉ huy trưởng kỹ nghệ”) thể hiện ý tưởng coi những người khai phá, lãnh đạo các công ty, tập đoàn lớn có sức mạnh trong công nghiệp, kinh tế, tài chính, như những chỉ huy trưởng các đơn vị chủ lực trên mặt trận phát triển kinh tế xã hội. Vì thế, nếu xem xét lại toàn bộ những gì mà tỷ phú Trương Văn Bền đã từng làm cho nền kỹ nghệ Việt Nam thời trước 1975, thì có thể gọi ông Trương Văn Bền là người “chỉ huy trưởng kỹ nghệ” đầu tiên của Việt Nam ở đầu thế kỷ 20 thiết nghĩ cũng không có gì quá quắt. Trương Văn Bền chính là ông chủ đã khai sinh ra thương hiệu xà bông “Cô Ba” – là thương hiệu đầu tiên của người Việt cạnh tranh được với các thương hiệu nước ngoài nổi tiếng. Câu chuyện về cách làm giàu và cách làm thương hiệu của Trương Văn Bền thực khiến cho đời sau phải suy ngẫm. Những năm cuối đời, tỷ phú Sài Gòn Trương Văn Bền sống ở Pháp. Ông đã viết một cuốn hồi ký kể về con đường xây dựng thương hiệu “Cô Ba” của mình – một thương hiệu khiến cho nhiều người Âu đến Việt Nam phải nể phục. Cuốn hồi ký đấy được hậu duệ của tỷ phú Trương Văn Bền – hiện giờ đang sinh sống ở Pháp lưu giữ. Ai có cơ hội đọc hồi ký của tỷ phú TRương Văn Bền sẽ thấy tầm trí tuệ của một người có năng khiếu thương trường thiên bẩm. Thế nên gọi Trương Văn Bền là “chỉ huy trưởng kỹ nghệ” đầu tiên của Việt Nam đầu thế kỷ 20, chắc chắn không phải là nói quá. Theo các tác giả, có thể bắt đầu từ Vương Hồng Sển hay Hứa Hoành, thì Trương Văn Bền là người Minh Hương gốc Triều Châu, nhưng thật ra không đúng vậy. Theo người cháu nội của ông, anh Phillipe Trương hiện nay sống ở Pháp thì gốc ông ở Phước Châu, Phúc Kiến, ngay tại Ngũ Hổ Sơn. Tổ tiên của Trương Văn Bền là Trương Thuận Tri, một sĩ quan tùy tùng của tướng nhà Minh Dương Ngạn Địch. Dương Ngạn Địch và người tướng khác nhà Minh là Trần Thượng Xuyên dẫn đoàn quân gồm binh sĩ cùng gia đình của họ từ Quảng Đông lánh nạn nhà Thanh đi trên đoàn tàu đến Việt Nam vào thế kỷ 17. Được phép của chúa Nguyễn, Nguyễn Phúc Tân, Trần Thượng Xuyên và Dương Ngạn Dịch xuông vùng đất mới Gia Định tìm chổ trú ẩn và lập nghiệp. Trần Thượng Xuyên đến Cù lao Phố (Biên Hòa) định cư trong khi Dương Ngạn Địch đến vùng nay gọi là Mỹ Tho. Trương Thuận Chi ở Mỹ Tho một thời gian sau đó đến vùng Chợ Lớn ngày nay. Một người cháu của Trương Thuận Chi là Trương Quốc Thái (sinh vào khoảng đầu thập niên 1800) được nhà Nguyễn bổ chức Huyện Thừa ở Rạch Giá. Sau ngày Pháp chiếm sáu tỉnh miền Nam, Trương Quốc Thái dời vào Huế và được vua Tự Đức phong làm chức Phủ doãn ở tỉnh Bình Thuận. Sau khi Trương Quốc Thái mất, người con của ông là Trương Quang Thanh trở về miền Nam ở tại Chợ Lớn. Ông từ chối phục vụ trong chính quyền Pháp và trở thành một người buôn bán bình thường. Trương Quang Thanh cũng là một thi sĩ và họa sĩ. Ông mất vào năm 1905. Anh Philippe Trương hiện nay vẫn còn giữ hai bức tranh do ông vẽ và nhiều bài thơ. Trương Quang Thanh có 8 người con trai và một gái. Người con gái là bà Trương Thị Cưởng, sau này thành hôn với ký giả Nguyễn Văn Sâm. Trương Văn Bền là một trong 8 người con trai. Ông Trương Văn Bền sanh ngày 10 tháng 10 năm Giáp thân thời vua Hàm Nghi, (tháng 12 - 1884). Thưở thiếu thời, như nhiều gia đình khá giả và học thức, lúc đầu Trương Văn Bền học chữ Hán. Sau đó năm 1896, ông bắt đầu giáo dục Pháp, học ở các trường Ecole Municipale de Cholon, Collège de My Tho, Lycée Chasseloup-Laubat (Saigon). Năm 1889, chính quyền thuộc địa Pháp tổ chức lần đầu tiên kỳ thi Brevet élémentaire (cao đẳng tiểu học). Thường xuyên được sang Pháp, lại được theo học ở những ngôi trường Pháp danh tiếng, nhưng Trương Văn Bền chưa từng có bất cứ bằng cấp nào. Dù vậy ông vẫn được bổ nhiệm chức vụ Ký lục thượng thư. Năm 1901, ông rời bỏ không làm cho chính quyền Pháp nữa và trở lại nghề buôn bán của cha ông. Gia đình Trương Văn Bền Từ bé, Trương Văn Bền đã quen với khung cảnh giao thương mua bán tấp nập, và máu kinh doanh cũng thấm vào người ông như lẽ tự nhiên. Năm 31 tuổi, ông lập một đồn điền cao su cỡ nhỏ ở Thủ Đức, sau đó mấy năm, ông mở rộng kinh doanh bằng cách lập công ty khai khẩn ruộng ở Đồng Tháp Mười. Ông cũng hợp tác với Viện nghiên cứu Nông nghiệp Đông Dương trong việc chích nhựa thông và phục hồi các khu rừng quanh Đà Lạt, sản xuất mỗi năm khoảng 30 tấn dầu thông và hàng trăm tấn tùng hương. Dù rất thành công với những lĩnh vực trên, nhưng khi nhắc đến Trương Văn Bền, người ta lại thường nhắc đến một lĩnh vực khác: kinh doanh xà bông. Khi mới bỏ nghiệp công chức ra làm kinh doanh, lúc đầu Trương Văn Bền bán đậu phọng, đậu xanh, đường, trong một cửa tiệm nhỏ tọa lạc ở số 40 rue du Cambodge (Chợ Lớn). Sau đó ông khuếch trương mua các loại hàng sỉ từ các thương gia người Hoa rồi bán lại cho các tiệm bán lẻ ở Chợ Lớn. Năm 1905, ông mở một xưởng sản xuất và tinh luyện dầu ở Thủ Đức. Ông dùng máy ép bằng hơi làm ở Mỹ, mua từ Pháp. Một năm sau, ông mở một nhà máy xay gạo ở Chợ Lớn và một ở Rạch Các. Ông cũng có một khách sạn và một tiệm mỹ phẩm ở Chợ Lớn. Tuy vậy các cơ sở này không thành công bằng cơ sở sản xuất dầu của ông ở Thủ Đức. Từng được xang Pháp nhiều lần, Trương Văn Bền có cơ hội tiếp xúc với kỹ nghệ sản xuất xà bông của người Pháp. Khi về Việt Nam, ông thấy xà bông Việt Nam thua xa xà bông Pháp. Thuở đó, chỉ có các lò nấu nhỏ ở Chợ Lớn sản xuất xà phòng, giá không đắt nhưng chất lượng kém. Người Sài Gòn ưa chuộng các sản phẩm nhập khẩu từ Pháp - loại sản phẩm mà họ vẫn thường gọi là xà bông Marseille. Ở Việt Nam cũng có hai nhà máy làm xà bông của Pháp do ông Mazet và ông Boris làm chủ cũng được ưa chuộng. Tuy nhiên những hãng xà bông này giá rất mắc, chỉ giới thượng lưu mới dám dùng. Người bình dân chỉ biết đứng từ xa khao khát. Không chạnh lòng buồn như nhiều người khi thấy dân chúng chỉ sính dùng hàng ngoại, ông Trương Văn Bền, với sự nhạy bén sẵn có của một doanh nhân, đã ngay lập tức nhận ra một cơ hội ngàn vàng. Một mặt, Trương Văn Bền lân la đến hai nhà máy này, tìm cách học bí quyết sản xuất xà bông. Mặt khác, ông gởi một kỹ sư giỏi qua Paris để tìm hiểu kỹ thuật làm xà bông với một kỹ sư người Pháp ở nhà máy làm xà bông Mazet. Khi kỹ sư về Việt Nam, ông bắt tay vào sản xuất mặt hàng xà bông của riêng mình, với mục tiêu hướng tới người bình dân trước tiên và sau đó là cả tầng lớp thượng lưu. Là người nhạy cảm trong việc thương mại, nhìn xa thấy rộng, ông Bền biết rõ một tiềm năng kinh tế Việt Nam còn bị lãng quên: cây dừa. Từ năm 1918, ông đã lập xưởng ép dầu dừa. Xưởng này sản xuất đủ loại dầu từ dấu nấu ăn, dầu salat (salad oil) đến dầu dừa, dầu castor, dầu cao su và các loại dầu dùng trong kỹ nghệ. Mỗi tháng sản xuất 1.500 tấn. Năm 1932, hãng xà bông Trương Văn Bền được thành lập tại đường Quai de Cambodge (trước chợ Kim Biên bây giờ), ban đầu sản xuất 600 tấn xà bông giặt mỗi tháng. Từ khi Xà bông Cô Ba tức xà bông thơm đầu tiên của Việt Nam ra đời, Cô Ba đã đánh bạt xà bông thơm của Pháp, nhập cảng từ Marseille, nhờ phẩm chất tốt, giá thành thấp. Ông Trương Văn Bền sản xuất xà bông “Cô Ba” từ cây dừa Bến Tre. Theo ông Hồ Vĩnh Sang – Chủ tịch Hiệp hội Dừa Bến Tre thì dân Bến Tre đã làm dầu dừa bán cho Hoa kiều từ những năm đầu thế kỷ 20, bán cả cho ông Trương Văn Bền theo hai dạng: cơm dừa và dầu dừa thô. Rồi chủ hãng mới chế thành dầu ăn, xà bông… Lúc đầu có xà bông đá giặt còn nghe mùi dầu dừa. Sau ra loại xà bông thơm Cô Ba thì ai cũng chịu bởi nó thơm lâu. Dân miền Nam hồi đó toàn xài xà bông Cô Ba chớ đâu có hàng ngoại nhập gì vô được. Công thức sản xuất xà bông của ông Bền khi đó chỉ là “dầu dừa, xút kết hợp vài phụ gia khác ” với 72% dầu dừa. Tới giờ, vẫn chưa ai biết ông Bền có bí quyết nào chế ra được loại xà bông có mùi thơm vừa chân chất, gần gũi lại vừa kiêu sa, đài các mang tên “Cô Ba” ấy. Bánh xà bông nhỏ mịn màng ấy chẳng những đánh bật được những loại xà bông ngoại lúc bấy giờ mà còn được xuất ra nước ngoài rất nhiều. Cách làm thương hiệu “không tiền khoáng hậu” của tỷ phú Trương Văn Bền đầu thế kỷ 20 Trong ký sự “Một tháng ở Nam Kỳ” (1918), ông Phạm Quỳnh có nhắc đến ông Trương Văn Bền như sau: “Ông Trương Văn Bền là một nhà công nghiệp to ở Chợ Lớn, năm trước cũng có ra xem hội chợ ở Hà Nội, đem xe hơi ra đón các phái viên Bắc Kỳ về xem nhà máy dầu và nhà máy gạo của ông ở Chợ Lớn. Xem qua cái công cuộc ông gây dựng lên, đã to tát như thế mà chúng tôi thấy hứng khởi trong lòng, mong mỏi cho đồng bào ta ngày một nhiều người như ông, ngõ hầu chiếm được phần to trong trường kinh tế nước nhà và thoát ly được cái ách người Tàu về đường công nghệ thương nghiệp….”