-
Số nội dung
6.278 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
75
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Thiên Đồng
-
Bài viết đăng báo Thế giới Gia đình, số 22, 13-6-2012 ============================================ Hình tượng linh thú trong Phong thuỷ Lạc Việt Thiên Đồng - Bùi Anh Tuấn - Thành viên nghiên cứu Phong thủy Lạc Việt Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông phương Phải chăng các vật phẩm phong thủy như tượng sư tử, kỳ lân, tỳ hưu…là những vật khí cát tường đều mang đến tài lộc, giàu sang phú quý? Cuộc trao đổi giữa Thế giới Gia Đình và anh Thiên Đồng Bùi Anh Tuấn, thành viên nghiên cứu Phong thủy Lạc Việt thuộc trung tâm nghiên cứu Lý học Đông phương sau đây làm rỏ hơn vấn đề quan tâm. Hỏi: Theo anh như thế nào gọi là vật khí phong thủy tốt? Đáp: Mọi thứ đều có thể trở thành vật phẩm phong thủy hay còn gọi là vật khí phong thủy, theo quan niệm Phong thủy Lạc Việt. Vật khí phong thủy phục vụ cho một trong nhiều phương pháp thực hành của phong thủy mà dân gian thường biết đến và gọi là “trấn yểm” hay “trấn yếm”. Điều kiện đầu tiên cho mọi hình tượng, vật thể phục vụ cho việc trấn yểm là vật nào khí đó, hình tượng đó phải là hình tượng tốt lành và tươi đẹp, đầy tính mỹ thuật và nghệ thuật. Mục đích sử dụng của con người là tốt hay xấu, tùy thuộc vào đó mà việc dùng vật khí phong thủy để trấn yểm sẽ có hiệu quả tốt – xấu. Tuy nhiên, đôi lúc cũng là vật khí phong thủy mang hình tượng tốt, cát tường, nhưng do thực hiện không đúng phương pháp chuyên môn nên hiệu quả mang lại là tiêu cực, phản tác dụng. Giống như bệnh đau bụng mà cho uống nhân sâm thì bệnh nhân…hết cứu. Do vậy vật khí phong thủy tốt hay xấu là do mục đích người sử dụng và phải vận dụng đúng phương pháp của chuyên môn. Rồng thời Lý, hình tượng tốt theo Phong thuỷ Lạc Việt Hỏi: Hiện nay có hiện tượng rất phổ biến là nhà riêng cơ quan làm việc đều vận dụng phong thủy bằng cách bố trí tỳ hưu, sư tử…trong nội thất, trước cửa nhà, trước mặt tiền nhà, có phải đây là hình tượng hoàn toàn tốt hay không và anh nghĩ sao về hiện tượng này? Đáp: Không những nhà riêng và cơ quan mà việc để sư tử, tỳ hưu mà đền chùa, miếu mạo cũng để sư tử hay tỳ hưu. Đó là do sự kém hiểu biết về văn hóa Việt hoặc tâm lý sính ngoại chạy theo phong trào như chạy theo mốt, dẫn đến những nét lai căn, bất cập giữa truyền thống và ngoại lai, tạo nên những bi hài cho không gian văn hóa nước nhà. Và cũng như thế, đối với nhà riêng và cơ quan làm việc, do vận dụng không đúng phong thủy mà vẻ mỹ quan kiến trúc trở nên hợm hĩnh, tạp nham và tạo thêm yếu tố tiêu cực tiềm ẩn khi vận dụng không dúng cách đối với những vật khí phong thủy như sư tử, kỳ lân, tỳ hưu, long quy…Rất nhiều cơ quan, công ty luôn gặp những rắc rối, trì trệ hay thậm chí dẫn đến nguy cơ về kinh tế, đều có sử dụng tượng sư tử hay tỳ hưu trấn hai bên cổng chính hay cửa chính của cơ quan. Mặc dù hình tượng sư tử, kỳ lân, tỳ hưu không phải là yếu tố quyết định cho sự thành bại, không phải là yếu tố duy nhất ảnh hưởng mà chỉ là yếu tố tham gia trong nhiều yếu tố tương tác còn lại khác nhưng nó cũng mang tiềm ẩn những yếu tố tiêu cực khởi phát. Do vậy tượng sư tử,kỳ lân, tỳ hưu…vẫn chưa phải là hình tượng hoàn toàn tốt theo quan niệm Phong thủy Lạc Việt. Hỏi: Vậy thì hình tượng sư tử, tỳ hưu được sử dụng trong trường hợp nào? Đáp: Tượng sư tử, kỳ lân và tỳ hưu được dùng làm linh thú trấn đại môn của cung điện, dinh thự nhà vua hay vương quyền hoặc thấp hơn là đại môn dinh phủ của quan cấp phủ, tương đương ngày nay là quan cấp tỉnh thành. Bởi, đây là những hình tượng biểu trưng cho sức mạnh quyền lực, quyền uy thuộc Dương, nhưng hình ảnh dữ dằn, đầy sát khí thuộc Âm nên phù hợp nơi quyền lực và quan trường mà không phải là hình tượng để mong cầu tài lộc hay giàu sang phú quý. Riêng tỳ hưu với quan niệm như một mặc khải rằng, đây là một linh thú chỉ ăn vàng bạc, kim ngân, của cải mà không bao giờ “thải ra” thì đó là một biểu nghĩa trái quy luật Âm Dương, bởi theo quy luật này thì trong thế giới không có gì hoàn toàn thuần Âm hay thuần Dương. Mọi thứ đều phải tuân theo quy luật Âm Dương, có vô tức phải có ra, có đầy thì phải có vơi, do đó hình tượng tỳ hưu là một hình tượng của sự bế tắt, không phát triển, theo quan niệm Phong thủy Lạc Việt. Tựu chung, tượng sử tử, kỳ lân, tỳ hưu không phù hợp cho việc bố trí theo phong thủy đối với tư gia, cơ quan làm việc, cơ sở kinh doanh tư nhân hay nhà nước nói chung mà chỉ phù hợp cơ quan cấp tỉnh thành trở lên hoặc nếu là dinh thự cá nhân thì gia chủ phải có cấp bậc tướng trở lên, đó gọi là hợp mệnh. Và tỳ hưu, do tính chất bế tắt của hình tượng sẽ không là hình tượng tốt để dùng. Đôi nghê thời Lê, thế kỷ XV Hỏi: Trong văn hóa dân gian Việt Nam có hình tượng nào tương tự như hình tượng sư tử, kỳ lân hay tỳ hưu hay không? Đáp: Có. Đó là con Nghê. Con nghê mang tính chất thuần Việt. người dân thường cũng hay gọi là con chó đá. Con Nghê thuần Việt trông hiền hòa mang đậm tính cách Việt hơn, cũng có bờm, vây, đầu có sừng, lông có xoáy âm dương hoặc vẩy rồng, miệng đôi khi ngậm ngọc, đôi khi đeo lục lạc, chân có mống vuốt và hý cầu…tuy đầy vẽ hùng mạnh uy nghiêm nhưng rất hiền hòa và hình tượng tạo hình cũng rất thanh thoát nhẹ nhàn thân thiện, hình tượng này được trưng ở nơi thờ tự đình chùa hay miếu mạo, ngoài ra không dùng (và cũng không nên dùng) cho trường hợp nào khác. Xin cảm ơn anh về một cuộc trao đổi bổ ích này!
-
Hình tượng con Nghê trên gốm sứ cổ Việt Nam Chim và rồng trên gốm sứ cổ Việt Nam Hình tượng hổ trên chuôi gươm đồng của người Việt Cổ, khoảng 500 trc CN, trưng bày trong bảo tàng Barbier - Mueller (Geneve)
-
Chúc mừng sinh nhật BBF và Thiên Luân
-
Người giải mã bí ẩn bãi đá cổ Sapa 10/12/2011 (VTC News) - Trong lúc nhậu cùng một số nhà sử học, khi ngà ngà, ông cao hứng và đã hùng hồn tuyên bố: "Nếu cho tôi một tỷ, tôi sẽ giải mã toàn bộ bãi đá cổ Sapa". Nhiều người biết đến ông Nguyễn Vũ Tuấn Anh (Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông phương) bởi tuyên bố có phần ngông cuồng, rằng ông thể đuổi được mưa trong dịp đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội. Chẳng mấy ai tin những tuyên bố của ông ngoài những đệ tử, học trò của ông. Bản thân tôi, là người quen biết ông từ lâu, cũng không tin ông làm được điều đó, bởi tuyên bố đó mang màu sắc… hoang tưởng. Nhưng là người tiếp xúc với ông Nguyễn Vũ Tuấn Anh khá nhiều và luôn dõi theo các đề tài nghiên cứu của ông nên tôi tin rằng, ông thực sự là người đam mê nghiên cứu khoa học. Ông yêu đất nước Việt Nam, yêu lịch sử Việt Nam đến phát rồ và ông dành hết tâm huyết đời mình cho những nghiên cứu về lịch sử. Ông đã thách thức các nhà khoa học Việt Nam bác bỏ được đề tài nghiên cứu khẳng định lịch sử Việt Nam có tới 5.000 năm tuổi! Quả thực, tôi chưa đủ trình độ để thẩm định giá trị khoa học ở trong hàng trăm tài liệu, cả chục cuốn sách nghiên cứu lịch sử đó, nhưng tôi tin rằng, nó đã thể hiện tình yêu trọn vẹn của ông với tổ tiên đất Việt. Trong số những đề tài nghiên cứu của ông mà tôi theo dõi nhiều năm nay, tôi thực sự ấn tượng với giải mã của ông về những bí ẩn trên bãi đá cổ Sapa. Sơ đồ bãi đá cổ Sapa. Các nhà khoa học nước nhà mới chỉ dừng lại ở việc mô tả các hình khắc, chứ chưa giải mã được các thông điệp mà cha ông ta để lại trên những hình vẽ đó. Một số nhà khoa học cũng đã giải mã một số hình vẽ, nhưng chưa dũng cảm công bố. Riêng ông Nguyễn Vũ Tuấn Anh đã khảng khái công bố những giải mã của mình. Có những giải mã của ông tôi còn đặt nghi vấn, song có những thông tin khiến tôi giật mình. Ranh giới giữa một nhà khoa học tài năng và một người hoang tưởng đôi khi rất mong manh. Điều tôi nhìn ở Nguyễn Vũ Tuấn Anh trong nghiên cứu này, là ở góc độ một nhà khoa học thực sự. Đúng – sai – hay – dở thế nào, còn tùy thuộc vào nhận định của các nhà khoa học và độc giả. Trong loạt bài này, xin được công bố những giải mã về bãi đá cổ Sapa của ông Tuấn Anh, khi mà bãi đá cổ đã gần như biến mất hoàn toàn bởi sự phá hoại của con người. Hòn đá cổ khổng lồ bị biến thành... cầu trượt. Suốt mấy năm nay, nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh đi về Sài Gòn – Hà Nội – Sapa như con thoi. Chỉ cần có một phát hiện mới, một tài liệu mới, hoặc một ý kiến mới của nhà nghiên cứu nào đó về bãi đá Sapa, là ông sẵn sàng diện kiến để trao đổi, tranh luận, nhằm làm sáng tỏ những nghi vấn. Mỗi lần ra Hà Nội, ông thường ngồi ở một vài quán café bên hồ Trúc Bạch, rồi hẹn hò các nhà nghiên cứu, các học trò ưu tú của ông để trao đổi học thuật. Họ có thể bàn luận về mọi thứ và tôi nhận thấy rằng, mọi câu chuyện họ trao đổi đều có bóng dáng, luận thuyết của triết học và Kinh Dịch. Ông Nguyễn Vũ Tuấn Anh đã biết đến bãi đá cổ Sapa từ lâu rồi, nhưng ông thực sự bắt tay vào nghiên cứu và giải mã từ khoảng 10 năm nay, sau khi một nhà khoa học Pháp công bố tài liệu nghiên cứu về bãi đá này. Khách du lịch thi nhau vẽ bậy, khắc bậy lên đá cổ. Khi đó, một tờ tạp chí khoa học nước ngoài viết rằng, nhà khoa học người Pháp Phillipe Le Failler - chuyên gia hàng đầu của Viện Viễn Đông Bác Cổ và các cộng sự Việt Nam thực hiện công việc dập bản khắc hình vẽ trên bãi đá trước tình trạng bãi đá cổ Sapa có thể bị biến dạng bởi tác động của thiên nhiên và con người. Bài viết cũng nói rằng, những bí ẩn về bãi đá cổ nổi tiếng ở Sapa đang có cơ hội hé mở khi lần đầu tiên toàn bộ hoa văn của hơn 200 viên đá đã được in dập lại và được nghiên cứu theo công nghệ hiện đại. Sau 7 tháng làm việc, nhóm nghiên cứu của Phillipe đã dập được toàn bộ 200 viên đá, với tổng cộng 3.000 bản dập. Tất cả những bản dập này cũng như những dữ liệu định vị của các viên đá sẽ được nhập vào máy tính, sắp xếp, tính toán số lượng, sự lặp lại của các mẫu hoa văn... làm cơ sở để giải mã các hoa văn, hình vẽ bí ẩn. Vô tư ngồi chơi trên đá cổ. Theo Phillipe Le Failler: "Công việc nghiên cứu cho những kết luận ban đầu, có thể là một bản đồ, một bài cúng..." Bí ẩn của những hoa văn này đã được các nhà khoa học nghiên cứu từ rất lâu. Ngay từ năm 1925, giáo sư Pháp Victor Goloubev đã đưa ra những giả thuyết giải thích về các hoa văn này. Những hoa văn lạ, đẹp và nhiều hình dạng: bậc thang, hình người, con đường, chữ viết... và nhiều hình khắc bí ẩn khác. Đặc biệt và khó lý giải nhất là có một hình người tỏa ra các vầng hào quang xung quanh. Bãi đá quý như vậy, nhưng nó đang có nguy cơ bị biến dạng. Một số họa tiết bị mờ vì mưa nắng bào mòn. Mới đây người ta lại phát hiện thêm những bãi đá cổ tương tự ở xã Tả Phìn (Lào Cai) Vị Xuyên (Hà Giang), Pá Màng (Sơn La) cùng với những hoa văn và cách bài trí bí ẩn. Phillipe Le Failler dự định sẽ tiến hành dập lấy mẫu tiếp những bãi đá này. Và khi công việc hoàn thành, ông sẽ có trong tay hệ thống toàn bộ các mẫu hoa văn của các bãi đá cổ được phát hiện tại Việt Nam. Cùng với việc cập nhật dữ liệu thông tin và nghiên cứu trên máy tính, Phillipe tuyên bố rằng bí ẩn mà người xưa gửi gắm trên những viên đá này chắc chắn sẽ được giải mã trong tương lai không xa. Bản dập một hình khắc trên bãi đá cổ Sapa. Sau khi nghe tin này, ông Nguyễn Vũ Tuấn Anh khá... bất bình. Ông nói: "Thật là khôi hài. Nếu là một bài cúng thì chẳng cần phải ghi vào bãi đá cổ làm gì để giải mã cho mất công thế...". “Phương tiện khoa học hiện đại có thể cho con người thấy tất cả những thực tại đang hiện hữu: Từ hạt vật chất nhỏ nhất đến thiên hà khổng lồ. Nhưng sự bí ẩn lại nằm trong tính tương tác giữa những thực tại đó. Người Pháp có thể dùng máy móc và phương tiện hiện đại để xem xét những ký hiệu trên bãi đá cổ Sapa, nhưng họ sẽ không thể hiểu được những ký hiệu ấy nói lên điều gì? May lắm thì họ hiểu phần nào mà thôi” – ông Tuấn Anh khẳng định. Các nhà nghiên cứu Hàn Quốc đang in dập hình khắc trên bãi đá Sapa. Theo ông Tuấn Anh, chưa có một tiêu chí nào cho sự giải mã một di sản văn hóa cả. Bởi vì, một vòng tròn trên bãi đá cổ, người thì bảo đó là ký hiệu mặt trời, người bảo mặt trăng, người bảo thái cực, người kêu đích thị hòn bi, kẻ cãi lại thì bảo cái bánh dầy mới đúng... Như vậy rất khó biết ai đúng. Tuy nhiên, ông khẳng định rằng, tiền nhân làm ra bãi đá cổ kỳ công này thì phải có mục đích rõ ràng. Có lần, trong lúc nhậu cùng một số nhà sử học, khi ngà ngà, ông cao hứng và đã hùng hồn tuyên bố: "Nếu cho tôi một tỷ, tôi sẽ giải mã toàn bộ bãi đá cổ Sapa". Tháng sau, một vị quan chức trong Viện Sử học gọi điện cho ông "OK" kế hoạch này. Nhưng lúc ấy ông lại tỉnh táo, sợ rằng mình bảo cái bánh dầy, người khác bảo hòn bi ve thì cãi nhau mệt. Thế là ông từ chối. Ông xin được giải mã miễn phí. Người bảo đây là nền văn minh nông nghiệp, người bảo hình vẽ miêu tả sự tương tác vũ trụ, người bảo vẽ cái... cối đá. Việc giải mã một thông điệp người xưa để lại là một việc rất khó khăn. Bởi vì khái niệm của người xưa khác người thời nay, hoàn cảnh xã hội, thói quen tư duy, nhận thức đều khác. Vì vậy muốn hiểu người xưa nói gì qua những mật ngữ để lại thật không dễ dàng. Hơn nữa, chúng ta lại chưa có một tiêu chí khoa học về phương pháp giải mã những di sản văn hóa nói chung, hoặc chí ít chúng ta chưa biết đến điều này. Nhưng điều đó không có nghĩa không thể hiểu được nếu có sự hiểu biết về văn hóa, toán học cổ xưa. Hai lĩnh vực này ông đã nghiên cứu nhiều năm, nên ông hy vọng có thể áp dụng trong việc giải mã bí ẩn của bãi đá. Với những sự kiện trên, ông lặng lẽ gom góp tiền bạc và nhiều lần từ Sài Gòn ra Hà Nội, lên tận bãi đá cổ Sapa để đi tìm lời giải mã. Còn tiếp… Trần Bình Thủy
-
Xác nhận danh sách học viên đóng học phí lớp PTLV nâng cao 05 học kỳ 01 1. Trần Thị Phương Dung, Katya Tran, 3.000.000đ 2. Trần Văn Tuấn, vohinh12 ,3.000.000đ 3. Trần Minh Nhật, Mộc Bản, ,3.000.000đ 4. Nguyễn Xuân Dũng, nguyenxuandung , 3.000.000đ 5. Nguyễn Anh Tuấn, one_ newbie, 3.000.000đ 6. Bùi Thị Thanh Thủy, cachua2008, 3.000.000đ 7. mutinhoc, 3.000.000đ. 8. phngxxuangiap, 2.000.000đ (thiếu 1.000.000đ)
-
ĐI TÌM Ý NGHĨA HÌNH ẢNH CUỐN THƯ TRONG BỨC TRANH ĐÁNH GHEN Bức tranh Đánh ghen là một trong những bức tranh thuộc thể loại tranh sinh hoạt của dòng tranh Đông Hồ. Bức tranh khắc họa một tình tiết xung đột của một gia đình có một ông mà hai bà trong xã hội phong kiến xưa. Thật đúng là: “chồng riêng riêng những kính yêu, chồng chung ai dễ ai chiều cho ai”. Bức tranh mang dáng dấp như một vở hài kịch hơn là bi kịch, dẫu rằng cũng có chút dao kéo. Phông nền cho màn diễn này là một chiếc bình phong hình cuốn thư. Tại sao bình phong lại có hình cuốn thư? Đồ án cuốn thư có nói lên gì thân phận, gia cảnh của các nhân vật trong tranh không? Đánh ghen, tranh dân gian Đông Hồ Trước hết chúng ta cùng khảo sát sự xuất hiện và những ý nghĩa của đồ án này. Đồ án cuốn thư tượng trưng cho học thức, sự quyền quý sang trọng. ảnh hưởng của đồ án này còn ảnh hưởng tới đầu thế kỷ XX, trên lối vào sảnh chính của tòa nhà Đại học Đông Dương - Hà Nội (khoảng năm 1925), có đắp một cuốn thư nhỏ, trong đề hai chữ Chính Hạt“ ”. Dẫu vậy, khi khảo sát sự phát triển của loại đồ án này ở Việt Nam chúng ta ngờ rằng nó xuất hiện khá muộn. Trên 82 chiếc bia ở Văn Miếu không tìm thấy sự hiện diện của đồ án này. Trong một bức chạm ở chân tảng trong đền vua Đinh có một bức chạm bình phong cuốn thư giống hệt như bức tranh Đánh ghen của Đông Hồ. Nhưng bức chạm này được làm thời Thành Thái thứ 10 ( 1898). Trong quần thể di tích đền vua Đinh vua Lê, đồ án cuốn thư không thấy trước thời Nguyễn. Đồ án cuốn thư xuất hiện chủ yếu vào thời Nguyễn ở dạng bình phong và các bức hoành phi, trên trán nhà. ở Long An Điện, từng là Tân Thư Viện (Huế), trên chính điện, phía bên phải ngai vàng của vua Duy Tân, có một cuốn thư sơn son thếp vàng khá đẹp. Trên tam quan Văn Miếu ở Huế chúng ta lại thấy hình ảnh cuốn thư được đắp nổi một cách trang trọng, như đã nói ở trên, được coi là một biểu tượng văn hiến, nhưng trên văn bia thời Lê, Mạc ở Văn Miếu Hà Nội, chúng ta chưa thấy xuất hiện dạng đồ án này. Đồ án cuốn thư ở đền vua Đinh cũng xuất hiện nhiều dưới dạng bình phong. Trong cuốn thư có khắc chìm hoa văn chữ vạn là ngụ ý sự vĩnh hằng trường cửu. Hoa lá quấn quýt bên cuốn thư cho chúng ta một cảm nhận sang trọng, cao quý mà gần gũi. ở Trung Hoa đồ án cuốn thư không lưu hành rộng khắp như ở Việt Nam thời Nguyễn. Cuốn thư ở Trung Quốc thường thấy ở các ô thoáng trên các bức tường ngăn, đôi khi được thấy trong chạm khắc trên đầu giường. Đồ án cuốn thư xuất hiện trên tam quan cổng nhà chùa, cổng đình cho tới cổng làng, cổng nhà dân vào thời Nguyễn ở Việt Nam từ Bắc vào Nam cho thấy phần nào sự thắng thế của đồ án Nho giáo. * Bình phong hình cuốn thư (đúng ra phải gọi là các ảnh bích hay chiếu bích) là một hiện tượng văn hóa thịnh hành thời Nguyễn có nguồn gốc từ bức tường ngăn phía ngoài cửa của những ngôi nhà tứ hợp viên Trung Hoa truyền thống. Trong kiến trúc truyền thống của người Việt không có thói quen làm các ảnh bích. Từ không gian kiến trúc đình làng tới chùa chiền hay nhà dân đều là những kiến trúc mở, thông thoáng với những hàng rào bằng cây cỏ đơn sơ. Thâm nghiêm kín cổng cao tường vốn rất đặc trưng cho kiến trúc phương Bắc. Sự xuất hiện các tường bao trong các công trình kiến trúc dễ tạo ra sự hút gió rất hại cho sức khỏe những người sống trong những không gian trong đó. Bức tường ảnh bích là vật ngăn gió phía trước cổng ngoài. ở Trung Quốc (nơi khởi nguồn của kiến trúc này) các bức ảnh bích đa phần trông rất nặng nề. Xét về mặt thẩm mỹ, hình các bức ảnh bích hình cuốn thư trên các bức chạm khắc chân tảng đền vua Đinh mềm mại hơn, trữ tình hơn; hoa lá cây cối khi thấp thoáng khi quấn quít. Đó là điều gần hiếm thấy ở Trung Hoa do các bức ảnh bích nằm trong khuôn viên các ngôi nhà Trung Hoa truyền thống. Người Trung Hoa thường tránh trồng cây thân mộc trong sân nhà vì sợ các ngôi nhà theo lối xưa có tường bao quanh, mà cây bị bao bọc bởi các bức tường xung quanh tương ứng với chữ khốn (nghĩa khốn đốn). Các ảnh bích lại thường là một bức tường xây đặc không làm các ô thoáng để có thể nhìn ra ngoài. Nhìn từ góc độ văn hóa, đồ án ảnh bích cuốn thư rõ ràng đề cao vai trò của tri thức. Một lần nữa ta lại thấy sự hưng thịnh của Nho giáo đã ảnh hưởng tới thẩm mỹ kiến trúc thế kỷ 19. Nho giáo đặc biệt đề cao chữ Hòa. Khái niệm Hòa xuất hiện đầu tiên trong Kinh Dịch. Trung tâm của ba tòa bảo điện to lớn ở Tử Cấm Thành Trung Hoa là điện Thái Hòa là thể hiện triết lý của Nho giáo. Câu thành ngữ Trung Quốc Gia hòa vạn sự hưng ( tạm dịch là Gia đình hòa thuận vạn sự hưng thịnh) hay Dĩ hòa vi quý thể hiện quan niệm Nho gia về phương thức giải quyết các mối quan hệ từ gia đình đến xã hội. Nhưng có một sự thực rằng, quan niệm trọng nam khinh nữ, đa thê, đề cao con trai trong cấu trúc gia đình phong kiến xưa luôn tạo ra những mâu thuẫn tiềm ẩn. Lời trong tranh bức tranh Đánh ghen “Thôi thôi bớt giận làm lành, chi điều sinh sự hổ mình hổ ta” cùng với tấm bình phong thể hiện cảnh ghen tuông xảy ra trong một gia đình khá giả, có học thức, coi trọng danh tiếng. Nhưng than ôi, danh tiếng và sắc dục xưa nay thật như nước với lửa, khó giữ được cảnh trong ấm ngoài êm. Trần Hậu Yên Thế http://www.vietnamfineart.com.vn ================================== Tác giả bài viết dựa vào những quan sát thấy được trong thực tế hiện tượng kiến trúc Việt Nam ở một vài thời kỳ lịch sử còn ghi lại dấu ấn hay còn di tích, rồi khẳng định ngay là...có nguồn gốc Tàu. Và Tàu có hay không hoặc có từ khi nào thì không cần dẫn chứng chứng minh, minh họa chứng minh...nghĩa là chắn chắn của Tàu rồi! Sic!!! Cứ theo cái câu thiệu tên thì mâu thuẩn đó chỉ ở cái quan niệm đó hay kiểu gia đình phong kiến đó. Có phải vậy không ta? Và khẳng định ngay rằng "cùng với tấm bình phong thể hiện cảnh ghen tuông xảy ra trong một gia đình khá giả". Biết đâu họ đánh ghen ở trà lầu, tửu điếm, thanh lâu, đình làng, từ đường thì sao nhỉ? Vẫn có khả năng đình làng, từ đường cũng được thiết kế đồ án cuốn thư vậy? Bởi đình làng là nơi hội họp khi làng có việc và cũng như để xử kiện, bàn việc làng việc nước; từ đường (nhà thờ họ) cũng là nơi vẫn có thể lôi nhau ra xử việc nhà. Và trên thực tế đình làng, từ đường đã từng được thiết kế bình phong với đồ án cuốn thư với những cách điệu khác nhau, rất đặc sắc, sinh động nhiều dị bản của cuốn thư chứ không cần giống y như trong tranh. Bình phong tại đình làng Kim Long (phường Kim Long, TP Huế) – Di tích văn hóa lịch sử cấp quốc gia, có hình ảnh cuốn thư.
