-
Số nội dung
6.278 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
75
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Thiên Đồng
-
SỰ TÍCH ĐỨC PHỔ HIỀN BỒ TÁT Khi Đức Phổ Hiền Bồ Tát chưa xuất gia học đạo, còn làm con thứ tư của vua vô Tránh Niệm, tên là Năng Đà Nô. Nhờ Phụ Vương khuyên bảo, nên Thái Tử mới phát tâm cúng dường Phật Bảo Tạng và chúng sanh trong ba tháng. Lúc ấy có quan Đại thần Bảo Hải thấy vậy, khuyên rằng: “Nay Điện hạ có lòng làm đặng món công đức rất tốt như thế, xin hãy hồi hướng về Đạo Vô Thượng Bồ Đề, mà cầu đặng thành Phật, hơn là cầu sự phước báu hữu lậu nơi cõi nhơn Thiên, vì cõi ấy còn ở trong vòng sinh tử”. Năng Đà Nô Thái Tử nghe quan Đại thần khuyên bảo như vậy, liền thưa với Phật Bảo Tạng rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Nay tôi có món công đức cúng dường Ngài và đại chúng trong ba tháng, xin hồi hướng về đạo vô thượng Chánh Giác, nguyện phát tâm Bồ đề, tu hạnh Bồ tát mà giáo hóa mọi loài chúng sanh, đặng thành Phật đạo, và nguyện đặng cõi Phật rất thanh tịnh trang nghiêm, bao nhiêu những sự tốt đẹp và sự giáo hóa chúng sanh đều y như thế giới của Đức Phổ Hiền Như Lai vậy”. Đức Bảo Tạng Như Lai nghe Năng Đà Nô Thái Tử phát nguyện như thế, liền thọ ký rằng: Hay thay! hay thay! Ngươi phát thệ nguyện rộng lớn, muốn độ hết thảy chúng sanh đều thành Phật Đạo. Trong khi tu Bồ tát đạo, dùng trí kim cang mà phá nát các núi phiền não của mọi loài chúng sanh, vì vậy nên ta đặt hiệu ngươi là: Kim Cang Trí Huệ Quang Minh Công Đức, trãi hằng sa kiếp làm nhiều công việc Phật sự rất lớn, rồi đến thế giới Bất Huyến ở phương Đông mà thành Phật, hiệu là Phổ Hiền Như Lai, chừng đó những sự tốt đẹp trang nghiêm của ngươi đã cầu nguyện thảy đều thỏa mãn”. Khi Đức Bảo Tạng Như Lai thọ ký rồi, tự nhiên giữa hư không có nhiều vị Thiên tử ở các cõi Trời đem đủ thứ bông thơm đẹp đến mà cúng dường và đồng thinh khen ngợi. Năng Đà Nô Thái Tử thưa với Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Nếu những sự ao ước của tôi ngày sau quả nhiên đặng như lời Ngài thọ ký, nay tôi kính lễ Ngài và chư Phật mà xin làm sao hằng sa thế giới có đủ món hương rất tốt rất thơm, mùi bay khắp trong các cõi, và mọi chúng sanh, hoặc ở trong địa ngục, ngạ quỷ cùng súc sanh, cho đến các người ở cõi Thiên Thượng Nhơn gian, đương mắc phải nghiệp báo gì, nếu ngửi đặng món hương thơm ấy, tức thì đều đặng rảnh khổ và lại hưởng sự an vui”. Năng Đà Nô Thái Tử thưa rồi, đương cúi đầu mà lễ Phật, thì trong các thế giới mười phương tự nhiên có mùi hương thơm bay khắp cả. Lúc đó mọi loài chúng sanh ngửi đặng mùi hương ấy, lòng dạ hớn hở, các bệnh phiền não thảy đều tiêu trừ. Năng Đà Nô Thái Tử nhờ Phật thọ ký như vậy, thân tâm vui mừng, bèn đảnh lễ Phật, rồi ngồi xuống nghe Ngài thuyết Pháp. Năng Đà Nô Thái Tử nhờ công đức đó, nên sau khi mạng chung, sanh ra các thân khác và các đời khác, kiếp nào cũng nhờ lời thệ nguyện mà chăm làm các việc Phật sự và hóa độ chúng sanh, đặng cầu cho mau viên mãn những sự của mình đã ao ước. Bởi Ngài có lòng tu hành tinh tấn như vậy, nên nay đã thành Phật, ở cõi Bất Huyến, và hóa thân vô số ở trong các thế giới mà giáo hóa chúng sanh
