Thiên Đồng

Hội viên
  • Số nội dung

    6.278
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    75

Everything posted by Thiên Đồng

  1. Những bản kinh ngắn dịch từ Hán Tạng Kinh Phật Thuyết Quán Di Lặc Bồ Tát Hạ Sanh Thích Nữ Như Phúc Nguồn: Thích Nữ Như Phúc Như vầy tôi nghe: Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-Cô-Độc, rừng Kỳ-Đà, nước Xá-Vệ, cùng 1.500 đại chúng Tỳ-kheo. Lúc bấy giờ tôn giả A-nan sửa y về vai phải, gối phải quỳ sát đất, bạch đức Thế Tôn: - Đức Như Lai quán sát thật sâu xa, uyên áo, không việc gì mà Ngài không soi xét, cả ba đời quá khứ, tương lai hay hiện tại Ngài đều biết rõ. Danh hiệu, tên họ của chư Phật cùng chúng Bồ-tát, Thanh văn từ thời quá khứ theo tùy tùng nhiều hay ít Ngài đều biết rõ. Dầu là một kiếp, trăm kiếp hoặc vô số kiếp Ngài đều quán sát và biết rõ như vậy. Ngài phân biệt rõ ràng tên họ của từng vua, quan, nhân dân, như cõi nước hiện tại này có bao nhiêu người Ngài đều biết rõ. Kính bạch đức Như Lai Chí chơn Đẳng chánh giác, chúng con muốn nghe sự giáo hóa, xuất hiện của Phật Di Lặc nơi thời tương lai lâu xa cùng chúng đệ tử theo Phật về cõi nước an vui sung mãn trải qua thời gian bao lâu? Đức Phật bảo A-nan: - Thầy hãy trở về chỗ ngồi, lắng nghe Ta nói và khéo suy nghĩ, ghi nhớ về sự xuất hiện của Phật Di Lặc và cõi nước giàu có, an vui cùng chúng đệ tử nhiều hay ít . Tôn giả A-nan vâng lời Phật dạy, trở lại chỗ ngồi. Đức Phật bảo A-nan: - Thời tương lai lâu xa, nơi cõi nước này sẽ có thành quách tên Sí-đầu, Đông Tây 12 do-tuần, Nam Bắc 7 do-tuần, đất đai phì nhiêu, nhân dân hùng cường giàu có và nhiều đường sá. Trong thành có Long vương tên Thủy Quang, ban đêm tuôn những chất thơm thấm nhuần, ban ngày thì làm ôn hòa trong mát. Trong thành Sí-đầu có quỷ La-sát tên Diệp Hoa, hành động thuận với chánh pháp, không trái chánh giáo. Sau khi mọi người ngủ say thì vị này đi trừ bỏ những vật nhơ uế bất tịnh và dùng nước thơm rưới trên đất, cực kỳ sạch sẽ thơm tho. A-nan nên biết! Đất ở Diêm Phù Đề lúc ấy các phương Đông Tây Nam Bắc rộng 10.000 do-tuần. Các núi, sông, vách đá đều tự tiêu diệt. Nước ở 4 biển cả đều chiếm cứ một phương. Mặt đất ở Diêm Phù Đề cực kỳ bằng phẳng như tấm gương sáng sạch. Đất khắp Diêm Phù Đề đều có thực phẩm, ngũ cốc trù phú, tốt tươi. Nhân dân phồn thịnh, châu báu thật nhiều, làng mạc thôn xóm gần nhau, cùng nghe tiếng gà gáy. Bao nhiêu hoa quả, cây cối khô cằn hay những vật dơ xấu đều tự tiêu diệt. Những cây ngon quả ngọt, thơm ngon tươi tốt nhất thì sanh ra khắp mặt đất. Khí hậu ôn hòa, thời tiết thích hợp theo mùa. Con người không bị 108 bệnh, không có tham dục, sân hận, ngu si, không cần lo âu săn sóc. Nhân tâm quân bình, cùng một ý với nhau, gặp nhau vui vẻ và nói những lời hiền thiện, cùng một loại ngôn ngữ giống như người Uất-đơn-việt không khác. Nhân dân lớn hay nhỏ ở Diêm Phù Đề đều cùng một âm giọng, không có sự sai khác. Những người nam hay nữ ở cõi này khi muốn đại tiểu tiện, đất tự nhiên nứt ra, sau khi xong việc, đất khép lại như cũ. Lúc ấy đất đai ở Diêm Phù Đề tự nhiên sanh lúa gạo vô cùng thơm ngon, không có vỏ, ăn vào không bị bệnh khổ. Những loại vàng, bạc, trân bảo, xa cừ, mã não, chân châu, hổ phách rải khắp trên mặt đất mà không có ai quan tâm. Có khi họ cầm châu báu này và nói với nhau: "Con người xưa kia vì những châu báu này mà phải tàn hại nhau, bị tù đày và chịu biết bao khổ não. Vậy mà ngày nay châu báu này cũng như ngói gạch, không có ai cất giữ" . Lúc bấy giờ vương pháp xuất hiện, tên là Nhương Khứ, dùng chánh pháp trị nước và đầy đủ bảy báu. Bảy báu đó là: kim luân bảo, tượng bảo, mã bảo, châu bảo, ngọc nữ bảo, điển binh bảo, thủ tàng bảo. Trấn giữ Diêm Phù Đề không cần đến đao trượng mà điều phục tự nhiên. Này A-nan! Bốn kho trân bảo là: 1- Nước Càn-đà-việt có kho báu Y-la-bát, rất nhiều trân báu và vật quý hiếm, không thể kể hết. 2- Nước Di-đề-la có kho lớn lưới báu và rất nhiều trân bảo. 3- Nước Tu-lại-tra có kho báu lớn và nhiều trân bảo. 4- Nước Ba-la-nại Nhương Khứ có kho báu lón và rất nhiều trân bảo, không thể tính kể. Bốn kho báu lớn này tự nhiên ứng hiện. Các vị giữ kho đến tâu vua: "Cúi xin đại vương đem những vật trong kho báu này ban bố cho những kẻ bần cùng" . Vua Nhượng Khứ được những kho báu này cũng chẳng dòm ngó chúng vì không có ý nghĩ về của cải châu báu. Tại đất Diêm Phù, trên cây tự nhiên sanh những y phục vô cùng mềm mịn để cho mọi người mặc, như hiện nay người Uất-đơn-việt tự nhiên trên cây sanh ra y phục. Đại vương có đại thần tên Tu Phạm Ma, là vị quan được vua rất kính mến từ thuở còn niên thiếu. Vị đại thần này có tướng mạo khôi ngô, không cao, không thấp, không mập, không gầy, không trắng, không đen, không già, không trẻ. Vợ của Tu Phạm Ma tên Phạm Ma Việt, là người xinh đẹp tuyệt trần nhất trong các ngọc nữ, giống như hậu phi của thiên đế. Miệng bà nói ra có mùi thơm hoa sen và thân đầy hương chiên-đàn, 84 trạng thái mà các phụ nữ khác vĩnh viễn không bao giờ có. Bà cũng không có ý niệm hay tư tưởng cuồng loạn, tật bệnh. Lúc bấy giờ Bồ-tát Di-Lặc ở trời Đâu Suất quán sát cha mẹ không già, không trẻ, giáng thần ứng hiện sanh ra từ hông phải của mẹ, như Ta ngày nay cũng đã giáng sanh từ hông phải. Bồ-tát Di lặc cũng như thế. Tất cả chư thiên cõi Đâu Suất đều ngợi ca: "Bồ-tát Di Lặc đã giáng sanh" . Tu Phạm Ma đặt tên cho con là Di Lặc. Bồ-tát Di Lặc có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, thân màu vàng ròng vô cùng tốt đẹp. Người ở cõi này không có các hoạn nạn, tuổi thọ lâu dài. Họ sống đến 8 vạn 4 ngàn năm, con gái 500 tuổi mới lấy chồng. Di-Lặc sống ở gia đình một thời gian ngắn thì đi xuất gia học đạo. Khi đi ra khỏi thành Sí-đầu chưa bao xa thì Ngài gặp đạo thọ tên Long Hoa cao một do-tuần, ngang 500 bộ. Bồ-tát Di Lặc ngồi dưới cội cây này thành tựu đạo quả Vô thượng. Ngay nửa đêm Bồ-tát Di Lặc xuất gia thì đạt ngay đạo quả Vô thượng. Cả 3.000 cõi đại thiên chấn động 6 cách. Các địa thần đều bảo nhau rằng: "Hôm nay Bồ-tát Di Lặc đã thành Phật đạo" . Dần dần đến cung Tứ Thiên Vương cũng nghe "Bồ-tát Di-Lặc đã thành Phật đạo" , và lan dần đến cõi trời 33, trời Đâu Suất Đà, trời Hóa Lạc, trời Tha Hóa Tự Tại, cho đến Phạm thiên đều vang tiếng "Bồ-tát Di-Lặc đã thành Phật đạo" . Lúc bấy giờ có ma vương tên Đại Tướng - giáo hóa trị vì ma quân bằng chánh pháp - nhờ nghe tiếng vang danh âm của Như Lai vô cùng hân hoan, phấn chấn, suốt 7 ngày đêm không ngủ nghỉ. Sau đó ma vương mang vô số thiên nhân ở cõi Dục đến chỗ Phật Di Lặc cung kính lễ bái. Thánh tôn Di Lặc cùng các thiên nhân dần dần nói về luận của pháp mầu vi diệu. Các luận đó là: Luận về bố thí, luận về giới, luận về sanh thiên, giải thoát khỏi dục tưởng bất tịnh là tốt đẹp. Đức Phật Di Lặc thấy mọi người đã hoan hỷ phát tâm, Ngài liền đem những pháp chư Phật Thế Tôn thường dạy như: khổ, tập, diệt, đạo và phân tích nghĩa lý sâu rộng cho chư thiên nhân. Lúc ấy trên tòa có 8 vạn 4 ngàn thiên tử đã sạch bụi trần, đắc pháp nhãn tịnh. Ma vương Đại Tướng bảo mọi người ở cõi đó rằng: "Các ngươi hãy mau xuất gia. Vì sao? - Vì Bồ-tát Di Lặc nay đã đến bờ giác ngộ và sẽ hóa độ cho các ngươi cũng đến bờ giác ngộ" . Trong thành Sí-đầu có trưởng giả tên Thiện Tài nghe giáo lệnh của ma vương, lại nghe âm vang của Phật nên đem 8 vạn 4 ngàn chúng đến chỗ Phật Di Lặc cung kính đảnh lễ dưới chân Phật rồi ngồi qua một bên. Đức Phật Di Lặc dần dần nói pháp luận vi diệu cho đại chúng. Pháp luận đó là: luận về thí, luận về giới, luận về sanh thiên, giải thoát khỏi dục tưởng bất tịnh là tốt đẹp. Đức Phật Di Lặc thấy mọi người tâm ý được khai mở theo như pháp chư Phật Thế Tôn đã nói, Ngài giảng về khổ, tập, diệt, đạo và phân tích nghĩa rộng các pháp ấy cho mọi người. Lúc ấy 8 vạn 4 ngàn người dứt sạch bụi trần, đắc pháp nhãn tịnh. Trưởng giả Thiện Tài cùng 8 vạn 4 ngàn người đến trước đức Phật cần cầu xin xuất gia, khéo tu phạm hạnh, tất cả đều thành tựu đạo quả A-la-hán. Hội đầu tiên của Phật Di Lặc có 8 vạn 4 ngàn người đắc quả A-la-hán. Lúc ấy vua Nhương Khứ nghe Bồ-tát Di-Lặc đã thành Phật đạo, ông muốn được nghe pháp nên vội đến chỗ Phật. Pháp đức Phật nói cho vua ban đầu thiện , giữa thiện, cuối cùng thiện và nghĩa lý rất sâu xa. Một thời gian sau, đại vương lập thái tử lên làm vua, bao vật quý báu vua cho người thợ cắt tóc rồi đem các loại châu báu ban cho các Phạm chí và dẫn 8 vạn 4 ngàn chúng đến chỗ Phật xin làm Sa-môn. Cuối cùng, họ thành tựu đạo quả, đắc đạo A-la-hán. Đại trưởng giả Tu Phạm Ma nghe Bồ-tát Di Lặc thành Phật đạo cũng đem 8 vạn 4 ngàn chúng Phạm chí đến chỗ Phật cầu xin làm Sa-môn. tất cả đều chứng đắc A-la-hán, duy nhất có Tu Phạm Ma đoạn tận 3 kiết sử và chắc chắn chấm dứt hết khổ. Phật mẫu Phạm Ma Việt cũng đem 8 vạn 4 ngàn chúng thể nữ đến chỗ Phật xin làm Sa-môn. Các thể nữ đều chứng đắc A-la-hán, duy nhất có Phạm Ma Việt đoạn tận 3 kiết sử, chứng quả Tu-đà-hoàn. Các bà dòng Sát-lợi nghe tin Phật Di Lặc xuất hiện ở thế gian, thành Đẳng chánh giác, đem cả ngàn vạn chúng đi đến chỗ Phật cung kính đảnh lễ dưới chân Ngài rồi ngồi qua một bên. Họ phát tâm mong cầu được xuất gia học đạo, làm Sa-môn. Có người chứng đắc đến bờ giác, có người không chứng đắc. Lúc ấy, này A-Nan! Những người chưa vượt bậc để chứng đắc đều là những người phụng hành giáo pháp, nhàm chán tất cả thế gian và tu hành quán tưởng không có dục lạc. Phật Di Lặc sẽ nói giáo nghĩa Tam thừa như Ta hiện nay. Trong các đệ tử của Ta có Đại Ca Diếp thực hành 12 hạnh Đầu-đà, như chư Phật thời quá khứ đã khéo tu phạm hạnh, người này sẽ ở bên cạnh Phật Di Lặc khuyến hóa mọi người tu tập. Ca Diếp cách Như Lai không xa, ngồi kiết-già, thân ý chánh niệm tỉnh giác. Đức Thế Tôn bảo Ca Diếp: - Nay Ta đã 80, tuổi đã già suy và có 4 đại Thanh văn kham nhận việc giáo hóa khắp nơi. Họ có đầy đủ phước đức và trí tuệ vô tận, đó là: Tỳ-kheo Đại Ca Diếp, Tỳ-kheo Quân-xa-bát-thán, Tỳ-kheo Tân-đầu-lô, Tỳ-kheo La-vân. Bốn Thanh văn các ông chưa được nhập Niết-bàn mà chờ đến khi giáo pháp Ta không còn, khi ấy mới được nhập Niết-bàn. Đại Ca Diếp cũng không nên nhập Niết-bàn mà cần phải đời Phật Di lặc xuất hiện ở thế gian. Vì sao? - Vì đệ tử của Phật Di Lặc đều là đệ tử của Phật Thích Ca Văn, nhờ Ta giáo hóa chấm dứt hữu lậu. Trong thôn Tỳ Đề, cõi nước Ma Kiệt, Đại Ca Diếp cư trú trong núi đó và Di Lặc Như Lai sẽ đem vô số ngàn người lần lượt cùng nhau đến núi này. Nhờ hồng ân Phật, các quỷ thần đều mở cửa làm cho họ được thấy Ca Diếp thiền định trong hang động. Khi đó, Phật Di Lặc đưa cánh tay phải chỉ Ca Diếp và bảo mọi người: "Thời quá khứ xa xưa, đệ tử của Phật Thích Ca Văn tên Ca Diếp hiện đang tu khổ hạnh Đầu-đà tối thượng đệ nhất" . Mọi người thấy sự kiện như vậy, ngợi khen là việc chưa từng có. Có vô số trăm ngàn chúng sanh dứt sạch bụi trần, đắc pháp nhãn tịnh. Hoặc có chúng sanh đượïc thấy thân Ca-Diếp, gọi đó là hội đầu tiên. Có 96 ức người đều đạt quả A-la-hán. Những người này đều là đệ tử của Ta. Vì sao? - Vì họ được Ta giáo hóa mới đạt kết quả này. Và nhờ bốn nhân duyên bố thí, nhân từ, mang lại lợi lạc cho hết thảy quần sanh. Này A-nan! Di Lặc Như Lai sẽ trao Tăng-già-lê cho Ca Diếp đắp. Lúc ấy thân thể Ca Diếp chợt sáng như sao sa. Phật Di Lặc lại đem các loại hương hoa cúng dường Ca Diếp. Vì sao? - Vì chư Phật Thế Tôn có tâm tôn kính chánh pháp và Bồ-tát Di-Lặc cũng đã từng do Ta truyền trao giáo hóa chánh pháp, thành tựu đạo Vô thượng Chánh chơn. A-nan nên biết! Hội kỳ hai của Phật Di Lặc có 94 ức người đều đắc quả A-la-hán, đều là đệ tử đã từng được Ta giáo hóa thực hành 4 sự cúng dường nên được kết quả như vậy. Hội kỳ ba của Phật Di lặc có 92 ức người đắc quả A-la-hán, cũng là đệ tử do Ta giáo hóa. Lúc bấy giờ đệ tử của Ta là Tỳ-kheo tên Từ Thị, như Ta ngày này các Thanh văn đều xưng là đệ tử của Thích Ca. Phật Di Lặc thuyết pháp cho các đệ tử: "Này các Tỳ-kheo! Hãy nghĩ đến vô thường, tưởng vui có khổ, tưởng ngã và vô ngã, tưởng thật có không, tưởng sự biến đổi của sắc, tưởng sự ứ dịch, tưởng về sưng trướng, tưởng ăn chưa tiêu hết, tưởng về máu mủ, tưởng tất cả thế gian không an vui. Vì sao? - Này các Tỳ-kheo! Đây là 10 tưởng mà Phật Thích Ca Văn đã dạy cho các ông, làm cho tất cả được dứt trừ tâm hữu lậu và được giải thoát. Những ai trong chúng này là đệ tử Phật Thích Ca Văn đều do thời quá khứ đã tu hành thanh tịnh nên đến cõi của Ta. Hoặc có người ở thời Phật Thích Ca Văn cúng dường Tam bảo mà sanh đến chỗ Ta. Hoặc có người ở chỗ Phật Thích Ca Văn tu tập thiện căn trong khoảng khảy móng tay mà sanh đến chỗ Ta. Hoặc có người ở chỗ Phật Thích Ca Văn thực hành Tứ đẳng tâm rồi sanh đến đây. Hoặc có người ở chỗ Phật Thích Ca Văn thọ trì 5 giới, 3 pháp tự quy nên sanh đến chỗ Ta. Hoặc có người ở chỗ Phật Thích Ca Văn xây dựng tháp miếu nên sanh đến chỗ Ta. Hoặc có người ở chỗ Phật Thích Ca Văn sửa sang chùa cũ nên sanh đến chỗ Ta. Hoặc có người ở chỗ Phật Thích Ca Văn giữ 8 pháp trai giới nên sanh đến chỗ Ta. Hoặc có người ở chỗ Phật Thích Ca Văn cúng dường hương hoa nên sanh đến đây. Hoặc có người ở chỗ Phật Thích Ca Văn nghe pháp mà rơi lệ nên sanh đến chỗ Ta. Hoặc có người ở chỗ Phật Thích Ca Văn nhất tâm lảnh hội giáo pháp nên sanh đến chỗ của Ta. Hoặc có người suốt đời tu hành phạm hạnh nên sanh đến chỗ Ta. Hoặc có người ghi chép, đọc tụng nên sanh đến chỗ Ta. Hoặc có người phục vụ cúng dường nên sanh đến chỗ Ta. Đức Phật Di Lặc nói kệ: - Tăng thêm giới, văn, đức Thiền và nghiệp tư duy Khéo tu hạnh thanh tịnh Nên đến chỗ của Ta Bố thí phát tâm vui Tâm tu hành căn bản Ý không nghĩ bao la Đều đến chỗ của Ta Biết phát tâm bình đẳng Cúng dường các đức Phật Cúng Thánh chúng thực phẩm Đều đến chỗ của Ta Hoặc tụng giới, khế kinh Dạy cho người khổ, tập Thắp sáng chánh pháp Phật Nay đến chỗ của Ta Thích chủng khéo biến hóa Cúng dường các xá-lợi Phục vụ pháp cúng dường Nay đến chỗ của Ta Nếu người ghi chép kinh Tuyên nói điều cao tột Và cúng dường kinh điển Đều nên đến chỗ Ta Gấm vóc và mọi vật Cúng dường nơi chùa tháp Tự xưng "Nam mô Phật" Đều nên đến chỗ Ta Cúng dường Phật hiện tại Cùng chư Phật quá khứ Thiền định chánh bình đẳng Cũng không có tăng giảm Thế nên đối pháp Phật Kính thờ các bậc Thánh Chuyên tâm thờ Tam bảo Ắt đến chỗ vô si A-Nan nên biết! Di Lặc Như Lai ở nơi chúng đó nói bài kệ này, chư thiên, loài người trong đại chúng tư duy về 10 tưởng này có 11 ức người dứt sạch bụi trần, đắc pháp nhãn tịnh. Trong 1.000 năm chúng Tăng ở cõi Phật Di Lặc không có lỗi lầm, Ngài thường dùng một bài kệ để làm giới cấm ngăn: Miệng, ý không làm ác Thân cũng không trái phạm Hãy dứt ba nghiệp này Chóng thoát đường sanh tử. Trải qua 1.000 năm sau sẽ có người phạm giới, Phật thiết lập ra giới cấm. Di Lặc Như Lai thọ 8 vạn 4 ngàn năm. Sau khi Phật nhập Niết-bàn, giáo pháp của Ngài tồn tại đến 8 vạn 4 ngàn năm. Chúng sanh lúc ấy đều lợi căn. Những người thiện nam hay thiện nữ nào muốn được gặp Phật Di-Lặc, ba hội chúng Thanh văn và thành Sí-đầu, muốn gặp vua Nhương Khứ cùng 4 kho trân bảo lớn, muốn ăn lúa gạo ngon tự nhiên và mặc y phục tự nhiên, sau khi chết được sanh lên trời. Những người thiện nam, thiện nữ ấy không nên lười nhác mà hãy nỗ lực tinh tấn, hãy cúng dường hầu hạ các Pháp sư, cúng dường các loại vật dụng, hoa hương... chớ để thiếu sót. Này A-nan! Hãy học và thực hành như vậy. Tôn giả A-nan và các đại hội nghe lời Phật dạy hoan hỷ phụng hành. KINH PHẬT THUYẾT QUÁN BỒ-TÁT DI LẶC HẠ SANH Hết
  2. ====================== Ngày tốt năm Quý Tỵ 2013 Trung tâm nghiên cứu Lý Học Đông Phương Dùng cho khai trương, động thổ (đập phá nhà cũ), sửa chữa, xây cất nhà cửa, đổ sàn, gát đòn tay, dựng nốc, nhập trạch (vào nhà mới), tân gia, cưới hỏi, an trang, ký kết hợp đồng, khởi sự, giao dịch, đi - về…những công việc quan trọng. Theo Việt lịch thì những ngày tốt của các tháng là các ngày như sau: Tháng Giêng: ngày 01, 04**, 16**, 25**, 28** kỵ giờ Dần Tháng hai: ngày 19** kỵ giờ Tỵ. Tháng ba: ngày 04, 29**, 30** kỵ giờ Thân. Tháng tư: ngày 19**, 29**, kỵ giờ Thìn. Tháng năm: ngày 02**, 26**, 29**…kỵ giờ Dậu. Tháng sáu: ngày 10** …kỵ giờ Mão. Tháng bảy: ngày 01**, 06**, 15**, 25**…kỵ giờ Dần. Tháng tám: không có ngày tốt. Tháng này kỵ giờ Tỵ. Tháng chín: ngày 04**, 17**, 26**, 29**…kỵ giờ Thân. Tháng mười: ngày 10**, 15**…kỵ giờ Thìn. Tháng Một (11): không có ngày tốt, Tháng này kỵ giờ Dậu. Tháng Chạp (12): ngày 15** …kỵ giờ Mão Ghi chú: ngày đánh dấu (**) là ngày Hoàng Đạo Thiên Đồng
  3. Xõa tóc thôi miên lấy 1,5 tỷ giữa Thủ đô 20/02/2013 12:22 | Pháp luật Người phụ nữ vờ vào mua hàng rồi xõa tóc thôi miên để cướp tài sản ngay trong một cửa hàng ở Hà Nội. Người đến CA phường Nam Đồng trính báo sự việc trên vào tối 18/2 là chị Vũ Hoàng Điệp, sinh năm 1990, ở ngõ 29 Nguyễn Thái Học.Chị Điệp cho biết, khoảng 16h15 ngày 18/2, một phụ nữ vào cửa hàng của chị ở 490 Xã Đàn (quận Đống Đa) vờ mua hàng. Thấy cửa hàng chỉ có một mình chị Điệp, đối tượng bất ngờ xoã tóc ra và chị Điệp dần khụy xuống mê man. Ảnh minh họa Khi tỉnh dậy, chị Điệp phát hiện mất 35.000 euro, 1.900 USD, 48 triệu đồng và 2 điện thoại Iphone, 1 thẻ ATM. Tổng số tài sản bị mất lên tới hơn 1,5 tỷ đồng. Hiện công an quận Đống Đa đang điều tra vụ việc. Trong khoảng 2 năm gần đây, đã từng có một số người trình báo bị đối tượng lạ thôi miên rồi lấy đi tài sản. Tất cả các vụ việc đều xảy ra trong các cửa hàng kinh doanh. Trong các vụ việc, công an đều vào cuộc điều tra nhưng không có vụ nào tìm ra thủ phạm, và cũng chưa từng kết luận việc thôi miên là có thật hay không. Gần đây nhất, tại Huế, chị Trương Thị Liên Hạnh (40 tuổi, trú 333 Điện Biên Phủ) trình báo bị mất 21.000 USD và 3 triệu đồng tiền hàng cũng vì bị thôi miên. Vụ này, CA TP Huế đã vào cuộc điều tra nhưng hiện vẫn chưa có thông tin kết luận.
  4. New York Times: Lần ra trụ sở hacker của Bộ Quốc phòng Trung Quốc Thứ ba 19/02/2013 14:20 (GDVN) - Trụ sở nhóm hacker được xác định thuộc sở hữu của đơn vị mật danh 61.398 thuộc Phòng 2, Cục 3 của quân đội Trung Quốc (PLA), đây chính là nơi bắt nguồn một loạt các cuộc tấn công mạng nhằm vào các công ty, các tổ chức, cơ quan chính phủ quan trọng của Mỹ. Wall Street Journal trở thành mục tiêu tấn công của hacker Trung Quốc New York Times tố hacker Trung Quốc tấn công tờ báo 4 tháng liên tục Hacker tấn công mạng máy tính của IAEA Hacker Trung Quốc làm giả lệnh BQP Đài Loan về đảo Ba Bình, Trường Sa Một tờ báo Hàn Quốc bị hacker lạ đánh sập mạng, xóa hết dữ liệu Theo New York Times ngày 19/2, một đơn vị thuộc Bộ Quốc phòng Trung Quốc chịu trách nhiệm về loạt các vụ tấn công mạng bí mật nhằm vào các cơ quan quan trọng ở Mỹ. Tòa nhà 12 tầng ở ngoại ô Thượng Hải được Mandiant tìm ra dựa trên các dấu vết để lại của nhóm hacker. Thông tin này được tiết lộ trong bản báo cáo dài 60 trang được công bố hôm 19/2 bởi Mandiant - một công ty an ninh mạng của Mỹ đã dành 6 năm nghiên cứu hoạt động của nhóm hacker mang biệt danh "Comment Crew". Theo triều tra của các công ty an ninh mạng Mỹ kết hợp với tình báo nước này, các hacker làm việc tại đây là các sĩ quan quân đội hoặc được thuê làm việc cho Đơn vị 61.398. Họ được biết đến ở Mỹ bằng các biệt danh như “Comment Crew” hoặc “Nhóm Thượng Hải”. Lần theo dấu vết của các hacker, Mandiant đã lần ra trụ sở của nhóm là một tòa nhà 12 tầng nằm giữa một khu đông đúc nhà hàng, tiệm massage và các công ty nhập khẩu rượu vang ở đường Đại Đồng, ngoại ô thành phố Thượng Hải. Trụ sở nhóm hacker được xác định thuộc sở hữu của đơn vị mật danh 61.398 thuộc Phòng 2, Cục 3 của quân đội Trung Quốc (PLA), đây chính là nơi bắt nguồn một loạt các cuộc tấn công mạng nhằm vào các công ty, các tổ chức, cơ quan chính phủ quan trọng của Mỹ. Mandiant cũng phát hiện ra các hacker dùng địa cùng địa chỉ IP tham gia tấn công mạng ở Mỹ để đăng nhập Facebook và Twitter cá nhân. Điều đó đã giúp công ty dễ dàng theo dõi và tìm ra danh tính thực sự của họ. Ngoài ra, Mandiant còn tìm thấy một bản tài liệu nội bộ của China Telecom thảo luận về quyết định cài đặt đường dây cáp quang tốc độ cao cho Đơn vị 61.398. Kevin Mandia - Giám đốc điều hành Mandiant. New York Times dẫn thông tin từ bản sao tài liệu được Mandiant cung cấp cho biết, mục tiêu của các hacker này không chỉ là các công ty thương mại lớn của Mỹ mà đang ngày càng tập trung vào các công ty có liên quan đến cơ sở hạ tầng quan trọng của Mỹ khi điện, khí và nước. Một trong những mục tiêu của họ là hơn 60% hệ thống đường ống dẫn dầu và khí đốt ở Bắc Mỹ. Trong khi sự tồn tại và hoạt động của Đơn vị 61.398 không được đề cập tới trong bất kỳ một văn bản chính thức nào của quân đội Trung quốc. Tuy nhiên, theo các nhà phân tích tình báo, những người đã tiến hành điều tra cơ quan này, thì đó là trung tâm hoạt động gián điệp máy tính của Trung Quốc. Sự tồn tại của nó đã được nhắc đến trong một bản báo cáo năm 2011 của Viện nghiên cứu an ninh Virginia rằng đó là một thực thể chuyên "nhắm mục tiêu vào các cơ quan hàng đầu của Mỹ và Canada và có nhiều khả năng liên quan tới các vụ tấn công thu thập tin tình báo chính trị, kinh tế và quân sự". Một trong những mục tiêu của những kẻ tấn công có nguồn gốc từ một đơn vị của Bộ Quốc phòng Trung Quốc là hơn 60% hệ thống đường ống dẫn dầu và khí đốt ở Bắc Mỹ. Các quan chức Đại sứ quán Trung Quốc tại Washington đã từng nhiều lần tuyên bố đất nước họ không tiến hành các vụ hacker trong lãnh thổ Mỹ và nói rằng đó là một hoạt động bất hợp pháp hay họ cũng là nạn nhân của các hoạt động này. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, các vụ hacker từ Trung Quốc nhằm vào Mỹ tăng đáng kể. Mandiant đã phát hiện hơn 140 vụ tấn công của Comment Crew từ năm 2006 tới nay. Tình báo Mỹ và các công ty an ninh mạng cho biết họ phát hiện khoảng hơn 20 nỗ lực tấn công an ninh mạng từ Trung Quốc mỗi ngày. Nghị sĩ Mike Rogers - Chủ tịch Ủy ban Tình báo Hạ viện Mỹ - cho biết trong một cuộc phỏng vấn rằng báo cáo của Mandiant "hoàn toàn phù hợp với các tin tình báo đã thu thập được". Tommy Vietor, phát ngôn viên Hội đồng An ninh Quốc gia cho biết Nhà Trắng đã "nhận thức" được nội dung báo cáo và đã "nhiều lần tăng mối quan tâm ở cấp cao nhất" về các hoạt động tình báo của các quan chức cấp cao Trung Quốc, gồm cả quân đội và sẽ tiếp tục làm như vậy. Ngoài ra, chính phủ Mỹ đang lên kế hoạch bắt đầu tăng cường tự vệ chống lại các hoạt động phá hoại an ninh mạng từ phía Trung Quốc. ========= Chính phủ điện tử là hệ quả của sản phẩm cao cấp thuộc nền khoa học tri thức hiện đại, ở nó cũng tồn các mối quan hệ tương tác, tuy ảo, nhưng hiệu quả lại thực, cho nên an ninh mạng ở cấp quốc gia và quốc tế cũng phải được thiết lập chặt chẻ. Anh Chệt khiều anh Cao Bồi Viễn Tây thì cứ gì Cowboy cũng rút súng ra nhá hàng nóng, còn độp hay không thì tính sau.
  5. Ngày Lục Nhâm không vong: Tháng tư: mùng 2 - 14 kỵ Ngày "Trời nghiệng đất lở": Tháng 10 tháng 4: kỵ ngày mùng 2 - 8 - 14 - 20 - 26. theo "Tam Ngươn Đồ Hình", tác giả Lê Văn Nhàn, Thiên Đồng trích ghi.