-
Bài viết đăng báo Thế giới Gia đình, số 21, ngày 06-6-2012 =============================================== Chuông gió trong Phong thủy Lạc Việt Thiên Đồng Bùi Anh Tuấn Thành viên nghiên cứu Phong thủy Lạc Việt Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông phương Chuông gió, còn gọi là phong linh, là một vật trang trí mang tính nghệ thuật thường được nhìn thấy ở những công trình như cung điện, dinh thự, đền đài hay lăng tẩm của nét kiến trúc cổ xưa Châu Á. Chuông gió không những tồn tại trong những nét văn hóa của các nước Đông Á, Đông Nam Á mà còn có trong cả nét văn hóa của các dân tộc ít người vùng sâu, vùng cao nguyên, với những nhà sàn có treo chuông gió ở bốn góc mái nhà hay dưới mái nhà. Dưới những mái của cung điện, kinh thành, những chiếc chuông được gió run lên, âm thanh đôi khi rộn ràng vui tai trong nắng mới, đôi lúc huyền ảo giữa đêm u tịch, lay động một vùng không gian cổ kín, đấy là cách tạo dương khí và hóa giải tà khí theo quan niệm của người xưa. Cho rằng vong hồn vất vưỡng, những tà khí xui xẻo sẽ bị xua tan nếu treo phong linh dưới những mái nhà đầu đao hay trước cửa, nên chuông gió được sử dụng như một vật khí cát lành. Ở Nhật Bản, phong linh được gọi là Furin được phổ biến thành những vật phẩm tượng trưng cho mùa hè và trở thành một lễ hội đầy màu sắc, phong phú và đa dạng đầy mỹ thuật và mang ý nghĩa vui tươi thơ mộng. Ở vùng tây nguyên Việt Nam, bằng hình thức quả bầu bên trên, phía dưới là những thanh tre hay nứa hoặc chỉ đơn giản là những tranh tre tạo thành chùm, treo dưới mái nhà sàn đón gió lay động tạo thành những tiếng thanh ngân lan bạt cùng núi rừng, chỉ đơn thuần vui tươi, chỉ đơn thuần hòa điệu cùng tiếng suối reo, tiếng cồng chiêng thi thoảng. Chuông gió tự lúc nào đã trở thành vật dụng trang trí cho không gian kiến trúc hiện đại chỉ đơn thuần theo sở thích thẩm mỹ cá nhân hoặc vẫn là một loại vật khí phong thủy theo quan niệm phong thủy thông thường. Chuông gió Trong ý nghĩa phong thủy, từ xưa, chuông gió (phong linh) được dùng để chế hóa “phản thủy sát”. Những công trình kiến trúc cung điện, dinh thự hay gia trang…mà phía trước nhà, gần hoặc xa, có con sông, dòng nước chảy phía trước, nhất là con sông hoặc dòng nước chảy cong như hình cánh cung, như lưỡi đao chém hướng về phía trước mặt tiền nhà, còn gọi là minh đường, tức phạm cách “phản thủy sát” thì treo phong linh sẽ giải được thế sát đó. Những đòn dông hay mái đầu đao của mái đình, dinh thự, cung điện…chĩa thẳng về một phía mà đối diện là minh đường của một kiến trúc thì kiến trúc đó bị cách gọi là “trực xung sát”, do vậy treo chuông gió thành một dẫy liên tục sẽ hóa giải được thế xấu này. Chuông gió Nhật Bản đa dạng và vui mắt Phong thủy Lạc Việt sử dụng chuông gió vào cách chế hóa Thái tuế và những chế hóa sát trong Huyền Không Lạc Việt, nhưng đây cũng chỉ là những phương cách hóa giải mang tính tạm thời. Theo cách Huyền không Lạc Việt thì tùy theo vận tinh, niên tinh hay nguyệt vận mà chuông gió được sử dụng làm vật khí phong thủy chế hóa thế xấu của tinh sao. Cách sử dụng thật giản đơn, nếu nhà có minh đường nhìn về hướng Thái tuế chiếu sát thì treo chuông gió (phong linh) trước mặt tiền nhà, trước cửa cổng hoặc trước cửa chính của ngôi nhà. Đấy là cách hóa giải “Thái tuế sát”. Chuông gió ở vùng cao nguyên Việt Nam chuông gió nhiều loại Cách thức nhận ra “Thái tuế sát”: Thái tuế chiếu hướng thì người trong nhà dễ gặp xui rủi bất ngờ, dễ gặp chuyện buồn lo, tai tiếng thị phi, phải rất thận trọng khi xây nhà mà hướng nhà đang có Thái tuế chiếu sát, có thể gặp rủi ro tai nạn nếu không biết cách hóa giải Thái tuế. Chuông gió có nhiều hình thức và chất liệu, bằng gỗ tre nứa, bằng kim loại, bằng thủy tinh hay gốm sứ, vỏ ốc.v.v.nhưng phải tạo được âm thanh khi bị tác động. Nên lưu ý rằng chuông gió phải có hình thức đơn giản nhưng đẹp, đầy tính mỹ thuật, có thể tạo ra âm thanh càng ngân càng tốt, không nên có hình thức sắc nhọn, quái dị hay kèm theo những hình ảnh ma quái. Kết lại: Sử dụng chuông gió (phong linh) đòi hỏi cần phải có kiến thức cơ bản về phong thủy và trong trường hợp phong thủy nhà có vài điểm bất cập như Thái tuế chiếu sát… nếu chỉ đơn giản do ý thích mà sử dụng phong linh vào trang trí nhà cửa, thì đôi khi, vô hình trung cũng mang đến những bất an bất ngờ ngoài ý muốn.
-
TƯ LIỆU THAM KHẢO TÌM HIỂU: Phong Thuỷ, Địa Linh, Nhân Kiệt Nguyên khí từ Trời xuống trên rặng núi Hymalaya theo hình xoắn lốc, xem như một anten. Dẫy núi này vươn cao ở hai đầu giữa là Bình nguyên Tây Tạng. Về phía Ấn Độ là đỉnh Kailas, về phí Trung Quốc là đỉnh Côn Luân. Thiên nguyên khí sau khi xuống đỉnh Kailas, sẽ thấm vào một hố tròng gọi là hố tròn Manasovara , nước hồ là một trường hấp thụ nguyên khí đó. Nguyên khí này được 4 dòng sông Bramaputas, Indus, Kamakli ,Stulej mang theo và tạo nên nền văn minh Ấn Độ. Còn Thiên nguyên khí xuất phát từ đỉnh Côn Luân sẽ thấm vào một hồ hình bán nguyệt tên là Raskatal và được hai dòng sông Hoàng Hà và Dương Tử mang đi để tạo nên nền văn minh Trung Hoa. Cuối cùng dòng sông thứ năm xuất phát từ hồ Manasovara là Cửu Long Giang đi băng qua Vân Nam, Lào, Campuchia và chảy về Việt Nam suốt từ Bắc chí Nam dọc theo dãy Trường Sơn ở đó nó lại mang thêm nguyên khí của dẫy núi này và tạo nên nền văn minh Việt. Hiện nay, các nhà khoa học đang có nhiều quan điểm khác nhau về thuyết phong thuỷ. Thông tin để tư duy xin trích lược một số nội dung về đề tài này trong tác phẩm "Tích hợp đa văn hoá Đông Tây cho chiến lược giáo dục tương lai" của giáo sư Nguyễn Hoàng Phương (Nxb Giáo dục, 1995, tái bản 1996). Chúng ta có thể tiếp cận khái niệm sinh khí như sau: Theo Nội Kinh, Sinh khí đó tồn tại trong cơ thể con người, gọi là khí Tiên thiên hay Nguyên khí, hay Long khí, mà biểu hiện quan trọng nhất trong Đông y học là mệnh Môn Hoả: “Mệnh Môn Hoả điều khiển mọi tiềm năng năng lượng và nhiệt lượng cần thiết cho cơ thể con người. Không có Long khí đó thì kinh tam tiêu - sứ giả của Mệnh Môn hoả - cũng chẳng có lý do để tồn tại, và các nhà Đông y học sẽ “dẹp” cái thứ kinh Tam tiêu mê tín đó đi, khi đó thì toàn bộ Đông y học sẽ sụp đổ. Thành thử nếu Đông y học vẫn tồn tại, thì quả thực có tồn tại loại sinh khí đó trong nhân thể. Nếu sinh khí đó tồn tại trong nhân thể thì không thể có thái độ phủ nhận sự tồn tại của nó trong đất đai một cách vũ đoán. Nếu địa chất học hiện đại, bằng những máy móc thích hợp, hoạt động trong những tần số rất rất cao, chứng minh được cái thứ Long khí “mê tín, dị đoan” đó là quả thực không tồn tại trong đất đai, thì thuật Phong thuỷ cần phải nhanh chóng loại trừ ra ngoài khoa học và cuộc sống chúng ta. Và mọi người đều yên tâm về cơn ác mộng Phong Thuỷ đó. Nhưng những chứng minh này chưa hề có. Lĩnh vực Sinh khí là một trong những lĩnh vực cực kỳ quan trọng trong khoa học: Lĩnh vực năng lượng. Khoa học hành tinh chúng ta đã đi từ năng lượng cơ học sang năng lượng hấp dẫn tiến đến năng lượng nhiệt, năng lượng điện tử hạt nhân, năng lượng các hạt cơ bản, năng lượng vật chất… Nhưng con đường con người săn đuổi năng lượng đó phải chăng đã kết thúc? Chưa ai chứng minh được điều này! Có tồn tại Sinh khí (tức là Long khí hay Nguyên khí) trong đất đai và các tác động quyết định của nó lên hài cốt và lên phần vô hình của người, trên cơ sở nguyên lý Thiên Địa Nhân hợp nhất, tương tự như tác động quyết định của Mệnh Môn Hoà trong nhân thể. II. ĐỊA LINH Truyền thống cha ông chúng ta đã dạy: Địa linh sinh Nhân kiệt. Và xin nhắc lại đoạn sau, đã trình bày ở phần Đại cương: HIỀN TÀI LÀ NGUYÊN KHÍ CỦA ĐẤT NƯỚC NGUYÊN KHÍ VỮNG THÌ NƯỚC MẠNH VÀ THỊNH NGUYÊN KHÍ YẾU THÌ NƯỚC YẾU VÀ SUY CHO NÊN CÁC THÁNH ĐẾ, MINH VƯỢNG KHÔNG AI KHÔNG CHĂM LO VIỆC XÂY DỰNG NHÂN TÀI, BỒI ĐẮP NGUYÊN KHÍ Hiền tài với Nhân kiệt là đồng nghĩa, còn Nguyên khí chính là bản thể của Địa linh. Nước chúng ta có nhiều Địa linh lớn như Chùa Hương, Tản Viên Sơn, Kiếp Bạc, Ngũ Hành Sơn, Tam Đảo Sơn, Yên Tử Sơn, Hồ Tây, Hồ Hoàn Kiếm, Chùa Dâu, dãy Ngọc Sơn… Địa linh có liên quan đến Sơn, Thuỷ: SƠN THÌ HÙNG VĨ, THUỶ LÀ NƠI CÓ NHIỀU CON SÔNG TỤ LẠI. Núi càng hùng vĩ thì khả năng bắt Nguyên khí từ Trời càng lớn (như Luân xa Bách Hội bắt Nguyên khí từ trời xuống). Còn nơi nào có nhiều sông tụ lại là nơi được tụ khí nhiều nhất, vì nước kéo theo Nguyên khí hay Long khí. Ví dụ - Nơi đền vua Hùng ở Việt Trì chính là nơi hội tụ ba con sông lớn là sông Đà, sông Lô, sông Thao. - Cố Đô Huế là nơi hội tụ các con sông Tả Trạch, Hữu Trạch và sông Hương Giang. - Còn nơi hội tụ các sông Thu Bồn, Cổ Cò, sông Trường Giang chính là nơi cha ông đã dựng lên phố cổ Hội An. - Địa Linh Kiếp Bạc, nơi dựng đền thờ Đức Thánh Trần, là một Địa Linh hùng vĩ: Sau lưng có núi như ngai vua, trước mắt là con sông Thuỷ, bên trái có Thanh Long, là một dãy núi mang tên Nam Tào, bên phải là dãy Bạch Hổ, tức là dãy núi Bắc Đẩu. Một số thành phố cũng dựng lên dựa vào Địa Linh, theo công thức Thiên - Địa – Nhân: Sau có Thánh Địa (Sơn Thiên), ở giữa là thành phố (Nhân) và phía trước có Minh Đường ( Thuỷ - Địa). - Thăng Long (Hà Nội) đằng sau dựa vào Đền Hùng, còn đừng trước là Bến Cảng. - Nay dựa vào Núi Ba (Tản Viên Sơn ) vì nơi có ba con song tụ khí - Quảng Ninh đằng sau dựa vào dãy Yên Tử, còn đằng trước là Cảng Cửa Ông. - Các thành phố An Giang đằng sau dựa vào dãy Thất sơn, còn đằng trước là Cảng Ốc Eo. - Việt Nam đằng sau dựa vào dãy Trường Sơn, đằng trước là Biển Đông. Đó là Địa Linh thuộc quy mô lớn. III. CON NGƯỜI VÀ MỒ MẢ Với quy mô nhỏ thì cổ nhân lại nói: “Núi sông có linh thiêng mà không có chủ, còn hài cốt có chủ lại không có linh thiêng. Khí thiêng của núi sông tụ lại, chung đúc khí tinh anh lại một chỗ, làm cho hài cốt ấm áp, trong sạch. Từ đó truyền lại cho con cháu, thấm nhuần vào con cháu, và phát sinh được người tinh anh…” Chúng ta nhận xét có một cấu trúc năng lượng chung, thống nhất về {Thành phố, mồ mả, nhân thể}, theo công thức: Một {Thái Cực} sinh Hai {năng lượng Thiên, Địa}, Hai sinh Ba {năng lượng cộng đồng ở thành phố, hài cốt, nhân thể}, Ba sinh vạn vật của lão Tử… (xem hình sau). Tất nhiên, đây chỉ là hệ quả sinh học của Nguyên lý Phi bài trung của triết cổ Đông phuơng. SƠ ĐỒ CẤU TRÚC NĂNG LƯỢNG THIÊN - ĐỊA – NHÂN KHÁI QUÁT Có thể những vấn đề này không chỉ liên quan đến những cấu trúc vô hình của con Người và Trời, Đất, mà còn có thể đóng khung ngay trong cả một dân tộc hay cả một gia tộc, mà trong văn học thường gọi là Hồn Thiêng đất nước, Hồn Thiêng núi sông, Hồn Thiêng gia tộc… Nhưng đó không chỉ là những biểu tượng văn học, chỉ có ý nghĩa văn học. Vì làm sao chúng ta hiểu được tại sao trong mấy nghìn năm nay, những thế lực bành trướng phương Bắc và hiện này là từ nhiều phương khác nhau đều cố tình sử dụng ngầm nhiều loại vật chất xác định nào đó để “yểm”, tức là triệt tiêu, băm nát hay hạn chế ảnh hưởng của các Địa Linh của chúng ta? Và hơn nữa, họ lại đang cố tình muốn đánh lạc hướng cả thế giới bằng vài dòng sách báo “khoa học” bề ngoài của họ? Như Cao Biền ở thế kỷ thứ 9 đã ba lần dùng hàng tấn sắt và đồng để phá vỡ Địa Linh Tản Viên Sơn (Núi Ba Vì), nói chính xác hơn Thiên Linh Tản Viên Sơn. Nhưng cả ba lần mưu mô của Cao Biền đều bị thất bại: các kim loại đều bị sét đánh tung ra? Đó chỉ là những hiện tượng sấm sét, hoàn toàn vật lý, thuần tuý vật lý chăng? Hay Cao Biền và vua Tàu thời bấy giờ mê tín chăng? Còn bây giờ thì họ đã quy thuận “khoa học và hết mê tín” rồi và “thiện chí uốn nắn cả thế giới theo con đường khoa học”? Còn đối với mỗi người, chúng ta sẽ chôn thân nhân đã mất của chúng ta như thế nào? - Chôn hài cốt vào các nơi không Long, không Huyệt, Thuỷ tán, Sa phi? - Chôn không đúng phương hướng cho Thuỷ hung vào, Khí xung vào hài cốt? Để rồi con cháu hứng chịu bao nhiêu bất hạnh theo luật Phong Thuỷ? Sau đây là một minh hoạ về Âm trạch, nằm ngoài trò bịp bợm của cá “Thầy Phong Thuỷ” TOẠ KHÔN, HƯỚNG CẤN THÌ PHÁT VỀ VĂN… Gần đây có giúp một họ trong một làng quê sửa chữa, khôi phục một cuốn tộc phả có giá trị. Cuốn tộc phả đó phản ánh thăng trầm của một dòng họ trải hơn năm trăm năm, cho đến trước Cách mạng Tháng Tám, bản chép tay chữ Việt nằm dưới đáy ba lô của một vị cán bộ, một người con trong học giữ được qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Được ông và vị đại diện của dòng họ cho phép, tôi xin kể câu chuyện sau đây. Đời thứ nhất của dòng họ bắt nguồn từ một đôi vợ chồng thuần phác, không biết từ đâu đến lập nghiệp ở một làng quê ven đô Thăng Long (tức Hà Nội bây giờ) lấy nghề nông làm nghề sinh nhai. Ngoài ra, thỉnh thoảng cụ bà, một người con gái có nghề buôn thuốc bắc, còn lên Thăng Long cất hàng mang về cho các thầy lang trong vùng. Mỗi bận đi về như thế mất hai ngày. Một hôm, hai cụ đi cất hàng ở một hiệu Khách (chủ hiệu nguời Tàu) mang về nhà, khi soạn lại thấy trong lọ hoả dược (diêm sinh) có đôi hoa tai vàng chạm trổ óng ánh, mỗi góc cạnh một vẻ, càng nhìn càng ưa, đẹp ngơ ngẩn cả người. Các cụ bàn tính: Của quý này tự dưng vào tay ta, ta cất dấu đi thì chả ai biết đấy là đâu. Nhưng nó không phải của ta. Đã không phải của ta mà ta cứ dùng thì nó là đồ phi nghĩa. Vợ chồng ta tuy một chữ bẻ đôi không biết nhưng thi thoảng được hầu chuyện các thầy lang, được hay trên đời có hai hạng quân tử với lại tiểu nhân. Ta muốn làm bậc quân tử sao lại dùng đồ phi nghĩa? Thôi thôi cứ mang trả là hơn. Nghĩ vậy, hai cụ bèn cứ cất công ra Thăng Long trả đôi hoa tai vàng cho chủ hiệu. Cả nhà ông chủ hiệu người Tàu đều giật mình kinh ngạc, vì cứ nghĩ rằng báu vật đã không cánh mà bay mất. Họ hết lời cảm tạ, mang bao nhiêu là của ngon vật lạ ra biếu hai cụ, nhưng hai cụ nhất định không chịu nhận, nói rằng còn để phúc cho con cháu về sau. Người chủ hiệu không biết làm thế nào, chỉ còn dặn với khi hai cụ ra về: Thôi thế chúng tôi đội ơn hai bác, để khi nào có thầy địa lý hay bên nhà sang, chúng tôi sẽ nói tìm cho các cụ nhà ta một ngôi đất phát phúc. Hai cụ miễn cưỡng vâng. chuyện ấy lâu dần quên đi. Mãi cho đến đời cụ tổ thứ ba, lúc bấy giờ vào triều vua Lê Chân Tôn, một hôm hai mẹ con vừa đi đồng về, đang băm bèo thái rau. Bỗng thấy các viên chức dịch dẫn quân lính vào nhà mời cả ba mẹ con ra ngoài cánh đồng có việc hệ trọng. Cụ bà và hai con đều giật mình, nửa mừng nửa sợ. Mừng vì thấy được chức dịch và quân lính lễ phép chào mời, sợ vì không hiểu có việc gì, đành phải theo đi. Ra khỏi cổng làng thì thấy có cờ xí rợp một quãng đồng, quân Tàu, quân ta đứng xúm xít dưới gốc gạo Mã Nàng, tiếng chiêng trống như ngày hội. Các quan chức khăn đóng áo dài chững chạc. Ngồi giữa chiếu là một viên quan Tàu mũ, áo, lọng, biển sáng trưng. Ba mẹ con sụp lạy xong, người thông ngôn mới dẫn dụ một hồi cho biết đầu đuôi câu chuyện. Số là ba đời trước có chuyện cụ tổ đem trả lại đôi hoa tai vàng. Đó là đôi hoa tai của chính cung Hoàng hậu bên Tàu. Cô em gái người chủ hiệu thuốc ở Thăng Long mới được tuyển vào làm đệ nhị cung phi có mượn của Hoàng hậu đôi hoa tai ấy, giao cho ông anh kén loại vàng mười ở nước Nam, theo mẫu kéo hai đôi nữa là đồ tiến. Chủ hiệu vàng chưa kịp tìm thợ khởi công thì đôi hoa tai đã biến mất. Thì ra cậu con trai quý tử có lần lén lấy chơi, tiện tay bỏ vào lọ hoả dược rồi quên béng mất. Cả hiệu đang lo cuống lo cuồng về chuyện tày trời thì được người khách quê mang lên trả báu vật. Ơn ấy, người nhà quê quên đi nhưng ông chủ hiệu thì nhớ. Trước khi qua đời, ông chủ hiệu già có di chúc lại cho con cháu thế nào cũng phải thực hiện lời hứa, đón thày địa lý hay về làng để trả ơn. Nay người cháu của ông chủ hiệu làm quan bên Bắc triều, tuân theo lời di chúc, nhân sang dự lễ phong vương nước Nam, có mang theo thày địa lý chính tông đến cánh đồng đây đặt cho con cháu người một ngôi đất phát phúc. Ông thông ngôn nói xong, quan Tàu bèn gọi hai người con cụ đến gần để hỏi ý kiến. Thầy địa lý nói: Cũng ngôi đất này xoay hướng nọ thì phát phú gia địch quốc, nhưng chỉ được một đời, còn về đường văn học một chữ cũng không. Xoay về hướng kia, toạ Khôn hướng Cấn (*) thì phát về đường văn, đời đời chỉ học đỗ tới mức cử nhân, tú tài, còn hơn kém cũng chỉ chút ít, nhưng văn mạch thì lưu truyền mãi mãi không bao giờ hết. Vậy nhà ta muốn chọn hướng nào? Hai người con xin phép lui ra để bàn với mẹ. Ba mẹ con bàn tính một hồi, người con cả mạnh bạo thưa với quan Tàu: “Đất phát cư phú mà văn lại khảo bảy ngày không biết một chữ thì của dẫu nhiều chẳng khác gì người giữ của, huống chi lại không bền. Đất phát văn dẫu rằng chỉ đỗ đạt nho nhỏ nhưng được lâu dài, hưởng phúc không bao giờ hết. Ăn dè được lâu, cày sâu tốt lúa. Chúng tôi xin thuận về đường phát văn.” Quan sứ Tàu và hai vị địa sư tấm tắc khen ba mẹ con biết nghĩ xa. Bèn truyền lệnh đào chính giữa một gò đất, sâu hơn hai dải thừng, rồi phân kim táng mộ cụ tổ đời thứ ba chính giữa mắt con phượng, kiểu Phượng hoàng hàm thư. Đoạn quân trẩy về kinh. Ba mẹ con về nhà tâm niệm con đường khoa cử bèn rước thầy về rèn cặp ngày đêm. Quả nhiên người con trưởng đã khai khẩn rừng Nho cho cả gia tộc. Năm 17 tuổi cụ thi đỗ tú tài. Sau này cả họ tôn vinh cụ là Khai khoa triệu tổ, vị tổ mở đầu dòng khoa bảng cho cả học. Các tổ đời thứ tư, thứ năm đều có người đỗ tú tái, cử nhân. Rồi đến đời thứ sáu, có một nhánh phát triển rực rỡ rồi đột ngột rơi xuống vực thẳm. Một cụ tổ thông minh, học giỏi đậu đến Tiến sĩ được bổ làm Đốc đồng một tỉnh miền núi, làm vẻ vang cho cả họ. Do những cuộc xung đột nội bộ giữa các quan cai trị ở địa phương - cuộc xung đột này phản ánh cuộc xung đột giữa vua Lê và chúa trịnh – đã dẫn tới những âm mưu hãm hại lẫn nhau. Cụ tổ có học vị Tiến sĩ duy nhất của gia tộc đã cầm gươm tự sát để tỏ lòng trung với vua. Và tất cả những người trong gia đình, các nhân thân đi theo đã tự vẫn theo, cả thảy hơn 20 người. Trên bản đồ cây gia tộc, nhánh ấy bị cụt. Vị đại diện dòng họ buồn rầu kể tiếp: Sau vụ bi thảm đó, họ chúng tôi rút ra một kinh nghiệm lịch sử và truyền lại cho đến hôm nay. Là khí thiêng của địa lý đã định ra như thế, thì người trong gia tộc phải biết cái hành lang số phận của mình. Có thể do mật mã di truyền, ngày nay ta hiểu như thế, đến một đời nào đó đột xuất có người thông minh kiệt xuất, đường công danh phú quý vượt trội hẳn lên. Nhưng xin hãy nhớ mộ tổ táng ở đâu và biết biết dừng lại khi chưa là quá muộn. Đây, ông chỉ vào cây gia tộc, hiện nay họ chúng tôi có hai nhánh khá là sum xuê. Một nhánh biết kinh doanh, giàu lên trông thấy, con cháu đều ăn nên làm ra, nhưng không thể ở quê nhà, phải ly hương ít nhất ba đời nay, hiện có người lập nghiệp ở Thành phố Hồ Chí Minh, có người trôi giạt sang Mĩ… Một nhánh khác vươn lên toả bóng, sau này thành một cụm lớn, trung tâm của gia tộc, trong đó có một chú phát triển về đường quan chức cách mạng cũng khá