-
Số nội dung
6.278 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
75
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Thiên Đồng
-
Trung Quốc đã cho nhổ cột mốc biên giới tại các tỉnh lân cận Việt Nam THÁNG MƯỜI MỘT 26, 2010 Theo thông tin và hình ảnh từ BBC Vietnam, Trung Quốc đã cho đào cột mốc biên giới cũ theo hiệp ước Pháp-Thanh 1887-1895 để đem về bảo tàng. Trong hình là cột mang dòng chữ “Đại Nam Quốc Giới” tại Đông Hưng, Quảng Tây. 2. Cột mốc thuộc tỉnh Vân Nam còn ghi hai bên là “Trung Hoa” và “An Nam”. 3. Quang cảnh người Trung Quốc đào bới cột mốc biên giới cũ 4. Đây là cảnh họ mang vác cột mốc về Lòng đau như cắt khi thấy cảnh núi đổi sông dời này… https://thoisucongnghe.wordpress.com/2010/11/26/trung-quoc-nho-cot-moc-bien-gioi-cutrung-quoc-da-cho-nho-cot-moc-bien-gioi-tai-cac-tinh-lan-can-viet-nam/
-
LÃO TỬ ĐẠO ĐỨC KINH Chương 16: QUY CĂN. có đoạn viết: 3. Qui căn viết tĩnh. Tĩnh viết phục mạng.[3] Phục mạng viết thường. Dịch: 3. Trở về cội rễ là tĩnh; tĩnh là phục mệnh; phục mệnh tức là trường cửu. Thiên Đồng bàn: Vậy là, theo suy nghĩ của tôi, "Dương tịnh âm động", là phát hiện của Sư Phụ Thiên Sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh, là sự hợp lý cho mọi vấn đề mà cổ thư Đạo Đức Kinh đã ghi lại, nhưng tri thức Hán thì cứ mãi nhầm lẫn "Dương động, âm tịnh".
-
DANH SÁCH NHỮNG THÀNH VIÊN ỦNG HỘ ( ĐÃ NHẬN TIỀN) Thiên Đồng 500.000 đ (Năm trăm nghìn đồng) Longphibaccai 500.000 đ (Năm trăm nghìn đồng) Anh TonLe: 500.000 đ ( Năm trăm nghìn đồng) Em Tâm: 1.000.000 đ ( Một triệu đồng) Tổng cộng: 2.500.000 đ ( Hai triệu năm trăm nghìn đồng) =============================================== Các anh chị em thành viên nào giúp bé thì gửi vào tài khoản của Thiên đồng. Yêu cầu: - Sau khi chuyển khoản phải chụp hình biên lai xác nhận chuyển tiền vào đây để xác minh có chuyển khoản. - Gửi vô tài khoản tên: BÙI ANH TUẤN. Ngân hàng ACB chi nhánh Tân Bình Tp HCM số tk: 4214 9435 1386 2255 ( số thẻ vừa là số tài khoản)
-
Thiên Đồng mới nhận chuyển khoảng của những người bạn ủng hộ giúp cháu bé. Anh TonLe: 500.000 đ (năm trăm nghìn đồng) Em Tâm: 1.000.000 đ ( một triệu đồng)
-
Đệ tử xin đóng góp giúp cho bé 500.000 đ (Năm trăm nghìn đồng) Nam mô Quán thế âm bồ tát ma ha tát cứu khổ cứu nạn.
-
CHUNG TAY GIÚP SỨC Trích từ fb: Share 1 bài là công đức vô lượng 1 chút sang sẽ cứu 1 mạng người Mong mọi người Share giúp đở một sinh linh bé nhỏ Bé tên Phan Tấn Lộc . Sinh ngày 16/4.2015 ở ấp 1a, xã hoà phú . Huyện cũ chi thành phố hồ chí minh Vì hoàng cảnh gia đình bé khó khăn . Be bị ba mẹ bỏ rơi từ lúc mới sinh ra , bé phải sống với ông bà ngoại đã già yếu lớn tuổi ,và gia đình rất nghèo và khó khăn . bé bị bệnh xơ gan , viêm phổi có thể huy hiểm đến tính mạng . Mà không có tiền để cứu chữa Mong mọi người Share biết đâu may mắn có thể gặp đc những mạnh thường quân để giúp đở bé Đia chỉ : 10/2C đường số 210 ấp 1A xã hòa phú huyện củ chi. ( vì nhà bé không có địa chỉ nên đây là địa chỉ nhà kế bên ) Sdt của cô bé : 092 5436966 Thuý HY VỌNG CÁC THÀNH VIÊN PAGE HÃY DÀNH 3S CHIA SẺ NỘI DUNG NÀY LÊN NHẬT KÝ CỦA BẠN ĐỂ TÌM KIẾM NHỮNG NHÀ HẢO TÂM GIÚP ĐỠ EM BÉ Ạ !
-
Bị lên án vì giết cá heo, người Nhật trả lời: “Hãy biến khỏi đất nước của tôi” Rất nhiều cơ quan truyền thông của Nhật đã tiến hành các cuộc điều tra ý kiến của người dân, và lần này, người Nhật đã kiên quyết bảo vệ những gì họ coi là thuộc về truyền thống của mình. Từ câu chuyện của một nhà bảo vệ động vật Ngôi sao của một bộ phim tài liệu về hoạt động tàn sát cá heo tại Nhật đã bị trục xuất về Mỹ mới đây. Quan chức Cục Xuất nhập cảnh Nhật đã tạm giữ ông trong 2 tuần và ban hành lệnh cấm ông trở lại Nhật. Trong quá trình bị tạm giữ, ông đã sụt cân rất nhiều, sức khỏe suy yếu đi trông thấy. Khi được hỏi, nhà hoạt động bảo vệ cá heo, ông Ric O’Barry, cho biết ông quyết tâm sẽ trở lại Nhật và tiếp tục đấu tranh để bảo vệ loài cá heo. Nói chuyện với phóng viên trước khi lên máy bay, ông tuyên bố: “Tôi sẽ vẫn tiếp tục trở lại Nhật để theo đuổi những gì mà tôi cho là đúng. Việc đưa tôi ra khỏi nước Nhật không làm thay đổi quan điểm của tôi.” Ông O’Barry từng là cố vấn quan trọng cho bộ phim “The Cove” từng được giành giải Oscar cho với danh hiệu bộ phim tài liệu hay nhất. Trong phim đó, hàng trăm con cá heo đã bị truy đuổi đến một khu vịnh đặc biệt gần Taiji, Nhật và bị tàn sát đến chết, nước cả một khu vực rộng lớn nhuộm đỏ màu máu. Là một cựu huấn luyện viên cá heo giàu kinh nghiệm, ông hiểu rất rõ về loài động vật này, ông thường xuyên đến Taiji. Ông O’Barry hiện đang quản lý dự án bảo vệ cá heo của riêng mình, dự án có mục tiêu bảo vệ loài cá heo trên khắp thế giới. Ông đã làm việc với những người Nhật làm nghề săn cá heo trong suốt nhiều năm qua để thuyết phục họ chuyển sang các loại hình kinh doanh khác ví như kinh doanh dịch vụ lặn biển hay làm xiếc cá heo. Người Nhật trả lời: “Hãy biến khỏi đất nước chúng tôi” Và người Nhật nói gì? Ngay sau vụ việc trên, rất nhiều cơ quan truyền thông của Nhật đã tiến hành các cuộc điều tra ý kiến của người dân, và lần này, người Nhật đã kiên quyết bảo vệ những gì họ coi là thuộc về truyền thống của mình. Nhà báo Matt Gabriel tại Nagasaki nói: “Một quyết định hoàn toàn đúng đắn của chính phủ Nhật. Chúng tôi không cần những kiểu người như thế này đến đất nước chúng tôi để dạy chúng tôi phải cư xử thế nào, phải thay đổi truyền thống của mình ra sao.” Bà Kazuko Fujita, công chức ở Tokyo, khẳng định rằng vụ việc ông Ric O’Barry bị yêu cầu rời khỏi Nhật không liên quan gì đến tự do ngôn luận, bởi theo bà, những người phương Tây chỉ trích Nhật cần nhìn lại chính những gì họ đã và đang làm. Người Nhật chưa bao giờ lên tiếng chỉ trích người phương Tây vì giết mổ gia cầm hay bò, lợn; bất kỳ loài động vật nào cũng có linh hồn, vì thế việc người Nhật giết một con cá heo cũng chẳng khác gì việc người Mỹ giết một con bò hay gà, lợn. Có thể người Nhật rất bảo thủ. Tuy nhiên, ngay cả với lý do bảo vệ loài cá heo, chính nhiều người phương Tây cũng không ủng hộ cách làm của ông Ric O’Barry. Kỹ sư công nghệ thông tin người Mỹ Trent Bruch nói: “Chắc chắn ông O’Barry sẽ chẳng bao giờ làm một bộ phim tài liệu tương tự về tình trạng thảm sát cá heo tương tự tại đảo Faroe bởi những người da trắng thường chia sẻ suy nghĩ rằng họ chung một chiến tuyến. Trên thế giới còn biết bao nhiêu nước giết hại loài cá heo như Thụy Điển, Đan Mạch, Phần Lan nhưng tại sao ông O’Barry không làm?” Rất nhiều nước trên thế giới đều có những phong tục dã man khác nhau Thế giới bao gồm rất nhiều quốc gia và mỗi quốc gia có cách đối xử khác nhau đối với các loài động vật, có những con vật được đất nước này trân quý nhưng với nước khác chúng cũng chỉ là động vật bình thường. Sẽ là không hợp lý nếu lấy quan điểm sống của nước mình áp đặt lên nước khác, phản đối truyền thống phong tục của người mang quốc tịch khác mình. Ở Mông Cổ, người nước này rút xương và ruột của con bò hay cừu qua đường cổ họng sau đó nhét đá nóng cháy vào cũng qua đường này để thịt của con vật được chín từ trong ra ngoài. Người Peru thì nổi tiếng với món sinh tố ếch, người ta lột da con ếch rồi cho nó vào máy xay sinh tố khi nó còn đang sống nguyên cùng với một số loại gia vị khác để làm thành món sinh tố yêu thích. Món ăn ếch sống cũng không phải riêng người Peru mới có, ở một số vùng của nước Nhật người ta cũng ăn món ếch sống theo một cách mà người nước ngoài nhìn vào hẳn thấy rất kinh dị. Đó là người Nhật rửa sạch một con ếch sống, sau đó bổ đôi giữa lưng con vật, họ cho con vật bổ đôi vào bát, rắc gia vị lên rồi cho vào mồm nhai sống từng nửa một. Cá nhân người viết từng thấy rợn người khi mà người ta cho con ếch vào mồm, mắt nó vẫn mở trợn trừng và bởi nó bị chặt nhanh quá, dây thần kinh của nhiều bộ phận chân tay chưa chết hẳn, nó vẫn còn đủ khả năng giẫy vùng vẫy trong miệng người nhai để mong thoát thân. Trong các phong tục, lễ hội đấu bò tót của Tây Ban Nha cũng không kém phần dã man khi chạy đua cùng với người dân và khách du lịch thì hai chú bò tót bị giết chết ngay trước mắt hàng nghìn khán giả đang reo hò cổ vũ. Đó là một lễ hội đã có truyền thống rất lâu đời của Tây Ban Nha và nó mang lại nguồn lợi không hề nhỏ cho kinh tế Tây Ban Nha. Nếu một người xa lạ nhìn vào, đó chắc chắn là những hành động hêt sức dã man. Tuy nhiên, là một người trong cuộc, người dân chỉ đơn giản nhìn nó như những phong tục truyền thống của mình. Nó cũng giống như việc bạn sang Ấn Độ và yêu cầu họ phải ăn thịt bò, bạn sang Mỹ yêu cầu họ đừng giết lợn, sang Pháp bảo họ đừng ăn gan ngỗng nữa vi để làm ra món gan ngỗng thì họ đã đối xử với con vật đó vô cùng tàn tệ trong lúc nuôi. Tại sao người Việt không thế? Vòng quanh thế giới, quay lại Việt Nam, ta có thể có cái nhìn khác hơn về câu chuyện chém lợn ở làng Ném Thượng. Các tổ chức bảo vệ động vật rồi không ít người Việt chỉ trích đây là hành động bạo lực. Dưới những áp lực từ chính quyền, dư luận, lễ chém lợn năm nay phải tổ chức trong bạt kín, thay vì tổ chức lộ thiên cho bà con chứng kiến như mọi năm. Tuy nhiên, nếu ai đó lập luận rằng nó khiến làm tăng tình trạng bạo lực, vậy có ai thống kê được rằng tỷ lệ bạo lực hay tội phạm ở làng Ném Thượng cao nhất, cao nhì tại Việt Nam hay không? Nếu tìm hiểu, có thể thấy văn hóa truyền thống của làng lại bắt nguồn từ một câu chuyện ý nghĩa với nguồn gốc rõ ràng. Những người dân trong làng đều trân trọng truyền thống này, có chăng, chỉ có những "kẻ ngoài cuộc" ít hiểu biết về truyền thống, mới mạnh miệng lên án hay chạy theo phong trào. Lý do người Việt ngay lập tức chạy theo việc a dua, chỉ trích các phong tục truyền thống, một phần không nhỏ đến từ việc họ không hiểu rõ giá trị văn hóa của những truyền thống lâu đời đấy. Đây cũng là điểm khác biệt lớn nhất giữa người Việt với người Tây Ban Nha, người Chi Lê hay người Nhật Bản. Ở những quốc gia kia, họ hiểu rõ ý nghĩa của công việc mình đang làm. Không phải cứ họ đến từ những nước “nhà giàu” thì làm gì cũng hay, một bản lĩnh và nền tảng kiến thức để bảo vệ cho truyền thống dân tộc trước sức ép của những người nước ngoài với nền tảng văn hóa và truyền thống khác chúng ta là điều hoàn toàn cần thiết. Ngọc Thúy Theo Trí Thức Trẻ http://cafebiz.vn/life-style/bi-len-an-vi-giet-ca-heo-nguoi-nhat-tra-loi-hay-bien-khoi-dat-nuoc-cua-toi-20160215094512151.chn ====================================== Trích: Lý do người Việt ngay lập tức chạy theo việc a dua, chỉ trích các phong tục truyền thống, một phần không nhỏ đến từ việc họ không hiểu rõ giá trị văn hóa của những truyền thống lâu đời đấy. Đúng, vì không hiểu rõ giá trị văn hóa của những truyền thống lâu đời nên mới phát sinh tâm lý vọng ngoại. Nhưng cái quan trọng là phải hiểu đúng giá trị văn hóa truyền thống của gần 5000 năm văn hiến.
-
Tìm thấy giờ sinh Đại tướng Võ Nguyên Giáp (LĐCT) - Có một bạn đọc bảo tôi: Anh đã tìm thấy ngày giờ sinh của nhà thơ Cao Bá Quát. Anh thử tìm giờ sinh của Đại tướng Võ Nguyên Giáp xem. Anh cho tôi biết ông sinh 25.8.1911 (tính ra ngày âm lịch là ngày mồng 2 tháng 7 năm Tân Hợi). Chỉ còn thiếu giờ sinh. Trong ngày 2.7 âm lịch ấy có 12 giờ can chi, trong đó có một giờ thuộc về mệnh của ông. Tôi dùng máy tính tìm thì thấy có một giờ sinh mà quẻ giời cho là quẻ Thuần Khảm với hào nguyên đường chủ mệnh là hào 5 sẽ dẫn đến quẻ phản ánh thời hậu vận là quẻ Địa Thuỷ Sư, chủ mệnh cũng hào 5. Khi trông thấy quẻ Địa Thuỷ Sư thì tôi reo lên: Đúng mệnh của ông đây rồi! Vì sao tôi reo lên như vậy? Vì quẻ Địa Thuỷ Sư là quẻ dành cho những người làm tướng trong quân đội, hoặc đứng đầu những đám đông quần chúng. Bây giờ tôi chỉ còn việc đối chiếu các tín hiệu hai quẻ Thuần Khảm và Địa Thuỷ Sư, với quá trình hành động và niên biểu trong thực tế đời ông, nếu đúng khớp nhau, thì không còn nghi ngờ gì nữa, đúng ông sinh giờ Hợi (từ 21 đến 23 giờ) ngày 2.7 năm Tân Hợi. Và đây là công việc rất hồi hộp của tôi. Xin nói về quẻ Thuần Khảm trước, là quẻ "giời cho". Đây cũng là quẻ tiền vận 42 năm đời người. Khảm là hãm, hiểm, gian nan, trở ngại. Khảm có tượng là Nước. Không gì hiểm bằng nước sâu nên Khảm là hiểm. Thuần Khảm là hai lần nước, như nước cuồn cuộn đang tiến tới, đã hiểm càng hiểm. Người quẻ Thuần Khảm thường gặp những hoàn cảnh nguy nan, nhưng biết xử thời hiểm, linh hoạt, khôn ngoan tìm mọi cách tránh hiểm, thì không sợ gì. Tuy hoàn cảnh hiểm, thời hiểm mà tâm vẫn hanh thông; lòng vẫn chí thành; lời nói, việc làm lấy tín nghĩa làm trọng; biết linh hoạt biến thông, thì không những tai nạn qua khỏi, mà còn có công nữa. Người quẻ Thuần Khảm thường phù suy hơn phù thịnh. Là người có tài trí, vị tha, can đảm, dấn thân, nhưng phải cẩn trọng khi nhập cuộc, nếu có thể di chuyển nơi chốn như nước chảy thì tốt. Nếu để cho cái hiểm hãm kìm kẹp, thì chìm đắm trong trong thác lũ cuộc đời là cái chắc. Tuổi Hợi mà được quẻ Khảm là cách quý hiển Huyền Vũ Đương Quyền (Chim huyền hạc giữ quyền). Cần nói ngay rằng ngay từ thuở thiếu thời, ông Võ có tất cả các phẩm chất của một người vượt hiểm. Năm 1925 ông thi vào Trường Quốc học Huế, đỗ thứ hai. Hai năm sau, năm 1927, tham gia một cuộc bãi khoá, bị đuổi học. Ông vừa tự học vừa tiếp tục tham gia các cuộc vận động vì chính nghĩa, vì yêu nước. Tháng 10 năm 1930, bị bắt giam cùng với người yêu là Nguyễn Thị Quang Thái (em gái nhà cách mạng Nguyễn Thị Minh Khai), cùng em trai là Võ Thuần Nho và bạn là Đặng Thai Mai. Đến cuối năm 1931 mới được thả, liền bị cấm ở Huế. Ông ra Hà Nội học trường Albert Sarraut. Những năm từ 1936 đến 1939 tham gia Mặt trận Dân chủ Đông Dương, làm các báo của Mặt trận. Năm 1937, tốt nghiệp ngành luật và kinh tế chính trị, làm giáo viên trường tư thục Thăng Long Hà Nội. Năm Canh Thìn (1940) mệnh ông ở hào 2 quẻ Thuần Càn. Lời hào nói rằng: Như con rồng lên mặt ruộng. Ở vào thời hiển đạt, gặp được người cao quý thì có lợi. Thì đúng là năm này ông lấy bí danh Dương Hoài Nam, cùng Phạm Văn Đồng đi lối Cao Bằng vượt biên sang Trung Quốc gặp Hồ Chí Minh. Những năm gặp hiểm thoát hiểm của ông là như thế. Năm Giáp Thân (1944) vẫn trong thời Khảm hiểm, ông ở quẻ Hoả Phong Đỉnh hào 6. Năm này vững vàng như cái đỉnh có ba chân. Hào 6 bảo như cái đòn khiêng đỉnh bằng ngọc: Cương mà nhu thuận. Tốt lắm, không gì không lợi. Đức đẹp, công thành. Ông được Bác Hồ cử làm Đội trưởng Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, ngày 22.12 làm lễ ra quân, với 34 chiến sĩ vũ khí thô sơ. Ngày 25.12 chỉ huy đánh hai đồn Phai Khắt và Nà Ngần, lập chiến công đầu vang dội. Năm Ất Dậu (1945) ông được quẻ Hoả Thiên Đại Hữu. Đại Hữu là có lớn, đối với nhà cách mạng, quẻ nói lên sự giàu có về tinh thần và sức mạnh, có lúc như chiếc xe chở nặng đi chốn nào cũng được, sẵn sàng gánh vác công việc to lớn, nặng nhọc. Ông được cử tham gia Uỷ ban Khởi nghĩa toàn quốc. Cách mạng tháng Tám thành công, ông làm Phó Bộ trưởng Quốc phòng, Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia và Dân quân tự vệ. Năm Bính Tuất (1946) mệnh ông có quẻ Thuần Ly. Thuần Ly là hai vầng lửa sáng, là năm rất sáng suốt thông minh, uyển chuyển, khiêm nhường, giúp người trên, hoà người dưới, thành cuộc sống văn minh, hưởng phúc lớn, được kỳ vọng. Năm này là năm đầu tiên củng cố nền độc lập vừa giành được, chuẩn bị kháng chiến toàn quốc, ông kiêm giữ chức Bộ trưởng Nội vụ, phụ tá Quyền Chủ tịch nước Huỳnh Thúc Kháng trong thời gian Hồ Chủ tịch sang Pháp. Năm Mậu Tý (1948) ông được quẻ Lôi Thuỷ Giải hào 5. Lời hào: Nắm quyền pháp lý, tiến cử người hiền, trừ bọn gian, cho quốc gia được an ninh, đời sống dân được cải thiện, sự nghiệp lớn, ít người sánh kịp. Ngày 25.1.1948 ông được phong quân hàm đại tướng. Ông là vị đại tướng đầu tiên của QĐND VN. Trong chặng đường Khảm hiểm này còn có những tín hiệu khác ứng nghiệm một cách kỳ diệu, nhưng tôi xin dừng tại đây. Như trên đã nói, hậu vận Võ đại tướng từ năm 43 tuổi (1953 trở đi) được quẻ Địa Thuỷ Sư, chủ mệnh hào 5. Sư là Đám đông, Quân đội. Tượng quẻ là trong Đất có nước tụ lại. Trong xã hội là quần chúng tụ lại thành đám đông. Người nào được quẻ này là người có số mệnh điều khiển đám đông, trở thành người chỉ huy quân đội. Người quẻ Sư giỏi dùng người, giỏi chiến trận. Người sinh tháng 7 được quẻ này là phù hợp với vận động của trời đất. Đại tướng được chủ mệnh hào 5 chi phối những năm cuối đời: Tiến thân hợp lẽ phải, thuận đường, lập công, xem xét kỹ rồi mới ra lệnh, dẹp loạn cứu dân, uy danh nổi như cồn, khắp chốn. Tất cả những tín hiệu ấy vận vào quá trình hành động và đối chiếu với niên biểu của Đại tướng (từ năm 1953) đúng đến chi tiết. Thử xem năm Giáp Ngọ (1954), với đặc mệnh hào 5 quẻ Địa Thủy Sư nói trên, năm này ông được quẻ Phong Thuỷ Hoán, chủ mệnh hào 6. Hoán là Tán, đất nước bị xâm lăng chính là một thời Hoán tán. Lời hào 6 nói rằng: Có gan mật, cứu được hiểm hoạ cho dân. Tín hiệu là như trên, còn trong thực tế, năm này Đại tướng được Bộ Chính trị và Bác Hồ cử ra chiến trường, trực tiếp làm tổng chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ. Viết đến đây tôi có cảm tưởng như giời đã sinh ra cho nước Việt ta một con người anh hùng và đã dẫn dắt con người đó đến với nhân dân ta đúng thời khắc, vào năm Tân Hợi, tháng Bính Thân, ngày Đinh Mão, giờ Tân Hợi. Tính đến năm 1991 ông đã đi hết và trọn vẹn thời vận và hành lang hai quẻ Dịch Thuần Khảm và Địa Thuỷ Sư, tổng cộng 81 năm. Phần dày thêm tuổi thọ rất quý báu của ông là trời đất thưởng thêm không nằm trong bài toán Hà Lạc mà chúng tôi được biết. Xin chúc mừng Đại tướng Võ Nguyên Giáp! Nhà văn Xuân Cang http://huc.edu.vn/chi-tiet/667/Tim-thay-gio-sinh-Dai-tuong-Vo-Nguyen-Giap.html
-
Dạ, đệ tử sơ suất, vì đang chú trọng tìm hình khảo cổ Việt, thấy hình cần tìm, mà quên, không để ý kỹ nội dung. Về việc gán cho hình trên chuôi gươm đó là không hợp lý tý nào. Đệ tử lần sau để ý hơn.