. Những việc Trương Văn Bền làm được, là những việc nằm ngoài sức tưởng tượng của nhiều nhà tư sản Việt và cả những người Pháp ở Đông Dương. Công ty Trương Văn Bền và các con ra đời với mục tiêu chính là trở thành nhà máy nấu xà phòng lớn nhất Đông Dương. Tận dụng nguyên liệu có sẵn, ứng dụng kỹ thuật mới, Công ty Trương Văn Bền và các con đã đưa ra những sản phẩm chất lượng đạt tiêu chuẩn quốc tế, giá cả phải chăng. Thêm vào đó, ông lại rất chú trọng đến việc quảng cáo và khuếch trương thương hiệu. Trên hộp xà bông của hãng là hình một trong những mỹ nhân nức tiếng Sài Gòn lúc bấy giờ - cô Ba. Xà bông cô Ba xuất hiện trên khắp các báo chí với lời kêu gọi: “Dùng xà bông xấu, mục quần áo” và “Người Việt Nam nên xài xà bông của Việt Nam”. Đặc biệt trong các cuộc triển lãm, gian hàng của công ty luôn tạo ấn tượng cho khách bởi mô hình cục xà bông khổng lồ và giá cả sản phẩm rẻ hơn bình thường đến 25%. Hơn thế, ông Bền còn tìm cách đưa hình ảnh sản phẩm vào khắp các loại hình nghệ thuật được người Việt ưa thích lúc bấy giờ như ca vọng cổ, thơ lục bát…Thành công đến không ngoài dự tính. Xà bông cô Ba đánh bại xà bông Marseille, nhanh chóng được biết tới trên toàn Đông Dương, thậm chí còn xuất sang Hương Cảng, qua châu Phi và Tân Đảo. Cái tên Xà bông cô Ba đã trở thành gắn bó với người Việt Nam vì chất lượng tốt và giá cả phải chăng. Công ty của Trương Văn Bền và các con trở thành công ty sản xuất trong lĩnh vực dầu dừa không thể thay thể và quan trọng bậc nhất toàn cõi Đông Dương. Cho đến tận bây giờ, nhiều người Sài Gòn vẫn còn nhắc lại cái tên ấy với nỗi hoài niệm khôn nguôi về một Sài Gòn đầu thế kỷ. Ngày nay ở Sài Gòn vẫn còn hãng xà bông Trương Văn Bền, vẫn sản xuất thương hiệu xà bông Cô Ba, coi đây như một biểu tượng của một thương hiệu Việt. Một trong những điều làm nên thành công của thương hiệu xà bông Cô Ba chính là cái tên rất Việt Nam mà tỷ phú Trương Văn Bền đã nghĩ ra cho sản phẩm của công ty mình, cũng như biểu tượng ngườ phụ nữ Nam bộ trên bao bì. Trong hồi ký của ông, ông viết về sự chọn lựa tên sản phẩm xà bông của ông như sau: “Tôi đang tìm kiếm tên nào kêu, dễ gọi, dễ nhớ để đặt tên cho Xà-bông mà chưa kiếm ra. Ngoài Bắc, phong trào cách mạng Việt Nam quốc dân đảng do Nguyễn Thái Học cầm đầu nổi lên nhiều chỗ và đã bị thất bại đau đớn, đến lúc Tây xử tử họ ở Yên Bái thì mười người như một, trước khi đút đầu vô máy chém đều bình tĩnh hô to: “Việt Nam vạn tuế” gây một luồng dư luận sôi nổi ở trong nước và thế giới.Tôi không bỏ lỡ vội chụp lấy vụ này, tôi muốn lấy tên Việt Nam đặt cho xà bông do người Việt Nam sản xuất để nêu lòng ái quốc đang bồng bột ở trong xứ, xà bông Việt Nam là của người Việt làm cho người Việt, người Việt yêu nước phải dùng đồ Việt Nam”. Về sự chọn lựa biểu tượng của xà bông Việt Nam, ông đã dùng hình ảnh của một người con gái đẹp Việt nam rất đậm dân gian Nam bộ là “Cô Ba”. Không biết trong trường hợp nào ông đã dùng hình ảnh của một người phụ nữ “cô Ba” – người phụ nữ có gương mặt phúc hậu, thuần Việt, tóc búi với nét đẹp có duyên Nam bộ. Biểu tượng này của vùng đất miền Nam đánh trúng tâm lý dễ dàng nhận diện vàquen thuộc của con người trong vùng đã là một yếu tố quan trọng để sản phẩm của ông được tiếp nhận rộng rãi. Một trong những tin đồn huyền thoại dân gian kể lại thì “Cô Ba “chính là con gái Thầy Thông Chánh ở Trà Vinh, người đàn bà đẹp nhứt Nam Kỳ hồi đầu thế kỷ 20. Cô Ba có thể coi là người phụ nữ Việt đầu tiên là người mẫu cho một thương hiệu hàng hóa Việt Nam. Có nhiều giai thoại về “Cô Ba”, nhưng các giai thoại và tin đồn về “Cô Ba” có nhiều tin không đúng. Thật ra người phụ nữ ấy chính là người vợ của ông Trương Văn Bền. Ta có thể thấy hình ảnh trên nhãn hiệu và ảnh của phu nhân ông Trương Văn Bền trong bức ảnh chụp chung cả gia đình là một. Vả lại, trước kia trong phòng làm việc của ông tại công ty Xà Bông Việt Nam có tượng bằng đồng đen hình vợ ông mà ông dùng làm mẫu cho hình trên hộp xà bông. Rất yêu người vợ xinh đẹp này, ông Trương Văn Bền đã lấy chân dung vợ làm biểu tượng cho thương hiệu xà bông của mình, biến nó thành một thương hiệu sống cho đến tận giờ. Thời bây giờ nhắc đến chuyện PR, làm thương hiệu, chẳng ai xa lạ. Nhưng từ thời xưa, Trương Văn Bền đã rất giỏi quảng bá thương hiệu của mình. Trong sự tiếp thị sản phẩm trên thị trường cạnh tranh lúc đầu và sau này cho đến khi ông mất để khuếch trương thương hiệu, Trương Văn Bền đã khôn khéo sáng tạo không kém những doanh nhân nổi tiếng trên thế giới hiện nay. Trên báo chí ở Việt Nam từ khi xà bông Việt nam được sản xuất vào năm 1932, trong mục quảng cáo thường đăng “Dùng xà bông xấu, mục quần áo” hoặc “Người Việt Nam nên xài xà bông Việt Nam” của Hãng Xà bông Trương Văn Bền, vừa quảng cáo, vừa “khích” người Việt nên dùng thương hiệu Việt, khích lệ lòng tự hào Việt. Trong hồi ký, ông Trương Văn Bền kể: “Tôi phải làm quảng cáo dữ lắm cho thương hiệu xà bông Cô Ba. Một mặt phải kiếm thế ép mấy hàng tạp hóa mua xà-bông Việt Nam về bán, vì tiệm tạp hóa hầu hết của khách trú, chúng xấu bụng không mấy khi chịu mua đồ của người Việt Nam chế tạo về bán, chỉ trừ khi nào món đồ ấy đã được thông dụng đem cho chúng một mối lợi hàng ngày thì chúng mới chịu mua. Tôi bèn huy độngmột tốp người cứ lần lượt hàng ngày đi hết các tiệm tạp hóa hỏi có xà bông Cô Ba bán không ? Hễ có thì mua một, hai xu, bằng không thì đi chỗ khác, trước khi bước chân ra khỏi tiệm nói với lại một câu: “Sao không buôn xà bông Việt Nam về bán ? Thứ đó tốt hơn xà bông khác nhiều”. Hết người này tới người khác rồi chủ tiệm cũng phải để ý lấy làm lạ, phải hỏi lại chỗ bán xà bông Việt Nam, cho người mua thử về bán. Tôi còn tổ chức những tốp quảng bá thương hiệu. Tốp thì ôm đờn ca vọng cổ tán dương tính chất của xà bông của hãng mình, tốp thì đi đánh võ rao hàng, rồi đá banh tôi cũng cho mặc áo thêu thương hiệu xà bông của hãng. Nói tóm lại tôi không bỏ lỡ một dịp nào mà không làm quảng cáo, nên xà bông Việt Nam bán chạy lắm”. Nhờ sức mạnh quảng cáo nên xà bông Cô Ba của Trương Văn Bền bán rất chạy, tiến phát rất mau, chỗ nào cũng buôn xà bông Cô Ba, ai nấy chỉ dùng xà bông Cô Ba thôi. Thấy mối lợi như vậy nhiều người chóa mắt cũng làm xà bông để tranh dành, như Bà Đốc phủ Mầu ra xà bông “Con Cọp”, Balet ra xà bông “Nam-Kỳ” cũng có biểu tượng người đàn bà Việt Nam như xà bông Cô Ba, Nguyễn Phú Hữu ra xà-bông “3 sao” ở Cần Thơ... Nhưng tranh đua không lại với xà bông Cô Ba nên đều bị thất bại, bỏ cả. Theo Thạch Vinh Phụ nữ Today
-
Vợ chồng Ngâu Xích hổ Dòng tranh này cũng như các dòng tranh phổ biến khác đều có hai dòng tranh chính là tranh thờ và tranh Tết. Tranh thờ thì có tranh Phật, Tam hoà Thánh mẫu, Tứ phủ, Ngũ hổ... Tranh Tết thì Chúc phúc, Tứ quí, ... Hiện không có tài liệu nào chứng minh về thời điểm ra đời của dòng tranh này, nhưng nhìn chung nhiều thông tin cho thấy dòng tranh này ra đời vào khoảng thế kỷ 16. Và chịu ảnh hưởng rõ rệt của các luồng tư tưởng, văn hóa, tôn giáo, của vùng miền, các dân. Là kết quả của sự giao thoa tinh hoa giữa Phật giáo, Nho giáo; giữa loại hình tượng thờ, điêu khắc ở đình, chùa với những nét đẹp trong sinh hoạt văn hoá hằng ngày. Phát triển trong một thời gian khá dài nhưng tới thế kỷ 20 dòng tranh này bắt đầu suy tàn, nhất là kể từ sau kết thúc chiến tranh Việt Nam hầu như các nhà làm tranh đều bỏ nghề. Nhiều nhà còn đốt bỏ hết những dụng cụ làm tranh như ván, bản khắc. Trong số bản khắc tranh Hàng Trống còn giữ lại được, có mấy tấm đặc biệt giá trị, lưu tại Bảo tàng Lịch sử ở Hà Nội dưới ký hiệu I.5484 a.b.c. Những tấm gỗ thị dầy dặn này được khắc cả hai mặt, theo đề tài rút từ kinh nhà Phật hay cổ tích Việt Nam, Trung Hoa, kèm cả tuổi tranh "Quý Mùi lục nguyệt khởi Minh Mệnh tứ niên", tức là 1823 dương lịch. Những tấm ván này được khắc cách đây đã ngót hai trăm năm, nên ta có cơ sở tin rằng dòng tranh Hàng Trống xuất hiện còn sớm hơn thế khá nhiều. Cách in ấn và vẽ Tranh Hàng Trống sử dụng kỹ thuật nửa in nửa vẽ, tranh chỉ in ván nét lấy hình, còn màu là thuốc nước, tô bằng bút lông mềm rộng bản, một nửa ngọn bút chấm màu, còn nửa ngọn bút kia chấm nước lã, tô tranh theo kỹ thuật vờn màu. Tranh chỉ có một bản đen đầu tiên, sau khi in thì tranh được tô màu lại bằng tay. Từ các bản khắc gốc, những bức tranh đã được in ra, bằng mực Tàu mài nguyên chất. Sau đó là công đoạn bồi giấy. Tùy thuộc từng tranh cụ thể mà có tranh chỉ bồi một lớp, có tranh lại phải bồi đến 2 hay 3 lớp giấy. Khi hồ đã khô thì mới có thể vẽ mầu lại. Có khi phải mất đến 3, 4 ngày mới hoàn thành một bức tranh. Tranh được in trên giấy dầy hay giấy báo khổ rộng. Có những tranh bộ khổ to và dài, thường bồi dầy, hai đầu trên dưới lồng suốt trục để tiện treo, phù hợp với kiểu kiến trúc nhà cao, cửa rộng nơi thành thị. Ván khắc được làm bằng gỗ lồng mực hoặc gỗ thị. Mực in truyền thống dùng bằng những chất liệu dân dã nhưng cầu kỳ và tinh xảo trong chế tác. Màu sắc và cách tạo màu Tranh dùng các gam màu chủ yếu là lam, hồng đôi khi có thêm lục, đỏ, da cam, vàng... Tỷ lệ được tạo không hề đúng với công thức chuẩn mà chỉ để cho thật thuận mắt và ưa nhìn. Màu đen của tranh được làm từ tro rơm nếp hay tro lá tre được đốt và ủ kỹ, màu vàng từ hoa hòe, màu chàm của các loại nguyên liệu từ núi rừng, màu son của sỏi đồi tán nhuyễn. Những màu sắc đó được pha với dung dịch hồ nếp cổ truyền tạo cho tranh một vẻ óng ả và trong trẻo mà các loại màu hiện đại không thể nào có được. Đề tài và nội dung tranh Đề tài của tranh rất phong phú nhưng chủ yếu là tranh thờ như: Hương chủ, Ngũ hổ, Độc hổ, Sơn trang, Ông Hoàng Ba, Ông hoàng Bẩy... Ngoài ra cũng có những bức tranh chơi như: Tố nữ, Bốn mùa (mỗi bản bốn vế), Tranh Kiều, Nhị độ mai; hoặc những bức phỏng theo các vở tuồng. Có những bức dùng để chơi Tết như tranh Gà, Cá chép trông trăng... ****************************** Các tranh "Hổ", "Tố nữ", tranh "Lý ngự vọng nguyệt" - (Cá chép trông trăng) và tranh "Thất đồng" là những tranh nổi tiếng nhất của dòng tranh Hàng Trống - Hà Nội. Nét khắc quý phái, tinh vi uyển chuyển. Nghệ sĩ chỉ khắc một bản nét. In nét trước lên giấy rồi dùng phẩm tô màu. Màu tô có đậm nhạt làm nổi khối nuột nà cho người và cảnh vật. Vốn tranh dân gian nằm trong một mảng lớn của hội hoạ Việt nam cổ vẫn như một tia sáng mảnh mai nhưng không kém phần chói lọi. Tranh dân gian gắn liền với cuộc sống, với lễ giáo người Việt. Và hiện tại, cho dù cuộc sống có thay đổi, xô bồ, nhưng trong dòng tranh ấy vẫn tồn tại những con người, những nghệ nhân có đôi bàn tay vàng, đau đáu với nghề và vẫn luôn hy vọng duy trì được một vốn cổ của dân tộc. Nói tới tranh dân gian của người Việt, ta không thể không nói tới Tranh Hàng Trống. Là một dòng tranh kết hợp từ kỹ thuật tranh khắc gỗ với vờn màu thủ công. Tranh Hàng Trống có từ lâu đời và phát triển cùng nền văn hoá của thành cổ Hà nội xưa. Chủ yếu là tranh thờ như những bức Hương chủ , Ngũ hổ, Độc hổ, Sơn trang, Ông Hoàng Ba, Ông hoàng Bẩy... Ngoài ra cũng có những bức tranh chơi như : Tố nữ, Bốn mùa, (mỗi bản