là nhanh, tới hàm thứ trưởng. Nhưng chú ta cũng biết phận mình, vừa đúng tuổi hưu là làm đơn xin rút liền, may được Trung Ương đồng ý. Chú ta bảo: Trong nội bộ cơ quan em, đã xuất hiện những triệu chứng bất hoà, tính em lại thẳng, em mà ở lại chỉ một năm nữa thôi là có thể nguy to. Sau một ngày xuân về viếng mộ tổ, em quyết định dừng luôn, tự mình đình chỉ luôn, không ham hố nữa, để phúc cho con cháu. Như vậy đấy, con người phải biết điều với số phận của mình, trong họ chúng tôi không còn ai có học vị cao nữa. Học đều đều, Cử nhân, Tú tài, là cao nhất. Nhà nhà đều vừa đủ để mát mặt với hàng xóm, chúng tôi không có gì để ân hận. Anh thấy vấn đề địa linh có ghê không? IV. TẦM QUAN TRỌNG CỦA SINH KHÍ TRONG ĐẤT ĐAI CÓ GÌ KHÁC KHI NHÂN LOẠI SỐNG TRÊN MỘT QUẢ ĐẤT KHÔNG KHÔ CẰN? Trước khi chuyển sang phần trình bày một số vấn đề cơ sở của thuyết Phong Thuỷ theo giả thuyết có tồn tại sinh khí trong đất đai, tác giả muốn nhấn mạnh rằng vấn đề này là cực kỳ quan trọng về mặt khoa học. Tại sao? Tại vì sự phát hiện được Sinh khí trong đất đai là tương tự như sự phát hiện của hệ thống Kinh, Mạch, Huyệt trong Đông y học và từ đó là sự phát hiện Trường sinh học nhân thể. Chúng ta biết rằng sự phát hiện này dẫn đến một sự hiểu biết sâu sắc hơn về mối quan hệ giữa con Người với Trời Đất, nghĩa là dẫn tới một Vũ trụ quan và Nhân sinh quan có tầm sâu nhất.Tương tự như thế, nếu đất đai cũng có sinh khí, thì cách nhìn quả đất chúng ta sẽ thay đổi căn bản. Chúng ta không còn sống trên một cái nôi khô cằn mà lại trên một cái nôi có sức sống sinh học của nó, có sức mạng hỗ trợ cho loài người như một người mẹ thực sự, cung cấp cho con cháu mình không những loại năng lượng vật lý thông thường mà cả nhiều loại năng lượng sinh học quý báu, khó lường về hiệu quả. Nếu có một ai thành công trong việc đặt mồ mả đúng huyệt theo đúng thuật Phong Thuỷ, thì tất nhiên đây là một điều đáng mừng. Thành công này mang thêm một điểm trong kết quả thống kê dương tính trên thực địa về thuật Phong Thuỷ. Nhưng chúng tôi chưa xem đó là điều quan trọng nhất. Vì sao? Và nếu được thế thì sẽ có những ảnh hưởng rất cơ bản đối với sự sống còn và số phận của nhân loại chúng ta trên cái nôi Tâm – Sinh – Lý này. Nói riêng, một dân tộc đã được Thiên nhiên ưu đãi về Địa Linh và Sinh khí sẽ phải suy nghĩ như thế nào về trách nhiệm bảo vệ và khai thác sức mạnh Tâm – Sinh – Lý đó, để có chương trình tạo nên những anh hùng hào kiệt, những hiền tài, nhân kiệt, những vĩ nhân cho các thế hệ mai sau? Ngày trước, các Thánh đế, Minh Vương quan niệm không có một trách nhiệm nào lớn hơn đối với non sông, đất nước. V. ÂM MƯU DIỆT CHỦNG CỦA PHONG KIẾN TRUNG HOA ĐỐI VỚI VIỆT NAM - CAO BIỀN TẤU THƯ ĐẠI LÝ KIỂU TỰ Sau đây là một tư liệu lịch sử, trích từ cuốn Địa Lý Tả Ao của Cao Trung, Nhà xuất bản Hồng Dân, Sài Gòn, mang tên là Cao Biền Tấu Thư Địa Lý Kiểu Tự. “… Lần này, chúng tôi khởi giới thiệu tài liệu Cao Biền Tấu Thư Địa Lý Kiểu Tự là tập tài liệu nói về các kiểu đất bên Việt Nam mà Cao Biền đã trình vua Đường Trung Tôn. Những tàu liệu này có vài ngàn kiểu, nhưng Cao Biền chỉ mới yểm được một số ít đất Đế Vương Quý Địa. Còn cả ngàn đất Công, Hầu, Khanh, Tướng vẫn nguyên vẹn. Các cụ xưa giữ sách này làm Gia bảo và theo nó để tìm cho ra đất kết dành cho họ hàng của mình dùng khi cần đến”. XUẤT XỨ CỦA SÁCH CAO BIỀN TẤU THƯ ĐỊA LÝ KIỂU TỰ Xưa kia, về đời vua Đường Trung Tôn bên Tàu có Cao Biền được phong làm An Nam Tiết Độ Sứ, sang đô hộ nước ta. Cao Biền là một người rất giỏi địa lý, được vua Đường uỷ nhiệm nghiên cứu các kiểu đất Việt Nam, cốt để yểm phá các đất kết lớn nào khả dĩ gây ảnh hưởng cho sự Tàu hoá dân tộc Việt Nam. Sau khi nhậm chức và khảo sát địa lý ở Việt Nam, Cao Biền thấy nước ta có rất nhiều đất phát rất lớn, có thể tạo nên những bậc hiền tài, mà sự nghiệp có thể cản trở âm mưu Nam tiến của Tàu. Cao Biền bèn biên soạn Cao Biền Tấu Thư Địa Lý Kiểu Tự này trình với vua Đường, đồng thời cho phép yểm phá một số long mạch có đất kết lớn. Theo truyền thuyết, trước khi yểm bùa một kiểu đất nào, Cao Biền thường phụ đồng để các vị thần cai quản khu vực đó nhập vào đồng nam, đồng nữ. Sau đó Cao Biền tìm cách trừ khử các thần linh đó đi. Cuối cùng mới yểm đất. Cũng theo truyền thuyết, Cao Biền cũng yểm được một số ít đất lớn, song Cao Biền cũng bị thất bại trước nhiều vị thần linh của Việt Nam, trong đó đáng kể nhất là Tản Viên Sơn Thần và Tô Lịch Giang Thần (Thần núi Tản Viên thuộc huyện Bất Bạt tỉnh Sơn Tây, còn sông Tô Lịch chảy qua hà Nội, đền Bạch Mã ở gần Hàng Lược Hà Nội là đền thờ thần Tô Lịch) Trải qua Đường, Tống đến đời Minh có Trương Phụ, Mộc Thạch và Hoàng Phúc là ba danh tướng được vua nhà Minh cho kéo quân sang Việt Nam, bề ngoài với danh nghĩa phò Hậu Trần, diệt Hồ, nhưng bên trong lại là một kế hoạch diệt chủng người Việt Nam, âm mưu đổi nước ta thành một quận, huyện của Tàu. Kế hoạch này tỉ mỉ và thâm độc hơn những kế hoạch tương tự mà người Hán đã làm từ trước đến nay. Trong số ba danh tướng trên thì Hoàng Phúc là người rất giỏi địa lý, có mang theo tập Cao Biền Địa Lý Kiểu Tự sang định duyệt lại và định yểm nốt những đất lớn nào còn sót, để cho ở Việt nam không thể xuất hiện những thế hệ thịnh trị, sản ra được những nhân kiệt tài xuất chúng như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo… là những hiền tài nhân kiệt đã gây khó khăn cho Tàu, như trong các thời đại Lý, Trần vừa qua. May thay Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã khôn khéo và kiên trì lãnh đạo cuộc kháng Minh thành công, sau mười năm gian khổ. Khi bắt sống được Hoàng Phúc, ta thu được toàn bộ tài liệu của kế hoạch trên, trong đó có tập Cao Biền Địa Lý Kiểu Tự. Tập sách này trở nên một tài liệu vô cùng quý giá cho ta trên nhiều phương diện: Sử liệu, Chính trị và Địa Lý. VI. MỘT SỐ HUYỆT TRONG SÁCH CỦA CAO BIỀN TỈNH HUYỆT CHÍNH HUYỆT BÀNG Hà Đông 081 264 Sơn Tây (Đại Huyệt ) 036 085 Vĩnh Phú 065 155 Hải Hưng, Kiến An 183 483 Gia Lâm, Hà Bắc, Đáp Cầu, Lạng Sơn 134 223 Hà Nam, Thái Bình, Ninh Bình 132 325 Tổng cộng 632 1517 SỐ HUYỆT, ĐIẠ LINH Ở HÀ ĐÔNG THEO CAO BIỀN TỈNH HUYỆT CHÍNH HUYỆT BÀNG Thanh Oai 09 026 Chương Mĩ và Mĩ Đức 11 031 Sơn Minh (Ứng Hoà) 09 026 Hoài An 06 019 Thanh Trì 11 041 Thường Tín 11 041 Phú Xuyên 07 020 Từ Liêm 11 034 Đan Phượng 05 013 Tổng cộng 81 246 HÀ ĐÔNG 1. Đệ Nhất Thanh Oai Phong: Nhất Chính, nhị Bàng Ấp Trung Thanh Uy, hình thế tối kỳ, thủy lưu tứ vương, án khởi tam quy, mạch tòng hữu kết, khí định tả ý, thần đồng tiền lập, quỷ sử hậu tỳ, khôi khoa tảo chiếm, phúc lộc vĩnh tuy, tu phòng mạch tận, thừa tự vô nhi. 2. Đệ nhị Cao Xá Phong: Nhất Chính, nhị Bàng Thanh Oai Cao Xá, châu vi quý long, thuỷ khê tuỳ mạch, bình dương lai tung, hoa khai hữu hổ, tinh diệu tả long, sơn thuỷ trù mật, khí thế sung giong, hà tu hợp hải, ngưu giác loan cung, chủ khách hoàn mỹ, tả hữu hộ tòng, hoa tâm khả hạ, thế xuất anh hùng, văn khôi khoa giáp, võ tổng binh nhung, phú quý thọ khảo, kiêm hữu kì công 3. Đệ tam Võ Lăng Phong: Nhất Chính, nhị Bàng Thanh Oai Võ Lăng, bình thế khả sung, tả sơn thuận giang, hữu thuỷ nghịch thăng, đường tám tích ngọc, án diện phó tầng, cân thuỷ chức kết, viễn sơn từng lăng, thổ tinh lạc sử, cát huyệt thi bằng, nhược năng hiện nhận, khoa đệ diệp đăng. 4. Đệ tứ Cổ Hoạch Phong: Nhất Chính, nhị Bàng Thanh Oai Cổ Hoạch, đoản hình tràng nhạo, thế giáng hữu cung, mạch sinh tả giác, bút giả sâm van, đốn sang sáp ngọc, hữu thuỷ tám hoành, tả sơn hồi thác, phân minh kỷ cổ, la liệt thành quách, văn chủng khôi khoa, vô chuyên tướng trách, nội thể tuy giai, ngoại hình cân bách, hoạ khởi nhân chiêu, nghiệt do kỳ tác. 5. Đệ ngũ Đại Định Phong: Nhất Chính, lục Bàng Thanh Oai Đại Định, dị tích kỳ tung, long hoả hổ hoả, chủ tòng khách tòng, Tiểu giang dẫn mạch, bình địa sinh phong, sơn thuận sơn nghịch, thuỷ chủ thuỷ cung, quần sơn điệp điệp, chủng thuỷ trùng trùng, trâm hốt khuê thời, tú bút giả phong, thừa dư hủ tức, huyệt tại viên trung, văn chiêm khoa giáp, võ tổng bình nhung, bằng hữu huyệt quái, âm mạch khí chung, nữ phát phi hậu, phú quý xương long. 6. Đệ lục Kim Bài Phong: Nhất Chính, tứ Bàng Thanh Oai Kim Bài, lưỡng phượng phi lai, song đồng hoàn trĩ, lục tử nhập hoai, nội hình tương ứng, nội thế tương lai, thiềm tâm khí kết, long não tinh ta, chủ minh khách mỹ, sơn tinh thuỷ giai, huyệt cư trung cấp, táng pháp vô sai, vô xuất khanh tướng, văn trạc khoa đài. 7. Đệ thất Bối Khê Phong : Nhất Chính, nhị Bàng Bối Khê chi địa hình như thảo xà, sơn thuỷ chức kết, long hổ bài nha, văn bút đảo địa, bình dương khai oa, viên phụ giáng thế, giang thuỷ giao la, hà tu giới thuỷ, thiên đực loan xa, thế xuất khanh tướng, đại đại vinh hoa. 8. Đệ nhất Sinh Quả Phong: tứ Bàng hanh Oai Sinh Quả cát địa diệc khả, hổ sơn long hồi, long sơn hổ hoá, đại phụ khí tàng, tiểu khê quan toà, bác hoàn vi ký, tiền tài lương bạ, tảo trạc khôi hoa, viên đằng thanh giá, hiểm thuỷ phân lưu, dụng chung hữu xả. 9. Đệ cửu Bảo Đà Phong: Nhất Chính, tứ Bàng Bảo Đà Thanh Uy, thuỷ thể my thi, đại giang loan quả, tiêu thuỷ chứng quy, lục long chiều hội, lưỡng phượng giao phi, văn tinh tiền án, viên phu hậu thuỷ, huyệt tại chung cấp, thừa dư khả y, công hầu thế xuất, hào kiệt tế phi, danh cao hổ tướng, uy chấn hoa di, nhược táng long dịch, nữ phát vương phi, nam chủng khoa giáp, phát đạt vô nghi. CHƯƠNG ĐỨC (CHƯƠNG MĨ VÀ MĨ ĐỨC) 1. Đệ nhất Vinh Lữ Phong: Nhất Chính, ngũ Bàng Chương Đức Vinh Lữ, ký mạch cân tụ, tụ thế cao sơn, chung thuỷ đế trự, huynh đệ tương đăng, quần thần tương giữ, huyệt thủ tức dư, danh khôi khoa cử, thừa thưởng thiên nhiên, vô yêu trát sự. 2. Đệ nhị Cống Khê Phong (?) Cống Khê Chương Đức, hình thế khả kỳ, tứ sơn giai củng, chúng thuỷ hàm quy, long trùng hổ điệp, chủ nghênh khách tuỳ, xa sinh trầm hốt, thuỷ họi nghiên trì, cao sơn thủ tức, phú quý vô nghi, nam phát võ tướng, nữ phát cung phi, nam nữ giai quý, phú lộc vĩnh tuy. 3. Đệ tam Thanh Áng Phong (?) Chương Đức Thanh Áng (nay thuộc Ứng Hoà), canh lưỡng long lai, đại hà vệ khí, ngọc nữ hoài thai, long hổ chiều củng, hình thế phô bài, la liệt thành quách, hiệu khiết lâu đài, chủ minh khách mĩ, thuỷ tĩnh sơn giai, đường thiên thuỷ để, áp cao sơn nhai, thuỷ long dư nhũ, cát huyệt khả tài, vô sinh tướng suý, văn chiêm khoa đài, đại địa cực quý, đoán dịch vô sai. 4. Đệ tứ Chi Nê Phong: Nhất Chính, nhị Bàng Chương Đức Chi Nê, sơn hình võ trụ, long hồi hổ hoàn, mạch tàng khí trụ, hạ hợp thượng phận, tả giao hữu cố, án đới hổ yêu, phong sinh long thủ, khí kết hoa tâm, tuyệt tòng long nhũ, thế xuất công khanh, sỹ lăng tể phụ. 5. Đệ ngũ Lai Tảo Phong (Nhất Chính, tam Bàng) Chương Đức Lai Tảo, địa hình diệc hảo, khí như tuyến hôi, mạch như sà thảo, bình dương sơn loan, đại hà thuỷ đáo, chủ khách chuy tuỳ, long hổ hoàn bão, huyệt tại hoạ tâm, mạc tài long não, thể xuất công khanh, phú quý vĩnh cảo. 6. Đệ lục Tiểu Ứng Phong: Nhất Chính, ngũ Bàng Tiểu Ứng Chương Đức, phượng tường lưỡng dực, thuỷ tụ trùng trùng, sơn sai sực sực, vạn thuỷ thiên sơn, tam hoành tứ trực, thảo vĩ khí tài, hoa tâm khả thực, văn võ phát vinh, tam công vị cực, phú quý thời ưu, đại đại phó tức. 7. Đệ thất Liễu Nội Phong: Nhất Chính, ngũ Bàng Liễu Nội chí địa, thị diệc quý long, âm dương bái tướng, dương sơn phú trung, long hoá hổ hoá, long trùng hổ trùng, chúng thuỷ lưu trữ, quần sơn la lung, huyệt tại thượng phúc, võ chí hầu phong, nữ phát hậu phi, phú quý xương long, bằng hữu cát huyệt, ấn đới thanh long, tam thai chu thước, văn sĩ tam công. 8. Đệ bát Tràng Cốc Phong: Nhất Chính, ngũ Bàng Địa danh Tràng Cốc hình như phượng hoàng, nội kỳ ngoại cổ, tiền cương hậu phong, long hổ hoàn bảo, chủ khách huy hoàng, bình nguyên thuỷ diệu, viên phụ khí tàng, thế xuất võ tướng, vị chí hầu phương. 9. Đệ Cửu Yên Ninh Phong (Nhất Chính, nhị Bàng) Chương Đức Yên Ninh, khí tụ long đỉnh, tả hoàn hữu cố, hổ ấn long tinh, sơn hợp thuỷ chi, khách tựu chủ nghinh, huyền quy ứng hậu, chu tước bái đình, huyệt tại chung cấp, công hầu phát sinh, kế thé vô tướng, kiêm vương nhân đinh. 10. Đệ thập Do Lễ Phong: Nhất Chính, nhị Bàng Chương Đức Do Lễ, chân long sở chi, đại lâm loan sơn, thâm dầm chú thuỷ, tiêu giang tế long, địa hà dưỡng khí, long hổ bài nha, quân thần giao hỷ, huyệt tại viên trung, công hầu đăng đối, phú quý kiêm ưu, khả vi toàn mĩ. 11. Đệ thập nhất Chúc Sơn Phong: Nhất Chính, nhất Bàng Chương Đức Chúc Sơn (nay thuộc Chương Mỹ), hổ long hồi hoàn, tiến hữu thuỷ chữ, hậu hữu sơn loan, đại hà dẫn mạch, hồng kỳ chấn quan, hình thế tương hợp, chủ khách tương hoàn, huyệt tại trung phúc, thế xuất cao quan, võ đại văn thiểu, danh quán chiêu ban SƠN MINH ỨNG HOÀ 1. Đệ nhất Xà Kiều Phong: Nhất Chính, tứ Bàng Sơn Minh Xà Kiểu hình như phượng vũ, giang lưu thoát tung, tinh phong nhạc nhũ, thiên thể dung tâm, địa khí sanh (?) ngũ, hổ bão loan đầu, long đoàn cung thủ, khanh tướng thời sinh, khả văn khả vũ, vị liệt thai đài, danh cao suý phủ. 2. Đệ nhị Lưu Khê Phong: Nhất Chính, tam Bàng Sơn Minh Lưu Khê, án chỉnh sơn tề, quý tàng bích động, hoa thổ kim chi, sơn thuỷ loan cung, long hổ giao thi, âm lai dương thụ, huyệt tòng tả y, thế xuất khanh tướng, phúc lộc trùng lai. 3. Đệ tam Đông Phi Phong: Nhất Chính, nhị Bàng Sơn Minh Đông Phi, long hổ giao tý, từ thuỷ nhập hoài, bát khấn vệ khí, tam cấp mạch sinh, ngũ thốn sơn trì, huyệt tại dư thừa, chủ đăng khoa sỹ, vị liệt công khanh, phú lộc phú quý. 4. Đệ tứ Tảo Khê Phong: Nhất Chính, thất Bàng Tảo Khê chân long, hình thế sung giong, long bàn hổ hoá, thuỷ tản sơn cùng, đại khê dẫn mạch, bình địa sinh phong, tam thai hoãn trĩ, chúng thuỷ triều cung, thiên chung viên toạ, thế thượng bầu công, đại đại phú quý, phúc lộc xương long. 5. Đệ ngũ Dương Khê Phong: Nhất Chính, nhất Bàng Dương Khê chí địa, hình thế khả quan, sơn chủ thuỷ tụ, hổ cứ long bàn, tiền phân tam thuỷ, hậu ứng quần sơn, tả hữu đăng đối, chủ khách tương hoan, hoa tam khả hạ, thảo vĩ khả an, thế xuất khanh tướng, phú quý bình an 6. Đệ lục Đông Dương Phong: Nhất Chính, nhất Bàng Sơn Minh Đông Dương, thế giáng bình dương, long vệ tống mạch, hổ bão chiều tương, kỳ cổ bài liệt, hình thế la chương, sơn tòng hữu đáo, bút giá long bàn, huyệt tại chung cấp, thừa khí khả tàng, thế xuất khoa giáp, vi cận quan vương. 7. Đệ thất Tử Dương Phong: Nhất Chính, tam Bàng Sơn Minh Tử Dương, thế chính hình ngang, thuỷ đàm long khẩu, sơn dục hổ giáng, thuỷ triều sơn bão, thái án châu trang, tả hữu trù mật, chủ khách huy hoàng, khí tuỳ dư tức, huyệt tại cung tràng, nhược thuỳ viên nhũ, nữ phát phi hoàng, nam nữ toàn mỹ, phú quý vinh xương, hiện nhận bất thực, khủng sinh bất tường (có giả thuyết), tất phụ tại ương 8. Đệ bát Đạo Tú Phong: Nhất Chính, tứ Bàng Sơn Minh Đạo Tú, long hoàn hổ cốt, hình thế bài nha, khí mạch ngưng chủ, hữu sơn bão triều, tả giang chiều hộ, thuỳ nội ấn phù, đường tâm khí tụ, huyệt tại tổn sơn, thời sinh tể phụ, nhược toà càn sơn, phát vượng phi phụ, thuận nghịch lưỡng thủ, nam nữ cân ưu, tuỳ ký thích an. 9. Đệ Cửu Sơn Minh Phong: Nhất Chính, tam Bàng Sơn Minh khí chung, long hổ phù cung, đại giang chiết thuỷ, bình dương lai tung, hoa khai đoá đoá, tinh hiện trùng trùng, khí tông thảo vĩ, huyệt tại viên chung, chủ phát khanh tướng, đại đại vô cùng “… Những ngôi đất kết có ngôi chỉ phát về âm phần (để mả), lại có ngôi chỉ phát về dương cơ (làm nhà). Đất phát âm phần lợi cho việc chôn xương xuống đất. Còn đất phát dương cơ thì lợi cho việc làm nhà lên trên, đất dương cơ nhỏ được dùng để làm nhà, còn nếu đất to rộng thì lợi cho việc làm doanh trại, nếu đất rộng hơn nữa thì lợi cho việc xây thị trấn, đô thị hoặc kinh đô”. HIỆN TƯỢNG ÁNH SÁNG VỀ MẢ KẾT Với các mả kết, bằng luân xa Ấn Đường, có thể quan sát một luồng áng sáng màu vàng chiếu lên mộ đó, có cường độ bằng cường độ đèn 100 Oát. Ánh sáng này có thể chiếu lên khu vực đầu hay khu vực bụng, chân… của hài cốt. Khu vực được chiếu sáng có thể lan rộng dần khi gia tộc làm thêm nhiều việc thiện và ngược lại, thu hẹp khi gia tộc gây nhiều tội ác. VI. TẦM LONG TRÓC MẠCH Nguyên khí còn gọi là Long, Như đã nói trên đây, Long là một dạng Khí Tiên thiên, có tác dụng rất cơ bản đến sự sống các sinh vật. Vấn đề là tìm nơi tụ Long. Để làm việc này cần tìm gốc của Long. Trước hết Nguyên khí hay Khí Thiên giáng từ Trời xuống các đỉnh núi cao theo hình xoắn, như đỉnh núi Hymalaya, núi Tản Viên, núi Tam Đảo… Con Người có đầu và huyệt Bác Hội để nhận (hút) khí Thiên vào trong cơ thể mình, thì Quả đất có những đỉnh núi cao cũng để nhận khí Thiên vào lòng đất đai. Nơi Long xuất phát gọi là Tổ Sơn, nơi Long kết thúc gọi là Minh Đưòng. Long phải có nước đi theo, vì nước là môi trường hấp thụ Long (ở nhiều nước, các nhà khoa học có nghiên cứu các đặc tính của nước có Trường sinh học, tức là có Long. Nước có chứa Long có sức căng mặt ngoài tăng lên). Ngoài Tổ Sơn, Long còn có thể có những xuất phát điểm khác gọi là Thiếu Sơn. Như với Nguyên khí – Long mang theo bởi dòng Cửu Long Giang thì Hymalaya là Tổ Sơn, còn dãy Trường Sơn là Thiếu Sơn. Như thế đất nước ta là một Minh Đường rộng lớn mà Nguyên khí được cung cấp bởi hai loại anten lớn là Hymalaya và dãy Tràng Sơn. Nguyên khí - bằng một cơ chế nào đó - được chuyển đến nhiều địa điểm khác nhau của đất nước ta như Núi Ba Vì và các nơi thờ Thánh Tản Viên , Hồ Hoàn Kiếm, Hồ Tây, Thất Sơn, Yên Tử Sơn… ĐIỂM HUYỆT Các hình thể huyệt kết Có bốn hình thể huyệt kết như sau: Huyệt hình Oa thì tròn, huyệt hình Kiềm thì dài, huyệt hình Nhũ thì tròn, huyệt hình Đột thì dài. Các huyệt Oa và Kiềm thì phần nhiều ở chỗ có mạch sơn cước (ở núi đồi). Các huyệt Nhũ và Đột thường ở chỗ các mạch bình dương (ở những nơi có các độ cao chỗ thấp ít khác nhau, như ở các ruộng). Các huyệt trên còn gọi là kết Oa, kết Kiềm, kết Nhũ, kết Đột. Huyệt ở chỗ quá cao thì sát, ở chỗ quá thấp thì yểu. Nơi núi cao, cần điểm huyệt ở nơi vùng thấp, để tránh gió, do ở nơi cao gió sẽ tán khí. Trái lại ở những nơi bình dương, cần điểm huyệt ở chỗ cao nhất, như tại các gò cao, tránh thuỷ phá. Nếu có sắc thổ đẹp, có cây lá xanh tươi thì việc điểm huyệt ở nơi đó càng tốt. Những nơi bằng phẳng, xung quanh cs thành cao là nơi điểm huyệt tốt. Ở những núi đá không có huyệt. Nhưng nếu ở đó có chỗ vũng Oa thì nên điểm huyệt ở đó. SƠN THUỶ PHÁP Sơn thuỷ pháp là cách xem tướng đất để biết về người có liên quan. Sơn chủ người, thuỷ chủ tiền của. Núi đầy đặn sẽ sinh người mập mạp, núi đơn bạc sẽ sinh người gày ốm. Núi tinh sinh người tốt giỏi, núi ô trọc sinh người u mê. Thuỷ tĩnh thì sinh người thanh tú, thuỷ chảy xiết thì sinh người nghèo khổ. Thuỷ dồn tụ thì sinh người giàu có. Sơn lởm chởm là nơi có ác khí. Thuỷ chảy kêu réo là nơi hung. Có sơn nhưng không có thuỷ gọi là cô sơn. Có thuỷ nhưng không có sơn gọi là cô thuỷ.