-
Phép chữa bệnh bằng diện chẩn chưa đủ cơ sở khoa học Câu lạc bộ Diện chẩn dưỡng sinh được 2 lương y Phạm Văn Nhâm và Nguyễn Thị Phương thành lập 10 năm nay tại 34 Trần Phú, Hà Nội. Họ chữa bệnh chủ yếu bằng cách bấm huyệt ở mặt và một số điểm khác trên cơ thể. Gần đây, phương pháp này bị Sở Y tế cấm áp dụng vì chưa có cơ sở lý luận chính thống và hiệu quả chưa được đánh giá một cách khoa học. Sơ đồ phương pháp diện chẩn của ông Châu. Theo công văn của Sở Y tế Hà Nội gửi Vụ điều trị (Bộ Y tế) ngày 15/8, phương pháp diện chẩn mà 2 lương y trên áp dụng dựa trên quan điểm cho rằng, hệ thống kinh lạc và các cơ quan, bộ phận cơ thể đều có các vị trí tương ứng ở mặt. Có thể chữa bệnh bằng cách tác động vào các điểm tương ứng này hoặc những chỗ có bệnh lý trên cơ thể. Mỗi liệu trình điều trị kéo dài trung bình 7-10 ngày, điều trị hiệu quả các bệnh thông thường mới mắc: đau cơ, khớp, cao huyết áp, mất ngủ... Đến nay, đã có hơn 1.000 bệnh nhân được khám và điều trị. Tuy nhiên, 2 lương y không có tài liệu gốc của chính mình mà điều trị dựa vào tài liệu biên soạn "lưu hành nội bộ" của Bùi Quốc Châu ở miền Nam. Theo Sở Y tế, diện chẩn là phương pháp chữa bệnh chưa có cơ sở lý luận chính thống, chưa được đánh giá hiệu quả một cách khoa học. Do đó, theo Pháp lệnh Hành nghề y dược tư nhân, 2 lương y không được áp dụng và phổ biến phương pháp khám chữa bệnh này. Các lương y Nhâm và Phương cho biết, họ áp dụng phương pháp chữa bệnh bằng diện chẩn của ông Bùi Quốc Châu từ năm 1999. Ông Châu coi 500 huyệt ở mặt tương ứng với các bộ phận trên cơ thể và hệ thống hoá chúng thành đồ hình trên mặt, tìm ra nhiều loại dấu hiệu báo bệnh, xây dựng thành bộ môn chẩn đoán mới. Từ đó, ông Châu đề ra một số cách chữa bệnh chỉ trong phạm vi mặt như: châm cứu, chích, lể, day bấm, bôi dầu, dán cao, day ấn bằng đũa thuỷ tinh. Theo lương y Nhâm và Phương, với phát minh này, ông Châu từng giảng bài tại nước ngoài, được phong tặng học vị tiến sĩ ở Sri Lanka hay danh hiệu "ngôi sao châu Á" ở Trung Quốc... Hiện nay, không chỉ Hà Nội mà tại Nha Trang, Thái Bình cũng có những câu lạc bộ Diện chẩn dưỡng sinh với hàng nghìn hội viên. Tại cơ sở của 2 lương y Nhâm và Phương có sổ thư cảm ơn của người bệnh, phần lớn đều nhận xét diện chẩn là phương pháp ít tốn kém về tiền bạc và thời gian. Tuy nhiên, cả 2 người đều lắc đầu khi được hỏi có sẵn sàng thực hiện kiểm chứng khoa học đối với