bốn vế), Tranh Kiều, Nhị độ mai; hoặc những bức phỏng theo các vở tuồng. Có những bức dùng để chơi Tết như tranh Gà , Cá chép trông trăng.... Nhưng tựu chung lại, Tranh Hàng Trống vẫn có một bản sắc riêng biệt, mầu sắc chói lọi nhưng không kém phần hài hoà, phong cách diễn tả sâu sắc. Đường nét chuyển động về hình hoạ thật tài tình, nhuần nhị. Kỹ thuật làm tranh Hàng Trống về căn bản cũng giống kỹ thuật tranh khắc gỗ nói chung. Ván bằng gỗ lồng mực hoặc gỗ thị. Mực in truyền thống dùng bằng những chất liệu dân dã nhưng cầu kỳ và tinh xảo trong chế tác. Màu đen làm từ tro rơm nếp hay tro lá tre được đốt và ủ kỹ, màu vàng của hoa hoè, màu chàm của núi rừng, màu son của sỏi đồi tán nhuyễn. Những sắc màu bình dị ấy pha với dung dịch hồ nếp cổ truyền tạo cho tranh một vẻ óng ả và trong trẻo mà các loại màu hiện đại không thể nào có được. Để tạo ra được một loại màu cổ truyền, các nghệ nhân phải ủ, phải sắc như sắc thuốc bắc, phải cô đặc dần bằng cách đun nhỏ lửa liên tục mấy ngày trời rồi lại lắng cặn, chắt nước. Cầu kỳ là vậy, nên những bức tranh không những có hồn của dân tộc mà còn in lên cả một sự khổ công của người vẽ. Một bức tranh Hàng Trống thường được bồi bằng ba đến bốn lớp giấy vì đặc thù của tranh khắc gỗ chỉ cho những đường nét đẹp trên một nền giấy mỏng (thường là giấy báo xước hay giấy xuyến chỉ, cao cấp hơn là nền lụa). Những chất liệu này sẽ cho một hiệu ứng màu chuẩn mực mang đậm dấu ấn của thiên nhiên. Một bức tranh thông thường như bức "Ông Hoàng Ba", nếu là một nghệ nhân lành nghề thì sẽ phải lao động cật lực khoảng mười đến mười hai giờ đồng hồ liên tục. Ông Hoàng Ba, theo truyền thuyết là con trai của Long vương, dân thuyền chài hay mua để thờ, hy vọng ngài sẽ xua đi những sự không may trong cuộc đời sông nước. Có những bức cầu kỳ hơn như " Tứ phủ công đồng " (khổ rộng 105 cm x 130 cm) sẽ mất của nghệ nhân sáu ngày làm việc liên tục, mỗi ngày từ mười đến mười hai tiếng. Công phu như vậy nên Tranh Hàng Trống cũng dần bị mai một và đến nay chỉ còn duy nhất một nghệ nhân. Ông là Lê Đình Nghiên (sinh năm 1950) con trai cụ Lê Đình Liệu (sinh năm 1912). Gia đình ông đã làm tranh Hàng Trống từ đời cụ tổ từ khoảng cuối thế kỷ XVI. Hiện tại ở gia đình ông còn khoảng 30 mặt ván và ông nói với một chất giọng hơi đau xót: " Nếu khôi phục được tất cả số vốn cổ truyền của ông cha để lại thì cũng phải ngót nghét 100 bản ". Đấy là nỗi đau lòng của ông, nhưng suy cho cùng, mỗi người chúng ta mang trong mình một dòng máu đỏ da vàng của người Việt, nghĩ đến câu nói đó, liệu có khỏi ngậm ngùi? (sưu tầm)
-
Thần chim Thất đồng Thúy Kiều gặp Kim Trọng Tiên dâng hoa Tiến lộc Tiến tài Tranh Tố nữ Triệu Nguyên Súy Tứ quí hoa quả Tử vi Trấn Trạch
-
Lưỡng nghi Lý ngư vọng nguyệt Múa sư tử Ngũ hổ Ngư tiều canh độc Phật Bà Quan Âm Rồng rắn lên mây Tam đa - Phúc Lộc Thọ Tam phú
-
TRANH HÀNG TRỐNG Tranh Hàng Trống một trong những dòng tranh dân gian Việt Nam được làm và bày bán chủ yếu tại các phố Hàng Trống, Hàng Nón, Hàng Hòm và Hàng Quạt thuộc tổng Tiêu Túc (sau đổi là Thuận Mỹ), huyện Thọ Xương (nay là quận Hoàn Kiếm, Hà Nội), nhưng chủ yếu là ở Hàng Trống (xưa là thôn Tự Tháp). Dòng tranh này hiện nay gần như đã bị mai một hết, chỉ còn lưu giữ trong các viện bảo tàng. Cùng với các hộ dân cư bản địa lâu đời, cũng có nhiều thợ vẽ và thợ khắc tài hoa từ nơi khác đến đây làm thuê cho các chủ xưởng in tranh. Do buôn bán cạnh tranh, thường in kèm tên hiệu như Thanh An, Vĩnh Lợi, Phúc Bình.. Bà Chúa Thượng Ngàn Bạch hổ Bát tiên náo hải Bịt mắt bắt dê Chim công Chợ quê Cô Ba Giảng học đồ Hộ pháp
-
Quá tuyệt, chú Lãn Miên. Cảm ơn chú nhiều nhiều.
-
Tước biện Mũ tước biện trong sách Tam lễ đồ Tượng Lý Thái Tổ ở cạnh hồ Hoàn Kiếm Tước biện có thể coi là một loại mũ miện (mũ bình thiên). Khác với mũ miện, mũ tước biện không có dây tua xâu chuỗi hạt. Theo Trung Quốc y quan phục sức đại từ điển, mũ tước biện còn có tên gọi là "quảng miện". Cũng giống như mũ miện, mũ tước biện là loại mũ dùng trong đại lễ. Tượng Lý Thái Tổ ở hồ Gươm đội mũ tước biện. Tượng Lê Thái Tổ, dựng năm 1888, cũng ở cạnh hồ Gươm, đội mũ miện. Mũ miện này của tượng Lê Thái Tổ có 4 dây tua ở 4 góc. Có thể thấy tạo hình Lê Long Đĩnh trong bộ phim Lý Công Uẩn đã mô phỏng loại mũ miện này, bởi vì các loại mũ miện ở Trung Quốc có 12, 9, 7, 5, 3 dây tua (tính theo một cạnh) chứ không có loại 2 dây tua. Tượng Lê Thái Tổ ở cạnh hồ Hoàn Kiếm Nhân vật Lê Long Đĩnh trong bộ phim Lý Công Uẩn - Đường tới thành Thăng Long từ: donga01
-
Xác nhận học viên đóng học phí lớp Phong thủy Lạc Việt cơ bản 11 1. Rio_Rio (Nguyễn Thị Cẩm Huyền) 2.000.000đ (đã cung cấp thông tin cá nhân) 2. Bình Định (Đỗ Bình Định) 2.000.000đ (đã cung cấp thông tin cá nhân) 3. mecutun (Trần Thị Diễm Quỳnh) 2.000.000đ ( chưa cung cấp thông tin cá nhân về email info@lyhocdongphuong.org.vn) 4. dbinh92Nguyễn Đức Bình 2.000.000đ (đã cung cấp thông tin cá nhân) 5. Bánh Mì (Lê Văn Vân) 2.000.000đ (đã cung cấp thông tin cá nhân) 6. tnd (Nguyễn Đình Thái) 2.000.000đ (đã cung cấp thông tin cá nhân) 7. Quanglh (Lục Hồng Quang) 2.000.000đ ( chưa cung cấp thông tin cá nhân về email info@lyhocdongphuong.org.vn) 9. aulac (Phạm Đức Lãng) 2.000.000đ (đã cung cấp thông tin cá nhân) 10. duyen (Nguyễn Văn Lưu) 2.000.000đ ((đã cung cấp thông tin cá nhân)) 11. Sheryl (Nhuyen Kieu Ngoc) 2.000.000đ 12. ???? (Nguyen Manh Thuong) 2.000.000đ
-
Thành Hoàng Đế, cung điện từng bị chôn vùi Thành Hoàng Đế, cung điện từng bị chôn vùi Thành Hoàng Đế do Nguyễn Nhạc xây dựng năm 1776 trên nền của kinh đô Đồ Bàn, vương quốc Champa. Sau khi Nguyễn Ánh lên ngôi, những gì liên quan đến nhà Tây Sơn đều bị xóa sạch. Thành Hoàng Đế cách thành... Thành Hoàng Đế, cung điện từng bị chôn vùi Thành Hoàng Đế do Nguyễn Nhạc xây dựng năm 1776 trên nền của kinh đô Đồ Bàn, vương quốc Champa. Sau khi Nguyễn Ánh lên ngôi, những gì liên quan đến nhà Tây Sơn đều bị xóa sạch. Thành Hoàng Đế cách thành phố Quy Nhơn khoảng 30 km về phía bắc, nay thuộc xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Thành Hoàng Đế cũng như các kinh thành khác gồm 3 vòng thành, với chu vi 25 dặm. Tử Cấm Thành với chu vi 600 m, những đoạn tường của Tử Cấm Thành hiện nay vẫn còn với chiều cao trung bình 1,8 m có đoạn cao đến 3 m, tường xây thẳng bằng đá ong. Qua nhiều lần khai quật đã lộ rõ nhiều công trình kiến trúc chứng tỏ vương triều Thái Đức đã phát triển trên đất này. Đó là nền chính điện, nền điện bát giác với gạch Bát Tràng và đá trắng Champa. Hai hồ bán nguyệt đối xứng qua điện bát giác, với những dãy đá san hô, những bậc đá gắn vào hồ. Ngoài hai hồ bán nguyệt, đợt khai quật còn lộ một hồ hình trái tim. Những cây sung cổ thụ mấy trăm năm tuổi bên hòn giả Sơn. Giếng vuông ở góc thành, lát đá ong mà nước đến bây giờ vẫn trong xanh dù cho thời gian cây cỏ vô tình che lấp. Thành Hoàng Đế còn chứng kiến những trận đánh giữa nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn, trong đó có trận đánh bao vây thành của hai tướng Tây Sơn là Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng với tướng Võ Tánh vào tháng 5 năm 1801. Biết cầm cự không nổi với quân Tây Sơn, Võ Tánh tự thiêu cùng với quan văn là Ngô Tùng Châu uống thuốc độc tự tử. Sau khi nhà Tây Sơn sụp đổ, nơi đây làm nơi thờ “song trung” Võ Tánh và Ngô Tùng Châu. Tuy thành Hoàng Đế chỉ còn là di tích lịch sử, nhưng văn hóa, và những làng nghề xung quang thành vẫn còn như từ thuở nào. Không nhiều như “36 phố phường” của thành Thăng Long, nhưng xung quanh thành Hoàng Đế vẫn còn nhiều làng nghề rộn ràng sản xuất như làng gốm Vân Sơn, làng dệt Phương Danh, làng đúc đồng Bằng Châu, làng tiện gỗ, làng nón… cho thấy một kinh thành nhộn nhịp ngựa xe và phồn hoa làm lòng ta thấy nao nao mà nghĩ về một huyền tích kinh xưa. Cổng Thành Hoàng Đế. Một hồ nước trong Tử Cấm Thành đã được khai quật. Giếng hình trái tim. Một góc Tử Cấm Thành. Mộ tướng Võ Tánh trong thành hoàng. Một góc tường Tử Cấm Thành bằng đá. Giếng cổ trong thành hoàng. Nền điện được lát bằng gạch Bát Tràng. Những biểu tượng bằng đá trong thành hoàng đế. Voi đá. Hoàng Tuấn
-
Mr Đàm 'khóa môi' sư thầy ' Ông hoàng nhạc Việt' hy sinh hai nụ hôn đồng tính để đáp trả tấm chân tình của hai vị sư thầy mua rượu ủng hộ Wanbi Tuấn Anh. Hà Hồ và Lệ Quyên có cơ hội 'cười lăn cười bò' vì phong cách 'chịu chơi' của sư thầy. Sau khi quyên góp 1,1 tỷ đồng trong series đêm nhạc ủng hộ Wanbi Tuấn Anh vượt bạo bệnh, quỹ từ thiện ủng hộ nam ca sĩ tiếp tục được đầy thêm với 580 triệu đồng thu được trong đêm diễn từ thiện diễn ra tối qua tại phòng trà Không Tên. Để có được số tiền ý nghĩa này, “ông hoàng nhạc Việt” Đàm Vĩnh Hưng đã hy sinh hai nụ hôn thắm thiết dành tặng hai vị nhà sư mua vật phẩm đấu giá, còn “gái một con” Hà Hồ và Lệ Quyên thì không ngừng cười ra nước mắt trước khả năng “chịu chơi” của sư thầy. Ngoài việc trình diễn hai ca khúc ấn tượng đến khán giả, tối qua Mr Đàm mang đến một món vật phẩm bán đấu giá ủng hộ quỹ từ thiện Wanbi Tuấn Anh: một chai rượu quý hiếm, được giới thiệu chỉ có 4 chai tại Việt Nam. Với giá khởi điểm đưa ra là 20 triệu đồng, sau một hồi vận động, Đàm Vĩnh Hưng cũng tìm được "mạnh thường quân" mua ủng hộ. Hành động hào phóng này thuộc về hai nhà sư ngồi hàng ghế khán giả Vì muốn đêm nhạc từ thiện diễn ra nhanh, gọn, lẹ nên Mr Đàm cho biết, ban tổ chức sẽ trao vật phẩm đấu giá thành công cho hai vị sư thầy sau đêm nhạc kết thúc. Tuy nhiên, hai vị sư thầy bày tỏ mối lo ngại không biết chai rượu này là hàng thật hay hàng giả nên đòi được lên sân khấu và tận tay sờ vào hiện vật. Tuy nhiên, màn chọc cười khán giả nhất chính là màn trao nụ hôn thắm thiết giữa Đàm Vĩnh Hưng và hai vị sư thầy. Lý do khiến Mr Đàm "khóa môi" với sư thầy là bởi trong màn đấu giá chai rượu, Mr Đàm đã hứa "khuyến mãi" một nụ hôn cho "mạnh thường quân" nào mua chai rượu ủng hộ chương trình. Và lời hứa của Mr Đàm đã bị hai nhà sư "đòi" thực hiện ngay sau đó. Không chỉ hôn vào má, Mr Đàm còn "khuyến mãi" thêm cái hôn vào tay sư thầy. Lần đầu tiên trong đời được "ông hoàng nhạc Việt" chẳng ngại ngần "khóa môi", hai vị sư thầy tỏ ra thích thú, cười vui vẻ. Vật phẩm được mang đấu giá là con rồng bằng ngọc quý có một không hai trên thế giới. Riêng tiền công chạm khắc rồng ngọc đã lên 40 triệu đồng, trong đó 3 kg ngọc quý để làm thành con rồng là vô giá. Vì lẽ này, giá khởi điểm mà vị sư thầy đưa ra cho vật phẩm là 100 triệu đồng. Để mê hoặc khán giả và giúp người mua thêm hứng thú với rồng ngọc, vị sư thầy liên tục trổ tài ăn nói "khó đỡ". Nhiều câu nói, cách sử dụng từ ngữ của vị sư thầy xì-tin đến mức khiến Hà Hồ và Lệ Quyên chỉ biết cười ngất trên sân khấu. Trong màn giao lưu với Hà Hồ, vị sư thầy nhìn xuống khán giả bảo: “Đêm nay phần đông khán giả là nữ, khán giả nam thì ít nhưng không biết có phải là nam không!”