-
Các thế đất lành ĐẤT PHÁT CỰ PHÚ VII. NGUYÊN LÝ THIÊN - ĐỊA - NHÂN HỢP NHẤT Do sự tồn tại của Đại ngã trong cấu trúc và bản thể của mình con người hợp với “Trời, Đất “ thành Một . Đó là nội dung của nguyên lý Thiên Địa Nhân. Về mặt sinh học nguyên lý đó biểu hiện như sau: Năng lượng của trời đi xuyên qua luân xa 7 Bách hội, rồi chảy xuống theo con đường tủy sống. Mặt khác năng lượng của Đất đi qua luân xa 1 Hội âm, rồi chảy lên phía trên , cũng theo con đường tủy sống. Theo Phương Đông, Trời được coi là Dương còng Đất là Âm. Như thế trong con người Dương giáng Âm thăng. Chính hai quá trình Dương giáng Âm thăng này của năng lượng Trời Đất trong tủy sống của nhân thế đã tạo ra được mọi nguồn năng lượng cho sự sống của con người .Do các năng lượng này giao nhau nên người xưa nói rằng con người là vạch nối giữa đất và trời. Nền văn hóa truyền thống Việt Nam đó đã mang trong long nó một tinh hoa nào đó. Và một số câu hỏi cần đặt ra một cách rất nghiêm túc. Những chiến công hiển hách của dân tộc chúng ta từ trước đến nay phải chăng là do một sức mạnh của một tinh hoa nào đó của chính dân tộc chúng ta,. Nếu vậy, tinh hoa đó là gì và tìm ở nơi đâu.? Theo lịch sử, một trong những vấn đề có liên quan là vấn đề Địa Linh và Địa Linh sinh Nhân Kiệt. Trong Văn Miếu Quốc Tử Giám Có Đoạn “Hiền tài là nguyên khí của đất nước …….” Tất nhiên hiền tài với nhân kiệt là đồng nghĩa. Còn nguyên khí chính là bản thể của Địa Linh. Đất nước chúng ta có những Địa Linh như Núi Tản Viên, Tam Đảo , Ngũ Hành Sơn , núi Yên Tử , Hồ Tây , Hồ Hoàn Kiếm, Chùa Hương. Điều quan trọng là đề ra một cách thực nghiêm túc các nguyên tắc , phương pháp bảo vệ các Địa Linh đó và tìm hiểu nghiên cứu về các địa linh này. Địa Linh liên quan đến Núi và Sông Philippin là án của Viêt Nam theo thế đất phong thủy Chẳng hạn, nguyên khí từ Trời xuống trên rặng núi Hymalaya theo hình xoắn lốc, xem như một anten. Dẫy núi này vươn cao ở hai đầu giữa là Bình nguyên Tây Tạng. Về phía Ấn Độ là đỉnh Kailas, về phí Trung Quốc là đỉnh Côn Luân. Thiên nguyên khí sau khi xuống đỉnh Kailas, sẽ thấm vào một hố tròng gọi là hố tròn Manasovara , nước hồ là một trường hấp thụ nguyên khí đó. Nguyên khí này được 4 dòng sông Bramaputas, Indus, Kamakli ,Stulej mang theo và tạo nên nền văn minh Ấn Độ. Còn Thiên nguyên khí xuất phát từ đỉnh Côn Luân sẽ thấm vào một hồ hình bán nguyệt tên là Raskatal và được hai dòng sông Hoàng Hà và Dương Tử mang đi để tạo nên nền văn minh Trung Hoa. Cuối cùng dòng sông thứ năm xuất phát từ hồ Manasovara là Cửu Long Giang đi băng qua Vân Nam, Lào, Campuchia và chảy về Việt Nam suốt từ Bắc chí Nam dọc theo dãy Trường Sơn ở đó nó lại mang thêm nguyên khí của dẫy núi này và tạo nên nền văn minh Việt. Các địa linh lại liên quan đến một hệ thống nào đó gọi là Hàng rào tâm linh, quan hệ hữu cơ đến các hiền tài, các anh hùng dân tộc là một hệ thông tinh hoa tạo nên nền văn hóa dân tộc và che chắn cho dân tộc. Chiến lược giáo dục tương lai cho con em chúng ta sẽ liên quan đến các vấn đề phát hiện, bảo vệ và phát triển Tinh hoa trên như thế nào? Giáo sư Nguyễn Hoàng Phương TTđTD - Trích "Tích hợp đa văn hoá Đông Tây cho chiến lược giáo dục tương lai"
-
MINH ĐƯỜNG THUỶ PHÁP Chỗ nước tụ trước huyệt gọi là Minh Đường. Có thể có một hay nhiều Minh Đường. Minh Đường gần huyệt nhất gọi là Nội Đường, Minh Đường xa huyệt nhất gọi là Ngoại Đường, Minh Đường ở giữa gọi là Trung Đường. Có Minh Đường mới có huyệt kết, nếu không thì sẽ không có huyệt kết. Minh Dường ngay ngắn thì con cháu hiền tài. Minh Đường nghiêng lệch thì con cháu du đưng, nghèo khó. Minh Đường có nước tụ như nhà có chứa ngọc, còn Minh Đường có nước tiêu tan thì như nhà tán tài, điều đáng sợ nhất là Minh Đường có thể cạn nước về mùa thu. Minh Đường nằm nghiêng thì tuy là quan được nhưng trước sau cũng bị cách chức hay thoái chức. Minh Đường gần huyệt thì phát sớm. Minh đường xa huyệt thì phát chậm. Minh đưòng thụ nước bên trái thì trai trưởng phát trước, tụ bên phải thì trai thứ phát trước (còn nữ thì sao?) Nếu nước chảy từ Tây Bắc đến Đông Nam, thì cần cho huyệt hướng về phía nước tới, tức là về phía Tây Bắc, để hứng được tất cả nước từ xa đến. LONG HỔ PHÁP Xung quang huyệt có thể có những giải đất bao bọc huyệt, bảo vệ huyệt như chân tay bảo vệ cơ thể. Giải bên trái gọi là Thanh Long hay Long, có nam tính. Còn giải bên phải gọi là Bạch Hổ hay Hổ và có nữ tính (trai trái gái phải). Long cần phải dài, Hổ cần phải ngắn. Long, Hổ có ảnh hưởng tốt hay xấu đến con cái. Chẳng hạn Long chủ sinh con trai, văn quan, Hổ chủ sinh con gái, vũ tướng. Nếu Long (nam) ôm lấy Hổ (nữ) thì địa thế rất quý. Còn nếu Hổ (nữ) ôm lấy Long (nam) thì địa thế không hoàn chỉnh. Nhiều Long, nhiều Hổ thì phát nhiều đời. Đơn Long, đơn Hổ thì chỉ phát một đời. Hổ từ bên phải đến, kéo dài qua bên trái là Hổ nghịch. Long từ bên trái kéo dài qua bên phải là Long nghịch Điều kị nhất là Long quay lưng lại, còn Hổ thì lại vươn đầu lên, gia đình sẽ sinh nghịch nhân. HUYỀN VŨ PHÁP Huyền Vũ là đồi, núi ở đằng sau huyệt. Huyền Vũ tròn hay vuông thì gia đình giàu có và thọ. Kiêng kỵ: Huyền Vũ thấp mỏng, bị gió thổi. Huyền Vũ không được thô và lấn át huyệt. (Châu Tước là các gò đống ở trước huyệt) ÁN SƠN PHÁP Án có nghĩa là một địa thế, như một bán giấy ngồi trước mặt người ngồi. Án không nên quá cao hoặc quá thấp. huyệt gần án thì phát nhanh hơn là khi xa án. Cổ nhân xem huyệt là chủ, án là khách, khách chủ tương kính nhau mới là tốt. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐẤT CẦN BIẾT Đất màu sắc hồng hoàng, sáng tươi, mềm dẻo, nửa nạc nửa mỡ thì tốt. Đất đen, khô, rời vụn thì xấu, không có khí mạch. Đất ngạnh, có đá cứng thì rất hung. Nếu cả vùng đất đều bình thường như nhau, chỉ có một chỗ khác mịn, tươi hơn thì đó là đất tốt. Đất khi khai huyệt có sinh vật như rùa, cá – tinh thuỷ của Thiên Địa – là đất tốt. Trái lại, đất có rắn, chuột, sâu bọ, kiến là đất xấu. SƠ ĐỒ ĐỊA LINH NƯỚC VIỆT TỔ SƠN: Hy Mã Lạp Sơn (Nguyên Khí đi theo sông Cửu long) THIẾU SƠN: Dãy Trường Sơn (Nguyên khí đi theo sông Cửu Long) ĐỊA LINH CHÍNH ĐỂ DỰNG CÁC THỦ ĐÔ: Thăng Long (Rồng thăng), cố đô Huế MINH ĐƯỜNGTHANH LONG, BẠCH HỔ: Biển Đông với chỗ thuỷ tụ của nó ÁN: Có người cho rằng án của Việt nam chính là Philippines (Nguyễn Việt Cường) TRÍCH TỪ SÁCH HỒNG VŨ CẤM THƯ ĐỂ BẠN ĐỌC THỬ NGHIỆM VÀ ĐÁNH GIÁ (Trích trong sách Hồng Vũ Cấm Thư của Dương Quân Tùng, dịch giả: Nguyễn văn Minh) Hồi ấy, đương khi Hồng Vũ yến ẩm, các vương tước ở trong bảo điện nghe tiếng người Châu Bắc – Đôi là ông Lý Bá Truyền tinh thông địa lý, Vua liền mời ông vào bệ kiến. Vua dụ rằng: “Ta nghe ngươi rất giỏi về môn Địa Lý, vậy ta mong ngươi hết sức giúp ta, chớ vì điều lợi nào mà đổi lòng”. Ông Lý Bá Truyền lạy tạ, thưa rằng: “Thần là một người quê mùa ở đất Bắc – Đôi, Trước theo học ở Kinh Giang, một hôm vào chúa Hoa Kinh ở trên núi Đôi Châu, thấy có một quyển sách nhan đề là: Địa Lý Diệu Ngữ Thần Kinh, thưa đấy là do ý Trời sai khiến để giúp nhà vua” Lý Bá Truyền ở bên vua biên tập một cuốn sách bút kí bao la. Vua lấy làm vừa ý, mới đề mục rằng: Một thiên đại lục. Xong phong cho Lý Bá Truyền là Tỉnh An tiên sinh, cho cả mũ áo chức Ngự sử. Thời bấy giờ thuộc niên hiệu Hồng Vũ, năm Canh Tý, tháng Thân, giờ Thìn. CÁC THẾ ĐẤT LÀNH CÁC THẾ ĐẤT PHÁT TRẠNG NGUYÊN, PHÁT GIÁP KHOA, CHÍNH KHOA, THẾ KHOA, KHOA DANH Trước khi đi vào các thế đất cụ thể sau này, cần lưu ý đến một số điểm sau: 1. Các thế đất này là thế đất tự nhiên, được hình thành theo quy luật Thiên - Địa nào đó. Nếu có thể cho phép đi xa hơn theo một kiểu ngoại suy nào đó từ nhân thể, thì Mặt Đất – cũng giống như hình thể con người - phải có những chỗ lồi, chỗ lõm, những chỗ “phát, nhận” năng lượng từ trong ra ngoài và từ ngoài vào trong…Các chỗ lõm này phải tuân theo các quy luật xác định, nhằm bảo vệ, duy trì sự tồn tại của con người hay Quả Đất. Ngày nay, một số thế đất tự nhiên đã bị san bằng - tại các thành thị chẳng hạn- và chủ yếu chỉ còn lại ở các vùng đồi núi, cao nguyên, các vùng con người chưa hề đặt chân tới. Tuy nhiên, con người trong thế kỷ sau sẽ trở lại với thiên nhiên một phần nào, hạn chế phần nào sự phá phách Thiên Nhiên của mình, và từ đó một phần nào sẽ sống trong bối cảnh Thiên Nhiên sẵn có với các thế đất của nó. Trước mắt, có thể quan sát các thế đất của tổ tiên nhiều đời. Theo thống kê của Pháp (Raymong Réant) thì hài cốt tổ tiên còn ảnh hưởng đến người sống trong 600 năm. 2. Trong phần tiếp theo sau đây, có một số thế đất có dạng đặc biệt, như dạng cái bút (có đầu nhọn). Cổ nhân xem đây là biểu tượng của khoa bảng, của sự thành đạt trong thi cử…Nếu đối chiếu với nền văn minh hiện đại, thì biểu tượng của khoa bảng không chỉ là cái bút kiểu xưa mà còn phải là cái bút bi hay cái máy vi tính! Thành thử cần hiểu các thế đất sau đây như thế nào, khi có xuất hiện hình bút? Để tôn trọng văn hoá truyền thống, chúng tôi vẫn giữ lại ý nghĩa biểu tượng khoa bảng của thế đất hình bút.(tác giả xin trân trọng cảm ơn anh Trần Xuân Hiến đã giúp đỡ tác giả trong việc dịch một số tư liệu từ tiếng Trung Hoa sang tiếng Việt).
-
Cán dao đồng của người Việt cổ thể hiện hình người phụ nữ với đôi mắt tòn to. Hình phục dựng lại gương mặt của Tân Truy phu nhân cũng cho thấy gương mặt với đôi mắt tròn to. Thiên Đồng
-
Tục cho Thần tài hưởng nhũ hoa của nữ bán hàng 06.12.2012 by nguyentrongtao Tín ngưỡng kỳ lạ này đã được những tiểu thương ở thành phố sầm uất đất Quảng Nam lưu truyền tới vài trăm năm nay. Cho thần tài “hưởng” nhũ hoa phụ nữ để cầu may bán đắt Cư dân khu vực đô thị cổ Hội An (Quảng Nam) trong quá trình hình thành và phát triển có nhiều phong tục độc đáo, riêng biệt và tạo nên dấu ấn đặc sắc so với những mảnh đất khác. Đặc biệt, những người buôn bán ở đây có rất nhiều “mẹo” và tín ngưỡng mang tính tâm linh cao. Thế nhưng, có lẽ độc đáo nhất là phong tục áp tượng thần tài vào “nhũ hoa” của các nữ nhân viên bán hàng trước mỗi ngày làm việc mới. Trong một lần trò chuyện với Trần Bảo Ngọc, một nữ nhân viên trong cửa hàng quần áo thời trang trên đường Hai Bà Trưng (Hội An), tôi tình cờ nghe và thực sự bất ngờ khi biết sáng nào trước giờ làm việc, cô cũng áp phần mặt của tượng thần tài vốn được để ở bàn thờ nhỏ trong shop vào “nhũ hoa” của mình để cầu may. Tôi bật cười nhưng rồi vội kìm lại khi bắt gặp thái độ không vừa lòng của cô nhân viên. Cuộc trò chuyện càng đi sâu vào chi tiết, cái lệ này càng thu hút và hấp dẫn tôi hơn. Ngọc cho hay, cô cũng không biết cái phong tục kỳ lạ này có từ bao giờ, thế nhưng đa phần ở Hội An, hễ ai mở hàng, thuê nhân viên nữ bán hàng đều dặn người làm của mình tuân thủ cái lệ hàng sáng ấy. Đối với những cửa hàng nào có chủ nữ trực tiếp đứng bán thì khỏi cần phải nói. Sáng nào cũng vậy, sau khi hương khói trước và trong cửa hàng, cô chủ cũng cho ông thần tài “hưởng” một chút để bước vào một ngày làm việc mới may mắn và đắt khách. Cũng chẳng ai chứng thực được rằng, nếu không làm cái lệ ấy thì cửa hàng sẽ buôn bán ế ẩm. Thế nhưng, cứ đời này truyền cho đời sau, người buôn bán đi trước truyền lại cho người đi sau, thành ra một cái lệ phổ biến và hầu như ai làm kinh doanh cũng đều thông tỏ và “tín” lắm. Thường thì buổi sáng, những nhân viên hay nữ quản lý đến cửa hàng phải tắm rửa sạch sẽ, ăn mặc gọn gàng trước khi bước vào các công đoạn của phong tục này. Đầu tiên, người thực hiện phải đặt hương xin ngài (tức tượng thần tài) về chứng giám. Sau đó, nhẹ nhàng đưa ngài vào nơi vắng vẻ của shop, cô gái thực hiện cái lệ ấy. Nghe thì có vẻ đơn giản, nhưng mỗi cử chỉ của cô gái phải diễn ra theo trình tự chứ không phải muốn gì làm nấy. Đầu tiên, cô nhân viên một tay cầm tượng ngài, quay mặt vào ngực mình, tay kia từ từ cởi cúc áo ra. Khi đã cởi xong áo thì áp mặt ngài vào ngực mình, di chuyển đều từ trái qua phải rồi ngược lại. Ba lần như thế là xong. Mọi việc diễn ra trong vòng chưa đầy 10 phút nhưng là phần quan trọng nhất của mỗi cửa hàng trong một ngày. Chia sẻ với chúng tôi, cô nhân viên Ngọc còn bảo: “Mới đầu vào làm, tụi em cũng không quen với cái phong tục ni nên thường xuyên bị bà chủ la. Nhưng dần dần mọi cái đều trở nên bình thường và tụi em coi như một phần công việc của mình trong ngày… Có thể, nhiều người cho rằng việc này là mê tín nhưng em nghĩ đôi lúc nó cũng tạo động lực để tụi em làm tốt hơn. Bắt đầu một ngày làm việc mới với tâm thế là sẽ gặp nhiều may mắn thì tâm lý cũng thoải mái hơn, công việc vì thế mà cũng hanh thông hơn”, nói rồi, Ngọc cười bẽn lẽn. Đi tìm những lý giải Để tìm hiểu phong tục kỳ lạ có một không hai này, chúng tôi tìm đến nhà cụ Phạm Thị Hương, nằm sâu trong một con hẻm nhỏ trên đường Trần Phú (Hội An). Cụ Hương năm nay đã hơn 86 tuổi. Tuổi đã cao, nhưng cụ Hương xem chừng vẫn khỏe mạnh và minh mẫn lắm. Cụ kể, trước đây cụ cũng từng buôn bán lớn trong khu phố cổ này nhưng do nhiều biến động của cuộc đời và tuổi tác, sau phải bỏ nghiệp kinh doanh lớn để bôn ba với những chú tò he đất bên bờ sông Hoài. Đến giờ, vợ chồng cô con gái út của cụ cũng làm ăn rất khấm khá với 3 cửa hàng kinh doanh trên phố cổ Hội An. Nghe chúng tôi hỏi về tục lệ đưa tượng thần tài vào ngực nữ nhân viên bán hàng, sau một hồi trầm ngâm suy nghĩ, cụ Hương gật đầu quả quyết: “Đúng là có cái tục đó thiệt chú à. Nhưng có từ thời nào tôi không rõ. Đời bà tui cũng đã có rồi, rồi thì truyền lại cho mẹ tui, rồi đến tui. Có người bảo đây là tục của người Hoa vì trong văn hóa của họ ở Hội An theo tui được biết có những điều tương tự. Có người lại bảo cái tục ni là của người Nhật…. Nhưng cho dù có xuất xứ từ đâu, nó vẫn là một điều thiêng liêng, một nét văn hóa của những người buôn bán ở đây…”. Cụ Hương còn bảo ngày trước, người ta thuê những cô gái còn trinh tiết đến bán hàng ở những cửa hàng lớn. Bởi theo quan niệm của những thương gia lớn thì thần tài rất “mê” gái (?), đặc biệt là những cô gái còn trinh tiết. Đến nỗi những nhà thuê không được những cô gái còn trinh tiết về làm thì phải nhờ, phải thuê một cô gái khác trong phố hoặc của nhà buôn bên cạnh để, mỗi sáng sang hiệu buôn của mình thực thi công việc cho thần tài “hưởng” nhũ hoa trước khi mở hàng. Không những thế, người được nhờ, được thuê phải hợp mạng, hợp tuổi với gia chủ và rất nhiều tiêu chí khác. “Xưa kia, đây là một tục lệ rất quan trọng và phức tạp của những người buôn bán ở khu vực này. Buôn càng lớn thì càng phải chú ý đến cái tục cho “ngài” hưởng hơi ngực gái mỗi sớm. Bây giờ, nhiều nhà buôn không còn kỳ công đi tìm con gái còn trinh tiết về làm. Tuy nhiên, vẫn còn một số người giữ đầy đủ các công đoạn khắt khe của cái lệ ấy”, cụ Hương vì nhai trầu bỏm bẻm vừa chia sẻ với chúng tôi như thế. Theo kiến giải của tiến sĩ văn hóa Trần Tấn Vịnh, Giám đốc Bảo tàng tỉnh Quảng Nam, thì phong tục này có xuất xứ từ văn hóa Mẹ của người Việt trên khắp đất nước này. Từ việc truyền, xưng tụng và thờ cúng những vị thần có pháp danh đầu tiên là “Bà” đến những cây cầu, những ngọn núi, những tên đất, tên làng có tên bắt đầu là “Bà” khác. Đó là một nét văn hóa thuần nhất và xuyên suốt, biểu hiện cho nền văn minh lúa nước, nền văn minh đậm chất Việt. Nó đề cao vai trò của sự sinh sản, sức sống và trọng trách ươm mầm, tạo ra sự sống của người phụ nữ. Giao thoa với các nền văn hóa khác ở Hội An như văn hóa Nhật Bản và Trung Hoa, việc để tượng thần tài vào ngực con gái trước một ngày buôn bán mới phải chăng cũng là một biểu hiện của ước mơ mọi thứ được sinh sôi nảy nở, ăn nên làm ra? Đó là một nét trong tín ngưỡng phồn thực đã kết hợp với việc làm ăn buôn bán của người phố cổ Hội An để tạo ra một nét văn hóa độc đáo ở mảnh đất cổ này. Trong vẻ đẹp muôn màu của đất và người phố cổ Hội An, có những điều người ta bất ngờ nhưng thật ra có cội nguồn rất gần gũi với truyền thống, văn hóa Việt. Tục đặt tượng thần tài vào ngực con gái bán hàng ở các cửa hàng mỗi sáng sớm là một trong những cái lạ như vậy. Nhưng chính điều này đã tạo nên sự thú vị riêng, làm ta thấy thêm yêu, thêm muốn khám phá vùng đất cổ kính này. Theo Gia Đình & Cuộc Sống
-
Chùm ảnh: Xác ướp mỹ nhân "ngủ yên" 2.000 năm Khi mở nắp quan tài, hiển hiện ra là một xác ướp "mỹ nhân" với làn da mềm, tóc mịn và tứ chi còn đàn hồi. Người đẹp bí ẩn "Cận cảnh" gương mặt bà. Quan quách trong mộ Phục dựng hình Tân Truy phu nhân Tân Truy phu nhân năm 30 tuổi Tân Truy phu nhân năm 50 tuổi Theo Kienthuc
-
Vậy thì có cái để cho Auco "hồ nghi" và tự tìm hiểu thử xem - Bức tranh Đám cưới chuột của Việt hay Tàu? - Bức tranh Đám cưới chuột thuộc phường tranh bên Tàu hay bên Việt? - Phường tranh ở Hồ Nam có gốc là người Việt hay tiếp thu văn hóa Việt cổ? Chả có gì gọi là loãng chủ đề cả. Đề mục ở đây là "Có phải vậy không?" Mọi người có thể đưa ra ý kiến của mình. Tôi đã từng nói: Và Auco có trăn trở như thế nào thì cứ viết bài phản biện, chứng minh chứ không nên "lững lơ cá lờ đờ" như thế. Thiên Đồng
-
Xác nhận học viên đóng học phí lớp Phong thủy Lạc Việt cơ bản 11 1. Rio_Rio (Nguyễn Thị Cẩm Huyền) 2.000.000đ (đã cung cấp thông tin cá nhân) 2. Bình Định (Đỗ Bình Định) 2.000.000đ (đã cung cấp thông tin cá nhân) 3. mecutun (Trần Thị Diễm Quỳnh) 2.000.000đ ( chưa cung cấp thông tin cá nhân về email info@lyhocdongphuong.org.vn) 4. dbinh92Nguyễn Đức Bình 2.000.000đ (đã cung cấp thông tin cá nhân) 5. Bánh Mì (Lê Văn Vân) 2.000.000đ (đã cung cấp thông tin cá nhân) 6. tnd (Nguyễn Đình Thái) 2.000.000đ (đã cung cấp thông tin cá nhân) 7. Quanglh (Lục Hồng Quang) 2.000.000đ (đã cung cấp thông tin cá nhân) 8. aulac (Phạm Đức Lãng) 2.000.000đ (đã cung cấp thông tin cá nhân) 9. duyen (Nguyễn Văn Lưu) 2.000.000đ (đã cung cấp thông tin cá nhân) 10. Sheryl (Nhuyen Kieu Ngoc) 2.000.000đ ( chưa cung cấp thông tin cá nhân về email info@lyhocdongphuong.org.vn) 11. ngmt (Nguyen Manh Thuong) 2.000.000đ (đã cung cấp thông tin cá nhân) 12. ZODIAC (Tran Hoang Dao) 2.000.000đ (đã cung cấp thông tin cá nhân) 13. Wanren Bocphet 2.000.000đ 14. Trungvum Gu (Dao Bui Din), 2.000.000đ (đã cung cấp thông tin cá nhân)
-
@Auco Ông Lổ tấn sinh năm 1881 chết 1936 và Vậy thì dòng họ Nguyễn Đăng lập nghiệp vào khoản 1528 hay 1646 thì vẫn có trước ông Lổ Tấn (1881 - 1936) hơn 353 năm hoặc hơn 235 năm. Cho nên ông Lỗ vẫn không thể là tác giả của bức tranh "Đám cưới chuột", chỉ có việc là cọp py của người Việt. Thiên Đồng
-
Kỳ dị người đàn ông thở ra lửa 05/12/2012 13:10 | Phóng sự - Khám phá Chỉ cần đưa chiếc khăn tay, mảnh vải hoặc tờ giấy để gần mũi của anh Underwood, sau khi anh thở ra, lập tức những vật trên đều bị nuốt chửng trong ngọn lửa bốc cháy ngùn ngụt. Khả năng kỳ lạ của anh Underwood đến nay vẫn là 1 “ca khó” đối với những nhà khoa học.Cứ thở là… cháy Anh Underwood, đến từ bang Michigan, Hoa Kỳ đã từng có 1 cuộc sống bình thường như biết bao những thanh niên khác, cho đến khi anh phát hiện ra khả năng kỳ lạ của mình. Một ngày, anh đưa chiếc khăn ăn lên tay để lau mũi thì bất ngờ chiếc khăn tay bốc cháy, ngọn lửa vàng rực nhanh chóng thiêu rụi chiếc khăn tay và chỉ ít phút sau, chiếc khăn chỉ còn là 1 đốm tàn đen trên nền nhà. Sự việc xảy ra quá bất ngờ, khiến anh Underwood phải mất 1 hồi lâu mới lấy lại bình tĩnh để đi tìm nguyên nhân khiến chiếc khăn bốc cháy. Cuối cùng, anh Underwood cũng phát hiện ra thủ phạm gây ra vụ cháy trên không ai khác chính là hơi thở của mình. Để kiểm tra lại cho chắc chắn, anh lấy thêm nhiều đồ vật khác đưa lên trước mũi và thở mạnh vào chúng, những đồ vật đều bốc cháy ngùn ngụt. Từ khi phát hiện ra mình sở hữu khả năng lạ, anh Underwood luôn sống trong tậm trạng bồn chồn, lo lắng. Anh không dám nói với người thân và bạn bè vì sợ họ nghĩ rằng anh đang dựng trò bịp bợm. Anh cũng sợ rằng, nếu khả năng của mình lộ ra, anh sẽ bị mọi người gán cho biệt danh “phù thủy”, đồng thời xa lánh và kỳ thị. Vì vậy, anh Underwood luôn sống trong tình trạng cảnh giác cao độ với hơi thở của mình. Anh không dám thở quá mạnh cũng như luôn phải tránh những hoạt động khiến anh thở gấp như chạy nhảy hoặc chơi thể thao. Anh cũng không dám để bất cứ 1 vật gì quá gần mặt của mình, nhất là phần mũi. Sau 1 thời gian giấu giếm, phần vì lo cho sức khỏe của mình, phần vì sợ có thể vô tình gây ra những vụ hỏa hoạn, cuối cùng anh Underwood cũng quyết định tìm đến những nhà khoa học để mong tìm ra cách kiểm soát hơi thở của mình. Một buổi sáng tháng 9, tiến sỹ Woodman nghe thấy tiếng gõ rất mạnh vào cửa văn phòng khoa học của mình, ông nghĩ thầm trong đầu không biết có chuyện gì mà người ta lại gõ cửa mạnh đến thế và liền đi ra mở cửa. Khi cánh cửa vừa mở ra, ông bắt gặp một thanh niên đang đưa 2 tay lên ôm lấy mặt, che hết cả phần miệng và mũi, chỉ để hở ra đôi mắt toát lên vẻ lo lắng. Người thanh niên đó chính là Underwood. Anh đã kể cho tiến sỹ Woodman nghe về khả năng đặc biệt của mình, và anh cũng nói với ông rằng anh thực sự lo lắng khả năng kỳ lạ này có thể gây ra thảm họa bất cứ lúc nào. Ban đầu, tiến sỹ Woodman nghĩ rằng anh Underwood đang phóng đại mọi chuyện và ông chỉ bị thuyết phục thật sự khi tận mắt nhìn thấy khả năng của anh. Sau 1 hồi nói chuyện, cuối cùng, vị tiến sỹ đã đồng ý sắp xếp cho anh 1 buổi thí nghiệm được tiến hành trước đông đảo những nhà khoa học. Trong phòng thí nghiệm, anh Underwood đã đề nghị lấy khăn tay của 1 nhà khoa học bất kỳ có mặt ở đó. Rồi, anh đưa chiếc khăn lên trước mặt, lấy hai tay chà mạnh, và thở vào nó, lập tức ngọn lửa bốc lên nuốt trọn chiếc khăn. Sau đó, anh Underwood được những nhà khoa học đưa thêm những miếng vải và giấy thuộc nhiều loại khác nhau, chẳng quá khó khăn vì những vật trên đều nhanh chóng bị thiêu trụi. Các nhà khoa học thậm chí còn yêu cầu anh Underwood thử nghiệm với 1 đống lá khô, sau khi anh cúi xuống và thở vào đó, đống lá lập tức bốc cháy. Những nhà khoa học đều tỏ ra ngạc nhiên trước khả năng kỳ lạ của anh Underwood và thắc mắc không biết bằng cách nào mà hơi thở của anh lại có 1 sức mạnh ghê gớm đến vậy. Một số người tỏ ra nghi ngờ rằng đây chỉ là 1 trò ảo thuật điêu luyện của anh Underwood. Có nhà khoa học đưa ra giả thuyết rằng thực chất anh Underwood đã ngậm 1 mẩu phốt-pho nhỏ ở trong miệng rồi khéo léo nhổ vào chiếc khăn tay. Sau đó, anh dùng 2 tay chà mạnh vào chiếc khăn và khiến nó bốc cháy. Bởi, chỉ cần 30 độ C là phốt-pho có thể dễ dàng bốc cháy trong không khí. Một số nhà khoa học khác lại nghi ngờ anh Underwood có ngậm 1 loại hóa chất đặc biệt dạng lỏng trong miệng. Hóa chất này bốc hơi và được đẩy ra ngoài cùng với hơi thở qua đường mũi để đốt cháy các vật. Vì vậy, những nhà khoa học quyết định tiến hành thí nghiệm lại 1 lần nữa và lần này, họ rửa sạch khoang miệng và mũi của anh Underwood. Đồng thời, các nhà khoa học cũng yêu cầu anh phải đeo găng tay bằng cao su để tránh tiếp xúc trực tiếp với các vật. Nhưng không hề có sự khác biệt nào so với lần thí nghiệm trước, khăn tay, tờ giấy hay mảnh vải đều bốc cháy trước sự trầm trồ kinh ngạc của những nhà khoa học. Chưa có lời giải đáp cho hiện tượng kỳ lạ này Anh Underwood không phải là trường hợp duy nhất trên thế giới sở hữu khả năng kỳ lạ này. Không lâu sau, khoa học cũng ghi nhận thêm trường hợp của 1 thợ sửa xe hơi ở Memphis, bang Tennessee cũng sở hữu khả năng tương tự như anh Underwood. Sự kiện này đã được báo cáo lên Tổng thống Mỹ và sau đó, đích thân phó Tổng thống Mỹ khi đó là Charles Dawes đã cho tiến hành điều tra về khả năng kỳ lạ của người thợ sửa xe. Ông đã tận mắt chứng kiến người thợ sửa xe tự gom những vật liệu dễ cháy trong gara ôtô thành 1 đống, rồi sau đó thở vào đống vật liệu khiến chúng bốc cháy ngùn ngụt. Đích thân vị phó tổng thống cũng đưa khăn tay của mình cho người thợ sửa xe và nhìn thấy chiếc khăn bắt lửa ngay sau khi người này thở vào nó. Phó Tổng thống Charles Dawes và những cộng sự của mình cũng thừa nhận rằng khả năng đó hoàn toàn là thật và không có bất kỳ sự gian lận nào. Trước đó, cậu bé 12 tuổi tên là Willie Brough, ở bang California cũng trở lên nổi tiếng bởi khả năng tạo ra lửa chỉ bằng ánh mắt. Cậu bé tập trung tầm nhìn vào đâu thì ở đó lập tức bốc cháy. Nhưng không may mắn là sau khi biết được khả năng đặc biệt, cậu bé đã bị nhà trường đuổi học vì lo ngại những nguy hiểm mà cậu có thể gây ra cho những học sinh khác. Đáng buồn hơn, cha mẹ của cậu bé còn cho rằng con trai mình đã bị quỷ nhập và họ quyết định gửi cậu đến 1 trung tâm nuôi dưỡng trẻ em ở rất xa. Một nhà ngoại cảm nữ người Nga có tên Nelya Mikhailova cũng sở hữu khả năng đặc biệt này. Những nhà khoa học tham gia nghiên cứu, đã dùng những thiết bị điện để đo mỗi khi bà phát ra lửa, thì phát hiện bằng 1 cách bí ẩn nào đó, bà đã hút được năng lượng từ những vật xung quanh và dùng nó tạo thành ngọn lửa. Các nhà khoa học cũng cho rằng cơ chế hoạt động để tạo ra lửa của anh Underwood có lẽ cũng tương tự, chỉ có điều họ vẫn chưa có đủ cơ sở để kết luận. Còn đối với anh Underwood, do khoa học vẫn chưa tìm được lời giải nên anh phải chấp nhận sống chung với khả năng hy hữu của mình trong tình trạng luôn luôn cảnh giác cao độ. Đôi khi, anh tự an ủi mình rằng khả năng thở ra lửa ít nhất cũng có ích mỗi khi anh đi săn hoặc đi cắm trại mà quên không mang theo diêm hoặc bật lửa. Theo Báo Gia đình và Cuộc sống