phương pháp này để được phép áp dụng không. Một số bệnh nhân đã điều trị tại 34 Trần Phú cho biết họ có dấu hiệu thuyên giảm bệnh. Hai vợ chồng ông Nguyễn Văn Ký (bị huyết áp cao, tai biến 2 lần) và bà Trần Thị Diễm (mắt bị ruồi bay, nhìn không rõ) ở phòng 116, B11, Nghĩa Tân, cho biết, họ chữa bệnh ở lương y Nhâm từ tháng 6. Sau gần 3 tháng xoa, day ấn các huyệt trên mặt, kết hợp với chế độ ăn uống, sinh hoạt điều độ, đến nay, ông Ký không còn phải dùng thuốc điều chỉnh huyết áp trường kỳ; bà Diễm cũng cảm thấy mắt đỡ nhập nhèm hơn. Anh Đức (sinh năm 1973, quê Quảng Ngãi), một bệnh nhân viêm đa khớp vai, cũng có cảm giác bệnh đỡ hơn sau 10 ngày ấn huyệt và uống 1 thang thuốc bắc do lương y Nhâm bốc, kết hợp với chế độ luyện tập, rèn luyện cơ thể. Tuy nhiên, bác trai anh Đức (bị tiểu đường) cũng theo cách chữa này mà bệnh không khỏi. Còn các nhà chuyên môn đại diện cho cơ quan chức năng lại không công nhận phép diện chẩn của ông Bùi Quốc Châu là một phương pháp chữa bệnh mới và hiệu quả. Dược sĩ Nguyễn Đức Đoàn, nguyên Vụ trưởng Vụ Y học cổ truyền, từng thay mặt Bộ Y tế trả lời kiến nghị của ông Bùi Quốc Châu năm 1995, cho biết: Ông Châu là một sinh viên ngành khoa học xã hội chứ không phải là người được đào tạo về y tế. Từ năm 1977, ông tổ chức cơ sở chữa bệnh riêng với danh nghĩa là "cơ sở diện chẩn", có lần bị một lương y kiện về bản quyền các dụng cụ mà ông dùng chữa bệnh. Từ vụ kiện này, Sở Y tế TP HCM đã khảo sát cơ sở của ông Châu, kết luận ông không có chuyên môn y tế, phải chấm dứt hành nghề. Tuy vậy, ông vẫn tới một số tỉnh miền Tây tuyên truyền rằng diện chẩn là cách chữa bệnh do ông phát minh, chữa được nhiều bệnh, tuyệt đối an toàn và gây kết quả bất ngờ. Năm 1995, khi Bộ Y tế có chủ trương xã hội hoá công tác chăm sóc sức khoẻ, ông Châu viết thư cho Bộ trưởng đề nghị công nhận phương pháp này. Sau cuộc tiếp xúc với ông, Viện trưởng Viện Y học dân tộc TP HCM khẳng định, cách chữa bệnh bằng điện châm mà ông Châu áp dụng không có gì mới; còn phương pháp diện chẩn thì trước nay không có. Viện trưởng cũng nêu ý kiến: trong quá trình thử nghiệm phương pháp chữa bệnh tự nghiên cứu, ông Châu không được phổ biến rộng rãi. Nếu muốn phổ cập nó, ông cần thử nghiệm tại bệnh viện nhà nước; nếu thành công thì phương pháp của ông sẽ được công nhận và phổ biến. Ông Châu đã đồng ý với hướng giải quyết này nhưng sau đó không hề trở lại làm việc với cơ quan y tế về việc kiểm chứng. Vì vậy, đến nay, phương pháp diện chẩn chưa thể được công nhận và ứng dụng. Về việc tạp chí Quang châm và Laser y học số tháng 3/2000 đăng lời chúc mừng ông Bùi Quốc Châu về việc ông được Viện Đại học "The open international university for complementary medicines" của Sri Lanka trao tặng bằng Tiến sĩ khoa học danh dự, dược sĩ Đoàn giải