  6. Âm mưu thâm độc trong những món hàng nhỏ MAI HƯƠNG - THÂN HOÀNG | 19/02/2013 07:40 (GMT + 7) TT - Hết hộ chiếu rồi những quả địa cầu là đồ dùng học tập có đường chữ U, tết vừa qua còn có nhiều món đồ nho nhỏ nhưng mang theo nó là âm mưu lớn từ Trung Quốc lẻn vào Việt Nam, như đèn lồng có chữ “Tam Sa”, chậu cây cảnh có bản đồ Việt Nam nhưng không có Hoàng Sa và Trường Sa... Ông Trần Trung Hiển (phường Lạch Tray, Q.Ngô Quyền, Hải Phòng) và tờ thông báo hướng dẫn người dân nhận biết, đối chiếu chữ “Tam Sa” tiếng Hoa in trên đèn lồng - Ảnh: Thân HoàngNăm ngoái, VN và nhiều nước khác trong khu vực như Philippines, Malaysia... đã phản ứng mạnh mẽ quanh việc Trung Quốc tung ra hộ chiếu mới có in đường chữ U. Rồi tiếp đến là việc bẫy người dùng WeChat bằng những cam kết gián tiếp thừa nhận đường chữ U. Còn đầu năm nay, Philippines vừa tiêu hủy những quả địa cầu làm đồ dùng học tập có đường chữ U. Và mới nhất, trong dịp Tết Quý Tỵ vừa qua, một số địa phương như Hải Phòng, Hải Dương phải tiêu hủy đèn lồng có chữ “Tam Sa” bằng chữ Trung Quốc. Hay tại TP.HCM, bỗng dưng xuất hiện nhiều chậu cây cảnh giả có hình bản đồ VN nhưng không có Hoàng Sa và Trường Sa. Chậu đu đủ giả thâm độc Chậu cây đu đủ giả xuất xứ từ Trung Quốc bán ở TP.HCM có hình bản đồ Việt Nam nhưng không có Hoàng Sa, Trường Sa - Ảnh: Thuận Thắng Trao đổi với Tuổi Trẻ, ông Đào Minh Hải - phó cục trưởng Cục Quản lý thị trường, Bộ Công thương - cho biết Cục Quản lý thị trường đã nhận được thông tin từ các địa phương báo về hiện tượng đèn lồng xuất xứ tại Trung Quốc có in chữ “Tam Sa” đang bán ở VN. Theo ông Hải, Cục Quản lý thị trường đang xem xét, chỉ đạo để xác định mặt hàng đèn lồng trên đang được tập trung ở những địa bàn nào, mức độ ra sao để tiến hành kiểm tra xử lý.Nhiều bạn đọc ở khu vực Q.Bình Thạnh, TP.HCM phản ảnh với Tuổi Trẻ rằng trong những ngày tết vừa qua, một số ngôi chùa trong khu vực quận này có bày bán những chậu cây đu đủ giả rất đẹp, được giới thiệu là xuất xứ từ Trung Quốc. Độc đáo hơn, những cây đu đủ này được để trong một chiếc chậu giả đá màu xám đen. Bốn mặt chậu đều có hình bản đồ VN màu xanh, làm như giả rêu, cũng rất đẹp. Nhiều người đã mua những chiếc chậu cảnh giả này về chưng. Nhưng sau đó thì nhiều người phát hiện cả bốn bản đồ VN ở bốn mặt chậu đều không có Hoàng Sa và Trường Sa. Một độc giả tên Huy Hùng cho biết anh đã hủy ngay chiếc chậu cây thâm độc này. Theo lời mách bảo của bạn đọc, trưa 18-2 chúng tôi đến trước chùa Long Vân ở đường Bùi Đình Túy (Q.Bình Thạnh) hỏi thăm về mặt hàng cây cảnh giả có chậu in hình bản đồ, mấy chị bán chuối chiên, rau quả trước cổng chùa khẳng định: “Trong chùa bán nhiều lắm, vô đó mà hỏi!”. Trong khuôn viên chùa, ở gian nhà giữa có trưng bày khá nhiều chậu hoa, cây kiểng giả. Thu hút nhất là những chậu cây đu đủ nhỏ, cao tầm 4-5 tấc, quả sai lúc lỉu. Giá bán của chậu cây đu đủ này là 550.000 đồng/chậu nhỏ. Riêng chậu cây đu đủ lớn bằng cây thật có giá 1,8-1,95 triệu đồng/chậu. Người trông coi việc bán hàng của nhà chùa cho biết: “Từ trước tết đến giờ, trong vòng nửa tháng, chùa đã bán được rất nhiều cây, hoa, cảnh giả này”. Chiều cùng ngày, trao đổi với Tuổi Trẻ về vấn đề này, thầy Đức Tài - người phụ trách khâu lấy hàng về bán tại chùa Long Vân - cho biết: “Tôi thấy mấy cái chậu cây có cảnh cũng đẹp, có hình bản đồ nhưng thật sự không để ý là có Hoàng Sa, Trường Sa hay không”. Tiêu hủy đèn lồng Trung Quốc có in chữ “Tam Sa” Ngày 18-2, theo ghi nhận của Tuổi Trẻ, một số khu phố ở Hải Phòng người dân đã tháo bỏ đèn lồng treo trang trí dịp Tết Nguyên đán. Ở một số khu phố trên đường Lê Hồng Phong (Q.Ngô Quyền), thị trấn An Lão (huyện An Lão), Quán Toan (Q.Hồng Bàng)... người dân đã tự cắt hình sao vàng dán đè lên chữ Trung Quốc in trên thân đèn lồng hoặc vẫn treo đèn với những câu chúc “Phúc, Lộc, Thọ”. Trước đó, từ giáp Tết Nguyên đán, một số người dân ở Hải Phòng, Hải Dương mua đèn lồng về treo trước cửa thì phát hiện trên thân đèn có in chữ “Tam Sa” (đơn vị hành chính do Trung Quốc lập trái phép gồm quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa của VN). UBND TP Hải Phòng, UBND thị xã Chí Linh (Hải Dương) đã có chỉ thị yêu cầu các ngành chức năng kiểm tra, thu hồi và tiêu hủy đèn lồng không rõ nguồn gốc. Ông Trần Trung Hiển, tổ trưởng tổ dân phố số 4, phường Lạch Tray, Q.Ngô Quyền, cho biết giáp tết, UBND phường đã triệu tập các tổ trưởng tổ dân phố để thông báo về việc trên thị trường xuất hiện một số đèn lồng có in nội dung tuyên truyền phi pháp, không đúng với đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước VN. Sau đó, bộ phận thông tin của phường đã phát cho mỗi tổ trưởng tổ dân phố một số tờ thông báo in chữ Hoàng Sa, Trường Sa. Tam Sa... bằng cả chữ VN và chữ Trung Quốc để đi tuyên truyền cho người dân nhận biết và cảnh giác. Theo ông Hiển, các tổ trưởng đều đến từng hộ dân để kiểm tra, tuyên truyền vận động không treo đèn lồng không rõ nguồn gốc xuất xứ. “Người dân rất bức xúc khi biết thông tin. Nhà nào treo đèn rồi thì gỡ xuống để kiểm tra kỹ, nếu không có vấn đề gì mới treo tiếp. Một số hộ dân không cần kiểm tra mà tự tháo đèn xuống tiêu hủy luôn” - ông Hiển nói. Tại quận Lê Chân (Hải Phòng), một số khu phố thống nhất không treo đèn lồng khi biết thông tin xuất hiện đèn lồng Trung Quốc có in chữ “Tam Sa”. Ông Bùi Ngọc Thanh, tổ trưởng tổ dân phố số 2, P.Đông Hải, cho biết sau khi tuyên truyền, người dân đã tổ chức cuộc họp và quyết định không treo đèn lồng trong dịp Tết Quý Tỵ 2013. “Mọi người đều chung ý kiến việc treo đèn lồng đỏ không phù hợp với truyền thống đón tết của người Việt. Bây giờ lại xuất hiện đèn lồng Trung Quốc có nội dung tuyên truyền phi pháp nên tổ dân phố quyết định không treo, vừa tiết kiệm lại vừa đảm bảo không bị lợi dụng” - ông Thanh nói. Cũng với tinh thần cảnh giác, một số hộ dân trên quốc lộ 5 qua khu vực Quán Toan, Q.Hồng Bàng đã “sáng tạo” bằng cách cắt hình sao vàng dán đè lên chữ Trung Quốc in trên đèn lồng.
  7. Nhân dịp xuân Quý Tỵ, Thiên Đồng chúc Sư Phụ cùng các cô chú bác anh chị em thành viên gần xa tân niên hỷ lạc, gia đạo bình an, hiển vinh phát đạt, thịnh vượng thái hòa.
  8. PHONG THỦY NĂM QUÝ TỴ (2013) BÌNH NGUYÊN QUÂN Năm QUÝ TỴ, với Thiên Can QUÝ (THỦY) khắc Địa Chi TỴ (HỎA), tức là năm Thiên Can khắc Địa Chi, nên sẽ tương đối ổn định hơn. Trong năm nay, cơ hội thành công của các phong trào đối lập, chống lại chính quyền là rất thấp, vì vậy nên mọi biến động về chính trị và xã hội sẽ ít hoặc yếu hơn những năm trước. Ngược lại, do Thiên Can khắc thắng Địa Chi, nên chính phủ các nước thường sẽ thẳng tay đàn áp phe chống đối, hoặc áp đặt đường lối, chính sách cai trị 1 cách mạnh mẽ, cứng rắn hơn. Đồng thời, những quốc gia lớn, hùng mạnh sẽ tìm cách đe dọa, uy hiếp các nước nhỏ yếu nhiều hơn, dẫn đến tình hình căng thẳng hoặc chiến tranh trong năm nay, và nhất là năm tới (2014). Về phương diện kinh tế, năm 2013 sẽ là năm trì trệ hoặc suy thoái kinh tế của hầu hết mọi quốc gia trên thế giới, tuy rằng mức độ trầm trọng sẽ không bằng cuộc khủng hoảng năm 2008. Những quốc gia thoát khỏi cũng chỉ có mức tăng trưởng yếu, hoặc không đáng kể. Những ngành kinh tế có khả năng suy thoái trong năm nay là khai thác kim loại, quặng mỏ, cơ khí, chế tạo máy móc, mua bán, đầu tư vào quý kim (vàng, bạc...). Những ngành có triển vọng phục hồi (nhưng chậm) là địa ốc, khai thác, chế biến lâm sản. Những ngành ổn định, hoặc vẫn có khả năng phát triển (nhưng không mạnh) là du lịch, thủy sản, y tế, nghiên cứu, khoa học, kỹ thuật quân sự, dầu hỏa, khí đốt. Khí hậu năm 2013 cũng sẽ tương đối ổn định hơn, không bị nhiều thiên tai, gió bão, lũ lụt hoặc khô hạn như năm trước (ngoại trừ động đất và núi lửa sẽ hoạt động mạnh hơn). Từ khoảng giữa tháng 12 ÂL của năm trước (NHÂM THÌN) đến giữa tháng 2 ÂL (giữa Xuân) thời tiết khô và lạnh, buốt giá tới xương tủy. Từ giữa Xuân đến đầu mùa Hạ thời tiết vẫn hàn lạnh, nhưng ẩm ướt nên tuyết nhiều, mưa lạnh thường xuyên. Từ đầu đến giữa Hạ khí hậu thay đổi, gió nhiều, nhưng nóng ấm hẳn lên. Trong khoảng giữa Hạ đến đầu mùa Thu, không khí nóng và ẩm thấp, mưa nhiều. Trong mùa Thu khí hậu mát mẻ, mưa gió tương đối điều hòa. Từ cuối Thu đến đầu mùa Đông (giữa tháng 2 ÂL) khí hậu ấm áp hơn bình thường, nước không đóng băng, côn trùng và thảo mộc vẫn sinh sôi nảy nở. Về phương diện sứs khỏe, những bệnh có khả năng xuất hiện nhiều trong năm QUÝ TỴ là gan, tim mạch, mắt mờ, đau gân ở lưng, vai, co rút gân, tê liệt, chân đau không đứng được, đầy bụng, khó tiêu, đau nhức ở ngực, sườn và eo lưng, sốt nóng, ù tai, chóng mặt, hoa mắt, vàng da, phù thũng. Ngoài những yếu tố chung ở trên do ảnh hưởng của Thiên Can và Địa Chi, cũng như nạp âm và vận khí của từng năm, còn phải để ý đến phương vị của Phi tinh, Thái Tuế, Tuế Phá và Tam Sát, là những yếu tố quan trọng, có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của từng căn nhà như sau: 1/ PHƯƠNG VỊ CỦA PHI TINH: là vị trí của 9 sao, di chuyển theo từng năm trên Lạc thư (bao gồm trung cung và 8 hướng). Vào năm QUÝ TỴ, mỗi sao sẽ đóng tại 1 khu vực như hình dưới. Như vậy là trong năm nay, tất cả 9 số đều đóng tại địa bàn nguyên thủy của chúng (tức trùng với Lạc thư), nên 1 số người cho rằng Phi tinh đều bị Phục ngâm, hoặc Ngũ Hoàng Đại sát (tức số 5) nhập trung cung, nên là 1 năm khó khăn, tiến thoái lưỡng nan, hoặc không thể xây cất, tu sửa nhà cửa được. Thật ra, vấn đề có gặp khó khăn hay không là tùy theo vận khí của căn nhà, chứ không phải là do niên tinh toàn bàn bị Phục ngâm. Còn việc xây nhà, mua nhà, hay tu sửa nhà cửa là tùy theo các sao và Thần sát tới tọa - hướng, cũng như địa thế chung quanh và thiết kế nhà như thế nào mà nảy sinh ra những chuyện tốt, xấu, chứ không phải vì có Ngũ Hoàng nhập trung cung mà không thể làm gì được. Vì vậy, đó đều là những quan điểm sai lầm. Tuy nhiên, mỗi khi 9 sao bị Phục ngâm thì tính chất tốt, xấu của chúng đều sẽ tăng lên. Đó là điều cần để ý khi đọc phần phân tích các niên tinh bên dưới. Một điểm khác cần chú ý là tọa độ mỗi hướng có khi thu hẹp lại, có khi mở rộng ra. Đó là tùy theo từng trường hợp phải dùng Thế quái (tức số thế) hay không dùng mà thôi. Sao NHẤT BẠCH (số 1) – đến phía BẮC (từ 337 độ 6 – 22 độ 5): Là cát tinh, chủ về công danh, khoa bảng, học vấn, những chuyện vui vẻ, có hỷ sự như hôn nhân, xum họp, thành công trong mọi việc… Tuy nhiên, không phải tất cả mọi nhà hướng BẮC năm nay đều phát khoa bảng, hoặc được thăng quan, tiến chức, mà cần phân biệt như sau: * DỌN VÀO Ở TRƯỚC NĂM 2004: a/ Nhà hướng NHÂM (từ 342 – 348 độ): có uy tín tốt, nhưng dễ bị hao tiền về những việc hiếu hỷ. Các tháng 8 và 9 âm lịch tăng tài lộc, địa vị, các tháng 2, 4, 5, 7 và 11 âm lịch bị hao tài nhiều vì hỷ sự. b/ Nhà hướng TÝ (từ 357 – 03 độ) và QUÝ (từ 12 – 18 độ): bị hao tán tiền của rất nhiều, công việc làm ăn thất bại, nhất là trong các tháng 2, 4, 5, 7 và 11 âm lịch. * DỌN VÀO Ở SAU NĂM 2004: a/ Nhà hướng NHÂM (từ 342 – 348 độ): tương tự như trường hợp (a) ở trên. b/ Nhà hướng TÝ (từ 357 – 03 độ) và QUÝ (từ 12 – 18 độ): được tăng thêm tài lộc, gặp nhiều chuyện vui vẻ hơn, nhất là trong các tháng 2, 4, 5, 7 và 11 âm lịch. Tất cả nhà hướng BẮC đều dễ mắc bệnh tật trong các tháng 3, 6 và 12 âm lịch. Với nhà thuộc các hướng khác, nhưng phía BẮC có sao Nhất Bạch đến, mà trong trạch vận có các Hướng tinh 1, 4, 6, hay các cặp số 1 – 4, 1 – 6 tại đó mới có thể đặt fountain, bồn nước phun sương, hồ cá, 6 đồng tiền cổ, tháp Văn Xương, hòn non bộ... (tùy theo Sơn - Hướng tinh là gì mà chọn vật khí) để làm tăng sự thuận lợi, may mắn về khoa bảng, tài lộc, uy tín hay sự nghiệp mà thôi. Còn nhà có Hướng tinh là suy, tử khí tới phía BẮC thì nên giữ nơi đó cho yên tĩnh là tốt nhất. Với những người có cửa phòng ngủ, bếp, phòng tắm, cầu thang ở phía BẮC căn nhà (hay phòng), thì cần phối hợp với Phi tinh của trạch vận xem nó tốt hay xấu, rồi mới dùng cách kích động, hoặc hóa giải cho thích hợp. Sao NHỊ HẮC (số 2) – đến phía TÂY NAM (từ 202 độ 6 – 247 độ 5): Chủ đem đến nhiều bệnh tật, nếu nặng có thể làm chết người, nên thường được gọi là sao Bệnh phù. Hơn nữa, Nhị Hắc vốn còn là âm tinh, và thuộc Tiên thiên Hỏa, nên tùy trường hợp riêng biệt của mỗi căn nhà mà còn có thể gây ra tai họa xung đột, tranh chấp, nóng nảy. Do đó, cần treo windchime (chuông gió), hay đặt những vật bằng kim loại gần cửa trước mà hóa giải. Nhất là năm nay sao Nhị Hắc lại bị Phục ngâm, nên mức độ tác hại của nó càng mạnh. Tuy nhiên, cũng cần phân biệt những trường hợp tốt, xấu như sau: * VÀO Ở TRƯỚC NĂM 2004: a/ Nhà hướng MÙI (từ 207 – 213 độ): tài lộc hao tổn nặng, công việc làm ăn thất bại, lại còn dễ bị xung đột, nóng nảy, bệnh tật về tim mạch và đường hô hấp, con gái trong nhà dễ mắc tai họa về trinh tiết, cả năm hầu như không có lúc nào yên. b/ Nhà hướng KHÔN (từ 222 – 228 độ) và THÂN (từ 237 –243 độ): khổ sở vì bệnh tật, nhất là về máu huyết, con trai thứ trong nhà là đối tượng mắc nhiều bệnh tật hoặc tai họa, nhất là trong các tháng 2, 4, 7, 9 và 11 âm lịch. * VÀO Ở SAU NĂM 2004: a/ Nhà hướng MÙI (từ 203 – 217 độ): được tăng thêm thu nhập, công việc làm ăn thuận lợi, nhất là trong các tháng 1, 2, 9, 10 và 11 âm lịch. Tháng 6 có xung đột, tranh chấp. b/ Nhà hướng KHÔN (từ 218 – 232 độ) và THÂN (từ 233 –247 độ): mắc bệnh tật hay tai họa lớn, trong nhà có thể có người chết, nguy hiểm nhất là trong các tháng 1, 2, 4, 7, 9, 10 và 11 âm lịch. Tất cả nhà hướng TÂY NAM đều dễ mắc bệnh thường xuyên trong năm, nhưng nặng nhất là các tháng 4, 7 và 9 âm lịch. Tháng 6 có chuyện bất hòa, xung đột. Với nhà thuộc các hướng khác, nhưng phía TÂY NAM có sao Nhị Hắc tới thì chỉ cần giữ nơi đó cho yên tĩnh, tránh làm động, hay ngủ, nghỉ, làm việc nhiều tại đó. Với những người có cửa phòng ngủ, bếp, cầu thang, phòng tắm tại phía TÂY NAM của căn nhà (hay phòng ngủ) thì cần treo chuông gió (windchime) bằng kim loại nơi cửa phòng, hay 5 đồng tiền cổ, hoặc nên dọn sang phòng khác (nếu là người già cả hay sức khỏe yếu kém). Ngoài ra, cũng cần phối hợp với trạch vận của căn nhà mà gia, giảm cách hóa giải cho có hiệu quả hơn. Sao TAM BÍCH (số 3) – đến phía ĐÔNG (từ 67 độ 6 – 112 độ 5): Biểu hiện cho sự hung hăng, hiếu chiến, thích tranh đấu, nên khi tới đâu cũng thường gây ra xung đột, cãi vã, kiện tụng, mất mát tiền của. Nhất là năm nay Tam Bích lại bị Phục ngâm, nên mức độ tác hại của nó càng mạnh thêm. Tuy nhiên, với nhà hướng ĐÔNG thì còn chia ra những trường hợp như sau: * VÀO Ở TRƯỚC NĂM 2004: a/ Nhà hướng GIÁP (từ 68 – 82 độ): mắc bệnh tật hay tai họa lớn, trong nhà có thể có người chết, nguy hiểm nhất là các tháng 2, 5, 7 và 11 âm lịch. b/ Nhà hướng MÃO (từ 83 – 97 độ) và ẤT (từ 98 – 112 độ): bị hao tài nặng, công việc suy bại, lại còn dễ bị tranh chấp, xung đột, mắc tai nạn về xe cộ hoặc gan, mật và tay chân. Các tháng 1, 9 và 10 âm lịch hao tài nặng, các tháng 3, 4 và 12 dễ mắc tai nạn xe cộ hoặc chân tay. * VÀO Ở SAU NĂM 2004: a/ Nhà hướng GIÁP (từ 68 – 82 độ): công việc và tài lộc thuận lợi, nhất là trong các tháng 1, 2, 7, 10 và 11 âm lịch. b/ Nhà hướng MÃO (từ 83 – 97 độ) và ẤT (từ 98 – 112 độ): công việc và tài lộc vẫn gặp nhiều khó khăn, lại hay mắc bệnh tật nặng về gan, mật, bao tử, chân tay, tai nạn xe cộ, nhất là trong các tháng 2, , 3, 4, 6, 7, 9 và 11 âm lịch. Tất cả nhà hướng ĐÔNG đều dễ bị bệnh trong các tháng 5 và 8 âm lịch. Riêng tháng 8 còn bị xích mích, xung đột. Với nhà không thuộc hướng ĐÔNG thì khu vực đó chỉ cần giữ cho yên tĩnh là có thể tránh được tai họa. Nếu nơi đó là cửa phòng, cầu thang, bếp, phòng tắm… thì tùy thuộc vào phi tinh của trạch vận mà kích động, hoặc dùng phương thức hóa giải cho bớt tai họa. Sao TỨ LỤC (Số 4) – đến phía ĐÔNG NAM (từ 112 độ 6 – 157 độ 5): Là sao Văn Khúc, chủ về văn chương, thi cử, học vấn, danh tiếng. Tuy nhiên, không phải mọi nhà hướng ĐÔNG NAM đều có thể thăng tiến công danh, sự nghiệp, mà vẫn tùy theo sự phối hợp của nó với hướng nhà như sau: * VÀO Ở TRƯỚC NĂM 2004: a/ Nhà hướng THÌN (từ 113 – 127 độ): tài lộc hao tổn nhiều, công việc bị bế tắc, cũng như mắc tai họa, bệnh tật về khí huyết, gân xương hoặc tay chân, nhất là những tháng 1, 2, 4, 5, 9, 10 và 11 âm lịch. b/ Nhà hướng TỐN (từ 128 – 142 độ) và TỴ (từ 143 – 157 độ): tài lộc và công việc vẫn bị bế tắc, gia cảnh lụn bại, đàn bà trong nhà dễ mắc bệnh tật, tai họa, nhất là các tháng 2, 4, 5, 9 và 11 âm lịch. * VÀO Ở SAU NĂM 2004: a/ Nhà hướng THÌN (từ 117 – 123 độ): tài lộc và công việc đều gặp nhiều khó khăn, trong nhà đàn ông khắc vợ, người nhà lại bị những bệnh về gan, đầu, tay chân, bại liệt, nhất là các tháng 1, 2, 3, 4, 5, 9, 10, 11 và 12 âm lịch. b/ Nhà hướng TỐN (từ 128 – 142 độ) và TỴ (từ 143 – 157 độ): tài lộc và công việc gặp nhiều may mắn, thuận lợi. Các tháng 2, 3, 11 và 12 âm lịch đều rất tốt cho tài lộc. Tất cả nhà hướng ĐÔNG NAM đều dễ bị bệnh trong các tháng 6 và 9 âm lịch. Nếu nhà thuộc những hướng khác, nhưng phía ĐÔNG NAM có sao Tứ Lục đến thì xem trạch vận nhà tại đó có các Vận – Sơn – Hướng tinh 1, 4 hay không? Nếu có mới nên đặt những vật cao, nhọn (như tháp Văn Xương, cột cờ…) để làm tăng tiến sự học, danh tiếng. Nếu gặp những phi tinh khác thì tùy sự phối hợp của chúng với sao Tứ lục là tốt hay xấu mà kích hoạt, hay dùng cách hóa giải để giảm bớt tai họa. Nếu nơi đó là cửa phòng, bếp, phòng tắm, cầu thang…thì cũng phải phối hợp với trạch vận mới có thể biết nên phát huy sao Tứ lục, hay cần phải hóa giải nó. Sao NGŨ HOÀNG (số 5) – nhập trung cung (khu vực giữa nhà): Là sát khí độc hại nhất trong năm, đi đến đâu mang tai họa tới đó. Tuy nhiên, khi nhập trung cung thì mọi tính chất hung hiểm của nó sẽ không còn nữa, mà trái lại sẽ trở nên tốt đẹp. Vì khi Ngũ Hoàng nhập trung cung là đã ở vào địa vị chí tôn, nên mới được gọi là "Hoàng cực", chứ không còn là "Mậu Kỷ Đô thiên Sát" hay 'Ngũ Hoàng Đại Sát" nữa, nên chỉ có tốt, chứ không có tai họa. Chính vì vậy mà trong Huyền không mới không có trường hợp Ngũ Hoàng bị nhập tù (còn tất cả những sao khác khi nhập trung cung đều mắc phải). Do đó, việc xây cất, tu sửa nhà cửa trong năm nay (hay dọn về nhà mới) là 1 điều tốt chứ không xấu. Nếu có xấu là do những nguyên nhân khác (như trạch vận xấu, hướng nhà xấu, thần sát tới tọa - hướng nhà xấu, thiết kế xấu...), chứ không phải vì xây nhà, nhập trạch vào năm có Ngũ Hoàng nhập trung cung, hay niên tinh toàn bàn Phục ngâm. Sao LỤC BẠCH (số 6) – đến phía TÂY BẮC (từ 292 độ 6 đến 337 độ 5): Là cát tinh, chủ về danh chức, uy quyền, cũng như có dính dáng đến chính quyền, luật pháp. Tuy nhiên, không phải mọi nhà hướng TÂY BẮC năm nay đều có thể thăng quan tiến chức, mà tùy theo sự phối hợp của nó với hướng nhà như sau: * VÀO Ở TRƯỚC NĂM 2004: a/ Nhà hướng TUẤT (từ 297 – 303 độ): bị trộm cướp, hoặc có tranh chấp, xung đột lớn, gia đạo bất an, tài lộc hao tổn, công việc làm ăn bế tắc, thất bại, mắc bệnh về gan, mật, chân tay và gân xương, nhất là các tháng 1, 2, 6, 7, 9, 10 và 11 âm lịch. b/ Nhà hướng CÀN (từ 312 – 318 độ) và HỢI (từ 327 – 333 độ): tài lộc hao tán, công việc làm ăn gặp nhiều khó khăn, trở ngại, dễ bị những bệnh về đầu, mặt hoặc khí huyết, nhất là các tháng 1, 2, 5, 8, 10 và 11 âm lịch. * VÀO Ở SAU NĂM 2004: a/ Nhà hướng TUẤT: công việc làm ăn tương đối có tiến triển, thêm thu nhập, được thăng chức, có uy tín tốt, nhất là các tháng 2, 3, 5, 7, 8, 9, 11 và 12 âm lịch. b/ Nhà hướng CÀN (từ 308 – 322 độ) và HỢI (từ 323 – 337 độ): tiền bạc hao tổn nhiều, nhất là các tháng 3, 6, 7 và 12 âm lịch. Tuy nhiên, do vận khí nhà tốt, nên công việc làm ăn vẫn thuận lợi, tài lộc vẫn khá chứ không túng thiếu. Các tháng 4, 5 sẽ có thêm thu nhập. Tất cả nhà hướng TÂY BẮC đều dễ bị bệnh trong các tháng 2, 8 và 11 âm lịch. Đối với nhà thuộc các hướng khác, nhưng phía TÂY BẮC có sao Lục Bạch đến thì phải xem trạch vận nhà tại đó có các Vận – Sơn – Hướng tinh 1, 6 không? Nếu có mới nên đặt vật khí kích hoạt như hồ cá, fountain, tháp Văn Xương, chuông gió… để làm tăng tiến công danh, sự nghiệp, danh tiếng. Nếu gặp phi tinh khác thì tùy sự phối hợp của chúng với Lục Bạch mà kích hoạt, hay dùng cách hóa giải để giảm bớt tai họa. Nếu nơi đó là cửa phòng, bếp, phòng tắm, cầu thang…thì cũng phải phối hợp với Phi tinh của trạch vận mới có thể biết nên phát huy sao Lục Bạch, hay cần hóa giải nó. Sao THẤT XÍCH (số 7) – đến phía TÂY (từ 247 độ 6 – 292 độ 5): Là tặc tinh, chủ côn đồ, trộm cướp, tiểu nhân quấy phá, rình rập, hãm hại. Nó đến đâu cũng chủ xung đột, chém giết, tù đày, mắc họa Đào hoa. Hơn nữa, Thất Xích là âm tinh, lại là Hỏa Tiên thiên, nên còn chủ nóng nảy, bực bội, dễ gây hỏa hoạn, hoặc những bệnh về tim mạch và khí huyết. Vì vậy, nơi nó đến cần phải giữ cho yên tĩnh, tránh xử dụng, hoặc ngủ hay làm việc. Nếu muốn xử dụng thì cần sơn cửa màu đen, hoặc trải thảm đen, treo thủy tinh cầu bằng pha-lê (crystal ball), đặt tê giác 2 sừng bằng thủy tinh… mà hóa giải. Tuy nhiên, cũng cần phân biệt những trường hợp như sau: * VÀO Ở TRƯỚC NĂM 2004: a/ Nhà hướng CANH (252 – 258 độ): đại hao tán tài lộc, mọi sự đều bế tắc, gia cảnh suy bại, lại còn mắc họa Đào hoa, nhiều bệnh tật hiểm nghèo, nhất là về tim, thận, bao tử, ung thư, cả năm không có lúc nào yên. b/ Nhà hướng DẬU (263 - 277 độ) và TÂN (278 – 292 độ): gặp nhiều tai họa, tài lộc hao tổn, bị họa Đào hoa hay tiểu nhân mưu hại, cũng như những bệnh về khí huyết, trong nhà có thể có người chết, nhất là các tháng 3, 5, 6, 7, 9 và 12 âm lịch. Tháng 8 có xung đột, tranh chấp lớn. * VÀO Ở SAU NĂM 2004: a/ Nhà hướng CANH (252 – 258 độ): được tăng chút tài lộc, nhưng hay mắc tai họa về xe cộ, bệnh tật về gan, chân tay hoặc gân xương, cũng như phải đề phòng họa Đào hoa, nhất là các tháng 3, 5, 7, 8, 9 và 12 âm lịch. b/ Nhà hướng DẬU (263 - 277 độ) và TÂN (278 – 292 độ): bị hao tiền, công việc làm ăn kém hơn năm trước, nhất là các tháng 1, 2, 4, 7, 8, 10 và 11 âm lịch. Tuy nhiên, do vận khí nhà tốt, nên vẫn vượt qua được mọi khó khăn, các tháng 3, 5, 6, 9 và 12 sẽ có thêm thu nhập. Tất cả nhà hướng TÂY đều dễ bị bệnh trong các tháng 3, 9 và 12 âm lịch. Đối với nhà thuộc các hướng khác, nhưng phía TÂY bị sao Thất Xích đến thì chỉ cần giữ nơi đó cho yên tĩnh, không tu sửa, sinh hoạt nhiều thì vô hại. Với những người có cửa phòng ngủ, bếp, cầu thang, phòng tắm… nằm tại phía TÂY căn nhà (hoặc căn phòng) thì cần kết hợp với phi tinh của trạch vận, rồi mới áp dụng cách hóa giải cho thích hợp. Sao BÁT BẠCH (số 8) – đến phía ĐÔNG BẮC: (từ 22 độ 6 – 67 độ 5): Vừa là cát tinh lẫn vượng tinh, chủ đem đến mọi sự