. Những chuyện liên quan đến sex, chuyện phòng the, yêu đương trai gái, tâm sinh lý... được xem là đề tài "nhạy cảm" đối với những người tu hành cũng được vị sư thầy đem ra mổ xẻ. Trong nhiều phút hứng thú trên sân khấu, vị sư thầy khá mạnh miệng sử dụng những từ ngữ phóng khoáng, khiến ai nấy có mặt tại đêm nhạc "cười ngả nghiêng, thở ngao ngán". Chủ động bàn về mối quan hệ vợ chồng trong gia đình. Thầy bảo: “Vợ mình luôn là đặc sản của người ta!”. Thầy còn kể, mới đây, trong một lần đi ngang công việc, nhìn thấy cặp tình nhân ôm hôn, thầy cũng rất “thèm”, nhưng vì đã trót làm nhà sư nên thầy không thể làm gì được! Hà Nhuận Nam (Xzone/TTTĐ) 'Nhà sư khóa môi' Mr. Đàm gửi thư sám hối "Chúng con thành tâm xin sám hối đến quý ngài và quý Phật tử do sự ham vui và bồng bột của tuổi trẻ", thư của sư Pháp Định viết. Thượng tọa Thích Bửu Chánh, Phó Ban trị sự Tỉnh hội Phật giáo Đồng Nai, trụ trì thiền viện Phước Sơn cho biết sẽ họp tăng chúng và xử lý nghiêm nhà sư "khóa môi" ca sĩ Đàm Vĩnh Hưng. Bức ảnh Sư Thích Pháp Định và Mr. Đàm hôn nhau được lan truyền nhanh trên mạng. Cách đây ít ngày, hình ảnh Mr. Đàm hôn một nhà sư thay lời cảm ơn đã mua chai rượu của anh để đóng góp cho một chương trình từ thiện đã lan truyền nhanh trên mạng. Thư sám hối của Tỳ kheo Pháp Định và Giác Ân Thượng tọa Thích Bửu Chánh cho biết: "Sư Pháp Định xin phép tôi về TP HCM có việc riêng. Sư không nói rõ là đi dự buổi đấu giá từ thiện do ca sĩ Đàm Vĩnh Hưng tổ chức. Nếu biết thì tôi đã ngăn cản. Tôi vô cùng sửng sốt khi hay tin báo chí phản ánh về những hành vi, lời nói và việc làm không chuẩn mực với tư cách một tu sĩ phật giáo của sư Pháp Định. Việc làm của sư là sai trái nghiêm trọng, không chỉ vi phạm giới luật Phật chế, mà còn ảnh hưởng đến uy tín của Giáo hội, của tăng ni, phật tử. Ngay sau khi biết tin, tôi đã cho gọi sư Thích Pháp Định trở về thiền viện, yêu cầu nhận khuyết điểm, viết kiểm điểm, tường trình sự việc và phải sám hối, xin lỗi chư tăng ni, Phật tử và bạn đọc”, Thượng Tọa Thích Bửu Chánh chia sẻ. Ngoài sư Thích Pháp Định, trong chương trình từ thiện còn có sư Thích Giác Ân (đội nón), đang trụ trì tại chùa Quan Âm, Ấp Long Thới B - Xã Long Thuận - Thị Xã Hồng Ngự - Tỉnh Đồng Tháp. Về hình thức xử lý, theo lời Thượng tọa Thích Bửu Chánh, vào sáng 7/11 sẽ họp toàn thể tăng chúng thiền viện Phước Sơn để tiến hành kỷ luật theo đúng luật Phật chế. "Sau khi tiến hành các biện pháp xử lý thích hợp với giới luật nhà Phật, nếu sư Pháp Định không biết phục thiện, tiếp tục tái phạm, chúng tôi sẽ có văn bản chính thức đề nghị Giáo hội Phật Giáo khai trừ ra khỏi Tăng đoàn. Trước mắt, với tư cách là người có trách nhiệm liên đới, chúng tôi xin thành tâm sám hối Chư tôn đức lãnh đạo các cấp Giáo hội Phật giáo Việt Nam, xin lỗi Chư tăng ni, Phật tử và bạn đọc. Rất mong quý Ngài cũng như quý vị niệm tình hoan hỷ cho sự cố ngoài ý muốn này. Chúng tôi hứa sẽ xử lý thích đáng trường hợp của sư Pháp Định”, Thượng tọa Thích Bửu Chánh nhấn mạnh. Theo Kiến Thức
-
Thưa Sư Phụ Bức tranh Đông Hồ dưới đây thể hiện nhân vật có phần "phồn thực", cũng thuộc loại ít phổ biến. Bức dưới đây cũng thuộc loại ít thấy trong dòng tranh.
-
Nhanh hơn ánh sáng là không thể Những tin tức gần đây về những neutrino chuyển động nhanh hơn ánh sáng có lẽ đã khiến một số người suy nghĩ sai lệch, nhưng thật ra không cần phải tưởng tượng ra cái gì đó có thể chuyển động nhanh hơn 300 000 km mỗi giây. Thật vậy, toàn bộ quan điểm trên là không lôgic chút nào. Tốc độ ánh sáng, hay 300 000 km/s, có thể trông như một giới hạn tốc độ, nhưng đây chỉ là một thí dụ của kiểu suy nghĩ 3 + 1 – trong đó chúng ta vẫn chưa quen với khái niệm không-thời gian bốn chiều và vì thế chúng ta nghĩ theo không gian có ba chiều và thời gian là một cái gì đó khác nữa. Bạn có thể đi xuyên toàn vũ trụ trong chừng vài ba giờ mà không cần ‘phá vỡ rào cản tốc độ ánh sáng’ – nó không phải là giới hạn tốc độ gì như nó trông như thế đâu. Thí dụ, trong khi chúng ta biết ánh sáng mất khoảng 4,3 năm để đi từ Trái đất đến hệ sao Alpha Centauri, nhưng nếu bạn ngồi vào một phi thuyền vũ trụ bay với tốc độ 99,999% tốc độ ánh sáng thì bạn sẽ đi tới đó trong vòng vài ngày, vài giờ hoặc thậm chí vài phút – tùy thuộc vào bạn đã thêm bao nhiêu cái 0,99 vào tỉ lệ tốc độ ánh sáng. Đây là vì, khi bạn tiếp tục tăng gia tốc của hệ động-lực-sao tưởng tượng của bạn, thì sự dãn nở của thời gian sẽ trở nên càng rõ nét và bạn sẽ tiếp tục hành trình đi tới đích của bạn nhanh hơn nhiều. Với đủ cái 0,999 bạn có thể đi qua toàn vũ trụ trong quãng thời gian bằng cuộc đời của mình thôi – mặc dù người mà bạn để lại phía sau sẽ vẫn chỉ nhìn thấy bạn đang chuyển động ra xa với tốc độ dưới 300 000 km/s một chút. Vì thế, cái thoạt trông như một giới hạn tốc độ thật ra chẳng phải là một giới hạn gì cả. Để hiểu rõ viễn cảnh bốn chiều hoạt động ra sao, hãy xét cái không thể khi bạn đi xuyên một khoảng cách bất kì nào đó mà không đồng thời chuyển động trong thời gian. Thí dụ, đi bộ một km có lẽ mất khoảng thời gian 30 phút – nhưng nếu bạn chạy thì chỉ mất 15 phút thôi. Hiệu ứng dãn nở thời gian là không đáng kể đối với những tốc độ thông thường mà chúng ta đã quen thuộc trên Trái đất, nhưng nó tăng lên bất ngờ và tiệm cận khi bạn tiến gần đến tốc độ ánh sáng. Tốc độ chỉ là một số đo mất bao lâu thời gian để bạn đi tới một điểm ở xa. Vật lí tương đối tính cho bạn chọn bất kì đích đến nào mà bạn thích trong vũ trụ - và với công nghệ thích hợp, bạn có thể giảm thời gian di chuyển của mình đến mục tiêu đó xuống bao nhiêu tùy bạn thích – miễn là thời gian di chuyển của bạn vẫn ở trên mức zero. Đó là sự hạn chế duy nhất mà vũ trụ thật sự ràng buộc đối với chúng ta – và nó mang tính lôgic và nhân quả như trong vật lí học vậy. Bạn có thể đi trong không-thời gian theo những cách khác nhau để giảm thời gian di chuyển của bạn giữa điểm A và điểm B – và bạn có thể tiếp tục giảm như vậy cho đến khi bạn hầu như di chuyển tức thời giữa hai điểm đó. Nhưng bạn không thể di chuyển nhanh hơn tức thời vì bạn sẽ đi tới B trước khi bạn đã rời A. Nếu bạn có thể làm như thế, thì nó mang lại những trở ngại nhân quả không thể có – thí dụ, bạn có thể không chắc chắn mình đã rời điểm A hay chưa, mặc dù bạn đã tới điểm B rồi. Quan điểm đó vừa vô lí vừa là một sự vi phạm của các định luật của nhiệt động lực học, vì vũ trụ sẽ đột ngột chứa tới hai người là bạn – người là bạn phía bên kia đã hiện ra từ hư vô. Cho nên, bạn không thể chuyển động nhanh hơn ánh sáng được – không phải do cái gì đặc biệt với ánh sáng cả, mà vì bạn không thể di chuyển nhanh hơn tức thời giữa hai điểm xa nhau. Ánh sáng về cơ bản thật sự chuyển động tức thời, giống như lực hấp dẫn và có lẽ những hiện tượng khác mà chúng ta chưa khám phá ra – nhưng chúng ta sẽ không bao giờ trông đợi khám phá ra bất cứ cái gì chuyển động nhanh hơn tức thời, vì quan niệm như thế tạo ra sự vô nghĩa. Những sinh vật to nặng như chúng ta trải nghiệm khoảng thời gian khi chuyển động giữa hai điểm ở xa nhau – và vì thế chúng ta còn có thể đo xem mất bao lâu để một tín hiệu tức thời di chuyển giữa hai điểm ở xa nhau, mặc dù chúng ta không bao giờ có thể hi vọng đạt tới một trạng thái chuyển động như thế cho bản thân mình. Chúng ta cứ bám lấy quan niệm 300 000 km mỗi giây là một giới hạn tốc độ, vì trực giác chúng ta tin rằng thời gian trôi qua ở một tốc độ vạn vật không đổi. Tuy nhiên, chúng ta đã chứng minh trong nhiều thử nghiệm thực nghiệm khác nhau rằng thời gian rõ ràng không trôi đi ở một tốc độ không đổi giữa những hệ quy chiếu khác nhau. Vì thế, với công nghệ thích hợp, bạn có thể ngồi vào phi thuyền vũ trụ động-lực-sao của mình và nhâm nhi một tách trà nóng, trong khi cả một thời đại đã trôi qua ở bên ngoài. Đó không phải là tăng tốc độ, mà là giảm thời gian du hành cá nhân của bạn giữa hai điểm ở xa nhau. Và có một giới hạn tự nhiên – đó là thời gian zero. Như Woody Allen từng nói: Thời gian là phương thức của tự nhiên giữ cho mọi thứ diễn ra một lần thôi. Không-thời gian là phương thức của tự nhiên giữ cho mọi thứ không xảy ra ở hai nơi cùng một lúc. Nguồn: Universe Today Nguồn Thuvienvatly.com =================================== Với Lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành thuộc nền văn hiến Việt thì 300 000 km/s không phải là tốc độ giới hạn vũ trụ. Lời phát biểu này có thể sai. Tôi nhớ đại khái là trước kia có một thí nghiệm về hạt lượng tử gì đó, khi bắn một hạt, hạt này "nổ" ra thành hai hạt. Hai hạt này chuyển động ra xa nhau trên một phương nhưng hai chiều ngược nhau. Và người ta ngạc nhiên thấy rằng hai hạt này tuy độc lập nhưng chúng dường như "cảm ứng" được với nhau khi có sự tác động cho một hạt thì hạt còn lại cũng đồng thời chuyển động, nghĩa là cùng lúc chuyển động.