-
Thanh kiếm ngắn Đông Sơn mang hình tượng Hai Bà Trưng Chiếc kiếm ngắn Đông Sơn mang dư ảnh Hai Bà Trưng 1- Tượng nam và tượng nữ trên cán dao găm Đông Sơn và phân bố của chúng Từ lâu tôi đã chú ý đến những tượng nữ trên cán dao găm Đông Sơn. Việc phân biệt tượng nam hay nữ trên cán dao găm Đông Sơn đã từng được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm thảo luận[1], nay nhờ tư liệu phong phú, có thể xác định chúng khá đơn giản và rõ ràng. Trước hết có thể nhận thấy hai loại hình tiêu biểu nhất trong số những tượng phát hiện trong context khảo cổ hoặc của những sưu tập sớm có độ tin cậy cao : những tượng nữ khai quật ở Làng Vạc (Nghệ An), Núi Nưa (Thanh Hoá) và tượng nam ở Núi Đèo (Thuỷ Nguyên), Quả Cảm (Bắc Ninh), Đông Sơn (Thanh Hoá)[2] những tượng trong sưu tập d’Argence hiện trưng bày tại Bảo tàng lịch sử và hai tượng trên cán dao Đông Sơn khai quật được ở nam Trung Quốc[3]. Sự khác biệt của hai nhóm tượng này thể hiện khá rõ và mang tính địa phương. Những tượng Làng Vạc và Núi Nưa thể hiện lối trang phục kín khắp người (áo váy) với thắt lưng dày trên phần eo luôn buông dài tận chân có tua núm và các vòng hạt chuỗi đeo nhiều tầng ở cổ. Các nhà nghiên cứu đều dễ thống nhất đó là đặc trưng tượng nữ, cho dù kiểu đầu tóc ở các tượng có ít nhiều thay đổi. Ở nhóm tượng còn lại, đặc trưng nổi bật nhất là ở trần (hở hai núm vú dẹt) và đóng khố ngắn có tua. Các khố này được trang trí hoa văn và tạo thành hai bản dẹt hình thang phía trước và sau bộ phận sinh dục. Đây là bằng chứng thuyết phục của tượng nam. Từ những tiêu chuẩn này chúng ta có thể nhận ra thêm những đặc điểm trang sức của nam và nữ thời Đông Sơn : ví dụ nữ đeo nhiều vòng chuỗi, khuyên tai, vòng cổ tay lớn và đơn giản trong khi tượng nam đeo khuyên tai gối quạ (Quả Cảm, Hồ Nam…), vòng đeo ở cánh tay… Cũng với những đặc trưng nhận biết này ta có thể nhận ra những tượng „lạ“ được làm không phải theo phong cách Đông Sơn. Hai nhóm tượng trên thực chất là hai khối tư duy tôn vinh nam nữ có chủ đích. Kiểu thể hiện khá ổn định với hai cánh tay cong khuỳnh chống nạnh đối xứng tạo độ cầm đày tay cho một cán dao găm. Đa phần tượng nữ phát hiện được ở vùng sông Mã, sông Cả là nơi chế độ mẫu hệ còn bảo lưu rất lâu về sau này. Chúng ta đều biết, sự lan toả của chế độ phụ hệ trong lịch sử Việt Nam có chiều hướng từ phía bắc xuống phía nam. Khối các dân tộc tàn dư hoặc chịu ảnh hưởng của văn hoá Chăm ở miền Trung nước ta cho đến hiện nay vẫn còn chứa đậm nhiều nét bảo lưu của chế độ mẫu hệ. Việc phổ biến cán dao găm tượng nữ ở vùng Nghệ An, Thanh Hoá chứng tỏ chế độ mẫu hệ trong khoảng trước thế kỷ 3 sau Công nguyên còn rất phổ biến tại đây. Ngược lại, vùng phân bố của các tượng nam tập trung ở phía bắc, tức lưu vực sông Hồng (Sơn Tây, Bắc Ninh, Hải Phòng, Quảng Ninh…) phản ánh hiện tượng chế độ phụ hệ có thể đã xác lập phổ biến. Vùng sông Mã được coi như vùng đan xen với sự tồn tại cả hai loại hình với ưu thế trội thuộc về các tượng nữ. Gần đây có một số thông tin phát hiện tượng nam ở vùng Làng Vạc. Điều này, nếu đúng, cũng không lấn át được tính ngự trị của các tượng nữ ở vùng này. 2- Tượng đôi trên cán dao găm, một số phát hiện ngẫu nhiên Trong khai quật khảo cổ học chính thức chúng ta chưa từng phát hiện được những tượng đôi trên cán dao găm. Tuy nhiên, trong một số trưng bày và công bố gần đây ở trong và ngoài nước, xuất hiện một số tượng đôi thể hiện trên cán dao găm Đông Sơn. Nhóm nhiều tượng đôi nhất thuộc về sưu tập của Nguyễn Đại Dương trưng bày tại nhà hàng Trống Đông Sơn. Tôi đã có may mắn được nghiên cứu trực tiếp ba tượng đôi thuộc sưu tập này. Theo tôi, chỉ có chiếc dao găm có tượng hai người ngồi trên vai nhau là đáng chú ý. Chiếc dao găm này được người sưu tầm đầu tiên (Nguyễn Đại Dương là người mua lại về sau) cho biết có nguồn gốc Nghệ An (Làng Vạc ?) (hình). Cụm tượng này thể hiện hai người công kênh nhau. Người ngồi trên mang rõ nét những đặc trưng quý tộc nữ. Kiểu đầu tóc bồng chải ngược như phần đầu không chỏm của tượng Núi Nưa hay tượng trên dao găm 2505-77 của Bảo tàng Barbier-Muller[4]. Trang trí trên toàn thân (tay và váy) phản ánh chiếc áo váy thêu in hoa văn. Trên cổ người ngồi trên đeo hai lần vòng chuỗi. Hai tai đeo hai vòng khuyên lớn. Thắt lưng quấn cao trên eo với dải thả búi thõng phía đằng sau. Phần đùi và chân đều có hoa văn trang trí kiểu trang trí trên váy. Hai chân để trần lộ rõ ngón thả thõng đến ngang đùi người bên dưới đước giữ bởi hai tay của người công kêng mình. Cánh tay người ngồi trên khuỳnh ra, phần bàn tay ôm lấy phần đỉnh đầu của người dưới. Mặt quý tộc nữ thể hiện theo kiểu mặt người Núi Nưa, tức khuôn mặt bầu hình trám với chiếc cằm nhọn. Khi bị gỉ dễ nhầm với chòm râu nhọn của đàn ông. Mắt khắc bằng hai đường viền như kiểu vòng tròn đồng tâm. Tượng bên dưới đứng nhìn thẳng, phần đầu bị kẹp giữa đùi người ngồi trên nên không rõ kiểu đeo vòng và trang trí đầu. Hai tay giữ chặt chân người ngồi trên. Thắt lưng và váy được thể hiện rất rõ nét theo những đặc trưng phục trang nữ. Chân đi đất để lộ ngón. Một tượng cán dao găm khác có nội dung tương tự được giới thiệu trong cuốn „Art Ancien du Vietnam – Bronzes et Ceramiques“ do Monica Crick biên tập, xuất bản đầu năm nay ở Geneva (Thuỵ Sĩ)[5]. Theo tác giả, hiện vật này thuộc sưu tập của Phạm Lan Hương. Đó cũng là một cặp đôi nữ công kênh nhau trên vai cùng phong cách với tượng thuộc sưu tập nhà hàng Trống Đông Sơn ở Hà Nội. Dao găm có kiểu chuôi và lưỡi lá tre theo phong cách sông Mã. Trên bản lưỡi có khung trang trí thu theo khuôn hình lá lưỡi. Kiểu trang trí trên toàn thân với búi thắt lưng thả dài khiến chúng được xếp vào nhóm tưọng nữ, mặc dầu người phía dưới to lớn hơn dường như được khắc những nét vạch ở cằm thể hiện vành râu cằm ? Theo tôi người bên dưới cũng là nữ giới. Người ngồi trên có đai đầu và phía sau có một chiếc trâm cài hình chữ C nằm úp hai đầu soắn nhiều vòng. Trên lưng người này có những đường vạch chìm như thể hiện mớ tóc xoã của bức tượng. Mảng eo được thể hiện bằng ba vòng quấn thắt lưng. Dải thắt lưng có búi lớn thả ở phía sau thóng xuống ngang thắt lưng của người công kênh bên dưới. Tai trái người ngồi trên đeo một khuyên nhưng tai phải đeo chồng tời hai khuyên và dường như có cả một cụm chuỗi vòng nhỏ phía trên, như kiểu đeo tai ở tượng chiến binh nam mang đầu lâu trên lưng. Chân người này để trần lộ cả ngón đang quặp chặt vào eo người bên dưới và được giữ bởi hai tay người bên dưới. Trên phần chân từ đầu gối trở xuống của người ngồi trên có những đường trang trí hoa văn rất phổ biến của tượng nữ Làng Vạc, Núi Nưa. Đó là những vòng tròn đồng tâm tiếp tuyến song song đối xứng biến thể thành hai hình chữ S đối xứng gương như cách thể hiện trên quai thạp đồng vậy. Khuôn mặt người trên thể hiện nữ tính rất rõ với đôi mắt khắc chìm vành mi dưới cong hất lên tương ứng với cái miệng đang cười. Hai tay ôm lấy đầu người công kênh mình. Tượng phía dưới đứng thẳng, hai tay nắm chặt cổ chân người ngồi trên. Mặt thể hiện nam tính với râu cằm, tai đeo vòng, nhưng phần trang phục lại thể hiện rõ nét nữ tính với thắt lưng thả búi và váy dài tận chân. Đáng nói nhất ở đây cụm tượng người, thú mang đậm phong cách Làng Vạc với sự thể hiện tập trung cặp tượng nữ sinh đôi ngồi song song trên lưng voi được đỡ bởi hai con thú lạ khác (Hình). Cụm tượng này được tạo thành cán cầm của một lưỡi kiếm ngắn thanh mảnh như một quyền trượng hơn là một vũ khí thực thụ. Chủ nhân lưỡi kiếm này cũng là bà Phạm Lan Hương. Báu vật này hiện đang trưng bày tại Galerie HIOCO, Paris[6]. Cán kiếm là một tác phẩm nghệ thuộc phức hợp chứa đựng nhiều tư duy của nghệ sĩ. Tư duy này phác thảo trên nền một phong cách nổi tiếng của nghệ thuật trang trí cán dao đồng Làng Vạc : Đôi hổ đỡ voi mang bành. Cuộc khai quật Làng Vạc của Viện Khảo cổ học trong những năm chiến tranh (1972-73) đã phát hiện in situ con dao găm đầu tiên như vậy[7]. Bảo tàng Barbier-Mueller cũng sở hữu một chiếc tương tự[8] (hình). Trên thanh kiếm ngắn của Hioco Galerie, phần thân cán cũng tạo bởi hai con thú có hình dáng gần giống với một con tôm khổng lồ. Phần miệng thể hiện hàm răng như cá sấu với hàm dưới lại như một cánh tay đỡ chân con voi. Lần này con voi được tạo hình đối xứng với hai đầu rõ rệt. Bốn trụ chân chính của voi được gắn liền với tay (hàm dưới) con thú (tôm hùm) bên dưới, trong khi hàm trên (hoặc mũi nhọn ở đỉnh mũi tôm, có mắt nổi giống mắt tôm hùm) gắn với vòi và cặp ngà voi. Khi nhìn chính diện mặt voi, hai cái tai vuốt nhọn trông rất giống hình tai trên khuyên hai đầu thú Sa Huỳnh. Tôi nghĩ rằng chúng có ảnh hưởng phong cách nghệ thuật khuyên tai hai đầu thú Sa Huỳnh. Khác biệt là ở sự thể hiện bành voi. Ở các cán dao hổ đỡ voi Làng Vạc khác, phần bành voi thể hiện một bành ngồi có chân đỡ trông như một ngôi nhà sàn mái cong của Inđonesia. Trên thanh kiếm tôi đang nói tới, thay vào vị trí bành voi là tượng hai nữ quý tộc ngồi xổm ở tư thế hai tay ôm gối chắp trước ngực. Đầu gối hở ra và đôi chân để trần lộ ngón. Hai tượng giống nhau như hai chị em sinh đôi. Tượng thể hiện theo phong cách Núi Nưa (Thanh Hoá) với kiểu tóc hất bồng cao có thắt eo ở giữa. Mặt hình trám bầu, cằm nhọn. Mắt kiểu vành tròn đồng tâm có lông mày chấm rải, mũi vuốt nhô. Trên phần cổ và ngực có những vòng chuỗi nhiều tầng. Phía sau lưng gáy là một hốc lõm hình thang có hai vòng bán khuyên, vừa như thể hiện búi tóc, vừa dùng làm chỗ có thể đeo nhạc chuông. Hiện vật này đã được nghiên cứu trong các phòng thí nghiệm của công ty giám định cổ vật Ciram (Paris). Tôi may mắn có được 2 ngày trong cuối tháng Sáu năm nay nghiên cứu trực tiếp hiện vật và hiện có trong tay toàn bộ kết quả nghiên cứu thành phần hoá học, X-ray của báu vật này. 3- Tính biểu trưng và tính mô tả trong nghệ thuật tạo tượng cán dao găm Đông Sơn – hình tượng những nữ anh hùng Việt Nam sống vào cuối văn hoá Đông Sơn : Bà Trưng, Bà Triệu. Từ lâu, tôi đã theo đuổi một ý nghĩ về tính biểu trưng (Symbolism) hay tính tả thực (Realism) của các nhân vật trên cán dao găm. Phân tích 30 cán dao găm hình người, thú Đông Sơn mà tôi hiện có tiêu bản studio có thể nhận thấy các nghệ nhân Đông Sơn đã có những ràng buộc mang tính quy chuẩn kỹ thuật, nghệ thuật khi chế tạo tượng cán dao găm : dáng đứng, kiểu đầu tóc, váy, khố, vòng trang sức, cách thể hiện hoa văn … và ở giai đoạn đầu, cán dao găm Đông Sơn mang tính biểu trưng quyền lực chung của thủ lĩnh nhiều hơn[9]. Tượng người được tạo ra mang tính đại diện chứ không nhằm mô tả một nhân vật cụ thể. Tuy nhiên vào khoảng cuối Đông Sơn (thế kỷ 1 tr.Cn – thế kỷ 3 sau Cn) xuất hiện những pho tượng chứa đựng „cá tính“ – mang rìu chiến, dao găm, đầu lâu người (hình). Phần chắn lưỡi cũng được trang trí thêm bởi những móc câu soắn tròn (hình) và đặc biết xuất hiện tượng quý tộc nữ được công kênh và tượng hai chị em sinh đôi nói trên[10]. Theo tôi, ba hiện vật giới thiệu ở trên có độ tin cậy cao mặc dù nó không nằm trong các cuộc khai quật khảo cổ học chuyên nghiệp. Chúng đều tôn vinh những quý tộc nữ khiến tôi liên tưởng đến sự thực lịch sử gắn liền với những nhân vật nữ anh hùng cụ thể xuất hiện trong khoảng cuối văn hoá Đông Sơn : Hai chị em Trưng Trắc, Trưng Nhị đầu công nguyên (thời kỳ người Việt chưa mang họ như ngày nay) và sau đó là Bà Triệu (thế kỷ 2-3 sau Công nguyên, khi người Việt quý tộc bắt đầu mượn họ phương bắc – họ Triệu – vua Nam Việt). Truyền thuyết đều gắn họ với voi chiến (ngựa chiến vào Việt Nam rất muộn và không thuộc truyền thống quân sự Việt). Và hình ảnh hai chị em quý tộc sinh đôi ngồi trên lưng voi hai đầu của chiếc kiếm nói trên hoàn toàn có thể gắn với tính tả thực về hiện tượng khởi nghĩa Hai Bà Trưng gây chấn động cả khu vực Đông Á đương thời. Những tượng nữ mang phong cách Núi Nưa đứng đơn cũng là sự tôn vinh những nữ thủ lĩnh anh hùng như vậy. Đặc biệt tượng nữ trên kiếm ngắn mang rìu chiến hiện trưng bày ở Galerie HIOCO (Paris) là một minh hoạ rất sinh động cho giả thuyết này (hình). TS Nguyễn Việt – Trung Tâm Nghiên Cứu Tiền Sử Đông Nam Á [1] Lê Văn Lan, 1974, Trang phục thời đại Hùng Vương, trong Hùng Vương dựng nước, tập 2, Hà Nội, tr. Trịnh Sinh và Nguyễn Văn Huyên, 2002, Trang sức trong văn hoá Đông Sơn, Hà Nội. Phạm Minh Huyền, 1997, Tượng người trên cán dao găm Đông Sơn, trong Khảo cổ học, số… Hà Nội. Nguyễn Việt, 2004, Trang phục trong văn hoá Đông Sơn, trong Kỷ yếu Hội nghị 80 năm nghiên cứu Văn Hoá Đông Sơn, Thanh Hoá. [2] Goloubew, V. ,1929, L’Âge du Bronze au Tonkin et dans le Nord-Annam, BEFEO, tom XXIX, Hanoi, fig.18C và Pl.XIX. Janse O., 1946, 1952,Archaeology in Indichina, Phụ bản ảnh, fig. 20. [3] Một tượng đã được giới thiệu trong cuốn Văn hoá Đông Sơn, Hà Nội, 1994, chủ biên Hà Văn Tấn. Một tượng khác khai quật ở Hồ Nam năm 1974 ( xem Cheng Dong và Zhong Shao-yi , 1990, Ancien Chinese Weapons- Collection of Pictures, hình 4-188) [4] Art Ancien du Vietnam – Bronzes et Ceramiques“, ed. by Monica Crick, Collection Baur, Geneva 2008, Cataloge : Bronzes, 3. [5] Art Ancien du Vietnam – Bronzes et Ceramiques“, ed. by Monica Crick, Collection Baur, Geneva 2008, Cataloge : Bronzes, 2. [6] Galerie Christophe HIOCO, 2008, Vietnamese Bronzes – The Symbolism of Emotion, Paris, tr. 20. No 4-Swort [7] Hà Văn Tấn (ed.), 1994, Văn hoá Đông Sơn ở Việt Nam, NXB KHXH, Hà Nội. Hình [8] Arts de l’Antiques – Fluerons du musee de Barbier-Muller, ed. by Laurence Mattet, Paris, Geneva. Catalogue tr. 462. [9] Dao găm xuất hiện trong văn hoá Đông Sơn vào khoảng thế kỷ 4-5tr.Cn. Dao có cán tượng người đều thuộc loại hình sông Mã, tức ở phần chắn giữa lưỡi và đốc thường được đúc dài và thon nhọn ở hai đầu sau đó uốn cong soắn hình sừng trâu. Loại này có kiểu lưỡi hình lá tre mặt cắt thấu kính dẹt khác hẳn với loại dao găm ảnh hưởng phong cách Điền. Có ba loại đốc phổ biến : Ngang hình chữ T, hình củ hành hay củ tỏi (gallic) có hoặc không có trổ lỗ và hình tượng người, động vật. Sự xuất hiện của các loại tay cầm dao găm loại hình này không đồng đều. Những dao găm trong mộ Việt Khê đại diện cho nhóm sớm. Tại đây, chúng ta chưa thấy dấu hiệu nào của dao găm cán tượng người mà mới chỉ thấy những dao găm thuộc loại hình có đốc tay cầm đơn giản : “chữ T”, “củ hành”. Những dao găm khảo cổ học phát hiện ở Làng Vạc đều thuộc nhóm muộn (khoảng sau thế kỷ 2 tr.Cn). Bên cạnh sự tiếp tục phổ biến của hai dạng sớm bắt đầu xuất hiện dạng muộn với nhiều kiểu tượng người thú khác nhau. Những dao găm Đông Sơn cán tượng nam phát hiện ở Trung Quốc được xếp niên đại Chiến Quốc (thế kỷ 3-4 tr.Cn). Theo chúng tôi, có hai giai đoạn phát triển dao găm cán tượng người : giai đoạn sớm ở vào thế kỷ 2-4 tr.Cn là giai đoạn tạo tượng người mang tính công thức, biểu trưng và giai đoạn sau xuất hiện những tượng mang nét cá tính, mô tả. Những dao găm cán tượng người, thú phát hiện ở Làng Vạc thuộc giai đoạn phát triển sau. [10] Trong sưu tập dao găm Đông Sơn của nhà hàng Trống Đông Sơn (Hà Nội) có một số tượng mang nội dung lạ. Tôi đã có dịp nghiên cứu studio những tượng đó, như tượng đôi nam nữ, tượng đôi “dâng rượu”, tượng người thổi sáo…nhận thấy nhiều điểm ngoài quy luật truyền thống của nghệ thuật và kỹ thuật Đông Sơn. https://khanhhoathuynga.wordpress.com/tag/hinh-t%C6%B0%E1%BB%A3ng-hai-ba-tr%C6%B0ng/
-
Chùm ảnh: Cận cảnh vũ khí cực manh của người Việt hơn 2000 năm trước Sức mạnh vô song của nỏ Đông Sơn - vũ khí hủy diệt của người Việt đã được huyền thoại hóa và lưu truyền cho đến nay. Không chỉ nổi tiếng với trống đồng, nền văn hóa Đông Sơn còn được biết đến với những loại vũ khí rất đa dạng và độc đáo. Trong số đó, nỏ Đông Sơn là một thứ vũ khí hủy diệt cực kỳ tinh xảo với sức hủy diệt đáng sợ, được lưu truyền trong sử sách. Trong các cuộc khai quật ở Việt Nam, giới khảo cổ đã tìm thấy những chiếc lẫy nỏ bằng đồng có kết cấu rất phức tạp, được làm từ nhiều bộ phận đúc rời. Lẫy nỏ Đông Sơn loại hình thành sớm thường gồm 3 bộ phận. Những lẫy nỏ giai đoạn sau phức tạp hơn với 6 bộ phận là hộp cò, lẫy cò, thước ngắm và các chốt liên kết. Chúng được chế tác hoàn hảo đến mức khi nhìn vào nhiều người sẽ lầm tưởng chúng là sản phẩm cơ khí của hàng nghìn năm sau. Những hiện vật này chứng tỏ cha ông ta cách đây hơn 2.000 năm đã có trình độ kỹ thuật đáng khâm phục. Mặc dù những gì còn sót lại không đủ để khôi phục lại hình hài toàn vẹn của nỏ Đông Sơn, nhưng sức mạnh của loại vũ khí này đã được huyền thoại hóa và lưu truyền cho đến nay. Đó chính là câu chuyện về thành Cổ Loa được bảo vệ bằng nỏ thần của vua An Dương Vương, có khả năng bắn mỗi phát ra hàng loạt mũi tên đồng làm cho quân xâm lược phương Bắc phải khiếp vía. Đây chắc chắn là một truyền thuyết được tạo nên từ sự kiện lịch sử có thật, khi các cuộc khai quật trong thế kỷ 20 đã phát lộ những kho chứa hàng vạn mũi tên đồng của thời Đông Sơn. Đây chủ yếu là loại mũi tên ba cạnh, ba cánh đều nhau, có trụ thân, có chuôi, có họng tra cán và kích thước lớn, được chế tạo hoàn hảo, sắc nhọn. Khi sử dụng, mỗi mũi tên được cắm vào chuôi bằng tre dài khoảng 1m, làm cân đối trọng lượng để tên bay xa và có khả năng sát thương lớn. Dựa trên về truyền thuyết nỏ thần, các nhà nghiên cứu cũng cho rằng người Việt cổ đã phát triển kỹ thuật tạo ra loại lẫy để một lần bóp cò có thể bắn được nhiều tên, còn gọi là nỏ Liên Châu... http://www.reds.vn/index.php/dat-viet/10305-no-dong-son
-
Tượng gốm 5.300 năm tuổi ở Trung Quốc 09:13:30 06/07/2012 Giới khảo cổ Trung Quốc vừa tìm thấy bức tượng gốm cao 55 cm và có niên đại 5.300 năm. Một nhà khảo cổ đang sửa chữa lại bức tượng gốm cổ. Nó được tìm thấy ở Aohan Banner, khu tự trị Nội Mông, miền bắc Trung Quốc. Một mảnh của bức tượng gốm. Các nhà khảo cổ sửa chữa và lắp ghép mảnh vỡ lại. Trước đây, giới khảo cổ tin rằng, con người phát minh ra gốm từ 10.000 năm trước, khi tổ tiên chúng ta từ bỏ lối sống săn bắt và hái lượm để tập trung vào hoạt động trồng trọt và chăn nuôi. Nhưng sự xuất hiện của mảnh gốm và bức tượng gốm nói trên cho thấy giả thuyết đó là không đúng. Hình ảnh về bức tượng gốm sau khi được các nhà khoa học tu sửa. Mới đây, ở mảnh gốm cổ nhất tới 20.000 năm được các nhà khảo cổ tìm thấy trong hang Xianrendong ở tỉnh Giang Tây, Trung Quốc. ================== Mắt toét, mắt to thì chắc chắn không phải là chủng người của Hán tộc và Mông cô rồi.