thuận lợi, may mắn cho tài lộc, công danh, sự nghiệp. Tuy nhiên, không phải nhà nào hướng ĐÔNG BẮC cũng được mọi sự tốt đẹp, mà chia thành những trường hợp như sau: * VÀO Ở TRƯỚC NĂM 2004: a/ Nhà hướng SỬU (từ 27 – 33 độ): tài lộc suy thoái, công việc làm ăn thất bại, mắc tai họa lớn, bệnh tật nặng về xe cộ, sông nước, máu huyết, trong nhà có thể có người chết, nhất là các tháng 1, 2, 5, 6, 7, 8, 9, 10 và 11 âm lịch. b/ Nhà hướng CẤN (từ 38 – 52 độ) và DẦN (53 – 67 độ): có tăng chút tài lộc, nhưng gia cảnh vẫn suy bại, con nhỏ hoặc con gái mắc tai họa lớn, trong nhà có thể có người chết, nhất là các tháng 1, 4, 6, 7, 8 và 10 âm lịch. * VÀO Ở SAU NĂM 2004: a/ Nhà hướng SỬU (từ 23 – 37 độ): tài lộc tăng tiến lớn, công việc làm ăn phát đạt, thuận lợi, nhất là các tháng 1, 4, 6, 7 và 10 âm lịch. b/ Nhà hướng CẤN (từ 38 – 52 độ) và DẦN (57 – 63 độ): tài lộc được tăng tiến đôi chút, nhưng hay bị hao công tổn sức, dễ mắc bệnh về bao tử, đường ruột, ngộ độc thức ăn, trong nhà có thể có người chết, nhất là các tháng 1, 2, 3, 4, 6, 7, 10, 11 và 12 âm lịch. Tất cả nhà hướng ĐÔNG BẮC đều dễ mắc bệnh trong các tháng 1, 4 và 10 âm lịch. Đối với nhà không thuộc hướng ĐÔNG BẮC, nhưng nếu trạch vận nhà có Hướng tinh 8 ở đó mới có thể đặt hồ cá, fountain, mở thêm cửa... để thúc đẩy tài lộc, sự nghiệp. Nếu gặp Phi tinh khác thì tốt hơn hết là để khu vực này yên tĩnh. Với những người có cửa phòng ngủ, hoặc bếp, cầu thang, phòng tắm tại phía ĐÔNG BẮC căn nhà (hoặc căn phòng) thì cũng cần kết hợp với phi tinh của trạch vận, rồi mới biết là nên kích động hay hóa giải sao Bát bạch. Sao CỬU TỬ (số 9) - đến phía NAM (từ 157 độ 6 – 202 độ 5): Là sao chủ về văn chương, danh tiếng, lại cũng là Sinh khí của vận 8, nên còn chủ may mắn trong công việc và tài lộc. Tuy nhiên, vẫn cần phân biệt những trường hợp tốt, xấu như sau: * VÀO Ở TRƯỚC NĂM 2004: a/ Nhà hướng BÍNH (từ 158 – 172 độ): tài lộc suy thoái nặng, có thể đi đến phá sản, thường xuyên gặp những chuyện nóng nảy, bực bội, dễ bị đau tim, cao máu, đau bao tử, ung thư, cũng như khí huyết, lại dễ bị hỏa hoạn. Trong nhà cả năm bất an, chỉ có các tháng 6 và 8 âm lịch là tương đối yên ổn mà thôi. b/ Nhà hướng NGỌ (từ 173 – 187 độ) và ĐINH (từ 192 – 198 độ): gặp nhiều khó khăn về tài lộc cũng như công việc, dễ bị những bệnh về phổi hoặc ho lao, nhất là các tháng 1, 2, 4, 5, 7, 9, 10 và 11 âm lịch. * VÀO Ở SAU NĂM 2004: a/ Nhà hướng BÍNH (từ 163 – 168 độ): tương tự nhà hướng BÍNH dọn vào trước năm 2004 ở trên. b/ Nhà hướng NGỌ (từ 177 – 183 độ) và ĐINH (từ 192 – 198 độ): tài lộc và công việc đều thăng tiến thuận lợi, có uy tín tốt, mọi sự hanh thông, nhất là các tháng 2, 4, 5, 7, 8, 9 và 11 âm lịch. Tất cả nhà hướng NAM đều dễ mắc bệnh trong các tháng 2, 5 và 11 âm lịch. Đối với nhà thuộc các hướng khác, nhưng phía NAM có sao Cửu Tử đến thì tùy theo Phi tinh của trạch vận ở đó là gì, rồi mới có thể kích hoạt, hoặc giữ cho yên tĩnh, hay dùng cách hóa giải để giảm bớt tai họa. Nếu nơi đó là cửa phòng, bếp, phòng tắm, cầu thang…thì cũng phải phối hợp với Phi tinh của trạch vận mới biết nên phát huy sao Cửu Tử, hay cần hóa giải nó. Đó là ảnh hưởng của Phi tinh trong năm đối với nhà cửa. Ngoài ra, còn phải chú ý đến ảnh hưởng của các Thần sát, trong đó quan trọng nhất là Thái Tuế, Tuế Phá và Tam sát. 2/ THÁI TUẾ: Năm nay, Thái Tuế đến phía ĐÔNG NAM, ở khu vực cung TỐN - TỴ (trong khoảng từ 127 độ 6 – 157 độ 5), vì vậy không nên đập phá, tu sửa, động thổ, hay hoạt động náo nhiệt… tại đó, nhất là nếu trạch vận của căn nhà có Sơn - Hướng tinh là suy, tử khí. Đối với nhà hướng TỐN - TỴ mà dọn vào ở sau năm 2004 thì năm nay Thái Tuế đến phía trước, mà trạch vận những nhà này đều đắc vượng khí tới hướng, nên không cần phải kiêng kỵ vấn đề Thái Tuế tới phía trước nhà. Với những người sinh năm HỢI, ngày HỢI, hay trong năm, tháng, ngày, giờ sinh có 2, 3, 4 HỢI mà ở nhà hướng TỴ, đi cửa trước phương TỴ, nhưng nếu nơi đó (cửa trước) đắc vượng khí thì không sao, vì với trường hợp này thì thường là trong số mệnh cũng đã có cứu giải. Còn với nhà phương TỴ gặp suy, tử khí mà dùng cửa đó thì tai họa càng khốc liệt, sẽ xảy đến cho mình hoặc người thân (cha mẹ, chồng vợ, con cái…) hay có khi cả nhà bị thương vong. Cho nên, cách tốt nhất là dùng cửa khác để ra vào, hoặc dời đi ở tạm nơi khác, hay đi xa nhiều để giảm bớt tai họa. Ngoài hướng nhà, còn cần để ý đến phương vị giường ngủ và bàn làm việc. Nếu chúng nằm trong phương TỐN - TỴ thì trừ khi nơi đó có sinh - vượng khí của Hướng tinh mới có thể tiếp tục dùng, còn nếu có suy, tử khí thì nên dời đi nơi khác. Nếu phía ĐÔNG NAM phòng ngủ, phòng làm việc có cửa phòng, bếp, phòng tắm, cầu thang… và có lối đi dẫn thẳng đến cửa phòng thì cũng tùy theo trạch vận như thế nào mà dùng biện pháp hóa giải thích hợp. Về việc xây cất, mua nhà, hay mở tiệm làm ăn… trong năm nay (QUÝ TỴ) thì vẫn có thể chọn nhà tọa - hướng TỐN hay TỴ, chứ không cần phải kiêng kỵ. 3/ TUẾ PHÁ: Là khu vực đối diện với Thái Tuế. Vì năm nay Thái Tuế đến TỐN - TỴ (tức phía ĐÔNG NAM), nên Tuế Phá đến CÀN - HỢI (tức phía TÂY BẮC). Trái ngược với khu vực Thái Tuế đến là có quá nhiều dương khí, nơi Tuế Phá đến chỉ toàn là âm khí, nên chủ đau yếu, chết chóc, trắc trở, thất bại trong công việc. Vì vậy, nơi đó cũng không nên đập phá, tu sửa, động thổ, ngủ nghỉ hay làm việc. Đối với người sinh năm TỴ, ngày TỴ, hay trong năm, tháng, ngày, giờ sinh có 2, 3 hay 4 TỴ mà đi cửa phương HỢI thì mọi sự đều bế tắc, gặp nhiều tai họa. Cách hóa giải là dùng cửa khác, hoặc đi xa nhiều, hay tạm ở nhà khác. Ngay cả đối với người tuy sinh vào năm, tháng, ngày, giờ khác, nhưng nếu nhà có cửa phương HỢI, mà thường dùng cửa này trong năm nay cũng sẽ gặp nhiều khó khăn, trở ngại trong mọi công việc, vì ngoài Tuế Phá còn bị niên tinh Lục Bạch (số 6 - phạm Phục Ngâm) đến. Tuy nhiên, với nhà đắc vượng khí tại đây thì không sao cả. Nếu giường ngủ, bàn làm việc nằm tại phía TÂY BẮC thì sức khỏe kém, dễ bị bệnh tật, công việc gặp nhiều trở ngại, lại hay bị cấp trên hoặc quan quyền hãm hại, làm khó dễ... Vì vậy, cách tốt nhất vẫn là dời giường hoặc bàn làm việc đi nơi khác. Nếu cửa phòng ngủ, phòng làm việc nằm tại phía TÂY BẮC thì cần phối hợp với trạch vận và phi tinh của căn nhà để xem nó tốt hay xấu, rồi mới dùng cách hóa giải cho thích hợp. 4/ TAM SÁT: Năm nay đến phía ĐÔNG (gồm các khu vực DẦN - GIÁP - MÃO - ẤT - THÌN). Vì Tam Sát là chúa tể của âm khí, nên thường gây hình thương, chết chóc, bệnh tật nặng. Do đó, nơi nó đến cũng không được động thổ, tu sửa hoặc chặt cây (nhất là cây lớn). Nếu vẫn cứ làm thì nhẹ cũng bị tai họa, thương tích, nếu nặng có thể vong mạng. Vì Tam Sát là chúa tể của âm khí, nên tối kỵ đến phía sau nhà. Tuy nhiên, không phải bất cứ nhà nào tọa ĐÔNG (1 trong 5 khu vực kể trên) là đều sẽ gặp tai họa, mà chỉ những nhà có phòng ngủ và giường ngủ nằm trong khu vực của Tam sát mà thôi. Cho nên, với người có phòng hay giường ngủ nằm trong những khu vực đó thì nên dời phòng, kẻo sẽ có tai họa thương tích, mổ xẻ, hay bệnh tật nặng có thể làm tổn thương đến tính mạng. Nhất là năm nay các niên tinh đến đó đều bị Phục ngâm, nên nếu không dời giường thì sẽ khó tránh nổi tai họa. Tóm lại, năm QUÝ TỴ (2013) là 1 năm kinh tế bị suy thoái, cũng như dân chúng sẽ chịu nhiều áp lực của chính quyền và cấp trên hơn. Năm nay cũng là năm mà nhiều nước nhỏ, yếu bị những nước lớn, hùng mạnh tìm cách uy hiếp, đe dọa, khiến cho tình hình thế giới sẽ rất căng thẳng, có thể dẫn đến những cuộc chiến tranh trong năm nay và năm tới. Chicago, ngày 17 tháng 1 năm 2013 Bình Nguyên Quân
  9. Những dự đoán về năm 2013 của một "nhà tiên tri" Việt Thứ ba 22/01/2013 08:29 Nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu lý học Đông phương đã cung cấp những dự báo mới nhất về Việt Nam và thế giới năm 2013.Trao đổi với chúng tôi, ông cũng thẳng thắn đánh giá lại những lời tiên tri cho năm Nhâm Thìn (2012). Đây chỉ là những dự báo cá nhân mang tính chất tham khảo để độc giả cùng chiêm nghiệm. Mở đầu cuộc trò chuyện, ông Tuấn Anh- Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu lý học Đông phương (Hội Nghiên cứu phát triển khoa học Việt Nam - Đông Nam Á), khẳng định, phương pháp Huyền Không Lạc Việt cho thấy năm 2013 có nhiều dấu hiệu sôi động. Bởi vậy, đây là năm đầu tiên ông đưa ra những lời dự báo vào thời điểm đầu năm dương lịch thay vì đầu năm âm lịch như thường lệ. Nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh Tiên đoán không có "ngày tận thế" Ông đã dự đoán đúng những gì trong năm cũ 2012? - Năm 2012, tôi dự đoán trên một số phương tiện truyền thông rằng, nền kinh tế thế giới tiếp tục suy thoái ở cấp quốc gia, nối tiếp sự suy thoái năm 2011 nhưng ở mức độ trầm trọng hơn. Năm 2012 có nhiều doanh nghiệp bậc trung và thấp phá sản, kéo theo số người thất nghiệp đông đảo. Thị trường chứng khoán thế giới suy thoái nặng. Nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn AnhBất động sản trên toàn thế giới đều bị tình trạng khủng hoảng thừa. Ở một số nước là sự bùng nổ của bong bóng bất động sản, dẫn tới sự đổ vỡ của các ngành liên quan như ngân hàng, vật liệu xây dựng, ngành xây dựng... Vàng và giá dầu thế giới tăng đáng kể bắt đầu từ tháng 2 âm lịch. Ngành ngân hàng lao đao. Sẽ xuất hiện nhiều loại bệnh lạ, nhưng không mang tính phổ biến, chỉ cục bộ tại các vùng miền hoặc giới hạn trong lãnh thổ quốc gia. Khủng hoảng xã hội sẽ tăng nặng do suy thoái kinh tế gây ra. Những tệ nạn xã hội sẽ ngày một nhiều nhưng các vụ việc mang tính nghiêm trọng, đặc biệt tàn ác sẽ giảm. Tệ nạn buôn bán ma túy và các tệ nạn khác như buôn lậu, buôn người, nhập cư trái phép... vẫn không giảm và có chiều hướng tăng nặng hơn. Tất cả những điều tôi dự đoán này, may mắn đều chính xác. Trong năm 2012, ông có lời dự báo nào về "Ngày tận thế" từng gây chấn động dư luận Việt Nam và thế giới? - Chúng ta biết rằng, đã có rất nhiều những dự báo tiên tri về ngày tận thế trong khoảng một thập niên trở lại đây. Tuy nhiên, tôi đã sớm dự đoán rằng sẽ không xảy ra sự kiện tận thế vào ngày 21/12/2012. Tôi có thể khẳng định điều này là vì tôi không quan sát thấy một hiện tượng cận hiệu ứng, hay còn gọi là điềm báo, nào xảy ra. Trên thế giới vẫn có động đất, sóng thần nhưng không phải là hiện tượng bất thường. Người ta gọi ngày 21.12.2012 là ngày tận thế bởi vì bộ lịch cổ của nền văn minh Maya kết thúc vào ngày đó. Đây chỉ là sự kết thúc một chu kỳ lịch bình thường. Vào thời điểm đó, tất cả các hành tinh trong hệ mặt trời đều thẳng hàng và đường thẳng xuyên qua tâm của dải ngân hà. Đồng thời, ngày đó cũng chính là ngày đông chí. Xét theo lý học phương Đông thì đó là một hiện tượng cực âm trong tương quan vị trí các hành tinh trong Thái Dương hệ, tức là dương khí sẽ cực mạnh tác động lên trái đất. Tuy nhiên, khoảnh khắc các hành tinh thẳng hàng diễn ra rất nhanh. Bởi vậy, sự ảnh hưởng sẽ không lớn, chỉ đủ để kích hoạt những hiện tượng thiên tai nặng hơn bình thường trên trái đất chứ không phải là sự hủy diệt. Ông có dự đoán sai điều gì trong năm 2012 không? - Có. Tôi dự đoán có nhiều đơn vị, tổ chức nước ngoài sẽ đầu tư vào Việt Nam nhưng đến nay vẫn không thấy có nhiều thông tin về vấn đề này. Dự đoán năm mới 2013 Ông sẽ đưa ra những dự đoán gì về năm 2013? - Năm 2013, có 1 ngôi sao được gọi là Ngũ Hoàng nằm ở trung tâm địa cầu. Đây là 1 trong 2 ngôi sao xấu nhất trong Huyền Không Lạc Việt. Vì vậy, tôi dự đoán: Kinh tế toàn cầu Do sao Nhất Bạch quản trung cung nên vào nửa đầu năm, kinh tế thế giới có khởi sắc. Từ tháng giêng đến tháng 3 âm lịch sẽ có những dấu hiệu tốt do một số nước tung những gói cứu trợ cho nền kinh tế của mình và sự thương lượng về nợ xấu của các quốc gia được giúp đỡ để vượt qua khó khăn ban đầu. Từ cuối tháng 3 đến hết tháng 6, nhiều quốc gia chủ chốt có vẻ như ổn định được về mặt kinh tế và hứa hẹn phát triển. Tuy nhiên, đấy chỉ là trạng thái thể hiện bên ngoài, bởi vì sao Nhất Bạch tuy là ngôi sao tốt nhưng bị sinh xuất và bị sao Ngũ Hoàng khắc. Đó là lý do mà nửa cuối năm, những hy vọng của nửa đầu năm bắt đầu tan vỡ, những bất ổn xã hội tưởng chừng được khắc phục sẽ trở nên trầm trọng hơn. Sự lạm phát bắt đầu trở nên nặng nề. Có thể nói, nửa cuối năm Quý Tỵ là thời kỳ ảm đạm của nền kinh tế thế giới từ trước đến nay. Những doanh nghiệp bậc thấp và bậc trung tiếp tục phá sản. Giá vàng thế giới có xu hướng tăng, nền kinh tế tiếp tục suy thoái nặng, bất động sản cuối năm chết hẳn. Thiên tai Có thể nói năm 2013 là đỉnh cao của thiên tai. Tất cả các quốc gia thuộc trục tây bắc - đông nam đều bị thiên tai nặng nề. Càng về cuối năm thì thiên tai càng tăng mạnh và có tính cực đoan. Động đất cũng tăng nặng, khả năng sẽ xuất hiện trận động đất sánh ngang với các trận động đất ở Indonesia năm 2004 và Nhật Bản năm 2011. Những siêu bão sẽ xảy ra nhiều hơn, hạn hán cũng sẽ nặng nề hơn. Dịch bệnh Dịch bệnh không có gì thay đổi so với năm 2012 nhưng đề phòng các bệnh liên quan đến thú 4 chân gây ảnh hưởng đến người như chuột, lợn (heo). Tệ nạn xã hội Các vấn đề tệ nạn xã hội gần như không có gì thay đổi so với năm 2012, có khi còn ngày một nhiều hơn và táo bạo hơn. Nạn đói sẽ xảy ra do thiên tai và những tệ nạn như ma túy, mại dâm, buôn người không hề giảm. Nhìn chung, có thể nói, thế giới sẽ mệt mỏi trong năm 2013. Y học Năm 2013 tiếp tục có những phát minh vượt trội mang tính cách mạng trong y học. Có thể nói Tây y sẽ có những thay đổi căn bản về phương pháp chữa bệnh với các phát minh mới và ngày càng gần gũi với nền y học Đông phương. Xin cám ơn ông! http://giaoduc.net.vn/Xa-hoi/Nhung-du-doan-ve-nam-2013-cua-mot-nha-tien-tri-Viet/270576.gd
  10. Dự báo 2013 Huyền Không Lạc Việt (niên vận) Năm Nhâm Thìn sắp qua, năm Quý Tỵ dần đến. Những biến động về thiên tai, nhân họa, kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội, khoa học kỹ thuật...trên bình diện thế giới sẽ như thế nào, chúng ta chờ vào những dự báo của nhà nghiên cứu Lý học Thiên Sứ - Nguyễn Vũ Tuấn Anh - sẽ đưa ra trong một ngày gần đây. Trước tiên, xin quý đọc giả khảo qua sơ đồ Phi tnh Huyền Không Lạc Việt của niên vận Quý Tỵ 2013, cho cái nhìn toàn cục về thế tinh trên bản đồ thế giới. Bảng tiếng Anh: Thiên Đồng
  11. Những dự đoán về năm 2013 của một "nhà tiên tri" Việt Thứ ba 22/01/2013 08:29 Nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu lý học Đông phương đã cung cấp những dự báo mới nhất về Việt Nam và thế giới năm 2013.Trao đổi với chúng tôi, ông cũng thẳng thắn đánh giá lại những lời tiên tri cho năm Nhâm Thìn (2012). Đây chỉ là những dự báo cá nhân mang tính chất tham khảo để độc giả cùng chiêm nghiệm. Mở đầu cuộc trò chuyện, ông Tuấn Anh- Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu lý học Đông phương (Hội Nghiên cứu phát triển khoa học Việt Nam - Đông Nam Á), khẳng định, phương pháp Huyền Không Lạc Việt cho thấy năm 2013 có nhiều dấu hiệu sôi động. Bởi vậy, đây là năm đầu tiên ông đưa ra những lời dự báo vào thời điểm đầu năm dương lịch thay vì đầu năm âm lịch như thường lệ. Nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh Tiên đoán không có "ngày tận thế" Ông đã dự đoán đúng những gì trong năm cũ 2012? - Năm 2012, tôi dự đoán trên một số phương tiện truyền thông rằng, nền kinh tế thế giới tiếp tục suy thoái ở cấp quốc gia, nối tiếp sự suy thoái năm 2011 nhưng ở mức độ trầm trọng hơn. Năm 2012 có nhiều doanh nghiệp bậc trung và thấp phá sản, kéo theo số người thất nghiệp đông đảo. Thị trường chứng khoán thế giới suy thoái nặng. Nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn AnhBất động sản trên toàn thế giới đều bị tình trạng khủng hoảng thừa. Ở một số nước là sự bùng nổ của bong bóng bất động sản, dẫn tới sự đổ vỡ của các ngành liên quan như ngân hàng, vật liệu xây dựng, ngành xây dựng... Vàng và giá dầu thế giới tăng đáng kể bắt đầu từ tháng 2 âm lịch. Ngành ngân hàng lao đao. Sẽ xuất hiện nhiều loại bệnh lạ, nhưng không mang tính phổ biến, chỉ cục bộ tại các vùng miền hoặc giới hạn trong lãnh thổ quốc gia. Khủng hoảng xã hội sẽ tăng nặng do suy thoái kinh tế gây ra. Những tệ nạn xã hội sẽ ngày một nhiều nhưng các vụ việc mang tính nghiêm trọng, đặc biệt tàn ác sẽ giảm. Tệ nạn buôn bán ma túy và các tệ nạn khác như buôn lậu, buôn người, nhập cư trái phép... vẫn không giảm và có chiều hướng tăng nặng hơn. Tất cả những điều tôi dự đoán này, may mắn đều chính xác. Trong năm 2012, ông có lời dự báo nào về "Ngày tận thế" từng gây chấn động dư luận Việt Nam và thế giới? - Chúng ta biết rằng, đã có rất nhiều những dự báo tiên tri về ngày tận thế trong khoảng một thập niên trở lại đây. Tuy nhiên, tôi đã sớm dự đoán rằng sẽ không xảy ra sự kiện tận thế vào ngày 21/12/2012. Tôi có thể khẳng định điều này là vì tôi không quan sát thấy một hiện tượng cận hiệu ứng, hay còn gọi là điềm báo, nào xảy ra. Trên thế giới vẫn có động đất, sóng thần nhưng không phải là hiện tượng bất thường. Người ta gọi ngày 21.12.2012 là ngày tận thế bởi vì bộ lịch cổ của nền văn minh Maya kết thúc vào ngày đó. Đây chỉ là sự kết thúc một chu kỳ lịch bình thường. Vào thời điểm đó, tất cả các hành tinh trong hệ mặt trời đều thẳng hàng và đường thẳng xuyên qua tâm của dải ngân hà. Đồng thời, ngày đó cũng chính là ngày đông chí. Xét theo lý học phương Đông thì đó là một hiện tượng cực âm trong tương quan vị trí các hành tinh trong Thái Dương hệ, tức là dương khí sẽ cực mạnh tác động lên trái đất. Tuy nhiên, khoảnh khắc các hành tinh thẳng hàng diễn ra rất nhanh. Bởi vậy, sự ảnh hưởng sẽ không lớn, chỉ đủ để kích hoạt những hiện tượng thiên tai nặng hơn bình thường trên trái đất chứ không phải là sự hủy diệt. Ông có dự đoán sai điều gì trong năm 2012 không? - Có. Tôi dự đoán có nhiều đơn vị, tổ chức nước ngoài sẽ đầu tư vào Việt Nam nhưng đến nay vẫn không thấy có nhiều thông tin về vấn đề này. Dự đoán năm mới 2013 Ông sẽ đưa ra những dự đoán gì về năm 2013? - Năm 2013, có 1 ngôi sao được gọi là Ngũ Hoàng nằm ở trung tâm địa cầu. Đây là 1 trong 2 ngôi sao xấu nhất trong Huyền Không Lạc Việt. Vì vậy, tôi dự đoán: Kinh tế toàn cầu Do sao Nhất Bạch quản trung cung nên vào nửa đầu năm, kinh tế thế giới có khởi sắc. Từ tháng giêng đến tháng 3 âm lịch sẽ có những dấu hiệu tốt do một số nước tung những gói cứu trợ cho nền kinh tế của mình và sự thương lượng về nợ xấu của các quốc gia được giúp đỡ để vượt qua khó khăn ban đầu. Từ cuối tháng 3 đến hết tháng 6, nhiều quốc gia chủ chốt có vẻ như ổn định được về mặt kinh tế và hứa hẹn phát triển. Tuy nhiên, đấy chỉ là trạng thái thể hiện bên ngoài, bởi vì sao Nhất Bạch tuy là ngôi sao tốt nhưng bị sinh xuất và bị sao Ngũ Hoàng khắc. Đó là lý do mà nửa cuối năm, những hy vọng của nửa đầu năm bắt đầu tan vỡ, những bất ổn xã hội tưởng chừng được khắc phục sẽ trở nên trầm trọng hơn. Sự lạm phát bắt đầu trở nên nặng nề. Có thể nói, nửa cuối năm Quý Tỵ là thời kỳ ảm đạm của nền kinh tế thế giới từ trước đến nay. Những doanh nghiệp bậc thấp và bậc trung tiếp tục phá sản. Giá vàng thế giới có xu hướng tăng, nền kinh tế tiếp tục suy thoái nặng, bất động sản cuối năm chết hẳn. Thiên tai Có thể nói năm 2013 là đỉnh cao của thiên tai. Tất cả các quốc gia thuộc trục tây bắc - đông nam đều bị thiên tai nặng nề. Càng về cuối năm thì thiên tai càng tăng mạnh và có tính cực đoan. Động đất cũng tăng nặng, khả năng sẽ xuất hiện trận động đất sánh ngang với các trận động đất ở Indonesia năm 2004 và Nhật Bản năm 2011. Những siêu bão sẽ xảy ra nhiều hơn, hạn hán cũng sẽ nặng nề hơn. Dịch bệnh Dịch bệnh không có gì thay đổi so với năm 2012 nhưng đề phòng các bệnh liên quan đến thú 4 chân gây ảnh hưởng đến người như chuột, lợn (heo). Tệ nạn xã hội Các vấn đề tệ nạn xã hội gần như không có gì thay đổi so với năm 2012, có khi còn ngày một nhiều hơn và táo bạo hơn. Nạn đói sẽ xảy ra do thiên tai và những tệ nạn như ma túy, mại dâm, buôn người không hề giảm. Nhìn chung, có thể nói, thế giới sẽ mệt mỏi trong năm 2013. Y học Năm 2013 tiếp tục có những phát minh vượt trội mang tính cách mạng trong y học. Có thể nói Tây y sẽ có những thay đổi căn bản về phương pháp chữa bệnh với các phát minh mới và ngày càng gần gũi với nền y học Đông phương. Xin cám ơn ông! http://giaoduc.net.vn/Xa-hoi/Nhung-du-doan-ve-nam-2013-cua-mot-nha-tien-tri-Viet/270576.gd