-
Xác nhận học viên đóng học phí lớp Phong thủy Lạc Việt cơ bản 11 1. Rio_Rio (Nguyễn Thị Cẩm Huyền) 2.000.000đ 2. Bình Định (Đỗ Bình Định) 2.000.000đ 3. mecutun (Trần Thị Diễm Quỳnh) 2.000.000đ 4. dbinh92Nguyễn Đức Bình 2.000.000đ 5. banhmi (Lê Văn Vân) 2.000.000đ 6. tnd (Nguyễn Đình Thái) 2.000.000đ 7. Quanglh (Lục Hồng Quang) 2.000.000đ 8. nick? (Pham Duc Lang) 2.000.000đ
-
Đấu bò tót ở Tây Ban Nha Người và bò đều tranh nhau cái chiến thắng, nhưng bò không phải là kẻ thù của người và người cũng không phải là kẻ thù của bò. Vì một đối tượng là vô thức bản năng, còn một đối tượng kia là cái tôi tôn thượng vô thức huyễn vọng. Thiên Đồng
-
Nếu chỉ giải thích cho rằng bức tranh muốn ám chỉ hiện tương tham nhũng của mọi thời đại thì thật là thường quá. Mặc dù - theo hiển hình của tranh - tính hình tượng trong tranh bày vẽ khá rõ ràng về việc diễn tả hiện tượng, cho nên hiện tượng đôi khi trùng lấp với vấn đề được liên tưởng để biểu nghĩa theo quan kiến, tuy nhiên giá trị nghệ thuật và tương tưởng - nên nhớ ở đây tác giả của bức tranh có thể không phải là một cá nhân mà là nhiều thế hệ hay là sự tổng hợp của cả một nền tảng tri thức tiền nhân - sẽ dừng lại ở đó và đi vào ngõ cụt của lý sự cùn. Cho nên bức tranh "đám cưới chuột" của làng tranh Đông Hồ, tranh dân gian Việt Nam không thể chỉ mang giá trị tư tưởng rời rạc, cục bộ, hay thời thượng hay kiểu phong trào như thường thấy trong xã hội hiện nay với những trường phái những tư tưởng cá biệt hay khu biệt mà bức tranh, nó, phải là một phần chi tiết nhỏ được thể hiện và giá trị tư tưởng của nó phải nằm trong một hệ thống tư tưởng nhất quán và xuyên suốt, tư tưởng triết lý của nền văn hiến Việt 5000 năm. Thiên Đồng
-
Tính từ đó đến nay thì cũng 20 tháng, tức hơn 1 năm rưỡi rồi. Nhìn lại hình thấy bồi hồi. Mừng tịnh thất Viên Thông ngày càng phát triển trong con đường xiểng dương đạo pháp. Nam môn A Di Đà Phật Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật Nam mô Di Lạc Tôn Phật
-
Vậy thì kinh ghi lại như vậy chứ không phải lâu nay hay thấy các câu cho là lời phật dạy :"Kẻ thù lớn nhất của đời người là chính mình ". Quả là tam sao bịa bản.
-
Ồ, sinh nhật Lão Nhị gia hả? Chúc mừng nha!
-
Võ bùa hay Thất Sơn thần quyền. Vào đầu những năm 80 của thế kỷ trước, làng võ Việt xôn xao bởi sự xuất hiện của một phái võ kỳ lạ, gọi là "võ bùa" hay "thần quyền". Người theo môn võ ấy không cần luyện tập quyền cước mà chỉ cần thổi hương, uống bùa, gọi thần chú là có sức mạnh muôn người khôn địch...Bởi cách thức có phần thần bí đó mà nhiều môn phái khác đã tìm các lò dạy võ bùa để tìm hiểu thực hư, phân tài cao thấp. Sự "truy sát" ấy, cùng nhiều lý do khác nữa nên chỉ ít thời gian sau, võ bùa phải lui vào ẩn dật. Gần đây, trước sự nở rộ trở lại của phong trào học võ, lại có lời đồn võ bùa đang "tái xuất giang hồ". Chúng tôi đã đi tìm hiểu thực hư xung quanh môn võ này. Cao nhân ẩn tích Sau màn ra mắt vào những năm 80 của thế kỷ trước, võ bùa bỗng dưng mất hút một cách khó hiểu trên "chốn giang hồ". Không ai biết đệ tử của võ bùa ở đâu, hiện đang sống như thế nào, còn lao tâm khổ tứ tập luyện hay không? Gần đây, một lần lang thang trên mạng, tôi tình cờ đọc được thông tin của một môn sinh "chánh phái" nói rằng, trước đây có hai cao thủ phái Thất Sơn đem võ bùa về dạy ở Hà Nội và chính họ là những sư phụ đầu tiên của môn phái ở đất Kinh kỳ. Thông tin trên mơ hồ, chỉ nói người thứ nhất tên Thành, làng võ vẫn gọi là Thành "vuông", người thứ hai tên là Chín, giang hồ gọi là Chín "cụt". Liên hệ với một số cao thủ võ lâm ngoài Bắc thì được biết, Thành "vuông" tên đầy đủ là Nguyễn Văn Thành, từng sống ở khu vực Ô Chợ Dừa (Hà Nội), giờ đã qua Nga lập nghiệp. Người thứ hai là Chín "cụt", tên đầy đủ là Ngô Xuân Chín, là thương binh, hiện không biết phiêu dạt phương nào. Thông tin trên làm tôi nhớ lại lần trò chuyện với võ sư Chu Há, Chủ nhiệm võ đường Hồng Gia. Võ sư Há cho biết, thủa trước, Chín "cụt" có tham gia một số phong trào thể thao của người khuyết tật và ngay từ buổi đầu tiên ấy, Chín cùng đệ tử đã từng dùng võ bùa để giành huy chương vàng một hội khỏe năm 1986. Nhờ manh mối này, tôi vội tìm đến ông Vũ Thế Phiệt, Tổng Thư ký Hiệp hội Thể thao người khuyết tật Việt Nam. Từ số điện thoại ông Phiệt cho, tôi đã tìm được "cao nhân" ẩn tích bấy lâu nay - ông Chín. Phận duyên tiền định Vợ chồng ông Xuân Chín hiện đang sống ở một khu đô thị yên ả trên đường Lạc Long Quân (Hà Nội). Trò chuyện, Xuân Chín bảo, Thất Sơn thần quyền với ông như có duyên trời định. Thời trai trẻ, Chín là lính trinh sát đóng quân ở tỉnh biên giới Cao Bằng. Khi còn ở quê nhà, bởi hiếu động nên Chín từng theo đám trai làng lăn lộn học quyền cước của mấy võ sư vườn, cũng lận lưng dăm ba miếng phòng thân. Bởi thế, khi hay tin trong trung đoàn có một đồng đội thường diễu quyền, phóng cước sau khi xong xuôi việc nhà binh, Chín muốn tìm đến xem "mặt mũi" thế nào và nhân thể thử tài luôn để phân cao thấp. Sau nhiều lần hò hẹn, "thằng cha" đó cũng nhận lời thách đấu. Thế nhưng sau 2 lần "tỉ thí", Chín đều thua không kịp vuốt mặt. Chín đấm, đá cật lực mà cứ như đánh vào bị bông, đối thủ chẳng hề đổi thay sắc mặt. Đánh nhiều đuối sức, chùn tay, nên đành phải xin thua. Từ sau trận quyết đấu đó, hai người trở thành bạn. Lúc này Chín mới biết người kia theo học Thần quyền của phái Thất Sơn, từ một sư phụ ở quê nhà, xã Văn Khúc, huyện Sông Thao, tỉnh Phú Thọ. Những câu chuyện mà người bạn kể về môn phái lạ lùng đã khiến Chín mê mệt. Anh ước ao có ngày được về quê bạn bái vị sư phụ ấy làm thầy. Và rồi cái ngày anh mong mỏi ấy cũng đến. Được sự giới thiệu, ngay đêm hôm ấy, anh đã được diện kiến kỳ nhân. Người ấy là danh sư Nguyễn Văn Lộc, một nông dân chân chất, cũng chỉ hơn anh cỡ trên chục tuổi. Thế nhưng hôm ấy, ý nguyện, mơ ước của anh đã không thành. Dù đã cố nài nỉ hết nước hết cái nhưng vị danh sư ấy vẫn không chịu thu nạp Chín làm đệ tử. Tuy mưu sự không thành nhưng anh vẫn không thôi hi vọng của mình. Chừng tháng sau, anh lại tay nải từ Cao Bằng tìm về Phú Thọ. Lần này, thứ mà anh nhận được vẫn chỉ là những cái lắc đầu. Thế rồi, một lần (năm 1981), lúc đi làm nhiệm vụ, anh bị thương phải cắt bỏ hoàn toàn chân phải. Khi vết thương liền da, nhớ miền quê Văn Khúc và ông thầy võ... khó tính, anh lại lóc cóc tìm về. Đi cùng anh lần này có cả Thành "vuông", một chàng trai Hà Nội, nghe tiếng vị sư phụ kỳ lạ mà háo hức muốn được tỏ tường. Gặp mặt, vị danh sư nói thẳng thừng: "Anh lành lặn tôi còn không nhận, huống chi nay đã là người tàn phế! Anh không học võ được đâu!". Câu nói đó đã làm ruột gan Chín quặn thắt. "Đau" hơn khi bạn đồng hành với anh, Thành "vuông", lại được sư phụ thu nạp. Uất ức, trước khi ra về anh... thề: "Sư phụ nhận tôi thì 6 tháng tôi xuống một lần! Không nhận thì tháng nào tôi cũng xuống!". Tháng sau, một mình, anh xuống thật. Lần này, thấy anh lóc cóc chống nạng vượt quãng đường hơn 15 cây số, vị danh sư đã động lòng trắc ẩn. Ông đã đồng ý truyền võ cho anh nhưng với điều kiện chờ ngày tốt, về Bắc Giang ông mới dạy. Võ phái kỳ lạ "Ngày tốt" ấy là ngày 9/10/1984. Đã hẹn trước, anh Chín có mặt tại nhà một người quen của sư phụ ở làng Mỹ Độ, sát thị xã Bắc Giang. Đến được ít phút thì sư phụ anh cũng xuất hiện. Ngay chiều hôm ấy, anh đã thành người của phái Thất Sơn. Cũng ngay ngày hôm ấy, anh mới tường tận về môn phái của mình. Theo lời thầy Lộc thì "thủ phủ" của Thất Sơn thần quyền nằm ở Huế, do tông sư Nguyễn Văn Cảo nắm quyền chưởng môn. Sáng tổ Nguyễn Văn Cảo học thần quyền từ một vị cao tăng người Ấn Độ. Cao tăng lưu lạc sang Việt Nam từ khi nào thì đến giờ vẫn không ai biết rõ. Tới Việt Nam, ông chọn vùng Bảy Núi (An Giang) làm chốn tu hành. (Có lẽ bởi bậc thánh nhân tu luyện nơi non thiêng này nên thầy Cảo đã đặt tên môn phái của mình là Thất Sơn). Dựa trên những căn bản mà vị tu sĩ lạ lùng ấy truyền dạy, thầy Cảo đã truyền dạy thần quyền cho nhiều người khác. Thần quyền học nhanh, do vậy chỉ trong thời gian ngắn, ở Huế đã có rất nhiều người trở thành môn đồ của võ phái này. Khi nhập môn, môn đồ của môn phái phải đứng trước ban thờ thề đủ 9 điều (Càng học cao thì số lời thề càng tăng thêm và cao nhất là 16 điều). Sau đó, mỗi người sẽ được sư phụ mình phát cho hai lá bùa hộ thân, một vuông, một dài. Trên những lá bùa ấy có vẽ hình đạo sĩ ngồi thiền và những "thông số", "mật mã" riêng của môn phái. Trước khi truyền thụ những câu thần chú, bí kíp võ công của môn phái thì hai lá bùa ấy được đem đốt, lấy tro hoà vào nước cho người mới nhập môn... uống cạn. Thần chú của môn phái thì có rất nhiều, gồm chú gồng, chú xin quyền, chú chữa thương... Đã được truyền thần chú thì môn sinh cứ tự mình gọi chú mà xin sức mạnh, mà tập quyền cước. Tuy thế, trước khi tập, người luyện thần quyền phải được sư phụ mình khai thông tất cả các huyệt đạo trên cơ thể. Việc ấy, các sư phụ của Thất Sơn thường làm bằng cách dùng nắm nhang đang nghi ngút khói thổi vào huyệt