thích: ông Châu không phải là cán bộ y tế, khi đi nước ngoài giảng bài đều không phải do cơ quan hay tổ chức y tế nào cử đi. Vì vậy, ngành y tế không thể thẩm định chất lượng các chương trình giảng dạy đó. Những tước vị được nước ngoài phong tặng đều không có tính chất chính thống. Giáo sư Hoàng Bảo Châu, nguyên Viện trưởng Viện Y học cổ truyền, nhận xét: "Hình đồ mà ông Bùi Quốc Châu đưa ra thiếu căn cứ khoa học. Ông tìm ra được 500 huyệt trên mặt, mỗi huyệt tương ứng với các bộ phận trong cơ thể. Vậy chẳng lẽ mỗi milimet đều có huyệt? Và lương y phải giỏi như thế nào mới tìm đúng huyệt?". Ông Nguyễn Xuân Hướng, Chủ tịch Hội Đông y Việt Nam, nói: "Khi đến tuyên truyền ở một số tỉnh như Nghệ An, Đà Nẵng, ông Châu đã bị các sở y tế và hội Đông y địa phương từ chối. Hiện nay ở một số tỉnh thành có các câu lạc bộ Diện chẩn dưỡng sinh nhưng tất cả đều hoạt động bất hợp pháp. Nếu hiện nay ông Bùi Quốc Châu có thiện chí hợp tác để cùng ngành y tế Việt Nam thẩm định phương pháp diện chẩn thì tôi sẵn sàng đứng ra làm thành viên hội đồng, tạo điều kiện cho phương pháp này được đánh giá và nhìn nhận khách quan". (Theo Lao Động) ============================= Lại bị cái "cơ sở khoa học" hành hạ và hù dọa. HIc "Cơ sở khoa học" là cái quái gì? Khi ông BQC đã đưa ra cả hệ thống lý luận và phương pháp ứng dụng, mặc dù hơi "kỳ lạ".
-
Biệt phủ nguy nga của chủ bữa tiệc 2.000 mâm - Người dân làng Vũ Xá, xã Ái Quốc (Thành phố Hải Dương) nhiều năm nay đã không biết đến… quần thể phủ thờ của một người phụ nữ đã cất công xây cất hàng chục năm nay trong làng. “Quần thể phủ” ấy hoành tráng, lộng lẫy, nguy nga, có một không hai ở Việt Nam. Cách trung tâm thành phố Hải Dương vài cây số, làng Vũ Xá hiền lành bên đường 5, khi mờ mờ trong những ngày mờ sương, lúc hối hả, tấp nập bởi dòng người từ khắp miền đổ về. Từ quốc lộ 5 nhìn vào làng, nổi bật trong không trung là những đỉnh tháp cao lêu đêu bên cạnh một vài tòa nhà cao tầng khá hiếm hoi ở làng thuần nông Vũ Xá. Phủ thờ này có tên gọi “Phủ Mẫu The” – gắn với tên người phụ nữ tên The bỏ tiền ra xây phủ từ nhiều năm nay. Phủ thờ gồm bốn tòa điện thờ khang trang, mỗi tòa cao hai tầng uy nghi lừng lẫy, được chạm khắc rồng phượng long ly. Mỗi một tòa điện có nhiều ban, bệ khác nhau, được đặt tên và sắp xếp theo ý đồ của người thờ: Điện thờ Mẫu, Điện thờ Đức Vua Cha… Mỗi tòa thờ là một khu khá riêng biệt, mặc dù cùng xây dựng trong một khu đất rộng cả ngàn mét. Trên khoảng sân rộng mênh mông của quần thể phủ thờ, ba tòa tháp được xây dựng mà đứng từ trên đường 5 (cách khu thờ cả cây số) cũng nhìn thấy ngọn tháp. Hòn non bộ, khu nhà báo ân… được xây dựng lộng lẫy khang trang không kém khu chính điện. Biệt phủ nhìn từ xa. Chủ nhân của “quần thể phủ thờ” này là bà Đoàn Thị The, năm nay gần 