-
Tại sao Phật Giáo lại trở thành một tôn giáo Á Châu và tại sao ngày nay lại đặt chân vào thế giới Tây Phương? Fabrice Midal (Hoang Phong chuyển ngữ) Lời giới thiệu của người dịch: Trong một quyển sách nhỏ mang tựa đề "Phật Giáo Nhập Môn" (ABC du Bouddhisme, nhà xuất bản Grancher, 2008) tác giả Fabrice Midal đã tóm lược một cách thật ngắn gọn nhưng rất chính xác và sâu sắc các khía cạnh chính yếu của Phật Giáo. Thật vậy, Phật Giáo đặt chân vào Âu Châu chưa đầy một thế kỷ và quyển sách thì cũng được viết cho người độc giả phương Tây, thế nhưng sau khi đọc qua thì quyển sách dường như cũng gợi lên cho chúng ta một vài suy tư nào đó khi quay nhìn về Á Châu, nơi mà Phật Giáo đã hiện diện từ hằng ngàn năm trước. Trong phần chuyển ngữ dưới đây còn có một vài lời ghi chú nhỏ của người dịch nhằm triển khai vài điều mà tác giả đã nêu ra hầu giúp người đọc theo dõi nguyên bản rõ ràng hơn. Các lời ghi chú này được trình bày bằng chữ nghiêng và đặt trong hai dấu ngoặc. Hình bìa quyển sách "Phật Giáo Nhập Môn" (Thực tập thiền định - Biến cải chính mình - Mở rộng con tim) Tại sao và bằng cách nào Phật Giáo đã phát triển ra ngoài lãnh thổ Ấn độ Phật Giáo được hình thành tại Ấn Độ trong khung cảnh của một nền văn hóa Ấn-Âu, nghĩa là có liên hệ ít nhiều đến thế giới Tây Phương. Tóm lại là đã không có một dấu hiệu nào báo trước là Phật Giáo sẽ bành trướng riêng tại Á Châu. Thật thế Á Châu là cả một thế giới hết sức xa lạ đối với Phật Giáo trên rất nhiều khía cạnh. Ấn Độ và các quốc gia khác ở Á Châu hoàn toàn khác biệt nhau từ ngôn ngữ cho đến các cơ cấu xã hội cũng như các loại biểu tượng và huyền thoại. Thật vậy Phật Giáo đã bành trướng trước nhất về phương Tây và đã phát triển sâu rộng ở A-phú-hãn và Ba Tư (ngày nay là I-ran) và đã từng đặt chân đến xứ Tadjikistan (trong vùng cận đông, thuộc Liên Bang Xô Viết trước đây). Toàn thể vùng này lúc bấy giờ được đặt dưới sự cai trị của A Lịch Sơn Đại Đế (Alexander the Great) và do đó không tránh khỏi ít nhiều đã bị "Hy Lạp hóa". Tuy số tài liệu còn lưu giữ được đến nay khá ít ỏi thế nhưng cũng đủ để cho thấy là Phật Giáo đã từng tiếp xúc với nền văn hóa Hy Lạp. Các pho tượng Phật tìm thấy trong vùng Gandhara (một đế quốc nằm giữa biên giới tây bắc A-phú-hãn và đông Pakistan ngày nay) rất có thể là các pho tượng đầu tiên được tạc để biểu trưng cho hình tướng Đức Phật. Các pho tượng này đều mang các đường nét tiêu biểu của vị thần Apollo của Hy Lạp, và đấy là một trong những bằng chứng rõ rệt nhất. Phật Giáo cũng ảnh hưởng đến cả xứ Ba Tư lúc đó là một xứ đang sùng đạo Mazdeism và sau đó là đạo Zoroastrism (trước Công nguyên xứ Ba Tư theo đạo Mazdeism, một tôn giáo độc thần thờ vị Trời tên là Ahura Mazda sáng tạo ra trời và đất. Đến thế kỷ thứ I thì có một nhà tiên tri tên là Zorathoustra đã cải tổ đạo này, và cũng kể từ đấy người ta gọi đạo này là đạo Zoroastrism). Phật Giáo cũng đã ảnh hưởng thật sâu đậm đến cả lịch sử của xứ này (các bảo tàng viện quốc gia của I-ran, I-rắc và A-phú-hãn cũng như của Pakistan vẫn còn lưu giữ được rất nhiều di tích Phật Giáo gồm các tác phẩm điêu khắc vô cùng tinh xảo, thế nhưng rất tiếc là các biến động gần đây đã làm hư hại và mất mát khá nhiều). Sự bành trướng của Phật Giáo vào thế giới Tây Phương đã bị các đạo quân xâm lược Hồi Giáo chận đứng một cách đột ngột vào thế kỷ XII. Các đạo quân này đã tàn phá chùa chiền và triệt hạ Phật Giáo Ấn Độ trong toàn vùng lãnh thổ này. Các đạo quân Hồi Giáo đã dựng lên cả một bức tường kiên cố chia cắt hai thế giới: Đông Phương và Tây Phương, và do đó cũng đã chận đứng sự phát triển của Phật Giáo về phương Tây kể từ thời bấy giờ (từ thế kỷ XII) cho đến thế kỷ XX. Mãi đến thế kỷ này thì Phật Giáo mới thật sự bắt đầu trở lại với thế giới Tây Phương (bằng các con đường khác hơn với thế kỷ XII: trước hết là từ phong trào thực dân mà người Tây Phương đã khám phá ra Phật Giáo vào thế kỷ XIX, và gần đây hơn thì nhờ vào các nhà sư Tây Tạng lánh nạn sang Tây Phương sau khi xứ sở của họ bị Trung Quốc xâm chiếm vào năm 1950). (Ở phương đông thì) Phật Giáo lan dần vào các nước Á Châu. Một nhánh bành trướng lên phía Bắc theo con đường tơ lụa xuyên ngang các vùng lãnh thổ thuộc A-phú-hãn và sau cùng đã đến Trung Quốc, và tiếp theo đó thì bành trướng sang Hàn Quốc và Nhật Bản. Nhiều nhánh khác mượn con đường phía Nam để đến Tích lan vào thứ III trước kỷ nguyên và dần dần bành trướng sang các nước xa hơn thuộc bán đảo Đông Dương. Phật Giáo đặt chân vào Trung Quốc là một trong những biến cố ngoạn mục hơn cả. Quả thật không có một dấu hiệu nào có thể giúp tiên đoán trước được sự kiện đó. Hầu hết các quan niệm cổ điển của Trung Quốc đều trái ngược hẳn lại với tinh thần giáo lý của Phật Giáo. Chọn cho mình một cuộc sống xa lìa thế tục, quyết tâm không sinh con đẻ cái để nối dõi tông đường, cắt đứt mọi sự ràng buộc với gia đình và làng mạc, không quan tâm đến xã hội mà chỉ biết chuyên cần tu tập cho bản thân mình và đấy là lý tưởng của một nhà sư Phật Giáo (lý tưởng xuất gia của Phật Giáo vào thời kỳ nguyên thủy) - thế nhưng đấy lại là tất cả những gì thật nghịch lý và không thể hiểu nổi đối với tư tưởng Trung Quốc. Trong khi đó thì tư tưởng Phật Giáo lại cho thấy rất gần với các cách suy nghĩ trừu tượng và phức tạp dựa trên các nguyên lý lôgic tiêu biểu của văn hóa Ấn-Âu - và đấy thì cũng lại là những gì trái ngược lại với tư tưởng Trung Quốc là chỉ quan tâm đến kinh sách (tứ thư ngũ kinh của Nho Giáo) nêu lên các chuẩn mực đạo đức phải noi theo. Người Trung Quốc sử dụng một loại ngôn ngữ tượng hình (Hán tự) mang tính cách ẩn dụ (métaphorique / metaphorical) và gợi ý (allusif / allusive) để nêu lên chiều sâu và ý nghĩa của các sự vật mà không mấy quan tâm đến cách lý luận dựa vào sự chính xác (tác giả nêu lên một cách thật ngắn gọn nhưng rất chính xác sự tương phản trên phương diện tư tưởng giữa hai nền văn hóa khác nhau tức Ấn-Âu và Trung Quốc). Trước các khó khăn đó Phật Giáo vẫn thành công khi đặt chân vào lãnh thổ Trung Quốc để hòa đồng với Lão Giáo và Khổng Giáo. Phật Giáo vừa thích ứng được với các cơ cấu xã hội sẵn có của Trung Quốc lại cũng lại vừa giúp người Trung Quốc xét lại các nguyên lý tư duy của chính họ (nên hiểu rằng Phật Giáo đã giải thoát phần nào nền luân lý "gò bó" và "chật hẹp" của Khổng Giáo và đồng thời cũng đã giúp cho Lão Giáo thu nạp thêm một số khía cạnh sâu sắc hơn trên phương diện triết học. Nhờ đó nền văn minh Trung Quốc đã trở nên vô cùng phong phú. Thật thế đạo đức cứng nhắc của Khổng Giáo và các tư tưởng "vô vi" ("không làm gì cả") của Lão giáo không đủ sức để đưa nền văn minh Trung Quốc đến tột đỉnh vào thời nhà Đường cũng như các thời đại về sau, như người ta thường hiểu sai. Quả thật chủ trương then chốt của Lão Tử là "Vi vô vi nhi vô bất vi" - đại khái có nghĩa là "làm [hay] không làm thì [tốt hơn] không [nên] làm" - quả hết sức trái ngược lại với lòng quyết tâm tu tập của Phật giáo. Nền đạo đức của Khổng Tử nhằm tạo ra một trật tự xã hội với hậu ý củng cố vương quyền cũng thật trái ngược với chủ trương từ bi và giải thoát tất cả chúng sinh của Phật Giáo). Tại sao và bằng cách nào ngày nay Phật Giáo lại đặt chân vào thế giới Tây Phương ? Quả thật đấy cũng lại là một sự kiện khác không kém ngoạn mục so với biến cố trước đây khi Phật Giáo được truyền vào Trung Quốc - mặc dù tư tưởng Tây Phương đã mang sẵn một vài đường nét khá gần với văn hóa Ấn Độ (cách suy nghĩ trừu tượng và lôgic) như tôi đã nêu lên trên đây (thật ra thì sự bành trướng nhanh chóng và ngoạn mục của Phật Giáo tại Tây Phương còn do một số nguyên nhân thuận lợi khác nữa: trước hết là sự sụp đổ của các truyền thống tín ngưỡng lâu đời của họ và sau đó là sự tàn phá nặng nề của chủ nghĩa tư lợi và tính toán của một nền văn minh vật chất). Tính cách ngoạn mục đó không phải chỉ vì Phật Giáo là một tín ngưỡng Đông Phương mà lại có thể thâm nhập được vào thế giới Tây Phương, mà đúng hơn vì Phật Giáo là một tín ngưỡng nghìn năm đang tạo ra một chỗ đứng trong một thế giới đã tự tàn phá các tín ngưỡng lâu đời của mình để nêu cao chủ trương "tân tiến hóa". Nhiều nhà quan sát cũng như nhiều nhà bình luận (tức các triết gia, học giả, sử gia, nhà báo, các nhà xã hội học, v.v...) và cả nhiều người Phật Giáo (Tây Phương) khác nữa cũng chỉ nhìn vào sự gặp gỡ đó (giữa Phật Giáo và thế giới Tây Phương) như là một sự kiện tự nhiên. Thế nhưng thật ra thì đấy là một biến cố thật hết sức bất ngờ và đáng kinh ngạc (con số sách báo về Phật Giáo xuất bản và phát hành mỗi tháng tại Tây Phương nhiều đến độ một người dù có khả năng đọc nhanh cũng khó có thể đọc hết được). Sự gặp gỡ đó sở dĩ đã xảy ra ấy là nhờ vào một sự kiện mà rất ít người chú ý đến: đó là sự thắc mắc mang tính cách thật căn bản của nhiều người Tây Phương về chính dòng lịch sử của họ và nhất là về số phận đang chờ đợi tất cả nhân loại ngày nay (khi nhìn trở lại Á Châu, với dân tộc đông đảo nhất là Trung Quốc và các dân tộc khác nữa, thì thử hỏi chúng ta có nhận thấy được là các dân tộc ấy có thắc mắc gì về dòng lịch sử và số phận của dân tộc họ trong tương lai hay không? Đấy là chưa nói đến bổn phận và trách nhiệm của họ đối với vận mệnh của con người nói chung). Phật Giáo không đến với thế giới Tây Phương như một trào lưu (hời hợt) của các trào lưu tín ngưỡng khác - mà đấy là cả một giải pháp nhằm giải quyết sự khủng hoảng cho cả thời đại chúng ta. Sở dĩ Phật Giáo đã bắt rễ được vào mảnh đất Tây Phương là vì Phật Giáo trước hết đã mang đến cho thế giới này một con đường tâm linh có thể hiểu được (tức là hợp lý và thiết thực, có thể chấp nhận được) đúng vào cái thời đại mà "Trời đã chết". Nietzsche (một triết gia người Đức, 1844-1900) đã loan báo cho chúng ta biết về cái chết của Trời, thế nhưng cái tin buồn ấy không chỉ có nghĩa là Trời không còn nữa mà đúng hơn là Trời không còn đủ sức để làm nền móng cho tất cả mọi sự thật. Trước đây Trời đã từng đứng ra bảo đảm cho bất cứ một sự thực nào. Một cội cây, một định lý (về toán học chẳng hạn), sự hiện hữu của kẻ khác (đương nhiên chính mình thì đã là một tác phẩm của Trời, thế nhưng các người khác dù cho họ có là thế nào đi nữa thì họ cũng vẫn là một sự sáng tạo của Trời) - tất cả đều được bảo đảm bởi sự hiện diện của Trời. Trời cũng là nền móng của mọi trật tự xã hội - làm vua thì lẽ tất nhiên là có sẵn cái quyền thiêng liêng đó (do Trời ban) -, và Trời thì cũng là nền móng của luân lý - vì đấy là cách biểu lộ ý chí của Trời. Ngày nay thế giới Tây Phương xem tầm nhìn ấy chẳng khác gì như là một thứ ảo giác. Chỉ trích chủ thuyết hữu thần (theism) cũng là một khía cạnh chính yếu trong giáo lý Phật Giáo (Phật Giáo được hình thành trong một khung cảnh tín ngưỡng hữu thần của nhiều tôn giáo khác tại Ấn Độ, trong số này và quan trọng hơn hết là đạo Bà-la-môn. Phật Giáo không những bác bỏ khái niệm về một vị Trời sáng tạo mà còn bác bỏ cả các khái niệm triết học cũng như các phép tu tập sẵn có của các trào lưu tín ngưỡng thời bấy giờ và nhất là chống lại cả chủ trương phân chia giai cấp xã hội của đạo Bà-la-môn). Thật ra thì Phật Giáo chỉ trích chủ thuyết hữu thần bằng một cách khác hơn (so với triết gia Nietzsche), Phật Giáo cho rằng ý nghĩ về một vị Trời đứng ra làm cơ sở cho hiện thực là một sự lầm lẫn vì đấy chỉ là một cách vật thể hóa hiện thực (to reify / biến một thứ gì đó mang tính cách trừu tượng trở thành một vật thể. Nói cách khác là tìm hiểu hay nắm bắt một khái niệm xuyên qua hình tướng của một vật thể: thí dụ biến "sự sáng tạo" trở thành một vị Trời mang hình tướng cụ thể của một con người. "Khái niệm" ấy, hay "hành động" ấy, hay "sự kiện" ấy tự nó đã là một sự sai lầm. Bởi vì Phật Giáo xem cách "cụ thể hóa" hay "vật thể hóa" một khía cạnh nào đó của hiện thực chỉ là cách tạo ra thêm ảo giác). Tóm lại là hai quan điểm trên đây (Phật Giáo và Nietzsche) mang một vài đường nét tương đồng nào đó. Phật Giáo cho thấy cái chết của Trời (theo lời tuyên bố của Nietzsche) là một tin mừng (nên hiểu như là một sự giải thoát cho con người). Phật giáo rất chú trọng đến thiền định vì phép luyện tập này sẽ có thể giúp chúng ta phát hiện ra một thể dạng của sự thực tâm linh nào đó mà trước đây không hề hiển hiện ra với chúng ta (sự tỉnh thức hay giác ngộ). Cái thể dạng tâm linh ấy không hẳn là một sự tin tưởng nơi Thượng Đế, giới hạn trong lãnh vực của một tôn giáo, mà đúng hơn chính là sự quan tâm tìm cách vượt thoát khỏi mọi sự lầm lẫn và khổ đau, và để ý thức được rằng mình không còn là trung tâm của tất cả mọi sự thật nữa (tức có nghĩa là loại bỏ được cái ngã của mình), hầu giúp mình hòa nhập với sự nóng bỏng của tình thương yêu. Dù đấy là những người không hề tin vào bất cứ một thứ tôn giáo nào đi nữa thì họ vẫn có đủ khả năng để khám phá ra được một sự thực nào đó qua tiếng réo gọi thật thiết tha vang vọng từ nơi sâu thẳm trong con tim của họ. Họ đều có thể bước theo tiếng réo gọi đó. Ước vọng mang anh hùng tính nhằm kiến tạo một thế giới công bằng hơn thì nào có phải là một giấc mơ của trẻ con đâu (trẻ con thường mơ ước mình là một người "anh hùng" thực hiện được những việc phi thường, thế nhưng lòng ước vọng góp phần kiến tạo một thế giới công bằng và nhân bản hơn không phải là một ước mơ viễn vông của một đứa bé). Tất cả chúng ta đều mang một trọng trách nào đó trên địa cầu này vì thế trong từng khoảnh khắc chúng ta cũng nên cố gắng thực hiện được một cái gì đó, hoặc ít ra thì cũng không nên khóc rống lên để vòi vĩnh như một đứa trẻ con, và nhất là cũng đừng tạo ra thêm các niềm oán hận và những nỗi khổ đau cho người khác. Các vị thiền sư Zen bắt đầu đặt chân đến thế giới Tây Phương từ thập niên 1950, và tiếp theo đó vào thập niên 1960 thì đến lượt các vị thầy thuộc Phật Giáo Tây Tạng. Họ tạo ra cả một luồng chấn động thật mạnh, đến độ người ta có thể xem việc du nhập của Phật Giáo vào thế giới Tây Phương ít ra cũng quan trọng tương đương như khi Âu Châu khám phá ra thế giới Hy Lạp vào thời Phục Hưng (tức là vào các thế kỷ XV-XVI, thời kỳ mà người Âu Châu bắt đầu biết đóng tàu lớn để khám phá thế giới và cũng là thời kỳ xảy ra nhiều biến cải quan trọng trong các lãnh vực tôn giáo và văn hóa). Đấy cũng là một cơ hội giúp chúng ta nhìn lại mọi sự vật dưới một khía cạnh mới mẻ hơn (tư tưởng Phật Giáo có thể giúp cho người Tây Phương nhìn vào sự sống và thế giới này cũng như quá khứ của họ qua một tầm nhìn khác hơn). Theo ý nghĩa đó, tôi tin rằng khi quyết tâm bước theo Phật Giáo thì nhất định đấy không phải là một cách biểu lộ sự hận thù của mình đối với thế giới Tây Phương - dù rằng tình trạng này cũng rất thường thấy xảy ra. Và ngược lại thì cũng không nên sáp nhập Phật Giáo vào thế giới Phương Tây một cách đơn giản nhằm để biến nó thành một thứ gia tài riêng của chúng ta. Phật Giáo giúp chúng ta quay về với cội nguồn của chính mình và giúp chúng ta nhận ra được các mầm móng đưa đến sự diệt vong. Và đấy cũng chính là cách mà Phật Giáo giúp chúng ta trở thành những con người Tây Phương đích thật. Tại sao Chögyam Trungpa đã giữ một vai trò thật quan trọng trong việc quảng bá Phật Giáo trong thế giới Tây Phương? Chögyam Trungpa (1940-1987) là một vị tiên phong thuộc tầm cỡ lớn đã đưa Phật Giáo vào thế giới Tây Phương. Cuộc đời của ông là cả một pho tiểu thuyết. Ông tu học đúng theo nghi thức cổ truyền trên đất nước Tây Tạng của ông, thế nhưng rồi phải bỏ xứ để trốn sang Ấn Độ khi quê hương của ông bị người Trung Quốc xâm chiến. Ở Ấn Độ ông học tiếng Anh, và vào năm 1963 thì nhờ đạt được học bổng của trường Oxford nên ông đã rời Ấn Độ để sang Anh Quốc. Tại đại học Oxford ông nghiên cứu về tất cả các tôn giáo dựa vào Kinh Thánh, cả triết học và mỹ thuật, nhất là Nghệ Thuật Hiện Đại (modern Art). Ông là người Tây Tạng đầu tiên được hấp thụ cả hai nền văn hóa khác nhau (văn hóa Tây Tạng và Anh Quốc), và ông cũng đã chấp nhận sự hòa đồng ấy bằng một việc đầy ý nghĩa, ấy là chấp nhận để trở thành một người dân Anh Quốc (nhập quốc tịch Anh). Sau đó thì ông thuyết giảng và quảng bá Phật Giáo trong nhiều năm liền, thế nhưng ông cũng đã gặp phải quá nhiều khó khăn. Người ta chỉ thích được tu học với các vị thầy đến từ xứ Tây Tạng xa xôi mà thôi (Chögyam Tungpa thì đã trở thành một người Anh như họ), và đôi khi còn xem đấy là một dịp để tôn sùng họ - thế nhưng thật ra thì đấy chỉ là cách để tự tách ra xa người thầy. Chögyam Trungpa cảm thấy mình đã thất bại. Thế nhưng phải làm thế nào đây để vượt qua các khó khăn hầu có thể quảng bá tín ngưỡng mà mình đã được thừa hưởng trực tiếp từ quê hương Tây Tạng của mình. Trong lúc chưa biết phải xử trí như thế nào thì Chögyam Trungpa lại gặp tai nạn giao thông và bị thương nặng, cánh tay trái và cả chân trái của ông bị bại liệt. Thế nhưng biến cố đó lại bất ngờ chuyển thành một dịp thuận lợi giúp ông tìm thấy cho mình một con đường: ông nhất quyết sẽ đẩy xa hơn nữa những gì ông đã từng làm trước đó. Ông không tuân thủ các lời nguyện của một người tỳ kheo nữa mà cởi bỏ manh áo cà-sa của người tu hành và khước từ cả cương vị của một nhà sư. Ông cưới một phụ nữ trẻ người Anh, và sau đó thì cả hai sang định cư ở Mỹ. Ông quyết định chọn một cuộc sống thật bình dị như tất cả mọi người khác chung quanh hầu giúp mình có thể hành động một cách phóng khoáng hơn. Mặc dù ông hoàn toàn ý thức được rằng tín ngưỡng của xứ Tây Tạng thật hết sức tuyệt vời thế nhưng các cách điều hành chính trị và xã hội của xứ sở ông (nói chung là các tập quán xã hội) thì không thể nào đem xuất cảng sang Tây Phương được, đấy chỉ là những gì có thể gây thêm chướng ngại cho việc hoằng Pháp mà thôi (có nghĩa là Chögyam Trungpa chọn một phương pháp hoằng Pháp khác hơn mọi người). Ông quay sang sử dụng con tim của mình để hàn huyên với con tim của người khác và đấy cũng là chính phương pháp mới mà ông đã nghĩ ra để quảng bá Phật Giáo. Ông cũng đã sử dụng phương pháp này để viết và các quyển sách của ông đã trở thành những quyển sách không thể thiếu sót cho những ai muốn tìm hiểu Phật Giáo. Đồng thời thì ông cũng phát hiện ra một thứ nọc độc ngăn chận không cho người tu tập quán thấy được con đường đích thật: ấy là "chủ nghĩa duy vật tâm linh" (hoặc có thể viết là "tâm linh duy vật chủ nghĩa" / spiritual materialism). Sự khám phá này của ông thật vô cùng quan trọng. Mỗi khi người ta quán nhận được một giá trị tâm linh dưới một khía cạnh nào đó dù theo bất cứ một chiều hướng nào, với mục đích là để mong cầu đạt được một sự hiểu biết sâu rộng hơn (có thể hiểu là sự giác ngộ) hay một sự thực hiện nào đó (đạt được sự giải thoát hay một thể dạng tâm linh nào đó chẳng hạn...) thì Chögyam Trungpa đều nhận thấy theo chiều hướng ấy và dưới khía cạnh ấy luôn tàng ẩn một mối nguy cơ mang lại một sự lừa phỉnh thật nguy hiểm. Nếu chúng ta hướng vào một thứ gì đó mà chúng ta mong cầu sẽ đạt được nó - thay vì sẵn sàng để xả bỏ nó - thì đấy sẽ chỉ là một cách khiến làm gia tăng thêm sự khốn quẩn cho chúng ta. Thay vì gom góp tiền bạc để tậu một chiếc xe thật sang trọng thì tốt hơn nên tìm đến với Phật Giáo (câu này là để giải thích một cách đơn giản và cụ thể phần trình bày khá trừu tượng và bao quát trong phần trên - đọc đến câu "tóm lược" này chúng ta cảm thấy nhẹ nhõm vì các câu trình bày trước đó rất súc tích và khá khó để nắm bắt. Nếu chúng ta hướng vào sự mong cầu đạt được một chủ đích nào đó, dù đấy là cõi cực lạc, thiên đường, một sự hiểu biết siêu nhiên..., thì phía sau những thứ ấy đều tàng ẩn một cách kín đáo một sự phỉnh gạt nào đó - imposture / lừa phỉnh, mạo nhận, dối gạt, giả mạo) và Chögyam Trungpa gọi đấy là một thứ "chủ nghĩa duy vật tâm linh". Thế nhưng tiếc thay lúc nào động cơ thúc đẩy chúng ta thì cũng chỉ có vậy: tìm sự thoải mái (cõi cực lạc, thiên đường hay chiếc xe hơi thật sang) và trốn tránh hiện thực (không hội nhập được với sự chuyển động của thực tại tức không đến gần được với Phật Giáo). Thật thế chúng ta chưa sẵn sàng để mở rộng con người của chính mình. Chögyam Trungpa luôn hăng say thuyết giảng và giải thích về chủ thuyết tâm linh duy vật của ông (tức tu tập hướng vào một chủ đích nhằm đạt được một thứ gì đó - duy vật) và các thứ cạm bẫy của nó - đấy cũng là những gì đã giúp cho Chögyam Trungpa trở thành một cây bút thật đáng nể: tương tự như ông đang cầm trong tay một con dao giải phẫu để cắt sâu vào cái khối ung bướu làm độc từ sự lầm lẫn của chúng ta (xin lưu ý là Fabrice Midal luôn tránh các thuật ngữ đặc thù đôi khi khó thấu triệt của Phật Giáo: chữ lầm lẫn ở đây có thể hiểu là vô minh, và phần trình bày trên đây cho thấy rõ ràng quan điểm của Chögyam Trungpa: tu tập theo phương pháp duy vật tâm linh là một sự sai lầm). Thời đại của chúng ta được đánh dấu bởi khuynh hướng xét lại giá trị của những bộ mặt đại diện cho uy quyền, đấy là những bộ mặt chỉ biết hướng vào chủ đích bào chữa tối đa cho mọi sự hung bạo độc đoán. Chögyam Trungpa luôn bày tỏ sự tán đồng của mình đối với chủ trương vạch mặt đó. Theo ông thì không có một thứ uy quyền nào, một giới luật đạo đức nào, một học thuyết nào hay một triết lý nào có thể gọi là chánh đáng để có thể tạo ra một tấm màn ngăn cách giữa chúng ta và thế giới được (tất cả mọi tiêu đề đều là giả tạo và lừa phỉnh và không thể nào ngăn chận hay giới hạn được sự tự do của con người, và thật ra thì con người cũng chỉ có thể tìm thấy được sự tự do tuyệt đối bằng con đường thiền định để giúp mình hòa nhập với thế giới và thực tại - tóm lại là chỉ có Phật Giáo mới có thể mang lại cho chúng ta một sự tự do đích thật, một sự tự do mang ý nghĩa của sự giải thoát). Chögyam Trungpa đặt chân lên đất Mỹ vào năm 1970, và ông đã tìm đủ mọi phương cách ngày càng sáng tạo hơn để thuyết giảng về Dharma (Đạo Pháp). Qua sự cố gắng đó và tương tự như là một phép lạ, ông đã khám phá ra được những khó khăn chính yếu trong việc hoằng Pháp trong thế giới Tây Phương và các khó khăn này thì nhiều người lại không để ý đến (Chögym Trungpa rất bén nhạy và sâu sắc và ông đã tìm được một phương pháp mang những người Tây Phương đến gần hơn với Đạo Pháp qua các ngành nghệ thuật). Ông tìm mọi cách để kết thân với các thi sĩ, nghệ sĩ, các nhà tư tưởng thuộc thời đại của ông và ông cũng đã thiết lập được một trường dạy kịch nghệ và một Viện Đại Học Phật Giáo đầu tiên cho toàn thể thế giới Tây Phương. Trong suốt cuộc đời mình không lúc nào ông lại không nghĩ đến việc nêu lên quan điểm của ông là nếu thiết lập được tín ngưỡng Phật Giáo tại Tây Phương thì đấy chính là cách duy nhất để giữ được sự trung thực đối với tinh thần giáo lý của Đức Phật (câu viết này của ông Fabrice Midal nêu lên quan điểm của Chögyam Trungpa đáng cho tất cả chúng ta phải suy nghĩ và để nhìn lại chính chúng ta và thực trạng của Phật Giáo tại một vài nước Á Châu. Theo Chögyam Trungpa thì Phật Giáo chỉ có thể trở thành một tín ngưỡng tinh khiết và trung thực được trong thế giới Tây Phương mà thôi. Thật thế ở Á Châu tuy Phật Giáo đã bám rễ từ hàng ngàn năm, thế nhưng đôi khi trong một vài quốc gia Phật Giáo lại cho thấy có chiều hướng trở thành một chiêu bài chính trị, một kế hoạch kinh tế hay chỉ đơn giản là một phương kế sinh nhai. Chính những thứ này đã khiến cho Phật Giáo trong các quốc gia đó lắm khi có vẻ như bị sa lầy và chỉ còn giữ được một ít màu mè giả tạo. Trong khi đó vừa mới đặt chân đến thế giới Tây Phương chưa đầy một thế kỷ mà Phật Giáo đã cho thấy có nhiều dấu hiệu "hồi sinh" với tất cả sự tinh khiết và trong sáng của nó - ít nhất là theo quan điểm của Chögyam Trungpa). Tại sao lại phải thiết lập một tín ngưỡng Phật Giáo đặc thù cho Tây Phương? Nếu không cố gắng tìm hiểu minh bạch mảnh đất quê hương của chính chúng ta thì chúng ta cũng sẽ không thể nào quán thấy được sự tinh khiết nguyên sinh ẩn chứa trong những lời giảng huấn của Đức Phật được. Nói một cách khác thì giáo huấn của Đức Phật cũng có thể ví như một hạt giống cho ra một cội cây và những quả ngọt thật mầu nhiệm có thể giúp chữa khỏi tất cả mọi khổ đau. Chúng ta phải đem hạt giống ấy để gieo vào ngôi vườn của mình để giúp nó nẩy mầm và trở thành một gốc cây lớn. Chúng ta không nên chỉ biết say mê hạt giống và quên đi mảnh đất của chính mình - nếu không thì sẽ chẳng có gì nẩy mầm trên mảnh đất đó được (một hình thức Phật Giáo "ngoại lai" và "vay mượn" sẽ tự cô lập và tự tách rời ra khỏi cộng đồng xã hội và sẽ không thể nào bắt rễ thật sâu vào một nền văn hóa khác được). Chúng ta có thể chiêm ngưỡng và ngắm nghía cái hạt giống đó, viết ra vô số những tập luận