đạo của đệ tử. Với môn sinh là nam giới thì dùng 7 nén nhang thổi 7 lần vào mỗi huyệt đạo. Môn sinh là nữ thì dùng 9 nén, thổi đúng 9 lần. Thần chú vào... võ công ra Anh Chín kể, hôm ấy, xong nghi thức nhập môn, sư phụ Lộc đã kéo anh ra sân và chỉ trong vòng 1 giờ đồng hồ, ông đã truyền thụ xong xuôi cho anh lời chú xin quyền. Theo lời của sư phụ Lộc, lời chú ấy anh không được phép tiết lộ cho bất kỳ ai nếu chưa được phép của những người đứng đầu môn phái. Truyền chú xong, sư phụ anh bảo, cứ nhẩm theo câu chú ấy mà luyện. Chú "nhập" đến đâu thì công phu tự khắc... ra đến đó. Thấy thầy dạy mình quá nhanh, anh hết sức ngạc nhiên. Cứ nghĩ, có lẽ bởi gượng ép khi thu nạp nên thầy Lộc mới dạy anh một cách sơ sài đến vậy. Sau này, khi trình độ bản thân được nâng cao, anh mới biết, với anh cuộc truyền thụ kỹ năng cơ bản của môn phái như vậy là quá lâu. Thường thì khi truyền chú cho đệ tử khác, thầy Lộc chỉ làm trong thời gian vỏn vẹn 15 phút là xong. Anh cũng vậy, khi được phép dạy đệ tử, anh cũng chỉ mất ngần ấy thời gian là đã... hết bài. Còn học như thế nào, luyện như thế nào, trình độ đạt đến đâu là cơ duyên của mỗi người chứ thày không chỉ bảo được. Ngay chiều hôm ấy, thầy Lộc đã kéo anh ra khoảng sân rộng, bắt đầu luyện tập quyền pháp. Trước khi tập, thầy lấy nắm nhang nghi ngút khói thổi vào tất cả những huyệt đạo trên cơ thể anh. Làm xong, thầy bảo anh nhẩm đọc chú để... gọi võ về. Thật ngạc nhiên, khi vừa đọc chú xong, anh bỗng thấy mình lâng lâng như người say rượu. Lúc thì thấy tay mình nhẹ bẫng, lúc thì thấy nặng như đang khuân cả khối sắt trăm cân. Chín kể, khi đã "nhập đồng", cứ thấy nhẹ bên tay nào là "chưởng" đánh ra tay ấy. Trạng thái không kiểm soát ấy đã khiến anh lúc thì lăn lộn trên đất, lúc thì nhảy tưng tưng trên không, lao đầu vào tường, vào bụi gai cũng không hề hay biết. Tỉ thí tranh tài Hết nghỉ phép, Xuân Chín về nơi an dưỡng. Vì đang chờ chế độ nên anh có nhiều cơ hội để luyện tập môn võ mà mình vừa được học. Cứ đêm đến, anh lại một mình chống nạng lên quả đồi ở gần đó luyện tập. Sáu tháng sau, anh quay lại Văn Khúc để thầy Lộc kiểm tra "trình độ". Sau bữa cơm chiều, thầy Lộc bảo ông sẽ không trực tiếp kiểm tra mà nhờ thầy "cao tay" hơn thẩm định. Vị ấy tên Cư, ở bến phà Tình Cương, cách nhà thầy Lộc chừng 25 cây số. Thần quyền ở Văn Khúc chính là do ông Cư mang từ trong Huế ra truyền dạy. Tối hôm đó, hai thầy trò đã đèo nhau đến nhà ông Cư. Biết Chín muốn thử trình độ của mình, ông Cư đã gọi hai đệ tử to như hộ pháp đến. Trước khi đánh, ông Cư giới thiệu, hai đệ tử của ông được gọi là những “cây đấu” của Thất Sơn. Những ai muốn "khẳng định thương hiệu" của riêng mình thì đều phải đánh với hai "cây đấu" ấy. Ngay phút khởi động, một “cây đấu” đã táng thẳng vào mặt Chín cú "thôi sơn" khiến anh nổ đom đóm mắt. Nhưng ngay sau cú đánh ấy, anh thấy mình tự dưng lùi ra, quay hẳn lưng vào đối thủ. Chẳng cần để mắt động tác khó hiểu của anh, người tấn công lại ngay lập tức lao vào. Thế nhưng, vừa vào gần đến nơi thì bỗng nhiên tay phải Chín vung ra một cú đòn cực mạnh. Một tiếng “bốp” chát chúa vang lên, “cây đấu” ấy bị đánh văng ra góc sân và nằm bất động. Thấy đệ tử mình bị hạ nhanh một cách khó hiểu, ông Cư vội vàng chạy đến xem thực hư thế nào. Cậu học trò cưng nằm im, mồm miệng be bét máu. Phần thắng đã thuộc về Chín. Sắp xếp công việc, ít lâu sau, anh Chín lại theo thầy Lộc vào Huế để nhờ tông sư môn phái kiểm tra trình độ thật sự của mình. Chưởng môn phái Nguyễn Văn Cảo (phường Phú Cát) đã đón hai thầy trò anh rất thân tình. Hôm ấy, nhà thầy Cảo có một đệ tử học Thần quyền được 10 năm, từ Quảng Bình vào thăm. Thầy Cảo bảo Chín đấu với người này. Kịch bản của trận đấu ở Phú Thọ đã được lặp lại. Vào trận, ngay màn dạo đầu, Chín dính đòn tới tấp. Thế nhưng, trong lúc nguy nan, tự nhiên anh thấy chân mình mềm oặt. Xoay lưng lại đối thủ, anh quỳ xuống như người bị trúng đòn chí mạng. Đối thủ thấy vậy thừa thắng lao lên... Nhưng, như có phép tiên, dù chỉ còn mỗi chân trái mà anh vẫn bật vút lên, lộn trên không một vòng rồi tung cú "thiết cước" vào thẳng bụng đối thủ. Cú đá ấy đã làm vị kia văng ra, thầy Cảo ngay lập tức cho dừng trận đấu. Sau trận đấu đó, bởi quá khâm phục sự tiến bộ kỳ lạ của anh, thầy Cảo đã cân nhắc để anh được thăng đai vượt cấp. Thế nhưng, điều đó chưa từng có tiền lệ trong môn phái nên thầy đành để anh ở đai đỏ xuất sư. Người đeo đai đó thì đã có thể làm thầy, truyền thụ võ công cho những môn sinh khác. Sáu tháng sau, vào lại Huế, lần này chưởng môn Nguyễn Văn Cảo đích thân ra chợ mua chỉ về se đai tím cho anh. Dựng nghiệp bất thành Rời quân ngũ, anh Chín về quê sinh sống, thỉnh thoảng ra Hà Nội gặp gỡ bạn bè. Những năm ấy, phong trào chấn hưng võ thuật cổ truyền ở thủ đô đang ở cao trào, thấy Thất Sơn thần quyền của mình chưa có một tên tuổi trong làng võ Việt, anh và một số người bạn đã quyết tâm gây dựng môn phái. Để khẳng định sức mạnh của Thần quyền, Hội khoẻ Phù Đổng năm 1986 được tổ chức ở Hà Nội, các bạn anh đã tiến cử anh tham gia. Chuẩn bị cho sự kiện này Chín đã lặn lội lên Cao Bằng, tìm cậu bé mà trước đây anh đã ngẫu hứng truyền thụ võ công, đưa về Hà Nội cùng mình biểu diễn. Cậu bé ấy tên Điệp, khi ấy vừa tròn 6 tuổi. Tại sân vận động Hàng Đẫy, với tiết mục thần quyền của mình, hai thầy trò một tàn phế, một tóc còn để chỏm đã dinh về hai tấm huy chương vàng trước sự trầm trồ, thán phục của mọi người. Sau màn ra mắt, được sự "chỉ đường mách lối" của cố võ sư Đỗ Hoá, anh cùng các bạn đã tìm đến một chức sắc ở Hội Võ thuật cổ truyền Hà Nội nhằm đưa môn phái "phát dương quang đại". Thế nhưng, nhiều người cho rằng Thất Sơn thần quyền là tà thuật, mê tín dị đoan nên mong ước của anh đã không thể thành hiện thực. Dựng phái không thành, anh em tan rã mỗi người một nơi, Xuân Chín đâm nản. Tuy thế, sau này, tham gia phong trào thể thao người khuyết tật, anh vẫn đem thần quyền đi biểu diễn ở khắp nơi. Năm 2004, tại một cuộc liên hoan võ thuật tại Hàn Quốc, anh đã được ban tổ chức trao tặng huy chương vàng cho tiết mục thần quyền độc đáo của mình. Càng hạnh phúc hơn khi ngay sau đó, hình ảnh của anh, một người cụt chân đang thăng hoa cùng quyền thuật đã được ban tổ chức in lên lịch lưu niệm tặng các vận động viên tham gia. Cũng từ dạo ấy, bởi cuộc mưu sinh anh đã thôi không tham gia phong trào thể thao nữa. Thần quyền anh cũng ít tập hơn và cũng không truyền dạy bí kíp võ công này cho bất kỳ ai... sưu tầm
-
VỊ THẾ CỦA CON MÈO TRONG TRANH ĐÁM CƯỚI CHUỘT Truyện mèo và hổ Rằng đâu như ngày xưa hổ to xác nhưng kém thông minh nên phải cầu đến thày mèo. Mèo đã dạy cho hổ đủ ngón móng vuốt. Sau khi học xong, hổ tưởng như thế là đủ tài khuynh loát thiên hạ. Một hôm đói bụng chưa kiếm được miếng, trông thấy thày mèo, hổ gầm gừ: “Meo mẻo mèo meo/ ta bắt được mèo/ ta nhá cả lông”. Rồi hổ nhào tới. Trong khoảnh khắc, mèo leo tót lên ngọn cây. Dưới gốc cây hổ không làm gì được. Mèo lúc này mới dắng giọng lêu lêu: “Meo mẻo mèo meo/ còn một món trèo/ ta cóc dạy cho”. Hổ nghe thế tức sểu rãi mà không làm gì được. Mèo láu lỉnh không ngoan như thế, luôn giữ ngón đòn cuối cùng để phòng thân, hóa giải được hạn vong thân. Như vậy con mèo ngoài đời và con mèo trong vận số đều có nhiều cái thuận Tử vi năm Tân Mão 2010 thì “công việc làm ăn được nhiều người ủng hộ giúp đỡ và nhờ vào tính toán sáng suốt, lộc tài sẽ hưng vượng. Công việc thường có người phụ nữ bên cạnh (có thể là vợ, có thể là bồ) có khả năng quán xuyến, giúp đỡ quý ông rất nhiều.”. thế là người tuổi Mèo năm nay yên tâm rồi. Tử vi đã đại đoán thế thì quan tham tuổi Mão cứ mà yên tâm tham nhũng tiếp nhưng phải tính toán cho kĩ. Mèo có khi vẫn bị hóc xương !. Tranh dân gian đám cưới chuột Làng Đông Hồ có tranh đám cưới chuột nổi tiếng. Bức tranh quen thuộc với bất cứ người Việt nào. Hàng trên: Góc trái là mèo già đang ngồi nhe nanh múa vuốt oai phong. Đối diện với mèo khung cảnh vui vẻ thanh bình của một đám rước. Đi đầu là chuột dâng chim bồ câu. Đồ cống này giống như thông điệp hòa bình gửi đến với mèo, cái thế cầu xin hòa bình của kẻ dưới. Chữ dưới chân mèo giải thích cho việc này là tống lễ. Sau cái thông điệp xin xỏ kia là chuột dâng cá chép, món khoái khẩu số một của mèo. Để cho sự việc diễn ra cho đẹp mặt, cùng việc dâng cá có tác nhạc, nghĩa là thổi kèn chúc tụng để vui lòng mèo, lại phải vừa dâng lễ vừa nịnh. Tiếp sau là lão thử, nghĩa là chuột già cũng phải tham gia tống lễ với cây kèn chõ xuống đất đến 90 độ, giống như lời chúc tụng khiên cưỡng. Bụng đâu có muốn thế. Nhưng thế tay cầm kèn để nhả âm thanh như vậy có khác nào muốn tố cáo với đất trời việc làm chẳng đặng đừng của mình. Tất cả những hành vi trên chỉ nhằm thủ thân (giữ lấy mạng sống). Đó là hai chữ cuối phía trên bức tranh. Tất cả các việc trên diễn ra nhằm một mục đích để cho đám cưới của nhà chuột được yên lành, chú rể mới có thể nghinh hôn, rước dâu đàng hoàng. Bức tranh giải trình một cách giải quyết đối