60 tuổi. Bà Đoàn Thị The đã mất hàng chục năm tích lũy và tự bỏ tiền xây cất toàn bộ khu phủ thờ nguy nga hoành tráng trên thửa đất rộng cả ngàn mét tại quê nhà mình. Chưa hết, đích thân bà còn bỏ tiền túi để mua lại hàng mẫu ruộng của bà con dân làng để mở rộng khu phủ thờ của mình Khu phủ thờ của Mẫu The được xây dựng trên khu đất rộng cả chục mẫu. Khu điện thờ chính được xây cất trên đất hương hỏa của gia đình; chừng 5 mẫu đất ruộng mới mua, Mẫu The cho người xây dựng làm sân vườn, không gian ngoài trời, có giếng phong thủy xây cất hình tròn, lại cho người đào con lạch chạy dọc theo thửa đất, hai bên làm đường lát gạch, trồng cau lùn, cau tiến vua… hai bên… Cơ ngơi của Mẫu The, chỉ ước nhẩm cũng lên tới cả trăm tỷ đồng xây cất. Tất cả cơ đồ ấy đều một tay “Mẫu The” gây dựng. Khu biệt phủ xa hoa giữa vùng quê thuần nông Vũ Xá: Một góc mái tô chạm cầu kỳ của biệt phủ. Những đài tháp dày đặc trong biệt phủ Một góc phủ với lan can và hàng cột trang trí như cung vua phủ chúa ngày xưa. Cầu thang lên xuống với đôi rồng khảm uy nghi Đài ngọc trước sân Phủ. Hoành tráng và rực rỡ ngày chính diện ra vào Những hồ nước soi bóng những điện tháp lung linh Ngửa mặt ngắm ngọn tháp cao nhất phủ. Thiêm Bình
-
Cái ông này lạ chưa?! Thì lấy hai con mèo gắn vô. Thích thì lấy con Cù Lần gắn vô. Thế cũng cằn nhằn.
-
Tổng cục Du lịch bị tố quảng bá danh thắng Trung Quốc Bức ảnh khổ lớn về tượng phật bằng đá cao nhất thế giới ở Trung Quốc xuất hiện tại quầy thông tin gian hàng của Tổng cục Du lịch Việt Nam trong chương trình quảng bá du lịch tại Đức, khiến cộng đồng nổi giận. Mấy ngày qua, trên mạng xuất hiện bức ảnh quầy thông tin gian hàng của Tổng cục Du lịch Việt Nam tại Hội chợ ITB 2013 (Đức) trưng bày hình ảnh Lạc Sơn Đại Phật (tượng phật bằng đá cao nhất thế giới ở Tứ Xuyên, Trung Quốc). Bức ảnh khiến dân mạng nổi giận và không ngớt lời bàn tán. Hình ảnh Lạc Sơn Đại Phật tại gian hàng Tổng cục Du lịch Việt Nam. Ảnh: Facebook. Một lãnh đạo doanh nghiệp lữ hành chia sẻ, rất bất ngờ khi thấy hình ảnh thắng cảnh Trung Quốc được giới thiệu tại gian hàng của Việt Nam, bởi điều này rất phản cảm và ảnh hưởng hình ảnh của Việt Nam. Tuy nhiên, vị lãnh đạo này cho rằng, đây chỉ là một sự việc nhầm lẫn đáng tiếc. Đang có mặt tại Hội chợ ITB, một cán bộ của Saigontourist cho VnExpress biết, hình ảnh này được dán ở pano tại quầy thông tin gian hàng do một đơn vị du lịch thực hiện trong thời gian diễn ra hội chợ. Sau khi nhiều người phát hiện, tấm ảnh về Lạc Sơn Đại Phật đã được tháo bỏ. Trao đổi với VnExpress, ông Nguyễn Mạnh Cường Phó tổng cục Du lịch cho biết, đây là một trong nhiều hình ảnh được một doanh nghiệp lữ hành Việt Nam giới thiệu về các điểm đến trên thế giới trong tour của họ. "Hình ảnh này không phải trong backdrop của Tổng