giải về cái hạt giống đó: thế nhưng sớm muộn gì thì cái hạt giống ấy cũng sẽ chết khô và chúng ta cũng sẽ chẳng bao giờ tận hưởng được những quả ngọt. Nếu chúng ta không biết quan tâm đến lịch sử của dân tộc chúng ta thì Phật Giáo cũng sẽ trở thành những gì thật xa vời với chúng ta. Thật thế có một số người Tây Phương đã biến thành người Nhật hay người Tây Tạng và đôi khi còn Tây Tạng hơn cả người Tây Tạng nữa (các người Tây Phương tu tập theo Thiền Học Zen thì mặc áo cà-sa màu đen hay màu trà may theo kiểu của các thiền sư Nhật, lễ bái cũng giữ đúng theo các nghi thức trong các thiền viện ở Nhật; nhang đèn, chuông mõ cũng mua từ bên Nhật. Các người tu theo Phật Giáo Tây Tạng thì cũng lập bàn thờ Phật đúng theo các nghi thức Tây Tạng, mặc áo cà-sa màu nâu đỏ...). Trong khi đó thì một số đông người Tây Tạng (hiện đang lưu vong tại tây Phương) thì lại chỉ muốn được trở thành người Tây Phương và được thụ hưởng sự tiện nghi của thế giới Tây Phương. Thật ra thì phần đông những người Tây Phương chúng ta (tu tập theo Phật Giáo) thường không hội đủ điều kiện để thực hiện được cách tu tập như thế, chẳng qua vì chúng ta có gia đình, nghề nghiệp, bổn phận..., chúng ta không thể rứt bỏ tất cả được để sống trong một tu viện như ở Nhật hay trong một ngôi chùa như ở Nepal. Khi nào vẫn còn là một thứ tín ngưỡng ngoại lai thì khi đó Phật Giáo dù có chứng tỏ là sẽ mang lại một sự lợi ích, cũng sẽ chẳng bao giờ thật sự giúp ích chúng ta một cách thiết thực được. Trong trường hợp ấy thì tu tập Phật Giáo cũng sẽ chẳng khác gì như học một thứ ngoại ngữ: dù cho có thể nói được ngoại ngữ ấy đi nữa thế nhưng chẳng bao giờ nó có thể tạo ra được một sự xúc động nào trong lòng chúng ta như khi chúng ta sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ của chính mình. Tu tập Phật Giáo dưới một hình thức ngoại lai như thế sẽ là một cách ngăn chận không cho Phật Giáo bắt rễ trong lòng chúng ta, và cũng sẽ không giúp cho chúng ta biến cải lấy chính mình được. Phật Giáo trong trường hợp ấy cũng sẽ chỉ là một chiếc áo khoác ngoài và cũng chỉ giữ được một lúc nào đó trên người mà thôi. Một hình thức Phật Giáo như thế sẽ không thể nào biểu trưng cho nguồn sinh khí của chính sự sống được. Người đại diện tiêu biểu nhất cho chủ trương ấy là Chögyam Trungpa và tôi cũng đã dựa vào chủ trương này để thành lập hiệp hội Prajna và Phila. Tiếng Phạn Prajna có nghĩa là sự trong sáng của trí thông minh (tức là Trí Tuệ, một từ gốc Hán-Việt có vẻ quen thuộc hơn với người đọc. Và cũng xin mạn phép nhắc lại là tác giả thường cố tránh không dùng các thuật ngữ Phật Giáo quen thuộc và cũng không đồng ý với cách dịch của một số học giả khác, và do đó ông cũng đã tự dịch các các thuật tiếng Phạn, Pali, Tây tạng... khi viết. Chữ Prajna thông thường được dịch sang các ngôn ngữ Tây Phương là Sagesse hay Wisdom, đấy là một cách dịch hoàn toàn gượng ép và rất sai), là nhãn quan của Đức Phật, hay còn gọi là quả mang lại từ sự tu tập. Đấy là cách giúp chúng ta không bị sa lầy trong cái ngã của mình để có thể quán nhận được mọi sự vật đúng với sự hiện hữu của chúng. Phila là một thuật ngữ trong tiếng Hy Lạp, thật vậy ngôn ngữ Hy Lạp đã bắt rễ rất sâu vào mảnh đất quê hương của chúng ta. Phila có nghĩa là tình thân thiện, nếu hiểu theo ý nghĩa rộng hơn thì đấy là lòng nhân ái ngập tràn phúc hạnh. Tuy nhiên và dù sao đi nữa thì cũng không được phép vơ đũa cả nắm, tức không được lầm lẫn giữa những lời giảng huấn của Đức Phật với các cách phát biểu của người Hy lạp - đấy cũng chính là sự lầm lẫn của không biết bao nhiêu tín ngưỡng khác trong lịch sử (tức là các tín ngưỡng độc thần của Tây Phương). Tóm lại là phải ý thức được cội nguồn đó (tức ngôn ngữ Hy Lạp) hầu có thể giữ được một vị thế độc lập nào đó đối với nó nhằm để giúp chúng ta có thể tìm thấy được những từ riêng biệt trong chính ngôn ngữ của chúng ta, những từ đó không thuộc vào ngôn ngữ Hy Lạp và cũng không thuộc vào các ngôn ngữ khác của Phương Đông. Chúng ta phải sáng chế ra các thuật ngữ sao cho thật thích nghi ngay trong những bước đầu chập chững này (khi nhìn lại Phật Giáo Việt Nam chúng ta không khỏi nhận thấy đầy rẫy những thuật ngữ ngoại lai gồm các từ Hán Việt của một thời đại xa xưa, chẳng hạn như các từ vô minh, vô thường, vô ngã, duyên khởi, hỷ xả, diệu đế, bát nhã, chính kiến, tà kiến, vô sắc, chánh đạo, ngũ giới, tam giới, dục giới, sắc giới v.v. và v.v... Các thế hệ ngày nay không còn hiểu được ý nghĩa của các từ ấy là gì nữa. Một Phật Giáo tách rời khỏi sự sinh hoạt của một xã hội đương thời thì sớm muộn cũng sẽ bị đào thải. Một hình thức Phật Giáo già nua vay mượn với những bước chân khập khễnh sẽ khó lòng tiến xa được. Fabrice Midal đã nhìn thấy ngay vấn đề này khi Phật Giáo Tây Phương mới chập chững với những bước đầu tiên, ông cảnh giác các học giả khác không nên sử dụng các ngữ tự mang nguồn gốc Hy Lạp phản ảnh một triết lý thật xa vời với tư tưởng Phật Giáo để nói lên giáo lý của Đức Phật). Phụ Lục Tôi muốn được tu tập Phật Pháp, Tôi muốn bước theo con đường của Đức Phật, Vậy tôi cần phải làm gì? Có cần phải dấn thân (xuất gia) hay không? Ý nghĩ bước theo một con đường tu tập tâm linh (xuất gia) lắm khi cũng khiến cho chúng ta phải sợ hãi. Chúng ta e ngại là rồi đây sẽ đánh mất sự tự do "của mình" và quyền quyết định cuộc đời "của mình". Nguyên nhân của sự e ngại ấy chẳng qua một phần cũng là do chúng ta quá mơ tưởng đấy thôi (mơ tưởng rằng mình đang được hưởng sự "tự do" - ít nhất là đối với người Tây Phương - và chủ động được "vận mạng" của chính mình. Trong câu trên đây tác giả đặt các chữ "của mình" trong hai dấu ngoặc kép, đấy là cách cho biết rằng chẳng có thứ gì là "của mình" cả, từ sự tự do cho đến quyền quyết định cuộc đời "của mình". Mạng lưới kinh tế, quảng cáo và bàn tay của những người làm chính trị đã tạo cho chúng ta cái ảo giác của sự tự do và quyền chủ động cuộc sống "của mình" đấy thôi). Thật ra thì tất cả chúng ta đang bị bủa vây trong một mạng lưới chiến lược do các nhóm tài phiệt khổng lồ, các tổ chức quảng cáo cũng như bàn tay của các chính trị gia giăng ra để kiềm tỏa và chi phối chúng ta. Trước đây chúng ta có bao giờ nghĩ đến việc tranh đấu để đòi hỏi tự do với một mức độ căng thẳng như ngày nay đâu? - thật thế trước đây nào có mấy khi chúng ta lại bị đẩy vào một tình trạng đồng nhất hóa thật cực đoan như hiện nay. Từ đầu này đến đầu kia của địa cầu, con người ngày càng có xu hướng tiêu thụ cùng một loại thực phẩm, ăn uống trong các đường dây nhà hàng được tổ chức giống nhau, ăn mặc cũng giống nhau, nghe cùng một thứ âm nhạc, truyền hình thì trình chiếu các thứ phim bộ sản xuất hàng loạt bằng phương pháp kỹ nghệ (các xu hướng tiêu thụ và cách sinh hoạt rập khuôn ấy là do quảng cáo tạo ra và phía sau lưng của quảng cáo là bàn tay của các nhóm tài phiệt khổng lồ, và nơi bàn tay của các nhóm tại phiệt ấy thì lại hình như có một sợi dây lòng thòng do một bàn tay khác của những người làm chính trị buộc vào, hay cũng có thể là ngược lại. Sống trong một xã hội thật đơn sơ của hơn hai mươi lăm thế kỷ trước thế mà Đức Phật đã chọn cho mình một sự tự do nào đó với chiếc bình bát trong hai tay và một manh áo cà-sa trên người. Sự tự do trên thân xác đó là để giúp Ngài tìm thấy một sự tự do cao rộng hơn, tuyệt đối hơn và đích thật hơn trong tâm thức của mình. Bước chân vào một ngôi chùa là để tìm thấy cho mình một sự tự do nào đó, ngồi vào một chiếc xe sang trọng là cách đánh mất sự tự do ấy). Cảm tính về sự tự do không mấy khi còn giữ được đúng với ý nghĩa đích thật của sự tự do nữa. Đối với Phật Giáo thì sự tự do trước hết phải là sự giải thoát khỏi guồng máy tư duy của chính mình (tác ý chi phối bởi nghiệp) và loại bỏ được các thái độ hành xử quen thuộc sẵn có của mình (hành động và ngôn từ điều khiển bởi tác ý). Do đó nếu không bước theo con đường tu tập thì không thể nào có thể tự giải thoát cho mình được. Trên một bình diện nào đó thì việc bước vào con đường không phải là không gặp các khó khăn thật sự. Quyết tâm luyện tập thiền định nào có giống như việc ghi danh theo học một khóa thể dục hay là đi nghỉ mát trong một vùng núi vào dịp cuối tuần đâu. Chúng ta đương nhiên cảm thấy việc quyết định bước vào con đường tu tập sẽ nhất định đòi hỏi chúng ta một sự dấn thân thật sự nào đó. Tôi vẫn còn nhớ rõ trường hợp của riêng tôi, thật thế trước khi quyết định tìm đến một ngôi thiền viện thì chính tôi cũng đã từng do dự rất nhiều, tôi có cảm giác hình như đấy là một lời mời được dành riêng cho tôi và riêng tôi thì tôi cũng nghĩ rằng rồi đây cái quyết định ấy biết đâu cũng sẽ có thể biến cải được cả sự hiện hữu của chính tôi sau này. Phật Giáo là một con đường nhắm vào chủ đích giúp chúng ta khám phá ra sự tỉnh thức trong hiện tại để hội nhập vào tâm điểm của hiện thực. Phật Giáo là cả một sự thử thách thật sâu xa, nào có phải là một thứ gì đó hời hợt chỉ có tính cách bề ngoài đâu. Sự dấn thân phải phát xuất từ nơi sâu kín của con người chúng ta, từ những ước vọng thâm sâu nhất của chúng ta. Sự dấn thân đó chỉ có thể thực hiện được khi nào chúng ta nhận thấy có một thứ gì đó đang tàn phá sự sống của chính mình và làm mất đi cả sự bao la của bầu không gian tràn đầy thi tính và cả những kích thước vô tận của hiện thực, và khiến cho chúng ta cũng không còn giữ được nguyên vẹn con tim của mình nữa (đau buồn). Tất cả những thứ ấy sẽ thúc dục chúng ta nên hướng vào những gì cao rộng hơn của tình thương yêu. Chỉ khi nào hội đủ can đảm để nhìn nhận một cách thành thật là những gì xảy ra trong đời mình không được hoàn hảo cho lắm, và chỉ khi ấy thì sự quyết tâm tu tập mới có thể phát sinh được. Có một cái gì đó trắc trở và chúng ta thì không còn muốn cứ tiếp tục sống như thế nữa, tức là cứ nhởn nhơ làm như chẳng có gì xảy ra. Chỉ khi nào đã ý thức được thực trạng đó thì khi ấy sự dấn thân của mình mới có thể mang đầy đủ ý nghĩa của niềm ước vọng sâu xa nhất của mình, tức là muốn quay về với con người đích thật của chính mình. Thiếu sự quyết tâm ấy thì nhất định chúng ta sẽ chẳng làm được gì cả. Hoặc là chúng ta chỉ biết theo dõi các chương trình Phật Giáo trên truyền hình để mà mơ ước, hoặc là ghi danh tham dự hết khóa tu học này đến khóa tu học khác thế thôi, và trên thực tế thì chẳng bước được một bước nào đáng kể cả. Có cần phải nhờ đến một vị thầy để giúp chúng ta bước theo con đường của Đức Phật hay không? Sự giúp đỡ của một người thầy thật cần thiết. Người thầy giúp chúng ta tiếp cận một cách cụ thể, sinh động và thực tế nhất với giáo huấn của Đức Phật. Qua sự tiếp xúc với một người thầy chúng ta sẽ không còn quán thấy Đức Phật như một huyền thoại nữa mà đấy sẽ là một kinh nghiệm cảm nhận đích thật, và những kinh nghiệm ấy thì tất cả mọi người đều có thể cảm nhận được. Ngược lại nếu không có một người thầy hướng dẫn thì dù cho có cố gắng tu tập cách mấy đi nữa thì hình như chúng ta vẫn cứ cảm thấy còn thiếu một cái gì đó trong các kinh nghiệm cảm nhận của mình, và cũng sẽ rất khó cho chúng ta hoàn toàn vững tin vào những cảm nhận ấy (người thầy là một "cơ sở cụ thể" để chúng ta nhìn vào và để trông thấy Phật). Nhờ những gì mà người thầy chỉ dạy chúng ta chúng ta sẽ nắm bắt được cội nguồn giáo lý mênh mông của Phật Giáo. Chúng ta sẽ không còn cảm thấy là mình đang đứng trước một thư viện khổng lồ nữa mà đã nắm được trong tay chiếc chìa khóa để giúp mình bước vào. Người thầy là hiện thân của một sự hiểu biết mạch lạc về Đạo Pháp do chính vị ấy đã phát huy được qua kinh nghiệm của mình trên đường tu tập. Hơn nữa người thầy phải luôn tìm cách đối thoại với từng người, và phải giảng giải như thế nào để có thể hồi đáp được sự mong đợi của mỗi người, của chính bạn, của cá nhân bạn - Dharma (Đạo Pháp) qua sự hiện diện mang tính cách cá nhân đó của một người thầy sẽ trở nên cụ thể và sinh động hơn. Dù sao thì cũng phải giữ một sự thận trọng nào đó, phải tránh các thứ ước mơ và ảo tưởng khi nhìn vào người thầy, đấy là những gì dễ khiến cho chúng ta bị lạc hướng. Người thầy không phải là một ngôi sao màn ảnh mà bạn phải tôn sùng như một thần tượng. Sử dụng sự mê hoặc không phải là một cách hành xử đúng đắn, thế nhưng đấy lại là những gì thường thấy xảy ra trong chốn chùa chiền. Vị thầy uy nghi trên bục giảng và thật khó để đến gần. Bạn đến chùa là để thán phục vị thầy không phải là để tiếp xúc với vị ấy. Con đường đó không phải là con đường của Dharma (Đạo Pháp) mà chỉ là con đường của chính trị. Một trong các ảo tưởng thường thấy xảy ra trong thế giới Tây Phương là khi đã là thầy thì tất nhiên là đã đạt được giác ngộ. Càng ít dịp để tiếp xúc với người thầy thì bạn lại càng dễ tạo ra cho mình nhiều hình ảnh tưởng tượng về vị ấy. Một người thầy càng có vẻ xa lạ, càng tỏ ra cách biệt với bạn thì mọi thứ ảo tưởng của bạn về sự giác ngộ của vị ấy lại càng dễ để phát sinh ra hơn. Thật ra thì cũng chẳng có gì là rắc rối lắm. Một người thầy đích thật là một người mà ngôn từ khi thốt ra có thể mang bạn đến gần với giáo huấn của Đức Phật. Nguyên nhân khiến không thể đến gần được với một vị-thầy-siêu-sao chính là vì sự ngưỡng mộ của bạn đối với vị ấy đã được thành hình dựa vào sự cách biệt giữa tính cách vĩ đại của vị ấy và sự tầm thường của bạn. Một người thầy đích thật thì lúc nào cũng chỉ nghĩ đến là phải làm cách nào để có thể giúp bạn tìm thấy được sự vĩ đại của chính bạn. Vị ấy giảng dạy cho bạn chính là để giúp bạn nhận thấy được là Dharma (Đạo Pháp) đang hiện hữu trong lòng đôi bàn tay của bạn. Đức Phật cũng chẳng ở đâu khác hơn là trong con tim của chính bạn. Thế nhưng một vị thầy chỉ có thể giúp bạn khi nào bạn biết mở rộng lòng mình để đón nhận vị ấy và thừa nhận vị ấy là một người thầy. Nếu bạn nghĩ rằng người giảng dạy cho bạn chỉ là một người dốt nát thì bạn cũng sẽ nhận được những lời giáo huấn của một người ngu đần. Nếu bạn cho rằng vị giảng huấn cho bạn là một người hiểu xa biết rộng thì bạn cũng sẽ nhận được sự truyền thụ của một người uyên bác. Nếu bạn nghĩ rằng người thầy chính là người đã mở ra cho bạn cách cửa của Dharma (Đạo Pháp) thì bạn cũng sẽ đón nhận được giáo huấn của chính Đức Phật. Điều ấy thật hiển nhiên. Người thầy trước hết phải là người biết hướng dẫn bạn trong việc tu tập và giúp bạn tìm hiểu kinh sách dựa vào sự hiểu biết cũng như các kinh nghiệm của người ấy. Tóm lại đấy là cách mà người thầy vạch ra cho bạn một con đường đúng đắn. Ở một cấp bậc cao thâm hơn thì người thầy sẽ giúp bạn biết mở rộng con tim của mình. Khi nhìn vào thái độ hành xử luôn trung thực của người thầy đối với Dharma (Đạo Pháp) thì bạn cũng sẽ phát lộ được sự trìu mến và tình thương yêu mà trước đây bạn chỉ biết nhốt chặt chúng trong đáy lòng mình. Người thầy luôn khuyến khích bạn phải bạo dạn và tự tin. Lòng trân quý Dharma (Đạo Pháp) của người thầy có khả năng lan tỏa sang người khác. Lòng trân quý đó sẽ biến cải được bạn. Chỉ khi nào xảy ra sự gặp gỡ với tư cách hoàn toàn cá nhân giữa hai con người với nhau (giữa người thầy và người đệ tử với một sự riêng tư và bình đẳng nào đó) thì khi ấy người thầy mới có thể mang đầy đủ ý nghĩa của một người thầy. Đấy là một sự gặp gỡ của tình yêu thương. Một con tim hòa nhập với một con tim. Nếu muốn biết là mình đã tìm thấy đúng vị thầy của mình hay không thì chỉ cần nêu lên một vài câu hỏi thật đơn giản. Mỗi khi được ở bên cạnh vị ấy thì đấy có phải là thêm một dịp khiến cho bạn cảm thấy mình muốn bước theo vết chân của Đức Phật hay không, tức có nghĩa là bạn có cảm thấy mình muốn được trau dồi thêm khả năng chú tâm của mình để quán thấy hiện thực với một ý nghĩa cao rộng hơn hay không? Những lời giảng dạy của vị ấy có giúp bạn tìm thấy sự tự tin nơi phẩm giá của chính bạn hay không? Vị ấy có chỉ dạy cho bạn con đường thiền định hay không? Vị ấy có hàn huyên với bạn một cách ngay thật và không tìm cách ẩn náu phía sau cái vẻ đạo mạo của mình hay không? Vị ấy có tận tình giúp bạn kết nối với một dòng truyền thụ nào hay không? Vị ấy có đủ sức để trả lời "không" với tất cả sự dịu dàng nhưng đầy quả quyết nhằm để giúp bạn biết tự vấn lấy mình hay không? Đấy là các câu hỏi sẽ giúp bạn tìm thấy được một người thầy. Lắm khi cần phải để ra một thời gian dài để tìm được một vị thầy mà mình có thể đặt hết lòng tin. Dù cho mất thì giờ thì cũng vẫn hay hơn. Không thể nào hấp tấp được. Thế nhưng một khi sự tin tưởng đã phát động trong lòng mình thì khi đó nhất thiết phải hỏi người thầy cho thật rõ ràng là có sẵn sàng chấp nhận bạn làm đệ tử của vị ấy hay không? Nếu vị ấy chấp nhận thì khi đó sự tương kết mới có thể xảy ra được. Sự tương kết đó tuy đơn giản nhưng mang đầy xúc động. Nếu thật sự bạn muốn tìm cho mình một vị thầy thì phải loại bỏ ngay mọi ý nghĩ là vị ấy phải như thế này hay là như thế kia. Hãy đặt hết lòng tin nơi con tim của bạn và cứ để cho nó hướng dẫn bạn. Khi nào đã gặp được người thầy thì cứ bước theo vị ấy. Sự tương kết đó phải được xây dựng trên sự kính trọng và tình thương yêu. Kính trọng người thầy là cách giúp bạn biết giữ gìn Dharma (Đạo Pháp) như là tiếng réo gọi mầu nhiệm của vô-ngã (biết kính trọng người thầy là một cách quên đi cái ngã của chính mình để có thể đến gần hơn với Đạo Pháp). Yêu quý người thầy là cách đặt tình yêu thương vào một vị trí ngày càng cao hơn. Nếu cần thì cứ để cho con tim hướng dẫn bạn. Tình thương yêu và sự kính trọng đó là một nguồn năng lực tuyệt vời giúp bạn có thể đi thật xa trên con đường. Nếu bạn được một người nào đó thật siêu việt giảng dạy cho bạn thì biết đâu bạn cũng sẽ dễ bị choáng ngợp bởi vị ấy. Và đấy cũng sẽ là những gì có thể khiến cho bạn dễ bị thối chí bởi vì bạn có thể cảm thấy mình không sao theo kịp vị ấy được. Đối với Dharma thì khác hẳn. Bạn tiếp nhận những lời giáo huấn của một vị thầy thì đấy cũng chỉ là cách mà vị ấy truyền đạt lại những gì mà vị ấy đã tiếp nhận được từ trước. Đấy cũng chính là cách giúp bạn kết nối với một dòng truyền thụ mà chính Đức Phật là người khởi xướng. Dù cho người thầy có xuất chúng đến đâu đi nữa thì vị ấy cũng chỉ truyền đạt lại những lời giáo huấn không phải là do chính mình sáng tạo ra. Vị ấy chỉ giúp bạn nối kết với một thứ gì đó vượt cao hơn cả vị ấy. Sự kính trọng của bạn đối với vị thầy chẳng những không hề khiến cho bạn bị bóp ngạt (những lời giảng huấn của người thầy không phải là một sự áp đặt của người thầy mà đấy là giáo huấn của Đức Phật vượt lên trên cả người thầy) mà đúng hơn là chỉ nhằm giải thoát cho bạn - và sự kính trọng ấy đôi khi cũng được gọi là lòng mộ đạo. Cũng giống như trường hợp của bạn, người thầy cũng được thúc đẩy bởi sự kính trọng và tình yêu thương đối với Đức Phật. Và Đức Phật thì trước đây cũng từng là một chúng sinh phục vụ cho chúng sinh. Phải tu tập ở đâu? Và phải làm thế nào để tìm được một tu viện thích hợp với mình? Các tu viện thì thật đa dạng thế nhưng con người (tức các nhà sư nơi tu viện) thì cũng chỉ là những con người, có thể đôi khi họ còn tỏ ra vụng về nữa, và biết đâu họ cũng có thể đã đánh mất cả sự nối kết với cội nguồn (tức giáo lý Phật Giáo). Dù cho các thể chế tôn giáo có đứng ra để chứng nhận tước vị của họ đi nữa thế nhưng không có gì bảo đảm cho sự xứng đáng mà họ đang được thừa hưởng. Ngay cả Phật Giáo Tây Tạng đôi khi cũng quay lưng lại với di sản ngàn năm và cả ngọn đuốc sáng ngời do các vị đại sư tiên phong đã trao lại, chẳng hạn như các vị đại sư Kalou Rinpoché, Dilgo Kyentsé, Lama Guendune, Lama Yéshé, Chögyam Trungpa (một số nhà sư thật lỗi lạc có những tư tưởng thật cấp tiến thế nhưng vẫn bị một số đệ tử thủ cựu sau này chê trách). Một vài đệ tử của các vị ấy đã quên mất đi bài học của những người cha mình để lại (chữ "cha" trong câu trên đây có thể hiểu theo quan niệm của người Á Đông về người thầy: thầy ngang hàng với cha, đấy là "đấng từ phụ", gọi tắt là "sư phụ"), đấy là chưa kể đến các trường hợp còn phản bội lại cả thầy mình nữa. Lắm khi trông thấy việc truyền giáo bị bóp méo đã khiến cho tôi phải bật khóc nức nở (một người Tây Phương bật khóc khi nhìn thấy một vài vị thầy Tây Tạng thuyết giảng không trung thực. Còn phần chúng ta thì sao? Chúng ta nên cười hay nên khóc khi trông thấy Phật Giáo bị biến thành một công cụ để mưu đồ, một chiêu bài để lợi dụng, một phương kế để sinh nhai?). Chính Thiền Học Zen cũng đã từng gặp những khó khăn thật trầm trọng. Học phái này (tại Tây Phương) đã lầm lẫn giữa thứ bậc trong hàng giáo phẩm được quy định ở Nhật với sự quán triệt về giáo huấn của Đức Phật - mặc dù Taisen Deshimaru tại Pháp và Shunryu Suzuki tại Hoa Kỳ đã từng cảnh giác về sự sai lầm này (đây là hai vị thiền sư người Nhật đã mang thiền học Zen vào Âu Châu và Hoa Kỳ). Cả hai vị này đã từng giải thích là nếu được phong làm thầy - tức là một vị shiho - thì đấy chỉ có nghĩa là một người được cầm trên tay một mảnh bằng do hàng giáo phẩm cấp phát chứng nhận là mình có hạnh kiểm tốt thế thôi, cái mảnh bằng ấy không hề biểu trưng cho một thành quả tu tập nào cả. Tuy nhiên cũng có rất nhiều trung tâm Phật Giáo giảng dạy về thiền định có thể giúp bạn tu học về giáo huấn của Đức Phật trong những điều kiện thật tốt, kể cả có thể giúp cho từng người thực hiện được những ước vọng của riêng mình (có nghĩa là xuất gia). Nơi các trung tâm đó nhờ có đông đảo các Phật tử làm công quả, và nhất là nhờ vào sự cố gắng và nhiệt tình của tăng đoàn cũng như sự tận tụy của các vị thầy, bạn sẽ có dịp thu đạt được nhiều kinh nghiệm học hỏi quý giá, được tra cứu các cách kinh sách thật tuyệt vời, và nhất là được thực hành việc tu tập. Tôi chỉ có một lời khuyên duy nhất: phải thật cảnh giác, phải xét đoán với tất cả sự thận trọng tu viện mà bạn muốn xin vào để tu học. Bạn đang bước một bước thật tuyệt diệu, và do đó cũng không nên bước mà không suy nghĩ, phải xét đoán thật cẩn thận bối cảnh trước mặt và gia tăng gấp đôi sự cảnh giác. Nhận định thật minh bạch bao giờ cũng tốt hơn. Đấy chẳng phải là một bài học của chính Đức Phật để chúng ta nhìn vào hay sao? (Đức Phật đã gặp nhiều vị thầy và đã tu tập khổ hạnh nhiều năm nhưng không có kết quả). Không nên để xảy ra như thế. Đối với riêng tôi thì bước theo con đường Phật Giáo là một dịp may mà tôi cho là đẹp nhất trong cuộc đời tôi. Trong lòng tôi luôn dâng trào niềm biết ơn sâu xa và vô tận đối với các vị thầy của tôi. Ngày còn nhỏ tôi đã phải trải qua nhiều đau thương thật cay nghiệt, và tôi đã từng phải xa lìa tất cả. Lúc ấy nào tôi có ngờ trước là cuộc đời lại có thể tuyệt vời đến như thế này đâu. Nếu biết nhìn cuộc sống xuyên qua Dharma (Đạo Pháp) thì tất cả mọi sự không những sẽ trở nên hoàn hảo và thấm đượm một màu hồng, và không những mình được sống trong sự thanh thản và phúc hạnh, mà còn hơn thế nữa là bất cứ một cảnh huống nào xảy ra thì cũng đều trở thành những dịp may để giúp mình tự biến cải lấy mình và giúp mình quán nhận được hiện thực ngày càng sâu sắc hơn (đây là một khía cạnh thật đặc thù của Phật Giáo Tan-tra: dù là nghịch cảnh thì đấy cũng vẫn là một dịp may giúp mình tu tập nhằm biến cải chính mình và giúp cho cuộc sống của chính mình ngày càng trở nên tươi đẹp hơn). Bước theo vết chân của Đức Phật, cuộc sống của mình sẽ biến thành một cuộc phiêu lưu tràn đầy một sức sống thật cô đọng và sâu xa không có gì có thể so sánh được. Thật giản dị: vì đấy là cuộc sống của chính bạn (chúng ta sống thế nhưng sự sống ấy thật ra chỉ là sự vận hành của nghiệp lực lôi kéo bởi sự trói buộc của các hiện tượng đang chuyển động chung quanh. Bước theo vết chân của Đức Phật là cách giúp mình quay về với chính mình để sống thật với chính mình). Bures-Sur-Yvette, 12.07.12 Hoang Phong chuyển ngữ
-
@ Auco Vâng, theo Auco là thế. Tôi cũng cảnh giác rằng đồ giả thì đời nào cũng có. Sử của Việt còn bị nhà Minh, Thanh cạo sửa thì tranh chỉ là một chi tiết cỏn con. Ấy là theo ý kiến chủ quan của tôi. Hiện tượng là một chuyện. Hiện tượng chưa nói lên bản chất vấn đề. Tôi xin trích một thông tin sau: Tôi cứ trả giá rằng một đời người là 50 năm hoặc 60 năm. Thế thì tôi tính như sau Với 50 năm x 21 đời = 1050 năm Với 60 năm x 21 đời = 1260 năm Tôi cho bức tranh của Auco có từ thời cả Minh lẫn Thanh đi! Thế thì: Nhà Minh tồn tại từ năm 1368 đến năm 1644 tức tồn tại được 276 năm Nhà Thanh tồn tại từ năn 1644 đến năm 1911 tức tồn tại được 267 năm Tới nay 2012 tính thêm 101 năm nữa thì tổng cộng là 276 + 267 + 101 = 644 năm Vậy 1050 năm hoặc 1260 năm tồn tại của dòng tranh vẫn lớn hơn 644 năm, tức có trước cả 3 thời đại. thế thì ai bắt chước ai? Thiên Đồng
-
Xác nhận danh sách học viên đóng học phí lớp PTLV nâng cao 05 học kỳ 01 1. Trần Thị Phương Dung, Katya Tran, 3.000.000đ 2. Trần Văn Tuấn, vohinh12 ,3.000.000đ 3. Trần Minh Nhật, Mộc Bản, ,3.000.000đ 4. Nguyễn Xuân Dũng, nguyenxuandung , 3.000.000đ 5. Nguyễn Anh Tuấn, one_ newbie, 3.000.000đ 6. Bùi Thị Thanh Thủy, cachua2008, 3.000.000đ 7. mutinhoc, 3.000.000đ.