-
GIẢI MÃ TRUYỆN TÂY DU LÊ ANH DŨNG Ngọn gió trong lò Tề thiên sau khi thua trận, thiên binh áp giải về trời trị tội. Trị cách gì cũng không giết được. Thái thượng Lão quân tâu cùng Thượng đế: “Hay là để thần mang nó về bỏ vào lò bát quái, đốt nó bằng thứ lửa văn vũ mà thần thường dùng để luyện linh đơn...” [TDK I 1982: 165, 166] Lão quân mang Tề thiên về cung Đâu suất, ném vào lò bát quái. “Nguyên lò này gồm tám cung của các quẻ: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài. Đại thánh chui ngay vào nằm dưới cung Tốn. Tốn là gió, có gió thì không có lửa.” (...) “Thời gian thấm thoát, chẳng mấy chốc đã được bốn mươi chín ngày, đủ số ngày luyện.” [TDK I 1982: 165, 166] Câu chuyện được kể tỉ mỉ với những chi tiết rườm rà. Đây là cả một vấn đề sinh tử đối với những người muốn học đạo trường sinh, tu theo đạo Lão. Đoạn văn diễn tả một giai đoạn cơ bản của thực hành thiền hay luyện nội đan. Có ba chi tiết phải chú ý: (1) bốn mươi chín ngày; (2) lò bát quái; (3) cung Tốn. Thất thất và cửu cửu Tại sao Tây du bảo phải đợi đến bốn mươi chín ngày mới gọi là “đủ số ngày luyện”? Bốn mươi chín tức là thất thất (7x7). Nó ám chỉ trong quá trình tu tập thiền định (đạo Lão và Cao đài gọi là tịnh luyện), có một giai đoạn người hành giả phải giam mình trong chốn tư phòng, hoặc thiền thất, thiền đường (Cao đài còn gọi là tịnh thất, tịnh trường), hoặc vào chốn vắng vẻ núi non, như mấy ông đạo ở Thất sơn dựng cốc. Theo đạo Phật, bốn mươi chín ngày cũng rất quan trọng cho linh hồn người chết. Vì sau khi hồn lìa khỏi xác, linh hồn chưa ra trước Diêm đình để các phán quan xét xử. Thời gian “tại ngoại hậu tra” (bail) dài bốn mươi chín ngày, và linh hồn được phép tạm trú ở một khu vực (cảnh giới) mà Phật giáo gọi là antarabhava, dịch là trung hữu hay trung âm, trung ấm [soothill 1962: 10]. Đây là lúc để thân nhân cõi thế lo cầu siêu cho người quá cố, để linh hồn ấy tiêu tai giải nghiệp, ngõ hầu khi ra tòa án âm phủ sẽ dễ dàng được cứu rỗi, được cho về cõi trên, hoặc luân hồi vào đường tốt. Lễ cầu siêu bảy lần bảy ngày, kể từ ngày chết. Ở đạo Lão và Cao đài giai đoạn này kéo dài, và gọi là cửu cửu (9x9) tức tám mươi mốt ngày. Cho nên khi Đường tăng về tới chùa Lôi âm, Quan âm Bồ tát cộng sổ, thấy mới có tám mươi nạn, phải... “lập kế” để Đường tăng chịu thêm một nạn chót, cho đủ... chỉ tiêu. Tây du kể: “Bồ tát xem qua quyển sổ một lượt, bèn truyền bảo: Trong đạo Phật ‘chín chín tám mươi mốt mới về nguồn’, thánh tăng đã chịu tám mươi nạn, còn thiếu một nạn nữa mới đủ số.” [TDK X 1988: 181] Đi từ kinh đô Tràng An nước Đại Đường (đất phàm, con người luân hồi) đến chùa Lôi âm nước Thiên Trúc (đất phật, chân nhân giải thoát), Đường tăng phải trải qua tám mươi mốt nạn và vượt qua mười vạn tám ngàn dặm (108.000 = 9x12.000). Ý nói rằng, quá trình tu luyện để siêu hoá từ phàm nên thánh phải gồm những “công đoạn” bắt buộc. Một trăm lẻ tám ngàn dặm là bội số của 9. Cây tích trượng của Đường tăng có chín vòng. Cây đinh ba Bát giới dùng làm vũ khí có chín răng. Xâu sọ người Sa tăng đeo ở cổ cũng gồm chín cái. Xâu chuỗi lớn của nhà sư thông thường cũng gồm một trăm lẻ tám hột [1]; hoặc có khi ngắn hơn là năm mươi bốn hột (9x6), hoặc hai mươi bảy hột (9x3) là bội số của chín, hoặc mười bốn hột (7x2) là bội số của bảy.[2] Giới đạo sĩ dù theo trường phái nội đơn (thiền) hay ngoại đơn, đều theo quá trình chín lần khổ luyện này mà thuật ngữ đạo Lão gọi là cửu chuyển công thành, hay cửu chuyển đan thành. Cao đài cũng vậy, cửu cửu là giai đoạn thiền (hay tịnh luyện) rất cơ bản, hành giả bước vào bực sơ thiền phải qua đó mới có thể chuyển lên những bực cao hơn, cho nên kệ sơ thiền Cao đài có câu rằng: Cửu cửu công phu chẳng chí bền, Con đường tu luyện khó lòng nên... Cũng như đạo Phật, ở Cao đài hành giả không quan trọng hóa việc cầu siêu (thất thất vong: lễ bốn mươi chín ngày) vì hành giả phải tự giải thoát cho mình bằng chứng ngộ. Cầu siêu vì thế là để cho ai còn trong ràng buộc luân hồi. Lễ cầu siêu của đạo Phật là thất thất, thì ở Cao đài là cửu cửu, cứ chín ngày cầu siêu cho người chết một lần, tính từ ngày chết. Cũng với quan niệm về chín từng trời, tín đồ Cao đài tin rằng, cứ qua một lần cúng cửu, linh hồn nhẹ nghiệp hơn và thăng lên được một từng trời tương ứng. Con số 9 còn là một tượng số khá phổ biến trong thiền nhà Phật.[3] Tại sao Phật, Lão, và Cao đài chú trọng con số 9? Và ở Tây du, tại sao Đường tăng muốn thành tựu công viên quả mãn phải trải qua chín lần chín tai nạn (ám chỉ là sự khổ luyện đớn đau của hành giả), phải vượt qua chín lần mười hai ngàn dặm? Số 9 là số thành và là số dương lớn nhất (lão dương). Tu luyện là chuyển âm trược (phàm phu) thành dương thanh (tiên phật), mà số 9 là số thuần dương cho nên số 9 gắn liền với thiền đạo và thiền gia, đạo sĩ. Nhưng... nói như vậy thì hơi lẹ quá, nên cũng cần thử lướt sơ qua một chút về Dịch học, để hiểu thêm cái lò bát quái của Lão quân nó tròn vuông lớn bé cỡ nào, và lò bát quái ấy đặt ở cung Đâu suất hay là ở một nơi nào khác nữa. Số 5, số 9 và cung Tốn trong Dịch Dịch là âm dương. Âm là chẵn; dương là lẻ. Lẻ loi nên gọi cơ; chẵn đôi nên gọi ngẫu.[4] Dịch chia mười con số từ 1 đến 10 làm hai loại, gồm: [a] năm số dương (1, 3, 5, 7, 9); và năm số âm (2, 4, 6, 8, 10). Số 5 theo ngũ hành có vị trí nằm ở trung ương như sau: 2 3 5 4 1 Số 5 được gọi là số sinh, vì nó sinh ra các số khác. Trong bát quái, số 5 ứng với quẻ Tốn. Tề thiên bị hầm, bị ninh trong lò bát quái mà vẫn cứ sống nhăn, đó là nhờ ẩn mình trốn tại cung Tốn. Tốn là cửa sinh. Đọc truyện Phong thần, hay Phong kiếm xuân thu (chuyện Tôn Tẫn, Bàng Quyên), ai cũng nhớ người xưa đánh giặc thường lập trận đồ, bày cửa tử và cửa sinh. Đối phương kéo quân vô cửa tử thì chỉ còn có nước đại bại, mất mạng. Tại sao số 5 là số thành? Trong năm số 1, 2, 3, 4, 5 bày theo ngũ hành nói trên, thử làm bốn bài toán cộng như sau: 5+1 = 6 ; 5+2 = 7 ; 5+3 = 8 ; 5+4 = 9 Bốn kết quả 6, 7, 8, 9 là số thành, và 9 là số thành lớn nhất (ngụ ý viên mãn, hoàn hảo). Số 9 lại là tổng số của ba số dương: 1+3+5 = 9. Cho nên chín được gọi là số lão dương hay thuần dương. Mà dương là quân tử, chính nhân (âm là tiểu nhân, tiện nhân). Do đó ngôi vua được gọi là cửu trùng (chín tầng, chín bệ), và Bà Huyện Thanh Quan (Trấn Bắc hành cung hoài cổ) ngậm ngùi: Chín tầng sen rớt rơi hương ngự, Năm lớp mây phong sắc áo chầu. Ở Trung Quốc, đời Tấn, cha con Vương Hi Chi (321-379) và Vương Hiến Chi đều là danh gia về thư pháp, được tôn là Thảo thánh Nhị vương. Thuở nhỏ, để mài mực luyện chữ, Hiến Chi đã gánh nước đổ đầy 18 chum (2x9) lớn.[5] Ở Hy Lạp, nhà triết học kiêm toán học Pythagore cũng khám phá ra số 9 là huyền diệu, nên bảo rằng: Chín là số hoàn hảo, và bình phương của ba (3x3 = 9), một tam hợp hòa hài trọn vẹn, rất mực đề huề (Neuf est le nombre parfait en tant que carré de trois qu’est la trinité de l’harmonie complète). Lò bát quái Trở lại với cái lò bát quái trên cung Đâu suất của Lão quân. Ở Á Đông có tới ba loại bát quái. Bát quái dùng để ninh, hầm Tề thiên thuộc mô-đen nào? Trong dân gian, trước cửa nhà thường có treo tấm bùa bát quái để trừ tà ma, xua yêu quỷ. Thầy bói cũng có khi xài loại bát quái này. Nó gồm tám quẻ xếp đặt như sau (kể theo chiều kim đồng hồ): Càn, Cấn, Khảm, Chấn, Khôn, Đoài, Ly, Tốn. Bát quái này không phải loại dùng để hầm Tề Thiên. Theo Dịch, vua Phục Hy thời thượng cổ đã nghĩ ra sơ đồ Tiên thiên bát quái hay Tiên thiên cơ ngẫu. Tiên thiên tức là lúc vừa có trời đất, vũ trụ mới hình thành. Sơ đồ của Phục Hy gồm vị trí tám quẻ như sau: - đi ngược chiều kim đồng hồ (tức là theo chiều dương) Càn, Đoài, Ly, Chấn; - đi xuôi chiều kim đồng hồ (tức là chiều âm) Tốn, Khảm, Cấn, Khôn. Theo sơ đồ Tiên thiên bát quái, con người nguyên thủy còn thuần lương, tâm người tâm phật như nhau. Phục Hy biểu tượng bằng quẻ Càn (dương) ở trên, quẻ Khôn (âm) ở dưới. Âm dương chính vị, hòa hài. Lò bát quái của Lão quân không đúc theo mô-đen của Phục Hy. Ngô Thừa Ân kể rằng: “Nguyên lò này gồm tám cung của các quẻ Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài.” [TDK I 1982: 165] Té ra lò bát quái của Lão quân đúc theo Hậu thiên bát quái hay Hậu thiên cơ ngẫu, là mô-đen của Văn vương. Hậu thiên là lúc trời đất, con người, vũ trụ đã không còn đúng tiêu chuẩn chất lượng của thời nguyên sơ khởi thủy. Con người gần quỷ ma, xa tiên phật. Tâm người tâm phật đôi nẻo đôi nơi, hai phương trời cách biệt! Theo sơ đồ của Văn vương, các quẻ xếp theo chiều âm (xuôi chiều kim đồng hồ), con người có xu hướng biến chất hơn là thăng hoa. Sơ đồ này cho thấy hai quẻ Càn (dương) và Khôn (âm) nằm lệch một bên, không chính vị. Bên dưới là quẻ Khảm (nước, thủy, âm) và trên là quẻ Ly (lửa, hỏa, dương). Kinh Dịch, quẻ chót (quẻ 64) lấy Ly trên hiệp Khảm dưới thành ra quẻ Hỏa thủy Vị tế. Vị tế là chưa xong. Kết thúc kinh Dịch, làm thành quẻ chót, tại sao lại bày ra chuyện dở dang? Cuối bộ Tây du, Đường tăng đem kinh về Trường An, kinh bị rớt xuống sông Thông Thiên; lúc phơi kinh ai dè lại bị mất hết mấy trang chót [TDK X 1988: 189], thì lại vẫn là chuyện dở dang! Mà con người cũng là một dang dở đó thôi. Đã đành làm kiếp người thì cao trổi hơn vật thú, nhưng người chưa bằng phật tiên. Trên nấc thang Chân-thiện-mỹ, giá trị con người mới ở nửa vời. Nếu tiến hóa thêm, con người sẽ hoàn thiện là hiền thánh, là tiên phật, là chân nhân. Còn nếu thoái hóa, người tuy bề ngoài mang hình hài thân xác con người xinh đẹp, sang trọng, nhưng bên trong thì tâm hồn đã rữa nát, ngang loài cầm thú. Ông Darwin chắc cũng đành lắc đầu than thở: Cốt khỉ hoàn cốt khỉ! Phép tu đạo Lão khi xưa và Cao đài ngày nay chính là biến Hậu thiên bát quái trở lại nguyên vị Tiên thiên bát quái, đưa con người hư hao trở lại con người Nhân bản mà cuộc đời tôn xưng là Phật, Chúa, Tiên, Thánh, Thần. Biến cải Hậu thiên ra Tiên thiên, trong đạo Lão và Cao đài gọi là chiết Khảm điền Ly; tức là tách hào hai dương ở quẻ Khảm bên dưới sơ đồ Hậu thiên mà đưa vào quẻ Ly ở bên trên, đưa hào hai âm ở quẻ Ly xuống cho quẻ Khảm, thì Khảm-Ly (Hậu thiên) đổi lại Khôn-Càn (Tiên thiên), âm dương trở lại chính vị. Cao đài gọi đây là con đường phản bổn hoàn nguyên. Lão giáo gọi là phục kỳ bản, phản kỳ chân. Đạo đức Thiên tôn (Lão tử) cầm Bát quái hậu thiên (thế kỷ XIX) Lò bát quái đặt ở đâu? Lò bát quái trong Tây du như vậy là một ẩn ngữ, nói lên sự tu luyện của con người. Lò đặt ở đâu? Tại cung Đâu suất chăng? Không phải thế! Lò bát quái ấy nằm trong thân xác con người, đặt ở chỗ mà đạo gia gọi là Đơn điền, là Phương thốn [xem bài Trăng sao cửa động đá đầu non]. Bức hình Tẩy tâm thối tàng đồ của đạo Lão kèm theo đây cho thấy vị trí lò bát quái trong thân hành giả luyện nội đan. Tẩy tâm thối tàng đồ, mượn trong [Max Kaltenmark 1965: 161] Lửa nào đốt lò bát quái? Lửa để đốt lò bát quái, theo Tây du ký, là “thứ lửa văn lửa vũ”. Văn là chi, vũ (võ) là chi? Thuật ngữ này có thể hiểu theo hai nghĩa. Hiểu cạn, văn ám chỉ kinh điển; phải học kinh, trì chú để trợ lực; vũ (võ) ám chỉ phép hành công tọa thiền, và kèm một số môn ngoại công phu (physical exercises) để hộ trợ như Bát đoạn cẩm (tám bài luyện tập), Thập nhị cẩm đoạn (mười hai bài luyện tập), v.v... Cho nên người tu thiền cũng cần văn ôn võ luyện, phải văn võ song toàn. Hiểu sâu xa hơn, lửa văn lửa vũ ám chỉ việc thực hành công phu thiền định của hành giả, gọi đích danh là luyện hỏa hầu. Thiền Lão và thiền Cao đài có bốn giờ công phu là thời Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu, trong đó hai thời Tý Ngọ là để luyện hỏa hầu. Tổ sư Hi di Trần Đoàn bảo: “Hỏa hầu là công phu giờ Tý và giờ Ngọ, hai thời ấy luyện tập và trì thủ không kể đêm ngày.” [Tý Ngọ công phu thị hỏa hầu, lưỡng thời hoạt thủ vô hôn trú.] Nếu hiểu lửa ở đây là lửa trong nội thân, để luyện “hỏa hầu” thì hành giả có lúc vận công nhu nhuyễn, giống như đốt lửa riu riu, đó là dùng lửa văn; hoặc có lúc vận công tích cực hơn, giống như đốt lửa cho ngọn hừng lên, đó là dùng lửa vũ (võ). Giống như bà nội trợ giỏi khéo nấu cơm, hành giả cũng phải tùy lúc mà nổi lửa cho đúng cách. Theo [Đái Nguyên Trường 1970: 68], mục từ “văn vũ hỏa hầu” viết: “Hỏa hầu như nấu cơm, lúc mới đốt thì nước nguội, gạo sống, vậy ắt phải dùng lửa vũ mãnh liệt cho cơm mau chín. Nếu lửa khi chậm khi mau không đều đặn, khi đốt khi ngưng thì cơm ấy sống sượng không đều, vị lại không ngon. Nếu đã dùng lửa lớn (vũ) nấu qua thì hãy dùng lửa văn nấu chậm. Khi cơm chín tức thì tắt lửa. Nếu như vẫn dùng lửa lớn như cũ ắt phải lo sợ rằng thừa hơi nóng, bốc thẳng lên nắp nồi và cháy khét sinh vị đắng. Luyện đan thì vận dụng lửa văn lửa vũ cũng y như vậy. Như khi luyện tinh một trăm ngày tiểu chu thiên thì nên dùng lửa vũ; khi luyện khí mười tháng đại chu thiên thì nên dùng lửa văn. Nhưng nấu cơm là chất liệu hữu hình cho nên thời gian ít và dễ dàng, còn tu luyện kim đơn là thứ vô hình vô chất, nếu hỏa hầu không phù hợp thì khó thành công. Cho nên phải cầu minh sư dạy bảo, không để một chút xíu sai biệt nào cả. Kinh dạy luyện đơn không bao giờ nói sai vậy.” [6] Tốn là gió Bị nấu liên tục bốn mươi chín ngày trong lò bát quái, nhờ Tề thiên núp vào cung Tốn nên an toàn tánh mạng. Tốn là gió. Điều này ám chỉ hành giả khởi công phu phải dựa vào hơi thở. Điều thân (tư thế thích hợp khi ngồi thiền), điều tức (hô hấp để hơi thở một vô một ra cho đúng cách), điều tâm (giữ cho tâm an định, không bị phóng tán như ngựa khỉ lăng xăng), đấy chính là ba “công đoạn” cơ bản của thiền gia hay hành giả. Đạo Lão và Cao đài cho rằng Tam bảo gồm có Tinh, Khí, Thần. Khí theo nghĩa hẹp có thể hiểu tạm là hơi thở. Ở sinh mạng, khí là sự sống; hơi thở dứt đi, mạng sống đoạn lìa. Ở tu thiền (tịnh luyện), người ngồi thiền (hành giả) phải để tâm, ý vào hơi thở luân lưu nhằm cột lại cái tâm viên ý mã [xem bài Trăng sao cửa động đá đầu non]. Vì Khí với người tu quan trọng như thế, nên cũng đừng lấy làm lạ khi bước vô bửu điện của một thánh thất Cao đài bất kỳ, đối diện với Thiên nhãn là bàn thờ Hộ pháp, thấy nơi ấy chỉ tượng trưng bằng một chữ Khí (chữ Nho viết thảo). Chữ Khí, thư pháp Lê Anh Minh Tóm gọn lại, câu chuyện nấu Tề thiên trong lò bát quái là ẩn ý gì? 1. Tề thiên là cái lý trí phàm phu phân biện (nhị nguyên). Lão quân đòi “giết” Tề thiên trong lò bát quái tức là dùng công phu thiền pháp để diệt cái tâm điên đảo (phàm tâm tử, đạo tâm sanh); lấy hơi thở (điều tức) để kềm lại, cột lại cái tâm viên ý mã ưa lăng xăng xạo xự. 2. Tề thiên nhờ núp ở cung Tốn bốn mươi chín ngày nên không chết, vì ở cung Tốn “có gió mà không có lửa”. Bốn mươi chín ngày chưa phải là trọn vẹn quy trình hành pháp của thiền gia (Đường tăng còn phải lặn lội cho tới một trăm lẻ tám ngàn dặm mà!). “Có gió” tức là mới ở khởi đầu, dùng hơi thở (điều tức) để kềm tâm định ý... nhưng tâm ý vẫn còn có thể bay nhảy nếu quên chú ý vào một hơi thở vô, một hơi thở ra. “Không có lửa” tức là chưa đến giai đoạn cực kỳ quan trọng hiểm nghèo: luyện hỏa hầu. [Yoga gọi là luồng hỏa xà (kundalini), tượng hình con rắn lửa. Luyện thành công thì thông suốt hai mạch Nhâm, Đốc; còn luyện hỏng thì... “tiêu”, mà truyện chưởng Kim Dung và phim chưởng Hong Kong gọi tên là “tẩu hỏa nhập ma” (lửa chạy đường tà).] 3. Lò bát quái nấu kim đơn của Lão quân chính là lò lửa luyện nên vàng mười; thân phàm phu huyết nhục qua trui luyện thành công sẽ trở nên kim thân bất hoại. Mỗi con người đều sẵn có trong cơ thể một lò bát quái. Đường tăng là người đã chụm lửa đốt lò bát quái, mang lò ấy để đi ngược dòng đời thế tục, tìm về cõi phật, thành phật thành tiên. Vậy thì tất cả những gì linh thiêng, mầu nhiệm đều không ở đâu xa. Máy Tạo hóa huyền vi đã tàng ẩn trong chính mảnh thân nhỏ bé của mỗi con người. Quả thực, truyện Tây du được kể bằng lối nói úp úp mở mở, nhưng lắng lòng thật kỹ thì nghe như đâu đó có Ngô Thừa Ân cất lên lời tha thiết rằng: Con người ơi, anh chính là một huyền nhiệm! CHÚ THÍCH [1] [soothill 1962: 438] giải thích hai chữ “sổ châu” như sau: “A rosary; to tell beads, which consists of various numbers, generally 108.” [2] [Từ hải 1948: 607] viết: “sổ châu giả, yếu đương tu mãn nhất bách bát khỏa, như kỳ nan đắc, hoặc ngũ thập tứ khỏa, hoặc nhị thập thất, hoặc thập tứ khỏa, diệc giai đắc dụng.” (Chuỗi hạt nên đủ một trăm lẻ tám hột, nếu khó được như thế, thì hoặc năm mươi bốn hột, hoặc hai mươi bảy hột, hoặc mười bốn hột, đều có thể dùng được.) Lê Anh Minh dịch. [3] Theo [Đoàn Trung Còn 1963: 357-365], từ thuật ngữ cửu bộ kinh cho đến cửu trụ tâm, tổng cộng là hai mươi hai mục từ về số 9; trong đó liên quan đến thiền thì có: cửu thiền, cửu thứ đệ định, cửu trụ tâm. Theo [soothill 1962: 15-20], từ thuật ngữ cửu, rồi cửu thượng duyên hoặc, cho tới cửu trai nhật, tổng cộng có đến sáu mươi bảy mục từ về số 9; trong đó liên quan đến thiền thì có: cửu trụ tâm, cửu tâm luân, cửu tưởng quán, cửu thứ đệ định, cửu chủng đại thiền. [4] Vì ngẫu là cặp, nên trai gái cưới nhau, được chúc lành nên duyên giai ngẫu. Giai ngẫu là tốt đôi. Trước kia, danh từ luật pháp Việt Nam gọi chồng hoặc vợ là phối ngẫu (spouse), tức là một người kết cặp với người khác (phối hợp, phối kết) cho đủ một đôi (ngẫu). [5] Lê Anh Minh, “Tản mạn về thư pháp”, tuần san ... thứ Bảy, số 421, ngày 06-3-1999, tr. 30. [6] Nguyên văn: “Hỏa hầu như chử phạn, sơ khởi hỏa thời thủy lãnh, mễ sinh, tất dụng mãnh liệt chi vũ hỏa, sử kỳ tốc thục. Nhược hoãn cấp bất điều, thời thiêu thời hiết, tắc sở chử chi phạn, sinh ngạnh bất quân, vị diệc bất mỹ. Nhược dĩ dụng mãnh hỏa chử qua, tắc nghi dụng văn hỏa hoãn chử, thục tức chỉ hỏa. Như nhưng dụng mãnh hỏa, tắc hữu đĩnh cái phún dật chi ngu, cập thiêu tiêu vị khổ chi hoạn. Luyện đan văn vũ hỏa hầu chi vận dụng diệc nhiên. Như bách nhật tiểu chu thiên luyện tinh thời nghi dụng vũ hỏa; thập nguyệt đại chu thiên luyện khí thời nghi dụng văn hỏa. Đản phạn thị phanh chử kỳ hữu hình chi chất, cố thời đoản nhi dị, nãi vô hình vô chất chi vật, nhược hỏa hầu bất đắc kỳ nghi, hãn hữu thành công giả. Cố tất cầu minh sư chỉ điểm, bất dung hào phát chi sai thù, đơn kinh phi hư ngôn giả.” (Lê Anh Minh phiên âm và dịch nghĩa) LÊ ANH DŨNG (30-9-1991-03-01-1995) HẾT
-
Nhàn bàn: Tiếng Việt, chữ Việt. Những câu ca, hò và và văn thơ của người Việt đã thể hiện cái nói láy, bên cạnh đó các câu vè câu thơ lại có điệp vận, chứng tỏ việc đánh vần đã có từ thời có cổ tự Khoa Đẩu. Vậy mà khi nhà nghiên cứu chữ Việt cổ Đỗ Văn Xuyền công bố hệ thống chữ Khoa Đẩu với cấu trúc đánh vần thì các nhà khoa học trong nước lại phủ định rằng lối đánh vần mới có sau này khi người Tây phiên âm chữ Ta ra chữ La Tinh, nghĩa là cũng khẳng định ông tổ đẻ ra chữ Quốc Ngữ là Alexandre de Rhodes. Ơ hay, vậy thì trước đó bao đời bao kiếp người Việt không biết đánh vần mà biết láy từ thì nghĩa là sao? Sinh con rồi mới sinh cha chắc? Những câu thơ lục bát, song thất lục bát điệp vần lưng, nhưng câu thơ 5, chữ, 7 chữ, 8 chữ...điệp vần đuôi, phải chăng đợi đến khi có chữ Quốc Ngữ rồi đánh vần thì người Việt mới biết điệp vần chăng? Nếu không biết đánh vần thì làm sao biết điệp vần? Vậy cứ theo cái lối nghĩ rằng từ khi có chữ Tây thì mới có lối đánh vần thì giải thích tại sao từ thuở xưa dân Việt đã biết điệp vần? Lối suy nghĩ quá rõ ràng là mâu thuẩn đến ngớ ngẩn khi cho rằng đến thời có Tây, có chữ Quốc Ngữ thì dân Việt mới biết đánh vần. Chuyện kể rằng Alexandre de Rhodes đã từng học tiếng Việt với một đứa trẻ trong vòng 3 ngày hay bảy ngày gì đó, rồi sau đó, "bổng nhiên", hiểu thấu tiếng Việt và nói tiếng Việt như người Việt. Chứng tỏ đứa trẻ đó phải rõ phương pháp của Tiếng Việt để mà truyền thụ, vậy phương pháp đó phải tồn tại trước. Phương pháp đó phải là phương pháp cơ bản của ngôn ngữ, tức là đánh vần, còn hình thức là con chữ, tức ký hiệu quy ước có thể là đa dạng, tượng hình, ngoằn nghoèo hay La Tinh, thì tùy, nhưng nó phải tuân thủ theo cách đánh vần cơ bản của ngôn ngữ đó. Và từ láy là dấu chỉ cho biết đã tồn tại phương pháp đó. Công trình chữ Quốc Ngữ không phải của riêng cá nhân Alexande de Rhodes mà phải là tập hợp những người Việt và cả những người ngoại quốc truyền giáo trước khi có Alexande de Rhodes in cuốn tự điển 3 thứ tiếng Việt - Bồ - La; mà cũng chưa hẳn chắc đây là cuốn tự điển đầu tiên, họa chăng nó có thể là cuốn tự điển bìa đẹp và dầy đầu tiên thì có lẽ. Thiên Đồng Bùi Anh Tuấn Nói Lái Trong Ngôn Ngữ Và Văn Học Việt Nam Theo định nghĩa chung chung của một số nhà Ngôn ngữ học thì Nói lái là nói bằng cách giao hoán âm đầu vần và thanh điệu hoặc trật tự của hai âm tiết để tạo thành nghĩa khác hẳn và cho rằng đây là một trong những đặc trưng của tiếng Việt, nhằm mục đích đố chữ, bông đùa, chơi chữ hay châm biếm. Thí dụ như “lộng kiếng” nói lái thành “liệng cống” hay “đầu tiên” thành “tiền đâu”, “đơn giản” thành “đang giỡn”… Có người còn cho rằng Nói lái là một đặc điểm độc đáo của tiếng Việt mà các ngôn ngữ khác không có, khi nói lái người ta phải chọn một nhóm hai hoặc ba tiếng rồi hoán vị các phụ âm hoặc các thanh của những tiếng đó cho nhau. Chẳng hạn như “Vũ như Cẩn” thành “vẫn như cũ” hay “Nguyễn y Vân” thành “vẫn y nguyên” hoặc “bảng đỏ sao vàng” thành “bỏ Đảng sang giàu”… Lại có người giải thích : Nói lái là cách đánh tráo vần, thanh điệu… giữa hai hoặc ba tiếng với nhau, nó không rườm rà không phức tạp mà rất đơn giản dễ vận dụng để tạo thêm nghĩa mới phù hợp với mục đích giao tiếp và cho rằng nếu không có những cách nói lái này, quá trình giao tiếp sẽ kém sinh động hơn, đơn điệu hơn nhưng tựu chung, khi nói lái, người ta tránh không nói thẳng chữ muốn nói; mà người nghe vì không tinh ý, nhất thời không nhận ra nên xảy ra nhiều giai thoại vô cùng lý thú. Như chúng ta đã biết, một chữ gồm hai phần: phụ âm và âm. Chẳng hạn như chữ thung gồm phụ âm th và âm ung. Chúng ta lại có thêm sáu thanh: sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng và không dấu tạo tiếng Việt thành giàu âm sắc, chỉ cần khác dấu, chữ được phát âm khác nhau: thung (thung dung), thúng (cái thúng), thùng (cái thùng), thụng (áo thụng), thủng (lỗ thủng) và tất nhiên có nghĩa khác nhau, và đây cũng là nét độc đáo của ngôn ngữ Việt, nên người nước ngoài bảo người Việt nói chuyện nghe giống như hát vậy. Thêm vào đó, tiếng Việt vốn đơn âm nên có thể Nói lái dễ dàng mà vẫn có nghiã : Cái biệt thự nầy bự thiệt ! Bí mật coi chừng bị bật mí hoặc kháng chiến lâu ngày sẽ khiến chán hay muốn đầu tư nhưng không biết từ đâu, và đã tháo giầy nhưng chưa thấy giàu ! Theo con Hương vì thương con heo cô ấy… Đặc biệt, đối với những người lớn tuổi hay trưởng thành ở Việt Nam chẳng có ai là không biết cách nói lái, tùy theo gốc gác hoặc sinh hoạt ở Bắc, Trung hay Nam mà cách nói lái có khác nhau đôi chút. - Nói Lái theo cách ngoài Bắc : người miền Bắc đổi chỗ cho hai chữ, đồng thời đổi luôn hai dấu (nghĩa là đổi âm sắc). Thí dụ như chữ tượng lo nói lái thành lọ tương (lo đổi chỗ cho tượng, lấy dấu nặng thành lọ, tượng đổi chỗ cho lo, mất dấu nặng thành tương). Chữ đấu tranh nói lái lại là tránh đâu (tranh đổi chỗ cho đấu, lấy dấu sắc của đấu thành tránh, đấu đổi chỗ cho tranh, mang dấu của tranh vì không dấu nên thành đâu). - Nói lái theo kiểu trong Nam : theo cách nói lái trong Nam, âm trong hai chữ đổi chỗ cho nhau, phụ âm giữ nguyên vị trí. Thí dụ như chữ cá đối nói lái thành cối đá (phụ âm ghép với âm ối của đối thành cối, và phụ âm đ ghép với âm á của cá thành đá). Và cứ như vậy mà cờ Tây thành Cầy tơ, Thầy tu thành thù Tây, hiện đại thành hại điện, Thứ Lễ thành Thế Lữ, trò chơi thành trời cho… Trong vài trường hợp người ta nói lái cho cả ba chữ, thì chỉ hoán đổi hai chữ đầu và cuối nhưng giữ nguyên chữ giữa. Chẳng hạn như : “Trần bá Cương” thành “Trương bá Cần”, “Chín bến đò” thành “chó bến Đình”, “Âu cái Đằng” thành “ăn cái đầu”, “Hương bên đèo” thành “Heo bên đường”… Đôi khi người ta lại đổi chỗ hai phụ âm cho nhau để sau khi nói lái có nghĩa và dễ nghe hơn. Thí dụ chữ chiến binh thay vì nói lái thành chinh biến cũng có thể nói thành chính biên. Do đó với hai chữ tranh đấu có người đã đùa mà nói rằng: tranh đấu thì tránh đâu khỏi bị trâu đánh thì thế nào cũng phải đấu tranh. Cũng như trong trường hợp trên, những chữ trùng âm như nhân dân, lù đù, lật đật…không nói lái được. Tuy nhiên, Nói lái là lối nói mà chỉ cảm nhận được chớ không công thức hóa được. Nếu nói lái mà đơn giản như đang giỡn (có thêm chữ g và dấu hỏi thành dấu ngã) thì không thể áp dụng công thức nào vào đây cả. Đặc biệt là người miền Nam thường phát âm phụ âm cuối không chính xác như c # t, n # ng, y # i, dấu hỏi đọc như dấu ngã. Chẳng hạn như chữ Cắt và Cắc, Đan và Đang, Thai và Thay, suy nghĩ và nghỉ ngợi… họ đều phát âm giống nhau, khó mà phân biệt. Vì vậy khi người miền Nam nói lái thì rất dễ dàng, nhanh chóng do biến đổi bằng nhiều cách khác nhau nhưng khi viết ra thành chữ thì nhiều khi không đúng vào đâu cả (tức là sai Chánh tả). Thí dụ như sao vàng nói lái thành sang giàu nhưng viết đúng theo âm luật là sang vào thì không phải là ý của người muốn nói; bởi vậy, người ta nói nói lái chớ không ai nói viết lái. Tuy nhiên, có nhiều câu thơ, bài thơ không những nói lái mà còn viết lái rất tài tình, chúng tôi sẽ giới thiệu phần sau. Sau đây, chúng tôi xin mời quý vị bước vào thế giới của ngôn ngữ Nói Lái qua các câu đố, câu hò, câu đối, giai thoại trong dân gian và cả những bài thơ mang tính cách Văn học Nghệ thuật hoặc đã có từ lâu trong nền Văn học Việt Nam. Dĩ nhiên, theo như ý kiến của Hoàng Lão Tà trong bài “Ăn tục nói phét” thì “môn nói lái rất thần sầu quỷ khiếp đa dạng, đa năng mà ngay trong thi ca kim cổ đều sử dụng. Lúc nào nói lái được là chớp ngay cơ hội. Và nói lái phải tục mới vui, mới cười được, chứ nói lái thông thường thì chả có gì hấp dẫn”. 1/- Nói Lái trong Câu đố : Cũng như Ca dao, Tục ngữ, Thành ngữ… Câu đố cũng là một hình thái của Văn học dân gian Việt Nam. Người ta sử dụng Câu đố trong các buổi họp mặt vui chơi hoặc trong lúc lao động chân tay để quên đi mệt nhọc hay thử tài trí giữa hai bên nam nữ. Những câu đố Nói lái thường rất dễ đáp nhưng vì bất ngờ hay bị tròng tréo chữ nghiã mà đôi khi không đáp được. - Lăng quằng lịt quịt … lăng quằng trứng, là cái gì? (Đáp là cái Lưng quần trắng) - Lăng quằng lịt quịt … lăng quằng rừng, là cái gì? ( là cái Lưng quần rằn) - Trong nhà chạy ra hỏi cái gì bán, là cái gì ? ( là cái giàn bí) - Vừa đi vừa lủi, vừa mổ, là cái gì ? ( là cái lỗ mũi) - Mẹ thương con, con gầy, là cái gì ? ( là cây gòn) - Trên trời rơi xuống cái mau co, là cái gì ? ( là cái mo cau) - Cầm đục cất đục là cái gì ? (là Cục đất) - Ghe chài chìm giữa biển đông, Ván phên trôi hết cái cong nó còn’’ là cái gì ? (là con còng) - Khoan mũi, khoan lái, khoan lai, Bò la, bò liệt đố ai biết gì? ( là củ khoai lang). - Hít vào, hít ra, hít một là cái gì ? (là hột mít) - Cà vô, cà ra, cà nhột, là cái gì ? (là cột nhà) - Cúng trên núi, cúng mê, cúng mải là cái gì ? (là cái mủng) - Cú trong nhà cú ra, cú hãi là cái gì ? (là cái hũ) - May không chút nữa thì lầm, Cau dày không bẻ bẻ nhầm cau ranh, là cái gì ? (là canh rau)… - “Sáng nay đi hỏi chị Năm, Có đi ra chợ chuộc dùm đôi bông” là cái gì ? ( là trái chùm ruột) - Cái gì ở cạnh bờ sông, Cái mui thì nát cái cong thì còn ? ( là con còng ) - Cái gì bằng ngón chưn cái mà chai cứng, là gì ? ( là ngón chưn cái) - Khi đi cưa ngọn, khi về cũng cưa ngọn, là gì ? ( là con ngựa) - Miệng bà Ký lớn, bà Ký banh Tay ông Cai dài, ông Cai khoanh. Là cái gì ? ( là canh bí và canh khoai) Ngoài ra, còn có câu đố về các con vật, câu đố đặt ra là từ hai con vật nầy khi Nói lái sẽ thành hai con vật khác, đã được giải đáp như sau : - Con Cua con Rồng lái là Con Công con Rùa Con Cáo con Sóc lái là con Cóc con Sáo. Con Trai con Rắn lái là con Trăn con Rái.(cá) Con Cò con Báo lái là con Cáo con Bò Con Sáo con Bò lái là con Sò con Báo Con Sếu con Ngao lái là con Sáo con Nghêu … - con Sâu con Dế –> con dê con sấu con Ngao con Sán –> con ngan con sáo con Ong con Kiến –> con yến con công con Ốc con Kiến –> con yến con cóc con Trai con Rắn –> con trăn con rái con Ốc con Nhện –> con ếch con nhộng - Con SÁO nói với con BÒ, Có con SÒ BÁO: bên kia Hội chùa. Con CÔNG nghe rũ con RÙA, Con CUA thấy vậy, mới khua con RỒNG. Cả bọn kết lại thật đông, Con CÒ, con SÓC cũng mong theo cùng. CÓC, SÒ xúm lại đi chung… - Cô Công nói với Cậu Rùa, Rồng ở dưới đất, còn Cua trên trời. Ốc gào Nhện hỡi, nhện ơi: Ếch bơi phố núi, Nhộng chơi ao làng. Gió chiều nhẹ thổi mênh mang, Tao nhân mặc khách lang thang bên đường… 2/- Nói Lái trong Câu Hò đối đáp: Hò đối đáp vốn là một loại hình thức dân ca phổ biến khắp ba miền đất nước. Nó thường xảy ra trên cánh đồng hay dòng sông, nam và nữ thường hò đối đáp với nhau để xua đi nỗi mệt nhọc trong công việc. Điều đáng ngạc nhiên là họ có thể dễ dàng sáng tạo và hò đối đáp ngay tại chỗ. Những người này rất nhanh nhẹn và thông minh đến mức ngay cả những người có học đôi khi cũng phải khâm phục họ và đôi khi phải bỏ cuộc. Có nhiều cặp trai gái trở thành chồng vợ sau những cuộc hò nầy. Những câu hò đối đáp thông thường thì rất nhiều nhưng dùng cách nói lái để hò đối đáp thì rất hiếm quý. # Thông thường thì bên con gái cất cao câu hò đối trước : “Hò hơ… Con cá đối nằm trên cối đá, Con mèo đuôi cụt nằm mút đuôi kèo. Anh mà đối đặng… ơ.. ờ Hò hơ…Anh mà đối đặng, dẫu nghèo em cũng ưng”. # Sau khi phân tách và tìm câu trả lời, bên con trai hò đáp : “Hò hơ… Chim mỏ kiến(g) đậu trên miếng cỏ, Chim vàng lông đáp dựa vồng lang. Anh đà đối đặng ơ… ờ Hò hơ…Anh đà đối đặng, hỏi nàng có ưng chưa?” Và như thế, bên nầy đối, bên kia đáp cứ kéo dài không dứt cuộc tranh tài đầy lý thú của hai bên nam nữ để lại dân gian những câu hò Nói lái độc đáo đầy sáng tạo: - Con sáo sậu chê cô xấu xạo, Con chó què chân bị cái quần che. - Con bé mập ú nhờ bà mụ ấp, Thằng bé ốm tong vác cái ống tôm. - Chiều chiều cụ Mão lên rừng cạo mũ, Sáng sớm bà Hạc đi bán bạc hà. - Cô nàng dâu Hứa đi mua dưa hấu, Thằng rể bảnh trai ngồi cạnh bãi tranh. - Người mặc áo xanh chính là anh xáo, (anh Sáu) Miếng thịt băm nát trong bụng bác Năm. - Chàng trai sứt môi ngồi ăn xôi mứt, Cô gái mồm to lặn lội mò tôm. - Con cóc cái ngồi trên cái cốc, Con cầy tơ đứng dưới cờ Tây. Bên cạnh đó còn có những câu Nói lái mà đôi trai gái khéo léo gởi gắm tình cảm cho nhau mà người ngoài vì vô tình không hiểu được. Trước hết, người con gái thố lộ : - “Cam sành nhỏ lá thanh ương, Ngọt mật thanh đường nhắm lớ, bớ anh !” Cảm thương vì “thương anh” mà “nhớ lắm” của nàng nên chàng hứa hẹn : - “Thanh ương là tuổi mong chờ Một mai nhái lặn chà quơ, quơ chà”. (Có nghiã: Qua muốn “nhắn lại” với bậu là nếu “thương anh” mà bậu “chờ qua” thì “qua chờ” bậu). 3/- Nói Lái trong câu đối : Câu đối là cách chơi chữ và là một trong những thú tiêu khiển của người xưa. Người ta thường viết câu đối trong dịp Tết hay trong các lễ mừng thượng thọ, thăng quan tiến chức, đỗ đạt hay tân hôn, sinh nhật…. Người viết câu đối phải là người văn hay, chữ tốt và nhất là ý nghiã của câu đối phải phù hợp với trọng tâm của buỗi lễ. Cho nên, viết câu đối rất khó mà nói lái trong câu đố thì lại càng khó hơn nữa. Vậy mà trong dân gian Việt Nam vẫn có nhiều câu đối nói lái. Thảm thương cho cuộc sống thiếu thốn, đói nghèo của nghề giáo dưới chế độ Xã hội Chủ nghiã, người ta than thở qua bài “Buồn đời giáo-chức”: Thảm kịch của thầy giáo, phải tháo giầy, Tháo luôn cả ủng, thủng luôn cả áo. Làm giáo chức, nên phải giứt cháo, Thảo chương rồi, để được thưởng chao, Lấy giáo án đem dán áo. Cùng với một câu đối bất hủ như sau : - Chiều ba mươi, thầy giáo tháo giày ra chợ bán Sáng mùng một, giáo chức dứt cháo đón xuân sang. Tuy vậy, vẫn còn một câu đối khác nghe chỉnh hơn : - Thầy giáo…tháo giầy, tháo cả ủng, thủng cả áo, đem giáo án ra… dán áo. Mèo con….còn meo, còn léo nhéo, kéo lòn nhòn, ngậm xương cá về..ca xướng. Còn đây là câu đối Tết dành tặng cho những tên keo kiệt, coi trọng đồng tiền hơn bất cứ mọi thứ trên đời (xin nói lái từng cặp chữ thì sẽ thấy): - Thiên tường, tác biệt, Hiền tạ, thu sương. Ngoài ra, còn có những câu đối không dùng trong mục đích nào cả mà chỉ để thỏa mãn tánh trào phúng và tài Nói lái của mình : - Kia mấy cây mía trên xe chú, Có vài cái vò dưới nhà cô. - Thầy giáo tháo giầy, vấy đất vất đấỵ Thầy tu thù Tây, cầu đạo cạo đầu. - Trai Thủ Đức năm canh thức đủ, Gái Đồng Tranh sáu khắc đành trông. - “Trai Thủ Đức năm canh thức đủ, Gái Gò Công sáu khắc gồng co”. - Gái Hóc Môn vừa hôn vừa móc, Trai Gò Công vừa gồng vừa co. - Thầy giáo Bản Giốc, vừa bốc vừa giảng, Tử tù Cổng Trời, bị cởi bị trồng. - Con trai Bắc Ninh, vừa binh vừa nắc, Con gái Hà Đông, hồng diện đa dâm. - Đại học Suối Máu, sáu tháng muối cơm, Giáo khu Thừa Thiên, cửa thiền thưa thớt. - Dân nhậu Chu Lai, uống chai uống lu, Người dân Đập Đá, bị đá bị đập. - Rượu thuốc Bạch Hổ, uống bổ như hạch, Con gái Đà Nẵng, tứ đẳng nõn nà. - Nhà văn Nhật Tiến bảo học tiếng Nhật là tiện nhất. Luật sư Ðức Tiến không biết tiếng Ðức nên tức điếng. - Con cá rô cố ra khỏi rá cô ! Chú chó mực chực mó vào chõ mứt. -“Vợ nuôi chó, chồng chén cầy; tứ đốm tam khoanh, cây còn hóa ra là nhà Tuất. “Ngưòi bảo heo, kẻ kêu lợn; ba bầy bảy mối, lớn lại thành đích thị họ Trư.” Còn về câu đối “Gái Củ Chi, chỉ cu, hỏi củ chi?” thì có các câu : - Trai Giồng dứa, trồng dừa giống, trên giồng dứa. - Trai Láng Hạ, lạ háng người Láng Hạ. - Trai Thành Đông, đồng thanh hét thành đồng. Sau hết, có một người thích nói lái, tức cảnh sinh tình đưa ra câu đối sau đây, xin mời chư quý vị tìm cho câu đáp : - “Xuân Cali lạnh lẽo, nghe gọi heo, gọi lợn, gọi chó, gọi cờ tây, chạnh thèm bát giả cầy…” 4/- Nói lái trong các giai thoại : Giai thoại được hiểu là câu chuyện thú vị làm cho người nghe phải hào hứng, vui thích. Từ xưa, có rất nhiều giai thoại, đặc biệt là giai thoại trong văn chương thì không những được người đời truyền tụng qua những cuộc trao đổi trong