cục Du lịch mà trong hình ảnh giới thiệu tour của một doanh nghiệp lữ hành quốc tế. Doanh nghiệp có quyền giới thiệu điểm đến của họ, chúng tôi không thể ngăn chặn. Tổng cục Du lịch không nhầm lẫn để đưa hình ảnh danh thắng của Trung Quốc như thông tin trên mạng đã đưa", ông Cường nói. Ông Cường cho biết, sau khi đưa hình ảnh về Lạc Sơn Đại Phật tại gian hàng của Tổng cục Du lịch Việt Nam trên trang cá nhân khiến dư luận hiểu nhầm, một người tham gia Hội chợ đã gỡ hết hình ảnh này trên trang cá nhân. Theo một số chuyên gia thường xuyên tham gia hội chợ du lịch quốc tế, khu vực treo hình ảnh Lạc Sơn Đại Phật không phải chỗ các doanh nghiệp treo backdrop, giới thiệu tour. Khu vực này thường do Tổng cục Du lịch chịu trách nhiệm trang trí tổng quát, song có thể do cơ quan này không kiểm soát nên đã để một số doanh nghiệp tự dán hình ảnh các danh thắng lên đó. "Tổng cục Du lịch phải có trách nhiệm bao quát hình ảnh của toàn bộ khu vực gian hàng triển lãm, không được để doanh nghiệp tự ý dán những hình ảnh danh thắng nước khác tại phía ngoài gian hàng của Việt Nam", một cán bộ thị trường du lịch nói. Hội chợ Du Lịch Quốc tế diễn ra ngày 5 - 10/4 ở Berlin. Tổng cục Du lịch Việt Nam và nhiều công ty lữ hành đã tham gia để quảng bá cho du lịch Việt Nam. Tổng cục Du lịch có một gian hàng chung rộng 142 m2 để giới thiệu những sản phẩm du lịch đặc sắc của Việt Nam đến bạn bè quốc tế. Đoàn Loan =============== Hoạt động ngành du lịch luôn gắn chặt với lịch sử và văn hóa nước nhà mà lại không tôn vinh chính cái nước nhà mình có thì cũng thể hiện một thứ tư duy có "vấn đề".
-
Loạn giá dâng sao giải hạn Thứ Tư, 20/02/2013, 07:00 PM (GMT+7) Sau nghỉ Tết Nguyên đán hàng ngàn người lại đổ về các chùa đăng ký làm lễ dâng sao giải hạn cầu an. Tuy nhiên, mỗi chùa lại có một mức phí giải sao khác nhau. Nhẹ cũng mất tiền triệu Nghỉ tết dài ngày, gia đình chị Nguyễn Thị Hằng (Hai Bà Trưng, Hà Nội) về quê ăn tết. Năm nay chị Hằng lỡ dịp lên chùa xin dâng sao giải hạn vào ngày mùng 8 âm lịch. Không yên tâm, chị phải tranh thủ giờ làm để lên chùa đăng ký xin dâng sao giải hạn kẻo có chuyện thì "hối không kịp". Theo chị Hằng, mức phí dâng sao giải hạn cho cả gia đình (4 người) cũng không hề nhỏ, năm nào cũng mất tới tiền triệu. Năm nay phí còn cao hơn, mỗi người mất tới 400 nghìn đồng/sao. Tính nhẩm chị Hằng phải chi tới 2 triệu đồng giải sao cho cả nhà. Tuy vậy, chị cho rằng, mức này vẫn chưa thấm vào đâu so với việc mời thầy về nhà, có thể lên tới chục triệu đồng. Người dân đăng ký dâng giao giải hạn tại chùa Phúc Khánh (Hà Nội) Theo ghi nhận của PV ngày 19/2, những chùa lớn ở Hà Nội như Phúc Khánh, Quán Sứ, Hai Bà Trưng... có hàng trăm người dân đến đăng ký làm lễ dâng sao giải hạn. Tại đây, các ni, sư, phật tử cũng tất bật soạn đồ lễ, các bàn đăng ký cũng chật kín người ngồi ghi ghi, chép chép. Mải mê ghi chép tên các thành viên trong gia đình để đăng ký dâng sao Năm nay, theo lịch dâng sao giải hạn của chùa Phúc Khánh, lễ giải sao La Hầu vào ngày mùng 8 tháng Giêng, sao Thái Bạch ngày 15, và sao Kế Đô ngày 18. Phí giải sao là 100.000 đồng/người; phí cầu an mỗi hộ gia đình là 100.000 đồng. Tại chùa Quán Sứ, lễ cúng sao vào các ngày mùng 4, mùng 6, mùng 8, 12, 14, 16 tháng Giêng. Phí giải sao là 150.000 đồng/người. Lịch cúng sao giải hạn tại chùa Phúc Khánh (Hà Nội) Chị Đỗ Thị Dậu (Thanh Xuân, Hà Nội) cho biết, năm nào nhà chị cũng làm lễ dâng sao giải hạn tại chùa Phúc Khánh. Lý do bởi vừa gần nhà, giá cả lại “mềm” hơn những nơi khác. Tuy nhiên, chùa này rất đông, muốn giải hạn phải đăng ký sớm, khi làm lễ có khi phải ngồi cả ở ngoài đường. Không giống như chị Dậu, chị Hà (Đống Đa, Hà Nội) lại rất sợ cảnh chen chúc, xô đẩy khi làm lễ nên năm nay quyết định làm lễ dâng sao giải hạn cho cả gia đình tại chùa Quán Sứ dù giá cả có “nhỉnh” hơn chùa Phúc Khánh một chút. Người dân chăm chú chiếu sao cho cả gia đình Đăng ký dâng sao tại chùa Quán Sứ (Hà Nội) Lễ dâng sao tại chùa Quán Sứ Khác với những người làm lễ tại chùa, anh Nguyễn Công Tùng (Mê Linh, Hà Nội) lại quyết định làm lễ dâng sao giải hạn tại gia. Anh Tùng cho biết, khi xem sao được thầy phán là gia đình năm nay sẽ gặp hạn. Tuy vậy vẫn có cách để giải hạn cho cả gia đình. Thầy cũng “khuyên” anh Tùng , nếu gia đình muốn bình an phải dâng sao cẩn thận, không làm qua loa, đại khái. Cũng theo anh Tùng, phí mời thầy làm lễ tại gia đình anh là 1,2 triệu (chưa kể đến các tiền sắm sửa đồ lễ theo hướng dẫn của thầy). Ngoài ra, tiền xăng xe cho thầy là tùy tâm. Tuy nhiên, xe của thầy hầu hết là ô tô nên "tùy tâm" cũng phải mất tiền triệu. Dở khóc dở cười Tình cờ chúng tôi gặp anh Trịnh Quốc Tuấn (Đống Đa, Hà Nội) vào chùa Phúc Khánh dán tờ rơi. Được biết, anh bị mất giấy trong khóa lễ giải sao La Hầu ngày mùng 8 Tết. Trong đó có giấy tờ tùy thân, bằng lái xe và khoảng 5 triệu đồng. “Lễ giải sao mà an đâu chả thấy lại ruốc họa vào thân”. Anh Tuấn ngậm ngùi. Hình nhân thế mạng được dùng trong buổi lễ dâng sao tại chùa Hai Bà Trưng (Hà Nội) Sư thầy chùa Hai Bà Trưng soát tên các gia chủ trước khi vào buổi lễ dâng sao Sư thầy chùa Hai Bà Trưng (Hà Nội) đang làm phép Cầu bình an cho cả gia đình Sau khi dâng sao giải hạn tại chùa Phúc Khánh ngày mùng 8 Tết vừa rồi, chị Hằng (Từ Liêm, Hà Nội) mang bầu 8 tháng phải vào viện nằm an thai và có nguy cơ sinh sớm. Chị Hằng cho biết, đi lễ cầu an cho gia đình nhưng mọi người chen lấn, xô đẩy, chị bị ngã dúi dụi phải nhập viện ngay trong lúc chùa đang lễ. Người dân chen chúc cúng sao giải hạn ngoài đường Một số trường hợp ngoài giải sao, các thầy còn có