kháng giữa hai kẻ mạnh yếu để cùng tồn tại, tức là chấp nhận công khai sự thuần phục của mình bằng cống vật. ấy thế mà đám rước dâu vẫn phải ngó trước nhìn sau cảnh giới. Lễ trình tận miệng mèo rồi nhưng đâu chắc đã yên thân! Một bức tranh thật tăm tối về thế sự Giống như câu ca dao xưa: Con mèo mà trèo cây cau/ hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà/ chú chuột đi chợ đồng xa/ mua mắm mua muối giỗ cha con mèo, đây cũng chẳng phải chuyện quan hệ mèo chuột, mà chỉ là gợi ý cho con người một cách ứng xử khi ở cạnh kẻ mạnh bên ta luôn tìm cách ăn hiếp ta. Còn ai nghĩ ra cách gợi ý này, chưa chắc đã là nguời uyên bác, mà có khi đó lại là sản phẩm răn đe của kẻ mạnh. Điều này thường xảy ra trong đời sống khi mạng sống con người được mang ra mặc cả của những thế lực đen tối. Trong chính trường của ta chắc chẳng thiếu gì chuyện mèo chuột như thế giữa bọn tham lam có quyền lực và lũ hèn nhát nhưng nhiều tham vọng. Chính chúng, cả mèo và chuột đã dung dưỡng cho sự tham nhũng bằng cách dùng quan hệ ấy thành chiến lược lâu dài… Bức tranh Đám cưới chuột ra đời đã bao nhiêu năm rồi mà về câu chuyện trong tranh vẫn còn nhiều lời bàn cãi. Có người cho rằng bức tranh Đám cưới chuột là tranh đả kích, tố cáo nạn tham nhũng và hối lộ tràn lan dưới thời thời phong kiến. Nhưng có lẽ cũng không hẳn thế. Dưới chế độ XHCN tốt đẹp của chúng ta sao nạn tham nhũng vẫn tràn lan đến nỗi người ta phải kêu lên “ tham nhũng là quốc nạn”. Thì ra ở chế độ tươi đẹp của chúng ta vẫn có chuyện giống Đám cưới chuột, vẫn còn chuyện mèo-chuột. Vậy thì Đám cưới chuột không thể là tài sản riêng của phong kiến nữa. Và ngó ra thế giới thì tham nhũng cũng đầy ra, chỉ khác ở cấp độ. Vậy có thể thấy tham nhũng là sáng tạo của nhân loại mà người Đông Hồ chỉ tổng kết nó vào trong bức tranh mà thôi. Có người lại cho rằng Đám cưới chuột là tranh tục lệ. Tục lệ này phản ánh một qui luật: là cá lớn nuốt cá bé, kẻ mạnh ăn hiếp kẻ yếu như là sự mặc định. Kẻ yếu phải có trách nhiệm cung phụng và luồn cúi thì được yên thân. Và như thế thì là qui luật của toàn cầu rồi. Nhưng cũng không hẳn như thế. ở biển cả có những loài cá yếu rợt nhưng lại có nọc độc, khiến cá lớn phải kiêng dè, đụng đến thì mất mạng. Trên cạn có con cóc. Để bảo vệ mình thì thân cóc có gai độc, con vật nào lớ xớ dính nhựa cóc sẽ bị nguy hiểm tính mạng. Trứng cóc lại có chất độc ở màng nhầy, kẻ nào ăn sẽ chết. Cho nên cái qui luật kia cũng chỉ mang tính tương đối. Bức tranh Đám cưới chuột xem ra sẽ sống mãi với nhân loại. Hôm nay con mèo bắt chuột cung phụng, nhưng ngày mai con mèo ấy mà gặp mèo to hơn thì nó lại trở thành một thứ chuột, lại phải dâng cá, dâng chim để giữ mạng sống. Nói chung thời tham nhũng thì quan hệ mèo chuột hoán đổi khôn lường. Như thế để thấy chuyện này là của loài người chứ chưa bao giờ ở loài mèo loài chuột cả. Chứng cứ là, cứ thấy chuột là mèo vồ luôn chứ không bao giờ lại chờ chuột đem đồ cống. Xét cho cùng loài vật sòng phẳng và đơn giản và minh bạch hơn nhiều. Chính con người mới là phức tạp. Đỗ Đức
-
Phát hiện bộ lịch Maya cổ nhất 12/5/2012 14:12 Các nhà khảo cổ học vừa tìm thấy một bộ lịch Maya cổ nhất từ trước đến nay tại di tích Xultun ở Guatemala. Chúng được khắc trên các bức tường của một ngôi nhà Maya có niên đại từ đầu thế kỷ thứ 9, sớm hơn các bộ lịch Maya hàng thế kỷ. Đây được xem là di sản cổ nhất từ trước đến nay, đồng thời đặt dấu chấm hết cho những tin đồn rằng người Maya dự báo ngày 21-12-2012 sẽ là ngày tận thế của thế giới. Các bức vẽ rõ đến đáng ngạc nhiên trên tường ngôi nhà. Nguồn: BBC Tiến sĩ Saturno bên trong ngôi nhà đang được nghiên cứu. Ảnh: Reuters Bộ lịch Maya nói trên được vẽ trên nhiều bức tường của một ngôi nhà cổ tại thành phố Xultun nằm trong khu rừng Peten, miền Bắc Guatemala, gồm Lịch nghi lễ 260 ngày, Lịch Mặt trời 365 ngày, Lịch sao Kim 584 ngày và Lịch sao Hỏa 780 ngày. Ngôi nhà trên được Tiến sĩ William Saturno và các đồng nghiệp ở Đại học Boston (bang Massachusetts - Mỹ) khai quật vào năm 2010. Chủ nhân của nó có thể là một nhân vật cấp cao nhưng không thuộc hoàng tộc. Theo các nhà khảo cổ, bộ lịch này có niên đại cao hơn so với bộ mã Maya viết trên vỏ cây được phát hiện trước đấy và rất cỏ thế ngôi nhà chứa đựng di sản này là tài sản của một "công chứng viên" thời đó. Hiện nay nhóm các nhà khoa học Mỹ và Guatemala mới chỉ khai quật được 1% khu khảo cổ Peten. Họ hy vọng sẽ tìm ra nhiều bí mật quan trọng hơn của nền văn hóa từng phát triển rực rỡ này tại vùng lãnh thổ bao gồm 4 bang miền Nam Mexico, Guatemala, Bêlixê, Ônđurát và En Xanvađo hiện nay. Văn hóa Maya đã để lại cho nhân loại nhiều di sản giá trị về khoa học, thiên văn, văn hóa, đặc biệt là nền văn học trước khi thực dân Tây Ban Nha sang chiếm đóng khu vực này, với 44 ngôn ngữ còn tồn tại đến ngày nay cùng các tác phẩm tiêu biểu như Rabinal Achí, Popol Vuh, và bộ sách Chilam Balam. P.Linh
-
Minh Mạng đã sai quân vẽ bản đồ Hoàng Sa thế nào? Châu bản triều Minh Mạng ghi việc triều đình nhiều lần sai phái quân đội ra Hoàng Sa đo đạc và vẽ bản đồ, người hoàn thành nhiệm vụ được ban thưởng, kẻ chậm trễ hay làm không tốt bị phạt. Tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, Hà Nội có lưu nhiều châu bản triều Nguyễn, gồm các thượng dụ, chiếu chỉ, tấu, sớ, là nguồn thông tin chính thống có giá trị về nội dung. Trong đó có một số châu bản thời Minh Mạng nói về các việc liên quan tới Hoàng Sa. Trong tờ Châu bản số 061, Stt 036, quyển số 043, triều Minh Mạng có ghi chép về sự hoạt động của các thuyền phương tây gặp hoạn nạn trên biển gần đảo Hoàng Sa. “Thủ ngự cửa biển Đà Nẵng, Nguyễn Văn Ngữ tâu: Ngày 20 tháng này năm nay, thuyền buôn Pháp ra khơi đi đến Lữ Tống buôn bán. Sự việc đã báo cáo rõ. Ngày 27 thấy Tài phó và thuỷ thủ gồm 11 tên, đi trên 1 chiếc thuyền tam bản vào bản tấn nói rằng: Ngày 21 tháng này thuyền đi qua phía Tây Hoàng Sa, bỗng nước ngấm vào thuyền, ngập sâu hơn 8 thước đã bàn bạc chọn lấy 2 hòm bạc công quỹ, phân chia 2 thuyền tam bản thuận theo chiều gió quay về. Nhưng chủ thuyền Đô Ô Chi đi trên một chiếc tam bản, đi sau, chưa thấy tới. Thần lập tức sai thuyền tuần tiễu của bản tấn, chở nước ngọt ra khơi tìm kiếm. Giờ ngọ gặp Đô Ô Chi Ly và phái viên cùng thuỷ thủ, gồm 15 viên, hiện đã vào cửa tấn. Người và bạc đều được an toàn. Châu phê: "Đã xem". Tờ Châu bản số 092, Stt 070, quyển 054 triều Minh Mạng ghi việc sai phái quân đội ra Hoàng Sa đo đạc và vẽ bản đồ, nhưng vì chậm trễ nên bị trách tội: “Chúng thần Hà Tôn Quyền, Hoàng Quýnh ở Nội các phụng thượng dụ: Viên được phái ra Hoàng Sa là Cai đội Phạm Văn Nguyên trở về chậm trễ, vừa qua đã có chỉ giao cho Bộ trị tội. Nhưng đã tra chưa thấy rõ có tình tội riêng. Vả lại lần đó phái đi ra biển, đã hoàn thành công việc lẽ ra được dự thưởng, chỉ có quản viên Phạm Văn Nguyên lúc về lại dám tự ý giữ chức thật là không hợp, trước đây đã có chỉ cách chức giam cùm, nay truyền đánh ngay 80 gậy và gia ân khai phục nguyên chức. Vẽ bản đồ chưa được rõ ràng là các Giám thành Trần Văn Vân, Nguyễn Văn Tiện và Nguyễn Văn Hoằng đều đánh 80 gậy chuẩn cho thả tất cả. 2 tên hướng dẫn là Vũ Văn Hùng, Phạm Văn Sinh đều thưởng cho 3 mai tiền bằng bạc hạng nhỏ. Các binh thợ tham gia đều thưởng cho mỗi người 1 quan tiền, rồi cho về đơn vị và cục. Dân phu do tỉnh phái, trừ 2 tên hướng dẫn ra, còn lại đều thưởng cho mỗi người 1 quan tiền”. Trong tờ Châu bản số 245, stt 161, quyển 057 triều Minh Mạng cũng ghi việc sai phái quân đội đi đo đạc Hoàng Sa. “Phạm Văn Sênh, thủy thủ Lưu Đức Trị. Bốn tên ấy đã có chỉ phạt gậy. Ngoài ra binh dân trong hàng ngũ phải xông pha đường biển cũng gian lao nên lượng thưởng cấp... Lại phạm binh Trương Viết Soái thuộc Giám Thành trước can tội sơ ý trong khi đôn đốc làm thuốc súng bị trảm giam hậu. Năm ngoái đã từng phái đi Hoàng Sa và thành Gia Định hiệu lực chuộc tội, nay lại phái theo cùng đi đo đạc. Tuy đã qua 11 nơi, vẽ bản đồ chưa chu đáo nhưng qua nhiều lần khổ sai cũng thuộc loại có chút biết xấu hổ mà phấn đấu. Gia ân cho Trương Viết Soái được lập tức phóng thích, vẫn giao cho vệ giám thành làm lính, để sau sẽ tùy việc sai phái chuộc tội trước. Lại phụng xét binh đinh tại hàng ngũ 22 tên, dân phu 31 tên đều gồm lại trình bày rõ ràng. Châu điểm”. Thần Hà Duy Phiên, Lý Văn Phức vâng Thượng dụ: Trước đã phái xuất Thủy Sư Giám Thành cùng dân binh thuyền bè hai tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định đi đảo Hoàng Sa đo đạc nay hiện đã trở về. Trừ những người đi về chậm trễ là các viên do kinh phái thủy sư suất đội Phạm Văn Biện, tỉnh phái hướng dẫn Vũ Văn Hùng, Phạm Văn Sênh, thủy thủ Lưu Đức Trị. Bốn tên ấy đã có chỉ phạt gậy. Ngoài ra binh dân trong hàng ngũ phải xông pha đường biển cũng gian lao nên lượng thưởng cấp... Lại phạm binh Trương Viết Soái thuộc Giám Thành trước can tội sơ ý trong khi đôn đốc làm thuốc súng bị trảm giam hậu. Năm ngoái đã từng phái đi Hoàng Sa và thành Gia Định hiệu lực chuộc