giới Văn gia, trí thức mà còn được ghi vào sách vở. Tuy nhiên, có những giai thoại Nói lái thì ít người quan tâm, thỉnh thoảng họ cũng có nghe qua nhưng rồi bỏ, xem đó như là những câu chuyện dân gian. Vì vậy, những giai thoại nầy trở thành loại văn chương truyền khẩu, mặc ai muốn kể sao thì kể, muốn thêm thắt thế nào cũng được miễn đáp ứng được sự cảm nhận của người nghe là được. A)- Chuyện Đại phong : Chuyện thế này: hai anh hề trên sân khấu tuồng ngoài Bắc, trong lúc diễu giúp vui, anh A đố anh B: Đại phong là gì? - “Thì đại là lớn, còn phong là gió, đại phong là gió lớn”, anh B giải thích. Anh A bảo :“ Đại phong có nghiã là lọ tương đấy. Nầy nhé, Đại phong là gió lớn, mà gió lớn thì chùa đổ, chùa đổ thi tượng (Phật) lo, tượng lo là lọ tương. Có người còn cho rằng chuyện Đại phong xuất xứ từ Trạng Quỳnh. Trạng Quỳnh tên thật là Nguyễn Quỳnh, sinh quán Nghệ An dưới thời Lê Trung Hưng (1530-1540), là người hay chữ, thông minh xuất chúng, với bản tính nói ngông hay châm chọc vua chúa quan quyền thời bấy giờ. Một hôm Quỳnh dâng lên chúa Trịnh một lọ thức ăn khoác lác là một món ăn tuyệt hảo, ngoài có đề hai chữ Đại Phong. Sau khi ăn thử, chúa Trịnh vì bị Trạng lừa bỏ đói, ăn rất ngon miệng nên cật vấn về món ăn lạ, thì Trạng giải thích rằng Đại Phong là gió to, gió to thì tượng lo, tượng lo nói lái là lọ tương. Ngoài ra, Trạng Quỳnh còn có một câu nói lái khác mà người ta cho rằng để chọc bà Đoàn thị Điểm (?) - Nắng cực lúa mất mùa, đứng đầu làng xin xỏ, Nở lòng nào chị chẳng cho. B)- Chuyện Trạng Quỳnh – “đá bèo” và “ngọa sơn” : Một bà Chúa có nhan sắc mà tính kiêu ngạo, đi ra chơi phố phường thấy ai trái ý là sai lính bắt đánh liền. Quỳnh lững thững đi chơi, gặp kiệu Chúa, thấy gần đấy có cái ao bèo, vội vàng chạy xuống cầu ao nhằm đám bèo mà đá tứ tung. Chúa biết Quỳnh, thấy chơi lẩn thẩn như thế mới hỏi: - Ông làm gì đó? Quỳnh ngẩng lên thưa: - Tôi ở nhà buồn quá, ra ao đá bèo chơi ạ ! Chúa đỏ mặt tía tai, đánh kiệu bỏ đi. Một buổi trưa nọ, Quỳnh định vào nội phủ thăm Chúa nhưng biết là Chúa đang ngon giấc ở dinh bà Chính cung, Quỳnh cụt hứng lui gót. Trên đường về, Quỳnh đề lên vách phủ hai chữ “Ngọa Sơn”. Khi Chúa gọi vào hỏi, Quỳnh trả lời : - Khải Chúa, “Ngọa Sơn” nghĩa là nằm ở trên núi, có thế thôi ạ! Tiện tay, thần viết chơi, chẳng có gì để Chúa bận tâm cả. Sau đó, Chúa thấy hai chữ “Ngọa Sơn” xuất hiện la liệt trên các vách tường, cửa nhà ngoài phố…Chúa truyền gọi một người đến hỏi duyên cớ. Người kia run lẩy bẩy, thưa: - Chúng con là kẻ hèn mọn dốt nát, đâu dám sính chữ. Việc này chẳng qua chỉ tại Trạng Quỳnh đấy ạ ! Trạng Quỳnh có lần vào nội phủ, về mách với chúng con là Chúa đang bận “Ngọa Sơn”, rồi giải thích rằng: Ngọa là nằm, nằm lâu thì phải ngủ, ngủ thì phải ngáy. Sơn là núi, mà núi thì phải có đèo. “Ngáy Đèo” nói lái lại là… , con không dám nói ra đâu. Không ngờ bọn trẻ con nghe lỏm được lời Trạng, buồn tay viết bậy bạ lung tung. Xin Chúa tha cho con! Hiểu rõ đầu đuôi câu chuyện này là do Quỳnh, có làm lớn chuyện ra chỉ tổ thêm xấu hổ nên bỏ qua. C)- Chuyện Đại điểm Quần thần : Một giai thoại về Thủ tướng Nguyễn Văn Tâm được lưu truyền ở miền Nam như sau : hồi Thủ Tướng Tâm còn là Quận Trưởng Cai Lậy (có biệt danh là Hùm Xám Cai Lậy) lúc ăn mừng tân gia, có người dâng lên quan bốn chữ đại tự Đại Điểm Quần Thần rất đẹp và giải thích Quần thần là người bề tôi, Đại điểm là điểm lớn, ý nói quan lớn là người bề tôi có vị trí to lớn trong quan trường. Quan lấy làm thích thú đem treo bức liễn trong phòng khách. Ít lâu sau có người đến ngắm bức liễn, rồi xin quan lớn dẹp đi. Quan ngạc nhiên hỏi, người ấy giải thích: người viết liễn đã cố ý châm biếm quan lớn, mà quan không biết. Bốn chữ trên dịch từng chữ: Đại điểm là chấm to; Quần thần là bầy tôi. Đại Điểm Quần Thần là Chấm To Bầy Tôi nói lái lại là Chó Tâm Bồi Tây. Chẳng biết quan có tìm tác giả bốn chữ nói trên để trị tội hay chăng, nhưng có lẽ vì không muốn làm lớn chuyện mà thêm xấu hổ, nên ỉm luôn. D)- Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm nói lái : Trước khi chết, Trạng Trình (1491-1585, thời Lê Mạc) có làm một tấm bia căn dặn con cháu khi nào chết nên đem tấm bia nầy chôn trước mộ, tấm bia được khắc chữ bên trong nhưng sơn bít bên ngoài. Sau đó chừng 100 năm, cha con ông Khả đem bò tới đó cho ăn mà lại cột nhằm mộ bia của Trạng. Hôm đó nhằm lúc trưa nắng, vì quá khát nước nên bầy bò đụng với nhau, chạy tán loạn làm gẫy tấm bia, sập xuống. Làng xã hay tin biết cha con ông Khả làm hư mồ mả của Trạng nên bắt về trị tội. Cha con ông Khả năn nỉ quá, xin cho đi vay bạc hỏi tiền làm lại tấm bia khác thường cho Trạng. Làng xã thấy tội nghiệp nên ưng thuận. Sau khi vay mượn và bán hết đồ đạc trong nhà thì chỉ được có một quan tám, nhưng được bao nhiêu cũng phải tiến hành sửa chữa. Đến chừng đập bia ra vừa tróc lớp ô dước bên ngoài thì thấy có hàng chữ như thế nầy:”Cha con thằng Khả làm ngã bia ta, Làng xã bắt đền tam quán”. Thì ra tam quán nói lái thành quan tám, đúng như lời tiên tri của ông Trạng. Đ)- Chuyện về ông Thủ Thiệm : (theo “Thủ Thiệm Đất Quảng” của Hoàng Quốc) Thủ Thiệm người xứ Bình Định, xã An Hoà thuộc phủ Hà Đông sau đổi thành Tam Kỳ tỉnh Quảng Nam. Ông sinh năm 1854 mất vào năm1920 tại quê nhà. Lúc nhỏ, Thủ Thiệm có tên là Nhơn, khi lớn lên đi học và đi thi, ông lấy tên chính thức là Thiệm. Theo phong tục xưa, Thủ sắc là người giữ các sắc phong của Vua ban cho làng, chức này thường được Hội đồng kỳ mục tín nhiệm giao cho các nhà Nho, hoặc ít ra cũng là người có chữ nghĩa thánh hiền ở trong làng đảm nhận. Có lẽ nhờ thông Hán học mà Thiệm được giao làm Thủ sắc của làng. Từ đó, người làng gọi ông là Thủ Thiệm, tức đem ghép chức Thủ sắc vào tên ông. Ông là người hoạt bát, nhanh nhẹn, thông minh, ứng đối tài tình nên có nhiều giai thoại để đời : - Một đám cưới nọ tổ chức rất linh đình, hơn nữa số lễ vật của khách đến chúc mừng cũng để bù đắp vào các khoản chi phí, đó là chưa nói đến trường hợp gia chủ được lãi, nếu có chủ tâm tính toán trước. Thủ Thiệm ghét cay ghét đắng cái thói này. Tương truyền có một chuyện như vầy: Khi đi dự đám cưới, Thủ Thiệm mua một tấm lụa, viết lên đó ba chữ Hán thật to:”Miêu Bất Tọa” làm quà tặng đám cưới. Trong tiệc rượu, nhiều người nhờ Thủ Thiệm giải thích mấy chữ đó. Thủ Thiệm chép miệng: – Chà có rứa mà mấy ông cũng hỏi! “Miêu” là mèo, “Bất” là không, “Tọa” là ngồi. “Miêu Bất Tọa” là mèo không ngồi, mà mèo không ngồi tức là mèo đứng. Các ông các bà mừng “Bách niên giai lão”, “Bách niên hạnh phúc”, còn tui thì “Mèo Đứng” cũng vậy mà thôi chứ có khác gì đâu. Nhìn thấy tấm lụa có chữ “Miêu Bất Tọa” treo trang trọng giữa phòng chính, ai cũng bấm bụng cười thầm. - Có cậu con trai học dốt, thi trượt nhưng người cha đã bỏ tiền mua chức cửu phẩm văn giai, mở tiệc đãi cả làng mừng con trai đỗ đạt. Mừng cháu có thành tích, Thủ Thiệm cho câu đối Nôm: “Cha ở nhà đại du Con đi thi đậu tru” Câu đối Nôm dán trên cột nhà khiến chủ nhà bật ra tiếng chửi đổng, còn khách khứa tủm tỉm cười thầm. - Trong ngày đám tang vợ, Ông đề trên lá phướn vợ chữ khuynh địa có nghĩa là méo đất, và khóc vợ, rồi kể lể thờ dài: “Lúc thiếu “cái nớ” thì làm răng mà các dì giúp tui được, phải không các dì?” khiến bà con chòm xóm “lỡ khóc, lỡ cười” với ông chủ nhà trong lúc tang ma bối rối. E)- “Méo trời và Méo đất”: Có một ông thợ hớt tóc góa vợ nên đã quan hệ “già nhân nghĩa, non vợ chồng” với một bà góa chồng. Có hai câu thơ ông tự “vịnh” về mối quan hệ của chính mình thực đáng ghi nhớ : Yêu em từ độ méo trời, Khi nào méo đất mới rời em ra (!) Yêu từ thuở “méo trời” đã hay, nhưng công khai thừa nhận sẽ hết yêu khi “méo đất” dẫu có hơi ác nhưng cách dùng từ thì quả thực tinh quái và thông minh hết chỗ chê. G)- Bài thơ Tác hợp : (theo “Quảng Nam Nói Lái” của Huỳnh ngọc Chiến) Ở xứ Quảng Nam có ông Dương Quốc Thạnh, biệt hiệu Sơn Hồ, chuyên làm thơ nói lái theo thể Đường luật, đối nhau chan chát trong từng câu từng chữ. Có một cậu công nhân gốc Hội An làm việc ở Phú Ninh quan hệ với một cô thợ may ở địa phương mang bầu. Cậu về thú thực với gia đình và xin cưới gấp nhưng ba mẹ không chịu. Ông lại là người quen biết cả hai bên nên nhà gái nhờ ông thuyết phục bên nhà trai. Cuối cùng đám cưới vẫn được diễn ra với cô dâu mang bụng bầu 6 tháng (!). Không khí nặng nề giữa hai họ được giải tỏa hoàn toàn khi ông, với tư cách chủ hôn, đọc bài thơ này và nhà trai thực sự vui vẻ khi tuyên bố nhận con dâu. Ai bàn chi chuyện đã an bài, Trai khiển đồng tình gái triển khai. Cứ sợ cho nên thành cớ sự, Mai than mốt thở lỡ mang thai. Tính từ ngày tháng vương tình tứ, Khai ổ bây giờ báo khổ ai. Cưỡng chúng ông bà nghe cũng chướng, Thôi đành để chúng được thành đôi ! Bài thơ quả thật vô cùng sâu sắc và lý thú. Chuyện đã rồi thì thôi đừng bàn ra tán vô làm chi. Do chàng trai điều khiển nên cô gái mới phải chìu theo nhưng lỗi là do cô đồng tình nên cũng không thể trách ai. Vì quan hệ lén lút nên mới xảy ra “cớ sự”. Bây giờ đã sắp đến ngày sinh nở rồi, sắp đến lúc “khai ổ” rồi mà đám cưới không thành thì sẽ làm khổ cho cả hai bên nhà trai nhà gái lẫn hai người trong cuộc. Thêm một chuyện khác là ở Quận Đại Lộc cũng thuộc Quảng Nam có anh Trần Hàn xấu trai, mặt thì rỗ, lại thêm chột hết một mắt, nhưng anh ta hát hay nổi tiếng. Nhưng “Cao nhơn tắc hữu cao nhơn trị”, vì khi anh xuống làng La Qua, quận Điện Bàn, gặp một cô gái hát chỉ hai câu mà không tài nào đối được, đành bỏ nghề hát, tuyệt tích giang hồ. Câu hát rằng: Trần ai gặp lúc cơ hàn Rổ đan mặt mốt, xuống ngàn đổi khoai. Cái chữ khó của câu hát là chữ “Rổ” .Đan mặt mốt, nghĩa trắng là nghèo quá phải đan rổ tre long mốt để đựng khoai, nghĩa đen lại là mặt rỗ hoa mè lại đui một mắt (mặt mốt nói lái là một mắt). H)- Tranh đấu bị trâu đánh : Ở một cơ quan nọ (dĩ nhiên là cơ quan của Việt cộng) có hội nghị họp chống tham nhũng cửa quyền. Gần kết thúc cuộc họp có một chị công nhân cũ của nhà máy đòi đứng lên phát biểu. Chị vừa nói vừa khóc: “Chúng tôi cũng muốn đấu tranh đòi quyền lợi lắm, nhưng như tôi đây, đấu tranh thì không biết tránh đâu, chưa kịp tránh đâu thì đã bị trâu đánh. Vì vậy bây giờ tôi đang thất nghiệp ! I)- Một mẩu đối thoại : A: Bên đó thế nào ? B: Ồ, có đại phong. A: Làm gì thì làm, nhớ thủ tục đầu tiên đấy nhé ! B: Vâng, biết rồi, khổ lắm nói mãi. À, anh thấy cô ấy thế nào ? A: Người đẹp có đôi chân thảo bình nên hình chụp tôi lộng kiếng rồi ! B: Anh thì lúc nào cũng tếu, cũng vũ như cẩn vậy. A: Thôi chào, chúc anh mạnh sự lòi.!!! (Chú thích : – Thảo bình, theo nghiã Hán Việt, thảo là cỏ, bình là bằng. Thảo bình là cỏ bằng. Cỏ bằng nói lái là cẳng bò. – Mạnh sự lòi nói lái là Mọi sự lành). K)- Bài thơ chú Phỉnh : Tạp chí Xưa Nay số 298 (12/2007), nhân kỷ niệm 15 năm ngày mất của Quách Tấn (một nhà thơ sở trường Thơ Đường luật có tên trong “Thi nhân Việt Nam”) có bài viết về tác giả bài thơ nói lái Chú Phỉnh nổi tiếng. Bài thơ nói lái như thế này: Chú phỉnh tôi rồi Chính phủ ơi, Chú khiêng đi mất chiến khu rồi ! Thi đua sao cứ thua đi mãi, Kháng chiến như vầy khiến chán thôi !. Theo ô.Quách Tạo, tác giả bài thơ nói lái này là Hồ Đệ, người đã gây dựng vào năm 1954 ở Quảng Nam tổ chức Hậu Quốc Dân Đảng phối hợp với nhóm các chức sắc Cao Đài do Cao Hữu Chí đứng đầu để chống Việt Minh và đã bị Tòa án Liên khu V xử. Không hiểu sao về sau người ta lại cứ nghĩ tác giả bài thơ nói lái này là nhà thơ Quách Tấn, có thể vì theo lý luận của hỏi-cung-viên Cao Kế: “Bài thơ Đường này anh không làm thì ai vô đây mà làm?”. Về chuyện này, năm 1991, Quách Tấn, khi đó đã mù, nói với Quách Tạo: “Việc đời cũng lạ. Văn của mình thì họ chê nhưng lại đem chép hàng vài chục trang sách của mình rồi ký tên, xuất bản làm tác giả. Còn văn bá láp và phản động thì họ lại quả quyết đó là của mình để tìm cách buộc tội”. Cùng với tư tưởng “phản động” nầy, trong bài “Nói lái” của Đỗ Thông Minh cũng có ghi bài thơ “chú Phỉnh” tuy có khác đi đôi chút : Kháng chiến thôi rồi khiến chán ôi, Chiến khu để lúa chú khiên rồi ! Thi đua chi nữa thua đi quách, Anh hùng ? Chỉ tổ ung hành thôi ! … Rõ ràng, chính vì bài thơ được phổ biến bằng cách truyền miệng nên tình trạng “tam sao thất bổn” là không thể tránh, mặc dù nội dung không thay đổi nhiều lắm. L)- Câu ró và Câu rạo : Có anh chàng nọ trước kia để râu trông rất đẹp nhưng sau đó không biết lý do gì, cạo đi hàm râu của mình làm cho cô bạn gái nhận không ra. Chàng bèn làm thơ nói lái như vầy để than thở : Xưa kia câu ró ngó xinh, Bây giờ câu rạo vô tình ngó lơ! M)- Nói lái để hẹn hò : Trai gái miền Trung hẹn hò gặp gỡ nhau, sợ có người nghe nên tìm cách nói lái vẩn vơ về ruộng đồng, rơm rạ để hiểu ngầm với nhau. Chàng nói bâng quơ: “bị môn, bị khoai, bị nưa”. Nàng chưa có cơ hội nên khất: “cau khô, trầu héo, tái môi.” hay “nón cụ, quai thao, tốt mối, xấu cuồng” hoặc “bưởi đỏ, cam sành, tốt múi”.. Người qua đường không thể hiểu rằng bị nưa là bựa ni (tức là bữa nay), tái môi là tối mai, tốt mối xấu cuồng là tối mốt xuống cầu, tối múi là túi mốt (tức là tối mốt). N)- Đặt tên con : Biết Tú Đạp là dân học thức nên có người quen nhờ đặt tên cho đứa con trai vừa mới sinh. Sau mấy ngày suy nghĩ, anh đề nghị người quen nên đặt tên con là Gia Bảo vì cái tên này nói lên rằng cả gia đình rất quí cậu bé. Sau khi làm giấy khai sinh cho cậu bé được mấy ngày, ông bố đến gặp Tú Đạp giận dữ hỏi: - Tại sao anh biết là hồi đó chúng tôi mua phải loại bao giả, hả? Bao nội địa thì có khi bị rách, chớ làm gì có bao giả !!! (Gia Bảo nói lái là Bao giả !) O)- Thuyền ta lái gió : Biết nói lái, biết trò chơi chữ để thưởng thức cái của trời cho mà còn để tránh… làm phiền người nghe vì lời thật mất lòng. Nhưng cũng có trường hơp ngược lại, người nói vô tình nói lái làm khổ cả người nói lẫn người nghe. Số là, có một ông thầy giáo khi đọc đề thi về bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận, thay vì đọc câu “Thuyền ta lái gió với buồm trăng” đã vô tư đọc thành “Thuyền ta ló giái với buồm trăng”, khiến cả lớp cười rần lên làm ông thầy sượng chết người. Ôi, tiếng Việt đáng yêu mà cũng đáng sợ quá! O)- Đít mấy lỗ : Việt Nam thời chưa mở cửa, người dân sử dụng xe gắn máy phải mua xăng ở những cây xăng chui vì không có tiêu chuẩn để mua ở cửa hàng quốc doanh. Dấu hiệu của cây xăng chui là một cái chai đặt trên cục gạch nằm bên lề đường. Người khách dừng xe lại gần nơi đó sẽ có người đến chào hàng : - Chành ao ! Đít mấy lỗ ? Nếu là khách quen, sẽ trả lời đúng điệu : - Chèm ao ! Đít hai lỗ. Vậy là việc mua bán diễn ra một cách êm xuôi bằng những câu nói lái chuyên nghiệp. (Đó là: Chào anh, đổ mấy lít ? Chào em, đổ hai lít !) Nguyễn Văn Hiệp
-
TỪ ĐIỂN TIẾNG NGHỆ ! Con trâu thì gọi “con tru” Con dâu thì gọi “con du” trong nhà “Mấn” là “váy”, “ngái” là “xa” “Đi mô?” để hỏi ai là “đi đâu? ” “Nác su” ý nói “nước sâu” “Trấy bù” để gọi “quả bầu” đấy nha “Gác bếp” thì gọi là “tra” “Lông cơn” thực chất đó là “trồng cây” “Ra sân” thì nói “ra cươi” “Đi nhởi” ý nói “đi chơi” ấy mà “Chúng tao” thì nói là “choa” “Các bạn”, thân mật gọi là “bọn bay” “Tê” là “kia”, “ni” là “này” “Mi” “mần” ý nói là “mày” “làm” thôi “Chộ” là “thấy”, “nhác” là “lười” “Mắm tôm” cứ gọi “ruốc bôi” đúng liền “Đọi” là “bát”, ”nôốc” là “thuyền” “Khủy chân” đích thị có tên “lặc lè” “Đàng” là “đường”, “đấy” là “tè” “Thế thôi” thì nói “rứa hè” là xong “Rừng” là “rú”,“rào” là “sông” “Ngá khu” tức thị “ngứa mông” thật rồi “Mơ” là “mớ”, “thúi” là “hôi” “Nỏ nhởi” ý nói “không chơi” đó mà “Tê” là “kia, “tề” là “kìa” “Cái môi” tên gọi “cái thìa” đó em “Đánh nhau” – “đập chắc” nhớ liền “Ra răng” là muốn hỏi em “thế nào” “Ả” là “chị”, “tau” là “tao” “Rứa” là “thế”, “răng” là “sao” đó mà “Bổ” là “ngã”, “mả” là “mồ” “Lọi cẳng” để nói đó là “duỗi chân” Vải “đen” ắt hẳn vải “thâm” ”Trụt quỳn” ý nói “tụt quần” thế thôi “Dốc” là “trôộc”, “đôộng” là “đồi” “Mui” là để chỉ cái “môi” trước mồm “Đầu” là “trôốc”, “hun” là “hôn” “Ló” chưa hết là “Lúa” còn đấy em “Ngượng” là “rầy” “thích” là “sèm” Ai hỏi đến “lả” thì châm “lửa” liền “Nỏ” là “không” nhé đừng quên “Lá trù” chính xác là tên “lá trầu” “Mắc” là “bận”, “mô” là “đâu” “Ăn nể” , “ăn vã” như nhau cả mà Có người gọi “bọ” là “cha” “Nương” là “vườn”, “rẫy” gọi là “nương” thôi “Bù rợ” “bí đỏ” đúng rồi “Nước chè” quê bạn, quê tôi “nác chè” “Nướng” là phải “náng” đó nghe Gọi mang lọ “mói” thì bê “muối” liền Trốc cúi” là “đầu gối” chân Gọi “đài” múc nước phải cầm “gầu” ngay “Chủi” là cái “chổi” đây này Nói “rờ” thì cứ đưa tay mà “sờ” “Lúc này” tạm nói là “dừ” “Luộc kỹ gốc” nhé, “Loọc nhừ côộc” nha, “Con ga” để chỉ “con gà” “Con bê” choa nói đó là “con me” “Con suối” cứ gọi là “khe” ”Châu chấu” ngoài đó, ở quê “cào cào” “Hồ” nước được gọi là “bàu” “Cá quả” cứ gọi “cá tràu” không sai “Con người” thì nói “Con ngài” ”Cù cu” tên gọi của loài “bồ câu” “tối” nói “túi”, “túi” nói “bâu” “Con sâu” có chỗ gọi “trâu” thật mà “Hổ bắt” thì nói “khái tha” “Muỗi”, “giòi” thì gọi đó là “mọi”, “troi” “Con ruồi” thì nói “Con ròi” Bắt “tôi” “Nhúng” đít thì “tui” “trụng” quần “Con giun” phải nói “Con trùn” “Với chắc” có nghĩa là cùng “với nhau” “Lộ mô” có nghĩa “chỗ nào” Nói “vo trôốc” là “gội đầu” đó em “Gạo” thì gọi “gấu” đừng quên Ai nói đến “trự” nhớ liền “chữ” ngay ”Chạc” là để chỉ cái “dây” Nói đi “đâm” gạo hiểu ngay “giã” rồi Cả anh, em mẹ tới chơi Đều chào là “cụ” thế thôi em ờ “Sạu” thì phải hiểu là “ngô” ”O” là bác gái và “cô” đó mà “Mẹ chồng” vẫn gọi “mụ gia” “Ràn tru” phải hiểu đó là “chuồng trâu” “Ròi bu” ý nói “ruồi bâu” Hỏi nơi “rửa bát” là đâu “lộ chồ” Gọi “vợ” là “gấy”nhớ cho Nói “Nhôông” ắt hẳn chính là “chồng” thôi “Dao khoắm” là “rạ” đúng rồi Bảo đi lấy “toóc” thì lôi “rạ” về “Ruộng” là gọi “roọng” đó nghe “Anh nha” cứ nói “eng hè” là xong “Suôn” là “thẳng”, “ngoẹo” là “cong” “Nỏ mần răng cả” là “không việc gì” “Gõ đầu” là “trọi trốc” mi “Kệ tau” ý nói làm gì “mặc tôi” “Trúp vả” để chỉ cái “đùi” “Ả nậy” – “chị lớn” biết rồi chứ em, “Ngong” là “ nhìn”, “coi” là “xem” “Mệ va” – “chị ấy” mong em chớ cười “Lớn” thì nói “nậy” thế thôi “Lõi” ngô, lõi mít nói “cồi” đừng lo “Cây cọ” choa nói “cơn tro” Gọi “tắn”, gọi “tít” “rắn” bò “rết” ra “Mạo” là cái “mũ” đó nha Trong đó từ “rạc” nghĩa là “xác xơ” “Anh” là “eng”, “cô” là “O” “Mun” trong bếp củi là “tro bếp” mà… Sưu tầm
