Thiên Đồng

Hội viên
  • Số nội dung

    6.278
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    75

Everything posted by Thiên Đồng

  1. @quanghung14 Chừng nào bạn tự thấy, bạn tự biết cái duyên âm của bạn thì bạn nên tin. Nghe người này, thầy bà kia phán duyên âm, duyên dương thì thà đi xem hài kịch còn hay hơn. Thiên Đồng
  2. Xác nhận đóng học phí lớp Luận Tuổi Lạc Việt 01. Longphibaccai (đã giảm 50% cho học viên PTLV) 02. Soncao (đã giảm 50% cho học viên PTLV) 03. Thiên Bồng (đã giảm 50% cho học viên PTLV) 04. Trần Đăng Khởi (đã giảm 50% cho học viên PTLV) 05. Mihanhna (đã giảm 50% cho học viên PTLV) 06. hung303 07. Thanh Hương-geo (đã giảm 50% cho học viên PTLV) 08. Đại Phúc 09. Baosky (đã giảm 50% cho học viên PTLV) 10. Monsoon (đã giảm 50% cho học viên PTLV) 11. Hà Trang - đóng trước 50%. 12. mutinhoc (đã giảm 50% cho học viên PTLV) 13. tantnvad2030 (đã giảm 50% cho học viên PTLV) Lớp sẽ chính thức khai giảng vào ngày 01 tháng 01 năm 2013, nhằm ngày 20 tháng Một - Nhâm Thìn Việt Lịch. Kính báo.
  3. Chùm ảnh: Kỳ lạ ngôi làng "siêu cổ" có từ thời Hùng Vương (GDVN) - Trong khi nhiều nơi trên cả nước cơ bản đã... xóa xong làng cổ thì ngay sát Hà Nội vẫn có một ngôi làng cổ có niên đại gần 4000 năm tồn tại. Làng Phù Lưu, Từ Sơn, Bắc Ninh hiện là một trong những ngôi làng có niên đại cổ nhất Việt Nam còn được lưu giữ. Điểm đặc biệt của ngôi làng này ngoài niên đại rất lâu đời còn là ngôi làng cực hiếm có con đường lát đá xanh làm thành một vạch xương sống vòng quanh làng. Ở những trục đường chính, được lát 4 viên gạch, còn những trục đường phụ chỉ có 2 viên. Cổng làng Phù Lưu là nơi bắt đầu của con đường đá xanh chạy dọc suốt xung quanh làng Qua bao vật đổi sao dời, con đường đã xanh vẫn còn nguyên dáng vẻ của nó, xanh mát và đều chằn chặn, không cong vênh, gồ ghề. Đây cũng là nơi mưu sinh của biết bao con người trong làng. Điểm đặc biệt tiếp theo của làng Phù Lưu từ xa xưa đó là Từ Phù Lưu đã hình thành một kiểu làng hoàn toàn khác biệt, làng trong phố, phố trong làng. Phố thì có nhiều ngôi nhà xây kiểu tây, sinh hoạt theo kiểu phố. Còn làng, có những ngôi nhà cổ, vẫn sinh hoạt theo kiểu làng. Còn đường lát đá xanh này do cụ Hoàng Thùy Chi, Tổng trấn Bắc Giang ngày xưa chỉ đạo khởi công xây dựng từ năm 1933 đến năm 1943 mới xong. Đến nay, dù bao thăng trầm của lịch sử nhưng con đường vẫn còn y nguyên. Những ngôi nhà cổ giống Hà Nội xưa vẫn còn ở làng Phù Lưu
  4. Con đường đá xanh đặc biệt len lỏi vào sâu tận các ngóc ngách của làng Cũng từ ngôi làng này, sinh ra rất nhiều người con nổi tiếng làm rạng danh người dân nơi đây như: nhà báo Hoàng Tích Chu, người đã làm một cuộc cách tân làm thay đổi hẳn phong cách của báo chí Việt Nam đầu thế kỷ XX; họa sỹ Hoàng Tích Chù, người đã nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh; nhà văn Kim Lân, nhà văn Nguyễn Địch Dũng, nhà thơ Hoàng Hưng; nhà quay phim, NSND Nguyễn Đăng Bẩy, nhạc sỹ Hồ Bắc, họa sỹ Thành Chương, họa sỹ Nguyễn Thị Hiền. Dân ở đây hầu như không làm ruộng, ruộng chỉ đếm trên đầu ngón tay mà chủ yếu buôn bán. Phụ nữ Phù Lưu nổi tiếng buôn bán giỏi nuôi chồng nuôi con ăn học. Phù Lưu là làng có nhiều bố mẹ nuôi nhất nước, người nào trên 60 tuổi không có bố mẹ nuôi thì không phải là người làng Phù Lưu. Điều đặc biệt cuối cùng mà không nhiều người biết về Phù Lưu đó là đây chính là nguyên mẫu ngôi làng trong tác phẩm Làng của nhà văn Kim Lân.
  5. Những câu nói từ một trái tim nhân ái và từ khối óc minh triết của những bậc đại giác Sức mạnh của trẻ thơ là tiếng khóc. Sức mạnh của đàn bà là phẩn nộ. Sức mạnh của người ăn trộm là vũ khí. Sức mạnh của vua chúa là quyền uy. Sức mạnh của kẻ ngu là áp đảo. Sức mạnh của bậc hiền trí là cảm hóa. Sức mạnh của người đa văn là thẩm sát. Sức mạnh của sa môn là nhẫn nhục. Bởi chúng ta không thể thay đổi được thế giới xung quanh, nên chúng ta đành phải sửa đổi chính mình, đối diện với tất cả bằng lòng từ bi và tâm trí huệ. Ra đời hai tay trắng. Lìa đời trắng hai tay. Sao mãi nhặt cho đầy. Túi đời như mây bay. Thành thật đối diện với mâu thuẫn và khuyết điểm trong tâm mình, đừng lừa dối chính mình. Sự khác biệt giữa con người là do mức tiến hóa khác nhau qua các kiếp sống. Có khi nào ta thù ghét một kẻ kém ta đâu? Suy luận rằng “vạn vật đồng nhất”, ta sẵn sàng tha thứ cho kẻ khác, vì họ không hiểu biết, không ý thức hành động của mình, vả lại họ và ta nào có khác nhau đâu. Khi ta hiểu rằng ”nhất bổn tám vạn thù”, ta nhìn vạn vật như chính mình, từ loài người qua loài thú, thảo mộc, kim thạch, và ý thức rằng mọi vật đều có sự sống, đều có Thượng Đế ngự ở trong, ta sẽ cởi bỏ thành kiến, mở rộng lòng thương đến muôn loài. Ác khẩu, mãi mãi đừng để nó thốt ra từ miệng chúng ta, cho dù người ta có xấu bao nhiêu, có ác bao nhiêu. Anh càng nguyền rủa họ, tâm anh càng bị nhiễm ô, anh hãy nghĩ, họ chính là thiện tri thức của anh. Người mà trong tâm chứa đầy cách nghĩ và cách nhìn của mình thì sẽ không bao giờ nghe được tiếng lòng người khác. Khi trong tay anh nắm chặt một vật gì mà không buông xuống, thì anh chỉ có mỗi thứ ấy. Nếu anh chịu buông xuống, thì anh mới có cơ hội chọn lựa những thứ khác. Nếu một người luôn khư khư với quan niệm của mình, không chịu buông xuống thì trí huệ chỉ có thể đạt đến ở một mức độ nào đó mà thôi.
  6. Chữa hóc xương cá Khi bị hóc xương cá, hãy ngậm một viên vitamin C hoặc một miếng vỏ cam rồi nuốt đi. Xương cá sẽ tan ra và trôi xuống dạ dày. Một số mẹo chữa hóc xương cá trong dân gian như sau: - Dùng viên vitamin C ngậm vài phút sẽ làm trôi xương cá mắc trong họng. Bị hóc xương cá hãy ngậm một miếng vỏ cam vài phút rồi nuốt đi sẽ khỏi. - Ngậm một miếng vỏ cam vài phút rồi nuốt đi cũng làm xương cá ra và trôi xuống dạ dày. - Lấy một tép tỏi cắt làm đôi bịt vào hai lỗ mũi. Đồng thời lấy một muỗng đường cát trắng bỏ vào miệng nuốt (không dùng nước). Nếu chưa khỏi thì làm thêm một lần như thế nữa, xương cá sẽ tự trôi xuống dạ dày. Nếu áp dụng các phương pháp trên không khỏi nên nhờ đến sự can thiệp của bác sĩ ngay nhé các bạn. Theo VnExpress
  7. Xác nhận đóng học phí lớp Luận Tuổi Lạc Việt 1. Longphibaccai 1.000.000đ (đã giảm 50% cho học viên PTLV) 2. Soncao 1.000.000đ (đã giảm 50% cho học viên PTLV) 3. Thiên Bồng 1.000.000đ (đã giảm 50% cho học viên PTLV)
  8. PHÉP TÍNH GIỜ KIM XÀ THIẾT TỎA Trước hết phải biết năm , tháng , ngày , giờ sanh nào , rồi tự cung Tuất trên bàn tay ( Tay Phải ) mà bắt đầu tính năm Tý , tính xuôi cho đến năm sanh thuộc về cung nào , rồi tự cung ấy mà khởi tháng 1 ( giêng ) tính ngược lại cho đến tháng sanh thuộc về cung nào , rồi lại từ cung ấy khởi ngày mồng một ( 1 ) tính xuôi cho đến ngày sanh thuộc về cung nào , rồi lại từ cung ấy mà khởi giờ Tý tính ngược cho đến giờ sanh , rồi mới xem giờ sanh ấy ở cung nào ? - Hể con Trai mà phạm phải cung : THÌN - TUẤT - Hể con Gái mà phạm phải cung : SỬU - MÙI Thì đúng là nhằm giờ Kim Xà Thiết Tỏa . Ví dụ : Năm Mão tháng 9 ngày 3 , giờ Ngọ , sanh con gái , tính trên cung Tuất mà đếm xuôi : tý , sửu , dần , mão , vậy năm Mão ở cung Sửu , khởi tháng 1 , 2 , 3 , 4 , 5 , 6 , 7 , 8 , 9 , vậy thì tháng 9 ở cung Tỵ , rồi ở cung Tỵ khởi ngày mồng một mà tính xuôi mồng một , 2 , 3 , vậy thì mồng ba ( 3 ) ở cung Mùi , rồi ở cung Mùi khởi giờ Tý tính ngược Tý , Sửu , Dần , mão , Thìn , Tỵ , Ngọ , vậy giờ Ngọ ở cung Sửu . Thế là đúng phạm phải giờ Kim Xà Thiết Tỏa . Ý khác cách tính: bắt đầu từ cung Tuất kể là năm Tý tính thuận đến năm sinh, ngưng tại cung nào, bắt đầu cung đó kể là tháng Giêng đếm nghịch đến tháng sinh. Ngưng tại cung nào kể cung đó là mùng 1 đếm Thuận đến ngày sinh. Ngưng tại cung nào kể cung đó là giờ Tý đếm nghịch đến giờ sinh. Con trai: Nếu giờ sinh trúng vào Thìn - Tuất là phạm KXTH, nếu trúng vào cung Sửu - Mùi là phạm Bàng giờ Con gái: Nếu giờ sinh trúng vào cung Sửu - Mùi là phạm KXTH, nếu trúng vào cung Thìn - Tuất là phạm Bàng giờ Trẻ phạm KXTH rất khó nuôi, phải qua 12 tuổi mới chắc chắn là sống, còn trẻ phạm Bàng giờ tuy hay đau ốm nhưng vẫn có thể nuôi được. Sưu tầm
  9. Tranh cổ Otsu-e 08/04/2008 Trước kia tại các vùng nông thôn Nhật Bản vào những ngày lễ tết thường bày bán một loại tranh bình dân là Otsu- e, cũng vẽ theo những môtíp dân gian gần gũi với người nông thôn, giống như tranh Đông Hồ của Việt Nam. Sau Thế chiến hai, còn rất ít người Nhật Bản chơi tranh và vẽ tranh khiến cho dòng tranh cổ bị mai một. Tuy nhiên, 5 năm trở lại đây, loại tranh này đang được phục hồi. Không chỉ thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu lịch sử mà du khách nước ngoài cũng thường mua tranh Otsu-e làm quà cho người thân như một kỷ niệm nhỏ về đất nước Mặt trời mọc. Về sự ra đời của làng tranh Otsu, truyện kể: Vào đầu thế kỷ XVII, Nhật Hoàng cho xây dựng những ngôi chùa lớn ở Kyoto, một số gia đình bị mất nhà cửa được đưa về làng Otsu sinh sống. Trước đó làng Otsu đã nổi tiếng là nơi tập trung nhiều họa sỹ của cố đô Kyoto, và chính họ đã dạy lại những người dân nhập cư vẽ tranh khắc gỗ để mưu sinh. Cái tên làng tranh Otsu có từ đó. Cũng giống như tranh Đông Hồ của Việt Nam, tranh làng Otsu được họa sỹ vẽ mẫu rồi khắc lên gỗ, sau đó bôi màu rồi in ra nhiều bản. Đặc biệt, mỗi bức tranh có màu sắc khác nhau, không tấm nào giống tấm nào. Vì vậy, tuy cùng một mẫu nhưng mỗi người mua lại có một tranh có màu sắc riêng, tùy theo sở thích. Xưa kia người Nhật mua tranh Otsu-e để trang trí nhà cửa vào mỗi dịp lễ tết, đồng thời chiêm nghiệm những ý nghĩa cuộc sống được thể hiện trong tranh. Tranh Otsu thường theo những môtíp nhất định, chủ yếu là đề tài dân gian và cuộc sống đời thường dễ hiểu, cụ thể và quen thuộc nhằm mục đích giáo dục con người. Đôi khi có bức tranh vẽ những vị thần với ý nghĩa trừ tà ma, nên đòi hỏi người vẽ phải tập vẽ đi vẽ lại cho đến khi vẽ thật nhanh, thật nhuyễn mới thôi. Điều duy nhất khác biệt ở tranh Otsu-e là màu sắc, đường nét tùy theo từng họa sỹ. Những cái tên “Cá trê quả bầu” (Hyotan Namazu), tranh “ông ác cầu kinh” (Onino Nenbutsu) đã trở nên quen thuộc với người dân Nhật. Xưa kia các họa sỹ chủ yếu dùng màu có trong thiên nhiên để vẽ tranh Otsu–e, như: Đất, than, son. Thời Edo (nửa thế kỷ XVII) là thời kỳ có thể nói cực thịnh của tranh Otsu-e. Các họa sỹ Otsu-e vẽ cả tranh tượng... Sau một thời gian tưởng như bị quên lãng, các họa sỹ thế hệ mới của Nhật Hoàng phục hồi làng nghề truyền thống và tranh Otsu-e được nhiều nơi sản xuất chứ không chỉ có làng Otsu-e. Có rất nhiều lớp học dạy vẽ tranh Otsu-e và được sự ủng hộ nhiệt tình của giới trẻ. Họ cho rằng học vẽ tranh Otsu-e là góp phần giới thiệu với bạn bè quốc tế về dòng tranh cổ của nước mình. Giá bán một bức tranh Otsu-e không quá đắt không phải là tranh kém giá trị mà các họa sỹ quan niệm, cần phổ biến sản phẩm nghệ thuật dân gian đến với du khách hơn là móc túi họ. Du khách đến thăm làng Otsu-e không chỉ được trực tiếp ngắm nhìn các họa sỹ vẽ tranh mà còn được xem cách bài trí tranh Otsu-e trong những ngôi nhà cổ. Ngày nay tranh Otsu-e đã có nhiều sự thay đổi như được vẽ trên nhiều loại giấy khác nhau và màu sắc cũng hiện đại hơn, nhưng đường nét và các mô típ cũ vẫn giữ nguyên. Vẫn còn những họa sĩ vẽ theo lối truyền thống và họ cũng khuyến khích lớp thanh niên học vẽ tranh Otsu-e theo lối cũ. Hiện tranh Otsu-e cổ được lưu giữ tại Bảo tàng Mỹ thuật Nihon Mingei-Ka ở Tokyo. Nguyễn An
  10. Tranh Đông Hồ và Otsu - E tranh Đông Hồ tranh Nhật Otsu - E
  11. Giải mã bí ẩn loài cỏ trị giá 100 triệu đồng/kg ở Sapa (VTC News) - Cỏ nhung có một tác dụng thần kỳ mà người Việt không biết, đó là có khả năng tái tạo tế bào, đặc biệt là tái tạo tế bào gan. Trong những chuyến đi rừng với “người rừng” Trần Ngọc Lâm, tôi được ông chỉ cho vô số loại cỏ, cây, củ, quả, toàn những thứ được coi là thần dược. Những loài cỏ, cây, mà các thiền sư Tây Tạng sử dụng, hầu như người Việt Nam chưa biết đến, cũng không có trong sách vở ngành dược. Cách đây khoảng 7 năm, trong mỗi chuyến đi rừng, lúc nấu ăn, ông Lâm thường vào rừng nhổ một số loại cỏ để nấu canh. Ông Lâm thường nâng niu những chiếc lá nhỏ hình trái tim, có màu xanh tía, với những sợi óng ánh như kim tuyến. Cỏ nhung trong rừng Hoàng Liên Sơn với những chiếc lá óng ánh màu kim tuyến Khi đó, ở Việt Nam chẳng ai biết loại cỏ này, cũng không có trong sách, nên ông tự đặt tên cho nó là cỏ kim tuyến. Ông Lâm bảo rằng, loài cỏ này là một vị thuốc cực quý, quan trọng thứ nhì trong bài thuốc chữa ung thư mà ông sử dụng để cứu mình. Loài cỏ này thực sự là thần dược. Tôi ăn bát canh có lá kim tuyến, thấy sức khỏe hồi phục rất nhanh. Những lúc đi rừng mệt quá, không muốn bước nữa, chỉ cần bứt lá kim tuyến nhai sống, lại tiếp tục đi được. Hồi trèo lên độ cao 2.800m, thấy loài cỏ này, ông Lâm đã xúc động trào nước mắt và ông tin rằng mình sẽ sống được. Ông cứ ngắt lá, thân, rửa qua nước suối rồi nhai tất. Thế mà sức khỏe hồi phục rất nhanh. Tôi tin lời ông Lâm nói về thứ cỏ lạ này, nên đã mang chúng về Hà Nội, hỏi một số giáo sư, tiến sĩ chuyên ngành đông y, dược học. Tuy nhiên, ngày đó, chẳng vị nào biết về loại cỏ này. Có vị còn bảo nó chả có giá trị gì cả. Tôi cũng đã từng kỳ công dẫn bác sĩ Nguyễn Hữu Trọng lên Sapa xem loài cỏ này, để tìm cách bảo tồn, nhưng ông cũng mù tịt nốt. Cây cỏ nhung mà ông Lâm gọi là kim tuyến do tác giả chụp trên độ cao 2.900m trong rừng Hoàng Liên Sơn Thời gian gần đây, khi người Trung Quốc phát hiện ở Việt Nam có loài cỏ này, đã thu mua ráo riết. Ở ngoài Bắc thì gọi nó là cỏ nhung, còn trong Tây Nguyên thì gọi là cỏ kim cương. Trong khi các thương lái thu mua với giá bạc triệu cho một kg cỏ kim tuyến tươi, thì một số nhà dược học của ta vẫn khẳng định trên báo chí rằng loài cỏ này có giá trị rất thấp, chỉ sánh ngang… lá lốt. Chính vì không hiểu họ mua để làm gì, nên không ít người có tính suy diễn đặt ra chuyện kẻ xấu lừa đảo đồng bào. Ngành đông y nước Việt xét về tổng thể quả thực còn non trẻ so với người phương Bắc. Có vô số loài cây cỏ bí ẩn, là những thần dược thực sự, nhưng chưa được biết đến. Thậm chí, chẳng biết là cây gì, có tác dụng gì. Vậy nên, người ta vô tư thu mua những cây cỏ quý với giá… cỏ rác. Ông Lâm phải luồn lách khắp hang sâu núi thẳm để tìm thuốc quý tự cứu mình Ông Lâm vốn có bao năm bôn ba Trung Quốc, làm việc và sống với người Trung Quốc, nên ông biết họ cực kỳ cao thủ trong việc thu mua nguyên liệu thảo dược từ nước ngoài. Họ không bao giờ họ tiết lộ công dụng của những thứ mà họ sẽ mua. Bởi vì, nếu công dụng của thứ họ mua lộ ra, người khác sẽ biết cách chế biến, sử dụng, như vậy, họ sẽ khó thu mua tiếp, hoặc phải thu mua với giá cao. Ông Lâm có đến cả trăm ví dụ về sự khôn lanh của người phương Bắc. Họ làm giàu trên sự ngây thơ của chúng ta. Vô số loài thảo dược quý đã bị họ tận thu, mà chúng ta lại cười họ rằng bỏ tiền thu mua thứ vớ vẩn. Bài thuốc trị ung thư của ông Lâm, do các thiền sư Tây Tạng chỉ cho gồm có 7 loại chính, trong đó quý nhất là ngũ trảo long, rồi đến cỏ nhung, giảo thiền kê, giảo cổ lam, bạch hoa xà… Đồng bào đã nhổ sạch cỏ nhung trong rừng Hoàng Liên Sơn bán sang Trung Quốc với giá rẻ mạt Hồi ông Lâm mới vào Hoàng Liên Sơn sống với thú hoang, cỏ nhung mọc lan khắp các hốc cây, bụi rậm. Thậm chí, chúng mọc đầy trong vườn thảo quả của đồng bào. Đồng bào phải nhổ bỏ đi. Hồi ông Lâm nấu bát canh cỏ nhung cho tôi ăn, ông bảo: “Chú thân với cháu lắm, chú mới tiết lộ cho cháu về cây cỏ này. Cháu có biết người Trung Quốc và người Nhật mua cây cỏ này với giá bao nhiêu tiền không?”. Thấy loài cỏ này mọc đầy trong rừng, tôi đoán bừa cỡ trăm ngàn. Tôi ngã bổ chửng khi ông Lâm tiết lộ rằng, cách đây 10 năm người Trung Quốc mua ở Tây Tạng với giá 5 triệu đồng/kg tươi dính cả đất ở rễ. Người Nhật còn mua nó với giá đắt hơn nhiều. Nếu là cỏ nhung khô thì có giá trên 100 triệu đồng/kg. Thời điểm đó, vài kg cỏ nhung đổi được mảnh đất Hà Nội. Lúc đó, tôi chợt nghĩ, hay bỏ công việc làm báo nhọc nhằn, đi nhổ cỏ nhung bán cho người Trung Quốc sẽ giàu to. Nhổ một ngày trong rừng thì được cỡ vài bao. Bác sĩ Nguyễn Hữu Trọng, người rất quan tâm đến cây cỏ, đã được tác giả dẫn lên Sapa 7 năm trước để nghiên cứu, mang về Hà Nội chiết xuất, nhưng cũng không biết cỏ nhung để làm gì Nhưng tôi chọn cách im lặng. Nếu người Trung Quốc biết có cỏ nhung ở Việt Nam, họ sẽ thuê người Việt nhổ sạch. Không có cỏ nhung, ông Lâm sẽ không sống được. Ông Lâm cũng không muốn nói công dụng của nó với các nhà khoa học, bởi sẽ lại giống các cây cỏ khác, họ sẽ chẳng nghiên cứu đến đầu đến đũa, rồi thiên hạ biết, người Trung Quốc biết, sẽ bị nhổ sạch. Mới đây, trở lại đại ngàn Hoàng Liên Sơn, lang bạt trong rừng, ông Lâm đố tôi tìm được cây cỏ nhung nào. Tôi và ông đi rạc cẳng chẳng kiếm nổi một cây. Mấy năm trước, người Trung Quốc phát hiện ở Hoàng Liên Sơn có cỏ nhung, họ thuê đồng bào H’Mông nhổ. Đồng bào H’Mông như loài dê núi, luồn rừng cả ngày không biết mệt. Không đầy một năm, cỏ nhung trong đại ngàn Hoàng Liên bị nhổ sạch. Lúc đầu, người Trung Quốc mua với giá 50 ngàn/kg, sau tăng lên 100 ngàn, 500 ngàn, 2 triệu đồng, và giờ là 5 triệu đồng cho một kg cây tươi gồm cả rễ dính đất. Khi cỏ nhung lên tới giá đó, thì Hoàng Liên Sơn đã sạch bóng loài cỏ này. Ông Lâm phải trồng thuốc quý ở những nơi hiểm trở, bí mật để bảo tồn giống, có thuốc chữa bệnh Nhìn những chuyến xe chở cỏ nhung ùn ùn sang bên kia biên giới, ông Lâm buồn muốn rơi nước mắt. Thương lái mua cỏ nhung của đồng bào với giá 50 ngàn đồng và họ bán với giá 5 triệu đồng, thậm chí là 10 triệu đồng một kg tươi ở nước họ, hoặc bán sang Hồng Kông, Đài Loan, Nhật Bản. Nếu là cỏ nhung sấy khô thì có giá cả trăm triệu đồng một kg. Đau xót không tưởng tượng nổi. “Vàng ròng” đã chảy hết sang bên kia biên giới. Hai năm trước, cỏ nhung, còn gọi là kim cương bỗng sốt xình xịch ở Tây Nguyên, cũng là bởi người Trung Quốc phát hiện một số vùng núi cao ở Tây Nguyên có loài cỏ này. Học sinh bỏ cả trường lớp đi nhổ cỏ nhung bán cho thương lái với giá 200 ngàn/kg, sau lên 500 ngàn/kg. Giờ thì thứ cỏ bí ẩn này đã có giá tới 1 triệu đồng/kg. Theo ông Lâm, sở dĩ cỏ nhung trong Tây Nguyên rẻ như vậy vì chất lượng không bằng ở Hoàng Liên Sơn. Loài cỏ này phải mọc ở độ cao trên 2.800m mới có giá trị dược liệu cao nhất. Cho đến lúc này, một sự thực đau lòng, là cả các chuyên gia dược liệu, các nhà chức trách vẫn chưa biết cỏ nhung để làm gì, có tác dụng gì. Chẳng lẽ người ta bỏ cả núi tiền mua cỏ về cho dê ăn? Theo ông Trần Ngọc Lâm, các thiền sư Tây Tạng sử dụng cỏ nhung để tăng cường sức khỏe, giải độc cơ thể, điều trị ung thư. Vận động viên của Trung Quốc thường dùng cỏ nhung trước các cuộc thi đấu bởi nó có tác dụng chẳng kém gì doping. Viện quân y Trung Quốc sử dụng cỏ nhung cùng một số vị khác trong điều trị ung thư từ rất lâu rồi. Nhưng cỏ nhung có một tác dụng thần kỳ mà người Việt không biết, đó là có khả năng tái tạo tế bào, đặc biệt là tái tạo tế bào gan. Với tác dụng này, cỏ nhung thực sự là thần dược, cỏ trường sinh, quý hơn vàng ròng. Chúng ta sẽ đặt câu hỏi, vì sao cỏ nhung đắt thế mà chúng ta không gieo trồng? Nếu trồng được loài cỏ này, thì nó đã chẳng đắt thế. Loài cỏ này chỉ mọc ở những chỗ ven suối, ẩm ướt, trong bóng tối, ở môi trường mùn dày. Nó không chấp nhận bất kỳ sự chăm sóc nào. Ông Lâm cung cấp thông tin giá trị của cỏ nhung, để mong rằng, chính quyền ra sức bảo vệ loài cỏ cực quý này, trước khi chúng bị nhổ sạch khỏi lãnh thổ Việt Nam.