  12. Kỳ lạ 2 bức tượng Huyền Thiên Trấn Vũ ở Hà Nội Nhắc đến Trấn Vũ, người ta nghĩ đến đền Quán Thánh, nơi có pho tượng đồng thánh Huyền Thiên Trấn Vũ quý giá. Nhưng ít ai biết rằng, ở Ngọc Trì, Thạch Bàn, Gia Lâm, Hà Nội cũng có một pho như thế với quy mô và kiến trúc mang nhiều nét tương đồng. Huyền Thiên Trấn Vũ bằng đồng nặng 4 tấn Thần Trấn Vũ có thể coi là hình ảnh giao thoa giữa hai nền văn hóa, vừa mang đậm truyền thuyết dân gian Việt Nam lại pha chút văn hóa Trung Quốc. Trong thần thoại Trung Quốc ghi lại thần Trấn Vũ được Ngọc Hoàng giao cho cai quản phương Bắc, lo việc mưa, gió, có bộ hạ theo hầu là rắn và rùa. Cũng bởi vậy, hình ảnh thần Trấn Vũ thường xuất hiện cùng biểu tượng quy, xà. Còn trong truyền thuyết của Việt Nam, thần Trấn Vũ là vị thần có công giúp An Dương Vương trừ tinh bạch kê quấy rối việc xây dựng thành Cổ Loa. Huyền Thiên Trấn Vũ bằng đồng nặng 4 tấn. Những người dân trong thôn Ngọc Trì luôn coi bức tượng khổng lồ bằng đồng như một bảo vật. Dân trong làng thuộc làu câu chuyện vua Lê Thánh Tông (1460-1497) trên đường đem quân đi chinh phạt phương Nam có nghỉ chân tại Cự Linh (tên gọi xưa của vùng đất Ngọc Trì). Đêm ấy, thánh Trấn Vũ hiển linh báo mộng phù trợ nhà vua. Nhân cái tích ấy, sau khi chiến thắng, vua cho lập đền và tạc tượng thờ, gọi là Hiển linh Trấn Vũ quán. Đền được xây dựng trên thế đất linh với “quy xà hội tụ”. Trước mặt là cánh đồng rộng có gò đất như hình rùa đang phục trước đền. Ôm trọn phía sau ngôi đền là con đê sông Hồng cao uốn lượn. Theo PGS.TS Trần Lâm Biền, nếu để ý, phần lớn các khu vực gần đê sông Hồng đều có đền thờ Huyền Thiên Trấn Vũ với mục đích để cầu mưa thuận gió hòa, trị thủy hoặc tiêu thủy. Như vậy, không có sự khác biệt ở hai pho tượng Trấn Vũ ở đền Quán Thanh hay ở Ngọc Trì. Chỉ khác nhau ở chức năng của vị thánh này khi được thờ ở hai nơi khác nhau. Như ở đền Quán Thánh là để trấn yêu ma, quỷ quái ở kinh toàn, canh giữ toàn bộ phương Bắc. Còn pho đặt ở Ngọc Trì lại chỉ có chức năng trị thủy, diệt thủy quái ở những khu vực thường bị nước lụt hoành hành. Những trùng hợp kỳ lạ Khi đền mới dựng, tượng Trấn Vũ tạc bằng gỗ. Nhưng để thờ suốt 292 năm thì hư hại quá nhiều. Đến thời Lê Hiển Tông thì đã không còn khả năng phục chế. Bấy giờ, Vua Lê Hiển Tông thấy pho tượng gỗ không tương xứng so với đức thánh Huyền Thiên Trấn Vũ bèn hạ lệnh cho người khẩn trương quyên đồng của dân chúng gần xa về đúc tượng. Các nghệ nhân đúc đồng lúc bấy giờ phải mất hơn 14 năm miệt mài lao động. Cùng những bức tượng đất hình thù kỳ lạ. Cứ mỗi lần đúc xong lại thấy chưa xứng với sự uy nghi bề thế của thần Trấn Vũ, lại một lần nữa đắp đồng cho tượng cao dần lên, to dần lên và ngày càng uy nghiêm, mang hùng thái của một vị tướng canh giữ cõi Bắc. Trên tấm bia “Trấn Vũ điện bi ký” dựng năm 1820 cũng ghi lại: “Năm Đinh Sửu Cảnh Hưng (1757) đúc tượng đồng. Mỗi lần chiêm ngưỡng tượng thần lại muốn to lớn hơn nên tiết đông chí năm Mậu Thân 1788) đúc lại tượng... đến tháng tám năm Nhâm Tuất (1802) thì hoàn thành”. Việc đúc pho tượng này cũng tồn tại hai thuyết khác nhau. Có thuyết cho rằng, tượng được đúc vào thời Tây Sơn, có thể lúc đầu chưa dám đúc ngay vì có thời gian nhà Tây Sơn dẹp bỏ các đền, chùa và thu chuông đồng để đúc vũ khí… Chỉ đến khi nhà Tây Sơn bỏ chính sách này, thì việc đúc tượng mới được tiếp tục tiến hành. Tuy nhiên, theo PGS. TS Trần Lâm Biền qua những dấu tích nghệ thuật trên pho tượng cho thấy, nhiều khả năng tượng được đúc từ cuối thời nhà Nguyễn, khoảng thế kỷ 19. Bởi cho đến nay chưa hề phát hiện được pho tượng thời Lê Trung Hưng nào được đúc theo lối kiến trúc, nghệ thuật như vậy. Chẳng hạn như đường lượn sóng ở nếp áo theo hình hoa văn sen lượn qua lượn lại rất mạnh, lối nghệ thuật này phổ biến ở cuối thời nhà Nguyễn chứ không hề có ở thời Lê Trung Hưng. Ngay cả tạo hình cắm râu bằng kẽm vào tượng cũng xuất hiện rất muộn. PGS.TS khẳng định, tượng này mang nhiều chi tiết ở các kiểu tượng muộn, ít khả năng có niên đại từ thời Lê như những thông tin trước đây đã từng công bố. Trải qua bao mưa nắng thời gian, pho tượng vẫn phần lớn bảo toàn được nguyên dạng so với dáng vẻ ban đầu. Tuy nhiên, cũng có những chi tiết đồng đã xuất hiện dấu hiệu xuống cấp, hoen gỉ, phần đồng lộ ra từng mảng nhỏ làm mất đi vẻ hoàn hảo vốn có của bức tượng. Mấy chục năm trước, một số hộ dân trong làng đã quyên góp tiền, sơn lên pho tượng một lớp áo bào, phủ một lớp sơn lên bề mặt tượng để bảo vệ tượng. Cũng từ đấy, pho tượng mới mang dáng vẻ như ngày nay, ngoài lớp áo bào, dưới đầu gối tượng cũng được tô vẽ họa tiết hoa sen cách điệu thành hình hổ phù tạo điểm nhấn tăng sự uy dũng cho pho tượng. Có một sự trùng hợp kỳ lạ là pho tượng này mang nhiều nét tương đồng với tượng Trấn Vũ ở đền Quán Thánh. Cả hai bức tượng đều được đúc trong tư thế ngồi uy nghiêm trên một bệ gạch cao, đầu để trần, mặt tròn, mắt mở to, nhìn thẳng, mày rậm, mũi to, cằm tròn, miệng khép, môi dày, có ria mép, tai to, tỏa ra dáng dấp uy nghiêm lạ lùng. Tay trái tượng để trước ngực, đang bắt quyết. Tay phải úp xuống đốc kiếm. Mũi kiếm chúc xuống chồng lên mai rùa. Pho tượng Trấn Vũ ở Ngọc Trì rộng 1,7 mét, dài 2,9 mét. Tượng cao 3,8 mét, nặng khoảng 4 tấn. Những con số gần như trùng khớp với pho tượng ở đền Quán Thánh mặc dù hai pho tượng được đúc vào hai giai đoạn khác nhau. Ông Mai Hồng Binh - Trưởng tiểu ban quản lý di tích phường Thạch Bàn cho biết, nếu không sớm có kế hoạch trùng tu, tôn tạo, di vật vô giá ở đây có thể sẽ vĩnh viễn bị lãng quên theo thời gian. (Theo An ninh thủ đô) KỲ BÍ TƯƠNG HUYỀN THIÊN TRẤN VŨ ĐỀN QUÁN THÁNH Nhắc đến đền Quán Thánh, người ta sẽ nghĩ ngay đến pho tượng đồng quý giá Huyền Thiên Trấn Vũ. Bức tượng đồng nổi tiếng này chứa đựng nhiều điều kỳ bí cần được giải mã. Đền Quán Thánh xưa kia được xem là một trong Thăng Long tứ trấn và Thăng Long tứ quán. Tương truyền ngôi đền có từ đời Lý Thái Tổ thờ thánh Trấn Vũ – vị thần trấn giữ phương Bắc. Vì vậy mà đền có tên là Đền Trấn Võ, Quán Thánh Trấn Võ hay Quán Thánh. Tương truyền, thánh Trấn Vũ là người có công trị loài hồ ly tinh chuyên quấy nhiễu dân lành. Để tưởng nhớ công ơn to lớn của ông, nhân dân đã cùng nhau đúc lên một bức tượng phác họa hình ảnh của ông bằng đồng đen. Bức tượng được đặt trên tảng đá cẩm thạch với hình ảnh đức Huyền Thiên Trấn Vũ mặt vuông chữ điền nghiêm nghị mà bình thản hiền hậu, hai bàn chân để trần, bàn tay trái đưa lên ngang ngực bắt ấn thuyết giáp, bàn tay phải úp lên đốc kiếm, kiếm chống trên lưng rùa nằm giữa hai bàn chân, quanh lưỡi kiếm có con rắn quấn từ dưới lên trên. Bức tượng đồng Huyền Thiên Trấn Vũ Rắn và rùa theo truyền thuyết kể lại là hai bộ hạ theo hầu đức Trấn Vũ. Có lẽ vì thế mà rắn – rùa – kiếm đã tạo thành bộ ba biểu trưng cho Huyền Thiên Trấn Vũ. Bức tượng Huyền Thiên Trấn Vũ là một công trình nghệ thuật độc đáo, khẳng định nghệ thuật đúc đồng và tạc tượng của người Hà Nội cách đây ba thế kỉ. Khi dựng lên bức tượng này, nhân dân muốn gửi gắm nhiều thông điệp quý giá. Đi tìm hiểu nguồn gốc và quá trình tồn tại của bức tượng này, chúng ta sẽ dần dần khám phá ra những bí mật ẩn chứa đằng sau những khối đồng, hình dáng, tư thế… của bức tượng. Hành trình Thông điệp từ cổ vật sẽ cùng quý khán giả đi khám phá và giải mã bí ẩn của bức tượng đồng nổi tiếng này. Đón xem chương trình Thông điệp từ cổ vật – Kỳ bí tượng Huyền Thiên Trấn Vũ đền Quán Thánh trên kênh truyền hình VTV2 vào 21h30 thứ tư hàng tuần hoặc xem tại website: Vietpictures.net (xem tại đây)
  13. PHÁ TƯỚNG CẢ CUỘC ĐỜI VÌ HÌNH XĂM KHÔNG ĐÚNG CHỖ Xăm hình còn được gọi là Thích thanh (dùng mực xanh chích lên người) hay xâm mình, là tục người xưa thường dùng khắc chữ lên mặt hoặc lên người phạm nhân… Trước đây, chỉ những thành phần ra tù vào khám, “tiền án nhiều hơn tiền túi” mới xăm trổ đầy mình, vì vậy khi thấy ai đó có hình xăm trên người là bị liên tưởng ngay đến những thành phần bất hảo trong giới giang hồ. Ngày nay, hình xăm thậm chí còn được coi là mốt của 1 số bạn trẻ, nhưng ít ai biết có quan niệm cho rằng nếu xăm không đúng chỗ sẽ là một kiểu phá tướng. Mạng nhỏ đòi gánh… rồng Theo quan niệm của một số bạn trẻ ngày nay, hình xăm thậm chí đã trở thành một trào lưu trong giới trẻ, là một hình thức thẩm mỹ, gây ấn tượng, thể hiện đẳng cấp, ghi dấu tình yêu của các bạn trẻ hoặc xua đuổi vận hạn… Thế nhưng, một nhà nghiên cứu cho biết, nếu bạn nghĩ rằng mình có thể tùy tiện xăm lên cơ thể bất kỳ hình thù gì mình muốn thì nên bỏ ngay suy nghĩ đó, vì nó hoàn toàn sai lầm trong quan niệm của thuật phong thủy và nhân tướng học : Xăm hình thường là xấu nhiều tốt ít, xăm hình mà không thận trọng, hậu quả tai hại sẽ theo mình suốt đời. Bởi vậy, có người xăm hình xong thì mọi việc hạnh thông thuận lợi (số này rất ít), có người xăm xong thì làm gì cũng gặp rắc rối, nhẹ thì có chút khó khăn rồi cũng qua, nặng thì tai nạn xe cộ phạm đến thân thể. Phá tướng cả cuộc đời vì hình xăm không đúng chỗ ? Một nam thanh niên từng đến than thở với một chủ tiệm hình xăm tại Hà Nội : “Từ lúc xăm hình con rồng này, cháu thấy mình số đen lắm, làm gì cũng “chết”, chắc tại con rồng nhỏ quá. Chú xem cháu đang định sửa con rồng to hơn, xăm từ bắp tay đến ngực luôn có được không”. Chủ tiệm nhìn thoáng qua đã có thể nói được ngay, vấn đề ở chỗ không phải con rồng to hay nhỏ, mà chẳng qua vì mạng của bạn không thể gánh nổi con rồng đó thôi. Nói không gánh được tức là mệnh lý khắc, xăm lên xong không những không đem lại may mắn, mà ngược lại toàn đem đến những điều đen đủi. Vì vậy, dù sao mọi người cũng nên suy nghĩ trước vì xăm thì dễ mà xóa thì khó. Kỳ thực, có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến cuộc sống của một con người, trên đây chỉ là một cách nhìn về hình xăm trên góc độ phong thủy học và nhân tướng học. Nói về xăm hình, không đơn thuần chỉ là người thợ xăm dán hình xăm lên người bạn rồi chấm mực di mũi kim mà nó có nguyên lý của nó, nguyên lý ấy là giữa người xăm và hình xăm. Theo những người trong nghề, trong dòng xăm chính thống, khó xăm nhất là hình Quan Công, Thanh Long, Tà Long vì không phải ai cũng gánh được mấy hình này. Có người xăm hình Thanh Long quá vai chưa đến 1 tháng thì bị ngã xe gãy tay, mọi ngày chạy bạt mạng thì không sao, hôm ấy chỉ đi từ từ một tay rút cái điện thoại trong túi quần, không để ý quệt vào đuôi xe đằng trước, ngã rất nhẹ mà gẫy tay. Một người khác sau khi xăm hình cá chép hóa rồng trên vai bỗng nhiên làm ăn rất thuận lợi, chưa đến 1 năm gặp lại mà đã mua nhà, mua xe. Nhưng từ khi xăm chữ nhẫn ở sau lưng thì lại xuống dốc không phanh, tài sản hầu như tiêu tán hết, may là còn giữ được cái mạng. Trước khi xăm, người này đã được cảnh báo là không hợp với chữ nhẫn nhưng không tin, thấy thích thì cứ xăm lên, giờ lại phải xóa hình đi, người chằng chịt vết xóa. Phải đến lúc đó, người này mới đi tìm hiểu và biết được ý nghĩa của chữ nhẫn : bên trên là cây đao đè lên tim, nhúc nhích là đao đâm vào tim ngay. Với những người tính hay vội vàng, dễ kích động và hơi có chút giảo hoạt không nên xăm chữ này. “Trước khi xăm chữ nhẫn tuyệt đối phải nên xem tính cách của mình có hợp với ý nghĩa hay không” – một nhà nghiên cứu phong thủy cho biết. Suýt chết vì “phạm thượng” Theo một chủ tiệm xăm lâu năm am hiểu về phong thủy, hình xăm phải tương thích với thực lực, tính cách, mệnh lý của từng người, nếu không hiểu biết thì may mắn và đại họa chỉ cách nhau gang tấc. Phá tướng cả cuộc đời vì hình xăm không đúng chỗ ? “Cách đây không lâu có một thanh niên cùng bạn đến tiệm nằng nặc đòi xăm hình “Quan âm ngồi đài sen” trên lưng, tôi hỏi liệu cậu có gánh được không, người thanh niên quát bảo tôi có tiền thích xăm gì chẳng được, ông cứ xăm cho tôi, không phải lằng nhằng. Lúc ấy, tôi nói không phải do vấn đề tiền nong mà thấy cậu còn trẻ giống một anh bạn giang hồ mới nổi chỉ nên xăm hình “hổ hạ sơn” là hợp lý, ra ngoài gặp giang hồ cộm cán thấy cậu chỉ là con hổ mới xuống núi, vừa bước chân vào xã hội thì họ cũng không gây khó dễ cho cậu. Cậu thanh niên kia nhất quyết không chịu, còn đe dọa quậy phá để cho tôi đóng cửa tiệm để xăm hình bằng được mới thôi, tôi cũng đã cảnh báo trước nếu có chuyện gì xảy ra thì đừng trách không nói trước” – vị chủ tiệm này kể lại. Hôm đó, xăm mất 8 tiếng đồng hồ mới xong, chủ tiệm cũng đã nhắc nhở thanh niên đó phải tắm rửa sạch sẽ, thắp hương chay tịnh 1 tuần rồi sau làm gì thì làm. Ai ngờ, 4 hôm sau anh ta đi mát xa, thư giãn, đến lúc dẫm lưng bỗng nhiên thanh sắt là tay bám bên trên tuột ốc rơi xuống, cô gái mát xa trượt chân ngã, khuỷu tay của cô gái chống thẳng vào gáy cậu thanh niên kia. Hậu quả ai cũng đoán ra, cậu thanh niên đó bị tổn thương đốt sống cổ, điều trị hơn 3 tháng mới đỡ. Vị chủ tiệm xăm giải thích : “Anh thử nghĩ xem liệu có thể dẫm lên mặt Quan âm được không, như vậy là bất kính với Phật. Tuy cậu thanh niên kia đã xăm hình Phật lên người nhưng trong tâm niệm không có thần Phật tồn tại, thường hay tà niệm, tính tình ngang ngược vốn đã không có duyên với Phật rồi, tôi đã biết trước thế nào cũng có ngày xảy ra chuyện nhưng cậu thanh niên kia không tin”. Một chủ tiệm xăm khác tại Hà Nội cũng cho rằng : “Chỉ lấy một vài ví dụ đa phần mang tính trùng hợp này để chứng minh thì không có tính thuyết phục lắm, bạn có thể tin hoặc không tin, chỉ muốn nhắc nhở các bạn rằng không phải cứ thích xăm hình gì là xăm, vì có nhiều cái mệnh của bạn không hợp, may mắn không thấy đâu, có khi còn bị nó…vật”. Ông giải thích : “Nghĩa là người như thế nào thì xăm hình ấy, không thể tùy tiện, cái này một phần có nguyên lý bắt nguồn từ Chu Dịch. Ví dụ người mệnh kim thì dương khí tương đối vượng nên không thể xăm Thanh Long (thuộc tính dương), nếu xăm lên sẽ thành ra lửa cộng lửa, âm dương không điều hòa, sớm muộn gì cũng tự… đốt chết mình. Một số quan niệm về xăm hình trong phong thủy và nhân tướng học Xăm hình “tứ thú” có thể gây tổn nguyên kh : Nhiều bạn trẻ lý giải về xăm hình “tứ thú” trong thuật phong thủy và cho rằng khi đã xăm thì phải là : tả Thanh Long, hữu Bạch hổ, tiền Chu tước, hậu Huyền vũ (bên cánh tay trái xăm hình rồng xanh, cánh tay phải xăm hình hổ trắng, ngực trước xăm hình chim công, sau lưng xăm hình Huyền vũ (Huyền vũ là một trong tứ tượng của thiên văn học Trung Quốc, là linh vật thiêng liêng có tượng là hình con rắn quấn quanh con rùa màu đen). Nhưng trước khi xăm, bạn nên cân nhắc kỹ vì tuy nó là 4 linh vật thánh đem lại may mắn nhưng không phải cho tất cả mọi người, chỉ một số người gánh được 4 linh vật này, còn lại với đa số người thì được coi là hung. Xăm ngực hoặc phần dưới cơ thể dễ loạn hậu thế : Hiện nay có nhiều người xăm vào ngực, bụng, eo, đùi,… quả thật những hình xăm rất tinh tế, nhưng trong quan niệm của thuật phong thủy thì những hình xăm phá tướng đó khiến phần hạ thế, nơi cất giữ phong khí lớn nhất của con người bị tổn hại, khí thoát ra ngoài nên nếu chưa có gia đình thì ảnh hưởng đến tình duyên, nếu không thì sau này ảnh hưởng đến sinh nở hoặc sẽ phát sinh rắc rối trong mối quan hệ giữa con cái và bản thân. Xăm hình ở ngón tay sẽ khắc chồng, khắc vợ. Nữ xăm hình ở ngón tay của cánh tay trái, chồng bạc duyên; xăm ở ngón tay của cánh tay phải thì nhân duyên kém; con trai thì ngược lại. Xăm vào mông có thể gặp nhiều điều thị phi : Theo vị lý học phong thủy thường đề cập đến các “luân đầu”, phần mông trên cơ thể người là nơi “luân đầu” quan trọng nhất của con người, một khi luân đầu này bị “tấn công”, bị cắt đứt, thị phi cũng theo đó mà đến (giống như bị triệt long mạch). Đi đến đâu bạn cũng sẽ gặp “quỷ con – chỉ vận hạn nhỏ nhưng thường xuyên”, khó mà dứt ra được. Xăm hoa văn bên đùi khiến đường đời gập ghềnh : Nếu bạn vốn có vận may rất tốt bỗng nhiên trở nên gặp khó khăn sau khi xăm hình trên đùi thì có thể bạn bị phạm rồi. Xăm hình để che vết sẹo : Nhiều bạn vì trên cơ thể có vết sẹo xấu nên xăm hình nhằm che đi chỗ xấu ấy nhưng lại không biết rằng sẹo trong phong thủy vốn dĩ đã là chỗ gây tổn hại đến khí, xăm hình lên chỗ sẹo thành ra là loạn lại càng thêm loạn; nếu vết sẹo không ảnh hưởng nhiều thì không nên can thiệp. Xăm ở vai, ở cổ gây mệnh khổ : Xăm hình sau lưng biểu thị cả đời lúc nào cũng vất vả, gánh vác, áp lực lớn. Trong nhân tướng học, vai, cổ là đại diện cho hệ thống hô hấp vì vậy khi xăm hình lên bộ phận này dễ gặp vấn đề liên quan đến hệ hô hấp. Xăm hình động vật dễ gây hỗn loạn trong tâm tưởng : Xăm hình nhân vật, động vật hoặc côn trùng biểu thị suốt đời bị người khác sai khiến, chỉ huy, không có chủ kiến. Đồng thời khi xăm hình động vật cần chú ý đến vấn đề xung khắc các con giáp. Người tuổi Thìn, Tuất, Mão, Hợi đặc kị xăm hình Rồng; người tuổi Thân, Tỵ đặc kị xăm hình Hổ; người tuổi Mão, Dậu, Tuất đặc kị xăm hình bướm. Xăm thực vật, cây cỏ : Thực vật thuộc hành Mộc, da thuộc hành Thổ, Mộc khắc Thổ vì vậy dễ gây ra sự cố bất thường, tai bay vạ gió, bị thương tích. Xăm hình thần Phật : Một số người thích xăm hình thần phật trên người vì nghĩ rằng làm như vậy sẽ luôn được thần phật bên cạnh phù hộ, nhưng thử nghĩ xem, lúc tắm rửa, đi vệ sinh và các hoạt động phòng the thì sao ? Thực ra là toàn cho thần “xơi” những thứ xú uế, trần tục. Xăm lên xong mà không biết chay tịnh, kiềm chế thì ắt rước họa vào thân. Xăm lên tay chân gây điều tiếng thị phi : Khi xăm lên tay chân, bất kể là màu sắc gì đều đem lại thị phi suốt đời, phong ba luôn ập tới bất ngờ, làm việc gì cũng không được thuận lợi. Xăm ở bắp chân trở xuống dễ gây tranh chấp trong chuyện tình cảm nam nữ, luôn trong trạng thái bị áp lực, căng thẳng, tài vận đi xuống. Tục xăm hình xuất hiện cách đây vài chục ngàn năm, tồn tại song song cùng nhiều làn sóng văn minh nhân loại. Xăm hình không chỉ thể hiện sự nhận dạng sắc tộc, mà trong nhiều trường hợp còn là phương cách chữa bệnh. Tại eo biển Bering, nhà dân tộc học George B. Gordon từng gặp nhiều người ở đảo Diomede với vết xăm ở gò má và thái dương đó là những sẹo nhỏ sau khi người ta châm ra hút máu độc. Ở Alaska, hiện vẫn có tục chích da để “rút máu độc” cho vài căn bệnh. Dân Chugach Eskimo cũng có cách chữa tương tự. Khi bị đau mắt, họ chích ra lấy máu ở chóp mũi và thái dương….
  14. ĐỘN THIÊN CƯƠNG Đây là 1 phép bấm độn của người xưa, rất hay và tiện lợi, dễ sử dụng nữa, ai cũng có thể tự xem quẻ cho mình ngay khi cần. Quẻ Dịch phải tịnh tâm, mới không luận đoán thiên lệch. Cách này thì khác, có công thức sẵn, cứ tháng ngày giờ mà tính ra, có lời bàn sẵn , tuy không đủ hết các chuyện mình cần hỏi nhưng có nó cũng tiện. Cách tính như sau : Xin xem tấm hình bàn tay đó có sẵn các vị trí Tý, Sửu , Dần , Mẹo Tháng Giêng , tháng 9 : Khởi từ Sửu. Tháng 2 , tháng 8 : Khởi từ Tý. Tháng 3 , tháng 7 : Khởi từ Hợi. Tháng 4 , tháng 6 : Khởi từ Tuất. Tháng 5 : Khởi từ Dậu. Tháng 10, tháng 12 : Khởi từ Dần. Tháng 11 : Khởi từ Mẹo. Trên tháng khởi ngày mùng 1 , tính đến ngày ta đang xem thì dừng lại. Trên cung ngày ấy khởi giờ Tý , tính đến giờ ta đang xem là giờ gì thì dừng lại. Từ cung đó lùi lại 1 cung ( thí dụ Mùi lùi lại Ngọ ; Hợi lùi lại Tuất ; Mẹo lùi lại Dần..) , bấm đó là Thiên Cương. Xem đó là cung thuộc Mạnh- Trọng-Quý , so với bảng chú giải việc ta đang xem , xem Thiên Cương gia vào cung Mạnh-Trọng-Quý đó sự việc sẽ là gì , vậy là đã xong. Thiên Cương chính là 1 trong 12 vị Đô Thiên Nguyệt Tướng trong phép chọn ngày. 12 vị đó theo thứ tự là : Thiên Cương , Thái Ất , Thắng Quang , Tiểu Cát , Truyền Tông , Tòng Khôi , Hà Khôi , Đăng Minh , Thần Hậu , Đại Cát , Công Tào , Thái Xung. Người ta dùng năm tháng để tìm ra 4 Nguyệt Tướng rơi vào Sơn nào trong PT cần tu sửa , sẽ được đại cát lợi. Có câu thế này : ""Công Tào , Truyền Tông giàu địch quốc . Thắng Quan , Thần Hậu bền trăm năm ". Cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng dựa vào 12 Nguyệt Tướng này soạn ra quẻ Nhâm Cầm Độn Toán , các bước trên cũng y vậy. Chỉ thêm ở bước cuối : Sau khi có vị trí cho Sao Thiên Cương thì lấn lượt gia các Sao khác vào các cung , tìm xem 3 TƯỚNG :" Đăng Minh , Thần Hậu , Đại Cát " gia vào cung nào trong 4 cung Tý , Ngọ , Mẹo , Dậu mà luận đoán quẻ vậy. Tổng cộng có 12 trường hợp. Còn MẠNH-TRỌNG-QUÝ là tính y theo M-T-Q của các tháng vậy , tức là : _ các cung Dần , Thân ,Tị ,Hợi là MẠNH _ các cung Tý , Ngọ , Mẹo , Dậu là TRỌNG _ các cung Thìn , Tuất , Sửu , Mùi là QUÝ. VÍ DỤ 1 : Xem quẻ Cầu tài , lúc ngày mùng 8 , tháng 5 , giờ Mẹo. * Trước tiên ta tra xem tháng 5 ở cung nào ,thấy ở cung Dậu. * Từ cung Dậu ta tính là mùng 1 , cung Tuất mùng 2 , cung Hợi mùng 3 , cung Tý mùng 4 , cung Sửu mùng 5 , cung Dần mùng 6 , cung Mẹo mùng 7 , cung Thìn mùng 8. Đây là ngày ta đang xem nên dừng lại. * Từ cung Thìn này ta cho nó là giờ Tý , tính tiếp cung Tị giờ Sửu , cung Ngọ giờ Dần , cung Mùi giờ Mẹo. Đây là giờ ta đang xem quẻ nên dừng lại. * Từ cung này lùi lại 1 vị là Thiên Cương , vậy cung Mùi lùi ngược lại là Ngọ , Thiên Cương ở Ngọ. * Ta thấy Thiên Cương gia Ngọ là gia Trọng , xem ở quẻ cầu tài Thiên Cương gia Trọng cầu tài được không , đó là quẻ ta cần tìm vậy. VÍ DỤ 2 : Xem quẻ bệnh nặng nhẹ , tháng 11 , ngày 14 , giờ Tuất. * Trước tiên xem bảng trên thấy tháng 11 ở cung Mẹo. * Tại cung Mẹo khởi mùng 1 , cung Thìn là mùng 2 , cung Tị là mùng 3 , cung Ngọ là mùng 4.....cung Mẹo là ngày 13 , cung Thìn là ngày 14. * Tại cung Thìn ta khởi giờ Tý , cung Tị giờ Sửu , cung Ngọ giờ Dần , cung Mùi giờ Mẹo , cung Thân giờ Thìn...cung Dần giờ Tuất. * Tại cung Dần lùi lại 1 cung là cung Sửu , tức Thiên Cương ở cung Sửu ,là gia Quý. * Xem bài giải ở quẻ bệnh nặng nhẹ , xem Thiên Cương gia Quý là sao , đó là quẻ ta cần tìm vậy. CẦU TÀI : Thiên Cương gia Mạnh cầu nan đắc Gia Mạnh cầu đắc dã tu trì Gia Quý chi thời cầu lập đắc Tài hướng Đông lai cánh vô nghi ==> Mạnh thì khó được , Trọng thì được nhưng chậm , Quý thì có ngay Tài từ hướng Đông đưa đến. XUẤT HÀNH CÁT HUNG : Thiên Cương gia Mạnh đại cát xương Gia Trọng xuất hành vi họa ương Gia Quý chi thời đa bình ổn Quân lưu y thử định hà phương ==>Mạnh là rất tốt;Trọng thì không nên,đi ra e có tai họa đến thân ;Quý bình an HÀNH NHÂN : Thiên Cương gia Mạnh thân bất động Gia Trọng chi thời bán lộ lai Gia Quý chi thời tức cánh chí Quân hành tu ký thử tam thời. ==>Mạnh thì người chưa đi ; Trọng thì người đã đi được nửa đường ; Quý thì người sắp đến nơi , chừng khoảng 3 canh giờ thì đến. GIAO DỊCH : Thiên cương gia Mạnh ứng bất toại Gia Trọng chi thời ứng thành khả mưu Gia Quý chi thời khả toại ý Trở trệ ứng vô mạc tu sầu. ==>Mạnh thì không được ;Trọng thì có thể ứng thành ;Quý thì toại ý , lúc đầu có trắc trở , đình trệ xin chớ lo , mọi việc trước trì trệ sau hanh thông QUAN SỰ : Nhược vấn quan sự cát dữ hung Gia Mạnh vô lý nhi hòa bình Gia Trọng tha thâu thử tiếu bĩ Quý thượng yêm lưu ngã tất doanh. ==> Mạnh e không thể an bình ; Trọng thì đắc lợi ; Quý thời thắng kiện , đắc lý BỆNH KHINH TRỌNG : Thiên Cương gia Mạnh nhân bệnh trọng Gia Trọng bệnh khinh bất dụng sầu Gia Quý chi thời nan đắc hảo Cấp nghi nhương tạ tảo đồ mưu ==> Mạnh thì bệnh nặng ; Trọng thì bệnh nhẹ , không cần sầu lo ; Quý thì không tốt , phải mau cúng vái cầu xin mới mong qua khỏi. MÃI MẠI : Kinh doanh lợi ích hữu kiêm vô Gia Mạnh nan cầu ý bất như Gia Trọng bình bình , Quý mãn ý Quân năng y thử định vô nghi. ==> Mạnh thì không như ý , Trọng thì buôn bán bình thường , Quý thì buôn may bán đắt. SANH SẢN NAM NỮ CÁT HUNG : Thiên Cương gia Mạnh thị nam tử Gia Trọng nữ nhơn định thị nghi Gia Quý chi thời sản phụ tử Cấp nghi tác Phúc đắc an ninh. ==> Mạnh thì là sanh trai , Trọng thì sanh nữ , Quý thì người mẹ nguy hiểm , phải mau làm Phúc mới mong cứu được. ĐÓA TỊ THỊ PHI : Hồi tị chi nhân thị dữ phi Mạnh Đông vi cát , Trọng nghi Tây An chi Đông Bắc gia chi Quý Thử thị thần tiên diệu tích ky ==> Mạnh thì tránh về hướng Đông , Trọng thì tránh về hướng Tây , Quý thì tránh về Đông Bắc. Đây là phép tìm phương tránh những chuyện thị phi ngày xưa vậy. NCD chỉ biên ra đây , còn ngày nay gặp chuyện chúng ta cần đương đầu tìm cách giải quyết , khác với xưa vậy. từ: psy-che.com