-
Đệ tử xin kính chúc các Sư Phụ mạnh khỏe, vui tươi, luôn chấp cánh tri thức và trí tuệ cho chúng đệ tử. Thiên Đồng
-
hannguyenhp Cháu chào chú Thiên Đồng. Cháu tuổi Canh Ngọ Chau hoi lúc 21h10 ngay 15/10/2015 Câu hỏi 1: Chú xem giup cháu năm nay có tin vui không ah. Nêu không thi khoảng bao giờ cháu mới có con ah. Sang năm 2016 Câu hoi 2: Sang năm công việc của cháu có thay đồi gi không ah. Liệu cháu có thể phát triển gì thêm ở cty hiện tại không ah Không thay đổi, và chỉ dậm chân tại chổ. Câu hỏi 3: Cháu dự định về gân nhà làm liệu có thuận lơi và thăng tiến hơn không ah. cũng dậm chân tại chổ Dạ cháu cảm ơn chú nhiêu ah Thiên Đồng
-
@HuongLyVu Hỏi lúc 14:51 chiều ngày 02/10/2015. Cháu chào chú ạ, cháu sinh năm Tân Mùi, ngày âm lịch 13/10/1991, nhờ chú tư vấn xem giúp hộ cháu với ạ. 1. Năm nay cháu 25 tuổi, cháu mới chia tay bạn trai được 3 tháng rồi ạ. Cháu vẫn còn nhiều tình cảm với người bạn trai này. Anh ấy vẫn còn chút tình cảm với cháu nen nửa muốn thôi, nửa muốn tiếp tuc. Liệu bọn cháu có thể quay lại? Nếu không thì khi nào cháu sẽ có bạn trai mới ạ? Sẽ trở lại, khi trở lại thì chớp lấy cơ hội sang năm cưới và có con luôn. 2. Bố mẹ cháu đang muốn bán 2 căn nhà cũ. Vì không thích sống ở khu đất đó nữa, bố mẹ cháu muốn đi nơi khác mua nhà hoặc xây nhà mới. Khi nào bố mẹ cháu mới có thể bán được nhà ạ? Va Khi nào bố mẹ cháu mới xây nhà mới để ở lúc cuối đời ạ? Nhanh thì tháng 4 âm năm sau chậm thì tháng 10 năm sau. Có nhà mới thì có thể cuối 2018. 3. Cháu mới cho vay một số tiền. Cháu hy vọng họ có thể phát triển làm ăn nhờ số tiền đó, liệu họ có đủ khả năng để làm không ạ? Chưa đủ, để sang tháng 3 năm sau thì tính lại. Cháu cảm ơn chú nhiều, cháu rất mong tin của chú ạ. Chia tay bạn trai, khiến cháu rất đau buồn chú ạ. :( Ờ...ờ cố gắng cười lên. Phong thủy Thiên Đồng whisper Chào anh Thiên Đồng, em nhờ anh cho em xin 1 quẻ với ạ. Hiện tại, e đang làm gv, bm em đang làm việc, có trình lên các lãnh đạo bổ nhiệm thêm 1 vị trí phó cho bm. Và các lãnh đạo đã đồng ý điều này. Kính nhờ anh xem giúp liệu lần này em có được bổ nhiệm lên chức phó này không ạ? Cảm ơn anh nhiều. Vẫn chưa được. Thiên Đồng Dạ, Anh bớt chút thời gian xem giúp e đến bao giờ thì đường công danh sự nghiệp của e thăng tiến ạ, có nên được hiệu trưởng hoặc nên Bộ không ạ? Em cảm ơn anh nhiều. Hiệu trưởng có thể chưa, Bộ thì có thể nhưng phải xem lại sau. Thiên Đồng milulan Em chào anh thiên đồng. mong anh xem giúp em một quẻ với em là nữcanh ngọ hỏi vào lúc 7:34pm ngày 14/10/2015/ Câu hỏi 1: Em đang xin việc và người này đã cầm tiền của em rồi. Liệu người này có giúp được em không? Em đang lo là bị lừa vì cứ hứa qua ngày nọ sang ngày kia. Cứ hẹn lên hẹn xuống mà chưa thấy đâu? Giúp được Câu hỏi 2: Liệu chồng em có được thuyên chuyển công tác không? được chuyển Câu hỏi 3: Liệu tháng mấy thì em có thai lại? Cuối tháng 9 âm này hoặc tháng 2 âm năm sau Em cảm ơn anh nhiều. Mong anh bớt chút thời gian xem giúp em Phong thủy Thiên Đồng Cocktail Hỏi lúc 17h08 ngày 14/10/2015 Cháu chào chú Thiên Đồng, cháu sinh ngày 05/05/1992 dương lịch, nhờ chú tư vấn giúp cháu một quẻ với ạ. 1. Hiện tại cháu mới gia nhập đội quân thất nghiệp, đang ở nhà trong tâm trạng chán nản, không biết trong năm nay cháu có xin được việc mới không chú? và cháu có theo đúng ngành học của mình không ạ? Cháu sẽ ổn định công việc theo nhà nước hay tư nhân ? Sẽ có việc, đi làm xa, làm tư nhân ổn. 2. Thất nghiệp và cháu cũng chưa một mảnh tình vắt vai :((( Khi nào thì duyên hôn nhân mới đến với cháu và anh ấy là người như thế nào ạ? Nhanh thì năm sau 2106, chậm thì năm năm nữa tính từ bây giờ. Cháu cảm ơn chú nhiều! Ngóng tin chú ạ. Chúc đắc bồ Thiên Đồng
-
Chúc mừng sinh nhật Sư Phụ. Đệ tử kính chúc Sư Phụ vui, khỏe, bình an và tài lộc dồi dào. Thiên Đồng :D
-
LĨNH NAM CHÍCH QUÁI Chào các bạn, Lĩnh Nam Chích Quái là một trong những tác phẩm văn học dân gian đầu tiên của Việt Nam, viết bằng chữ Hán văn xuôi, rất quý hiếm còn lại từ thời Lý, Trần. Cho đến nay sách Việt dịch của Lĩnh Nam Chích Quái không nhiều, thế nên, thiết nghĩ việc chuyển dịch từ chữ Hán sang chữ Việt, giới thiệu các nhân vật, các câu chuyện trong “Lĩnh Nam Chích Quái” cho mọi người – đặc biệt cho lớp trẻ – là điều rất cần thiết và quan trọng vậy. Chúng tôi sẽ lần lượt dịch các truyện trong Lĩnh Nam Chích Quái, và anh Trần Đình Hoành sẽ bình các truyện này hầu làm rõ ẩn nghĩa, và sẽ đăng để chia sẻ với các bạn. Chúc các bạn một mùa xuân an hòa! Nguyễn Hữu Vinh LĨNH NAM CHÍCH QUÁI Nguyễn Hữu Vinh Lĩnh Nam Chích Quái (1) là một trong những tác phẩm văn học dân gian đầu tiên của Việt Nam, viết bằng chữ Hán văn xuôi, rất quý hiếm còn lại từ thời Lý, Trần. Chưa biết rõ tác giả là ai, có thể do Trần Thế Pháp (2) soạn vào khoảng cuối thế kỷ XIV, sau được Vũ Quỳnh (3) và Kiều Phú (4) ở cuối thế kỷ XV hiệu chính. Đoàn Vĩnh Phúc (5) , thời Mạc trích từ “Việt Điện U Linh” chép thêm nhiều truyện mới trong quyển 3 (tục biên). Đoàn Vĩnh Phúc khi viết tiếp quyển 3, có ghi trong phần Bạt một dữ kiện quan trọng là Lĩnh Nam Chích Quái do Vũ Quỳnh và Kiều Phú hiệu chính, bổ sung gồm 2 quyển, tất cả có 22 truyện, bắt đầu từ truyện Hồng Bàng và chấm dứt ở truyện Dạ Xoa. Cuối thế kỷ 18 lại có Vũ Khâm Lân bổ sung thêm. Trải qua nhiều thế kỷ, Lĩnh Nam Chích Quái được nhiều người hiệu chính và tu bổ, hiện nay được biết có 11 truyền bản còn lưu lại. Những truyền bản này có số truyện khác nhau cũng như tên gọi cũng khác nhau, có bản có 22 truyện, có bản có tới 43 truyện. Các bản có nhiều tên gọi khác nhau như là Lĩnh Nam Chích Quái Liệt Truyện, Lĩnh Nam Chích Quái, Lĩnh Nam Chích Quái Ngoại Truyện, Lĩnh Nam Chích Quái Khảo Chánh… May có lời Bạt của Đoàn Vĩnh Phúc đã giúp các học giả sau này có được một ít chứng cứ để nghiên cứu và tìm tòi truyền bản nào trong tất cả 11 truyền bản còn lại là gần nhất với nguyên tác. Nói chung, Lĩnh Nam Chích Quái làm một tập truyện cổ quan trọng, tập hợp nhiều truyện thần thoại, truyền thuyết với nội dung rất rộng, đề cập đến lịch sử, văn hóa và phong tục tập quán của Việt Nam, ghi lại những câu chuyện kể, những truyền thuyết dân gian ly kỳ, hấp dẫn về nhiều loại nhân vật, nhiều lĩnh vực và phạm vi của cuộc sống, hoặc giải thích nguồn gốc dân tộc (Truyện Hồng Bàng, Truyện Mộc Tinh…), hoặc kể sự tích các bậc anh hùng, các nhân vật tài giỏi (Truyện Phù Đổng Thiên Vương, Truyện Hai Bà Trưng…), hoặc giải thích phong tục tập quán (Truyện bánh chưng, Truyện trầu cau…), hoặc có liên quan đến các di tích văn hoá, lịch sử (Truyện Từ Đạo Hạnh, Truyện Thần Như Nguyệt…)… Lĩnh Nam Chích Quái về cơ bản là những ghi chép khá đơn giản về chân dung các nhân vật “phi thường”, “toàn vẹn”. Dù chứa đầy những yếu tố hoang đường, kỳ ảo, nhưng nó vẫn được xem là những chuyện “có thực”, là nguồn tư liệu tham khảo có giá trị để nghiên cứu lịch sử, văn hóa và xã hội Việt Nam. Lĩnh Nam Chích Quái cũng như các bộ sách viết chữ Hán khác của Việt Nam, phần lớn còn nằm trong các thư viện chưa được xuất bản, hoặc là xuất bản lẻ tẻ. Nhà sách Khai Trí ở Sài gòn cũng như nhà xuất bản Văn học ở Hà Nội, vào đầu năm 1960 cũng đã xuất bản bản dịch Việt của Lĩnh Nam Chích Quái. Hai cuốn sách này chỉ là hai cuốn sách dịch ra chữ Việt dựa trên một trong những truyền bản, chưa có sự hiệu đính, đối chiếu và tổng hợp với các truyền bản tương tự khác. Đầu năm 1991, Nhà xuất bản Trung Châu tỉnh Hà Nam, Trung Quốc đã xuất bản cuốn “Lĩnh Nam Chích Quái Đẳng Sử Liệu Tam Chủng” bằng chữ Hán do Đới Khả Lai ở khoa Lịch sử, trường Đại học Trịnh Châu chủ biên. Song đây cũng chỉ sử dụng một truyền bản sưu tầm được từ Thư Viện Société Asiatique, Paris. Cuối năm 1992, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội, hợp tác với Viện Viện Đông Bác Cổ (Ecole Francaise d’Extreme Orient), Paris và Đại Học Chung Cheng, Taiwan, do Trần Khánh Hạo chủ biên và nhà sách Học Sinh Thư Cục ở Taipei ấn hành một bộ sách đồ sộ: “Việt Nam Hán Văn Tiểu Thuyết tùng san”, gồm hơn 40 bộ sách cổ xưa của Việt Nam. Điều đáng tiếc là bản in chữ Hán Lĩnh Nam Chích Quái trong bộ tùng san này vẫn còn có nhiều thiếu sót trong phần hiệu đính. Tuy nhiên, cho đến lúc này, nó vẫn là bản chữ Hán tương đối phổ biến và đầy đủ nhất trong các bản in về Lĩnh Nam Chích Quái ra đời từ trước cho tới nay. Trong lần xuất bản này Lĩnh Nam Chích Quái được chọn lựa cẩn thận giữa các truyền bản, chọn ra một truyền bản thích hợp nhất, hiệu đính và cho ấn hành. Các học giả đã chọn truyền bản HV 486 của viện Sử Học làm bản chính và với 2 bản phụ khác, VHV 1473 và VHV 2914, của Viện Nghiên cứu Hán Nôm, hiệu đính, so sánh và in thành sách xuất bản. Sách gồm 42 truyện chia thành 3 quyển: Quyển 1 gồm các truyện: Hồng Bàng thị truyện: Truyện họ Hồng Bàng kể về nguồn gốc dân tộc Việt Nam Ngư tinh truyện: Truyện Tinh Cá kể truyền thuyết Lạc Long Quân diệt Ngư tinh ở Biển Đông. Hồ Tinh truyện: Truyện Tinh con hồ ly và sự tích Hồ Tây. Mộc Tinh truyện: Truyện Tinh cây kể cây thành tinh và tục trừ tà của người Việt xưa Tân Lang truyện: Truyen trầu cau kể sự tích trầu cau và tục dùng cau trầu trong việc cưới hỏi Nhất Dạ Trạch truyện: Truyen Đầm Dạ Trạch, kể về sự tích Triệu Quang Phục và truyền thuyết Tiên Dung và Chử Đồng Tử Đổng Thiên Vương truyện: Truyền thuyết về Thánh Dóng Chưng Bính truyện: Truyện Bánh Chưng về truyền thuyết bánh chưng, bánh dày và con hiếu được truyền ngôi. Tây qua truyện: Truyện Dưa Hấu kể về tích Dưa hấu truyền vào Việt Nam. Bạch Trĩ truyện: Truyện chim Trĩ trắng và truyền thuyết về nước Việt Thường xưa. Quyển 2 gồm các truyện: Lý Ông Trọng truyện: Truyện kể sự tích Lý Ông Trọng thời Tần Thuỷ Hoàng Việt Tỉnh truyện: Truyện Giếng Việt, truyện kể Thôi Vy gặp tiên. Kim Quy truyện: Truyện Rùa Vàng kể về Loa thành và chuyện tình nghĩa, trung hiếu Trọng Thủy Mỵ Châu. Man Nương truyện: sự tích về Phật Mẫu Man nương. Tản Viên sơn truyện: Truyện thần núi Tản và chuyện Sơn tinh, Thủy tinh tranh giành nhau lấy Mỵ Nương. Long Nhãn Như Nguyệt nhị thần truyện: Truyện kể hai vị thần họ Trương giúp Lê Đại Hành đại phá quân Tống. Từ Đạo Hạnh Nguyễn Minh Không truyện: Truyện kể về cao tăng phò vua giúp nước là sư Từ Đạo Hạnh và Nguyễn Minh Không thời triều vua Lý Nhân Tông và Lý Thần Tông. Nam Chiếu truyện: Truyện Nam Chiếu kể sự tích con cháu của Triệu Đà chống chọi với quân phương Bắc. Tô Lịch giang truyện: Truyện sông Tô Lịch kể chuyện Cao Biền bị giết vì xúc phạm thần sông. Dương Không Lộ Nguyễn Giác Hải truyện: Truyện kể về thiền sư Không Lộ và Giác Hải thời Lý Thần Tông. Hà Ô Lôi truyện: Truyện kể Hà Ô Lôi vì tính háo sắc mà bị chết thảm Dạ Thoa vương truyện: Truyện kể vua Dạ Thoa háo sắc, đánh nước người để cướp vợ người khác. Vì thế bị giết và mất nước. Quyển 3 (tục biên) gồm các truyện: Sĩ Vương tiên truyện, Sóc Thiên Vương truyện, Kiền Hải môn tam vị phu nhân truyện, Long Độ vương khí truyện, Minh chủ Đồng Cổ truyện, Ứng thiên hóa dục hậu thổ thần truyện, Long trảo Khước lỗ truyện, Phùng Bố Cái Đại vương truyện, Trinh linh nhị Trưng truyện, Mỵ Ê trinh liệt truyện, Hồng Thánh đại thần vương truyện, Minh ứng An sở truyện, Đại Than Đô lỗ thạch thần truyện, Xung Thiên Chiêu ứng thần vương truyện, Khai thiên trấn quốc Đằng châu phúc thần truyện, Uy linh bạch hạc thần từ truyện, Thần Chu Long vương truyện, Ni sư Đức Hạnh truyện, Phạm Tử Hư truyện. Có thể nói sách “Lĩnh Nam Chích Quái” trong bộ “Việt Nam Hán Văn Tiểu Thuyết tùng san” là bộ sách khá hoàn hảo được chọn lọc công phu góp phần giúp chúng ta có thêm điều kiện để nghiên cứu lịch sử, văn hóa và xã hội Việt Nam ban đầu về mọi mặt. ————————— Chú thích 1. Chích “摭” nghĩa là “chọn”, “lựa chọn”, “nhặt lấy”. Lĩnh Nam Chích Quái (嶺南摭怪) là “Lựa chọn những chuyện quái dị ở Lĩnh Nam” (嶺南). Lĩnh Nam là vùng đất phía nam núi Ngũ Lĩnh, đất các dân tộc Việt cư ngụ, trong truyền thuyết xưa ở Việt Nam và Trung Quốc. 2. Trần Thế Pháp: Không rõ năm sinh, năm mất, hiệu là Thức Chi, người làng Thạch Thất, nay thuộc tỉnh Sơn Tây. 3. Vũ Quỳnh (1452-1516) tự Thủ Bộc, hiệu Trạch Ổ, người làng Mộ Trạch, huyện Đường An. Làm quan tới chức Thượng Thư ở các bộ Công, bộ Lại và bộ Binh, kiêm Tư nghiệp ở Quốc Tử Giám, Sử Quán Tổng tài. Ngoài việc hiệu đính và tu sửa Lĩnh Nam Chích Quái, còn biên soạn Việt Giám Thông Khảo, Hỏa Thành Toán Pháp. 4. Kiều Phú (1446- ?), tự Hiếu Lễ, hiệu Ninh Sơn, người làng Lạp Hạ, huyện Ninh Sơn sau đổi là Yên Sơn, phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây, nay là xã Yên Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây. Năm Ất Mùi 1475, ông đỗ nhị giáp tiến sĩ, lúc 29 tuổi làm đến Tham chính, nổi tiếng văn thơ đương thời. 5. Đoàn Vĩnh Phúc: Không rõ năm sinh, năm mất. Theo bài Hậu bạt đề năm Quang Bảo sơ niên (1554) ở một số bản Lĩnh Nam Chích Quái, ông làm việc ở cục Tú lâm thuộc Viện Hàn lâm đời nhà Mạc. Tham khảo: “Lĩnh Nam Chích Quái”, Việt Nam Hán Văn Tiểu Thuyết Tùng San, Pháp Quốc Viễn Đông Học Viện xuất bản, Học Sinh Thư Cục ấn hành, Taipei, Taiwan, 1992 “Lĩnh Nam Chích Quái Đẳng Sử Liệu Tam Chủng”, Nhà xuất bản Trung Châu, Hà Nam, Trung Quốc, 1991 “Lĩnh Nam Chích Quái”, Đinh Gia Khánh, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1960 4. “Lĩnh Nam Chích Quái”, Lê Hữu Mục, Nhà sách Khai Trí, Sàigòn, 1960 5. “Đại Việt Sử Ký Toàn Thư”, Chen Chinh Ho, Tokyo University, 1984 Lời tựa – Lĩnh Nam chích quái liệt truyện của Vũ Quỳnh Quế Hải (1) tuy ở cõi Lĩnh Ngoại, nhưng núi non kỳ vỹ, địa linh, nhân kiệt, vật lạ thường thường vẫn có. Từ thời Xuân Thu, Chiến Quốc, cách thời thái cổ không xa, phong tục nước Nam còn đơn sơ, chưa có sử sách để ghi chép, nên nhiều chuyện bị lãng quên, mất mát. Riêng còn truyện nào không bị thất lạc thì may được dân gian truyền miệng. Đến các đời Tây Hán, Đông Hán, Đông Tây Tấn, Nam Bắc triều, rồi đến Đường, Tống, Nguyên mới có sử ghi chép các truyện như Lĩnh Nam Chí, Giao Quảng Chí, An Nam Chí Lược, Giao Chỉ Chí Lược v.v… mới có thể tham khảo rõ ràng được. Nhưng nước Việt ta từ xưa vốn là nơi hoang dã cho nên việc ghi chép còn sơ lược. Nước ta lập quốc từ thời Hùng Vương, dần dần khai hóa, văn minh mới có từ các đời Triệu, Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần đến nay đã lan đến khắp nơi, cho nên việc ghi chép quốc sử được tường tận hơn. Những truyện chép ở đây là sử ở trong truyện chăng? Bắt đầu có từ thời nào? Tên họ người viết là ai đều không thấy ghi rõ. Viết ra đầu tiên là những bậc tài cao học rộng ở đời Lý, Trần. Còn những người hiệu đính, tu bổ các bậc quân tử uyên bác, hiếu cổ ngày nay. Kẻ ngu này xin đem ngọn nguồn ra mà suy xét lại cho sáng tỏ ý người viết truyện. Như truyện họ Hồng Bàng thì nói rõ việc khai sinh ra nước Việt ta. Truyện Dạ Thoa lược thuật về thời manh nha của nước Chiêm Thành. Truyện Bạch trĩ thì chép chuyện về nước Việt Thường. Còn truyện Rùa Vàng chép sử An Dương Vương. Về phong tục Đồ sính lễ thì không có gì quý bằng trầu cau, lấy đó mà biểu dương nghĩa vợ chồng, tình huynh đệ. Về mùa hạ nước Việt ta không có gì quý bằng quả dưa hấu, cũng dùng để kể truyện cậy vật báu của mình, quên cả ơn chủ. Truyện Bánh Chưng khen lòng hiếu với cha mẹ. Truyện Hà Ô Lôi răn thói dâm ô. Đổng Thiên Vương phá giặc Ân, Lý Ông Trọng diệt Hung Nô, đủ biết nước Nam ta có người tài giỏi. Chử Đồng Tử kết duyên cùng Tiên Dung. Thôi Vỹ tao gặp gỡ bạn tiên, đủ biết làm việc nghĩa thì âm đức có thể thấy vậy. Những truyện Đạo Hạnh, Không Lộ khen việc báo được thù cha, các vị thần tăng ấy há có thể mai một hay sao? Những truyện Ngư Tinh, Hồ Tinh nêu rõ diệt trừ yêu quái mà ơn đức Long Quân không thể quên được vậy! Hai linh thần họ Trương chết thành thần minh, treo cờ mà biểu dương, ai dám nói không được? Anh linh thần núi Tản Viên trừ được loài thuỷ tộc, nêu lên cho hiển hách, ai lại bảo không phải? Than ôi! Nam Chiếu là con cháu Triệu Vũ Đế, nước mất lại biết phục thù; Man Nương là mẹ Mộc Phật, năm hạn làm được mưa dầm; Tô Lịch là thần đất Long Đỗ, Xương Cuồng là thân cây chiên đàn, một đằng thì lập đàn tế lễ, dân được hưởng phúc, một đằng thì dùng kỳ thuật mà trừ cho dân được thoát hoạ.Việc tuy kỳ lạ mà không quái đản, người thì hơi kỳ dị nhưng không đến nỗi là yêu quái. Truyện kể tuy có phần hoang đường mà tông tích vẫn có phần là bằng cứ, há chẳng phải chỉ cốt khuyên điều thiện, răn điều ác, bỏ giả theo thật để khuyến khích phong tục mà thôi ư? So với sách “Sưu Thần Ký” đời Tấn, sách “Địa Quái Lục” đời Đường thì cũng giống nhau vậy. Ôi! Truyện lạ đất Lĩnh Nam thật là nhiều, không đợi khắc vào đá, viết vào tre mà đã khắc sâu vào bia miệng, vào lòng người? Từ đứa bé hôi sữa đến cụ già tóc bạc đều làu thông, đều yêu thích, lấy đó để noi gương thì tất là phải có liên quan đến cương thường, phong tục tập quán. Đâu có phải là những chuyện nhỏ bé tầm thường được. Mùa xuân năm Nhâm Tý, niên hiệu Hồng Đức, kẻ ngu này mới biết được sách này, ôm lấy mà đọc, không tránh khỏi chữ nọ nhầm chữ kia. Thế là quên mình dốt nát, đem ra hiệu chính, xếp thành hai quyển, đặt tên là “Lĩnh Nam Chích Quái liệt truyện”, cất ở trong nhà để tiện việc thưởng lãm. Còn như việc khảo chính, nhuận sắc, làm cho văn hay, lời đẹp, ý sâu thì chư vị quân tử hiếu cổ sau này há không có ai hay sao? Cho nên viết bài tựa này. Giữa mùa thu năm thứ 23, đời Hồng Đức (2) Vũ Quỳnh Giám Sát Ngự Sử đạo Kinh Bắc, Tiến Sĩ khoa Mậu Tuất, hiệu Trạch Ổ, Yến Ôn, người làng Mộ Trạch, huyện Đường An, Hồng châu. ————————— Chú thích 1. Quế là tên tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Quế Hải theo nghĩa rộng là vùng đất bao gồm Quảng tây, tức chỉ gồm cả nước ta. 2. Tức năm 1492 đời vua Lê Thánh Tông Lời Bạt (tựa cuối sách) – Lĩnh Nam chích quái liệt truyện của Kiều Phú Ngu ý cho rằng việc thường thấy thì chép trong Kinh, Sử để lưu lại ở đời, việc kỳ quái thì chép thành Truyện, Ký để rõ chuyện lạ. Cho nên việc các đời Ngu, Hạ, Thương, Chu thì chép vào Kinh, việc các đời Hán, Đường, Tống, Nguyên thì ghi rõ ở Sử. Còn các chuyện như “Ông già bơi sông”, “Đuôi rồng vạch đất”, “Gõ hát trong làng”, “Chim sẻ ngậm sách đỏ” thì có Truyện để bù vào chỗ thiếu. Các sách Vũ Đế nội truyện đời Hán, Thiên Bảo dật sự đời Đường, Triều dã thiêm tái đời Tống cũng không gì khác hơn là góp nhặt chuyện lạ các đời để tiện xem đó chăng. Nước Việt ta từ thời loạn Mười hai Sứ quân về trước, tuy sử liệu không đủ rõ để khảo chứng, nhưng sự tích của nước nhà vẫn có thể xem ở Thốc Thủy Thông giám và sử sách thuộc các triều. Còn như sông núi linh thiêng, nhân vật lạ kỳ thì tuy sử bút không chép, nhưng bia miệng không ngoa. Người bậc học rộng đời sau gom góp lại, biên thành truyện được bấy nhiêu thiên, thu thập những mẫu chuyện vụn vặt, linh tinh để bổ sung vào những chưa đầy đủ. Trong những việc kỳ quái đó, vẫn có những điều hệ trọng. Ôi ! Đã có chuyện trời sai huyền điểu xuống thế mà sinh ra nhà Thương, thì chuyện trăm trứng nở ra trăm con để chia trị nước Nam, chuyện Hồng Bàng không thể mất được. Thà làm đầu gà còn hơn đuôi trâu, cho nên chuyện con cháu họ Triệu chống cự với Bắc triều thì chuyện Nam Chiếu không thể bỏ sót. Sông nước vây quanh mà rồng xanh hội tụ, chép lại chuyện sông Tô Lịch há chẳng phải làm đẹp cho phong cảnh kinh đô ư? Chiến thắng xong mà lơ là lẫy nỏ, ghi chép về thần Kim Quy chẳng phải là để chê trách An Dương Vương quên lãng mối nguy sao? Trừ hại cho dân thì những chuyện Ngư tinh, Hồ tinh, Mộc tinh đã ghi rõ sự việc. Trọn bề tôi thì các chuyện Bánh chưng, Long nhãn, Bạch trĩ đã chép tỏ tường. Phù Đổng Thiên Vương, Lý Ông Trọng nổi danh đánh giặc giữ nước mà được hiển thần. Dưa hấu, Cây cau được biết vì thêm vật lợi dân. Đầm Dạ trạch, Việt Tỉnh cương, làm điều thiện thì dương làm âm báo, cốt để răn đời. Hà Ô Lôi, Dạ Xoa Vương hiếu dâm, hại thân, mất nước là để khuyên răn. Còn như các chuyện Thánh núi Tản Viên ngăn tai ngừa họa, bà Man Nương cầu mưa ứng nghiệm. Từ Đạo Hạnh phục thù cho cha, Nguyễn Minh Không trị bệnh cho vua, Dương Không Lộ và Nguyễn Giác Hải có phép bắt rồng xuống đất, bắt tắc kè phải rơi, ai cũng khâm phục phép thuật diệu kỳ. Sự việc tuy không bình thường, nhưng truyền thuyết thì gắn liền với di tích, nêu lên há chẳng phải hay sao. Nhưng nói Thần Tản Viên là con trai của Âu Cơ, Đổng Thiên Vương là Long Quân tái thế, Lý Ông Trọng giả vờ đi tả mà chết, trộm nghĩ không phải là như vậy. Truyện xưa cho là Y Doãn do việc bếp núc giỏi mà gặp vua Thang, Bách Lý Hề chăn trâu mà cầu gặp Tần Mục Công. Nếu không nhờ Mạnh Tử ra sức biện minh, thì hai ông này cuối cùng vẫn chịu tiếng nhơ đó sao? Tản Viên là thần hạo khí, Đổng Thiên Vương là tướng trời sai xuống, Lý Ông Trọng là bậc hào kiệt một thời, đâu có như việc ghi trong truyện được. Cho nên ngu tôi dựa vào sách khác, ghi thêm ý mình, sửa lại cho đúng, biện chính những lầm lẫn thuở trước để khỏi bị đời sau chê cười, lại bớt chỗ rườm rà, theo chỗ ngắn gọn cốt để tiện xem. Mong các bậc bác nhã quân tử hãy lượng thứ cho. Năm Quí Sửu, niên hiệu Hồng Đức thứ 24 (1). Ninh Sơn Kiều Phú, tự Hiếu Lễ, Tiến sĩ Khoa Ất Mùi, nguyên Giám sát Ngự sử đạo Kinh Bắc kính chép. ————————— Chú thích 1. Tức năm 1493 đời vua Lê Thánh Tông Lời Hậu Bạt (bạt cuối sách) – Lĩnh Nam chích quái liệt truyện quyển 3 (tục loại) của Đoàn Vĩnh Phúc Các sách xưa như Nam Truyện Ký, Thế Thuyết, Dã Lục, Chí Dị, Tạp Biên… được yêu chuộng cũng bởi vì ghi lại các chuyện quái dị xa gần, xưa nay, để làm vui cho thiên hạ. Nước Đại Việt ta, non sông gấm vóc, thường xưng là nước có văn hiến. Vậy thì sự tích của các anh hùng hào kiệt, các chuyện kỳ bí lạ lùng của sự việc xảy ra, há chẳng có sách truyện ghi chép lại hay sao? Nay xem sách Lĩnh Nam liệt truyện không thấy ghi tên tác giả, không biết do nho sinh thời nào khởi thảo. Bản hiện hành là của ông Trạch Ổ họ Vũ, là người làng Mộ Trạch, một kẻ sĩ thời Hồng Đức vang danh khoa hoạn, bác học hiếu cổ. Sách gồm 2 quyển, tất cả có 22 truyện, xếp theo thứ tự bắt đầu từ truyện Hồng Bàng và chấm dứt ở truyện Dạ Xoa. Đúng là sách hay, đáng được liệt vào hạng nhất nhì trong loại Truyện Ký. Đáng tiếc là vì còn thiếu sót các truyện như Sĩ Nhiếp, Rồng đá, thần Bạch Hạc v.v chưa được biên soạn thêm vào. Ngu sinh xong việc công, rỗi rảnh đem sách ra đọc thấy được cái đẹp của thánh hiền, cái gấm vóc của non sông, chuyện anh hùng, trinh liệt của hai Bà Trưng, sự linh ứng của thần Kiền Hải, cùng với các chuyện khuyên người, dạy đời khác nữa. Vì thế, ngu sinh mới xét lại sách “Triệu Công Sử Ký”, tham khảo “Việt Điện U Linh”, biên soạn bổ sung, bỏ bớt chỗ rườm rà, làm cho ngắn gọn, viết thành quyển mới, cho vào phần gọi là Tục biên, để tiện bề thưởng lãm. Còn việc khảo sát, hiệu chính thì chờ mong ở các bậc tài cao học rộng vậy. Thuốc trường sinh luyện một mạch, dưới đất thì non tiên, đầm sâu, trên trời thì sao phúc, mây lành, há chẳng phải là động tiên còn đó hay sao. Huống chi người là vạn vật chi linh, không tin những chuyện thần bí sao được, như chuyện Bùi Hàng, Biệt Dị thời Tống thì cũng giống như vậy mà thôi. Đừng vì Khổng Tử không dạy mà cười chê. Xưa, họ Hồ bận việc vua mà còn viết nên Dịch Truyện, sắp xếp thành sách, khỏi để lãng phí thời giờ. Ngu tôi học theo như vậy mà soạn tập “Tục Biên” này, viết nên lời Bạt để tóm tắt nội dung. Nho sinh Đoàn Vĩnh Phúc Ngày 20, tháng 8, đầu năm Quang Bảo (1) ở Cục Tú Lâm thuộc Viện Hàm Lâm ————————— Chú thích: 1. Quang Bảo là niên hiệu của Mạc Phúc Nguyên (Nguyễn Hữu Vinh) Truyện họ Hồng Bàng Đế Minh cháu ba đời Viêm Đế Thần Nông sinh ra Đế Nghi, nhân đi tuần về phía Nam đến núi Ngũ Lĩnh mừng gặp và lấy được con gái bà Vụ Tiên rồi trở về, sinh ra Lộc Tục. Lộc Tục mặt mày sáng sủa, thông minh phúc hậu, Đế Minh rất lấy làm lạ, muốn cho nối ngôi mình. Lộc Tục cố từ, xin nhường cho anh là Đế Nghi. Đế Minh liền lập Đế Nghi làm người nối ngôi cai trị đất phương Bắc, phong cho Lộc Tục làm Kinh Dương Vương để cai trị đất phương Nam, lấy hiệu nước là Xích Quỷ. Kinh Dương Vương có tài đi dưới thủy phủ, lấy Long Nữ là con gái Long Vương ở hồ Động Đình, sinh ra Sùng Lãm hiệu là Lạc Long Quân, cho nối ngôi trị nước. Kinh Dương Vương không biết đi đâu mất. Long Quân dạy dân việc cày cấy, cơm ăn áo mặc, đặt ra các cấp quân, thần, tôn, ti, các đạo cha con, vợ chồng. Đôi khi trở về thủy phủ mà trăm họ vẫn yên vui vô sự. Hễ dân có việc lại lớn tiếng gọi Long Quân rằng: “Bố ơi! sao không lại cứu chúng con” (Người Việt xưng Phụ là Cha hoặc là Bố (1), xưng Quân Vương là Vua (2)) thì Long Quân tới ngay. Sự linh hiển của Long Quân, người đời không ai lường nổi. Đế Nghi truyền ngôi cho con là Đế Lai. Vì nhớ đến chuyện ông tổ Đế Minh du hành phương Nam gặp tiên nữ, nên Đế Lai nhân khi phương Bắc thiên hạ thái bình bèn sai quần thần là bọn Xi Vưu thay mình trông coi việc nước, rồi đi tuần xuống nước phía nam đến nước Xích Quỷ. Khi đó, Long Quân đã về thủy phủ, trong nước không có vua. Đế Lai bèn để ái thiếp là Âu Cơ và các thị tỳ ở lại nơi hành cung rồi đi chu du thiên hạ, ngắm xem các nơi danh lam thắng cảnh. Thấy hoa kỳ cỏ lạ, trân cầm dị thú, voi, tê, đồi mồi, ngọc ngà, vàng bạc, quế, tiêu, hương, trầm, đàn cùng các sơn hào hải vật không thiếu thứ gì, khí hậu bốn mùa không lạnh không nóng, Đế Lai vui thích mà quên trở về. Dân phương Nam khốn khổ vì bị quấy nhiễu, không được yên sống như xưa, nên ngày đêm mong mỏi Long Quân trở về. Thế nên cùng nhau gọi lớn: “Bố ơi, bố ở đâu mau về cứu chúng con”. Long Quân đột nhiên trở về, thấy Âu Cơ sống một mình, có dung mạo đẹp đẽ lạ thường, trong lòng vui mừng, bèn hóa thành một trang thiếu niên khôi ngô tuấn tú, tả hữu kẻ hầu người hạ đông đúc, vừa đi vừa ca hát đánh trống trước hành cung Âu Cơ ở. Âu Cơ thấy vậy, sinh lòng ưa thích. Long Quân đón Ấu Cơ ở Long Trang Nham. Đế Lai trở về, không thấy Âu Cơ, sai quần thần đi tìm khắp thiên hạ. Long Quân có phép thần thông, biến hóa thành trăm hình vạn trạng, yêu tinh, quỷ sứ, rồng, rắn, hổ, voi… làm cho bọn đi tìm Âu Cơ đều sợ hãi không dám sục sạo, Đế Lai bèn phải trở về phương Bắc. Truyền ngôi đến đời Du Võng, đánh nhau với Hoàng Đế ở đất Bản Tuyền, đánh không nổi mà chết (3). Đời Thần Nông tới đây thì hết. Long Quân lấy Âu Cơ, trong năm sinh ra một bọc trứng, cho là điềm bất thường, vứt ra ngoài đồng; qua bảy ngày, bọc vỡ ra một trăm quả trứng, mỗi trứng nở ra một con trai, mới đem về nhà nuôi. Không cần phải bú mớm, các con tự lớn lên, người nào cũng trí dũng song toàn, ai ai cũng nể phục, đều cho là những kẻ phi thường. Long Quân ở lâu dưới thủy phủ, vợ con sống một mình, nay muốn về đất Bắc. Âu Cơ về tới biên giới, Hoàng Đế nghe nói rất sợ hãi cho binh ra giữ cửa ải, mẹ con Âu Cơ không thể về Bắc được, nên ngày đêm lớn tiếng gọi Long Quân rằng: “Bố ở nơi nào mà để mẹ con tôi buồn khổ thế này”. Long Quân bỗng trở về, gặp nhau ở đất Tương Dã. Âu Cơ khóc mà nói rằng: “Thiếp vốn là người phương Bắc, nay ở với vua, sinh được trăm trai. Xin vua đừng bỏ thiếp mà đi, không cùng thiếp nuôi con, để vợ con phải làm người không chồng, không cha, thật là đáng thương”. Long Quân nói: “Ta là nòi rồng, đứng đầu thủy tộc, nàng là giống tiên, sống ở trên đất, tuy khí âm dương hợp lại mà sinh ra con, nhưng giòng giống khác nhau, thủy hỏa tương khắc, khó ở lâu với nhau được, nay phải chia tay. Ta đem năm mươi trai về thủy phủ chia trị các xứ, nàng đưa năm mươi trai về ở trên đất, chia nước mà trị. Lên núi, xuống bể, hữu sự báo cho nhau biết, đừng quên”. Trăm con vâng lời, sau đó từ biệt mà đi. Âu Cơ và năm mươi con về ở đất Phong Hiệp (Nay là huyện Bạch Hạc), cùng nhau tôn người con cả lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, lấy tên nước là Văn Lang, đông giáp Nam Hải, tây tới Ba Thục, bắc tới Động Đình hồ, nam tới nước Hồ Tôn (nay là Chiêm Thành). Chia nước ra làm 15 bộ là Giao Chỉ, Chu Diên, Ninh Sơn, Phúc Lộc, Việt Thường, Ninh Hải (nay là Nam Ninh), Dương Tuyền, Quế Dương, Vũ Ninh, Y Hoan, Cửu Chân, Nhật Nam, Chân Định, Quế Lâm và Tượng Quận. Sai các em cùng nhau chia trị các nơi đó. Lại đặt các em làm tướng văn, tướng võ, văn là Lạc Hầu, võ là Lạc Tướng. Con trai vua gọi là Quan Lang, con gái vua gọi là Mỵ Nương, các quan gọi là Bố Chính, nô bộc gọi là Trâu, con ở gái gọi là Tinh. Bề tôi của vua gọi là Côi, đời đời cha truyền con nối gọi là Phụ Đạo, đều xưng là Hùng Vương, không hề thay đổi. Lúc ấy, dân sống ở ven rừng, xuống nước thường bị giống giao long làm hại, bèn nói với vua. Vua nói rằng: “Giống sơn man và giống thủy tộc khác nhau, nên xâm phạm lẫn nhau”. Bèn khiến người đời lấy mực xăm vào mình theo hình loài thủy tộc. Từ đó, dân không bị họa giao long làm hại nữa. Tục xăm mình của dân Bách Việt cũng bắt đầu từ đó. Lúc đất nước còn sơ khai, dân không đủ đồ dùng, phải lấy vỏ cây làm áo, dệt cỏ tranh làm chiếu, lấy bả cơm làm rượu; lấy cây cau, cây cọ làm đồ ăn; lấy cầm thú, cá, tôm làm mắm; lấy rễ gừng làm muối, cày bằng dao, trồng bằng lửa. Đất trồng được nhiều gạo nếp, dùng ống tre để thổi cơm ăn. Bắc gỗ làm nhà để tránh hổ sói. Cắt tóc ngắn để dễ vào rừng. Đẻ con ra lấy lá chuối lót cho nằm, có người chết thì giã cối làm lệnh để người lân cận nghe tiếng đến cứu. Việc cưới hỏi giữa nam nữ trước lấy gói muối làm lễ vật đi hỏi, sau đó mới giết trâu dê làm đồ lễ, lấy cơm nếp để vào phòng cùng ăn, rồi mới thành thân. Đây là lúc chưa có trầu cau. Trăm người con trai chính là tổ tiên của người Bách Việt vậy. ————————— Chú thích: 1. Cha: chữ Nôm viết là 吒, Bố: chữ Nôm viết là 布 2. Vua: chữ Nôm viết là (Trên 王 dưới 布) 3. Lĩnh Nam Chích Quái, bản VHV 1473 có thêm đoạn sau: Lúc đó Xi Vưu ở phương Bắclàm loạn. Vua nước Hữu Hùng là Hiên Viên Hoàng Đế đem chư hầu tới đánh nhưng không được. Xi Vưu mình thú mặt người, sức khỏe dũng mãnh. Có người dạy Hoàng Đế dùng trống da thú làm lệnh, Xi Vưu sợ hãi chạy về đất Trác Lộc. Hoàng Đế chiếm được nước, lên làm vua. Đế Lai nghe biết bèn trở về phương Bắc đánh với Hoàng Đế 3 lần, đều thua, bị giáng phong ở đất Lạc Ấp. Đời Thần Nông tới đây thì hết. Nguyễn Hữu Vinh dich Bình – TĐH • Huyền thoại Hồng Bàng, cho thấy một cuộc đấu tranh kịch liệt , và kết quả cuối cùng là trộn lẫn, giữa hai nền văn hóa phụ hệ và mẫu hệ. Phụ hệ là văn hóa bắc phương, với Thần Nông, Đế Minh, Lộc Tục (Kinh Dương Vương). Mẫu hệ là văn hóa phương nam với Vụ Tiên, Long Nữ, Âu Cơ… Lĩnh Nam theo truyền thuyết là vùng Nam sông Dương Tử–Quảng Đông, Quảng Tây, Hồ Nam, Bắc Việt ngày nay–nơi người Hán gọi các dân tộc ở đó là Việt, tức là “vượt qua” (sông Dương Tử). Vào thời cổ đại, văn minh Trung Quốc phát triển ở châu thồ sông Hoàng Hà ở bắc Trung quốc, xuống nam đến mạn bắc sông Dương Tử. Qua sông, miền nam sông Dương Tử — vùng Lĩnh Nam — là một nền là văn minh khác, của các dân tộc Việt. Phụ hệ xem ra thắng thế trên văn từ: Dòng bố là dòng chính của “cây gia phả” của “người”. Và sinh ra 100 con trai, chẳng có thị mẹt nào cả. Dòng mẹ gồm “tiên” (Vụ Tiên, Âu Cơ), “rồng” (Long Nữ) và “nước” (Động Đình Hồ). Nhưng phụ hệ chỉ thắng về mặt nổi. Về mặt chìm thì, mẫu hệ xem ra thắng thế: 1. Âu Cơ có hai chồng, là hai anh em họ Đế Lai và Sùng Lãm, gần giống như tục nối dây hiện nay vẫn còn tồn tại với các một số dân tộc thiểu số Việt Nam vẫn theo chế độ mẫu hệ. 2. Sùng Lãm Lạc Long Quân xem ra có máu miền nam (mẹ và nước) nhiều hơn văn hóa bắc phương: Ông nội Đế Minh lấy vợ phương nam (con gái Vụ Tiên), sinh ra Lộc Tục Kinh Dương Vương. Lộc Tục lại lấy Long Nữ của Động Đình Hồ ở phía nam, sinh ra Sùng Lãm Lạc Long Quân. 3. Rốt cuộc, 50 con theo Lạc Long Quân về biển, biến mất trong lịch sử. 50 người con thành lập lịch sử Việt sau này là 50 đứa theo mẹ. 4. Người Việt nói “Ta là con cháu Rồng Tiên.” Nhưng bố rồng này lại là rồng từ họ ngoại của bố, rồng từ Long Nữ của Động Đình Hồ. Cho nên cả hai cha mẹ (rồng tiên) đều là lấy họ ngoại là chính. Đây xem ra vẫn là văn hóa Việt Nam ngày nay. Ra đường chồng chúa vợ tôi, về nhà vợ nắm hết thôi cũng huề. • Long nữ, Lạc Long Quân, Động Đình Hồ: Văn hóa “nước” (từ các dòng bên ngoại) quan trọng cho người Việt đến nỗi từ “nước”, quan trọng nhất cho sự sống con người, cũng dùng cho quốc gia, quê hương, tổ quốc: Nước Việt, làng nước, non nước… • Chúng ta nói “Mẹ Việt Nam”. Chẳng nghe ai nói Bố Việt Nam cả. • Vật biểu Rồng Tiên của văn hóa Việt có sự quân bình nam nữ, âm dương, khác với nhiều nền văn hóa khác, chỉ có một. Giáo sư Kim Định viết trong Kinh Hùng Khải Triết: Nếu có một ai chịu đưa mắt nhìn rộng ra năm châu, rồi nhìn sâu vào thời cổ đại sẽ thấy không một nước nào trên thế giới có vật biểu đi đôi như thế mà tất cả chỉ là một: Ấn Ðộ là con voi. Nước Pháp là con gà. Nước Ðức là con chim ưng. Nước Anh là con sư tử. Nước Tàu trước hổ sau rồng. Riêng nước Việt lại nhận cả đôi, cả tiên lẫn rồng. Nam nữ, âm dương cân xứng đương nhiên là quân bằng, hài hòa, và hợp tự nhiên hơn các nền văn hóa chỉ có một—phải bỏ hết tất cả, để giữ một còn lại. • Bọc trứng vất ở ngoài đồng 7 ngày mới nở ra trăm con: Đây là biểu tượng của linh khí của trời đất trong 7 ngày. Tức là người Việt có cả ba yếu tố trong mình: Người, trời và đất. • Cánh đồng là biểu tượng của đất, của ruộng đồng—Mối liên hệ chặt chẽ giữa con người và mảnh đất quê hương. Cánh đồng của nhà Nông còn là biểu tượng của liên hệ đến tổ Thần Nông, người sáng tạo ra cách trồng trọt. • Một trăm con một bọc, nhấn mạnh ý nghĩa “đồng bào”, và còn nhấn mạnh tính “bình đẳng.” Mọi người ngang nhau vì trong 100 người chẳng có ai là anh ai là em cả. • Xem ra các con số dương, biều hiệu cho sự phát triển, được cố tình sử dụng: Đế Minh là cháu 3 đời của Thần Nông, đến Lạc Long Quân là cháu 5 đời của Thần Nông, và bọc trứng được nằm ngoài đồng (của nhà Nông) 7 ngày. • Số một trăm là ý chỉ số nhiều, số đông: Trăm họ, sống lâu trăm tuổi, trăm năm hạnh phúc, trăm phương nghìn kế, trăm hoa đua nở… • Giáo sư Kim Định nói về hai chữ “Văn Lang”: 1. Chữ Văn theo nghĩa cổ là vẽ mình quen gọi là “Văn Thân”. Rồi từ đó có nghĩa là văn vẻ: thân mình được vẽ là thân có văn vẻ. Sau cùng đạt tới nghĩa bao quát chỉ tất cả những gì có văn vẻ. Văn Lang là nước có văn vẻ ngược với nước bị cai trị theo lối thú vật bằng gậy, bằng chuồng thì gọi là võ trị. Chỉ có văn trị mới làm nảy sinh được các mối nhân luân, những mối liên hệ người với người được thấm nhuần bằng lễ, nghĩa, liêm, sỉ, tức những mối tình cao cả của con người. 