  12. Tranh Đông Hồ cổ
  13. Chùm ảnh: Tranh cổ "cực quí hiếm" về Hà Nội (P1) (GDVN) - Đến nay, vẫn chưa xác định hết danh tính của tập thể thợ vẽ và thợ khắc VN đã tham gia thực hiện bộ tranh khắc quí hiếm này... Bộ tranh khắc và ký họa đặc biệt này có khoảng 4.200 bức vẽ về sinh hoạt nghề nghiệp trên khắp đường phố Hà Nội cùng các vùng phụ cận do nhiều họa sĩ, nghệ nhân Việt Nam thực hiện theo yêu cầu của nhà nghiên cứu người Pháp Henri Oger. Bộ tranh khắc này sau đó được xuất bản với số lượng cực kì hạn chế chưa đầy 60 bản năm 1909. Hoàng Lâm (Ảnh: Saravan) Đó là bộ tranh khắc và ký họa có đến 4.200 bức vẽ về sinh hoạt nghề nghiệp trên khắp đường phố Hà Nội cùng các vùng phụ cận, do nhiều họa sĩ, nghệ nhân VN thực hiện theo yêu cầu của nhà nghiên cứu người Pháp Henri Oger cách đây một thế kỷ. Đến nay, người ta vẫn chưa xác định hết danh tính của tập thể thợ vẽ và thợ khắc VN đã làm việc với Henri Oger để hoàn tất bộ tranh độc đáo trên Từ điển bách khoa Việt Nam chỉ thấy nhắc đến vài người trong số đó như: Phạm Trọng Hải (quê Hưng Yên), Nguyễn Văn Giai, Phạm Văn Thiêu, Nguyễn Văn Đang (cả ba đều quê Hải Dương). Bộ tranh đồ sộ này xuất bản lần đầu tiên với tựa Kỹ thuật của người An Nam (Technique du peuple Annammite) vào đúng 100 năm trước (1909) gồm 2 tập khổ lớn và với số lượng rất ít: chưa đầy 60 bản. Ở nước ngoài, một ít bản hiện được lưu giữ dưới dạng vi phim tại các trường đại học như Johns Hopkins Baltimore, Southern Illinois Carbondale, California Berkeley, Cornell (Mỹ); ở Thư viện nghệ thuật và khảo cổ học ĐH Paris IV, Sorbonne (Pháp); ĐH Keio (Nhật Bản)... Riêng ở VN là nơi ấn hành hiện cũng chỉ còn biết đến hai bản: một (không đầy đủ) lưu giữ tại Thư viện quốc gia Hà Nội và một bản khác (tương đối tốt) tại Thư viện Khoa học tổng hợp TP.HCM.
  14. Những bức tranh khắc gỗ về một Hà Nội thời xa vắng tưởng chừng như đã chìm vào quên lãng bỗng được khám phá. Với số lượng hơn 4.200 bản vẽ và khắc, những hình ảnh về cuộc sống của người dân Hà Thành được tái hiện rất rõ rệt. Các dụng cụ thường dùng trong cuộc sống và dùng cho các thợ thủ công được ghi dấu lại nguyên bản từ dao rựa, cân, búa, quạt, đàn nhị... Bức vẽ thể hiện cuộc sống và những thú chơi tao nhã của người Hà Thành xưa như chọi gà, chơi chim, đánh tổ tôm... Trong mỗi bản khắc hoặc bản vẽ về Hà Nội thế kỷ XIX đều có rất nhiều chi tiết khác nhau Nghề mây tre đan của các vùng phụ cận Hà Nội và tác dụng của các sản phẩm Bức vẽ miêu tả cảnh bán thịt, tráng bánh, giã gạo, đơm cá Bản khắc ghi lại cuộc sống ở Hà Thành khi xưa từ những người dân lao động đến người giàu có, địa chủ khi xưa Sinh hoạt nghề nghiệp trên khắp đường phố Hà Nội cùng các vùng phụ cận Sinh hoạt nghề nghiệp trên khắp đường phố Hà Nội cùng các vùng phụ cận Sinh hoạt nghề nghiệp trên khắp đường phố Hà Nội cùng các vùng phụ cận Sinh hoạt nghề nghiệp trên khắp đường phố Hà Nội cùng các vùng phụ cận Sinh hoạt nghề nghiệp trên khắp đường phố Hà Nội cùng các vùng phụ cận Tranh dân gian và những hình ảnh về đời sống trong thời phong kiến Sinh hoạt nghề nghiệp trên khắp đường phố Hà Nội cùng các vùng phụ cận Sinh hoạt nghề nghiệp trên khắp đường phố Hà Nội cùng các vùng phụ cận
  15. .Mỗi bức tranh miêu tả lại một hoạt động nghề nghiệp khác nhau của người Hà Thành và các vùng lân cận Người phụ nữ buôn thúng bán bưng Hà Thành khi xưa Hình ảnh phụ nữ xưa ở Hà Thành Những hình ảnh quen thuộc về cuộc sống thường nhật của người dân Hà Thành thế kỷ XIX Đến nay, danh tính những người thợ tham gia vào việc sản xuất ra bộ tranh khắc đặc biệt này gần như không thể xác định được Những hình ảnh quen thuộc trong cuộc sống của người dân Hà Thành đầu thế kỷ XIX Những vật dụng quen thuộc của người dân Hà Thành Từ đời sống thường nhật đến những ngày lễ lạt của người Hà Thành và các vùng phụ cận đều được tái hiện rất sinh động và đầy đủ Thợ thủ công Hà Thành ngày xưa Một ít bản tranh khắc đặc biệt về cuộc sống của người Hà Thành đầu thế kỷ XIX hiện đang được lưu giữ dưới dạng vi phim tại các trường đại học như Johns Hopkins Baltimore, Southern Illinois Carbondale, California Berkeley, Cornell (Mỹ); ở Thư viện nghệ thuật và khảo cổ học ĐH Paris IV, Sorbonne (Pháp); ĐH Keio (Nhật Bản)... Trong mỗi bức tranh khắc đều có nhiều hoạt động nghề nghiệp khác nhau
  16. Riêng ở VN là nơi ấn hành hiện cũng chỉ còn biết đến hai bản: một (không đầy đủ) lưu giữ tại Thư viện quốc gia Hà Nội và một bản khác (tương đối tốt) tại Thư viện Khoa học tổng hợp TP.HCM. Bộ tranh khắc và ký họa đặc biệt này có khoảng 4.200 bức vẽ về sinh hoạt nghề nghiệp trên khắp đường phố Hà Nội cùng các vùng phụ cận do nhiều họa sĩ, nghệ nhân Việt Nam thực hiện theo yêu cầu của nhà nghiên cứu người Pháp Henri Oger. Bộ tranh khắc này sau đó được xuất bản với số lượng cực kì hạn chế chưa đầy 60 bản năm 1909. Bộ tranh khắc cực quí hiếm này đã có lúc tưởng chừng như tuyệt tích
  17. Chúc mừng sinh nhật Hoàng Triệu Hải nhe
  18. Thiền Sư và con chó Nô Ky... - Nô ky là con chó của một Tu viện ở núi Dương Xuân, nó rất dễ thương, nhưng nó cũng có cái tính dễ ghét là hay sủa dai khi thấy khách đến. - Hôm ấy, khách đến viếng chùa, Nô ky sủa dai, Thiền sư quở mà Nô ky vẫn tiếp tục sủa dai, nên Nô ky đã bị Thiền sư hèo cho một hèo, Nô ky bỏ Tu viện ra đi. - Cũng sáng hôm ấy, từ Tu viện một Chú Tiểu phạm lỗi, Thiền sư quở trách, chú ta tìm đủ cách để từ chối lỗi của mình, sau đó chú đã bị Thiền sư hèo cho một hèo, Chú Tiểu cũng bỏ Tu viện ra đi. - Cũng ngày ấy, Thiền sư xuống núi hoằng hóa, chiều trở về Tu viện, Nô ky đã đứng sẵn trước cổng Tam quan, vẫy đuôi chào và nhảy lên mừng rỡ Thiền sư một cách quý mến. -Nhưng Chú Tiểu đã bỏ Tu viện ra đi, một ngày, hai ngày, ba ngàyi, bảy ngày… cho đến cả năm vẫn không thấy bóng dáng chú ở nơi nào! - Nên, có lần Thiền sư tập họp chúng Tăng và dạy: “Cái giận càng nhiều, thì lý trí càng ít. Cái giận càng ít thì lý trí càng nhiều. Cái giận càng nhiều thì sự phản bội càng lớn. Cái giận càng ít thì sự hiểu biết và lòng trung thành lại càng tăng". Quý vị nên biết! Lòng tham và cái giận đã đuổi chúng ta ra khỏi đời sống của tu viện chứ không ai khác. - Hỡi quý vị! Cái giận của Nô ky đi qua nhanh, nên Nô ky có cơ hội ở lại Tu viện để tiếp tục chuyển hóa và thăng tiến. Còn Chú Tiểu tuy làm thân người, nhưng ôm cái giận trong lòng, nên Chú Tiểu đã đánh mất cơ hội quý báu của mình. Chú ấy tuy mang thân người mà tâm tệ hơn cầm thú. - Vậy, quý vị hãy coi chừng tâm của quý vị!!!