  15. B.- PHẦN DỊCH :- TRUNG LỤC NHÂM THIÊN CƯƠNG CHƯỞNG QUYẾT (Gia Cát Thiên cương mã tiền Lục nhâm thời khóa) -----00O00----- (Đây là một bản dịch thoát ý có từ lâu của tác giả KHẢI HUYỀN TỬ, xuất hiện giữa thế kỷ 20, vì thấy đầy đủ và hay nên tôi đưa lên luôn khỏi dịch. Còn vị nào xem bằng chữ Hán được thì cứ xem nguyên tác tốt hơn)Bản dịch xưa của Khải Huyền Tử tiên sinh *Cung khởi Nguyệt tướng :- Nguyệt tướng chỉ đóng có 7 cung, từ Dậu đến Mão Dậu : Tháng 5 Tuất : Tháng 4,6 Hợi : Tháng 3,7 Tý : Tháng 2,8 Sửu : Tháng 1,9 Dần : Tháng 10,12 Mão : Tháng 11 --Hễ tháng nào Nguyệt tướng ở đâu thì khởi mồng 1 ngay tại đó,( đi thuận) lần lượt từ Tý đến Hợi, cả 12 cung. Khi đi đến ngày ( hiện tại) mình đang bấm độn, thì khởi Tý ngay tại đó. Hễ tính đến giờ hiện tại mình đang bấm độn, thì lùi lại một cung, khởi ngôi Thiên cương 10 vị, để tìm tam thần. Phép Nhâm độn này của người Việt Nam, theo công thức riêng. Trước hết phải học thuộc lòng những công thức dưới đây. *Ca tìm ngôi Nguyệt tướng: Tháng giêng, tháng 9 tìm trâu (Sửu) Tháng 5 gà( Dậu) gáy ta mau quay về Tháng 4, tháng 6 chó lê (Tuất) Tháng 3, tháng 7 lơn chế cám hầm(Hợi) Tháng 2, tháng 8 chuột nằm(Tý) Tháng 10, tháng chạp hùm dầm rừng hoang(Dần) Tháng 11 thì thỏ lạc đàn(Mão) Những ngôi Thiên Tướng phải thường nhớ ghi *Bàn tay tính nhâm độn: Tháng giêng khởi từ cung Sửu, đi nghịch về cung Tý tháng 2, Hợi tháng 3, Tuất tháng 4, Dậu Tháng 5, quay trở lại đi thuận qua cung Tuất tháng 6, Hợi tháng 7, Tý tháng 8, Sửu tháng 9, Dần tháng 10, Mão tháng 11, Dần tháng 12. (quay trở lại đi nghịch) *Thế nào là Nguyệt Tướng: Nguyệt Tướng là vị tướng thần, lâm vào tháng mình hiện đang bấm độn, tính theo dẫy thập thần, bao gồm :- 1- Thiên Cương 2-Thái Ất 3-Thắng Quang 4-Tiểu Cát 5-Truyền Tống 6-Tòng Khôi 7-Hà Khôi 8-Đăng Minh 9-Thần Hậu 10-Đại Cát Dãy Thiên Cương phải học thuộc lòng, có 10 ngôi, gọi là thập thần, 3 ngôi dưới là ngôi thứ 8,9,10 gọi là tam thần . --Thế nào gọi là tam thần lâm tứ tướng: Mỗi khi khởi tính từ Thiên Cương cho đến ngôi thứ 7 là Hà Khôi thì không kể, kế tiếp theo ngôi thứ 8 là Đăng Minh( thần gia Mạnh) đến ngôi thứ 9 là Thần Hậu( thần gia trọng), đến ngôi thứ 10 là đại cát ( thần gia quý). Như vậy là tam thần. --Tứ tướng: Bốn cung tý, ngọ, mão, dậu, tính từ tý đến hợi là 12 cung, hễ ngôi tam thần trúng vào Tý ngọ mão dậu, tưc là ngôi thần đã đến với tướng rồi, quẻ đã thành khỏi phải tính tiếp. *Bốn tướng tính theo âm dương ngũ hành: Tý là dương tướng thuộc thủy Mão là âm tướng thuộc mộc Mão là dương tướng thuộc hỏa Dậu là âm tướng thuộc kim *Ba thần tính theo ngũ hành là Đăng minh thuộc Mộc Thần hậu thuộc hỏa Đại cát thuộc kim *Thế nào là nội ngoại: 4 tướng đóng ở 4 vị trí , không di hoán( xê dịch) nên gọi là nội, ba thần di chuyển khắp 12 cung, để tìm tướng nên gọi là ngoại ( Ngoài tìm đến) *Phép tính mạnh trọng quý: *Ngôi Đăng Minh lâm vào cung tý hay ngọ hay mão hay Dậu là Mạnh Ngôi Thần Hậu lâm vào cung tý hay ngọ hay mão hay dậu là Trọng. Ngôi Đại cát lâm vào cung tý hay cung ngọ hay cung mão hay cung dậu là Quý. NÓI THÊMPhép định ngôi Thiên Cương để phân Mạnh, Trọng , Quý: (tính nhanh) Ngôi Thiên cương gia vào 4 cung: Dần, thân, tỵ, hợi thì là Mạnh( Ngôi Thiên Cương khởi từ Dần thân tỵ hợi thì Ngôi Đăng Minh phải đóng vào 4 cung: tý ngọ mão dậu) Ngôi Thiên cương gia vào 4 cung: Thìn, tuất ,sửu, mùi thì là Trọng( Ngôi Thiên Cương khởi từ Thìn, tuất ,sửu, mùi thì Ngôi Thần Hậu phải đóng vào 4 cung: tý ngọ mão dậu) Ngôi Thiên cương gia vào 4 cung: Tý, Ngọ, Mão, Dậu thì là Quý ( Ngôi Thiên Cương khởi từ Tý, Ngọ, Mão, Dậu thì Ngôi Đại Cát phải đóng vào 4 cung: tý ngọ mão dậu) *Phép biến quẻ theo công thức Mạnh, Trọng, Quý: Có 3 người cùng xem vào 1 giờ, nhằm vào giờ Mão, ngày 18 tháng 6. + Tìm Nguyệt Tướng: Khởi tháng 1 từ cung Sửu, nghịch về cung Tý tháng 2, Hợi tháng 3, Tuất tháng 4, Dậu tháng 5, đến Dậu thì quày về Tuất tháng 6. Vậy tuất là Nguyệt Tướng. + Tìm Nhật Thần: Nay Nguyệt Tướng đóng ở cung Tuất, khởi ngày ngay ở cung Tuất, bắt đầu mùng 1 ( Đi thuận), mung 2 ở Hợi, 3 ở Tý,......18 ở Mão vậy Mão là Nhật Thần. +Tìm Thời Thần : Nay Nhật Thần đóng ở cung Mão, khởi tý ở cung Mão (đi thuận), giwof Sửu ở Thìn,...giờ Mão ở cung Ngọ. Vậy Ngọ là thời Thần của của quẻ đang độn. + Tìm tam Thần: Từ cung Ngọ là nơi Thời thần đang đóng, ta lui lại 1 cung tức là cung tỵ, khởi ngôi Thiên Cương tại cung tỵ, đi thuận sang Ngọ là Thái Ất,....Tý là Đăng Minh, như vậy quẻ đã ứng Đăng Minh lâm Tý. Chỉ việc tìm công thức Đăng minh lâm Tý mà đoán quyết tốt xấu, lành dữ. - Người thứ 2: Vần trong giờ đó, xem cho người thứ 2, khỏi cần tính tìm Nguyệt Tướng, Nhật Thần như trên. Theo công thức biến dịch:" Âm tiến tam, dương thoái ngũ" Thế nào là Dương tiến tam? Căn cứ vào quẻ 1, nếu ngôi tam thần lâm vào cung mão hay cung dậu, tức là 2 cung âm, thì tính thuận lên 3 cung nữa . Thí dụ: Ngôi Tam Thần lâm vào cung Mão là âm, tiến lên 3 cung, tiến 1 là thìn, tiến 2 là tỵ, tiến 3 là Ngọ, ngay cung cung Ngọ khởi ngôi Thiên Cương đi thuận , Mùi : Thái ất, Thân : Thắng Quang,...Mão Đại Cát. Đến đây là Đại Cát lâm mão thì quẻ đã thành. - Người thứ 3: Căn cứ vào quẻ thứ 2 lập quẻ thứ 3. Xem ngôi tam thần ở quẻ 2 lâm vào cung âm, thì theo công thức âm tiến tam, tiến lên 3 cung khởi Thiên Cương đi thuận cho đến tam thần lâm vào tứ tướng như trên đã nói. Nếu ngôi Tam thần ở quẻ trước lâm vào cung dương, thì theo công thức dương thoái ngũ, lui lại 5 cung , khởi Thiên cương, đi thuận đến tam thần lâm tứ tướng như trên. *GIẢI THÍCH CÁC QUẺ:- *Công thức: Đăng minh lâm Tý. --Trong thủy là khảm, ngoài mộc là chấn, quẻ chu dịch là Lôi thủy giải, nghĩa là: giải tán, chủ trong sinh khách ngoài: xấu; mùa xuân bình thường, mùa hạ tốt, mùa thu xấu, mùa đông không lợi . --Tượng quẻ: Xuân lôi hành vũ (sấm đầu mùa xuân, làm mưa), ý đoán lo buồn đã tiêu tan, vui mừng đang nảy nở, thai sản sinh con trai, người ra đi và khách chưa đến nhà, mất của người đàn ông lấy ở mặt đông nam, tìm mau sẽ thấy, cầu quan sẽ thành, hôn nhân sẽ xong, bệnh hoạn không chết, lễ cầu 3,4 ngày sẽ khỏi . *Thơ đoán: Hạng Vũ ngày xưa đánh nước Tần Hầm hè chẳng chịu nghĩ thương dân . Một mai trắc trở sông giang Hán Vài trận thua luôn mất hết quân . *Diễn ca: Đăng minh lâm tý nêu đầu Trong thủy ngoài mộc lẽ hầu tương sinh Quẻ Lôi thủy giải chẳng lành Tượng lo hầu hết nay đành hỷ sinh Hán vương Hạng Vũ giao binh Nhờ thày viên tử thủ thành độn cho Toán rằng họ Hạng sẽ thua Quẻ dạy chép để đem hua sử vàng Hành nhân và khách nhỡ nhàng Mưu cầu sự việc sẵn sàng sẽ nên Cầu quan thì được nhắc liền Hôn nhân đẹp lứa bách niên tuổi già Mất của nam tử lấy ra Đông nam tìm gấp của ta thấy liên Bệnh hoạn trầm trọng triền miên Kíp cầu lễ khấn nguyền mau qua. *Công thức: Đăng minh lâm ngọ --Trong hỏa là ly, ngoài mộc là chấn, quẻ chu dịch là lôi hỏa phong, phong nghĩa là: Thịnh và đầy đủ, ngôi khách ở ngoài sinh ngôi chủ ở trong, tốt. Mùa xuân bình hòa, mùa hạ tốt, mùa thu xấu, mùa đông trung bình. --Tượng quẻ: Nhật lệ trung trung thiên cách ( mặt trời sáng đẹp ở giữa trời). --Ý đoán: Đang ở nơi tối tăm được ra ánh sáng, thai sanh; đẻ con trai, người xuất ngoại sẽ về đến nhà, xuất hànhđược bình an, buôn bán được đảm bảo chắc chắn, trôm giặc sẽ xuất hiện, hôn nhân yên lành, kiện cáo hòa hưu, cầu tài có lợi, cầu quan sẽ được, bệnh hoạn không chết, mất của người đàn bà lấy đem về phương nam, tìm ngày còn thấy. *Thơ đoán: Hoàng công thủa trước độn trang chu Lạ lẫm cho nên sự ngại cho Vững chítheo phò vua nước hán Lập nên công lớn được phong to *Diễn ca: Đăng minh lâm ngọ cho minh Trong hỏa ngoại mộc tương sinh quẻ này Quẻ lôi hỏa phong băng này Phong là thịnh đủ cho hay sự tình Trung thiên nhật lệ cát trinh Quẻ rằng nội ngoại tương sinh tốt lành Kỳ thiên quốc báo rành rành Muôn dân vui vẻ tập tành xướng ca Cầu quan tước lộc vinh hoa Cầu tài thì được đề đa tiên tài Hôn nhân tốt đẹp cả hai Thai sản sinh được con trai đề huề Người ra đi chửa có về Bịnh hoạn không chết tê mê lâu ngày Công Thức: Đăng Minh lâm Mão Trong Mộc ngoài Mộc, là Bát Thuần Chấn, quẻ Chu dịch là Chấn vi Lôi, Chấn nghĩa là: Kinh động ( kinh sợ đông đạc ) quẻ này thuộc tháng sau -Tượng quẻ: Kinh động bách lý ( kinh hải động đạc trăm dậm ). -Ý đoán: Có tiếng mà không thấy hình, ngày xưa ông Lý Tĩnh chơi núi Bồn glai nhờ ông Hoàng Thạch Công độn cho, được quẻ nàỵ Bịnh hoạn dẫu nguy nhưng không chết, thai nghén sinh con trai, tranh tụng đắc lý, người ra đi chưa về, hiện đang đi đường bình an, khách không đến chơi, ca6`u tài không có tài, cầu quan lộc bị trở ngại, hẹn người người thất tín, hôn nhân giá thú không nên, xuất hành không nên đi, mọi việc trước khó khăn, ngang trở, sau vất vả mới thành, mất của nên tìm mặt chính Đông, người đàn bà độc thân lấỵ Thơ đóan: 2 đọan gập ghềnh ngóng đợi Xuân, Hoa mai núi Sấu nhớ Đông quân. Đôi bên gặp gỡ bao mừng tủi, Muôn dậu chia ly biết mấy lần. *Diễn ca: Đăng Minh lâm Mão lại bần, Trong ngoài 2 Mộc giao hoan tỷ hòa, Lý suy trong quẻ luận ra, Bát Thuần Chấn quái ấy là hãi kinh. Tượng quẻ có tiếng không hình, Lý Tĩnh thích tình chơi cảnh Bồng lai, Nhờ Hoàng Thạch độn 1 bài, Quẻ đóan nữ hài, trắc trở gian ngoan. Cầu quan thì chưa được quan, Cầu tài chưa có, không hoàn lại không. Hôn nhân chểnh mảng vợ chồng, Hành nhân còn dở chưa xong trở về. Bịnh nguy sinh mệnh chẳng hề, Hôn mê trầm trọng có bề hiểm kinh, Hẹn người thất tính với mình, Khách không tới viếng, ra tình thờ ợ Việc làm lẩn quẩn trông chờ, Trước ngang sau thuận có cơ lại thành. Đường xa xin chớ xuất hành, Khỏi lo trắc trở hãi kinh sau nàỵ Công Thức: Đăng Minh lâm Dậu Trong Kim là Đoài, ngoài Mộc là Chấn, quẻ Chu dịch là: Lôi trạch Quy Muội, Muội nghĩa là: Tối tăm. Trong khắc ngoài: Xấụ Quẻ thuộc tháng 2: Muà Xuân: xấu, Thu và Đông về cuối muà nên tìm ẩn nghỉ ngơi -Tượng quẻ: Phù vân tế nhật cách ( mây kéo khuất mặt trời ) -Ý đóan: Âm, Dương không giao hòạ Thai sản sih con trai, người y hẹn đang đến, mưu cầu sự gì sẽ có tin, mất của người lấy đem về phương Tây, không tìm thấy, cầu quan không thành, quan tụng đắc lý, người đang đi đường tốt lành, vợ chồng cách trở chia ly, hôn nhân trở ngại khó khăn, bước chân ra đi không trở lại, nhà không có khách. *Thơ đoán: Vũ Vương đánh Trụ trừ tàn bạo, Ân Trụ than thân việc tại Trời, Đâu biết lòng dân đang oán ghét, Nên khi lâm bĩ phải thiệt thòị *Diễn ca: Đăng Minh lâm Dậu tương hình, Trong Kim ngoài Mộc ra tình khắc thương. Lôi trạch Quy Muội đã tường, Phù vân tế nhật Âm Dương bất hòạ Trong Kim ngoài Mộc khắc ra, Muội là mạt vận, để ta xem tường. Hẹn người đang đến nữa đường, Mưu toan việc lớn ta thường được tin. Quan tụng đắc lý bình yên, Cầu quan chưa đạt, bạc tiền chưa thông. Hôn nhân xa cách vợ chồng, Dầu lo cho được cũng không lâu bền. Đi đường 2 chữ bình yên, Thất tài không thấy cho nên thiệt thòị Hành nhân sao chẳng phản hồi, Vì chưng cách trở đôi nơi không thành. Bịnh hoạn thân được nguyên lành, Yếu đau mòn mỏi mặt xanh da vàng. Công thức: Thần Hậu lâm Tý Trong Thủy là Khảm, ngoài Hỏa là Ly, quẻ CHu dịch là: Hỏa Thủy Vị Tế.Vi. nghĩa là: chưa, mọi việc chưa thành. Trong khắc ngoài, khí ở ngoài chìm lặng, khí ở trong không có. Mùa Xuân, Hạ bình thường, mùa thu xấu, mùa Đông rất tốt. -Tượng quẻ: Nhập hải cầu châu ( vượt biển kiếm của báu ) -Ý đoán: Trong những sự lo, mong lấy sự vui mừng. Quẻ Vị Tế, Vị nghĩa là: chưạ Tế nghĩa là: cạn, ý nói: nước cạn thấy ngọc châụ trong khi đang lo buồn mong được sự vui vẻ, Tế còn có nghĩa là chở, là dưới sông dưới nước chở bằng thuyền bè. Thai sanh con gái, cầu quan được danh vị, cầu tài hẳn được càng muộn càng hay, mất của người phụ nữ lấy về phương Đông Nam, tìm kịp còn thấy, do những bạn bèlấy trộm, quan tụng hòa hưu, đi đường được bình an, người hẹn mình sắp có tin, mưu sự nhờ may được gặp, đi sông nước gặp phong ba, hành nhân chưa về, bịnh hoạn rất nguy kịch nhưng được qua khỏị Thơ đoán: Đức Khổng vốn là đấng thánh nhân, Khi qua Trần, Sái phải gian truân. Ra đi rủi gặp đôi người nữ, Than bảo lòng người nở bất nhân. Diễn ca: Thần Hậu lâm Tý giờ này, Trong Thủy ngoài Hỏa trong nay khắc ngoàị Quẻ Dịch Vị Tế không sai, Mưu cầu chưa đến vậ thờ chưa thông. Đương cơn lo ngại hãi hùng, Muốn mua qua khỏi cho lòng mừng vuị Tưởng rằng vượt biển xa xôi, Đi tìm của báo giữa đời phong bạ Chớ chi sông nước thuyền bè, Đi ra sợ gặp khắc khe ngại ngùng. Cầu quan vinh hiển đỉnh chung, Cầu tài dẫu muộn ta đừng có lo, Thai sinh con gái trời cho, Có đi đường bộ khỏi lo tai nàn, Mất của phụ nữ lòng gian, Đông Nam đem giấu kíp toan tìm về. Hành nhân ngang trở mọi bề, Bịnh hoạn không chết nhưng mê tâm thần. Quan tụng hòa giải bình phân, Sự việc trước xấu sau lần hanh thông. Công Thức: Thần Hậu lâm Ngọ Trong Hỏa ngoài Hỏa, quẻ Chu Dịch là Bát Thuần Ly, Ly: nghĩa là lệ ( sáng chói ) soi sáng 4 phương. Muà Xuân xấu, mùa Hạ tốt, mùa Thu bịnh hoạn, mùa Đông bất an. -Tượng quẻ: Phi cầm tại võng ( chim đang bay mắc lưới ) đại minh tiến thiên ( sáng soi khắp trời ). -Ý đoán: đang ở rộng vào hẹp, mặt trời đến Ngọ thì sáng khắp 4 phương, thai sinh con gái, cầu tài được lợi nhỏ, cầu quan cách trở đôi điều, mất của người đàn bà có tuổi lấy đem về phương Nam, gấp tìm về Đông Nam còn thấy, sẽ có người đàn bà cho tin, hành nhân còn nhỡ việc chưa về được, quan tụng hòa hưu, sắp có khách đến nhà, bịnh hoạn nên cầu lễ. Thơ đóan: Mãi Thần nghèo khổ thủa hàn nho, Qũy Cốc tiên sinh bấm độn cho, Tế ngộ phong vân người gặp vận, Mai ngày vinh hiển khỏi âu lọ Diễn ca: Thần Hậu lâm Ngọ kể ra, Bát thuần Ly quái tỷ hòa sáng soị Lệ ly độn quẻ hẳn hoi, Phi cầm tại võng chim rơi lưới hôn`g. Mặt trời soi sáng khoảng không, Đang rộng vào hẹp, vẫy vùn gkhó khăn. Đời xưa thầy Chu Mãi Thần, Bần hàn quẫn bách thanh bần hàn nhọ Gặp thầy Qũy Cốc độn cho, Rằng sau ắt được quan to lộc dàỵ Cầu quan, quan chửa đến ngày, Cầu tài dẫu được lấy may ít nhiềụ Hành nhân cách trở mọi điều, Quan tụng thì được hòa hưu êm đềm. Mất của phụ nữ lấy êm, Đông Nam đem dấu kíp tìm cho maụ Bịnh hoạn lễ bái kêu cầu, Thai sainh con gái mai sau vuông tròn. Công thức: Thần Hậu lâm Mão Trong là Mộc ngoài là Hỏa, trong sinh ngoài, quẻ Chu dịch là: Hỏa Lôi Phệ Hạp. Muà Xuân xấu, mùa Hạ tốt, mùa Thu rất xấu, mùa Đông chết. -Tượng quẻ: Nhật trung vi thị ( giữa ban ngày hợp chợ ) thị trung hữu vật ( trong chợ có hàng hóa ). -Ý đóan: Giữa ngày là nữa ngày mới hộp chợ, ý nói: muộn và chậm. Chợ có hàng hóa, ý nói: muốn mua gì cũng được, nghĩa là: cầu gì cũng được, thai sinh con gái, cầu hôn có duyên tiền định, cầu quan được tước lộc, cầu tài sẽ có tài, quan tụng hòa hưu, mất của tìm về mặt Đông Nam còn thấy, sắp có khách đến nhà, xuất hành tốt, bịnh hoạn sẽ khỏi không chết, mưu vọng với người ta được tin dùng. Thơ đóan: Văn Vương thủơ trước mộng phi hùng, Sông Vị về sau gặp Thái công, Gây dựng nhà Chu nền thịnh trị, Cơ đồ bền vững với non sông. Diễn ca: Thần Hậu lâm Mão kể ra, Trong Mộc ngoài Hỏa quẻ là tương sinh, Hỏa lôi Phệ Hạp cho minh, Phi hùng ứng mộng điềm lành hiền nhân. Cầu người ắt hẳn đắc nhân, Cầu tài thì được mọi phần gặp maỵ Cầu quan tước cả lộc dày, Học trò thi cử trúng ngay bảng vàng. Thai sinh con gái rõ ràng , Hôn nhân đôi lứa thiếp chàng duyên ưạ Bịnh hoạn như hạn gặp mưa, Quan tụng mọi việc kiện thưa hoãn hòa, Mất của đã mang đi xa, Đông Nam giấu đậy nữa ta tìm về. Công thức: Thần Hậu lâm Dậu Trong là Kim, Đoài, ngoài là Hỏa, Lỵ Ngoài khắc trong xấụ Quẻ Chu dịch là Hỏa trạch Khuê, Khuê nghĩa là ngang tráị Muà Xuân tốt, mùa Hạ tốt, mùa Thu bình hòa, mùa Đông xâu -Tượng quẻ: Mãnh hổ hảm tình ( hùm thiêng xa hổ ) nhị nữ đồng cư ( 2 gái ở chung 1 nhà ) -Ý đoán: Càng thịnh, càng hay, lại càng phải đề phòng, có khi bi sụp đổ, 2 người cùn g 1 hoàn cảnh, cần phải đề phòng lúc ghen ghét nhau, thai sinh con gái, có người bạn thân đang muốn giở trò tà dâm, hành nhân đi đường tốt, sắp về đến nhà, bịnh hoạn thập tử nhất sinh, cầu tài sẽ được, mất của người đà ông lấy, đem để ở mé Tây Nam, quan tụng hòa giải êm, sĩ tử đi thi cử đậu, cầu quan thì được ngay, nhưng sau không hay, buôn bán có lờị Thơ đóan: Tương Như thủa trước sứ qua Tần, Bao quản gian nan 1 tấm thân, Vẹn tiết vẹn trung đời mấy kẻ, Tôi hiền muôn thủa gặp vua nhân. Diễn ca: Thần Hậu lâm Dậu kể xong, trong Kim ngoài Hỏa, ngoài xung khắc vàọ Khuê thì ngang trái biết bao, Hùm thiêng sa hố làm sao tung hoành. Đôi gái cùng ở không đành, Cầu quan ắt được, sau thành gian nan. Thai sinh con gái hồng nhan, Giao du gặp bạn những toan dâm hòan. Cầu tài tiền của vẹn toàn, Hành nhân nay mới sắp toan ra về. Khoa danh bảng hổ tên đề, Quan tụng vừa được giải huề đôi bên. Đi đường mọi sự bình yên, Ốm đau trầm trọng triền miên đêm ngàỵ Qua cầu may gặp được thầy, Tính trong cung số đến nay vuông tròn. Công thức: Đại Cát lâm Tý Trong Thủy Khảm, ngoài Kim Đoài, trong sinh ngoài tốt. Quẻ Chu dịch: Trạch thủy Khổn, Khổn nghĩa là nguy khốn. -Tượng quẻ: Hà trung vô thủy ( trong sông không có nước ) -Ý đoán: Sông không có nước thì không chở được thuyền, cho nên thuyền mắc nạn. Cầu cạnh mọi việc khó khăn lúc đầu, sau rất tốt, thai sinh con gái, quan tụng đắc lý, mất của người con trai ở phương Bắc đến lấy, rồi mang sang phương Đông Bắc, chủ và khách giao tiếp 1 lòng tin cậy nhau, cầu quan trước bị trở ngại khó khăn, sau được quyền cao chức trọng, hành nhân cách trở không về, hôn nhân giá thú trước ngang quải sau mới thành, cầu tài trước trắc trở, sau có tài, bịnh hoạn đàn ông bị nặng, đàn bà bị nhẹ . Thơ đoán: Quý Bố xưa kia khi hoạn nạn, Tìm thầy Qủy Cốc độn cho haỵ Rằng: nay khốn khó thân lao lý, Thừa tướng mai sau hẳn có ngàỵ Diễn ca: Đại Cát lâm Tý kể xong, Quẻ Trạch thủy Khổn, Thủy trong Kim ngoài, Khổn là nguy khổn không saị Trước thì trắc trở, sau thời thành công. Khi xưa Hán Sở tranh hùng, Hán Vương lâm Khổn, Đinh công dung tình. Đến khi thiên hạ thái bình, Đinh công phải tội, gia hình không thạ Hôn nhân lời trước sai ngoa, Đến sau lại được duyên hòa đẹp đôị Quan tụng đắc lý vẹn 10, Giao tế chủ khách 2 người cậy tin. Cầu tài muộn mới có tiền, Hành nhân ngang trở cho nên lở đường. Mất của trai ở Bắc phương, Đem sang Đông Bắc tỏ tường ta theo, Mưu cầu trước chịu túng nghèo, Thời sau mới được mọi chiều hiển vinh, Thai sản con gái trời sinh, Bịnh trai thì nặng, gái bình phục mau. Công thức: Đại Cát lâm Ngọ Trong Hỏa Ly, ngoài Kim Đoài, trong khắc ngoài thì trong thi.nh. Mùa Xuân xấu, mùa Hạ bình thường, Thu Đông khá. Quẻ Chu dịch Trạch hỏa Cách, Cách là cải cách, thay đổi -Tượng quẻ: Cẩu biến vi hổ ( chó đội lốt hùm ) -Ý Đoán: Cải cựu tòng tân ( thay cũ đổi mới ) thai sinh ra con gái, cầu quan được tước vị, cầu tài ắt được tài, có tin nhà sắp đến, tìm người sẽ gặp, tranh tụng hòa hưu, mất của người thiếu nữ ở phương Tây Bắc lấy, trao cho đồng bọn đem về phương Nam, có khách bạn thân sắp đến chơi, hôn nhân tốt đẹp. Người bịnh nên kêu cầu mau khỏị Thơ đoán: Bàn canh thủa trước lúc gian truân, Lửa nóng nước sôi khốn khổ dân. Qủy Cốc độn cho rằng quẻ tốt, Thái bình thịnh trị chính lệnh tân. Diễn ca: Đại Cát lâm Ngọ quẻ này, Ngoài Kim trong Hỏa khắc nguy quẻ ngoài, Quẻ Trạch hỏa Cách đâu sai, Cách là thay đổi ra 2 sự tình, Công môn hòa hoãn tụng đình, Bạn thân sẽ đến thăm mình sớm hôm. Cầu tài có lợi bán buôn, Tìm người thuận gió xuôi buồm thấy ngaỵ Cầu quan gặp được vận may, Thai sinh con gái mai ngày đảm đang. Mất của thiếu nữ Bắc phương, Lấy giao đồng bọn tìm đường sang Nam. Cầu hôn gieo ngọc ruộng lam, Duyên may Từ Thức tiên phàm kết đôị Bịnh hoạn cầu khấn đất trời, Trong năm ba bửa thì người kiện khang. Công thức: Đại Cát lâm Mão Trong Mộc, Chấn, ngoài Kim, Đoàị Ngoài khắc trong, trong thịnh ngoài đô.ng. Quẻ Chu dịch Trạch lôi Tùỵ Tùy là thuận theo -Tượng quẻ: Thuận thủy thôi xa ( xuôi nước đẩy xe ) -Ý đoán: Thợ giỏi giũa ngọc, kiên gan bền chí, mọi việc sẽ thành, thai sinh con gái, cầu tài thấy ngay, nhưng không được bền lâu, sắp có khách đến nhà chơi, vui mừng chào đón, xuất hành bị ngăn trở vì quan quân, hôn nhân trước ngang trở sau thuận hòa, mất của nên tìm mặt Đông, người ngoài đến lấy, tranh tụng đuối lý nhưng được hòa, bịnh hoạn Mùa Thu mắc bịnh nặng chết, mùa Xuân, Hạ bịnh nhẹ,sống, kíp mau cầu khẩn, bịnh nguy kịch thập tử nhất sinh, cầu quan gặp may, mưu vọng sự vụ gì cũng khó thành. Thơ đoán: Tôn Tẩn đem quân đánh nước Tần, Lời thầy Qủy Cốc độn như thần, Toàn quân thắng trận danh vang vộng, Có phúc trời cho lại có nhân. Diễn ca: Đại Cát lâm Mão độn tìm, Trong Mộc là Chấn, ngoài Kim là Đoàị Thịnh bên trong, động bên ngoài, Trạch lôi Tùy quẻ không sai đâu mà. Tượng rằng thuận thủy thôi xa, Bền lòng vững chí công ta mới thành, Thai sinh con gái tốt lành, Cầu tài dẫu được nhưng đành giảm đị Xuất hành ngăn trở quan ty, Bạn thân tự đến kể chi đón mời, Hôn nhân trước đã đơn sai, Rồi sau đẹp lứa duyên hài uyên uơng. Mất của tìm mặt Đông phương, Lòng tham trộm cắp là phường ngoại nhân. Bịnh hoạn nguy kịch bội phần, Thu bịnh thì khốn, Hạ Xuân thì lành, Cầu quan danh toại công thành, Quan tụng thất lý ta đành hòa hưu . Công thức: Đại Cát lâm Dậu Trong Kim ngoài Kim tỵ hòạ Quẻ Chu dịch là Bát thuần Đoàị Đoài là duyệt ( nghĩa là đẹp lòng ), mùa Xuân, Thu tốt, mùa Hạ, Đông rất xấu -Tượng quẻ: Thiên giáng vũ trạch ( trời xuống mưa nhuần ) -Ý đóan: trời sinh trời dưỡng, hồ hết lại có, hồ vơi lại đầy, thai sinh con gái nhưng chậm sinh, mất của khó tìm, nếu có phụ nữ đến báo tin sẽ thấy, việc mất của do người đàn bà lấy rồi đem về mặt Tây Bắc, cầu quan sự bình thường, trắc trở, tranh tụng không có lời, cầu tài buôn bán không có lời, mình hẹn người không đến, mưu vọng không thành, xuất hành mắc khách lại chơi, bịnh hoạn mê loạn, nguy khốn, qua mùa Thu sẽ khỏị Thơ đoán: Đường Tăng, Hành Giả thủa cầu kinh, Khi đến nữa đường mắc qủy tinh, Trăm đắng ngàn cay đường vạn dậm, Thành công cũng bởi tại lòng mình. Diễn ca: Đại Cát lâm Dậu độn này: Song kim nội ngoại quẻ nay tỷ hòa, Bát thuần Đoài quái không ngoa, Đoài là vui vẻ người ta đẹp lòng, Tượng rằng: rừng, núi, hồ, sông, Cá mong nước cả, cây mong mưa nhuần. Cầu quan chưa được đượm ân, Cầu tài buôn bán có phần lời thêm. Mưu vọng công việc chưa êm, Bịnh hoạn mắc phải nặng đêm nhẹ ngàỵ Phải mau cầu thánh tìm thầy, Cơm ăn thuốc uống nữa may yên lành, Xuất hành khách đến gia đình, Tranh tụng không lợi cho mình về sau, Thai sinh con gái không mau, Hẹn người không đến, việc hầu không xong, Mất của tìm kiếm tốn công, Phụ nữ có mách mới mong tìm về. Thiên Cương Tam Tự quyết Phép này chỉ tìm ngôi Thiên Cương, xem lâm vào cung nào, rồi căn cứ vào chỗ: Thiên Cương gia Mạnh, gia Trọng, gia Qúy, để quyết đoán tốt,xấụ 1) Đào sinh: Độn coi 1 quẻ Đào Sinh, Thiên Cương gia Mạnh biết mình bình an. Trọng thì bán lộ nhị hoàn , Trốn đi không khỏi người còn thấy ta, Qúy thì đã sắp đến nhà, Lùng quanh tìm bắt liệu ta tếch vờị 2) Theo người: Độn coi 1 quẻ theo người, Gặp chăng chẳng gặp biết chơi sự đờị Mạnh thời theo kịp tức thời, Trọng thì ta sẽ gặp nơi giữa đường. Qúy thì lạc lõng đây cương, Không theo kịp hút, biết phương nào tìm. 3) Thấy tin: Độn xem 1 qủe thấy tin, Cho minh hư thực, cho yên nỗi lòng, Mạnh thì nói dối là không, Trọng là sự thực có trong nội tình, Qúy thì tin thực phân minh, Ngày 2 ắt thấy, lòng mình sẽ yên. 4) Tìm thuyền: Độn coi 1 qủe tìm thuyền, Biết chăng chẳng biết cho yên tấm lòng, Mạnh thời còn đậu bên sông, Trọng thì thuyền đã thay vùng đổi nơị Qúy thì buồm thuận gió xuôi, Theo không có kịp ta hồi quê hương. 