tội, nay lại phái theo cùng đi đo đạc. Tuy đã qua 11 nơi, vẽ bản đồ chưa chu đáo nhưng qua nhiều lần khổ sai cũng thuộc loại có chút biết xấu hổ mà phấn đấu. Gia ân cho Trương Viết Soái được lập tức phóng thích, vẫn giao cho vệ giám thành làm lính, để sau sẽ tùy việc sai phái chuộc tội trước. Lại phụng xét binh đinh tại hàng ngũ 22 tên, dân phu 31 tên đều gồm lại trình bày rõ ràng. Châu điểm. Bản đồ Việt Nam thời Nguyễn, vẽ khoảng năm 1838, có vẽ Hoàng Sa và Trường Sa Trong tờ Châu bản số 244, stt 160, quyển 057 triều Minh Mạng, Bộ Công tâu: “Lần này phái đi đảo Hoàng Sa mà công vụ trở về. Vì việc đi về chậm trễ nên viên do Kinh phái là suất đội Thủy sự Phạm Văn Biện, tỉnh phái các hướng dẫn viên Vũ Văn Hùng, Phạm Văn Sênh, thủy thủ Lưu Đức Trị đã vâng minh chỉ phạt gậy rồi. Tất cả binh dân thuyền bè nguyên phái đi nên cho trở về chỗ cũ đơn vị cũ. Bộ thần đã tra xét, năm ngoái được phái đi đảo Hoàng Sa làm công vụ gồm các quản suất, hướng dẫn, khi trở về không có bản đồ đều bị tội. Còn như các binh đinh được thưởng 1 tháng lương bằng tiền, dân phu được thưởng hai quan tiền. Lần này đi làm công vụ trở về trừ những người đã được phân xử là bọn Phạm Văn Biện gồm 4 người, không cần bàn nữa. Ngoài ra binh dân tại hàng ngũ nên chiểu theo lệ xét thưởng. Lại phạm nhân hiệu lực bị giam Trương Viết Soái thuộc giám thành năm ngoái từng phái đi Hoàng Sa hiệu lực, nhân không có bản đồ đệ về, kính vâng minh chỉ chuẩn y nguyên án trảm giam hậu. Lần này tên đó nên định đoạt thế nào kính cẩn trình bày rõ đợi chỉ. Châu điểm”. Trong tờ Châu bản số 021, stt 013, quyển 068 triều Minh Mạng, Bộ Công tâu: “Vâng xét việc cử đi Hoàng Sa, Bộ thần đã bàn xin hạ tuần tháng 3 ra khơi, tới nơi đo đạc xung quanh xong đến hạ tuần tháng 6 thì quay trở về. Vâng được phê chuẩn ngay tại văn bản. Chúng thần đã sao lục ngay cho các tỉnh Bình Định , Quảng Ngãi thi hành và chọn cử thị vệ ở các Bộ đi Khâm thiên giám cùng binh thuyền Thuỷ sư ra đi rồi. Sau đó theo phái viên trình rõ: Từ ngày 10 đến ngày 26 tháng 4 liên tiếp có gió đông, chưa tiện ra khơi xin đợi đến hôm nào gió Nam thuận tiện, thuyền này ra khơi sẽ tiếp tục báo. Chúng thần vâng xét, thuyền này đến hạ tuần tháng 4 mà vẫn chưa đi là đã quá hạn, vậy dám xin tâu trình rõ. Châu điểm”. Nguyễn Lê Thảo – Nguyễn Huy Khuyến Theo Bee
-
Quân lính Việt xưa Chủ yếu là hình ảnh quan quân thời Nguyễn. Một số hình ảnh cho thấy cách ăn vận của người xưa. Vệ binh (bộ binh) trưởng nhóm vệ binh Kỵ binh Tượng binh Súng thần công, Pháo binh sưu tầm
-
Thủy quân triều Nguyễn (Tin tuc) - “Chắc chắn rằng người An Nam phải là những kỹ thuật gia về thủy quân và công trình của họ có một vẻ đẹp khéo léo. Tôi bị ấn tượng rất mạnh bởi ngành này ...”. Từ đầu thế kỷ 19, thuyền trưởng người Mỹ John White đã thốt lên khi thăm các xưởng đóng tàu hải quân nhà Nguyễn. Những xưởng đóng tàu chiến Từ biển Vũng Tàu, tôi vào Sài Gòn theo hải trình qua cửa biển Cần Giờ mà tàu Franklin xưa của John White đã đi. Hai trăm năm trôi qua, bến bờ hoang sơ mà viên thuyền trưởng người Mỹ từng mô tả đã đổi thay nhiều, nhưng cặp mắt hàng hải của ông vẫn nhìn đến thời nay khi nó vẫn là thủy lộ huyết mạch nối thế giới bên ngoài với cảng Sài Gòn. Một chiến thuyền nhỏ của thủy quân nhà Nguyễn - Ảnh tư liệu Trong hồi ký Chuyến đi đến “Nam Hà”, John White kể ông đến Sài Gòn vào tháng 10-1819 và rất thích thú các xưởng đóng tàu: “Về phía đông bắc, trên bờ sông sâu, người ta thấy một công trường xây dựng và một xưởng đóng tàu thủy quân. Tại xưởng này, thời loạn lạc, người ta đã đóng những chiếc thuyền chiến to lớn có nhiều buồm ... Chỗ đóng tàu này đã tạo danh dự cho người An Nam hơn bất cứ cái gì hiện có trong xứ sở họ. Nó có thể cạnh tranh với những xưởng đóng tàu tốt nhất của châu Âu ... Xưởng đầy ắp vật liệu có phẩm chất tuyệt vời để đóng nhiều hộ tống hạm. Các thứ gỗ để đóng tàu và những lớp vỏ lòng tàu đều là những thứ đẹp nhất mà tôi chưa bao giờ được thấy ...”. Bị thu hút bởi xưởng đóng tàu thủy quân, John White liệt kê: “Có khoảng 150 chiếc thuyền chiến được đóng rất tốt nằm dưới các nhà chái... Có một vài chiếc được trang bị đến 16 khẩu đại bác bắn đạn nặng ba cân Anh. Nhiều chiếc khác được trang bị từ bốn đến sáu canông bắn đạn nặng từ 4-12 cân Anh. Tất cả đều bằng đồng và đúc rất đẹp. Ngoài ra còn có độ 40 thuyền chiến đang neo đậu trên sông, chuẩn bị tham gia một chuyến tuần thám bất ngờ mà quan tổng trấn sẽ thực hiện ở miền thượng lưu con sông, ngay lúc ông từ Huế trở về... Chắc chắn người An Nam phải là những kỹ thuật gia về hải quân và công trình của họ có một vẻ đẹp khéo léo. Tôi bị ấn tượng rất mạnh bởi ngành này của nền kinh tế chính trị của họ, nên tôi đã đến thăm viếng xưởng đóng tàu rất nhiều lần ...”. Thời điểm năm 1819, những gì John White quan sát là kết quả chiến lược phát triển hải quân hùng mạnh của Nguyễn Ánh để bảo vệ bờ cõi, chủ quyền biển đất nước. Đến nước Việt sớm hơn John White, nam tước John Barrow, người Anh đi biển lừng danh đã sáng lập Hội Địa lý hoàng gia, tường thuật tỉ mỉ nỗ lực của Nguyễn Ánh xây dựng các hạm đội hùng mạnh. Trong du ký A voyage to Cochinchina in the years 1792 - 1793 (Một chuyến du hành tới Nam Hà trong các năm 1792 - 1793), John Barrow kể rằng: “Ông (Nguyễn Ánh - PV) đặc biệt lưu ý về những gì liên quan đến kỹ thuật hàng hải và kỹ nghệ đóng tàu... Để nắm vững kiến thức về thực hành cũng như lý thuyết của kỹ thuật đóng tàu châu Âu, ông đã mua một chiếc tàu Bồ Đào Nha với mục đích chỉ để tháo ra từng bộ phận, từng tấm ván một, rồi tự tay lắp vào một tấm ván mới có hình dáng và kích thước tương tự cái cũ mà ông đã tháo ra, cho tới khi mọi thanh sàn tàu, xà ngang tàu, thanh gỗ khớp nối được thay thế bằng những cái mới, và như vậy con tàu hoàn toàn đổi mới... Nhà vua là người quản đốc các cảng biển và kho quân dụng, thợ cả trong các xưởng đóng tàu, kỹ sư trưởng trong mọi công trình, không có việc gì dự định thực hiện mà không có lời khuyên bảo và chỉ dẫn của ông. Trong việc đóng tàu, không có cái đinh nào được đóng mà không có sự tham vấn ban đầu của ông, không có một khẩu đại bác nào được đưa lên vị trí mà không có lệnh của ông”. Phải khẳng định John Barrow viết rất cẩn trọng, tham khảo, đối chiếu nhiều nguồn tư liệu khác như từ chính ghi chép của Barysi, cố vấn đắc lực cho Nguyễn Ánh. Nhờ đó, John Barrow chân thực kể về Nguyễn Ánh rằng: “Ông đi đến các xưởng quân dụng hải quân, xem xét những công việc được thực hiện khi ông vắng mặt, cho thuyền chèo quanh các hải cảng, kiểm tra những thuyền chiến. Ông đặc biệt chú ý đến các sở quân cụ, các lò đúc được dựng nên trong các sở binh khí, các cỡ súng đại bác đã được đúc ra theo đủ loại kích cỡ ... Ông dùng bữa ngay ở xưởng đóng tàu, gồm một ít cơm ăn với cá khô. Khi đó vua lại trở dậy, hội kiến với các sĩ quan quân đội và hải quân”. Hơn hai vạn thủy quân Chiến lược phát triển hải quân của Nguyễn Ánh đã được John Barrow kể lại kết quả từ chính những gì ông thấy và tư liệu xác thực từ viên thuyền trưởng Barysi, từng là trợ thủ hải quân của Nguyễn Ánh: trong năm 1800, lực lượng hải quân của Nguyễn Ánh đã đến 26.800 người. Trong đó chỉ riêng thợ xưởng hải quân đã có 8.000 người, 8.000 lính trên 100 chiến thuyền chèo tay, 1.200 lính trên chiến thuyền đóng kiểu châu Âu, 1.600 lính phục vụ trên các thuyền mành và 8.000 lính thường trực ở cảng. Thuyền trưởng Mỹ John White bổ sung số liệu hải quân nhà Nguyễn năm ông ta có mặt ở nước này: “Ở Huế, nhà vua cũng có một đội thuyền chiến và vào năm 1819, 200 chiến thuyền khác có trang bị 14 khẩu thần công đang được đóng. Trong số 200 chiến thuyền này, có khoảng 50 chiếc được trang bị buồm chão bằng buồm dọc và có một phần được đóng theo kiểu châu Âu”. Đến triều Minh Mạng, bộ sử Đại Nam hội điển sự lệ ghi rõ số lượng tàu thuyền lúc ấy đã phát triển thêm rất nhiều như năm 1828, chỉ riêng ở kinh sư đã có 379 chiếc thuyền định ngạch, còn các tỉnh thành lớn như Gia Định có 105 chiếc, Nam Định 85 chiếc, Nghệ An 40 chiếc, Quảng Nam 40 chiếc, Quảng Ngãi 25 chiếc ... Những nhà hàng hải nước ngoài cho rằng sự phát triển hải quân nhà Nguyễn đã có bước ngoặt lớn trong thời Nguyễn Ánh. Ngoài tầm nhìn xa trông rộng của vị vua này còn có sự trợ giúp của một số người Pháp. Nhưng họ cũng thừa nhận thời tổ tiên Nguyễn Ánh đã có hải quân hùng mạnh lập nhiều chiến thắng hiển hách. Trong đó lẫy lừng nhất là trận cửa Eo, Thuận An, năm 1644, chúa Nguyễn Phúc Lan với chiến thuyền nhỏ đánh bại đội tàu chiến Hà Lan. Dù dày dạn kinh nghiệm hải chiến với tàu lớn, pháo hạng nặng, nhưng tàu Hà Lan đã bị nhà Nguyễn vô hiệu hóa bằng chiến thuật áp sát thần tốc của chiến thuyền nhỏ. Một chiến hạm Hà Lan bị đắm tại chỗ, một chiếc cùng đường phải cho nổ kho thuốc súng hủy tàu và chiếc còn lại quay đầu chạy. Ngoài hải chiến cửa Eo, hải quân nhà Nguyễn cũng nhiều lần gây khiếp vía cho các tàu cướp phá đến từ Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan. (Còn nữa) Theo Quốc Việt (Tuổi Trẻ)