  19. Biểu Tượng Giáng Sinh Lễ Giáng Sinh, còn được gọi là lễ Thiên Chúa giáng sinh, Noel, Christmas hay Xmas là một ngày lễ kỷ niệm Chúa Giêsu sinh ra đời của các tín đồ Kitô giáo. Họ tin là Giêsu được sinh tại Bethlehem (Bêlem) thuộc xứ Judea(Giuđêa) nước Do Thái (ngày nay là 1 thành phố của Palestine), lúc bấy giờ thuộc Đế quốc La Mã, khoảng giữa năm 7 TCN và năm 2. Ngày lễ được cử hành chính thức vào ngày 25 tháng 12 nhưng thường được mừng từ tối ngày 24 tháng 12 bởi theo lịch Do Thái, thời điểm tính bắt đầu một ngày là lúc hoàng hôn chứ không phải nửa đêm. Lễ chính thức ngày 25 tháng 12 được gọi là "lễ chính ngày", còn lễ đêm 24 tháng 12 gọi là "lễ vọng" và thường thu hút nhiều người tham dự hơn. Nhiều giáo hội Chính Thống giáo Đông phương như ở Nga, Gruzia vẫn sử dụng lịch Julius để định ngày này, cho nên lễ Giáng sinh của họ ứng với ngày 7 tháng 1 theo lịch Gregory. Tên gọi Noel, từ tiếng Pháp Noël, dạng cổ hơn là Naël, có gốc từ tiếng Latinh nātālis (diēs) có nghĩa là "(ngày) sinh". Cũng có ý kiến cho rằng tên gọi Noel xuất phát từ tước hiệu Emmanuel, tiếng Hebrew nghĩa là "Thiên Chúa ở cùng chúng ta", như được chép trong sách Phúc âm Matthêu. Trong tiếng Anh, ngày lễ này được gọi phổ biến là Christmas. Chữ Christ (phiên âm Việt là "Ki-tô" hay "Cơ-đốc", có nghĩa là Đấng được xức dầu) là tước hiệu của Chúa Giêsu; còn chữ Mass nghĩa là thánh lễ. Do đó Christmas theo nghĩa chiết tự là "(Ngày) lễ của Đức Kitô". Chữ Christ bắt nguồn và được viết trong tiếng Hy Lạp là "Χριστός" (Khrīstos), mở đầu bằng chữ cái "Χ" (Chi) nên Christmas còn được viết tắt là Xmas. Ngôi sao bằng bạc chỉ nơi Chúa Giêsu sinh ra, theo truyền thống Kitô giáo 1/. Ngôi sao Bethlehem = Ngôi sao Giáng Sinh Ngày giáng sinh dù ở bất kỳ nơi đâu trên thế giới, chúng ta đều thấy xuất hiện những ngôi sao lấp lánh trên các cây thông Noel hoặc trên bầu trời đầy tuyết trắng. Vậy những ngôi sao đó xuất xứ từ đâu và nó mang trong mình những thông điệp gì? Ngày giáng sinh dù ở bất kỳ nơi đâu trên thế giới, chúng ta đều thấy xuất hiện những ngôi sao lấp lánh trên các cây thông Noel hoặc trên bầu trời đầy tuyết trắng. Vậy những ngôi sao đó xuất xứ từ đâu và nó mang trong mình những thông điệp gì? Trong tất cả các tranh ảnh Chúa giáng sinh, trên bầu trời bao giờ cũng có một ngôi sao sáng rực rỡ, Kinh Thánh gọi đó là “ngôi sao Bethlehem”, ngôi sao Giáng sinh, từ lâu đã là mối tranh cãi của các nhà thiên văn học. Mới đây Nibel Henbest, một nhà khoa học người Anh đã dựa vào sự chuyển động của quỹ đạo đã dẫn đường cho Ba Vua tới hang đá nơi Chúa sinh ra. Ngôi sao này còn có tên là ngôi trong Thái dương hệ, để giải tỏa câu hỏi tại sao chỉ có Ba Vua nhìn thấy ngôi sao đó, trong khi lịch sử thiên văn không ghi nhận được… Theo Nibel thì vào năm 1604, nhà toán học Johannes Kepler đã tính được vị trí các hành tinh vào thời Chúa giáng sinh, cũng tìm được sự giao hội đặc biệt của các chòm sao trong nhóm Song Ngư vào năm thứ 7 trước công nguyên. Có nghĩa là, sao Mộc và sao Hỏa, biểu tượng của người Do Thái gặp nhau trên bầu trời nhưng vẫn cách nhau một khoảng gần bằng đường kính của mặt trăng. Vài năm sau đó một sự hội ngộ khác lại diễn ra vào tháng 08 năm 03 trước công nguyên, Mộc tinh tiến gần sao Vệ Nữ – một ngôi sao rất sáng. Ngày 17/06 năm 02 trước công nguyên, hai sao trên lại gặp nhau nhưng không va chạm, nhưng tạo thành một ngôi sao lạ, sáng chói khắp miền Trung Đông mà Kinh Thánh đã gọi là ngôi sao Bethlehem. Ngoài ra, với người theo đạo Ky-tô xưa thì ngôi sao Vệ Nữ, tức là sao Hôm mọc trước bình minh, được coi là biểu tưọng của Chúa Giê-su, còn sao Hải Sư lại được người Do Thái coi là sao hộ mạng. Đây là hai ngôi sao sáng nhất trong Thái dương hệ và hiện tượng hội ngộ giao thoa, chỉ xảy ra một lần trong hai ba thế kỷ, như giải thích ở trên, được xem là giả thuyết hợp lý về ngôi sao Bethlehem trong truyền thuyết. 2/. Ông già Noel = Ông già Giáng Sinh Ông già Noel còn gọi là ông già Giáng sinh, hay là ông già Tuyết (theo cách gọi tại Nga), là nhân vật đóng vai trò như là một nhân tố gắn liền với mùa Lễ Giáng Sinh, giống như cây thông Noel. Hình ảnh tiêu biểu của ông già Noel là một ông già mặc bộ đồ màu đỏ viền trắng, thắt lưng da đen, đội chiếc nón đỏ với chòm râu dài trắng, bộ mặt hóm hỉnh, tiếng cười "hô hô hô", tồn tại trong nhiều văn hoá, đặc biệt ở các nước phương Tây. Truyền thuyết cho rằng ông già Noel sinh sống tại Bắc Cực với những người lùn. Ông dành đa số thời gian để chuẩn bị quà, đồ chơi cho trẻ em với sự giúp đỡ của những chú lùn. Vào dịp Giáng Sinh, ông nhận được rất nhiều thư từ trẻ em khắp thế giới. Và mỗi đêm Giáng Sinh, ông lại bắt đầu cuộc hành trình của mình với cỗ xe kéo bởi tám con tuần lộc để mang quà và đồ chơi cho các thiếu nhi. Tên gọi Trong tiếng Anh, Ông già Noel được gọi là 'Santa Claus' (Thánh Nicolas), xuất phát từ truyền thuyết về một nhân vật có thật, sống ở thế kỷ thứ 4 tên là Nicolas Trong tiếng Việt, do không hiểu rõ nguồn gốc, thấy hình ảnh cụ già râu tóc bạc phơ xuất hiện vào Noel thì gọi là "Ông già Noel", nhiều khi còn được gọi là "Ông già Tuyết". Đặc biệt là trẻ em cho rằng Ông già Noel sống và làm việc ở Bắc Cực, nhiều bộ phim nổi tiếng của Hollywood như The Polar Express lại càng củng cố niềm tin thơ ngây này. Các quốc gia ở Bắc Âu như: Đan Mạch, Thụy Điển, Na Uy, Iceland, Phần Lan đều tự nhận rằng xưởng chế tạo đồ chơi của ông già Noel nằm ở quốc gia họ. Ngày nay, người ta tạm chấp nhận Ông già Noel là hóa thân của Thánh Nicolas ở thành Myra (280 - 343), Thổ Nhĩ Kỳ. Nhiều sử gia cho rằng hình ảnh đầu tiên về Ông già Noel xuất hiện trong một bài thơ có tên: A visit from Saint Nicholas (Chuyến thăm của Thánh Nicholas) được xuất bản năm 1823. Còn hình ảnh một ông già phúc hậu, với một bộ râu trắng dài trong bộ đồ màu đỏ có viền trắng thì xuất hiện đầu tiên trên báo vào năm 1860 qua nét bút tưởng tượng của nghệ sỹ Thomas Nast. Tại phương Tây, ngày lễ Thánh Nicholas là vào ngày 6 tháng 12. Hình tượng Ông già Noel ngày nay Vào lễ Giáng sinh, nhiều ông già Noel được thuê mướn để phát quà cho trẻ em. 3/. Cây thông Noel = Cây thông Giáng Sinh Cây Giáng Sinh là cây xanh (thường là cây thông) được trang hoàng để trưng bày trong dịp lễ Giáng Sinh theo phong tục của người Ki tô giáo. Nguồn gốc Theo truyền thuyết 1, vào thế kỷ thứ VIII, thánh Boniface, một thầy tu người Anh, trên đường hành hương, ông tình cờ bắt gặp một nhóm những kẻ ngoại đạo sùng bái đang tập trung quanh một cây sồi lớn, dùng một đứa trẻ để tế thần. Để dừng buổi tế thần và cứu đứa trẻ, Boniface đã hạ gục cây sồi chỉ bằng một quả đấm. Tại nơi đó đã mọc lên một cây thông nhỏ. Vị thánh nói với những kẻ ngoại đạo rằng cây thông nhỏ là cây của sự sống và nó tượng trưng cho cuộc sống vĩnh hằng của Thiên Chúa . Theo truyền thuyết 2, thì giáo sĩ Boniface từ Anh sang Đức truyền bá đức tin Cơ đốc. Ông đã tặng cho thành phố Geismer một cây thông tượng trưng cho tình thương và một tín ngưỡng mới mà ông đã mang đến cho dân tộc Đức. Khi người Đức chấp nhận Cơ đốc giáo, họ chọn cây thông làm cây giáng sinh (cây Nô-en) để nhắc nhở họ nhớ đến công ơn của thánh Boniface, người đã giúp họ thờ phượng Thiên Chúa. Theo truyền thuyết 3, kể rằng, vào một đêm Noel đã rất lâu rồi có một người tiều phu nghèo khổ đang trên đường trở về nhà thì gặp một đứa trẻ bị lạc và lả đi vì đói. Mặc dù nghèo khó nhưng người tiều phu đã dành lại cho đứa trẻ chút thức ăn ít ỏi của mình và che chở cho nó yên giấc qua đêm. Vào buổi sáng khi thức dậy, ông nhìn thấy một cái cây đẹp lộng lẫy ngoài cửa. Hoá ra đứa trẻ đói khát tối hôm trước chính là Chúa cải trang. Chúa đã tạo ra cây để thưởng cho lòng nhân đức của người tiều phu tốt bụng. Theo truyền thuyết 4, một lần Martin Luther - là nhà thần học người Đức, tu sĩ Dòng Augustine, và là nhà cải cách tôn giáo dạo bước qua những cánh rừng vào một đêm Noel khoảng năm 1500. Hàng triệu vì sao sáng lấp lánh qua kẽ lá. Ông thực sự ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của một loài cây nhỏ, trên cành cây tuyết trắng phủ đầy, lung linh dưới ánh trăng. Vì thế, khi trở về ông đã đặt một cây thông nhỏ trong nhà và kể lại câu chuyện này với lũ trẻ. Để tái tạo ánh sáng lấp lánh của muôn ngàn ánh sao ông đã treo nến lên cành cây thông và thắp sáng những ngọn nến ấy với lòng tôn kính ngày Chúa giáng sinh. Ông giải thích là các cây nến cháy sáng trên các nhánh của cây thông tượng trưng cho ánh sáng của Đức Giêsu mang đến cho nhân loại, màu xanh tươi quanh năm của cây thông tượng trưng cho Đức Chúa Trời hằng hữu. Nguồn gốc thực của cây Giáng sinh có thể gắn liền với những vở kịch thiên đường. Vào thời Trung Cổ, những vở kịch về đạo đức được biểu diễn khắp Châu Âu, thông qua các vở kịch ấy người ta có thể truyền bá các bài kinh thánh. Những vở kịch nói về nguồn gốc của loài người và sự dại dột của Adam và Eva ở vườn Eden, thường được diễn vào ngày 24 tháng 12 hàng năm. Cây táo là một đạo cụ trong vở kịch, nhưng vì các vở kịch được diễn vào mùa đông, các loài cây đều chưa kết trái nên các diễn viên phải treo những quả táo giả lên cành cây. Phong tục cây Giáng sinh trở nên phổ biến ở Đức vào thế kỷ 16. Người theo đạo Cơ đốc mang cây xanh vào trong nhà và trang hoàng cho chúng trong dịp lễ Giáng sinh. ở những vùng vắng bóng cây xanh, mọi người tạo ra các đồ vật hình chóp từ gỗ và trang trí cho nó các cành cây xanh và nến. Chẳng bao lâu sau, phong tục cây Giáng sinh đã trở nên phổ biến ở các nước Châu Âu. Thế kỷ 18 và 19 Vào giữa thế kỷ 19, Hoàng tử Albert chồng tương lai của nữ hoàng Victoria của Anh ra đời. Chính ông đã phổ biến rộng rãi phong tục cây Giáng sinh vào nước Anh. Năm 1841, đôi vợ chồng Hoàng gia này đã trang hoàng cây Giáng sinh đầu tiên của nước Anh tại lâu đài Windson bằng nến cùng với rất nhiều loại kẹo, hoa quả và bánh mỳ gừng. Khi cây Giáng sinh trở thành thời thượng ở Anh thì những gia đình giàu có đã dùng tất cả những đồ vật quý giá để trang trí cho nó. Vào những năm 1850, theo sự mô tả của đại văn hào Charles Dickens thì cây Giáng sinh ở Anh được trang hoàng bằng búp bê, những vật dụng nhỏ bé, các thiết bị âm nhạc, đồ trang sức, súng và gươm đồ chơi, hoa quả và bánh kẹo. Sau khi đã tồn tại ở Anh thì phong tục cây Noel cũng trở nên phổ biến trên khắp các vùng thuộc địa của đế chế Anh, tới cả những vùng đất mới như Canada. Cây Giáng sinh lần đầu tiên được dân chúng ở Mỹ biết đến là vào những năm 1830. Khi hầu hết người dân Mỹ đều coi cây Giáng sinh là một điều kỳ cục thì những người Đức nhập cư ở Pennsylvania thường mang cây Giáng sinh vào các buổi biểu diễn nhằm tăng tiền quyên góp cho nhà thờ. Năm 1851 một mục sư người Đức đặt một cây Giáng sinh trước nhà thờ của ông làm cho những người dân xứ đạo ở đó đã bị xúc phạm và buộc ông phải hạ nó xuống. Họ cảm thấy đó là một phong tục ngoại đạo. Tuy nhiên vào những năm 1890 nhiều đồ trang trí bắt đầu được nhập từ Đức vào và từ đó tục lệ về cây Giáng sinh trở nên phổ biến tại Canada và Mỹ. Có một sự khác biệt lớn giữa cây Giáng sinh của Châu Âu và Bắc Mỹ, cây của Châu Âu nhỏ, hiếm khi cao hơn một mét rưỡi, chỉ khoảng 4 hoặc 5 feet trong khi cây của Bắc Mỹ cao tới trần nhà. Thế kỷ 20 Cây Giáng Sinh tại New York năm 2006 Năm 1900, cứ 5 gia đình ở Bắc Mỹ thì có một gia đình có cây Giáng sinh, và 20 năm sau phong tục này trở nên khá phổ biến. Vào những năm đầu thế kỷ 20, người dân Bắc Mỹ thường trang trí cây thông bằng đồ trang trí do chính tay họ làm ra. Vật trang trí truyền thống của người Canađa và người Mỹ gốc Đức gồm có quả hạnh nhân, quả hạch, bánh hạnh nhân với nhiều hình dạng thú vị khác nhau. Những hạt bắp chiên nhiều màu sắc, được trang trí cùng những quả phúc bồn tử và các chuỗi hạt. Cũng vào thời gian này bắt đầu xuất hiện những dây đèn trang trí trên cây Giáng sinh, nhờ nó cây thông rực rỡ hơn nhiều lần. Ánh sáng trang trí bằng đèn điện kéo dài hơn và an toàn hơn rất nhiều so với ánh sáng toả ra từ những ngọn nến. Mỗi năm khi ngày Giáng sinh tới, một cây Giáng sinh lộng lẫy được đặt tại quảng trường trung tâm Bentall thành phố Vancouver, phía nam British Columbia. Và dân chúng tập trung xung quanh cây Giáng sinh đầu tiên vừa được dựng lên và chưa được trang hoàng lộng lẫy kia. rồi ở cuối thành phố cây thông sáng bỗng bừng lên với muôn vàn ánh đèn đầy màu sắc, cùng lúc đó đội hợp xướng nhà thờ ca vang bài hát mừng lễ Giáng sinh. Tại ngọn đồi Parliament ở Ottawa, một cây Giáng sinh rực rỡ ánh đèn màu được đặt cạnh ngọn đuốc thế kỷ của Canada cùng với âm vị ngọt ngào của giai điệu Giáng sinh tuyệt vời từ tháp Hoà Bình Carillon vang đến.
  20. TUỔI TRẺ ĂN CHAY Khuynh hướng ăn chay ngày càng lan rộng ở Bắc Mỹ . Vào năm 2009 , cuộc thăm dò của Vegetarian Resource Group cho biết ở Hoa Kỳ có 8% số người lớn nói họ không bao giờ ăn thịt và các loại đồ biển , kể cả cá .Cũng theo thăm dò của nhóm này vào năm 2010 , có 7% trẻ em tuổi từ 8-18 và 12% trẻ em nam tuổi từ 10 -12 không bao giờ ăn thịt . Những người không ăn thịt và các loại đồ biển kể cả cá , có thể được liệt vào nhóm những người ăn chay .Và trong số những người ăn chay này thì có 1/3 tức 1% người trẻ Hoa Kỳ không ăn cà trứng , mật ong và thực phẩm làm từ sữa . Những người này được gọi là vegan , tạm dịch là người ăn toàn chay . Có thể phỏng chừng ¼ triệu thanh thiếu niên Hoa Kỳ ăn chay . Ngoài ra thống kê năm 2008 cho biết có tới 10% người Mỹ nói rằng họ có nhiều khuynh hướng ăn chay , và 5% nói rằng họ tuyệt đồi muốn chuyển qua ăn chay trong tương lai . Động lực ăn chay có thể nhiều và khác nhau ,nhưng ba động lực chính được kể đến là sức khỏe , lòng bất nhẫn đối với các loài sinh vật , và ý thức bảo vệ môi trường . Việc bảo vệ sức khỏe bằng ăn chay đã được các nhà khoa học chứng minh .Theo các nhà khoa học , nếu chỉ ăn các loại đậu rau , hạt , trái cây ( không ăn thịt và những sản phẫm có nhiều chất béo như mở động vật )song song với tập thể dục thường xuyên , độ mỡ trong máu sẽ thấp , huyết áp hạ , không bị béo phì , giảm nguy cơ bệnh tim , nghẽn mạch ,tiểu đường , ung thư ( Fraser GE , Sumbureru D , Pribits S , et al.Assocication among health habits , risk factors, and all – cause mortality in a black California population , Epidemiology 1997 ; 8 :168-74 ) Cũng theo các nhà nghiên cứu , đạm đậu nành có những chất isoflavones như genistein và daidzein có tác dụng ngăn chặn sự tăng trưởng của khối u , làm giảm lượng mỡ trong máu , giảm nguy cơ máu đông và loãng xương . ( Setchell KDR , Phytoestrogen : the biochemistry ,physiology , and implications for human health of soy isoflavones .Am J Clin Nutr 1998-68 (suppl) : 13335-465 ). Chúng ta cũng biết rằng ,trẻ em ở Bắc Mỹ ngay từ nhỏ đã được sống trong môi trường , gần gủi thân mật với thú vật . Những con vật trong các phim hoạt hình , những con thú đồ chơi , là những bạn gần gủi thân thương đối với chúng . Chú chuột Mickey Mouse , chú gấu Winnie The Pooh cũng gọi là Pooh Bear , sư tử Simba (the Lion King ), Alex( Mandagascar ) voi Manny ( Ice Age) , chó Polt , heo Wilbur và nhiều “nhân vật” thú khác là những con vật thông minh , tốt bụng , thân mật , tình cảm m biết điều ..,không khác gì con người , Bên cạnh đó , có rất nhiều nhà nuôi thú vật như chó, mèo , heo …và những con vật này được đối xử như một phần tử của gia đình , giống như hình ảnh con trâu trong ca dao Việt Nam “ ta đây trâu đó , ai mà quản công “ . Chỉ khác là các chú chó , chú mèo này chỉ ăn ngủ và chơi , không phải làm gì cả , khộng phải làm gì cả , kể cả việc giữ nhà . Các sở thú cũng là nơi quen thuộc với trẻ em Bắc Mỹ . Do đó , khi những đứa trẻ biết được những thực phẩm mà chúng ăn đến từ đâu , một cách ý thức hay vô thức , chúng sẽ khó mà nuốt trôi . Một thống kê ở Mỹ cho biết rằng chỉ số IQ của những trẻ có khuynh hướng ăn chay khi đến tuổi trung niên cao hơn những trẻ không có khuynh hướng đó . Một thăm dò ở Châu Âu cho thấy rằng những vùng não liên quan đến tình thương và lòng lân mẫn hoạt động mạnh hơn ở những người ăn chay so với những người ăn thịt . Về mặt môi trường , theo một thống kê năm 2006 của FAO ( Food and Agriculture Organization ), kỹ nghệ thịt cho ra 18% tổng số khí thải nhà kiếng . Con số đưa ra năm vào năm 2009 của World-Watch thì ít nhất là 51% tuy nhiên con số này chưa được kiểm chứng .Bên cạnh đó , nước để nuôi thú tốn hơn nhiều so với nước để trồng trọt ,thực phẩm dùng để nuôi thú so với lượng đầu ra là thịt chiếm một tỷ lệ rất cao .Theo bà Frances Moore Lappé , “chúng ta ở Hoa Kỳ sử dụng mười sáu pound thóc và đậu nành trong việc chăn nuôi để sản xuất ra một pound thịt bò ” ( Natural Abundance ) Nam Tran , một sinh viên sinh ra và lớn lên ở Canada , tốt nghiệp cử nhân xã hội học , chơi thể thao , tập tạ ,thường xuyên tập thể dục và làm việc không dưới 8 tiếng một ngày , viết về tiến trình trở thành người ăn chay của em và cảm nghĩ về việc ăn chay như sau : “ Trong vài năm gần đậy , tôi đã chuyển từ ăn thịt sang ăn chay . Lý do là khi lướt trên Web , tôi gặp trang YouTube nói về tiến trình sản xuất thịt trong những lò sát sanh và thấy được sự kinh khiếp ở những nơi đó ; tôi nhìn thấy sự sợ hải và vô vọng trong đôi mắt của những con vật sắp bị giết. Sự chuyển đổi này không dễ dàng , nhất là người lớn lên trong môi trường ăn thịt mỗi ngày sau nửa năm , tôi rơi lại vào tình trạng cũ , ăn thịt trở lại .Nhưng sau nửa năm ăn thịt , tôi quyết định chọn lối sống ăn chay một lần nữa . Tôi buộc chính mình xem cuốn phim đã làm tôi ăn chay đồng thời tìm hiểu về thịt mà chúng ta tiêu dùng , và cách giữ gìn sức khỏe kho ăn chay . Giờ đây , có thể nói tôi là người ăn chay , phần lớn tôi ăn thực phẩm được chế biến từ rau, đậu và thỉnh thoảng thực phẩm làm từ sữa . Tôi rất ít ăn sản phẩm làm từ thịt . Và tôi cảm thấy việc tôi chọn ăn chay là rất đúng . Tôi có thêm năng lượng , cảm thấy mạnh hơn và khỏe hơn kể cả vật chất lẫn tinh thần . Nhưng đó không phải là điều tôi muốn nói về vấn đế ăn chay .Tôi chỉ muốn lướt qua về kinh nghiệm bản thân trong việc trở thành người ăn chay để từ đó đưa ra những trình bày của tôi .Tôi muốn đề cập đến ý tưởng cho rằng thú vật được sinh ra đề cho loài người ăn thịt . Do đó , điều đầu tiên tôi muốn nói đây là nếu bạn là một người ăn thịt , đó là quyền của bạn , tôi tôn trọng sự lựa chọn của bạn .NGược lại , tôi cũng muốn bạn tôn trọng tôi, để một chút quan tâm đến sự trình bày của tôi , và đừng bỏ qua chỉ vì bạn tin rằng nó không có giá trị gì trước khi bạn đọc nó . Nếu ăn chay là con đường mà bạn dang chọn thì bạn không cần đọc bài này nữa . Giống như tổn hại con người , tổn hại loài vật là việc làm đáng sợ nhất mà con người có thể làm , Và nếu như bạn đọc những tài liệu “ Earthlings ” hay “Food Inc ”,bạn sẽ thấy sự bạo hành mà loài vật phải chịu bắt đầu từ khi chúng được sinh ra ở những nông trại nuôi thú công nghiệp . Chúng bị hành hạ và đối xử trong phạm trù là những đối tượng để ăn thịt . Nhưng những con vật này cũng có cảm xúc và cảm giác giống như con người .Chúng biết sợ và buồn ,do đó chúng không nên bị đối xử theo cách thô bạo đó . Và điều đó đưa tôi tìm đến những nông trại mà loài vật được thả tự do . Thú vật trong những nông trại này được đối xử khá hơn rất nhiều so với những thú vật được nuôi ở những nông trại nuôi thú công nghiệp hay ở những trại sát sanh . Nhưng cuối cùng , chúng đều được sinh ra và nuôi lớn để làm thịt ; như vậy có chăng chúng thật sự có một vị trí nào đó trong lòng nhận đạo . Một điều khác mà tôi muốn thảo luận là cái nhìn toàn bộ về loài vật và việc duy trì hệ sinh thái . Những người ăn chay tuyệt đối ( vegan) cho rằng việc giết loài vật hàng loạt làm cho hệ sinh thái của chúng ta bị rối loạn và từ đó đưa đến tình trạng mất quân bình của địa cầu . Những người ăn thịt lại nói rằng nếu loài vật không bị giết để làm thực phẩm thì chúng sẽ trở nên quá nhiều và hành tinh của chúng ta cũng sẽ bị mất quân bình . Tuy nhiên , tôi tin rằng nếu việc tiêu thụ thịt giảm đi thì việc nuôi súc vật để ăn thịt cũng sẽ giảm . Nếu những loài thú vật nào đó tăng trưởng quá mức , tôi cũng tin rằng hệ sinh thái của chúng ta sẽ có cách để làm quân bình một cách hữu cơ . Giả sử số lượng bò tăng lên quá mức , thì một loại thú ăn thịt chẳng hạn như chó sói có thể đem lại sự cân bằng bằng việc ăn thịt những con bò . Nhưng một số người bảo rằng đó cũng là một việc tàn ác .Vâng, đó là tàn ác , nhưng đó là một tiến trình tự nhiên so với loài người dùng máy móc và hóa chất để tạo ra số nhiều rồi giết để ăn . Tôi tin rằng loài người có những chức năng tâm thức mạnh hơn loài thú ăn thịt , chúng ta nên nhìn lại và hợp lý hóa những chức năng của vũ trụ . Với khả năng siêu đẳng của bộ óc, chúng ta có thể nhận ra rằng hành tinh này là mong manh, và chúng ta không nên làm những việc như kiểm soát số lượng thú vật , vì điều đó sẽ và đang hủy hoại hành tinh của chúng ta; chúng ta nên để cho thiên nhiên điều hành hệ thống của chúng ta. Những loài thú như cọp, sư tử và chó sói không có lựa chọn nào , chúng chỉ biết giết như là một cách để tìm thức ăn . Chúng ta là con người thông minh hơn chúng nhiều . Nhưng cũng sẽ có một số người lập luận rắng , nếu chúng ta để cho chó sói chẳng cân bằng số lượng bò , điều gì sẽ xảy ra nếu số lượng chó sói tăng trưởng nhiều và tấn công con người ? Tôi tin rằng có quá trình tự nhiên điều hành số lượng của những kẻ thù đó . Nhưng nếu không đúng như thế thì đây là vấn để cần suy nghĩ . Tôi không muốn kẻ nào tấn công tôi và gia đình tôi , nhưng tôi cũng không muốn giết hại những con thú đó . Tôi tin rằng , là con người chúng ta có khả năng nhìn ra một tiến trình đạo đức để làm cho những con vật hung dữ đó không đến gần được chúng ta và giữ cho chúng ta an toàn . Nhưng nếu bị một con thú ăn thịt tấn công ,tôi nghĩ rằng bạn có quyền tự vệ , bảo vệ gia đình bạn và bạn bè của mình ( và người cần sự giúpđở ) bằng nhiều phương tiện cần thiết . Nhưng điều mà tôi cố gắng nêu ra ở đây là chúng ta không nên tìm mọi cách để điều khiển vũ trụ . Với tôi , đó là một hình thức thực dân mới , ở đó chúng ta sử dụng sức mạnh của chúng ta là những con người có trí thông minh hơn loài vật để điều khiển chúng với mục đích lấy được thứ gì đó từ chúng (trong trường hợp này là thịt và quyền lực đối với thú vật ). Chúng ta vượt qua giai đoạn săn bắn và hái lượm ; ngày nay chúng ta thông minh hơn và hiểu biết hơn xưa rất nhiều ; chúng ta sở hữu được nhiều điều về đời sống và việc dinh dưỡng , do đó chúng ta nên sử dụng trí thông minh để tìm ra những cách thức lành mạnh hơn , cho cả chúng ta và địa cầu ; tìm ra những phương pháp khác trong việc tìm kiếm và giữ gìn thực phẩm ”. ( Nam Tran – Animal cruelty on free-range farms ? My journey as a vegetarian-liberatemind.com ) Do đó , khi phụ huynh thấy các con em mình , nhất là những cháu sinh ở hải ngoại , không muốn ăn thịt , không nên miễn cưỡng chúng . Sự miễn cưỡng có thể làm phương hại đến tâm lý của những đứa trẻ . Tuy nhiên , để các cháu có đủ dinh dưỡng ,các phụ huynh kể cả các phụ huynh là người ăn chay và muốn con mình ăn chay , nên tìm hiểu về thực phẩm chay và phương cách ăn chay cho trẻ con. Ví dụ có thể cho các cháu ăn dặm . Ở Mỹ có phong trào “weekday vegetarian” ( ăn chay ngày trong tuần , cuối tuần ăn mặn )cũng khá phổ biến . Theo bác sĩ Jatinder Bhatia , Tổng Thư Ký Ủy Ban Dinh dưỡng của American Academy of Pediatrics , “ Ăn chay có thể có ích cho một lối sống lành mạnh , nhưng bạn cần cân bằng những chất còn thiếu ” Cũng theo các bác sĩ , thiếu sót quan trọng nhất trong các thực phẩm thực vật là chất sắt . Vitamin –B12 cũng là một vấn đề . Do đó , khi nuôi một đứa trẻ ăn chay , cha mẹ cần quan tâm đến những yếu tố này .Dĩ nhiên không phải là không có cách . Hai sai lầm thường gặp của những bậc cha mẹ có con ăn chay là : Hoặc lo cho đứa trẻ không có đủ dinh dưỡng nên dồn cho đứa trẻ những thực phẩm có nhiều chất béo bão hòa và nhiều calories. Hoặc chỉ lấy thịt ra khỏi món ăn mà không thay thế vào đó thức nào khác . Phụ huynh nên để ý đến các loại đậu , những sản phẩm từ đậu nành và sản phẩm ít chất béo làm từ sữa .Và ít nhất cũng nên biết qua những chất dinh dưỡng có trong các loại rau , đậu , hạt , trái , Chẳng hạn để thay thế chất sắt và đạm của thịt , có thể sử dụng đậu nành , để có đủ vitamin B12 , người ăn chay có thể ăn măng tây ( asparagus ),bông cải xanh (broccoli)…tốt nhất là nhờ sự tư vấn của các nhà chuyên môn thực phẩm . Theo Viện Sức khỏe Quốc Gia ( National Institutes of Health ) của Hoa Kỳ , cơ thể khó hấp thụ chất kẽm không có nguồn động vật . Một cách để làm cho chất này được hấp thụ dễ là ngâm nhiều giờ trong nước các loại đậu , hạt có chất kẽm , cũng có thể cho hạt lên mầm trước khi nấu . Tài liệu cũng nói rằng thực phẩm làm từ hạt cho lên men giúp cơ thể hấp thụ chất kẽm dễ hơn . Cách làm tương đậu nành cổ truyền của Việt nam là ủ cho đậu nành lên men trước khi chế biến . DHA ( Docosahexaenoic acid ) , chất Omega – 3 có trong một số loại cá , cần thiết cho sự phát triển của não và mắt của trẻ , cũng có thể thay thế với hạt Flax ( hạt lanh, người Trung Quốc gọi là lin ) hoặc tìm trong các thực phẩm hay nước uống tăng cường DHA ( DHA – fortifred ) . Theo Katie Kavanagh , một chuyên viên về thực phẩm tại Đại học Tennessee ở Knoxville , những thức ăn chay cho trẻ em có chứa vitamin và khoáng chất ngày nay rất dễ tìm , như sữa đậu nành , nước cam … Một vấn đề cũng nên quan tâm là tâm lý của trẻ em ăn chay . Mangels chăm sóc hai cộ con gái ăn chay nói rằng trẻ con dù sao cũng chỉ là trẻ con , cha mẹ nên tế nhị đối với nhu cầu và cá tính của chúng .Bà nói : “ Nếu con của bạn là đứa trẻ không muốn khác với các bạn cùng trang lứa , đừng bắt chúng đến trường với thức ăn mang theo nhìn thấy khác với chúng bạn ”. HẠNH PHÚC Ở ĐÂU? Trước khi phát tâm tu học, con người cứ tưởng Phật pháp chỉ ở trong kinh điển, chỉ ở nơi niết bàn, hay ở cõi Phật và chỉ dành cho các nhà sư trong chùa chiền, tự viện. Không ngờ Phật pháp ở khắp thế gian. Phật pháp ở tại thế gian. Sống trong thế gian, nhận được Phật pháp, đó mới là niềm an lạc và hạnh phúc chân thật nhất. Hạnh phúc không có ở bên ngoài, không có ở địa phương nào, không có ở thành phố lớn hay thị xã nhỏ, dù nơi đó giàu sang hay đang phát triển, không có ở Việt Nam, không có ở Hoa kỳ, Canada, Âu châu hay Úc châu. Hạnh phúc không có trong nhà, không có trong chợ, không có trong chùa. Hạnh phúc ở trong tâm của mỗi người. Khi thân tâm an lạc, con người hưởng được hạnh phúc chân thật. Đó chính là niềm mơ ước của con người. Đó chính là câu chúc nhau chân thật nhất, trang nghiêm nhất: Chúc các bạn thân an tâm lạc. Khi nào thân của con người được bình an?Thân của con người được bình an là khi con người đang hưởng phước. Nghĩa là: con người đầy đủ mắt tai mũi lưỡi, tứ chi lành lặn, không bệnh tật, được ăn no, mặc ấm, sống nơi an ninh, không gặp bất trắc, hiểm nguy. Khi nào tâm của con người được hỷ lạc? Tâm của con người được hỷ lạc là khi con người đang hưởng phước. Nghĩa là: con người được an nhiên tự tại trong cuộc sống, không bị sợ hãi bởi các lời hăm he, hù dọa, gạt gẫm của các tà sư, không lạc vào tà đạo, mê tín dị đoan, không bị tà kiến trói buộc, tà pháp sai sử. Tâm của con người được hỷ lạc nhất là khi con người sống đời tri túc, biết đủ, tri nhàn, biết thư giản, không còn tâm tham lam, sân hận và si mê. Thân được bình an, tâm được hỷ lạc, không do lời cầu nguyện, hay chúc tụng, không do ơn trên, thánh thần thiên địa ban cho. Bởi lẽ, tại sao trời lại ban cho người này, không ban cho người kia, không ban cho tất cả mọi người? Thực ra, thân tâm an lạc có được, chính là phước báu, là công đức và phước đức, tạo nên do sự tu tâm dưỡng tánh của chính bản thân. * * * Có sáu phương cách để tạo nên phước báu, đó là: bố thí, trì giới, nhẫn nhịn, tinh tấn, thiền định và trí tuệ. Trong kinh sách, gọi đó là Lục Độ Ba La Mật. 1. Thực hành bố thí, tâm con người hoan hỷ, bớt tham lam, ích kỷ, nhỏ nhen. Phước báu vô lượng. 2. Thực hành trì giới, 5 giới căn bản, 10 giới thiện, 250 hay 348 giới xuất gia, tâm con người bớt loạn động, được an tịnh, nhứt tâm. Phước báu vô lượng. 3. Thực hành nhẫn nhịn, nhẫn mà không thấy nhục, nhịn mà không thấy thiệt, tâm con người từ bi hơn, khoan dung, độ lượng hơn. Phước báu vô lượng. 4. Thực hành tinh tấn, làm việc phước thiện, cứu người giúp đời không mệt mỏi, tâm con người an vui hơn khi thấy người khác an vui. Phước báu vô lượng. 5. Thực hành thiền định, tức giữ được sự bình tĩnh thản nhiên trong cuộc sống, tâm con người dễ dàng hỷ xả, không sân hận, không kích động; hành động, lời nói và ý nghĩ thảy đều thanh tịnh. Phước báu vô lượng. 6. Thực hành trí tuệ, là bước cuối cùng, tâm con người sáng suốt, giác ngộ chân lý, giải thoát phiền não khổ đau trong sanh tử luân hồi. Đây chính là cứu cánh tột cùng của đạo Phật. Phước báu vô lượng. Phước báu vô lượng tức là hạnh phúc vô biên. Sách có câu: Thứ nhứt thì tu tại gia, Thứ nhì tu chợ, Thứ ba tu chùa. Người tu tại gia thực hành lục độ, tất được phước báu, rốt ráo sẽ được thân an tâm lạc, đó không còn là lời chúc tụng suông nữa. Đó chính là sự thực. Người tu tại gia, cũng phải ra chợ, tiếp xúc với đời, không tránh khỏi. Người tu tại chợ thực hành lục độ, cũng được thân an, tâm lạc, không nghi. Đó chính là sự thực. Người tu tại gia có lúc đến chùa, hoặc phát tâm xuất gia, thực hành lục độ, nhất định được thân an tâm lạc. Đó chính là sự thực.Tất cả đều do tâm tạo. Tâm tạo được an lạc hạnh phúc, nếu trong cuộc sống, con người biết thực hành lục độ. Con người đã có an lạc hạnh phúc trong tâm, dù sống bất cứ ở nơi nào trên thế gian, trong bất cứ hoàn cảnh nào, trong bất cứ thời đại nào, cũng cảm nhận được thân tâm an lạc. Ngược lại, tâm tánh xấu xa, ích kỷ, nhỏ nhen, ganh tị, đố kỵ, hiềm khích, thù hận, cuồng tín, dù sống tại gia, tại chợ hay tại chùa, dù sống bất cứ nơi nào trên trái đất, con người cũng cảm thấy phiền não và khổ đau, không sao tránh khỏi. Tóm lại, con người biết tu tập, nên quán xét tâm tánh chính mình, cố gắng tu tâm dưỡng tánh. Khi tâm tánh con người sáng suốt, chân chánh và thanh tịnh, không cần lập nguyện, cũng được vãng sanh tịnh độ. Sống hạnh phúc, chết bình an. Nhất thiết duy tâm tạo, chính là nghĩa đó vậy. Suốt đời tìm khắp đông tây Ai hay hạnh phúc ở ngay tâm mình Thích-Chân-Tuệ Phật-Học Tịnh-Quang Canada
  21. Kỹ Thuật Tỉnh Thức Trần Khải Khó có thể biết chính xác, hay khó có thể đo lường những con số về số lượng Phật tử, dù là tại Việt Nam hay tại Hoa Kỳ. Bởi vì lúc nào cũng có nhiều người tự xem mình là Phật tử, có khi tự xem mình là học giả về Phật giáo sau vài năm đọc kinh điển, mà không cần bước vào chùa hay cần phải gặp vị sư nào để học hỏi. Điều đó thật tự nhiên, bởi vì Phật giáo không ràng buộc, cũng không đẩy ra bất kỳ ai. Nhưng nói ngược lại cũng sẽ đúng, bởi vì vẫn đang có rất nhiều người chịu ảnh hưởng của Phật giáo, sống theo một số tin tưởng và thậm chí còn ngồi thiền theo Phật giáo, nhưng lại không hề xem mình là Phật tử. Cứ tự gọi là vô thần, hay đạo nào khác cũng được. Tại Mỹ con số này nhiều lắm. Hai trong những pháp thiền Phật giáo đang được nhiều người Mỹ tu tập là Minh Sát Thiền (Pali ngữ : Vipassana; Anh ngữ : insight Meditation) và Thiền Tào Động (Nhật ngữ : Soto), thì khi thực dụng lại hoàn toàn không đưa ra tín hiệu nào. Một phần được trích ra từ các pháp Thiền để biến thành cái người ta thường gọi là pháp Thiền Tỉnh Thức (Mindfulness Meditation) đã được áp dụng rộng rãi ở nhiều nơi tại Hoa Kỳ, vì các lợi ích cụ thể. Có khi, người ta tránh chữ Thiền (Meditation) vì mang chút ít ý nghĩa tôn giáo, nên gọi là Kỹ Thuật Tỉnh Thức (Mindfulness Techniques) để không gây dị ứng với ai hết. Rồi có nơi khi dạy pháp này, lại dạy kèm theo các tư thế (asana) của Yoga để biến thành một môn thể dục thực dụng, cho cả thân và tâm. Tuy nhiên, vấn đề là, ai tập cũng được không cần phải là Phật tử. Theo báo Columbian Missourian hôm 13-02-05, phóng viên Shannon Burke ghi nhận rằng, "lợi ích của Tỉnh Thức thay đổi tùy người, nhưng trong 2 thập niên qua, các cuộc nghiên cứu y khoa khám phá ra rằng những người tập kỹ thuật Tỉnh Thức, như thiền định hay Yoga, có thể đối trị với đau đớn nhiều lần, đối trị dễ hơn các điều kiện cảm xúc, như khi bị trầm cảm; giảm các mức độ căng thẳng, giảm lo lắng; và tăng khả năng hệ miễn nhiễm". Thế cho nên, Phil Jacson, người làm Huấn Luyện Viên cho hai đội bóng cà na Chicago Bills và Los Angeles Lakers để thắng 9 giải vô địch NBA, đã dùng các kỹ thuật thiền định để động viên và khuyến khích các cầu thủ của ông. Trên tòa án cũng đang dùng tới tỉnh thức. Một chương trình ở St Louis, có tên Dự Án Án Tù Giác Ngộ (Enlightened Sentencing Project), gồm một mạng lưới các thẩm phán tòa án hình sự, các vị này ra án buộc các người thọ án treo và án quản chế phải theo học một khóa, trong đó dạy Tỉnh Thức, Yoga và phép thở như một cách kiểm soát giận dữ, giảm nghiện ma tuý và loại trừ tính tình hung dữ. Sinh viên đại học cũng học thiền nữa. Đại Học Luật Missouri (MU school of law) cũng dạy kỹ thuật Tỉnh thức cho sinh viên. Người chỉ huy chương trình Initiative on Mindfulness in Law and Dispute Resolution tại trường MU là Leonard Riskin, đã đưa tỉnh thức vào nhiều đại học luật và nghề pháp lý. Nhưng điều chắc chắn là những người tập pháp đó không xem mình là Phật tử, mà cũng không tự xem mình là Ấn Độ Giáo khi dùng các tư thế Yoga. Cũng hệt như người tập võ Thiếu Lâm, cũng không xem mình là tín đồ của Phật Giáo. Tờ Journal for the Scientific Study of Religion (tạp chí Nghiên Cứu Khoa Học về Tôn giáo) mới đăng một cuộc nghiên cứu của hai người : nhà xã hội học về tôn giáo Hoa Kỳ Robert Wuthnow và nhà nghiên cứu Theravada tại Hoa Kỳ là Wendy Cadge. Khám phá này thực ra không có gì lạ đối với người Việt Nam mình. Nhưng với Mỹ thì là một hiện tượng lạ. Rằng rất nhiều người thường xuyên đi các chùa Phật giáo và trung tâm thiền tập mà lại không xem mình là Phật tử. Thí dụ cụ thể, có khoảng 50% số độc giả của Tricycle, một tạp chí Phật giáo lớn ở Hoa Kỳ, không tự xem mình là Phật tử. Sử gia về Tôn giáo Hoa Kỳ Thomas Twêd thì đưa ra chữ "Nightstand Buddhists" (Phật tử bên đèn) để chỉ cho những người có thể đọc 1 cuốn sách Phật giáo trước khi ngủ, hay là có thể ngồi thiền vào buổi sáng. Dựa trên cuộc nghiên cứu thực hiện trong các năm 2002-2003, Wuthnow và Cadge thấy rằng 1/7 người Mỹ đã từng tiếp cận ở mức độ tương đối, đối với Phật giáo đã ảnh hưởng đến đời sống tôn giáo của họ. Đó là những con số cao bất ngờ. Hiện thời có khoảng 4 triệu người Mỹ tự xưng mình là Phật tử. Nhưng bản nghiên cứu cho thấy hiện tượng bất ngờ : khi hỏi có bao nhiêu người Mỹ đưa nếp sống Phật giáo vào đời sống tâm linh của họ, thì con số là 12.5% dân số, tức là có khoảng 26,125,000 người thành niên Hoa kỳ. Còn con số người Mỹ nói rằng chịu ảnh hưởng lớn từ Phật giáo thì cũng gần như trên : tới 12%, túc là 25,080,000 người Mỹ thành niên. Thế nghĩa là, con số sống theo đạo Phật hay chịu ảnh hưởng đạo Phật nhiều hơn gấp 6 lần số người có căn cước Phật tử. Còn con số người Mỹ có lượng tiếp cận tương đối với Phật giáo là 14%, tức 29.260.00 người thành niên. Chính vì có sức lôi cuốn như thế, nên một số người đã bày tỏ dị ứng với các kỹ thuật an tâm của Phật giáo. Hiển nhiên là, tập Yoga không phải là tín đồ Ấn Độ giáo, thì tập Kỹ Thuật Tỉnh Thức cũng không phải là Phật tử. Trở lại bài báo trên Comlubian Missourian, giáo sư Leonard Riskin mới bị shock khi nhận biết rằng anh sinh viên luật năm thứ 3 Andy Hirth gởi lên Hội Đồng Khoa, khiếu nại rằng Kỹ Thuật Tỉnh Thức do trường đại học MU giảng dạy có thể dẫn sinh viên vào Phật giáo. Hirth nói, "Ngay cả nếu chương trình được xóa bỏ toàn bộ mọi liên hệ với bất cứ điều gì có thể được xem có tính tôn giáo, thì dường như chương trình vẫn là một cánh cổng dẫn người ta quan tâm vào Phật giáo, điều tôi không nghĩ là thích nghi". Theo luật, các đại học công lập không được truyền giáo. Nhưng nếu tỉnh thức không giúp gì được cho người đạo khác, thì làm sao con số người "quan tâm" và "chịu ảnh hưởng" lên tới 25 hay 26 triệu người Mỹ. Viện Trưởng đại học MU Brady Deaton trả lời thư khiếu nại của Hirth rằng, MU thường xuyên mời các diễn giả và nghệ sĩ tới trường "để sinh viên tiếp cận nhiều ý kiến và kinh nghiệm, cả trong và ngoài lớp học. Trong khi đó chúng tôi không có ý dạy pháp tu tâp của tôn giáo nào, chúng tôi vẫn khuyến khích trao đổi ý kiến về tôn giáo". Đây cũng là chỗ mà các nhà giáo dục quan tâm : dạy kỹ thuật Tỉnh thức sẽ giúp thanh niên chữa các bệnh ma tuý, bớt các thái độ bạo hành. Mà không cần nhắc gì tới tôn giáo hay tín ngưỡng...