5) Lạc đường: Độn chơi 1 quẻ lạc đường, Ngã ba ta biết đi phương nao đày, Mạnh thời tay trái đường ngay, Trọng thì đường giưã nẽo này hẳn thông. Qúy thì tay mặt ta dông, Đường theo nẻo dưới mới mong an toàn. 6) Gặp quan: Độn coi 1 quẻ gặp quan, Người lành hay dữ cho an tấm lòng. Mạnh thì là đấng anh hùng, Lòng người khăn khắn lạnh lùng hiềm ta, Trọng thì xử sự ôn hòa, Qúy thì mừng rỡ 1 nhà vui chung. 7) Giặc hung: Độn xem 1 que giặt hung, Có hay không có để cùng liệu đâỵ Mạnh thì giặc đi đã chầy, Trọng thì quân giặc khi nay ở lỳ. Qúy thì giặc đến tức thì, Liệu cơ mà tránh kẻo khi oan đờị 8) Gặp người: Độn xem 1 qủe gặp người, Hiền, ngu, lành, dữ đoán lời phải chăng. Mạnh thì quan, lại, nho, tăng, Trọng thì gian khách cho rằng thường nhân, Qúy thì đạo tặc cơ bần, Hay người quán Sở lầu Tần đong đưạ 9) Thù xưa: Độn xem 1 quẻ thù xưa, Kẻ gây hiềm khích dây dưa oán hờn. Mạnh thì thù oán vẫn còn, Trọng thì ác khẩu nhưng còn hiền tâm, Qúy thì gian giảo thâm trầm, Khăng khăng 1 mực những trăm phiền hà. 10) Bạn ta: Độn chơi thăm viếng bạn ta, Đoán coi cho biết có nhà hay không. Mạnh thì chủ khách hoan phùng, Gượng vui ngoài mặt nhưng lòng chẳng ưạ Trọng thì chào hỏi mời thưa, Rượu trà khoản đải say sưa thân tình. Qúy thì chủ khách xem khinh, Ngoài mặt vồn vã trong hình lãn nhan. 11) Cầu quan: Độn coi 1 qủe cầu quan, Đến người, người sẽ hỏi han thến nàỏ Mạnh thì hẳn gặp quan cao, Song le ngang trở bởi hào vợ con. Trọng thì giáp mặt cao nhân, Ban quyền phong chức hân hoan trong đời, Khảo thí chiếm được khoa khôi, Vũ môn 3 bậc đến nơi hóa rồng. Qúy thì xin chớ có hòng, Treo người tốn của mất công tức mình. 12) An ninh: Độn xem gỉa sự an ninh. Đoán coi sự vật gia đình thê nhị Mạnh thì êm đẹp mọi bề, Trọng thì khánh hỷ đề huềmừng vuị Qúy thì duyên hẩm vận xui, Hại người hại của lửa thui trộm luồn. 13) Bán buôn: Độn coi 1 qủe bán buôn, Đoán ra cho biết kẻ ngoan người tài, Mạnh thì mua 1 bán 2, Buôn may bán đắt tiền lời vạn thiên, Trọng thì bán lẽ bon chen, Bạn hàng lắm chuyện cho nên bực lòng , Qúy thì đi lại về không, Bán buôn khốn khó, đừng mong lợi quyền. 14) Mượn tiền: Độn xem 1 qủe mượn tiền, Vì ta thiếu vốn cho nên tìm ngườị Mạnh thì ta hỏi dứt lời, Người liền cho mượn tin nơi lòng mình. Trọng thì khéo nói mới thành, Của cho mình tạm phải sanh tiền lờị Qúy thì nói chỉ phí lời, Đi không thì lại về rồi lai giaị 15) Thất tài: Độn xem 1 quẻ thất tài, Thấy chăng thì kiếm kẻo hoài công tạ Mạnh thì của mất đi xa, Trọng thì tìm thấy nhưng mà chậm lâu, Quý thì của mất đi đâu, Tự nhiên tin đến ta mau tìm tòi 16) Đi chơi: Độn coi 1 qủe đi chơi, Ta đến nhà người, người có nhà chăng? Mạnh thì ta gặp liền mừng, Trọng thì đi đến lưng chừng gặp nhaụ Qúy thì đi khỏi đã lâu, Dẫu ta có đến, ta âu trở về. 17) Người về: Độn chơi 1 qủe người về, Bao giờ mới trở lại quê nhà mình, Mạnh thì còn chửa hồi trình, Ở đâu vẫn đấy như hình vắng tin. Trọng thì 2 chữ bình yên, Giữa đường đang trở lại miền quê hương. Qúy thì đang mãi dậm trường, Nay mai sẽ đến bằng dường sớm hơn. 18) Đêm hôm: Độn xem 1 qủe đêm hôm, Trọ nhà khách điếm, hàng cơm, lữ hành. Mạnh thì mọi sự thông hanh, Trọng thì chủ khách trở thành tương thân. Qúy thì đạo tặc bất nhân, Đêm hôm gìn giữ ân cần chớ saị 19) Ù tai: Độn xem 1 qủe ù tai, Cát hung cho biết để mai giữ mình. Mạnh thì điềm tốt phân minh, Sẽ có tin đến gia đình chẳng lâụ Trọng thì khách đến khẩn cầu, Qúy thì hoạn nạn ta mau giữ nhà. 20) Quái xà: Độn xem 1 qủe quái xà, Điềm lành hay dữ trong nhà cho minh, Mạnh thì có sự chẳng lành. Trọng thì rắn đói nó rình mồi ăn, Qúy thì nội thuộc tông thân, Bà cô Ông mãnh đã lần đòi khao . 21) Chiêm bao: Độn xem 1 qủe chiêm bao, Điềm lành hay dữ thế nào cho hay, Mạnh thì hung dữ đến ngay, Tai ương hoạn nạn ta nay coi chừng. Trọng thì có sự vui mừng. Qúy thì vô sự xin đừng hãi kinh. 22) Thai sinh: Độn xem 1 qủe thai sinh, Rằng trai hay gái cho minh 1 lờị Mạnh thì thai sản sinh traị Trọng thì thai sản nữ hài cát nhân. Qúy thì sinh đẻ khó khăn, Gặp cơn sản nạn có phần ưu tự 23) Ngục tù: Độn xem 1 qủe ngục tù, Tha hay giam giữ, quan tư thế nàỏ Mạnh thì còn ở lung lao, Trọng thì minh xét giấy vào tha ra, Qúy thì dẫu tốn tiền ta, Nhưng còn giam hãm chưa tha chonàọ 24) Trộm vào: Độn xem 1 qủe trộm vào, Rằng trai hay gái kẻ nào gian tham, Mạnh thì kẻ trộm là nam, Trọng thì bè bạn anh em trong nhà, Qúy thì phụ nữ gian tà, Người trong lấy trộm mang ra êm đềm. 25) Đi tìm: Độn coi 1 qủe đi tìm, Của ta nó lấy rồi đem phương nào, Mạnh, Trọng cùng ứng 1 hào, Phương Dần, phương Tuất ta vào thấy ngaỵ Qúy thì phụ nữ rón tay, Đem đi dấu kín ai hay sự tình, Kíp nên dọ hỏi đón rình, Có cơ còn thấy của mình vẫn nguyên. 26) Đi thuyền: Độn chơi 1 qủe đi thuey^`n, Cát hung lành dữ ta liền đoán chơị Mạnh thì sóng gío tức thời, Trọng thì bão táp nhưng rồi lại yên. Qúy thì sóng gió êm đềm, Trời quang mây tạnh sóng im bốn bề. 27) Tỉnh mê: Độn chơi thức, ngũ, tỉnh, mê, Ta xem cho biết liệu bề tính chơị Mạnh thì người vẫn còn ngồị Trọng thì nằm nghĩ mé ngoài lơ mợ Qúy thì thức ngũ ù mờ, Bốn bề vắng lặng như tờ say sưạ 28) Nắng mưa: Độn coi 1 qủe nắng mưa, Để mình liệu cách che đưa đi đường. Mạnh thì ròng rã mưa trường, Trọng thì nắng ráo bằng nhườn tạnh dâm. Qúy thì mây gío ầm ầm, Rồi trời quang đãng độn cầm không mưạ 29) Tạnh mưa: Độn đêm nay tạnh hay mưa, Đoán ra cho rõ kẻo chưa được tường, Mạnh thì mưa gío khác thường, Trọng thì quang đãng, bốn phương êm đềm. Qúy thì mưa gío suốt đêm, Rạng ngày tạnh ráo lại thêm mát trờị 30) Chiều trời: Độn xem mây gió chiều trời, Cơn mưa, cơn bão hay thời gió mây, Mạnh thì gió cả mây dày, Trọng thì gió lớn, chớp dây, mưa ràọ Qúy thì cơn kéo ào ào, Rồi sau quang đãng trăng sao sáng liền. 31) Tìm tiền: Độn coi 1 quẻ tìm tiền, Cầu tài có được ta liền ra đi, Mạnh thì tài chẳng có chi, Trọng thì tài vượng, hiềm vì đợi lâụ Quý thì tài đến rất mau, Phương Đông tài vượng ta thâu bội phần. 32) Hành nhân: Độn coi biết ý hành nhân, Rằng đi hay chẳng, ta cần đoán mau, Mạnh thì người chẳng đi đâu, Trọng thì bán lộ đã hầu hồi gia, Quý thì ngay thẳng hiền hòa, Không ngầm ẩn ý lọ là phải coị 33) Tìm người: Độn coi 1 qủe tìm người, Gặp chăng chẳng gặp quyết lời cho minh. Mạnh thì vì nổi bất bình, Dẫu tìm chẳng thấy công trình bỏ đị Trọng thì bán lộ hồ nghi, Lòng đang nghĩ ngợi người thì gặp tạ Qúy thì lời nói thực thà, Không tìm thì cũng về nhà chẳng saọ 34) Đổi trao: Độn coi 1 quẻ đổi trao, Đôi bên trao đổi bên nào không cân. Mạnh thì thoả đáng 10 phần, Trọng thì chủ khách cùng cần cả 2, Qúy thì chênh lệch khôn nài, Đôi bên thương lượng chẳng ai chịu nhờị 35) Với người: Độn xem mưu sự với người, Nên chăng ta sẽ quyết lời hồ nghị Mạnh thì mọi sự bỏ đi, Trọng thì mưu vọng có khi đễ thành. Qúy thì tráo trở lanh quanh, Trăm phương ngàn kế nội tình mới an. 36) Cửa quan: Độn xem mắc nạn cửa quan, Mình làm hay phải hàm oan tội tình. Mạnh thì tội vạ bởi mình, Trọng thì bè bạn bất bình gây nên, Qúy thì mình mắc oan khiên, Rồi sau nhờ được ngọn đèn cao minh. 37) Nóng mặt: Độn xem sao nóng mặt mình, Đoán coi chi biết sự tình ngày maị Mạnh thì điềm báo nạn tai, Trọng thì ưu khứ hỷ lai cấp thời, Qúy thì có khách lại chơi, Bỏ khi mong nhớ mấy lời hàn huyên. 38) Nhân duyên: Độn xem 1 quẻ nhân duyên, Châu Trần 2 họ phỉ nguyền được chăng? Mạnh thì ngoài mặt nói năng, Trong lòng thương nhớ khăng khăng chẳng dờị Trọng thì thấy mặt vui chơi, Nguồn ân bể ái đầy vơi sự tình, Qúy thì đen bạc với mình, Có trăng nên đã phụ tình với saọ 39) Người nào: Độn coi ta tiếp người nào, Rằng gìa hay trẻ tài cao hay hèn. Mạnh thì già cả cao niên, Trọng thì với tuổi người trên có tàị Qúy thì phụ nữ không sai, Có khi niên thiếu cả 2 đồng đềụ 40) Ghét yêu: Độn xem người ghét hay yêu, Để ta liệu cách liệu điều thị phi, Mạnh thì người chẳng nể vì, Trọng hay vui vẻ người thì thương tạ Qúy thì nhớ hận xưa qua, Dở yêu dở ghét thì ta liệu liền. 41) Động tâm: Độn xem phần mộ động yên, Hay là Bát sát Hoàng tuyền tử sinh. Mạnh thì sơn thủy hữu tình, Đông con nhiều cháu hiễn vinh sang giàụ Trọng thì lắm sự lo âu, Vì chưng đoạn mạch ngang đầu chân long. Qúy thì thần hợp với vong, Khí dư chỉ phát có trong 1 đờị 42) Phật trời: Độn xem Thần, Thánh, Phật, Trời, Đình, Chuà, Nghè, Miếu, hoặc nơi am chiền. Mạnh thì hiển ứng tư.nhiên, Nơi thờ chính vị dân yên thái hòạ Trọng thì tọa ngự trên tòa, Ngàn năm hương lửa âu ca phụng thờ. Qúy thì đền, miếu tiêu sơ, Đèn hương bỏ phế, nơi thờ âm u 43) Bán mua: Độn xem 1 qủe bán mua, Để ta liệu thế cho vừa hàng buôn. Mạnh thì lỗ hụt luôn luôn, Liệu chiều thu xếp kẻo buồn lòng nhaụ Trọng thì mua chậm bán lâu, Nhà nghề giữ nhịp có đâu lãi nhiều, Qúy thì tốt đẹp mọi điều, Mua may bán đắt lợi nhiều gọn taỵ 44) Dở hay: Độn coi bạn dở bạ n hay, Để biết tính nết ta nay chơi bời, Mạnh thì yêu nết tin người, Cùng nhau trao đổi 1 lời tâm giaọ Trọng thì cách trở xiết bao, Giao tình cách trở làm sao ta bàn. Qúy thì hiểm độc gian ngoan, Lừa thầy phản bạn những toan hại mình. 45) Tử sinh: Độn coi bịnh hoạn tử sinh, Cát hung lành dữ cho minh 1 bàị Mạnh thì bịnh nặng đau hoài, Trọng thì bịnh nhẹ hết vài bữa saụ Qúy thì lề bái kêu cầu, Cơm ăn thuốc uống mới hầu thành công. 46) Qua sông: Độn coi 1 qủe qua sông, Được chăng chẳng được ta dông sang đò, Mạnh thì cách trở hẹn hò, Trọng thì sóng cả gió to khó lòng, Qúy thì đi lại lọt thông, Mưu toan cũng được mặc lòng sang quạ 47) Gần xa: Độn coi người trốn gần xa, Được chăng chẳng được đặng ta kiếm liền. Mạnh thì bản vị y nguyên, Trọng thì xa tránh dậm nghìn còn đâu, Qúy thì lẩn trước luồn sau, Chim trời cá nước biết đâu là nhà. 48) Bán ra: Độn coi 1 quẻ bán ra, Mạnh thì không gặp khách qua mua hàng. Trọng thì gặp ách giữa đàng, Chúng toan gây lộn sẳn sàng đánh nhau, Qúy thì hàng đắt bán mau, Lại may gặp khách ta hầu lo chị 49) Cố tri: Độn coi thăm bạn cố tri, Có nhà hay vắng ta đi thăm cùng. Mạnh thì ngồi nhà thung dung, Trọng thì đi khỏi ta không gặp ngườị Qúy thì kháchh rủ đi chơi, Dẫu đến không gặp ta thời dạo quanh. 50) Xuất hành: Độn coi ta sắp xuất hành, Mạnh thì Đại cát tốt lành gặp may, Trọng thì họa hoạn không hay, Qúy thì thành sự ta nay biết tình. 51) Máy mắt: Độn coi máy mắt thình lình, Mạnh thì tai họa thất kinh bất thần. Trọng thì sẽ gặp người thân, Qúy có mưu vọng người cần gặp tạ 52) Rượu trà: Độn chơi đâu có rượu trà, Mạnh thì không sẳn mình qua ích gì, Trọng thì trà rượu sẳn y, Nếu mà ta đến tức thì ngồi vô Quý thì chủ khách hàm hồ Tiếp đãi lạnh nhạt tựa hồ không thân 53) Vật đồ: Độn chơi tay nắm có đồ, Mạnh thì tay mặt nắm vô có rồi, Trọng tay trái có hẳn hoi, Qúy 2 tay có đoán lời sai đâụ 54) Sắc màu: Độn trong tay nắm sắc màu, Đoán chơi cho rõ nơi đâu màu gì? Mạnh tay mặt màu xanh rì, Cùng màu trăng trắng ta thì mở xem. Trọng trong tay trái màu đen, Cùng màu đo đỏ cũng xen lẫn vào, Qúy thì 2 tay tía đào, Cùng màu vàng thẩm đóan vào đúng ngaỵ 55) Búng quay: Độn chơi trong bát búng quay, Rằng sấp hay ngữa, rằng nay nghiêng thành. Mạnh thì nằm ngữa tênh hênh, Trọng thì nghiêng dựa đứng thành ép biên. Qúy thì úp sấp đồng tiền, Ấy phép phúc đoán ta liền kể ra . 56) Thấp cao: Độn chơi vật thấp hay cao, Mạnh thì vật cất trên cao mấy là, Trọng thì vật thấp tà tà. Quý thì để lững đoán ra cho tường. ( Hết ) *Phần dịch của cụ KHT đến đây là hết, tôi xin bổ sung phần chót như sau :- *CHÚ Ý :- Phép độn nầy kỵ ngày không vong theo bảng sau :- Ngày giờ phạm Không Vong theo tuần nhật: 1.- Tuần giáp tý :-ngày nhâm tuất + quý hợi và giờ tuất hợi 2.- Tuần giáp tuất :- ngày nhâm thân + quý dậu và giờ thân dậu 3.- Tuần giáp thân :- ngày nhâm ngọ + quý mùi và giờ ngọ mùi 4.- Tuần giáp ngọ:- ngày nhâm thìn + quý tỵ và giờ thìn tỵ 5.- Tuần giáp thìn :-ngày nhâm dần +quý mão và giờ dần mão 6.- Tuần giáp dần:- ngày nhâm tý + quý sửu và giờ tý sửu *Có bài thơ rằng :- Thiên cương ca quyết lục nhâm thì Tử tế suy tường chưởng thượng di . Hoạ phúc định tri hung dữ cát , Thất vật cát hung chuẩn vô nghi . Thủ trung phán định sanh hoà tử , Thành bại giai tri hung dữ nguy . Tiên sinh thử số chân kham tiện , Hữu dữ nhân gian cấp báo tri . (khỏi dịch, để quí vị tự nghiệm) Thân ái.
  16. Trung lục nhâm thiên cương chưởng quyết của gia cát võ hầu Đây là phép độn của Gia Cát Khổng Minh tên là Trung Lục nhâm Thiên cương chưởng quyết (còn gọi là Mã Tiền Khóa) A.- PHẦN NGUYÊN VĂN :- 中六壬天罡掌訣 《諸葛天罡馬前六壬時課》天罡掌訣 詩曰: 天罡訣法少人知,貴人專用六壬時。 胸中有術真堪羨,掌上藏機盡出奇。 登明神後兼大吉,須將此位以為期。 若逢子午並卯酉,便是神仙覆射期。 解 說:“天罡”者,北斗七星斗杓也。� �辰宮,辰為天罡。巳為太乙,午為勝� ��,未為小吉,申為傳送,酉為從魁, 戌為河魁,亥為登明,子為神後,醜� �大吉。這是 天罡掌訣所採用的十二神將中的大將� �。十二神還有寅為功曹,卯為太沖兩� ��神未採用。大六壬採用的是十二將神 ,天罡掌訣只採用十大將,又以最後� �將即登明神 後大吉誰先逢子午卯酉上,即作為判� �根據,登明遇上子午卯酉為天罡加孟� ��神後遇上子午卯酉為天罡加仲,大吉 遇上子午卯酉為加季。而子午卯酉本� �屬四仲,因 而天罡掌訣屬“六壬”類,可以名之� �:“中六壬”。 掌訣式: 起月例 正九尋牛五月雞,二八須從子上隨。 三七都依亥上起,四六還須戌上移。 十月十二寅上數,十一當從卯位推。 月上起初一順去,吉凶掌上辨災危。 解說:餘初學此訣,熟讀之後方發現� �有捷徑,即依次輪數,至卯酉而返,� ��天罡北斗循北天環行而不至南方故也 。 起十將 天罡、太乙、勝光、小吉、傳送、從� �、河魁、登明、神後、大吉。 從 月起日,日上起時,時上退一位起天� �,太乙、勝光、小吉、傳送、從魁、� ��魁、登明、神後、大吉。最末三將為 准。登明遇子午卯酉為天罡加孟。因� �明本辰在 亥,亥屬“寅申巳亥”四孟故也。神� �遇子午卯酉為天罡加仲,因神後本辰� ��子,子屬“子午卯酉”四仲故也。大 吉遇子午卯酉為天罡加季,因神後本� �在醜,醜術 “辰戌醜未”四季故也。 應用舉例 凡遇有人來占筮,急口報一個時辰便� �,不可待時,待時則不靈矣。假如正� ��初三,有人來說個辰時,就按“正 九尋牛五月雞”的口訣,正月在醜上� �初一,寅上初二,卯上初三。又從卯� ��起子時,辰上起卯時,巳上起寅時, 午上起卯時,未上起辰時,到此為止� �就從未上退 一位到午上起天罡,未上是太乙,申� �是勝光,酉上是小吉,戌宮傳送,亥� ��從魁,子宮河魁,丑宮登明,寅宮神 後,卯宮大吉。到此為止,大吉落卯� �,按大吉屬 季,照天罡加季吉凶論之。 登明臨子午卯酉為天罡加孟。四孟為� �申巳亥。登明屬木,木長生在亥,亥� ��未三合木局。數主一、五、七。三數 。神後臨子午卯酉為天罡加仲,四仲� �子午卯酉,神後屬火,火長生在寅,� ��午戌三合火局。數主二、四、八三數 。 霍斐然按:木數主一五七。火數主二� �八,金數主三六九,其數之分配已盡� ��其十位者,十一、二十、三十……百 千萬等數亦盡其中,但人靈活用之。� �於數序之排列似乎又當以木數作一四� ��,火數作二五八,金數作三六九,較 為順序燦然,如圖列之: 木數:一五七 火數:二四八 金數:三六九 若更作:木數:一四七     火數:二五八     金數:三六九 豈 不條理井然,順序通暢?何故要將木� �二者之中數互易呢?必因經驗證明,� ��此為驗。其數理之因當是火不能獨存 ,必賴薪傳。因二木中有火數,火中� �木數,得契 自然之應歟!《小六壬》中,“太安� �小吉”之木數亦為“一五七”,“速� ��”之火數亦為二四八。仍為木火中易 之數列。可知非為隨意排列以求整齊� �一,實乃應 用經驗總結也。 天罡掌訣斷辭 一、占久雨不晴: 天色昏昏幾日連,天罡加孟只加然。 加仲定知雲自散,若逢季位雨綿綿。 二、占久晴不雨: 天罡加孟雨淋淋,加仲之時半晴陰。 若果加季紅日照,青天萬裏見無雲。 三、占求財有無: 欲謁尊官何所宜,論來掌上便能知。 天罡加孟難求得,臨仲先空季許之。 四、占拜謁貴人: 貴人欲見定虛真,天罡加孟不見親。 加仲臨之需等候,加季還周路急人。 五、占交易成否: 成交買賣兩無憑,論來加孟定難成。 加仲紛紛防口舌,若逢季上便安寧。 六、占探親在否: 越將此時仔細窮,天罡加孟在宅中。 如逢仲來季必晚,此時便閑要雖功。 七、占行人不來: 行人出外不知來,但將掌上仔細排。 天罡加孟猶未動,臨仲中途季便回。 八、占出行吉凶: 天罡加孟大吉昌,加仲出行防禍殃。 加季之時多平穩,君須依此定何方。 九、占行人去否: 行人不知去與無,天罡加季已登途。 若置四仲才方去,加孟淹留未出屋。 十、占詞訟吉凶: 欲問官非吉與凶,加孟無理兩和平。 加仲依然宜笑破,季時還許不分明。 另作:加仲無喻且笑彼,季上淹留我� �贏。 十一、占找宿吉凶: 借問前村有店無,加孟之時得好店。 仲重華堂請自享,季臨惡賊夜穿窗。 十二、占船在岸否: 天罡加孟船在岸,加仲之時船正來。 若逢季時須等候,君須依此作安排。 十三、占三叉路口: 天罡加孟左路通,加仲中間且相逢。 加季之時行右路,行程安穩去無虞。 十四、占請客來否: 久請賓客未見蹤,華宴須置孟臨空。 若逢仲上中途遇,季上加之喜笑從。 十五、占買賣利否: 經營利息有與無,臨孟推求意不如。 加仲得平季滿意,君能依此莫躊躇。 十六、占行船安否: 行船安否問原因,加孟無風主太平。 臨仲有風宜仔細,季上風流水上行。 十七、占討債得否: 索債未知通不通,天罡加孟定成空。 若臨四仲猶堪討,加季錢財更主豐。 十八、占生產男女: 天罡加孟是男形,加仲之時定女臨。 若逢季上定難產,急須求神保其身。 又作:季臨子午為男,臨卯酉為女。 十九、占身體病狀: 天罡加仲淹纏重,加仲輕輕莫發愁。 加季須凶終得好,急需作福保無憂。 二十、占何方得病: 加孟河神在西南,加仲西北外靈來。 季上東方家鬼索,連忙求謝保平安。 二十一、占問病男女: 問君病者什麼人,罡孟陰陽父子真。 加仲定知是女病,時逢季上婦人身。 二十二、占獵物左右: 加孟東南在左邊,加仲西北右相連。 居中在地因加季,任與千金莫亂傳。 亦作:加孟在右,加仲在左,加季兩� �有。 二十三、占猜物虛實: 半虛半軟孟中觀,實物還來仲上安。 虛實皆當加季上,雖然二物一般看。 二十四、占猜物單雙: 天罡加孟不成雙,加仲其中兩個藏。 有單有雙季上析,不然有雙在中央。 二十五、占手中何物: 天罡加孟青與白,加仲紅赤定無差。 加季之時必黃色,天罡方信是堪誇。 亦作:加仲赤黑定無差。 二十六、占失物何方: 加孟東方急去尋,仲時西伴已遲音。 季逢東北無蹤影,教君從此莫生嗔。 亦作: 加孟南方急去尋,仲時東畔已遲音。 季逢西北無蹤影,教君從此莫生嗔。 二十七、占遺失物品: 天罡加孟終不得,加仲五十裏中游。 加季之時五裏內,時辰若誤不需求。 二十八、占物品仰覆: 天罡加孟定是仰,加仲側倒不須疑。 加季之時必然覆,君依此斷莫差馳。 二十九、占杖倒立否: 天罡加孟杖必直,加仲倒地定無疑。 加季之時是斜倒,教君方信此二時。 三十、占盜賊: 家中遺失要求真,孟是男來並眷親。 加仲婦女並鄰裏,季上良朋小口人。 三十一、占鴉噪: 天罡加孟防口舌,加仲賓主兩相宜。 加季須憂三四日,災危縱有自分離。 三十二、占音信真假: 天罡加孟定為真,加仲之時半真同。 季上之時不是實,君須依此莫猜疑。 三十三、占過深山: 大凡君欲過深山,天罡加孟有難關。 君逢仲時遇惡賊,加季之時道路難。 三十四、占大水無渡: 無橋無渡一橫河,加孟河深不可過。 邊淺中深固是仲,不深堪過季時歌。 三十五、占眼跳: 天罡加孟禍非常,若無喪事主災殃。 如臨仲位親朋至,加季求財大吉昌。 三十六、占耳熱: 掌上推排到孟時,必然有客到吟杯。 損財遺失因逢仲,內外求和季上宜。 三十七、占酒好否: 天罡加孟美非常,加仲酸甜味可當。 加季之時無好味,君能依此知腹腸。 三十八、占文書: 文書之事最難量,加孟未動有重張。 仲時屬托為中聲,季上文書又不祥。 三十九、占婚姻: 人來若問婚姻事,孟上必然阻滯多。 唯有加仲成又破,季上之時最合和。 四十、占碗中有水無: 天罡加孟水不滿,加仲之時水不多。 季上之時必無水,君須依此必無說。 四十一、占家中酒有無: 天罡加孟必然無,加仲有酒不盈壺。 若逢季時多有酒,定然酒食有豐餘。 四十二、占賭博: 賭博休誇我藝精,天罡加孟賭無心。 若逢四仲此見勝,加季場中獨逞能。 四十三、占逃躲何方: 回避他人是與非,孟東為吉仲為西。 要知南北加之季,此是仙人隱跡機。 四十四、占官事急慢: 要知事務孟中休,生計如風仲上求。 半急半遲還是季,神仙妙訣至微幽。 四十五、占鼠鳴: 半夜鼠子百般音,罡加四孟有財臨。 加仲之時防口舌,如逢季上惡人侵。 四十六、占借物肯否: 借物未知有與無,天罡加孟必然無。 若然仲上遲還借,加季空回定不虛。 四十七、占捕獵: 巡山畋獵事如何,加孟空回受折後。 到仲之時應得少,天罡加季定然無。 四十八、占遷居住宅: 遷居誰明宜不宜,天罡加孟保無危。 時加仲上休言吉,守舊平安是季時。 四十九、占對問有罪無: 欲問官非兩對昭,時逢孟上有煎熬。 如逢仲吉休疑慮,兩下平平季上交。 五十、占捕魚: 今日魚蟲事若何?天罡加孟枉張羅。 若逢四仲無多個,遇季方知得勝多。 五十一、占時能: 天罡加孟費心勤,無尾無頭不入罡。 臨仲防人賒物去,季時財到得千金。 五十二、占天幾時晴: 欲占天雨幾時晴,便將月朔望登明。 上天丙子是晴日,巳午加臨天始晴。 一作:上旬丙子是晴日 按:此另有推算口訣,原書不詳,讀� �注意。 天罡總論第八登明斷詞 遇八占官詞進身,文書謀事主光榮。 行人未至病無恙,病者虛驚失福平。 家宅安和財運少,經營若開後還成。 東南失物宜尋覓,若問婚姻事不成。 天罡總論第九將神後斷詞 遇九占官俱不利,文書謀望枉勞心。 行人尚在途中遇,若問災危淚下沉。 家宅安和榮遇吉,在家失物在東尋。 經營買賣俱如意,惟有婚姻不遂心。 天罡總論第十將大吉斷詞 遇十占官事本凶,文書吉利晚回營。 遺財失物俱西北,若問行人總起程。 家中有災兼口舌,病人不吉見其驚。 求財買賣全無利,只存婚姻百事春。 以上所占,無不應驗。但值空亡日時� �之,則為不利也。一曰若值空時則不� ��也。 空亡日時: 甲子旬見壬戌癸亥日及戌亥時; 甲戌旬見壬申癸酉日及申酉時; 甲申旬見壬午癸未日及午未時; 甲午旬見壬辰癸巳日及辰巳時; 甲辰旬見壬寅癸卯日及寅卯時; 甲寅旬見壬子癸醜日及子丑時。 天罡歌訣六壬時,仔細推詳掌上移。 禍福定知凶與吉,失物吉凶准無疑。 手中判定生和死,成敗皆知凶與危。 先生此數真堪羨,有與人間急報知。 (Xin xem phần dịch tiếp theo)
  17. Tập đoàn” móc túi xuống phố Sài Gòn Chúng tụ thành nhóm, giả làm một gia đình, nhóm bạn xuống phố chơi, nhưng thật ra là để dàn cảnh móc túi, giựt đồ bằng đủ mọi chiêu trò. 5 giờ chiều 23/12, chị Hằng đưa hai con vừa tan học từ trường Hoà Bình, Q.1, TP.HCM tản bộ ra khu mua sắm Diamond. Tại đây, không khí Noel và đón năm mới dương lịch đã tưng bừng. Những cây thông Noel to, trang trí đèn màu bắt mắt. Khách tụ tập rất đông và tranh thủ chụp hình. Đứa con trai lớn của chị Hằng không quên nhắc mẹ chụp ảnh. Ba mẹ con tự chụp cho nhau bằng chiếc di động iPhone 4. Đứng sát bên cạnh ba mẹ con là gia đình của một chị phụ nữ đang mang thai, ăn mặc sang trọng. Người phụ nữ trẻ, đeo trang sức lấp lánh, túi da bên hông cùng cậu con trai mặc jeans áo thun lém lỉnh tạo dáng vui nhộn. Phó nhòm của gia đình hạnh phúc này là bà cụ tuổi ngoài 60. Mọi người nói cười thật vui vẻ. Trông thấy mẹ con chị Hằng loay hoay, bà bầu đoán biết là họ muốn nhờ người chụp để ba mẹ con ghi lại khoảnh khắc Noel, chị ta liền đề nghị chụp giúp. Gặp gia đình trẻ, trông giàu có, vui vẻ, thừa nhiệt tình. Chị Hằng không chút đắn đo, đưa ngay điện thoại cho bà bầu. Vừa tạo dáng chụp xong tấm hình đầu tiên, bỗng bà bầu la lớn "cướp". Ngay sau câu hô hoán thì cái iPhone chị Hằng cũng biến mất. Ngẩn ngơ với tình huống xảy ra quá nhanh, chị Hằng đành chấp nhận mất điện thoại sau khi bà bầu tự thân vét túi áo quần, giỏ xách để chứng minh sự vô tội của mình cùng lời xin lỗi: "Em hậu đậu quá. Tụi nó nhanh lẹ ghê". Trên đường về nhà, cậu con trai nói "con thấy cô đó vừa chụp xong 1 tấm hình thì tự dưng quăng máy điện thoại mẹ ra đằng sau. Có một bác đi ngang rồi không thấy điện thoại mẹ đâu cả". Tổng kết lại những tình huống, chị Hằng biết mình bị lừa. Hôm sau, đón con xong. Chị quay lại trung tâm mua sắm này. Chị bất ngờ bắt gặp cũng bà bầu và “tập đoàn gia đình” ấy diễn lại trò cũ. Lại tung tăng chụp ảnh để tìm con mồi. Không chỉ xài thủ đoạn tự thân làm phó nhòm để tranh thủ cơ hội ném điện thoại cho "đồng nghiệp" tẩu tán. Thấy chị, bà bầu lẳng lặng rút êm. Hiện nay, tại các trung tâm vui chơi, mua sắm lớn tại TP.HCM, trộm cắp đang biến tướng theo xu hướng "ăn hàng" dạng tập đoàn. Trung bình một băng nhóm của chúng không dưới 10 người. Bọn chúng thường sắm vai những cặp đôi, gia đình hạnh phúc. Liên tục di chuyển, tạo tình huống lộn xộn, chen lấn xô đẩy nơi đám đông người để đồng bọn tìm cơ hội bấm dây chuyền, giật điện thoại. Mới đây, anh Trung, ngụ ở Q.1, có công việc đến cao ốc Sài Gòn Center tối 20/12. Chưa kịp gởi xe, một tốp 4 cô gái trẻ, mặc váy đỏ ngắn, áo thun xanh đỏ chạy ùa đến nhờ anh chụp giúp một tấm ảnh. Rất thận trọng, anh Trung khoá xe, đứng ngay tại chỗ để chụp hộ. Xong đâu đó, 4 cô váy đỏ lại ùa đến cám ơn. Cùng lúc anh Trung nhận ra một bàn tay thọc vào túi quần, lấy điện thoại. Tiếc là anh chụp bị hụt. Chưa kịp qui tội, một cô váy đỏ la lớn "anh, cướp" và chỉ tay về hướng đường Lê Lợi. Trên tay bốn cô gái, không có chiếc điện thoại nào ngoài cái máy ảnh. Biết bị dàn cảnh, anh Trung vẫn phải ngậm ngùi bất lực nhìn băng nhóm váy đỏ rời đi nơi khác. Những băng nhóm hoạt động "tập đoàn" kiểu này thường ăn nên làm ra vào dịp cuối năm. Tài sản mà bọn chúng thường nhắm đến là túi xách, dây chuyền, điện thoại cùng những món nữ trang đắt tiền. Chúng có thể hô biến tài sản của người khác bằng những ngón nghề tinh vi để bấm mặt dây chuyền, tráo điện thoại, túi, ví tiền cho đồng bọn nhanh như điện. Mà ngay cả khi phát giác, người dân cũng khó lòng bắt tận tay vì thiếu bằng chứng. Trường hợp bị nạn nhân làm căng quá, chúng nhanh tay đánh tráo chiến lợi phẩm cho đồng bọn để chứng minh mình vô tội hoặc đứng ngoài giả làm nhân chứng tình cờ để khai báo thông tin gian dối. Hoạt động của những băng nhóm trộm cắp chuyên nghiệp như băng Tí Bình Đông, Mín Q.4, Thuý Tôn Đản... đang cát cứ tại nhiều khu vui chơi bao quanh quận 1, các công viên 23/9, Lê Thị Riêng, Nhà văn hoá Thanh niên... Bọn chúng còn lấn vào cả những khu mua sắm. Thủ đoạn của bọn chúng là tập trung thành từng nhóm, ăn mặc sang trọng. Nam diện veston, áo sơmi chỉnh tề, nữ thì duyên dáng trong những bộ váy dài nhã nhặn, nữ tính. Một trong những “chiêu” quen thuộc là chúng di chuyển đến những khu vực quầy hàng, shop thời trang nằm ở vị trí ngay sát cửa dẫn vào thang máy, nhẩn nha xem hàng để đợi con mồi. Chỉ cần thấy con mồi di chuyển vào thang máy, chúng lập tức buông món hàng đang xem rồi nhanh chóng chạy sầm sập vào thang máy. Mỗi lần di chuyển để đánh sô như vậy, bọn chúng đi không dưới 6 người. Vào được bên trong thang máy, bọn chúng nói cười, xô đẩy làm con mồi mất tập trung để tạo khoảng trống cho đồng bọn ra tay rạch túi quần, giỏ xách bằng dao lam nhọn hoặc trổ tài câu điện thoại bằng cuộn chỉ có đầu móc... Sau khi "ăn hàng" xong, đến tầng tiếp theo, chúng nhanh chân thoát ra. Nạn nhân phát hiện ra sau đó, thường trình báo trung tâm mua sắm và yêu cầu nhân viên bảo vệ cho xem camera. “Tuy nhiên, rất nhiều trường hợp camera cũng không phát hiện ra vì chúng che chắn quá khéo”, anh A.T, một bảo vệ phòng máy trung tâm mua sắm Hùng Vương cho biết. Mô hình móc túi theo băng nhóm, với nhiều người tham gia, đang góp phần làm người dân đi chơi, mua sắm mùa cuối năm lo lắng. Trước những vấn nạn trộm cắp liên tục xảy ra, ngoài công tác tăng cường an ninh của cơ quan chức năng, người dân cần thận trọng khi xuống phố, đến khu đông người, không mang nữ trang, vàng bạc cùng những tài sản có giá trị. Tuyệt đối tránh xa đám đông chen lấn, xô đẩy để bảo vệ tài sản cá nhân. Đinh Quý Anh =========== Ớn! Có cả một tập đoàn giả nhà sư đi ăn chực của các chùa và lừa đảo tính đồ bằng đủ mọi chiêu, số lượng trên 150 tên. nay lại thêm tập đoàn móc túi thì quả là ớn!