-
Chuyện gì sẽ xảy ra vào ngày tận thế (Nguoiduatin.vn) - Dựa vào lời tiên đoán của người Maya, đến nay, một bộ phận nhân loại khẳng định, ngày 21/12/2012 là ngày trái đất bị hủy diệt bởi một thảm họa nào đó. Space đã liệt kê ra 5 kịch bản có thể xảy ra vào ngày tận thế. Theo lịch của người Maya, đông chí của năm nay sẽ đánh dấu sự kết thúc của một chu kỳ 144.000 ngày. Chu kỳ đó đã lặp lại 12 lần trong lịch của người Maya. Lần thứ 13 sẽ chấm dứt vào ngày 21/12/ 2012, khép lại một chu kỳ lịch kéo dài 5.126 năm. Một hành tinh khác sẽ lao trúng trái đất Theo một kịch bản tận thế nói một hành tinh có tên Nibiru sẽ lao trúng trái đất vào ngày 21/12 năm nay. Hành tinh Nibiru được phát hiện bởi người Sumer (sống ở thiên niên kỷ thứ tư trước Công nguyên và đạt tới trình độ khoa học kỹ thuật rất cao trước khi diệt vong). Tuy nhiên, theo Don Yeomans, giám đốc Chương trình Các vật thể gần trái đất của NASA, tuyên bố: “Nibiru là một trò đùa nực cười vì nó không hề tồn tại. Hành tinh ấy chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng của những nhà khoa học giả danh”. Các hành tinh xếp thẳng hàng Một “giả thuyết” khác cho rằng vào ngày 21/12/2012, trái đất, mặt trời cùng nhiều hành tinh ở trung tâm của dải Ngân Hà sẽ xếp thành một hàng thẳng. Điều này sẽ làm xáo trộn năng lượng mà địa cầu nhận từ mặt trời tăng vọt, dẫn đến tình trạng hủy diệt trên hành tinh của chúng ta. “Hiện tượng các hành tinh xếp thẳng hàng sẽ không xảy ra vào ngày 21/12/2012. Ngay cả khi hiện tượng đó xảy ra, nó cũng chẳng gây nên bất kỳ vấn đề nào”, ông Yeomans khẳng định. Nguyên nhân là do khoảng cách giữa mặt trời và mặt phẳng Ngân Hà vào khoảng 67 năm ánh sáng. Vì thế ngày mà mặt trời di chuyển qua mặt phẳng sẽ chỉ xảy ra trong vài triệu năm nữa, chứ không phải năm nay. Siêu bão mặt trời bùng phát Mặt trời thường xuyên phóng ra những luồng hạt mang điện tích. Hiện tượng đó xảy ra thường xuyên và tăng, giảm theo chu kỳ gần 11 năm. Khi những hạt mang điện tích tới trái đất, chúng có thể tạo ra cực quang, phá hỏng vệ tinh nhân tạo và đường dây điện. Tất nhiên, bão mặt trời không gây nên tác động lâu dài đối với trái đất. Các tài liệu ghi nhận địa cầu từng hứng chịu một trận bão mặt trời siêu mạnh vào năm 1859. Vì thế nhiều người lo ngại một trận bão mặt trời như thế sẽ gây nên hậu quả nghiêm trọng đối với các hệ thống dẫn điện – thứ rất quan trọng đối với nền văn minh. “Song chúng ta chưa tìm được bằng chứng nào cho thấy một siêu bão mặt trời sẽ bùng phát vào ngày 20/12”, Yeomans phát biểu. Từ trường trái đất đảo ngược Những người ủng hộ kịch bản này cho rằng hai cực địa lý hoặc hai cực từ của trái đất sẽ hoán đổi vị trí trong năm 2012 khiến nhiều hiện tượng bất thường xảy ra – như địa cầu sẽ di chuyển hỗn loạn. Song các nhà khoa học tuyên bố sự đảo ngược của từ trường địa cầu khó xảy ra vì lực hút từ mặt trăng khiến chuyển động xoay của trái đất luôn ổn định. Hai cực từ của địa cầu có thể đảo ngược, song sự kiện ấy chỉ xảy ra theo chu kỳ 500.000 năm. “Không có bất kỳ bằng chứng nào cho thấy từ trường trái đất sẽ đảo ngược vào ngày 21/12/2012”, Yeomans nói. Ngay cả khi hai cực từ của địa cầu hoán đổi vị trí, loài người sẽ không phải đối mặt với bất kỳ hiểm họa nào. Việc duy nhất chúng ta phải làm là đổi hướng của la bàn, Yeomans nói thêm. Va chạm giữa trái đất và một thiên thể lớn Địa cầu thường xuyên hứng chịu sự bắn phá của các sao chổi và thiên thạch, song những vụ va chạm lớn hiếm khi xảy ra. Vụ va chạm lớn gần nhất đã xảy ra chừng 65 triệu năm trước khiến khủng long tuyệt chủng. Mặc dù nguy cơ đụng độ giữa trái đất với một thiên thạch lớn là rất nhỏ, giới thiên văn vẫn liên tục quan sát những vật thể gần địa cầu. Yeomans cho biết, các nhà khoa học chưa phát hiện bằng chứng về việc một vật thể lớn nào đó sẽ đâm trúng trái đất trong năm 2012. Theo Space/Khampha ============================== Kinh khiếp quá! Ngày đó ai rủ mình đi nhậu thì nhậu thôi.
-
Bãi đá cổ Sapa là cuốn Kinh Dịch của người Việt? 12/12/2011 06:17 | Phóng sự - Khám phá (VTC News) - Toàn bộ bức họa trên đá nói về nguyên lý của sự vận động vĩ mô từ khởi nguyên cho đến kết thúc và có tính chu kỳ của vũ trụ.Nếu tính cả 18 hòn đá đã bị gài mìn nổ tung để làm đường xuyên qua bãi đá, thì tổng cộng bãi đá cổ Sapa có 216 hòn đá có hình vẽ. Đây chính là số hào Dương trong 64 quẻ Dịch. Theo ông Nguyễn Vũ Tuấn Anh, từ số lượng hòn đá, ông đã nghĩ ngay đến chuyện bãi đá cổ Sapa ẩn chứa những bí ẩn của Kinh Dịch. Phần lớn các nhà khoa học cho rằng, bãi đá cổ Sapa được hình thành bởi các tộc người khác nhau qua nhiều giai đoạn thời gian và họ căn cứ vào sự định cư của tộc người Tày và người Mông ở đây trong thời gian 300 đến 900 năm trở về trước để tính thời gian ra đời của hình khắc. Như vậy, những hình khắc này là của các dân cư của hai dân tộc này. Do đó, những hình vẽ cũng biểu đạt những vấn đề đơn giản liên quan đến cuộc sống như nhà cửa, ruộng vườn, tục cúng bái… Tuy nhiên, ông Tuấn Anh cực lực phản đối điều đó. Không thể có chuyện các cư dân trong vùng khắc chơi lên những tảng đá này. Nếu cư dân ở đây có ham thú khắc chơi lên đá, thì những vùng khác ở Lào Cai, ở các tỉnh khác cũng phải rất phổ biến hình khắc trên đá. Nhưng sự thực là hình khắc trên đá ở nước ta vô cùng hiếm. Ông Nguyễn Vũ Tuấn Anh đã nghiên cứu rất kỹ các hình khắc trên bãi đá cổ Sapa và ông khẳng định rằng, hầu hết những hình khắc trên bãi đá đều có những hình tượng độc đáo lý giải sự khởi nguyên và tính tuần hoàn của vũ trụ, chứ không phải là những hình khắc nhăng cuội. Ông Tuấn Anh đặc biệt chú ý đến một hòn có hình vẽ như sau: Hình khắc này là trẻ con vẽ chơi hay mô tả sự khởi nguyên của vũ trụ? Đã có nhiều nhà nghiên cứu say mê giải mã hình khắc này theo cách khác nhau. Đáng chú ý là sự lý giải của ông Phạm Ngọc Liễn. Điều đặc biệt là nhà nghiên cứu này cũng cho rằng, toàn bộ bãi đá cổ Sapa là những kiến thức về vũ trụ có liên quan đến Kinh Dịch. Xin trích một đoạn giải mã hình vẽ trên của ông Liễn: Nổi bật trên bức chạm đá là hình mặt trời. Trái đất bố cục ở hai phía Đông và Tây, nhưng hơi chếch nhau. Phải chăng là sự diễn tả cao thấp khác nhau của các hành tinh theo sự nhận biết của con người lúc đó? Bao quanh trời đất là hai dải các hình song song không khép kín; bên trái gồm ba dải song song không đều nhau, chạy dài liên tục bắt đầu từ Tây Bắc chạy xuống sát gần trái đất rồi hơi uốn lượn về phía Đông Nam. Dập bản khắc trên bãi đá cổ Sapa. Bên phải cũng là ba dải song song bắt đầu từ giữa hình khắc, rồi uốn vòng lên theo xích đạo trái đất, uốn vòng lên theo hướng Đông Bắc, bao lấy mặt trời ở phía Đông. Nửa trên của các dải này chỉ còn hai dải song song kéo dài liên tục lên Đông Bắc kết thúc ở điểm cao ngang với mặt trời và ba dải ở phía Tây Bắc. Dải thứ 3 ở ngoài cùng bên Đông chỉ có một đoạn vòng cung đến ngang tầm điểm cực Bắc của trái đất thì kết thúc. Dải này có 3 đoạn dài ngắn không đồng đều, đoạn ngắn nhất ở khoảng giữa có hai vạch đứt ở hai đầu. Sách Dịch cổ cho ba dải bao quanh hình vẽ là Nội Quái, tượng trưng cho các lớp vỏ trái đất, còn ba dải còn lại là Ngoại Quái tượng trưng cho các giải sông Ngân Hà… Vẽ bậy lên hòn đá cổ. Nhà nghiên cứu Dịch học Hống Quang cho đây là lục quyển bao gồm: vũ quyển (nói về thời kỳ hỗn mang chưa có hình dáng cụ thể ban đầu), khí quyển, tầm quyển, sinh quyển, trí quyển, linh quyển, thuộc về giai đoạn vũ trụ đã định hình từ trạng thái hỗn mang vô cực đã thành thái cực…. Nhận thức của nhân loại đến thời Trung cổ, mới cách chúng ta khoảng 400 trăm năm mà còn tranh cãi quyết liệt nhức nhối về các vấn đề liên quan đến tri thức thiên văn, thế mà, từ mấy ngàn năm trước, tổ tiên ta đã chạm khắc “mô hình vũ trụ” vào đá cổ Sapa, khẳng định cả mặt trời và trái đất đều là khối cầu tròn và đang quay. Chiều quay của trái đất từ Tây sang Đông ngược chiều kim đồng hồ, đúng như chiều quay của các hình đúc trên mặt trống đồng cổ của dân tộc. Sự chuyển động được biểu hiện bằng hình xoáy ốc từ tâm ra ngoài thật độc đáo. Đó là biểu trưng sức mạnh nội tâm của tinh cầu, không có sự can thiệp từ bên ngoài. Ở vòng xoáy ốc ngoài cùng nẩy lên một nhánh cây. Phải chăng đây là biểu hiện của sự sống, của sinh quyển? Nhánh cây này có hai chòm lá ngả về phía Đông là phía mùa xuân. Như vậy quá đúng với triết lý Âm Dương Ngũ Hành của các vị kỳ lão hiền triết Phục Hy, Thần Nông thời thượng cổ. Du khách khắc hình nhà thờ đá lên hòn đá cổ. Vòng xoay của mặt trời cũng do nội lực xoáy ốc từ trong ra ngoài, ngược hướng với chiều quay của trái đất từ Đông sang Tây. Một chi tiết cần được chú ý là tổ tiên ta mô tả mặt trời và trái đất đường kính gần ngang nhau, như một “cặp sao đôi”. Đây là ngẫu nhiên hay có chủ định từ trước? Từ nguồn trí thức linh giác nào mà ông cha ta khắc như vậy? Điều này rất đáng được suy nghĩ. Bên cạnh trái đất tròn còn có một hình vuông nhỏ. Đây không lặp lại sai lầm của Hoa tộc thời cổ là “trời tròn đất vuông”. Ở đây hình vuông đặt cạnh đất tròn thì làm sao nói chệch đi là trời tròn cho được? Phải thấy ở đây người nghệ nhân vô danh đã nắm Kinh Dịch rất vững và đã chuyển hình chạm khắc sang một đề tài mới: “Mẹ tròn con vuông”. Theo luận thuyết Âm Dương, đất thuộc về âm, về người mẹ, còn trời thuộc về dương, về người cha. Thành ngữ tiếng Việt nói cha trời, mẹ đất chính là vì vậy. Trong hình khắc, mảnh vuông nhỏ đặt cạnh mẹ đất phải hiểu là “Mẹ tròn con vuông”, một thành ngữ nói lên sự mong mỏi, coi như lời chúc tụng đối với các bà mẹ bước vào kỳ sinh nở phải được “vuông tròn” nghĩa là thuận lợi, không gặp rủi ro trắc trở khi vượt cạn một mình. Ý nghĩa nhân văn ở đây quá rõ, nó hoàn toàn khác với quan điểm tĩnh tại “Trời tròn đất vuông” của người Trung Hoa cổ đại. Theo ông Phạm Ngọc Liễn, trí tuệ của bức vẽ này còn ẩn sâu nhiều điều hơn nữa. Theo ông, có thể gọi bức chạm khắc này là pho sách khá hoàn chỉnh mô tả khởi nguyên của vũ trụ mà có thể đặt cho nó cái tên là: Mô hình vũ trụ. Điều đặt biệt là cả mảng giữa của hình khắc dành cho con người. Tư tưởng chủ đạo ở đây là sự thể hiện rất rõ “luận điểm tam tài” của Kinh Dịch. Dưới ký hiệu quẻ Càn gồm ba vạch liền xếp chồng chéo lên nhau đặt hơi chếch về hướng Tây Nam – Đông Bắc là hai hình người một nữ một nam được thể hiện bằng hình song song mang tính ước lệ nhiều hơn tả thực. Người nữ đứng hai chân dang rộng phía trên giải ngoại quái, bộ phận sinh dục khuyếch đại rất rõ. Tư thế chếch theo hướng Đông Bắc – Đông Nam, đầu nhô gần sát vạch giữa quẻ Càn. Tay phải cầm một khí cụ dài giơ thẳng chếch ở khoảng trống giữa mặt trời và ký hiệu quẻ Càn. Người nam đứng ở trên giải Nội quái, song từ phần ngang hông trở xuống không được thể hiện. Bộ phận sinh dục cũng phóng to hơn bình thường. Phía trên đầu người nam là ký hiệu quẻ Sơn Địa Bác gồm quẻ Chấn chồng lên quẻ Khôn, đặt xoay dọc giữa quẻ Ngoại Quái và hình vuông nhỏ. Ký hiệu cuối cùng đặt ở dưới vòng cung Ngoại Quái, phía bên hông gần đoạn ngắn ở giữa nối với hai đoạn dài hai bên là ký hiệu phồn thực. Trên đây chỉ là một trong số rất ít những lý giải về hình vẽ trên bãi đá cổ Sapa và cũng không được chú ý lắm. Phần nhiều người ta nghiên cứu theo hướng, đây là những hình khắc thông thường, thậm chí… lăng nhăng. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh, ông Phạm Ngọc Liễn đã lý giải đúng hướng, nhưng với hình vẽ trên thì nội dung của nó còn sâu sắc hơn nhiều sự kiến giải của ông Liễn. Ông Nguyễn Vũ Tuấn Anh ở Sapa 14 năm trước. Ảnh: Tuấn Anh. Theo ông, toàn bộ bức khắc thể hiện cội nguồn của Kinh Dịch và những giá trị đích thực của nó. Lần lượt những ký hiệu được đánh số trên hình được ông giải mã và bổ sung theo thứ tự dưới đây: Hình 1: Người đàn ông biểu tượng của tính thuần dương ở giai đoạn khởi nguyên của vũ trụ. Hình 2: Trong Kinh Dịch quái Càn thuộc dương, ba vạch dài biểu tượng tính thuần dương không có giới hạn (vô lượng vô biên). Hay nói cách khác: Đây chính là tình trạng của thái cực. Hình 3: Tính động xuất hiện tạo vòng xoáy ngược chiều kim đồng hồ. Đây cũng là chiều vận động của các thiên hà hiện nay (trong đó bao gồm cả các sao và hành tinh). Chữ Vạn có chiều ngược chính là biểu tượng của tính động xuất hiện ở giai đoạn đầu của vũ trụ. Ông Tuấn Anh đánh dấu vào bản dập hình khắc để mô tả. Hình 4: Hình vuông bên cạnh vòng xoáy cho biết khi tính động xuất hiện tức là sinh âm, đối lại với trạng thái tĩnh khởi nguyên (mẹ tròn con vuông). Hình 5: Khi âm xuất hiện thì sự vận động và phát triển tiến hóa trong vũ trụ bắt đầu. Điều này được hình tượng bằng một cái cây tiếp nối từ sự vận động của vòng xoáy. Hình 6: Vòng xoáy thuận chiều kim đồng hồ là biểu tượng cho thấy sự tương tác của vũ trụ theo chiều ngược với chiều vận động của các thiên thể. Chữ Vạn có chiều thuận chính là biểu tượng của chiều tương tác vũ trụ (Qua các di vật khảo cổ có niên đại xấp xỉ 10.000 năm cho thấy chữ “Vạn” đã tồn tại rất lâu trong văn minh nhân loại). Hình 7: Sự chuyển hóa từ dương sang âm được biểu tượng bằng người đàn bà. Hình 8: Khi âm cực thịnh thì sinh dương được biểu tượng bằng quái Càn trên đầu người đàn bà. Hình 9: Hình này theo ông Liễn là quẻ Sơn Địa Bác. Nhưng nhà khoa học Nguyễn Vũ Tuấn Anh cho đây là quẻ Địa Lôi Phục. Nếu lật 90 độ theo chiều ngược kim đồng hồ là chiều vận động của các thiên thể trong vũ trụ. Theo Kinh Dịch thì ý nghĩa của quẻ này là "Sự trở lại". Như vậy với hình tượng của quẻ Địa Lôi Phục cho thấy vũ trụ vận động tới cực điểm sẽ là sự quay trở về. Những chiếc cọc bêtông không bảo vệ được những hòn đá cổ trước sự vô ý thức của con người. Như vậy, toàn bộ bức họa trên đá này nói về nguyên lý của sự vận động vĩ mô từ khởi nguyên cho đến kết thúc và có tính chu kỳ của vũ trụ. Với sự kiến giải này, nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh khẳng định nội dung bức chạm khắc của người Lạc Việt trên bãi đá cổ Sapa đã chứng tỏ nguyên lý vũ trụ đã được phát hiện từ lâu và thuộc về nền văn minh này. Kinh Dịch thuộc về nền văn minh Lạc Việt với những ký hiệu quẻ trùng khớp với ý nghĩa của bức tranh. Với nội dung trên của bức khắc chúng ta sẽ không thể tìm thấy trong các cổ thư chữ Hán. Điều này cũng chứng tỏ tên gọi đích thực của cuốn kỳ thư Đông phương này phải là: “Lạc thư chu dịch”. Tức là sách của người Lạc Việt nói về sự vận động tuần hoàn của vũ trụ! Còn tiếp… Trần Bình Thủy =============================== dich nghĩa ký tự bãi đá sa[a- 23/08/2012 Theo tôi thì tôi lại hiểu như sau: - Hình 2,3, và 5 có ý nghĩa đồi núi và cây cối sẽ tạo nên nguồn nước vô tận, từ đó tạo nên sự sống của con người. - Hình 1 là ký hiệu con người sẽ phát triển mạnh mẽ và hình 4 là con người xây dựng nhà cửa và sinh sống. - Hình 7,8,9 ký hiệu một lúc nào đó do sự phát triển con người chặt phá rừng lấy gỗ để xây dựng(ký hiệu hình người đang cầm cây gỗ) thì đồi núi không còn màu mở mà trở thành đồi núi trọc vòng tròn xuay ngược và không có cây cối,dòng sông cũng sẽ khô cạn(ký hiệu dòng sông bị ngắn dần và hạn hán vết nứt chân chim kề bên dòng sông. Người xưa đã hiệu được giá trị của đồi núi, cây cối và nguồn nước là sự sống của con người và có thể là dự đoán sự phát triển của loài người trong tương lai sẽ ảnh hưởng đến môi trường tự nhiên. nhìn vào hiện tại thì dự đoán đó hoàn toàn chính xác và gọi đó là một tiên đoán tuyệt vời của người Việt xưa. (Lê Công Tưởng) Cần đưa ra những luận cứ!- 13/12/2011 Trước đây tôi có một phát hiện là Rồng có nguồn gốc từ nền văn minh sông Hông và trên thực tế trước đó người TQ chỉ có Kỳ lân thôi. Tôi nghĩ ta nên có những công bố khoa học để TG và người Việt hiểu hơn về Dân tộc minh hơn. Tất nhiên nó phải trên những bằng chứng khoa học rõ ràng. Một thời gian khá dài toàn bộ các tác phẩm thời lý trần đã bị đốt nên ta cần có những nghiên cứu rõ ràng để lấy lại những kiến thức đó. (Đức Tài) Nhiệt liệt ủng hộ quan điểm này- 12/12/2011 Tôi thật sự vui mừng và ủng hộ quan điểm này ,người Việt chúng ta chắc chắn không phải người tầm thường . Nhưng 1.000 năm mất nước nên chúng ta đã bị người Hán làm sai lệch nhiều tri thức của dân tộc Việt ... Vì vậy có một bộ phận không nhỏ người Việt cứ lầm tưởng là mọi cái của dân tộc ta đều do người Hán truyền bá sang . Ngay như tết trung thu người ta cũng cứ nghĩ là của Trung Quốc ! Thật là sai lầm không thể tưởng tượng được . Mong VTC News tiếp tục bình luận để mở đường cho các nhà dịch học chân chính và tâm huyết tìm hiểu để đưa ra các nhận định chính xác và khách quan nhằm trả lại lịch sử cho dân tộc . Thành thực cảm ơn PV Trần Bình Thủy và quý VTC News ! (Nguyễn Huy Công)
-