2. Về chữ Lang xét như bởi chữ làng thì có nghĩa là làng nước. Văn Lang là nước có văn vẻ; còn xét theo âm chữ Nho thì Lang có nghĩa là người, ta quen gọi bằng lang quân. • Phần kể các tục lệ của dân nước Văn Lang, có vẻ như là tục lệ của các dân tộc thiểu số vùng cao ngày nay, vẫn còn theo mẫu hệ: Lúc đất nước còn sơ khai, dân không đủ đồ dùng, phải lấy vỏ cây làm áo, dệt cỏ tranh làm chiếu, lấy bả cơm làm rượu; lấy cây cau, cây cọ làm đồ ăn; lấy cầm thú, cá, tôm làm mắm; lấy rễ gừng làm muối, cày bằng dao, trồng bằng lửa. Đất trồng được nhiều gạo nếp, dùng ống tre để thổi cơm ăn. Bắc gỗ làm nhà để tránh hổ sói. Cắt tóc ngắn để dễ vào rừng. Đẻ con ra lấy lá chuối lót cho nằm, có người chết thì giã cối làm lệnh để người lân cận nghe tiếng đến cứu. Việc cưới hỏi giữa nam nữ trước lấy gói muối làm lễ vật đi hỏi, sau đó mới giết trâu dê làm đồ lễ, lấy cơm nếp để vào phòng cùng ăn, rồi mới thành thân. Chỉ có dân vùng cao mới lấy vỏ cây làm áo, cỏ tranh làm chiếu, rễ gừng làm muối và quý muối như vàng, đốt rừng để trồng trọt–trồng bằng lửa, ăn nếp thay gạo, thổi cơm trong ống tre, làm nhà tránh hổ sói nghe như nhà sàn, cắt tóc ngắn (khi xưa người Kinh để tóc dài), đẻ con lót lên lá chuối, dùng muối làm lễ vật đính hôn, và giết trâu hành lễ–người vùng xuôi có lẽ là giết bò hơn là trâu… • Tóm lại, truyện họ Hồng Bàng là trộn lẫn và đấu tranh giữa hai nền văn hóa nam (mẫu hệ) và bắc (phụ hệ). Dù là các điểm lớn như đàn ông làm vua là văn hóa bắc (phụ hệ), nhưng đa số các chi tiết khác là của văn hóa miền nam (mẫu hệ) với khá nhiều chi tiết phong tục vẫn còn tồn tại trong các dân tộc thiểu số mẫu hệ miền cao ngày nay. Trần Đình Hoành bình Truyện Bánh Chưng Bánh Dày Vua Hùng sau khi phá xong giặc Ân rồi, trong nước thái bình, nên lo việc truyền ngôi cho con, mới hội họp hai mươi hai vị quan lang công tử lại mà bảo rằng: “Đứa nào làm vừa lòng ta, cuối năm đem trân cam mỹ vị đến dâng cúng Tiên Vương cho tròn đạo hiếu thì ta sẽ truyền ngôi cho”. Các công tử đua nhau đi tìm các vị trân kỳ, hoặc săn bắn, chài lưới, hoặc đổi chác, đều là của ngon vật lạ, nhiều không biết bao nhiêu mà kể. Duy có công tử thứ mười tám tên là Lang Liêu, mẹ hàn vi, đã bị bệnh qua đời rồi, trong nhà lại ít người nên khó bề toan tính, ngày đêm lo lắng, ăn ngủ không yên. Chợt nằm mơ thấy thần nhân bảo rằng: “Trong trời đất không có vật gì quý bằng gạo, vì gạo là vật để nuôi dân khỏe mạnh, ăn mãi không chán, không có vật gì hơn được. Nếu giã gạo nếp gói thành hình tròn để tượng trưng cho Trời, hoặc lấy lá gói thành hình vuông để tượng trưng cho Đất, ở trong làm nhân ngon, bắt chước hình trạng trời đất bao hàm vạn vật, ngụ ý công ơn dưỡng dục của cha mẹ, như thế thì lòng cha sẽ vui, nhà ngươi chắc được ngôi quý”. Lang Liêu giật mình tỉnh dậy, vui mừng nghĩ rằng “Thần minh giúp ta, ta nên bắt chước theo mà làm”. Lang Liêu bèn lựa nếp hạt trắng tinh, không sứt mẻ, đem vo cho sạch, rồi lấy lá xanh gói thành hình vuông, bỏ nhân ngon vào giữa, đem nấu chín tượng trưng cho Đất, gọi là bánh chưng. Lại lấy nếp nấu xôi đem quết cho nhuyễn, nhào thành hình tròn để tượng trưng cho Trời, gọi là bánh dày. Đúng kỳ hẹn, Vua hội họp các con lại trưng bày phẩm vật. Các con đem dâng không thiếu thứ gì, duy chỉ có Lang Liêu đem bánh hình tròn, bánh hình vuông đến dâng. Hùng Vương lấy làm lạ hỏi Lang Liêu, Lang Liêu trình bày như lời thần nhân đã bảo. Vua nếm thử thì thấy vị ngon vừa miệng ăn không chán, phẩm vật của các công tử khác không làm sao hơn được. Vua khen ngợi hồi lâu, rồi cho Lang Liêu được giải nhất. Vua dùng thứ bánh ấy để cung phụng cha mẹ trong các dịp lễ tết cuối năm. Thiên hạ mọi người đều bắt chước theo. Tục này còn truyền cho đến bây giờ, lấy tên của Lang Liêu, gọi là Tết Liệu. Hùng Vương truyền ngôi cho Lang Liêu; hai mươi mốt anh em kia đều chia nhau giữ các phiên trấn, lập làm bộ đảng, trấn thủ những nơi núi non hiểm trở. Về sau, anh em tranh giành lẫn nhau, mỗi người dựng “mộc sách” (hàng rào cây bằng gỗ) để che kín, phòng vệ. Vì thế, mới gọi là Sách, hay là Trại, là Trang, là Phường. Sách, hay Trại, Trang, Phưòng bắt đầu có từ đây vậy. (Nguyễn Hữu Vinh dịch) Bình • Vua Hùng phá giặc Ân là Hùng Vương thứ 3 trong truyện Phù Đổng Thiên Vương. 3 là số thiếu dương, dương đang bắt đầu lên mạnh. Lang Liêu là quan lang thứ 18. 18 là 2 lần 9, 2 lần con số thái dương, có nghĩa là cực lớn, cực thịnh. • Cha trời mẹ đất. Trời tròn đất vuông. Truyện nói đến công ơn cha mẹ. • Nhưng nghĩa sâu xa hơn nữa là “Cha mẹ của vạn vật”. Đó là âm dương. Trời là dương, đất là âm. Âm dương tương sinh tương hành tạo ra toàn thể vũ trụ. Âm dương không phải là hai vật gì hay hai thứ gì, mà chỉ là biểu tượng của “cặp đối nghịch”–sáng tối, đêm ngày, đàn ông đàn bà, lửa nước, nóng lạnh…. Vũ trụ biến hóa thay đổi do âm dương ức chế lẫn nhau, giúp đỡ nhau, ảnh hưởng nhau, nương tựa nhau, và thúc đẩy nhau. Triết lý âm dương chi phối toàn diện văn học, nghệ thuật, y học, triết lý, chính trị, tôn giáo thời cổ đại, và vẫn rất mạnh trong nhiều lãnh vực ngày nay, như y học cổ truyền. Âm dương là nền tảng của toàn thể vũ trụ, toàn thể đời sống cá nhân, toàn thể đời sống gia đình, toàn thể đời sống quốc gia. Lang Liêu nói đến “Âm Dương chi vị đạo”—âm dương chính là đạo. Chính vì thế mà Lang Liêu được nối ngôi. • Trời (bánh dầy) không có nhân, đất (bánh chưng) có nhân. Nghĩa là từ trong lòng đất sản sinh ra mọi loài cỏ cây, muông thú, con người… Mẹ mang con trong lòng mẹ, con từ lòng mẹ mà ra. • Đất là “địa”. Người Việt ta có từ “tâm địa” để chỉ tâm con người—người có tâm địa đen tối hay tâm địa tốt. Gọi “tâm” là “tâm địa” vì tâm là mẹ của tất cả, tất cả từ tâm mà ra. Kinh Pháp Cú mở đầu: “Tâm dẫn đầu các pháp; tâm làm chủ, tâm tạo.” Trong phẩm Tùng Địa Dũng Xuất của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, nhiều Bồ Tát vàng nhảy từ dưới lòng đất lên nghe Đức Phật giảng kinh, đó cũng là ý nói Bồ Tát là từ tâm ta mà ra. • Bánh dầy thì không gói lá, nhưng bánh chưng thì gói lá chuối. Cây chuối từ lòng đất mà ra, lá chuối lại bọc bánh chưng—mẹ đất. Nghĩa là mẹ sinh con, con lại ấp ủ mẹ. Tình mẫu tử thiết tha, mặn nồng. Đây rất phù hợp với văn hóa mẹ của người Việt. Mẹ Việt Nam. • Mặc dầu là truyện nói về bánh dầy bánh chưng, nhưng các phiên bản truyện đều ghi tên truyện là “Truyện Bánh Chưng”, chỉ chú trọng đến mẹ. • Điểm quan trọng nhất trong truyện, và ít được đề cập đến nhất, là hệ thống chính trị dựa trên khả năng (meritocracy). Thường thì mọi nơi trong các chế độ phụ hệ, kể cả Việt Nam thời quân chủ, người con trai trưởng đương nhiên kế vị vua cha. Nếu vua phế trưởng lập thứ là quốc gia có thể sinh biến loạn. Nhưng trong truyện này lại lấy thi cử để ấn định việc truyền ngôi. Và người con thắng giải là người con thứ 18, có đến 17 ông anh trên đầu, lại là con nhà nghèo. Dĩ nhiên, con vua thì có lẽ ai cũng giàu gần như nhau mới hợp lý, nhưng nói đến nhà nghèo là để nhấn mạnh thêm lý thuyết “tuyển chọn do tài năng.” Trong thời quân chủ của nghìn năm trước, đây là một khái niệm cực kỳ tiến bộ trong tư tưởng chính trị. Thực sự thì trong nền quân chủ nước ta, nhân tài được tuyển chọn do thi cử, và tất cả mọi người trong nước đều được đi thi. Và chức vị của ai người nấy giữ, không thể truyền lại cho con cháu. Thời phong kiến và quân chủ ở Tây phương, chức vị quý tộc là chức vị cha truyền con nối, cha là quý tộc thì đương nhiên con thừa kế chức vị quý tộc của cha. Cho nên giới quí tộc là một giới riêng rất rõ ràng. Giới tá điền, chỉ làm công cho quý tộc từ đời cha đến đời con đời cháu, và chẳng có đất đai hay quyền hành gì cả. Cho nên ngay vào thời phong kiến và quân chủ, xã hội Việt Nam không thực sự có giai cấp kiểu tây phương, và dân chủ hơn rất nhiều. Các “giai cấp” Việt Nam, ngay cả giai cấp quan quyền, mở rộng cho mọi người tài, nhờ hệ thống tuyển người qua năng lực. Ý thức về dân chủ, bình đẳng cơ hội để thăng tiến, đã có trong nếp nghĩ của người Việt từ ngàn xưa. (Trần Đình Hoành bình) nguồn: http://trandinhhoanh.wordpress.com
-
PHONG THỦY SUNTEC CITY Ở SINGAPORE Suntec City bao gồm một tổ hợp văn phòng thủ tướng, một trung tâm hội nghị và triển lãm quốc tế nổi tiếng, và một trong những trung tâm mua sắm lớn nhất của Singapore trong một sự phát triển tích hợp đầy đủ. Xem mắt của một con chim của Suntec City tiết lộ một "tác phẩm điêu khắc" trong hình dạng của một bàn tay trái. Các trung tâm hội nghị 6 tầng hình cổ tay trong khi văn phòng khối 18 tầng bên cạnh nó đại diện cho ngón tay cái. Bốn tòa tháp 45 tầng còn lại tượng trưng cho các ngón tay. Các trung tâm mua sắm liên kết tất cả các bên trên thành một đơn vị hoàn chỉnh. The Fountain of Wealth, lớn nhất trên thế giới theo các Guinness World Book of Records, hình chiếc nhẫn vàng được đặt ở trung tâm của lòng bàn tay.Vòng tròn đồng hoàn hảo của nó tượng trưng cho vô tận hợp tác và đoàn kết của các cổ đông của ông trùm. Các đài phun nước, theo phong thủy Trung Quốc , được coi là một nguồn tạo ra của cải và giữ cho các doanh nghiệp. Suntec City Mall là một điểm đến khép kín, một cửa mua sắm, thời trang, ăn uống, vui chơi giải trí. Du khách có thể thưởng thức trong một khu mua sắm và ăn uống trải nghiệm một cửa với hơn 300 cửa hàng bán lẻ, 50 xe đẩy và 100 cơ sở thực phẩm và nước giải khát, bao gồm đại siêu thị lớn nhất của Singapore, Carrefour. Hãy tận hưởng một bầu không khí ăn uống ngoạn mục giữa tầng nước của đài phun nước lớn nhất thế giới, The Fountain of Wealth như tiện giải trí hàng đêm với một đa phương tiện extravaganza mê. Với kinh nghiệm hấp dẫn rất nhiều, Suntec City Mall cung cấp một trải nghiệm cuộc sống thú vị cho người cư ngụ và du khách, và là nơi hoàn hảo cho một mua sắm, ăn uống và thư giãn. Vị trí Suntec City trong vòng khép kín và tích hợp Marina Bay Precinct tiếp tục cung cấp truy cập trực tiếp đến hơn 5.200 phòng khách sạn, 1.000 cửa hàng bán lẻ, 500 nhà hàng và trung tâm mới của khu vực biểu diễn nghệ thuật, Esplanade - Nhà hát trên Vịnh. The Marina Bay Precinct mang đến tất cả các cơ sở này với nhau trong một bán kính nửa cây số, kết nối với nhau thông qua đường hầm không khí lạnh và đường đi bộ bao phủ. Suntec City tăng một bãi đậu xe ngầm cung cấp bãi đậu xe rộng rãi và rộng rãi cho hơn 3.000 xe. Một hệ thống giám sát Bãi đỗ xe và các thông tin hỗ trợ lái xe trong việc tìm kiếm ra rất nhiều trống một cách nhanh chóng, với dịch vụ miễn phí và dịch vụ đỗ lỗi dịch vụ đậu xe. Tất cả mọi thứ bạn có thể cần hoặc mong muốn là ở đây hoặc trong khoảng cách đi bộ.Hiện đại và được trang bị tốt, Suntec City cung cấp một bộ các tiện nghi và dịch vụ cho khách thuê văn phòng trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh và giảm chi phí. Hãy tận hưởng những trải nghiệm ở Suntec City thông qua công việc, ăn uống và vui chơi! Thiên Đồng sưu tầm
-
Thời buổi này mà còn cấm với cản! Làm bừa luôn sợ gì, mình phải sống cho mình chứ! Dạt mấy đám phụ huynh ra khỏi con đường tình yêu hạnh phúc của mình đi, họ chả giúp gì bạn được mà còn đem lại bất hạnh. Đừng để họ nô lệ bạn luôn cả trong việc tìm hạnh phúc. Thiên Đồng
-
người giúp mình trong việc đi xuất ngoại là người trong độ tuổi khoảng 45-49 tuổi! TD
-
@mutin Kính chào anh Thiên Đồng! Em thành tâm nhờ anh cho em xin một quẻ ạ. Em là nữ, tuổi Kỷ Tỵ 1989, hỏi vào lúc 14h25 phút ngày 04/9/2015 Nhờ anh xem giúp em: 1. Khoảng thời gian nào em mới có người yêu để đi đến hôn nhân ạ, gia đình hối thúc, bạn bè trêu chọc em buồn quá anh ơi. Nhanh thì 2016, nhanh thì tháng Giêng 2016, chậm thì tháng 9 âm 2016 sẽ có tinh hỷ. 2. Tình duyên thực sự của em là do mai mối hay do gặp ngẫu nhiên ạ. Do ngẫu nhiên nhưng cũng do một phần có sự hổ trợ của quan hệ gia đình hay họ hàng thân thích, nhưng cũng rất bất ngờ. 3. Em bị viêm xoang đờm chảy xuống cổ họng nhiều, em đã khám và uống nhiều loại thuốc để chữa bệnh nhưng chưa khỏi. Em nên kiểm tra điều gì về phong thủy trong nhà vậy anh. Xem lại phòng ngủ, đường cống thoát, toa lét nhà xem có thông không? vệ sinh dọn dẹp. Bài thuốc hổ trợ trị viêm xoang Chuẩn bị: 01 chai dấm táo, 1 chai mật ông. Thực hiện các công đoạn sau: 1. Xông mũi: đổ một muổng canh dấm táo vào ly (cốc), đổ nước sôi vô. Hít hơi nóng. Nước mũi chảy tới đâu hỷ ra khăn tới đó, khô mũi thì thôi. 2. Súc họng: 01 muổng dấm táo, 02 muỗng mật ong, hòa trộn, uống vào súc khạc nhổ ra. 3. uống: 1/2 muỗng dấm táo 01 muỗng mật ong, hòa vào, nuốt uống. Làm 2 hoặc 3 lần 01 tuần. Chúc khỏe Thiên Đồng @Sytruong8x Xin chào anh Thiên Đồng! Anh có thể coi giúp em 1 quẻ về tương lai được k ạ Em nữ tuổi Đinh Mão, hỏi vào lúc 12:25 ngày 6/9/2015 Câu hỏi 1: vợ chồng em có ý định sang nước ngoài học tập và công tác liệu có đi được không? Được, thuận lợi, có người có khả năng giúp đỡ suông sẻ, cỡ tuổi khoảng 45-49. Câu hỏi 2: nếu đi được, thì có định cư được k? Và công việc, học tập có tốt k? Chuyện khó khăn dài, phải kiên trì, không vội. Còn học tập thì tốt, đậu tốt. Vc em cảm ơn anh nhiều. Chúc thành công Thiên Đồng @tamly Chào anh Thiên Đồng, em là Nam, tuổi dần. Lúc trước tại mục lạc việt độn toán em có nhờ anh tư vấn thấy kết quả rất chuẩn, em thấy rất khâm phục, anh xem khá chính xác. Hôm nay mạo muội làm phiền anh xem giúp em tí ạ. Giờ hỏi: 14h11” chiều, ngày 06/9/2015 dương lịch. Nhờ anh xem giúp em hai Quẻ ạ! 1. Năm nay vợ chồng em tích lũy ít tiền dự định mua chiếc xe máy đi làm và do thường xuyên về quê...không biết từ đây đến cuối năm em có mua được không anh, hiện tại tiền để giành của hai vợ chồng vẫn chưa đủ! Nếu được khoảng tháng mấy em sẽ mua xe ạ? Tiền tích lũy để sang năm mua đi. Khoảng trong tháng 2 âm 2016 là có thể mua được. Mua sớm coi chừng lỗ vốn! 2. Số em có ly hương ko ạ, tại thấy ở quê làm ăn khó khăn quá, sợ không đủ sống? Nên xa quê một thời gian, nhưng cũng kiểu chạy đi đi về về thì sẽ ổn, có cơ hội, còn đi xa hơn bất lợi. 3. Sang năm công việc của em có gì thây đổi lớn không a? Sang năm cũng rủng rỉnh "xièng". Có điều tốn hao vào vài chuyện vô duyên. Cảm ơn anh nhiều nha, làm phiền anh rảnh xem giúp em với. Mong tin anh nhiều. Chúc thành đạt. Thiên Đồng @Chuot84 Hòi lúc 15:00 chiều ngày 06/9/2015. - Cháu chào chú ạ, cháu sinh năm Canh Ngọ nhằm ngày âm lịch 17/11/1990, nhờ chú tư vấn xem giúp hộ cháu với ạ. 1. Năm nay cháu 26 tuổi, nhưng công việc vẫn chưa vào ổn định, khoảng bao lâu thì công việc mới ổn định ạ. Tháng 7 âm năm nay có loe lóe một cơ hợi nhưng vẫn chưa giải quyết đc gì. Đến tháng 2 âm năm 2016 thì sẽ tỏ rõ hơn. 2. Cháu nên kinh doanh vào lĩnh vực gì thì tốt hơn ạ? Cháu định mở của hàng tạp hóa ở khu đất bố mẹ mới mua không biết ổn ko ạ? Cứ mở sẽ có đồng ra đồng vào. 3. Chồng cháu sau này là người như thế nào ạ? Cháu vẫn chưa thấy duyên hôn nhân nào đến với mình hết :( Nói dối! đang chờ lựa thôi! chín muồi ròi thì vồ liền hà. nhanh thì giữa năm 2016, chậm thì giữa 2017 cũng lên xe bông. Chồng người dáng cao, gân guốc, tính ít nói, khó tính nguyên tắc. Chúc thuận lợi. Thiên Đồng
-
whisper Chào anh Thiên Đồng, em nhờ anh cho em xin 1 quẻ với ạ. Hiện tại, e đang làm gv, bm em đang làm việc, có trình lên các lãnh đạo bổ nhiệm thêm 1 vị trí phó cho bm. Và các lãnh đạo đã đồng ý điều này. Kính nhờ anh xem giúp liệu lần này em có được bổ nhiệm lên chức phó này không ạ? Cảm ơn anh nhiều. Vẫn chưa được. Thiên Đồng