  18. Ngày tốt năm Quý Tỵ 2013 Trung tâm nghiên cứu Lý Học Đông Phương Dùng cho khai trương, động thổ, sửa chữa xây cất nhà cửa, nhập trạch (vào nhà mới), tân gia, cưới hỏi, an trang, ký kết hợp đồng, khởi sự, giao dịch, đi - về…những công việc quan trọng. Theo Việt lịch thì những ngày tốt của các tháng là các ngày như sau: Lưu ý: Các ngày có đánh dấu (**) là ngày Hoàng Đạo Tháng giêng: ngày 01, 02, 04**, 15, 16**, 17, 25**, 28**, 29, kỵ giờ Dần Tháng hai: ngày 08, 19**, 20, kỵ giờ Tỵ. Tháng ba: ngày 01, 29**, 30**, kỵ giờ Thân. Tháng tư: ngày 06, 09, 19**, 26, 29**, kỵ giờ Thìn. Tháng năm: ngày 01, 02**, 17, 25, 26**, 29**…kỵ giờ Dậu. Tháng sáu: ngày 10** …kỵ giờ Mão. Tháng bảy: ngày 01**, 06**, 15**, 25**, 28…kỵ giờ Dần. Tháng tám: ngày 11, 20, 25, 26…kỵ giờ Tỵ. Tháng chín: ngày 02, 04**, 08**, 16, 17**, 19, 20**, 26**…kỵ giờ Thân. Tháng mười: ngày 04, 10**, 15**, 16, 28…kỵ giờ Thìn. Tháng Một (11): ngày 06**, 09, 15…kỵ giờ Dậu. Tháng Chạp (12): ngày 04,11, 12, 15**, 16**, 28**, 29…kỵ giờ Mão Thiên Đồng
  19. Không thể hiểu nỗi!!! Thiệt là phổi bò!!!
  20. Phổi bò nó rất to cho nên con bò nó rống cũng rất kiêu!
  21. LỤC BA-LA-MẬT LÀ GÌ ? Hoàng Phong Nguyễn Đức Tiến Phật giáo dùng một thí dụ dễ hình dung và đầy thi vị để tượng trưng cho sự tu tập : « vượt sang bờ bên kia của đại dương khổ đau ». « Vượt sang bờ bên kia » là nghĩa từ chương của chữ Ba-la-mật, tiếng Phạn là Paramita, kinh sách gốc Hán gọi là « đáo bỉ ngạn » (đến được bờ bên kia). Nhưng thật ra ý nghĩa của chữ Ba-la-mật thường được hiểu theo nghĩa bóng là « Hoàn hảo », « Hoàn thiện », « Siêu nhiên », « Đạo hạnh siêu phàm », « Đạt đuợc trí tuệ siêu việt »… Nói chung, Ba-la-mật dùng để chỉ những phẩm tính của người Bồ-tát trên đường tu tập, những phẩm tính ấy gồm có sáu loại gọi là Lục Ba-la-mật hay Lục Độ, chữ độ có nghĩa là cứu giúp hay là đi qua sông. Bộ kinh mô tả các địa giới của người Bồ-tát là Du-già sư địa luận kinh (Yogacarabhumisutra) có đề cập đến tính cách siêu nhiên của sáu phẩm tính Ba-la-mật như sau : « Người ta gọi những phẩm tính ấy là siêu nhiên bởi vì sức mạnh vận chuyển và bản chất của chúng đều tinh khiết, thực thi các phẩm tính ấy sẽ đạt được kết quả tối thượng ». Kinh Kim Cương Bát-nhã-ba-la-mật-đa (Vajraracchedika-prajnaparamita) cũng đề cập đến những phẩm tính ấy : « Này Tu-bồ-đề, nếu một người Bồ-tát không bám víu vào bất cứ một khái niệm nào khi tu tập về lòng độ lượng, những xứng đáng gặt hái từ những hành vi đạo hạnh ấy sẽ rộng lớn và mênh mông như không gian ». Vậy những hành vi tu tập của Lục Ba-la-mật phải là những phản ứng tự nhiên, bộc phát một cách tự động từ tận cùng của thâm tâm, không liên kết với bất cứ một khái niệm nào về chủ thể, đối tượng và ý nghĩa của hành vi, nhất là không cầu mong và chờ đợi gì cả. Lục Ba-la-mật trình bày trong kinh sách Bắc tông thực ra đã được ghi chép trong các kinh sách rất xưa của Nam tông, chẳng hạn như kinh sách của Nhất thiết hữu bộ (Sarvastivada) và Thuyết nhất thế bộ (Lokottaravada), tuy có một vài khác biệt. Bài viết này dựa phần lớn vào cách định nghĩa của Bắc tông. Sáu đức hạnh Ba-la-mật là : 1- Sự hào phóng siêu nhiên, (danaparamita), còn gọi là Bố thí Ba-la-mật. 2- Giới hạnh siêu nhiên, (silaparamita), còn gọi là Trì giới Ba-la-mật. 3- Sự nhẫn nhục siêu nhiên, (kshantiparamita), còn gọi là Nhẫn nhục Ba-la-mật. 4- Nghị lực siêu nhiên (viryaparamita), còn gọi là Tinh tiến Ba-la-mật. 5- Sự chú tâm (tập trung tâm thức) siêu nhiên (dhynaparamita), còn gọi là « Thiền định » Ba-la-mật. 6- Sự hiểu biết siêu nhiên (prajnaparamita), còn gọi là Trí tuệ Ba-la-mật. 1- Sự hào phóng siêu nhiên Hào phóng là khả năng mở rộng lòng ta để hiến dâng tất cả cho kẻ khác. Đó là liều thuốc hoá giải mọi sự bủn xỉn và bần tiện, mọi tính toán, mưu đồ và tham lam. Giàu có không đơn thuần căn cứ trên phương diện vật chất và tiền bạc, nhưng còn dựa trên khía cạnh tinh thần, học thức và khả năng yêu thương. Vì thế, mỗi người trong chúng ta đều có một chút gì để cho, để hiến dâng cho kẻ khác. Bố thí Ba-la-mật không phải tùy thuộc vào số lượng vật chất hiến dâng mà chính là khả năng mà ta có thể đặt lòng ta vào hai bàn tay của kẻ khác. Khi càng ý thức được thế nào là ích kỷ thì ta lại càng biết mở rộng lòng ta trước những kẻ khổ đau. Có những người rất nghèo, và cũng không có vốn liếng học thức cao, nhưng họ có thể bật khóc trước cảnh khổ đau và cơ hàn của kẻ khác. Ngoài tình thương ra, họ không có gì để hiến dâng, nhưng chính đó mới thật là bố thí. Sự hào phóng hay bố thí gồm có ba thể dạng : a) Tài thí (danaparamita) : tức là bố thí hiện vật hay tài chính cho những người thật sự thiếu thốn, bần hàn, hoặc cho các cơ quan từ thiện. Bố thí nhưng không chờ đợi sự hồi đáp hay biết ơn của người nhận, không cầu mong được hưởng những điều xứng đáng, không bám víu và chờ đợi hậu quả của hành vi bố thí. Ta đói nhưng có kẻ đói hơn, ta chia miếng ăn làm đôi, thế thôi và không nghĩ gì nữa. Ta vừa mua vé số, ta gặp một người ăn xin, ta bố thí để cầu mong trúng số độc đắc, như thế không phải là bố thí. Một người giàu có, dù là bất chính hay lương thiện, trích ra một phần nhỏ để bố thí trong mục đích trấn an lương tâm, hoặc nhắm vào mục đích mua danh, cũng không phải là bố thí. Bố thí ở một cấp bậc cao hơn nữa, là hiến dâng những gì quý giá nhất, hiếm hoi và tha thiết nhất đối với ta, hành vi ấy gọi là Đại bố thí. Bố thí một phần thân thể, hay cả mạng sống của ta vì sự an vui và sinh tồn của kẻ khác gọi là Bố thí Ba-la-mật. Kinh sách kể chuyện trong một kiếp trước, Đức Phật đã từng hy sinh thân xác mình để nuôi một con cọp mẹ gầy nhom vì đói, chỉ còn xương và da không có sửa nuôi con. Có những vị tu hành tự thiêu để đánh thức lương tâm kẻ khác trước những ý đồ vô minh của họ, đó là hành vi của những người Bồ-tát đã đạt được ít nhất địa giới thứ nhất trong mười địa giới của người Bồ-tát. Bị kích động bởi hận thù, cuồng tín hay vì mục đích chính trị, tự hy sinh thân xác để gây ra một hành vi bạo động làm thiệt hại sinh mạng kẻ khác, không phải là bố thí. Phật giáo Nam tông thường tạc một pho tượng Phật đứng thẳng, tay trái duỗi thẳng và bàn tay mở rộng tượng trưng cho bố thí. Tay phải co lại trước ngực, lòng bàn tay hướng ra phía trước như đang đẩy ra, tượng trưng cho can đảm và sự che chở chúng sinh khỏi những lo âu và sợ hãi. Vậy mỗi khi ta bố thí mà còn do dự hay tính toán thì ta hãy nhìn lên tượng Phât để hiểu rằng Đức Phật khuyên ta như thế nào với bàn tay để ngữa… B) Vô úy thí (abhayadana) : tức là che chở và bảo vệ trực tiếp hay gián tiếp mọi sinh linh yếu đuối, khờ khạo, ngây ngô, không phương tiện tự vệ trước bạo lực, lo buồn, sợ hãi và chết chóc. Tùy theo khả năng của mỗi người, vô úy thí cũng có nghĩa giản dị là dẫn đường cho những kẻ lạc lối, ủy lạo và an ủi những kẻ lỡ vận, chia xẻ những xót xa của những người đang đau khổ. Khi thấy một người rơi vào hoàn cảnh khổ đau cùng cực, ta hy sinh tất cả để chăm sóc cho họ. Khi thấy sinh vật bị chở đến lò sát sinh, tuy không thể giải thoát cho chúng, nhưng ta vẫn có thể đọc nhẫm một câu kinh để xót thương và hồi hướng cho những sinh vật ấy, đồng thời cầu xin cho người đồ tể gây ra đau đớn một cách thản nhiên và vô tình, sớm ý thức được sự hung bạo của họ, dù hành vi giết hại chỉ là sự bắt buộc vì kế sinh nhai. Nhưng những đau đớn trực tiếp do bàn tay của họ gây ra sẽ đem đến những hậu quả trực tiếp cho họ, những hậu quả ấy có thể xảy ra rất sớm hay trong lâu dài, nhưng không sao tránh khỏi được. Thả một con chim đang bị nhốt trong lồng, một con cá trong chậu cũng gọi là vô úy thí, đó là cách che chở sinh vật trước sợ hãi và khổ đau. Một thí dụ thực tiển, khi có một con kiến rơi vào ly nước ta đang uống, ta không tức giận và thốt lên một lời thô tục, nhưng ta nên lấy một cây tăm để vớt nó ra. Dù nó không biết kêu la, nhưng ta vẫn nghe thấy tiếng cầu cứu của nó, tiếng cầu cứu ấy vang lên từ trong tận cùng của tim ta. Phật dạy rằng một việc lành dù nhỏ cách mấy cũng nên làm, một việc ác dù nhỏ cách mấy cũng không làm. Vô úy thí cũng giản dị có nghĩa là giúp kẻ khác đừng lo sợ, chẳng hạn giúp họ tránh khỏi mê tín, dị đoan, bói toán... Những thứ ấy bề ngoải có vẻ tạo ra sự an tâm và tin tưởng, nhưng thật ra là cội nguồn của mọi thứ lo âu và sợ hãi. Vậy, chính ta phải can đảm và giúp cho kẻ khác can đảm. Hãy nhìn bàn tay của Phật đẩy ra phía trước để nhắc nhở ta hãy bảo vệ lấy ta và mọi sinh linh trước sợ hãi và lo âu. c) Pháp thí (dharmadana) : một số kinh sách xếp Pháp thí vào hàng thứ hai trước khi nói đến Vô úy thí, nhưng cũng có kinh sách xếp vào hàng thứ ba hay thứ nhất vì tính cách đặc biệt của thể dạng Bố thí này. Pháp thí có nghĩa là hiến dâng và truyền lại cho kẻ khác Đạo Pháp, tức những lời giáo huấn của Đức Phật. Ta thường hiểu chỉ có Tăng đoàn mới đủ tư cách hiến dâng Đạo Pháp, nhưng thật ra bất cứ ai cũng có thể hiến dâng Đạo Pháp, tùy theo khả năng tu tập và hiểu biết của mình. Có thể ta không biết nhiều về Đạo Pháp nhưng ta vẫn có thể tụng một bài kinh cho người khác nghe, nghe kinh cũng có thể làm tan biến một phần nào sự sợ hãi, lời tụng chân thành của ta cũng có thể làm cho người nghe đến gần với Đạo Pháp hơn. Trong hành vi Pháp thí, ta cũng nên cẩn thận. Tại sao phải cẩn thận ? Vì Pháp thí rất tế nhị, tùy vào trình độ của ta và của người nhận và nhất là người nhận có sẳn sàng hay không, mức độ vô minh và cái ngã của họ đang tác hại họ như thế nào ? Lời Pháp ta cầu mong hiến dâng cho họ có phù hợp với hoàn cảnh tâm thức của họ hay không ? Pháp thí phải cẩn thận là như vậy. Ngoài ra, Pháp thí còn cần đến sự chân thật và can đảm nữa, chính kinh nghiệm về những gì mà Đạo Pháp đã đem đến cho ta sẽ giúp ta can đảm để Pháp thí. Một vài người cư sĩ hay tỳ kheo dùng tài hùng biện, hoặc lối kể chuyện khôi hài và hấp dẫn để mê hoặc người nghe, lấy Đạo Pháp làm bùa án ngữ mọi sự suy luận, những hành vi như thế không phải là Pháp thí. Pháp thí cũng không phải là thủ đoạn áp đặt một đức tin, dù là đức tin nơi Phật, nhưng đúng hơn là cách giúp kẻ khác suy luận, phán đoán để họ tự tìm lấy một con đường cho họ. Còn một khía cạnh nữa mà kinh sách ít nói đến và ít nhấn mạnh là tính cách tích cực và tầm quan trọng của việc quảng bá Đạo Pháp trong khi Đức Phật còn tại thế và cả trong những thế kỷ tiếp theo sau đó. Trong giai đoạn tiên khởi này, việc phố biến Đạo Pháp nhất thiết nhờ vào cách truyền khẩu. Người này kể lại cho người kia những lời Phật dạy, cha kể lại cho con, vợ kể lại cho chồng, thầy kể lại cho trò, Tăng đoàn tu tập với nhau, giải thích cho nhau. Ngày nay, việc học thuộc lòng kinh điển vẫn còn lưu truyền trong các tu viện của Phật giáo Tây tạng. Học thuộc và tìm hiểu những lời giảng huấn của Phật, kèm thêm những kinh nghiệm đạt được do sự tu tập của mỗi người để giảng cho nhau và chỉ cho nhau, gọi là Pháp thí. Chính nhờ Pháp thí mà Đạo Pháp đã vượt qua nhiều trăm năm không cần đến chữ viết trong giai đoạn đầu, và cũng nhờ đó đã lưu truyền cho đến ngày nay một cách vô cùng phong phú. Với những kỷ thuật hiện đại với băng dĩa và mọi phương tiện truyền thông để phổ biến, ta không có quyền làm cho Đạo Pháp nghèo nàn và mai một. Đối với chúng ta hôm nay, học hỏi Đạo Pháp để truyền lại cho nhau thật là cần thiết. Ý thức được như thế ta sẽ thán phục hơn những thế hệ Phật tử của hơn hai ngàn năm trước : có mấy người trong số họ được đi học, nhưng chỉ nhờ thành tâm, cố gắng và lòng mộ đạo của họ mà hôm nay đây, tất cả chúng ta được may mắn thừa hưởng một nền Đạo Pháp thật tuyệt vời. Pháp thí còn có nghĩa là nên nói những gì ta học hỏi được và hiểu được một cách chân thật, nêu lên những kinh nghiệm của ta về những điều học hỏi ấy một cách kín đáo và khiêm tốn, đồng thời ta cũng sẳn sàng thú nhận những gì không biết hoặc không hiểu, tránh tất cả những thí dụ vướng mắc trong dị đoan và mê tín, nhất là luôn luôn phải dựa vào chánh Pháp và không đi ra ngoài chánh Pháp. 2- Giới hạnh siêu nhiên Giữ giới không phải là những quy luật áp đặt hay trói buộc từ bên ngoài. Trong tập « Nhập Bồ-đề hành luận » (Bodhicaryavatara), Tịch thiên có nói như sau : « Làm gì có thể tìm ra một tấm da thật lớn để gói cả địa cầu ? Chỉ cần một miếng da nhỏ cũng đủ làm được một đôi dép. Cũng thế, ta đâu có thể khống chế những hiện tượng bên ngoài ; chỉ cần khắc phục tâm thức ta : đâu cần chú ý để biến đổi những thứ khác ! ». Thật vậy, giữ giới có tính cách nội tâm và tích cực, do đó giữ giới là một sự tự nguyện. Các nhà lãnh đạo, triết gia, khoa học gia, xã hội học, kinh tế học…hầu hết đều phóng tâm thức ra bên ngoài để sữa đổi thế giới này, mặc dù họ đã mang đến những tiến bộ và cải thiện không chối cải được, nhưng đồng thời họ cũng tạo ra vô số những vấn đề khác làm cho thế giới của chúng ta trở nên phức tạp hơn, và nhất là khổ đau trong thế giới đó vẫn còn nguyên, nếu khổ đau từ trước không gia tăng thêm thì cũng chỉ thay đổi bộ mặt mà thôi. Kỷ luật hay giới hạnh gồm có ba sắc thái khác nhau : a) Không làm những điều tai hại (samvarasila): Tiếng Phạn sila có nghĩa là luật, giới, tức là những điều răn cấm, nhưng sila cũng có nghĩa là mát mẻ, vì thế kinh sách gốc Hán còn dịch chữ này là thanh lương. Thế giới này như lửa bỏng, vì thế giữ giới còn hàm chứa ý nghĩa là dập tắt những ngọn lửa đang thiêu đốt chúng sinh. Luật hay giới được tóm lược và xếp chung trong mười điều cấm liên quan đến thân xác, ngôn từ và tâm thức : - Giới luật liên quan đến thân xác : 1) không sát sinh, 2) không trộm cắp, 3) không tà dâm gây ra khổ đau. - Giới luật liên quan đến ngôn từ : 4) không nói dối, 5) không phụ họa gây ra hận thù, chia rẽ, không nói những lời thô tục và sỗ sàng, 6) không nói những lời làm tổn thương kẻ khác, không phao tin, loan truyền và đồn đại, không chỉ trích và nói xấu kẻ khác, 7) không ăn nói tào lao vô tích sự. - Giới luật liên quan đến tâm thức : 8) không dòm ngó của cải của kẻ khác, 9) không ác ý, 10) không duy trì những quan điểm sai lầm. Đúng ra, theo Luật Tạng (Vinaya Pitaka), giới luật chia thành tám thứ loại, mỗi thứ loại gồm nhiều giới. Người Tỳ kheo phải tuân theo 227 giới, Tỳ kheo ni phải tuân theo 311 giới. Sự khác biệt này phải chăng đã chứng tỏ tâm thức của người phụ nữ mang nhiều xu hướng khác hơn với tâm thức của nam giới ? Tuy nhiên giữ giới một cách khắc khe có thể đưa tới trường hợp quá gò bó, hoặc ngược lại người cố gắng giữ giới một cách nghiêm túc có thể trở nên kiểu hãnh và có ý khinh thường người không biết giữ giới. Trong bộ « Phật học Tự điển » của cụ Đoàn Trung Còn, có nêu lên chuỗi liên kết từ việc giữ giới cho đến Niết bàn như sau : 1. Có trì giới, mới có trật tự. 2. Có trật tự, mới có sự không bất bình. 3. Không bất bình, mới có vừa ý. 4. Có vừa ý, mới có hỷ lạc. 5. Có hỷ lạc, mới có thanh tịnh. 6. Có thanh tịnh, mới có an tâm. 7. Có an tâm, mới có định, (sự thăng bằng và tĩnh lặng của tâm thức). 8. Có định, mới có huệ, (trí tuệ). 9. Có huệ, mới có chán năm trần, (sắc, thinh, hương, vị, xúc). 10. Có chán năm trần, mới có lìa thọ cảm. 11. Có lìa thọ cảm, mới có dứt tội lỗi (không gây ra nghiệp). 12. Có dứt tội lỗi mới có giải thoát. 13. Có giải thoát, mới chứng Niết bàn. Như thế, ta thấy rõ giữ giới một cách đơn giản cũng đã là một hành vi chuẩn bị cho Niết bàn. B) Thực thi những điều lợi ích (kusaladharmasamgrahasila) : trì giới không có nghĩa là giữ giới một cách tiêu cực và thụ động. Thể dạng chủ động của giới hạnh là thực thi những điều lợi ích. Những gì thuộc đạo đức nên làm bao gồm trong mười điều sau đây : - Đức độ thuộc thân xác : 1) bảo vệ sự sống của muôn loài, 2) thực thi sự rộng lượng và hào phóng, 3) ý thức trong cuộc sống tình dục, không gây ra khổ đau. - Đức độ thuộc ngôn từ : 4) nói lên sự thực, 5) nói những lời hoà giải, tạo sự thân thiện và giảng hoà, 6) ăn nói nhỏ nhẹ, 7) tụng niệm kinh điển. - Đức độ thuộc tâm thức : 8) biết hân hoan với hạnh phúc của kẻ khác, 9) từ tâm và thương người, 10) duy trì những quan điểm đúng đắn. Chính thể dạng chủ động của giới luật sẽ trực tiếp đưa đến những điều xứng đáng, tức những nghiệp tích cực. Thực thi những điều đạo hạnh sẽ tạo sức mạnh cho tâm thức, làm gia tăng lòng nhiệt tâm. Phần chủ động vừa kể của giới luật chỉ có thể đạt được bằng sự tập luyện kiên trì. Đạo hạnh phải vượt lên trên mọi tính toán, thực thi đạo hạnh đòi hỏi lòng nhân từ, sự khả ái và cử chỉ dịu dàng, tất cả phải xuất phát từ đáy tim ta. Chẳng hạn như điều thứ sáu : phải ăn nói nhỏ nhẹ, ta cố gắng nói lên lời êm ái, nhưng có thể ta vừa nói vừa nuốt những lời thô bạo và sự oán hờn. Như thế không phải là giới hạnh Ba-la-mật. Sự ân cần, lòng từ tâm và nhân ái phải phát xuất một cách hồn nhiên từ bản năng. c) Quan tâm đến sự an vui của tất cả chúng sinh (sattvarthakriyasila) : giữ giới và thực thi những điều đạo hạnh vẫn chưa đủ, còn phải đi xa hơn thế nữa : phải quan tâm đến hạnh phúc của muôn loài, hiến dâng tất cả những xứng đáng của ta cho chúng sinh, hồi hướng tất cả những gì gặt hái được để cầu mong sự an lành cho từng chúng sinh một. Xứng đáng và đạo hạnh gom góp được sẽ không còn của ta nữa, nhưng thuộc về tất cả chúng sinh, ta trả lại tất cả cho sự sống. Sự cấu hợp của thân xác và tâm thức chỉ có thể hàm chứa một ý nghĩa khi biết trì giới và thực thi đạo đức, nhưng những gì tích cực và xứng đáng do những hành vi ấy đem đến sẽ thuộc về sự sống của muôn loài, vì sự cấu hợp của thân xác và tâm thức ta sẽ tan rã, không phải là cơ sở đích thực và trường tồn để đón nhận những điều xứng đáng. Trì giới, thực thi đạo hạnh, nhưng không để cái ngã hay cái tôi bám víu vào những thứ ấy. Mở rộng lòng ta để trả lại tất cả những xứng đáng gặt hái được cho sự sống, như thế mới gọi là giới hạnh siêu nhiên. 3- Sự nhẫn nhục siêu nhiên Nhẫn nhục là hành vi chận đứng mọi phán đoán, giữ cho tâm thức trong sáng và cởi mở, tràn ngập lòng từ bi trước bất cứ một hoàn cảnh nào. Để có thể hoá giải tâm thức và thân xác khỏi bị kích động bởi những xung năng và xúc cảm bấn loạn trước một tình huống nào đó, ta hãy hướng tâm thức quay nhìn vào vô thường, khổ đau và không gian bao la của vũ trụ, giữ cho tâm hồn cởi mở, thanh thản và yên lặng, không xao xuyến. Nhẫn nhục siêu nhiên gồm có ba khía cạnh hay thể dạng khác nhau : a) Chịu đựng sự vô ơn của kẻ khác (parapakaramarsanaksanti): đây chỉ là sự nhẫn nhục thông thường, một hành vi bất bạo động, tức không phản ứng trước sự nguyền rủa của kẻ khác, trước bạo lực và mọi hành vi sai trái của kẻ khác đối với ta. Dùng nham hiểm để trả lời cho nham hiểm, dùng bạo lực để đáp lại bạo lực chỉ gây thêm khổ đau cho tất cả mọi người và không giải quyết được gì cả. Trong kinh « Nhập Bồ-đề hành luận », Tịch Thiên có nói như sau : « Những điều lành gom góp được qua hàng ngàn niên kỷ của vũ trụ sẽ tiêu tan hết trong một phút giây giận dữ. Không có gì xấu xa bằng hận thù, cũng không có đức hạnh nào sánh được với sự nhẫn nhục ; vậy thì, bằng bất cứ phương cách nào, phải tích cực trau dồi sự nhẫn nhục ». Trong thế giới này có rất nhiều người sẵn sàng làm cho ta giận dữ, nếu ta đem sinh lực để phản ứng lại với từng người hay tất cả những người ấy, ta sẽ không còn sinh lực để làm bất cứ gì khác, và nhất là để tu tập, vì tu tập đòi hỏi rất nhiều cố gắng và sinh lực, nhiều hơn là ta tưởng. Sự hiện hữu tạo tác bằng điều kiện của ta dính liền với ngoại cảnh và cả phần tâm thức của kẻ khác, đồng thời cũng liên đới với sự vận chuyển chung của xã hội con người, kể cả sự sống và vũ trụ. Khi ta cảm thấy bị tấn công bởi những lời mạt sát, bởi bạo lực, nham hiểm, độc ác, hoặc rơi vào một tình huống ngược với sự mong đợi, ta liền nổi giận. Sự nổi giận ấy chẳng đem đến một giải pháp nào cả mà còn tạo ra vô số những khó khăn mới trong mạng lưới tương liên giữa con người với nhau, giữa xã hội, sự sống và cả vũ trụ nói chung. Những làn sóng tư duy bấn loạn và âm ba của giận dữ, trong từng người và trong tất cả mọi người, sẽ lan vào vũ trụ này, giao thoa và cộng hưởng để buộc chặt tất cả chúng ta với thế giới mà chúng ta đang sống. Phật giáo gọi cái thế giới ấy là thế giới của khổ đau và luân hồi. B) Chịu đựng sự thử thách (dukhadhivasanaksanti) : nhẫn nhục không có nghĩa đơn giản là chận đứng những phản ứng bộc phát của ta trước những tấn công từ bên ngoài, mà còn có nghĩa là cố tình nhận chịu những thử thách từ bên trong, tức những khó khăn và thiếu thốn của ta. Điều ấy có nghĩa là ta chấp nhận cam go và gian khổ một cách hân hoan và tự nguyện, từ bỏ mọi bám víu vào những tiện nghi, những giá trị dễ dãi và hời hợt của sự sống này để quyết tâm tu tập. Đấy là khía cạnh thứ hai của nhẫn nhục, mang tính cách tích cực, kiên trì và cố gắng. Mặt khác, dù không có người nào làm trái ý ta, dù không có tình huống nào đi ngược với sự mong muốn của ta, nhưng trên thực tế ta vẫn tiếp tục gánh chịu khổ đau, chỉ vì vô số ảo giác và xung năng, nguyên nhân của khổ đau, đã ăn sâu vào tâm thức ta từ lâu. Cho đến khi nào ta chưa tẩy xóa được những vết hằn đó trong tâm thức, thì ta vẫn còn cần đến đức hạnh của nhẫn nhục. Vậy sự nhẫn nhục và chịu đựng trong trường hợp này có nghĩa là chấp nhận những khó khăn, nghịch ý và khổ đau từ sự hiện hữu của chính ta, chấp nhận để tìm thấy sự trong sáng và trầm tĩnh. Bệnh tật, đau buồn, khó khăn, nghèo khổ… không làm cho ta bấn loạn và lo âu quá đáng. Vượt lên trên những nghịch ý và khổ đau ấy đòi hỏi sự nhẫn nhục. Nhẫn nhục như thế cũng là một cách giúp ta làm nhẹ bớt đi nghiệp tiêu cực đang tác hại ta. c) Không sợ hãi trước ý nghĩa sâu xa và cao siêu của Đạo Pháp (dharmanidhyanaksanti) : có nghĩa là không khiếp sợ trước những khái niệm như vô ngã (không có linh hồn), tánh Không, vô thường…Khiếp sợ những thứ ấy là biểu hiện của thể dạng bám víu và u mê. Nên hiểu rằng vô ngã, tánh Không, vô thường…là những khái niệm mà Đức Phật đưa ra để giúp ta xóa bỏ vô minh, đạt được sự hiểu biết tối thượng về thực thể của vũ trụ. Những khái niệm vừa kể là những diễn đạt bằng ngôn từ qua sự hiểu biết quy ước của ta, vì thế tự chúng, chúng không phải là bản thể thật sự của hiện thực, chúng chỉ là những đặc tính quy ước hay những biểu hiện bên ngoài của hiện thực mà thôi. Dù sự hiểu biết của ta còn mù mờ, ta cũng không nên hoang mang và lo sợ trước Đạo Pháp, hãy tiếp tục phát huy sự nhẫn nhục và kiên trì để tìm hiểu Đạo Pháp. Vô minh không thể xoá bỏ một cách dễ dàng. Nếu nghĩ rằng tôi phải loại trừ cái ngã, và cả cá tính của cái tôi để đi tìm hư vô : tôi chết là tôi biến mất. Hiểu sai như thế có thể làm cho ta sơ hãi. Chết là một sự tiếp tục, hậu quả từ những gì ta đã làm, xung năng và những gì ta muốn làm sẽ tiếp tục đưa đẩy, lèo lái và hướng dẫn ta trong những tình huống khác qua những hình tướng khác. Ý thức được điều đó, đồng thời hiểu được một cách sâu xa và chính xác về tánh Không, về vô thường và vô ngã, ta sẽ can đảm hơn, không còn bám víu vào sự hiện hữu tạm thời của ta nữa, đồng thời lòng quyết tâm và sự kiên trì của ta trên đuờng tu tập sẽ gia tăng hơn. Khi đã quyết tâm thì nhẫn nhục và trì chí sẽ trở nên dễ dàng, không đòi hỏi sự cố gắng và sức chịu đựng của ta một cách quá đáng nữa. 4- Nghị lực siêu nhiên Muốn thật sự bước vào con đường tu tập, nghị lực của chính ta không đủ, vì một lúc nào đó nghị lực đơn độc ấy sẽ suy yếu, hoặc ngược lại có thể gia tăng một cách lệch lạc để chuyển thành sự tự kiêu và ngạo mạn. Nghị lực đích thực là nghị lực của lòng từ bi và sự trong sáng, nghị lực ấy lúc nào cũng khiêm nhường và không bao giờ khô cạn. Nghị lực siêu nhiên còn gọi là Tinh tiến Ba-la-mật, tinh là trong sáng, tiến là vượt lên. Trên mặt thực tế, nghị lực hiển hiện qua sự kiên trì, can đảm, không thối chí, luôn luôn giúp ta nhìn thấy con đường đang đi còn thật xa và ta chưa tiến lên được bao nhiêu. Nghị lực trên đường tu tập không phải là nghị lực chống lại sự mệt mỏi do nổ lực bằng bắp thịt, nhưng là nghị lực của sự hân hoan dựa vào niềm vui sướng khi thực hiện được những điều phải và tích cực. Vì thế, nghị lực cũng như lòng từ bi là một sự cố gắng liên tục, không ngưng nghỉ, không bao giờ tự nhận đã đạt đến tột đỉnh. Đạo nguyên có nói như sau : « Này những người đang tu tập để đạt đến giác ngộ, ví như có giác ngộ đi nữa, cũng đừng bao giờ ngưng tu tập để đạt được giác ngộ, dù là viện dẫn lý do đã đạt được giác ngộ tuyệt đỉnh. Giác ngộ là vô biên. Hãy tu tập để giác ngộ nhiểu hơn nữa ». Đạo Nguyên lại đưa ra hình ảnh sau đây để diễn đạt ý nghĩa của câu nói ấy : « Những con cá đang lội và đang lội, nhưng nước không bao giờ chấm dứt. Những con chim đang bay và đang bay, nhưng không bao giờ không gian chấm dứt » Vậy nghi lực không bờ bến là căn bản của mọi thành công trên đường tu tập, thiếu nghị lực sẽ không thực hiện được gì cả. Nghị lực siêu nhiên gồm có ba thể dạng như sau : a) Nghị lực như một thứ áo giáp (samnahaviraya) : nghị lực che chở ta trước sự lười biếng và trì trệ, giúp ta duy trì quyết tâm tu học, một sự quyết tâm sâu xa và chân thật. Khoác lên người chiếc áo giáp của nghị lực không phải là cách biểu dương anh hùng tính hay phô trương sự khổ nhục vì Đạo Pháp. Kinh sách ví chiếc áo giáp nghị lực ấy là một sự che chở trước sự lười biếng và ù lì. B) Nghị lực trong hành động (prayogavirya) : không bao giờ hẹn sang ngày mai những gì ta có thể thực hiện trong ngày hôm nay, luôn luôn ý thức về vô thường và tính cách mong manh của sự hiện hữu, đó là những phương cách đem đến nghi lực trong sự sinh hoạt của ta. Gân máu dài hàng cây số trong não bộ, chỉ cần một gân máu nhỏ bằng sợi tóc bị đứt cũng làm cho ta ngã xuống, trong số hàng tỷ tế bào trong thân xác, chỉ cần một tế bào chia cắt và nhân lên một cách bấn loạn cũng làm cho ta