Lời tiên tri của tổ tiên trên bãi đá cổ Sapa? 11/12/2011 06:34 | Phóng sự - Khám phá (VTC News) – Ông Nguyễn Vũ Tuấn Anh giải thích lời tiên tri của hình vẽ trên hòn đá cổ này như sau: “Vào thời đại tên lửa bắn nhau với máy bay, bãi đá cổ Sapa sẽ có một con đường cho xe chạy qua”. Bãi đá cổ Sapa bắt đầu ở ngang sườn đèo, phía dưới là thung lũng Mường Hoa có một dòng suối lớn chảy qua. Bãi đá cổ chạy dài 4km dọc theo hai bên con đường mới mở, nằm trên diện tích rộng tới 8km2. Ông Nguyễn Vũ Tuấn Anh không khỏi giật mình khi tận mắt hòn đá nằm ngay bên tay phải của con đường mở qua, chỉ cách lề đường không quá 20m. Nó là một trong những hòn đá lớn và độc đáo ở bãi đá cổ Sapa. Sự độc đáo của hòn đá chính vì nó là hòn đá duy nhất vẽ những hình thù của phương tiện trong xã hội hiện đại của chúng ta. Cũng chính vì thế nó là hòn đá gây tranh cãi nhiều nhất. Hầu hết các nhà khoa học đều đã biết đến hòn đá này và ông cũng biết trước khi đến đây qua các bản dập. Nhưng chỉ đến khi nhìn thấy nó ông mới bị ấn tượng mạnh. Hòn đá này cao khoảng 2m, dài hơn 3m. Hình vẽ nằm trên mặt đá phẳng và trơn nhẵn, hướng ngược chiều đường từ thị trấn lên bãi đá cổ. Đây có phải lời tiên tri? (Hình ông Tuấn Anh vẽ lại từ bãi đá cổ Sapa). Do máy ảnh chụp không rõ được hình khắc trên hòn đá nên ông Nguyễn Vũ Tuấn Anh vẽ lại bằng tấm hình trên đây. Dù không chính xác tuyệt đối nhưng rõ ràng hình vẽ thể hiện những chiếc máy bay, người, mũi tên và ôtô. Hình khắc trên hòn đá này từng gây ra sự tranh luận nghiêm túc của các nhà nghiên cứu. Hầu hết đều cho rằng: “Hình này mới được vẽ vào khoảng đầu hoặc giữa thế kỷ trước". Đơn giản vì họ cho rằng: Hình cái xe ôtô và máy bay là sản phẩm của đầu thế kỷ 20. Khi chưa được tận mắt hòn đá, ông Tuấn Anh cũng nghĩ như họ. Nhưng khi xem trực tiếp những hình tượng trên hòn đá này, ông khẳng định họ sai lầm. Khách du lịch lên Sapa đều muốn được chụp hình với những hòn đá có hình khắc, nhưng họ lại không biết bảo vệ các hình vẽ. Ông cho rằng, điều quan trọng nhất để chứng tỏ sai lầm của họ chính là ở đường nét bị bào mòn của nét vẽ hoàn toàn tương quan với các nét vẽ trên các phiến đá cổ khác và của những nét khắc vẽ trên chính hòn đá này. Hai bên tảng đá còn có một số ký tự loằng ngoằng đã mờ giống như chữ Hán và chữ Khoa Đẩu cùng những đường khắc vạch ngang. Chính sự tương quan bào mòn này của các nét vẽ trên ngay cùng phiến đá và với các hòn đá khác cho thấy chúng phải vẽ đồng thời. Không thể có khoảng cách hàng ngàn năm cho sự bào mòn giống nhau. Rất nhiều hòn đá có hình khắc nằm lẫn trong nhà dân, trong các ruộng lúa. Theo ông Tuấn Anh, để xác định niên đại của hình vẽ này không phải khó khăn lắm so với khoa học hiện đại. Tuy nhiên, dựa vào những phương pháp như: So sánh trình độ đồ họa và trình độ của ý tưởng chứa đựng trong đồ họa; So sánh tính chất vật lý các rãnh: độ rộng trung bình, độ rộng lớn nhất và độ rộng nhỏ nhất, độ thẳng trung bình, vết vẽ thẳng lớn nhất và vết vẽ thẳng nhỏ nhất… có thể phần nào xác định được niên đại của hình vẽ. Nếu so sánh tính chất hóa học của các chất có trên mặt rãnh bằng định vị C và so sánh cấu trúc sinh học có được trên bề mặt rãnh thì độ chính xác sẽ cao hơn. Có nhiều ý kiến khác nhau nói về nội dung hình khắc trên hòn đá này. Nhưng có thể nói là hầu hết đều cho rằng: “Đây là một hình mới được khắc vào khoảng những năm 60 của thế kỷ trước”. Với sự nhận thức phổ biến thì khó ai có thể cho rằng đây là một lời tiên tri. Nhưng với Nguyễn Vũ Tuấn Anh, ông luôn nhạy cảm với những vấn đề mang tính khoa học tiên tri, nên ông đưa ra quan điểm khác. Vào những năm 30 của thế kỷ trước, khi những người phương Tây đục một quả núi để làm đường hầm cho xe lửa chạy qua trên núi Kỳ Sơn (Trung Quốc), họ đã đào được tấm bia có khắc dòng chữ: “Sau này, sẽ có người Bột đục hòn núi này cho một con rồng sắt chạy qua đây!”. Bởi vậy, khi nhìn thấy những hình ảnh trên phiến đá này ông đã linh cảm đây là một lời tiên tri. Nhưng vì là hòn đá đầu tiên nhìn thấy, nên ông cũng chưa lý giải được nó tiên tri về cái gì? Khắc bậy lên đá cổ. Vấn đề đặt ra với những nhà nghiên cứu: Nếu hình ảnh chiếc máy bay là sản phẩm của thế kỷ 20 và người ta vẽ lên vì nhận thức trực quan, vậy thì lý giải thế nào với ba mũi tên thời Trung cổ lại bắn vào ba cái máy bay hiện đại ấy? Nếu là nhận thức trực quan thì nó phải là ba cái tên lửa mới phải? Phải chăng, hình tượng mũi tên trên bãi đá cổ Sapa và hình tượng “Con rồng sắt” chính là khái niệm cổ của người xưa diễn tả một thực tại sẽ xảy ra trong tương lai? Còn nữa, nếu cái ôtô cũng là sự thể hiện cái nhìn trực quan của thời đại có ôtô thì không thể vẽ cái bánh xe theo kiểu xe bò như vậy được. Hình người ở dưới cũng rất thô sơ. Nếu một người ở giữa thế kỷ 20 không thể có một lối vẽ người như vậy. Huống chi, cách thể hiện người kiểu đơn sơ này lại thống nhất trên khắp bãi đá cổ Sapa, tương ứng với những hình khắc hàng ngàn năm tuổi. Ông Nguyễn Vũ Tuấn Anh trong một hội thảo bảo tồn, giải mã bãi đá cổ Sapa vào năm 2006. Ông Nguyễn Vũ Tuấn Anh giải thích lời tiên tri của hình vẽ trên hòn đá cổ này như sau: “Vào thời đại tên lửa bắn nhau với máy bay, bãi đá cổ Sapa sẽ có một con đường cho xe chạy qua”. Lời tiên tri này được khắc trên hòn đá nằm ngay cạnh con đường mới làm dẫn vào bãi đá cổ Sapa đầy bí ẩn. Nó như là một sự chào đón và cũng là sự cảnh báo của một trí tuệ siêu việt. Như vậy, lời tiên tri trên hình vẽ này đã xảy ra, với một con đường làm xuyên qua bãi đá cổ và tất nhiên, người ta đã phá đi một số hòn. Các nhà khoa học nhiều quốc gia tích cực dập bản khắc và nghiên cứu bãi đá cổ Sapa song vẫn chưa giải mã được những bí ẩn trên bãi đá này. Ông Nguyễn Vũ Tuấn Anh nhớ lại lần đầu đặt chân lên bãi đá cổ Sapa: “Tôi sững sờ và bàng hoàng trước lời tiên tri trên hòn đá cổ. Sự sững sờ và bàng hoàng ấy dành cho tôi và chỉ một mình tôi. Lúc đó, tôi biết rằng tôi không thể chia sẻ với ai sự suy nghĩ của mình. Có cái gì bên trong bãi đá cổ đầy bí ẩn này mà nó phải có một lời tiên tri ngay ở đầu bãi đá? Tôi lạc vào bãi đá và ngạc nhiên thay, trên bãi đá có rất nhiều hòn đá khắc chữ Khoa Đẩu. Chữ Khoa Đẩu rải rác khắp bãi đá cổ Sapa và cả chữ Hán”. Giáo sư Lê Trọng Khánh, một chuyên gia đầu ngành về chữ viết của người Việt cổ nhận xét: "Tổng thể các hình khắc trên bãi đá cổ Sapa quả là một bộ sách khổng lồ được khắc bằng văn tự cổ". Nhà báo Phạm Ngọc Dương bên bãi đá có hình khắc chưa từng biết đến, trên độ cao 2.200m trong Vườn quốc gia Hoàng Liên. Ảnh: Phạm Ngọc Dương. Cùng với Giáo sư Khánh, nhà giáo Đỗ Văn Xuyền, người bỏ cả cuộc đời đi tìm chữ Việt cổ, cũng đã nhiều lần tìm lên bãi đá cổ Sapa để sưu tầm, nghiên cứu những chữ cổ và ông cũng phát hiện ra hàng loạt chữ Khoa Đẩu trên bãi đá cổ này. Liệu hình vẽ mà ông Nguyễn Vũ Tuấn Anh trình bày trên đây có phải là một lời tiên tri của tổ tiên hay không? Điều này vẫn còn phải nghiên cứu và có sự đầu tư công sức, trí tuệ của các nhà khoa học. Mong rằng, những luận giải của ông Nguyễn Vũ Tuấn Anh sẽ tạo ra diễn đàn để các nhà khoa học trong cả nước tranh luận, chứ không nên phán xét một cách cảm tính rồi bác bỏ trí tuệ của tổ tiên ta. Còn tiếp… Trần Bình Thủy ============================ Giải thích thật tức cười- 14/12/2011 cái hình tên lửa và máy bay mà giải thích như ông Tuấn Anh thì e rằng hơi phi lý, nêu nói vậy thì chẳng phải từ nhiều trăm năm xưa người Việt đã hình dung ra mô hình máy bay và tên lửa cũng như ô tô rồi nhỉ? Nếu đúng vậy thì chúng ta phải khâm phục tài hình dung của người Việt xưa kia về những phát minh khoa học hiện đại đi trước toàn thế giới chứ, sao ông lại chỉ nhắc đến việc họ tiên tri có con đường cho xe ô tô chạy qua? (gialinh) GỬI ANH TRẦN MẠNH HÀ- 13/12/2011 a là hướng dẫn viên du lịch Sa Pa thì chú ý nhắc nhở du khách có ý thức tôn trọng bảo vệ các di tích cổ là đc rồi. tôi chỉ sợ anh coi các di tích là ai đó nghịch chơi viết vẽ bậy nên du khách ko có ý thức trèo ngồi trượt phá hoại di tích vô tư mà lại bị mặc kệ bởi những ng có trách nhiệm ở hiện trường là hướng dẫn viên du lịch xem thường giá trị văn minh cổ đại như anh. (Ngân) gửi anh Trân Mạnh Hà- 13/12/2011 có phán xét ng khác thế nào thì anh hãy vào trang tuvilyso và lyhocdongphuong.org.vn để xem các kết quả nghiên cứu của nhà khoa học Nguyễn Vũ Tuấn Anh nhé. có kiến thức và trình độ phản biện lại trên trang đó thì hẵng đưa ra giả thuyết ng xưa viết vẽ bậy của anh. gửi anh một số thông tin về một số nhà triết gia lớn của nhân loại trong "thời xưa ăn lông ở lỗ" nhé:(nguồn:wikipedia.org, có thgian thì check xem) Aristoteles (tiếng Hy Lạp: Αριστοτέλης Aristotelēs; phiên âm trong tiếng Việt là Aritstốt; 384 – 322 TCN) là một nhà triết học Hy Lạp cổ đại. Ông được xem là người tạo ra môn luận lí học. Ông cũng thiết lập một phương cách tiếp cận với triết học bắt đầu bằng quan sát và trải nghiệm trước khi đi tới tư duy trừu tượng. Democritos (tiếng Hy Lạp: Δημόκριτος) là một triết gia người Hy Lạp sống trước thời kỳ Socrates. Ông sinh ra vào khoảng 460 TCN ở thành phố Abdera, một địa điểm trên bờ biển thuộc xứ Thrace (phần đất thuộc Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay).[1][2] Democritus là học trò của Leucippus và cùng với Leucippus tạo ra thuyết nguyên tử thô sơ. Theo thuyết nguyên tử của ông, mọi vật chất được tạo thành từ các dạng khác nhau của các phần tử không chia nhỏ được, không nhìn thấy được, cái mà ông gọi là atoma (nguyên tử). Đó là ý tưởng độc nhất vô nhị của Democritus, chính vì thế mà từ khi Democritos đưa ra khái niệm đó cho đến tận sau này khi khoa học đã phát triển người ta mới có những bằng chứng cụ thể về sự tồn tại của nguyên tử và tiếp tục phát triển lý thuyết về nguyên tử Sokrates hay Socrates (tiếng Hy Lạp: Σωκράτης Sōkrátēs) là một triết gia Hy Lạp cổ đại, người được mệnh danh là bậc thầy về truy vấn.Thời trẻ, ông nghiên cứu các loại triết học thịnh hành lúc bấy giờ của các "triết học gia trước Sokrates", đó là nền triết học nỗ lực tìm hiểu vũ trụ thiên nhiên chung quanh chúng ta.... Thân! (Ngân) Sự giải thích của trẻ con 3 tuổi- 12/12/2011 Giải thích như ông Vũ Tuấn Anh thì trẻ con 3 tuổi nó cung giải thích được chứ cần gí phải là nhà khoa hoc như ông ??? (Trẻ Nhỏ) Nói hộ nhà báo- 12/12/2011 Nhà báo ngồi chỗ không có hình vẽ mà? Nên đâu có ảnh hưởng tới đường nét ký tự. Hi vọng các nhà khoa học sớm tìm ra các giá trị của cha ông truyền lại cho con cháu (Minh Hạnh) Anh ơi hiểu biết của Anh chỉ có vậy thôi sao- 12/12/2011 Anh Hướng Dẫn Viên Du Lịch Trần Mạnh Hà này ăn nói ngông cuồng và hàm hồ quá đi à, người nên xem xét lại lời nói của mình chính là Anh này thì đúng hơn! Chẳng biết với lượng kiến thức của Anh này tới đâu mà có vẻ chảnh chẹ quá vậy chứ, đúng là "Ếch ngồi đấy giếng xem trời bằng vung", "biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe" chứ không nên phát biểu linh tinh như vậy, Anh nghĩ Anh giỏi lắm sao, lấy sự hiểu biết nông cạn của mình mà đi phán xét người khác vậy chứ, Anh nên biết trí tuệ của con người không ai giống ai hết, có người này người khác, người giỏi người dễ. Dù gì thì người ta cũng là một nhà khoa học có tên tuổi, thế cho nên khi người ta công bố một kết quả nghiên cứu nào đó thì chắc chắn là người ta đã cân nhắc khá kỹ lưỡng rồi chứ? không cần A phải nhắc nhở. Anh không nên nghĩ ngày xưa tổ tiên ta chưa phân tích được hiện tượng tự nhiên thì làm gì mà tiên đoán được, Anh nên biết là "đâu đâu cũng có anh hùng và đâu đâu cũng có kẻ khùng người điên", theo tôi thì cho dù thời đại nào đi nữa, cổ xưa, trung đại, cận đại hay hiện đại thì mỗi thời đại đều có những người tài giỏi xuất chúng cả. Anh đừng bao giờ có suy nghĩ coi trọng thời hiện đại mà bỏ qua xem thường thời cổ đại, thực ra con người có nhiều khả năng tiềm ẩn khó giải thích được lắm đó Anh. Anh nên biết hệ thống cơ sở vật chất kĩ thuật, máy móc hiện đại ngày nay có tinh vi đến đâu thì cũng đều do con người chế tạo ra và làm chủ nó cả. Hơn nữa còn có những cái người xưa làm được mà người thời hiện đại không làm được hoặc không bằng như người xưa đấy sao, ví dụ như kim tự tháp ở Ai Cập, những cái tháp Chăm ở Việt Nam, ngày xưa đâu có xe cần cẩu, mà sao con người xưa vẫn xây được cao như thế mà đã tồn tại qua biết bao là thời gian, liệu con người ngày nay có làm được như vậy không, còn chưa nói đến độ thẩm mỹ và tinh tế của hệ thống đền tháp này nữa đấy. Thế cho nên tôi mới nói Anh đừng có thái độ xem thường người xưa trình độ hiểu biết thấp kém nhé Anh. Chưa chắc gì Anh đã hiểu biết hơn họ đâu à! (nguyễn hải nam) Một sự giải thích thiếu khoa học của nhà làm khoa học- 11/12/2011 Tại sao chúng ta không tính đến giả thuyết như sau: có thể xưa kia tổ tiên của chúng ta hay người Hmong, khi đi làm nương rẫy hoặc có công việc ngang qua đây nghỉ ngơi rồi tiện tay điêu khắc, vẽ vời lung tung...như là các du khách Việt nam đi thăm quan các địa điểm du lịch rồi vẽ viết bậy lên đó, vả lại thời xưa ăn lông ở lỗ, con người còn chưa biết giải thích các hiện tượng tự nhiên...làm sao đủ sức phán xét hơn mấy nghìn năm sau. Giải thích như vị giáo sư thì quá là huyền bí, làm sao mà người xưa có thể phán đoán ra thời tên lửa diệt máy bay sẽ có một con đường đi qua đây. Nếu thế thì họ cũng có thể phán đoán thêm là có một con đường du lịch đi qua đây và Sapa sẽ trở thành địa điểm du lịch nổi tiếng...Ông Vũ Tuấn Anh nên cân nhắc lại lời nói của mình, làm gì có lời sấm truyền cao siêu như thế Hướng dẫn viên du lịch Trần Mạnh Hà (Trần Mạnh Hà) Nhà báo- 11/12/2011 Nhà báo Phạm Ngọc Dương cũng ngồi lên phiến đá cổ (sẽ khiến việc bào mòn các hình vẽ diễn ra nhanh hơn) thì có phải là bảo vệ đá không? (Đoàn Hậu)
-
Giải mã lời thề trên phiến đá cổ nghìn năm tại Đền Hùng 04/12/2012 13:43 Các nhà nghiên cứu lịch sử vẫn tạm đặt khoảng mốc lịch sử dân tộc Việt là hơn 4000 năm dựng và giữa nước. Có hai phiến đá được coi là cột mốc thời gian đánh dấu điểm “tiệm cận” đó vẫn tồn tại cho đến ngày nay. Chúng được đặt ở hai đầu bàn thờ gian giữa Đền Hạ (thuộc khu di tích Đền Hùng). Kinh qua thời gian, dẫu khu di tích Đền Hùng nhiều lần được tu bổ xây dựng, song hai phiến đá này vẫn ở nguyên vị trí cũ. Lời thề trên đá Tôi có dịp được trò chuyện cùng nhà nghiên cứu văn hóa Vũ Kim Biên xoay quanh một nghi vấn về hai phiến đá đặt thờ tại Đền Hạ (Khu di tích Đền Hùng, Phú Thọ) vốn được lưu truyền trong dân gian với những câu chuyện huyền bí, linh thiêng. Vẻ bề ngoài hai tảng đá trên không có gì đặc biệt. Đó chỉ là hai tảng đá sạn kết tự nhiên không đục đẽo gia công gì, bề mặt lồi, gần tròn, đường kính khoảng 60cm, chiều cao khoảng độ 40cm. Kích thước hai tảng to nhỏ chênh nhau một chút xíu. Dẫu vậy, không có bất kỳ ai dám tỏ thái độ “bất kính” trước hai phiến đá này. Cuốn ngọc phả lưu ở Đền Hùng, đoạn nói về sự kiện Vua Hùng thứ 18 (Duệ Vương) nhường ngôi cho Thục Phán và Thục Phán lên núi Nghĩa Lĩnh dựng đền thờ Vua Hùng, lập hai trụ đá thề tạm dịch như sau: “Hôm sau Tản Viên can vua rằng: nhà Hùng hưởng nước trải đã lâu, ý hẳn lòng giời có hạn mới khiến Thục Vương thừa lúc hở cơ đánh lại ta. Nhà nghiên cứu văn hóa Vũ Kim Biên diện kiến Lưỡng thạch trụ Vả lại, nước Thục vốn là chủ bộ Ai Lao cũng là tông phái hoàng đế trước đây vậy. Thế nước chẳng được yên đều bởi tiền định. Vua tiếc gì một cõi phương Nam mà trái ý trời để hại đến sinh linh... Vua nghe theo, đưa thư cho Thục Vương bèn nhường cả nước. Thục Vương sai sứ lại ta. Vua nhân đó trao cho Thục Vương nỏ thần… Thục An Dương Vương được nước cảm kích việc nhường ngôi của Duệ Vương công đức bằng trời đất. Bèn dóng xe về núi Nghĩa Lĩnh dựng giao đài để cho nước nhà thờ phụng. Dựng hai trụ đá ở giữa núi chỉ lên trời mà khấn rằng: nguyện có trời cao lồng lộng soi xét chẳng sai, nước Nam trường tồn lưu ở miếu vũ Hùng Vương. Ví bằng vua sau nối nghiệp trái ước nhạt thề thì sẽ bị trăng búa gió rìu vùi dập làm cho cô độc”. Theo nhà sử học Vũ Kim Biên: hai phiến đá đó có liên quan đến cuộc chuyển giao quyền lực cách đây cả mấy ngàn năm lịch sử. Cụ thể: Thục Phán được Vua Hùng truyền ngôi và trao cho nỏ thần, liền dựng đền thờ nhà Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh, lập hai trụ đá thề ở bãi bằng giữa núi thề giữ nước và cúng bái vua Hùng. Lại làm miếu thờ mẹ Tản Viên ở động Lăng Xương để tạ ơn. Giả thiết này càng được minh chứng khi nhà sử học trực tiếp được nhìn, ngắm, sờ vào hiện vật là hai tảng đá đó với tên gọi “Lưỡng thạch trụ”. Theo những gì ông nhớ thì vào khoảng tháng 11/2011, tình cờ được thấy nguyên hình Lưỡng thạch trụ và ngộ ra mọi chuyện. Khi ông có dịp được Đài Truyền hình Phú Thọ nhờ lên Đền Hùng giới thiệu cây thiên tuế trước cửa chùa mà bản thân ông đã chứng minh đó là nơi Bác Hồ ngồi nói chuyện với cán bộ Đại đoàn 308 trước khi vào tiếp quản thủ đô ngày 18/9/1954. Tại đây, Bác nói câu: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy đất nước”. Làm việc xong, ông rủ một người trong đài vào Đền Hạ xem hai tảng đá nghi là Lưỡng thạch trụ. Đền Hạ lúc này quây bạt kín xung quanh để xây lại, anh em công nhân bảo, “hai tảng đá” chúng cháu đào đem để ở hè chùa, đến đó mà xem. Tôi giật mình nghĩ bụng: “Mấy anh này liều thật, dám đụng vào vật thiêng bao đời, rất sợ”. Và quả thật, theo lời kể của chủ thầu xây dựng thì từ khi anh em công nhân dịch chuyển hai phiến đá ấy thì cứ “thi nhau lăn ra ốm, không rõ nguyên nhân”. Thiếu thợ khiến thời gian xây dựng bị kéo dài. Chỉ sau khi đặt trả lại hai phiến đá vào đúng vị trí như trước thì chuyện ốm đau của anh em thợ này mới chấm dứt và công việc xây dựng mới “xuôi chèo mát mái”. Cũng từ đó trở về sau, bản thân nhà sử học Vũ Kim Biên để ý đến hai tảng đá đó và tự đặt ra câu hỏi: Hai tảng đá đó có tự bao giờ? Để làm gì? Sao thời Lê làm Đền Hạ người ta lại không dám bỏ đi? Có phải là hai trụ đá thề không? Nếu đúng Lưỡng thạch trụ thì dài bao nhiêu, đục đẽo thế nào? Người xưa sử dụng để làm gì? Vén mà bí mật Sau thời điểm được diện kiến Lưỡng thạch trụ, ông Vũ Kim Biên đã viết cuốn truyện Cột đá thề, có nhờ họa sĩ vẽ bìa cho cuốn chuyện đó với hình ảnh hai cột đá như hai quả bầu dục dựng đứng. Tuy nhiên, đến tận thời điểm đó, bức màn bí mật về Lưỡng thạch trụ chưa được làm sáng rõ, còn nhiều nghi vấn. Theo trí nhớ của nhà sử học thì khoảng mồng 3 Tết Nhâm Thìn, ông lên lễ Đền Hùng, vào Đền Hạ xem, khi đó. Lưỡng thạch trụ được đặt vào hai bên đầu bàn thờ gian giữa Đền Hạ. Lúc ấy, thấy ông từ đứng lên tảng đá để với vào trong bàn thờ, tôi bảo ông: “Đấy là đá thiêng, chớ đứng lên như thế. Ông từ cả thẹn vội bước xuống ngay. Vết chém trên Lưỡng thạch trụ 2 Sau nhiều lần diện kiến như vậy, ông mới ngộ ra rằng, Lưỡng thạch trụ chỉ dùng để chém dao lúc thề bồi mà thôi. Liên hệ với cách thề bồi của dân ta trước Cách mạng Tháng 8/1945, khi hai người có bất bình điều gì hay giao ước điều gì, họ tuyên bố xong lấy dao chém vào đá để khẳng định mình không sai lời, bởi thế có câu “chắc như dao chém đá”. Có lẽ thời Thục Phán cũng vậy, ông cho đặt hai tảng đá ở giữa bãi bằng lưng chừng núi (Lưỡng thạch trụ ư sơn trung) để tiến hành hội thề. Dự đoán khi Vua Hùng sai Tản Viên tuyên chiếu nhường ngôi, tiếp theo Thục Phán phát lời thề. Rồi Thục Phán dùng gươm chém vào một tảng đá, Tản Viên chém vào một tảng đá để thần linh chứng giám. Sự tích hai tảng đá này được nhân dân quanh núi Nghĩa Lĩnh truyền tụng. Trải hàng nghìn năm, hai tảng đá bị đất vùi lấp chỉ còn nổi trên mặt đất như hai cái thúng úp, chẳng ai dám động đến, chẳng rõ ở dưới thế nào. Thời nhà Lê làm Đền Hạ trùm lên hai trụ đá đó, phải chăng nhằm giữ gìn đôi báu vật lịch sử cho con cháu muôn đời. Chỉ biết rằng đến tận ngày nay, người dân trong vùng vẫn dâng lễ thành tâm và sờ tay lên hai phiến đá ấy để cầu vận may, sức khỏe. Theo Sức khỏe và Đời sống ======================================= Cũng may là và cũng an ủi là không phát biểu "mấy ngàn năm" hay là "thế kỷ thứ III trước CN, ở trần đóng khố". Nhưng vẫn còn cụm "vẫn tạm đặt khoảng mốc". Sao không phải là 2879 năm + 2012 năm = 4891 năm, cho nó rõ ràng cái mốc. Nếu nói mốc thì phải mốc từ đâu chứ nhỉ? Thiên Đồng
-
Xác nhận học viên đóng học phí lớp Phong thủy Lạc Việt cơ bản 11 1. Rio_Rio (Nguyễn Thị Cẩm Huyền) 2.000.000đ (đã cung cấp thông tin cá nhân) 2. Bình Định (Đỗ Bình Định) 2.000.000đ (đã cung cấp thông tin cá nhân) 3. mecutun (Trần Thị Diễm Quỳnh) 2.000.000đ ( chưa cung cấp thông tin cá nhân về email info@lyhocdongphuong.org.vn) 4. dbinh92Nguyễn Đức Bình 2.000.000đ (đã cung cấp thông tin cá nhân) 5. Bánh Mì (Lê Văn Vân) 2.000.000đ (đã cung cấp thông tin cá nhân) 6. tnd (Nguyễn Đình Thái) 2.000.000đ (đã cung cấp thông tin cá nhân) 7. Quanglh (Lục Hồng Quang) 2.000.000đ ( chưa cung cấp thông tin cá nhân về email info@lyhocdongphuong.org.vn) 9. aulac (Phạm Đức Lãng) 2.000.000đ (đã cung cấp thông tin cá nhân) 10. duyen (Nguyễn Văn Lưu) 2.000.000đ ((đã cung cấp thông tin cá nhân)) 11. Sheryl (Nhuyen Kieu Ngoc) 2.000.000đ 12. ???? (Nguyen Manh Thuong) 2.000.000đ 13. ???? (Tran Hoang Dao) 2.000.000đ 13. Wanren Bocphet 2.000.000đ