  22. Lập khu “đèn đỏ” ở VN: Ý kiến trái chiều Chủ nhật, 09/12/2012, 07:10 PM (GMT+7) (Tin tuc) - Hàng năm ở Hà Nội, có thể nói việc bắt, phá các tụ điểm mại dâm phải phát hiện đến hai nghìn người bán dâm, nhưng số lượng bắt buộc đưa vào cơ sở giáo dục lao động xã hội chỉ khoảng 200 người. Càng gần ngày Luật Xử lý vi phạm có hiệu lực, quy định không áp dụng biện pháp quản lý, giáo dục tại địa phương và đưa vào cơ sở chữa bệnh đối với người bán dâm càng khiến nhiều người nghi ngại, lo lắng nạn mại dâm sẽ bùng phát, gia tăng đột biến khi tất cả số gái bán dâm đang bị quản lý được “tự do”. Bên lề hội nghị triển khai Luật Xử lý vi phạm hành chính do Bộ Tư pháp vừa tổ chức, bà Nguyễn Thị Phương, Giám đốc Trung tâm giáo dục lao động xã hội số 2 Hà Nội (Trung tâm GDLĐXH số 2) cho rằng, số người bán dâm đang bị quản lý chỉ là “muối bỏ bể” so với số người “hành nghề” trên thực tế. Từ thực tiễn quản lý tại Trung tâm GDLĐXH số 2 trong nhiều năm, theo bà, việc không bắt buộc đưa vào cơ sở chữa bệnh, giáo dục với người bán dâm có ảnh hưởng tiêu cực gì với xã hội? Tại Trung tâm GDLĐXH số 2, để chuẩn bị triển khai qui định mới này, chúng tôi đã rất thận trọng, đã tiến hành các cuộc khảo sát, xem tâm tư nguyện vọng của chị em khi trở về như thế nào. Đa số chị em có mong muốn được gia đình đón nhận. Trung tâm cũng đã có các phương án để đưa chị em trở về, đó là mời các gia đình lên, tư vấn cho gia đình, và hỗ trợ cho các em tiền đi đường. Chúng tôi cũng phân tích cho các gia đình rằng nhận thức của người bán dâm rất hạn chế, nhiều người suy nghĩ rất đơn giản, thậm chí không nhận thức được nguy cơ lây nhiễm các bệnh về tình dục, nhất là HIV/AIDS. Chúng tôi cũng nói rõ, tuy người bán dâm không bị xử lý vi phạm hành chính bằng biện pháp đưa về trung tâm giáo dục nữa, nhưng vẫn bị xử phạt vi phạm hành chính, vì bán dâm là hành vi vi phạm. Nhiều người không biết rằng, số người bán dâm được đưa vào các Trung tâm chiếm tỷ lệ rất ít, rất nhỏ so với thực tại. Cho nên số người bán dâm nếu thả hết ra ngoài, đưa trở về xã hội, thì lượng người bán dâm cũng chẳng tăng lên đáng kể. Thế nên, việc này không có gì xáo trộn cả. Vấn đề quan trọng là làm sao mình tuyên truyền để người bán dâm nhận thức rằng, việc họ không bị bắt buộc đưa đi giáo dục nữa không đồng nghĩa với việc được phép hành nghề bán dâm, được công nhận bán dâm là một nghề. Bà Nguyễn Thị Phương: Ở Việt Nam cũng nên thí điểm khu “đèn đỏ” tại các khu du lịch Bà có thể nói cụ thể về tỷ lệ gái bán dâm ở trong các trung tâm và ngoài xã hội trên địa bàn Hà Nội? Hàng năm ở Hà Nội, có thể nói việc bắt, phá các tụ điểm mại dâm phải phát hiện đến hai nghìn người bán dâm, nhưng số lượng bắt buộc đưa vào cơ sở giáo dục lao động xã hội chỉ khoảng 200 người thôi. Còn lại, phạt hành chính xong rồi thả. Mà số bị bắt cũng chỉ là số nhỏ, nên 200 người đang quản lý, thả ra chỉ như muối bỏ bể. Ngay cả gái bán dâm cũng cho biết “dù tất cả chúng em trong này ra thì cũng chẳng thấm gì với số người bán dâm hiện nay cả”. Trung tâm GDLĐXH số 2 hiện quản lý khoảng 1.000 học viên, trong đó có 200 gái bán dâm, còn lại là người nghiện ma túy, cả nam lẫn nữ, riêng nữ nghiện ma túy của Hà Nội theo hồ sơ quản lý đã là 500 người. Theo bà, việc đưa người bán dâm trở lại cộng đồng có khó khăn gì không? Trên thực tế thì những em có gia đình và gia đình sẵn sàng đón về thì thuận lợi, nhưng cũng không ít trong số các em ở trung tâm là người không nơi nương tựa, không có nơi để trở về. Không ít người bán dâm khi vào Trung tâm cho biết họ mong muốn được CA bắt để có thể thoát khỏi sự bảo kê, chủ chứa. Nghĩa là, nhiều người đã không muốn hành nghề này nữa, nhưng không có nơi để trở về. Ví dụ, trường hợp một em bị bán sang Trung Quốc từ năm 14 tuổi, đến năm 18 tuổi trốn thoát được về Việt Nam, thì lại bị lừa bán tiếp vào các ổ chứa ở Việt Nam. Trong 1 trận truy quét, em bị bắt và đưa vào Trung tâm. Em này gia đình hoàn cảnh, bố mẹ bỏ nhau, bố đã lấy vợ khác ở một tỉnh miền núi rất xa, gần như em không có thông tin gì về bố. Còn mẹ cũng đã lấy chồng ở Hòa Bình, có với bố dượng một người con trai. Khi về Việt Nam rồi, có hai lần em đi tìm được mẹ thì bị con trai của bố dượng đánh dã man và đuổi đi. Cuộc sống của mẹ em khó khăn nên chẳng giúp gì cho em được. Em nói với tôi rằng “nếu cô cho em ra, thì em không biết đi đâu về đâu!”. Hay tại Trung tâm chúng tôi có khoảng 20 chị nhiễm HIV, gia đình kỳ thị, xã hội kỳ thị, không có cơ hội trở về gia đình nữa. Họ cũng không muốn đi bán dâm nữa vì sẽ lây bệnh cho người khác. Số này, hiện Trung tâm bố trí để chăm sóc, nuôi dưỡng những trẻ do con của những người bán dâm sinh ra. Tuy nhiên, đây chỉ là số ít, còn số đông thì giải quyết thế nào? Vì vậy, điều quan trọng là làm sao để giúp đỡ được những người bán dâm có hoàn cảnh yếu thế. Chúng ta không bắt, không xử lý nhưng phải có những biện pháp để đưa những người có bệnh vào cơ sở chữa bệnh, người không nơi nương tựa vào cơ sở bảo trợ xã hội, xem các Trung tâm như nhà tạm lánh, giúp chữa bệnh và tạo công ăn việc làm tại chỗ để người ta tự nuôi sống bản thân, tương tự như xử lý người lang thang, cơ nhỡ. Thay bằng bắt buộc như trước đây, thì phải tuyên truyền, tư vấn để người bán dâm biết nếu họ mắc bệnh và tự nguyện đi chữa bệnh thì họ sẽ được đưa vào các Trung tâm. Khi họ tự nguyện vào chữa bệnh thì họ không mất bất cứ “quyền” gì, tất nhiên là không thể vừa chữa bệnh vừa đi bán dâm vì như thế thì không thể chữa khỏi được. Về thời gian chữa bệnh thì chỉ qui định thời gian tối thiểu theo phác đồ điều trị của ngành y tế, còn thời gian tối đa thì cho họ lựa chọn. Nhìn chung, người bán dâm có trình độ nhận thức vô cùng thấp, chỉ học hết cấp 1, cấp 2 thôi, nên nói đào tạo nghề cho họ thì hơi “cao sang”, mà chỉ mang tính chất là truyền nghề, cầm tay chỉ việc. Khi họ đã ở trong Trung tâm, không mất tiền nhà ở, thì chỉ cần thu nhập tầm 1 triệu - 1,5 triệu đồng là đủ sống. Nhiều người cho rằng để hạn chế nạn mại dâm, phải xử phạt nguồn “cầu” chứ không phải phạt nguồn “cung”? Đừng nên hiểu như vậy. Phải nói thật với nhau một điều rằng là đã là nhu cầu thì không thể hạn chế triệt để được, với cả nam và nữ. Cái gì không thể làm được thì không nên cố làm, trong việc này, chỉ nên làm sao để ngăn chặn được bệnh tật lây truyền thôi, xử lý nghiêm với đối tượng bảo kê và chủ chứa... Vậy theo bà, Việt Nam có nên lập khu “đèn đỏ”? Nếu nói Việt Nam nên lập khu “đèn đỏ”, thì chắc chắn 80% phụ nữ sẽ phản đối, và phần lớn nam giới sẽ đồng tình. Tôi đã sang thăm khu đèn đỏ ở Thái Lan. Người ta có khu đèn đỏ, và khu chữa bệnh cho người bán dâm với số lượng gần 700 phụ nữ. Những người này định kỳ phải đi khám, có bệnh phải chữa khỏi mới được cấp phép hành nghề tiếp. Còn ở Việt Nam, vì vấn đề thuần phong mỹ tục và nhận thức nên còn khó khăn, nhưng cũng nên thí điểm, có thể là tại các khu du lịch. Khi quản lý được họ, những trường hợp mắc bệnh lậu, nhiễm HIV mà cố tình hành nghề, lây bệnh cho người khác thì sẽ dễ dàng bị xử lý, không theo xử lý vi phạm hành chính, mà theo các luật chuyên ngành, do đó, sẽ hạn chế được bệnh tật lây lan. Chân thành cảm ơn bà về cuộc trao đổi này! Theo Phương Thảo (Pháp luật & Xã hội) ================== Cái này gọi là...chương trình chơi thí điểm.
  23. Chú xịn thì đọc 1 biến là ứng thôi hà. Mà cảm ứng đạo thì nhất thiết phải đọc chú chăng? Đâu phải chỉ có đọc chú thì mới cảm ứng đạo chứ nhỉ? Kể cho vi tiểu bảo nghe một chuyện. Lâu rồi truyền hình có chiếu về thế giới động vật, kể về một con khỉ golila cái và con khỉ con. Con khỉ mẹ bị bệnh và trong một lần nhảy qua suối thì nó bị tai nạn chết. Con khỉ con tới khều mẹ mãi mà mẹ nó không dậy. Hình như nó cảm nhận hay biết được mẹ nó không bao giờ dậy nữa nên nó buồn. Nò bèn trèo lên một cây cao, trên đó có một tổ. Nó nằm ở đó không ăn không uống. Bầy đàn nó di chuyển đi nơi khác, gọi nó mãi, nó chỉ quay lại nhìn mà không đi theo. Cuối cùng nó chết trên cây trong cái tổ đó sau những ngày không ăn uống. Loài khỉ suốt đời ăn hoa quả lá cây (cũng có khi và có con nó ăn mối), vậy mà nó cũng bị già, bị tai nạn xui xẻo và bị chết. Ăn chay thành phật hay nghiệp nhẹ thì nghiệp con khỉ nhẹ hơn. Cả đất nước Ấn Độ đều hầu hết không ăn thịt, vậy là dân Ấn nên tiên thánh phật trước và nghiệp nhẹ nhất thế giới! Cái xứ Tây Tạng mà ai cũng biết , nỗi tiếng là miền đất phật, các Lạt ma tái sinh, ấy vậy cả xứ ấy kể cả Lạt ma cũng đều ăn thịt trâu Giác.
  24. Cái gì, ai chứng tỏ là khác người nào?Phân tích xem khác người ở chổ nào? Tại sao? Viết bằng văn bản đàng hoàng chứ không phải viết ngắt ngắt kỳ dị như vậy. Như vậy mới là khác người đấy.
  25. Tóm lại là đừng ăn gì hết, không uống gì hết và nín thở luôn. Bởi vì mỗi làm thở vô ra là hằng vạn con vi trùng, vi khuẩn, vi sinh cũng...toi hết.