bị ung thư. Nhưng tùy theo tuổi tác, ta cứ nghĩ rằng ta đang khoẻ mạnh và sẽ còn sống 10, 20, 30, 40…năm nữa, và ta tiếp tục hẹn lại và gác lại sự tu tập. Thiếu nghị lực trong hành động là như thế. Trong tập Chính Pháp nhãn tạng (Shobogenso), Đạo Nguyên có đưa ra hình ảnh của bốn con ngựa : một con phóng chạy khi thấy bóng của cây roi, một con chờ roi chạm vào da mới chạy, một con chờ roi cắt vào thịt mới chạy, một con chờ roi nghiến vào xương mới chạy. Chiếc roi tượng trưng cho vô thường. Nghị lực trong hành động cũng là cách chống lại sự cám dỗ của những sinh hoạt vô bổ, những giải trí làm tê liệt trí óc, ngăn cản mọi suy luận và sinh hoạt của lý trí : chẳng hạn như nghe nhạc kích động liên miên, chơi những trò chơi điện tử hay xem truyền hình suốt ngày. Có thể xem đó là những loại ma túy tệ hại của xã hội tân tiến ngày nay. c) Nghị lực vô biên (analamtavirya) : nghị lực Ba-la-mật không có giới hạn, không thể đo lường được, không bao giờ gọi là đủ hay đã đạt đến tối đa. Luôn luôn nên nghĩ rằng những gì đạo hạnh và xứng đáng ta đã thực hiên được đều vô nghĩa, nhỏ nhoi và thiếu sót, cần phải cố gắng nhiều hơn và nhiều hơn nữa. Phải thực thi và duy trì nghị lực cho đến khi nào đạt được Giác ngộ. 5- Sự chú tâm siêu nhiên Tỉnh thức là một trạng thái mở rộng sự cảm nhận của ta đối với thế giới bên ngoài và những biểu hiện của nội tâm. Thiếu tỉnh thức có nghĩa là ta chỉ thật sự sống một phần nhỏ của sự hiện hữu này mà thôi. Thí dụ ta có phương tiện, ta ăn uống, vui chơi, du lịch và tận hưởng tối đa ; như thế không có nghĩa là « đang sống », đó là những biểu hiện của « bản năng sinh tồn », là một cách « vỗ béo » cho cái ngã và làm thoả mãn những đòi hỏi bản năng thấp nhất của thân xác và tâm thức, sống thật sự là ý thức được từng phút giây của hiện tại, ý thức được những cảm nhận của giác quan trên thân xác và sự vận hành của tâm thức trong từng khoảnh khắc. Trong câu 21 của Kinh Pháp cú, Đức Phật có nói như sau : « Xao lãng cũng giống như là đã chết ». Lo âu, sợ hãi, bồn chồn, chờ đợi, mưu tính, ước mơ, hy vọng…là những thể dạng của xao lãng. Tỉnh thức có thể xem như tương đương với chánh niệm trong Bát chánh đạo. Sau khi thực hiện được sự tỉnh thức hay chánh niệm, mới có thể đi xa hơn tức là tập trung suy tư đề quán xét một đối tượng, tập trung là dạng thể tương đương với chánh định, tức sự chú tâm đích thực. Thể dạng cao nhất của chú tâm là sự quán thấy siêu việt của các đấng như lai (tathagata), sự quán thấy ấy vượt lên trên mọi đối nghịch, mọi khái niệm nhị nguyên và quy ước. Đó mới đích thực là sự chú tâm siêu nhiên, gọi là thiền định Ba-la-mật. Ba thể dạng vừa kể tương ứng với ba cấp bậc thăng tiến của khả năng trút bỏ được xao lãng và những bấn loạn trong tâm thức. Ba cấp bậc chú tâm ấy được định nghĩa như sau : a) Sự chú tâm của những người mới tập (sukhaviharayadhyana) : tức là sự chú tâm còn vướng mắc trong mục đích tìm kiếm phúc hạnh và trong sáng bằng cách chận đứng những diễn đạt bấn loạn của tâm thức. Cảm nhận nhưng không diễn đạt một cách hỗn loạn giống như trút bỏ được gánh nặng. Đó là những kinh nghiệm thoải mái và dễ chịu, dễ thu hút người tu tập và làm cho họ bám vào đấy để tìm cách liên tục tái tạo trở lại sự thoải mái, tình thế ấy cũng là một nguy cơ chân đứng sự thăng tiến. Vậy chỉ nên xem trạng thái ấy là một thể dạng thư giản của tâm thức và cần phải tiếp tục đi xa hơn, tức là quán thấy trực tiếp tánh Không. B) Sự chú tâm quán thấy ý nghĩa minh bạch của mọi hiện tượng (gunanirharayadhyna) : kinh sách xác định thể dạng tâm thức của những người mới tập như vừa kể trên đây là một thể dạng ấu trĩ, giống như một liều thuốc an thần của những người bị bịnh thần kinh ; người bịnh trở thành lệ thuộc và cần đến phương thuốc chữa trị ấy để tìm thấy trạng thái dễ chịu và thoải mái. Vì thế, chận đứng sự diễn đạt của tâm thức chưa đủ, phải tìm hiểu một cách thật lành mạnh và chính xác tánh Không của bất cứ những cảm nhận nào từ giác cảm và tâm thức tạo ra, phải đi xa hơn thể dạng an bình để tìm thấy sự Giác ngộ. c) Sự chú tâm siêu việt của các bậc như lai (sattvarthakriyanusthanayadhyna) : là sự chú tâm vượt lên trên cả tánh Không, trút bỏ khái niệm về tánh Không, thoát khỏi sự « hiểu biết » về tánh Không. Đó là thể dạng tỉnh thức đến vô cực, một trạng thái thật sâu xa của tâm thức. Trong thể dạng đó mọi tạo dựng của tâm thức, mọi khái niệm và quán thấy nhị nguyên đều tan biến hết. 6- Sự hiểu biết siêu nhiên Hiểu biết siêu nhiên là phẩm hạnh cao nhất của Lục Ba-la-mật. Năm phẩm hạnh đầu tiên của Ba-la-mật là năm đối tượng trực tiếp của việc tu tập, phẩm hạnh thứ sáu là kết quả : tức là sự hiểu biết siêu nhiên. Tiếng Phạn gọi sự hiểu biết ấy là Prajna, vần pra đứng trước có nghĩa là trên, phía trên, bên trên, vần jna có nghĩa là hiểu biết. Đối tượng của sự hiểu biết tối thượng hay Prajna là tánh Không. Chữ Prajna được dịch là Trí tuệ (hay Trí huệ), Tuệ nhãn, Tuệ giác… : trí là chiếu thấy, tuệ là hiểu rõ. Tuy nhiên vì tính cách đặc thù của chữ này trong Phật giáo nên các học giả Tây phương có chiều hướng giữ nguyên tiếng Phạn không dịch, trong các bài viết có tính cách phổ thông, chữ Prajna được dịch là Sagesse hay Wisdom…, Kinh sách gốc Hán dịch là Trí tuệ như vừa trình bày trên đây, hoặc âm thẳng từ tiếng Phạn là Bát-nhã hay Ban-nhã. Sở dĩ dài dòng như thế để thấy rằng ngôn từ chỉ có tính cách quy ước, không thể nào diễn đạt một cách trọn vẹn sự thực tuyệt đối. Tóm lại, năm phép đầu tiên của Ba-la-mật là những phép tu tập, tu tập nhưng không nhìn thấy gì cả, giống như không có mắt, khi Bát-nhã hiển hiện tức là Tuệ nhãn chiếu rọi, tất cả năm phép ấy sẽ trở thành siêu nhiên để tiếp tục trợ lực thêm cho phẩm hạnh thứ sáu. Năm Ba-la-mật được mô tả gần giống nhau trong các kinh sách, trong khi đó Ba-la-mật thứ sáu được trình bày có phẩn khác biệt giữa các học phái. Sau đây là các cách giải thích về sự Hiểu biết siêu nhiên thường thấy : Cách giải thích thứ nhất Ba-la-mật thứ sáu gồm có ba giai đoạn hay cấp bậc như sau : a) Sự hiểu biết khi nghe giảng (trutamayiprajna) : cố gắng ghi nhớ và tìm hiểu các chữ và ý nghĩa của những chữ ấy qua những lời giảng huấn của một vị thầy. B) Sự hiểu biết bằng suy tư và phán xét (cintamayiprajna) : ôn lại những lời giảng huấn đã nghe, dùng suy tư, phán đoán, nhận xét để tìm hiểu thêm những gì chưa hiểu hết. Phải tận dụng sự quán xét và phân tích để tự tìm hiểu thêm một cách sâu xa trong khi thiền định. c) Sự hiểu biết bằng thiền định (bhavanamayiprajna) : đạt được sự hiểu biết bằng thiền quán, một sự hiểu biết trong sáng và minh bạch, vượt khỏi mọi do dự và nghi ngờ, quán thấy được thực thể tuyệt đối của mọi hiện tượng. Cách giải thích thứ hai Cách giải thích thứ hai cũng chia Trí tuệ Ba-la-mật làm ba cấp bậc, đây là cách giải thích tìm thấy trong Giải thâm mật kinh (Samdhinirmacanasutra) : a) Sự hiểu biết dựa vào sự thực quy ước : tức bằng ngôn từ và bằng sự hiểu biết công thức, quy ước và nhị nguyên. B) Sự hiểu biết hướng vào sự thực tối hậu : tức sự thực tuyệt đối, tối hậu và rốt ráo của hiện thực. c) Sư hiểu biết hướng vào sự an lành của chúng sinh : tức sự hiểu biết xuyên qua lòng tư bi vô biên, vượt lên trên mọi lý luận. Cách giải thích thứ ba Đây là cách định nghĩa thường thấy trong Phật giáo Tây tạng, cách này cũng phân chia sự hiểu biết thành ba cấp bậc khác nhau : a) Sự hiểu biết tạm thời : dựa vào sự thực quy ước của thế giới chung quanh, hàm chứa khía cạnh duy thực của mọi hiện tượng, từ tâm thức đến đối cảnh. Đó là sự hiểu biết chung của tri thức trong lãnh vực khoa học, văn hoá, giáo dục…thuộc cảnh giới chung quanh. B) Sự hiểu biết « thấp » : tức sự hiểu biết hướng về tính cách vô ngã của cái tôi, cái của tôi, tức là cá thể con người, nhưng không quan tâm đến tính cách vô ngã của đối cảnh. c) Sự hiểu biết « cao » : tức sự hiểu biết tối thượng về tính cách vô ngã của cá thể con người và của tất cả mọi hiện tượng, tức mọi vật thể và biến cố. Tất cả chỉ là tánh Không. Cách giải thích thứ tư Đây là cách định nghĩa thường thấy trong thiền học, đặc biệt là trong các học phái Zen. Sự hiểu biết được phân biệt thành hai loại khác nhau : a) Sự hiểu biết thông thường : tức sự hiểu biết vận hành trong thế giới quy ước và nhị nguyên. Đó là sự hiểu biết thu đạt được từ kinh nghiệm trực tiếp của giác cảm và sự học hỏi. Sự hiểu biết đó rất cần thiết để cảm nhận thế giới chung quanh, kể cả sự hiểu biết minh bạch về Tứ diệu đế chẳng hạn, nhưng không thể sử dụng sự hiểu biết ấy để nhận biết thực thể của hiện thực. B) Sự hiểu biết Bát-nhã : tức sự hiểu biết có tính cách trực giác và rốt ráo, quán thấy trực tiếp tánh Không của mọi vật thể và biến cố. Tóm lại, hầu hết các cách phân loại trên đây dù mang ít nhiều khác biệt nhưng đều đưa đến một định nghĩa giống nhau về sự hiểu biết siêu nhiên trong cấp bậc cao nhất, đó là sự hiểu biết thoát khỏi mọi lý luận nhị nguyên và quy ước. Thí dụ sau đây sẽ cho thấy tính cách nhị nguyên ảnh hưởng đến tất cả những suy luận của chúng ta : chẳng hạn như Niết bàn có thể hình dung như một thể dạng không còn vướng mắc trong nguyên lý tương liên của mọi hiện tượng, cũng không phải là một sản phẩm do nguyên nhân và điều kiện tạo tác, Niết bàn là một biểu hiện của thể dạng tự do tuyệt đối. Nhưng dù hình dung Niết bàn như thế nào đi nữa thì ta vẫn vướng mắc trong nhị nguyên, nếu không có thế giới Ta bà hay Luân hồi đối nghịch với Niết bàn, làm cơ sở chống đỡ cho sự hiện hữu của Niết bàn, thì Niết bàn cũng không có vì không có ý nghĩa gì cả, ngược lại đối với thế giới Ta bà cũng vậy. Bát nhã phải vượt lên trên Niết bàn và Ta bà. Long-chen-pa, một đại sư Tây tạng thế kỷ XIV, có đưa ra hình ảnh sau đây để giải thích khái niệm ấy : nếu một người bị xiềng bằng một sợi giây xích bằng vàng hay bằng sắt thì đâu có gì khác nhau, trong cả hai trường hợp người ấy đều vướng mắc trong cảnh xiềng xích. Vậy muốn đạt được sự hiểu biết siêu nhiên, vượt lên trên mọi quy ước, khái niệm và đối nghịch, cần phải tu tập, tu tập để quán thấy thực thể thực sự của vũ trụ. Sự quán thấy ấy mới đích thực là sự Tự do và Giải thoát. Kết luận : Đạo Pháp là một lối sống, một con đường cho ta đi, không phải là một số quy luật dựng lên để áp đặt cho từng người. Đạo Pháp không phải là những giáo điều phải tuân thủ, cũng không phải là một nền văn hoá xác định bằng truyền thống và những khuôn mẫu cá biệt. Đạo Pháp là một triết lý sống, một cách sinh hoạt để phát huy Phật tính trong lòng mỗi người. Giống như trường hợp của Phật tính, Lục Ba-la-mật có sẵn trong ta, nhưng ta không ý thức được, không vun trồng và chăm sóc đến mà thôi. Trong mỗi người, Lục Ba-la-mật có thể là một cổ thụ, hoặc chỉ là một gốc cây héo cằn và èo ọt, nhưng cũng có thể là một hạt giống còn nằm phơi trên cát bỏng. Biết đâu ngay trong lúc này, hạt giống Ba-la-mật đang nẩy mầm và mọc lên trong lòng ta, ta nên chăm sóc nó. Không phải ta chỉ chăm sóc nó khi đến chùa hay lúc ngồi thiền, nhưng ta nên tưới nó, chăm bón cho nó bất cứ lúc nào : khi ăn, khi làm việc, khi đi hay khi đứng, qua từng lời nói hay trong những phút giây yên lặng. Chăm sóc nó tức là cách chuẩn bị cho Phật tính nở hoa trong ta. Tuy gốc cây Ba-la-mật mọc lên trong lòng ta, nhưng nó không phải là của ta, nó là sự sống và thuộc về sự sống. Thân xác và tâm thức ta chỉ là những cấu hợp tạm bợ và mong manh, là một mảnh đất cho gốc cây mọc lên. Một gốc cây cổ thụ chỉ hùng vĩ khi mọc trên một đỉnh núi cao, chỉ an bình và thanh thản khi toả rộng cành lá trong một thung lũng xanh tươi, chỉ tươi mát khi hoà mình trong một khu rừng bát ngát. Đỉnh núi cao là Giác ngộ, khiêm tốn là thung lũng, khu rừng mênh mông là sự sống của tất cả chúng sinh. Khu rừng Ba-la-mật mênh mông và mầu nhiệm đang chờ đón ta. Việc tu tập cấp bách như lửa bỏng, không nên đánh mất một giây phút nào trong cuộc sống vô thường này. Ta hãy đưa chân để bước thật nhẹ vào khu rừng thầm kín đó trong ta. Bures-Sur-Yvette, 21.01.08 Hoang Phong
  22. Ăn tết ta theo tây lịch, GS Nguyễn Minh Thuyết nói gì? (VTC News) - Nếu không khắc phục việc lợi dụng ngày tết để hối lộ, ăn uống, tiêu xài phung phí thì dù ăn tết theo lịch nào đi nữa đất nước cũng khó phát triển. GS.TS Nguyễn Minh Thuyết - nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội - vừa lên tiếng về đề xuất ăn tết âm lịch theo dương lịch của GS. Võ Tòng Xuân. Ông viết: Tôi không tán thành quan điểm “hội nhập tết” vì ăn tết dương lịch hay âm lịch thì cũng là ăn tết. Bản thân tết âm lịch không có lỗi! Lỗi là ở con người. Nếu chúng ta không khắc phục được thói quen rậm rịch cả tháng chuẩn bị đón tết, ăn tết, chúc tết hay lợi dụng ngày tết để hối lộ và nhận hối lộ, rồi ăn uống, tiêu xài phung phí theo kiểu “no dồn đói góp” thì dù có ăn tết theo dương lịch hay lịch nào đi chăng nữa mọi việc vẫn thế cả thôi. Theo tôi được biết, ở các nước phương Tây, người ta nghỉ suốt từ lễ Noel cho đến sau tết dương lịch vài ngày. Thời gian nghỉ như vậy là tương đối dài, tương đương với nghỉ tết âm lịch ở nước ta theo đúng quy định của Chính phủ. GS.TS Nguyễn Minh Thuyết Được nghỉ nhiều ngày, người ta đi mua sắm, du lịch, tận dụng các dịch vụ. Như thế nghỉ cũng có tác dụng góp phần phát triển kinh tế, chứ đâu phải nghỉ là làm thiệt hại cho kinh tế. Có ý kiến cho rằng nghỉ tết lệch với các nước sẽ vuột mất cơ hội làm ăn, ký hợp đồng. Thực ra, khi cả nước nghỉ vẫn có những bộ phận phải làm việc, chứ không phải tất cả đều nghỉ. Ví dụ, các anh chị lao công hay bác sĩ, công an, bộ đội, người kinh doanh,…vẫn phải thay ca nhau làm việc. Như vậy thì lo nghỉ tết vuột mất cơ hội làm ăn là không có cơ sở. Theo quan điểm của tôi, tết cổ truyền là ngày lễ rất thiêng liêng, gắn với tâm tư, tình cảm của mỗi người cho nên không thể thay đổi một cách dễ dàng và cũng chẳng có lý do gì chính đáng để thay đổi. Có thể so sánh hơi khập khiễng một chút, nhưng chuyện bỏ tết ta ăn tết tây làm tôi nhớ lại có thời nước ta đã từng phát động sáng tác quốc ca mới thay cho bài “Tiến quân ca”. Được nghỉ nhiều ngày, người ta đi mua sắm, du lịch, tận dụng các dịch vụ Nếu không khắc phục được thói quen rậm rịch cả tháng chuẩn bị đón tết, ăn tết, chúc tết hay lợi dụng ngày tết để hối lộ và nhận hối lộ, rồi ăn uống, tiêu xài phung phí theo kiểu “no dồn đói góp” thì dù có ăn tết theo dương lịch hay lịch nào đi chăng nữa mọi việc vẫn thế cả thôi. GS.TS Nguyễn Minh Thuyết Những ca khúc được sáng tác trong “phong trào” ấy không phải không có bài hay nhưng không một ca khúc nào thay thế được bài hát gắn liền với những ngày toàn dân sôi sục đứng lên giành độc lập và những năm tháng hào hùng làm nên lịch sử. Quốc ca không phải chỉ là một bài hát hay. Ăn tết cũng không phải chỉ là ăn, là nghỉ, nhà cầm quyền quyết một cái là xong. Tương tự, tới đây, khó có quy định nào của chính quyền bỏ được phong tục cúng giỗ tổ tiên của người Việt Nam, thay bằng làm sinh nhật cho các cụ. Hội nhập không có nghĩa là thay tết ta bằng tết tây. Nhìn quanh các nước, ta sẽ thấy không phải nước nào cũng mừng năm mới vào mồng 1 tháng Giêng dương lịch. Những gì đã gắn bó sâu sắc với đời sống tâm hồn của toàn dân tộc cần phải được trân trọng. Cái đáng bỏ là những thói quen xấu “ăn theo” ngày tết. ============================================= Đón Tết cổ truyền theo dương lịch: 'Con rất lo sợ' (VTC News) - Bài viết đầy tâm huyết của một sinh viên gửi đến GS-TS Võ Tòng Xuân, tác giả quan điểm nên gộp Tết cổ truyền vào Tết dương lịch. Thư của bạn Trảo Thanh Phụng, 20 tuổi, sinh viên năm thứ 3 trường Đại học Luật TP.HCM viết: Kính thưa Giáo sư! Thật trân trọng khi có những bậc tiền bối như giáo sư còn tâm huyết với đất nước. Đó là một điều đáng ghi nhận. Nhưng có lẽ, Giáo sư đã có cái nhìn quá xa vời, thậm chí không giới hạn về vấn đề này. Lần đầu tiên khi con đọc bài viết “Đón tết cổ truyền theo dương lịch” của Giáo sư, con đã rất lo sợ. Con không hiểu, thật sự không hiểu tại sao Giáo sư lại có suy nghĩ như vậy? Giáo sư muốn đất nước giàu lên? Giáo sư muốn kinh tế theo kịp thế giới? Khung cảnh Tết quê mà bất kỳ ai đã trài qua đều không khỏi xúc động mỗi khi xuân về Giáo sư muốn ích nước lợi dân hay Giáo sư muốn cho văn hóa và con người Việt Nam tiến bộ? Con vẫn không hiểu, bởi lẽ toàn bài viết, tất cả chỉ vì Giáo sư thôi! Vì Giáo sư nghĩ như vậy sẽ tốt. Con đang là một sinh viên và con đang hình dung về một ngày điều Giáo sư nói sẽ thành sự thật, khi ấy chỉ còn có một cái Tết mà thôi. Lâu nay, đối với con Tết thật sự chỉ là ngày Tết cổ truyền. Đó là điều con chờ đợi nhất mỗi năm, chờ đợi đến khát khao cháy bỏng. Vì chỉ có ngày đó, con mới được nghỉ nhiều, mới có thể về quê đón Tết, đoàn tụ cùng với gia đình. Con không biết Giáo sư có thấu hiểu được nỗi lòng của những kẻ xa quê hương như chúng con không, nhưng Tết với chúng con thực sự là một nỗi niềm khó tả. Hằng năm, chúng con hy vọng, cố gắng, nỗ lực học tập chỉ mong đến ngày được về quê, được nhìn khung cảnh thanh bình của xóm làng Việt Nam, khung cảnh đậm chất Việt của quê hương trong những ngày cận Tết, được ôm cha mẹ trong vòng tay, được trò chuyện cùng anh chị em, được thăm hỏi bà con họ hàng. Đó thật sự là những ngày ý nghĩa nhất. Nếu chỉ còn một cái Tết, con sẽ đón Tết theo phong cách người Tây, hay vẫn giữ những phong tục của văn hóa Việt? Theo Giáo sư chúng ta vẫn nên giữ gìn bản sắc văn hóa Việt. Con chợt giật mình tự hỏi: vậy là Tây không ra Tây, ta không ra ta rồi? Các nước ăn tết theo dương lịch, Giáo sư cứ thử nhìn xem, nó khác lắm. Cái Tết của họ nó cũng nhanh chóng, hối hả trôi qua như chính cuộc sống của họ vậy. Họ không cần phải cúng lễ tổ tiên, họ cũng chẳng việc gì phải thăm hỏi bà con họ hàng, họ lại càng không mất thời gian vào những việc như: đưa ông Táo, nấu bánh chưng, bánh tét, cúng tết nhà, tết giếng, lì xì thì chắc cũng không cần thiết… Tết theo dương lịch là cái tết của khoảnh khắc, còn theo con, Tết cổ truyền là cái Tết của sự đoàn viên, cái Tết của sự chậm rãi. Nếu Giáo sư muốn dịch chuyển ngày ăn Tết cổ truyền theo dương lịch thì thiết nghĩ Giáo sư phải dứt khoát, đón tết đúng nghĩa như các nước đã và đang làm, hãy bỏ hẳn luôn tất cả những phong tục ăn tết cổ truyền của đất nước. Có như thế mới trọn vẹn chứ! Nhưng Giáo sư vẫn muốn giữ lại nghĩa là Giáo sư biết không thể nào bỏ được. Giáo sư thấy nó vẫn cần, nó vẫn còn ý nghĩa, vậy tại sao chỉ vì một khoảng thời gian, mà Giáo sư chấp nhận dịch chuyển cả một lịch sử, một truyền thống, một văn hóa đẹp của đất nước? Đó phải chăng là một sai lầm? Tất cả chúng con, những thế hệ tương lai của đất nước rất hiểu những điều Giáo sư muốn nói trong bài viết của mình. Thời đại này, chúng con đã nhận thấy giá trị của học hành và kiến thức, bởi vì chúng con đã cảm nhận được trách nhiệm và gánh nặng. Con vẫn nhớ như in về những bài học lịch sử, những bài học đã dạy cho con biết được rẳng, những cái tết đã làm nên tình nghĩa, đạo lí, những cái tết đã làm nên mùa xuân, thắng lợi vẻ vang cho đất nước, và cũng có cả những cái tết đầy nước mắt, đau thương, đầy máu của dân tộc. Theo bạn, có nên đón Tết cổ truyền theo dương lịch? Không nên. Hội nhập gì thì cũng phải giữ gìn truyền thống của người Việt Nên, để bớt đi việc có 2 cái tết trong năm Gộp lại, nhưng vẫn giữ cách tổ chức ngày Tết theo đúng truyền thống tổ tiên Ai thích ăn Tết gì thì ăn Tết cổ truyền không còn là một cái tết “vô nghĩa”, “ăn hại” như Giáo sư muốn nói, mà nó đã là một phần của lịch sử. Nước Việt Nam là 1 lịch sử, và chính những trang sử vẻ vang đã làm nên đất nước này. Bài viết của Giáo sư chỉ là quan điểm Giáo sư thôi, dù nó có tiến bộ, có hay, có đúng con vẫn nghĩ Giáo sư hãy thử một lần đặt mình và vị trí của một ai đó trong xã hội này, như con chẳng hạn, để thấy được rằng, điều mình nói còn có phần phiến diện, chưa thấu đáo. Giáo sư có nhìn thấy những giọt nước mắt của những người con xa quê chờ đợi ngày hồi hương? Giáo sư có nghe chăng những tiếng than mỏi mệt của những công nhân đang ngày đêm lao lực vì công cuộc mưu sinh, nhưng họ vẫn chờ đợi! Họ chờ đợi điều gì thưa giáo sư? Chỉ là chờ cái Tết cổ truyền đến thật nhanh, thật mau, để họ được sống trọn vẹn trong sự ấm áp và đầy đủ của gia đình. Chỉ có Tết cổ truyền, thời gian mới dài hơn một chút, thời gian mới chậm hơn một chút, họ sống ý nghĩa hơn một chút… Chỉ thế thôi, nhưng nó đã là niềm khắc khỏi qua biết bao nhiêu thế hệ. Tết cổ truyền đẹp và ý nghĩa lắm thưa Giáo sư. Khoảng khắc giao thừa của Tết dương lịch qua đi, tết cũng gần như chấm hết. Con trẻ mong chờ Tết để được lì xì, mừng tuổi Nhưng với Tết cổ truyền của người Việt, cái Tết có từ trước đó, từ những ngày tảo mộ, từ ngày háo hức đưa ông Táo về trời, và rồi sau cái thời khắc chuyển giao năm cũ và năm mới, Tết mới thật sự bắt đầu. “Mồng một tết cha, mồng hai tết mẹ mồng ba tết thầy” câu nói ấy đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi con người Việt Nam, ngày Tết cổ truyền có ý nghĩa không thưa Giáo sư? Con cho rằng, tất cả những ý kiến của Giáo sư đều nhìn theo hướng có lợi cho kinh tế, cho đất nước. Đó là điều quá tốt, nhưng Giáo sư có chắc chắn, có dám đảm bảo, có dám lấy cuộc đời, học hàm học vị của mình ra để khẳng định, đổi ngày ăn Tết của dân tộc, tất cả sẽ tốt đẹp hơn không? Giáo sư chỉ nêu ra những mặt tiêu cực của ngày Tết cổ truyền, cũng đúng vì suy cho cùng, ý Giáo sư muốn chúng ta quên nó đi, nhưng nếu Giáo sư nêu ra được những ý nghĩa và mặt tích cực của nó, Giáo sư sẽ thấy được rằng nó đáng trân trọng và đáng quý đến mức nào. Nếu có, con nghĩ Giáo sư liều quá! Giáo sư chỉ nêu ra những mặt tiêu cực của ngày Tết cổ truyền, cũng đúng vì suy cho cùng, ý Giáo sư muốn chúng ta quên nó đi, nhưng nếu Giáo sư nêu ra được những ý nghĩa và mặt tích cực của nó, Giáo sư sẽ thấy được rằng nó đáng trân trọng và đáng quý đến mức nào. Dẫu mai sau đất nước chúng ta có giàu như thế nào, nhưng con người cũng chỉ biết chạy đi kiếm tiền, sống chỉ có công việc và công việc, sống đầy áp lực và căng thẳng, rồi tỷ lệ người dân tự tử sẽ cao như Nhật Bản thôi. Những lúc ấy, Giáo sư sẽ thấy sự “dài lê thê”, “sự nhàn rỗi” của những ngày tết, chẳng khác nào như một liều thuốc tinh thần kéo con người ta thoát khỏi vũng lầy của cuộc sống. Đất nước mình còn nghèo. Là một công dân Việt Nam, con cũng buồn, con cũng muốn cống hiến cho đất nước lắm chứ. Nhưng quá trình ấy cần phải có thời gian và nội lực. Điều chúng ta cần chính là nội lực. Nội lực ấy không chỉ từ những ngành kinh tế có sự giao thương với nước ngoài như Giáo sư đã nêu ra. Con thì nghĩ rằng, nội lực ấy chính là niềm tự hào dân tộc, niềm tự hào vì những bản sắc văn hóa của quê hương, một cái Tết cổ truyền đúng nghĩa, cũng là một niềm tự hào mà không phải đất nước, dân tộc nào cũng có, cũng xây dựng và giữ gìn được như Việt Nam đâu, thưa Giáo sư! Giáo sư cho rằng chúng ta đang “ôm mãi lịch sử để sống”. Cũng đúng, vì lịch sử ấy quá đẹp, quá hào hùng cơ mà, đáng lắm chứ. Chúng ta không giàu có, hiện đại như Mỹ, Anh, Hàn Quốc…, nhưng cái mà chúng ta có được chính là quá khứ, truyền thống. Chúng ta phải công nhận và giữ gìn nó, điều đó có gì sai sao? Giáo sư nghĩ đó là sự gật gù, cứ mãi sống với quá khứ, truyền thống thì quả là điều đáng tiếc. Đọc bài viết của Giáo sư, con cảm nhận chỉ có một điều làm Giáo sư “ấm ức”. Đó là tại sao chúng ta lại nghỉ Tết cổ truyền quá nhiều, không cần thiết, ảnh hưởng đến nhiều lợi ích. Vấn đề không phải ở thời gian. Nếu Giáo sư cho rằng nhiều, thì sao Giáo sư không đề xuất cắt giảm, cớ gì cứ phải gộp với Tết dương. Giáo sư muốn bớt đi một ngày nghỉ của chúng con, vô tình Giáo sư đã làm tăng thêm nỗi buồn của những người mong chờ đến Tết. Nụ cười rạng rỡ ngày xuân Giáo sư muốn ăn Tết theo dương lịch, là Giáo sư làm cho ngày mẹ xa con, chồng xa vợ, anh xa em... nhanh hơn. Chỉ vì nhiêu đó thời gian mà để cho niềm vui trở nên ngắn ngủi, trong khi một năm dài lê thê, đằng đẵng họ đã vất vả, nỗ lực đến nhường nào. Có đáng không thưa Giáo sư? Không biết Giáo sư nghĩ gì khi đọc được những điều con viết, có thể đó chỉ là những ý nghĩ bồng bột, non nớt của một đứa con nít, nhưng con vẫn muốn nói. Vì con quý ngày Tết cổ truyền lắm. Con sợ Giáo sư sẽ phá hủy giấc mơ và niềm mong mỏi của con. Con sợ một ngày con và những bạn bè trẻ của con sẽ lao như điên vào làm việc mà quên mất đường trở về nhà đón tết cùng gia đình. Con sợ, sợ Tết cổ truyền sẽ mất đi, tuổi thơ của con cũng mất đi, những cái Tết với quần áo đẹp, nụ cười trẻ thơ, bánh chưng xanh, bánh kẹo thật nhiều, và không quên những bao lì xì đỏ thắm. Con không mong mỏi điều gì, giữa con và Giáo sư cách xa nhau nhiều lắm, chúng ta là hai thế hệ khác nhau, học vấn thì có lẽ không biết mấy mươi năm, hay thậm chí cả đời con mới có thể bằng được Giáo sư. Nhưng con nghĩ rằng, Giáo sư cũng có con, và Giáo sư sẽ không bao giờ bỏ ngoài tai những lời nói của con trẻ. Rồi Giáo sư sẽ đọc được điều này, để Giáo sư thấy rằng, người Việt Nam, thế hệ trẻ Việt Nam vẫn cần, rất cần những ngày Tết cổ truyền. Họ có thể từ bỏ số tiền kếch xù từ công việc kinh doanh do nghỉ tết, nhưng họ nhất định không bỏ lỡ những giây phúc được đoàn tụ trong mái ấm gia đình và vòng tay người thân trong những dịp Tết đến, xuân về!
  23. Thiên Đồng
  24. Rất thông cảm cho bạn. Anh Hieu Nghia nên quan tâm con cái đúng trách nhiệm và bổn phận để giữ mối dây gắn kết thì mọi việc sẽ chuyển biến tốt đẹp.Chuyện gì cũng phải qua hết tháng 6 âm. Chúc gia đình xum vầy, anh bình an và an lạc. Thiên Đồng Không được tuổi xây sửa mà sửa nhà thì lùm xùm là đúng rồi. Điệu này chắc cũng sát nhíp quá. Cỡ gì 25 tháng Chạp âm cũng phải làm xong.Thiên Đồng