những lời phán khiến cả gia chủ bàng hoàng, chạy đôn chạy đáo lo tiền theo yêu cầu của thầy. Thầy còn phán nhà anh Tùng phải đập cửa bên này, chuyển cổng bên kia, chuyển hướng ban thờ thì mới có “lộc”. Lời phán gây sốc nhất khiến anh Tùng méo mặt là gia đình sẽ gặp họa nếu không sinh thêm đứa nữa trong khi con trai anh mới được 4 tháng tuổi. Theo Hòa thượng Thích Thanh Huân, Chùa Quán Sứ (Hà Nội), người Việt quan niệm, nếu trong năm người đó có sao xấu thì gặp nhiều điều không may. Những người có năm tuổi ứng với ngôi sao vận hạn thì đều mong muốn cúng sao cho mình. Dâng sao giải hạn chỉ là giải quyết vấn đề tâm lý còn không có vị thần thánh nào ban phúc hay giáng họa cho chúng sinh. Bảng tính sao hạn năm Quý Tỵ (Ảnh: phatgiao.org.vn) Cũng theo vị Hòa thượng này, có không ít trường hợp đi cúng lễ mà vẫn gặp tai họa. “Gặp họa hay phúc đều là do bản thân con người. Nếu con người không cẩn thận thì rất dễ gặp họa như mất của, tai nạn…”. Hòa thượng Thích Thanh Huân nói. Hòa thượng Thích Bảo Nghiêm trụ trì chùa Bằng (Hoàng Mai, Hà Nội) khuyên người dân không nên tốn kém, lãng phí mất tiền làm lễ. Bởi phật là tại tâm, con người có tâm, Phật luôn linh hiển. Tích cực làm điều thiện sẽ được báo thiện, ngược lại, ác giả ác báo. Không có chuyện sao xấu hay sao tốt chiếu mệnh con người.
-
Lý giải hình ảnh “sắc dục” trong tượng Phật giáo (PTVN) - Theo Phật giáo cổ đại, những hình ảnh được cho là “sắc dục” mà mọi người nhìn thấy hoàn toàn không mang ý nghĩa dâm dục mà chỉ là hiện thân của Phật phụ Phật mẫu (cha, mẹ - PV) Phổ Hiền Như Lai Vương (Samantabhadra, Samantabhadri). Trong lúc tìm kiếm tư liệu về bức tượng phật “sắc dục” gây xôn xao dư luận cũng như cộng đồng phật tử thời gian qua, chúng tôi đã tìm thấy những hình ảnh tương tự trong cuốn “Tây Tạng sinh tử kỳ thư: Nhận thức về luân hồi và giải thoát của sinh mệnh” do Nhà xuất bản Hà Nội phát hành (hiệu đính: TS Nguyễn Mạnh Linh). Tác giả cuốn “Tây Tạng sinh tử kỳ thư” là Đại sư Liên Hoa Sinh - một cao tăng của phái Mật Tông. Theo đó, những phương pháp hướng dẫn tâm linh mà Đại sư Liên Hoa Sinh để lại trong cuốn sách này là cẩm nang dẫn đường thiết yếu dành cho tất cả những phật tử sắp lìa đời và những phật tử đang trên chặng hành trình sau cái chết. Bức tượng hiện thân của Phật phụ Phật mẫu Phổ Hiền Như Lai Vương Theo Đại sư Liên Hoa Sinh, cái chết xảy ra khi khi 4 nguyên tố lớn của sinh mệnh bắt đầu phân rã. Bốn nguyên tố lớn là đất, nước, lửa, gió tương ứng với 4 cơ cấu chức năng cơ thể quan trọng là cơ thịt, thể dịch, thân nhiệt và hô hấp. Khi người hấp hối hít vào một hơi cuối cùng rồi ngừng thở, cuộc sống của họ vẫn chưa chấm dứt hoàn toàn, trong cơ thể họ vẫn còn sót lại chút ít sinh khí. Lúc này, “ánh sáng căn bản đầu tiên” sẽ xuất hiện. Nếu người sắp chết nắm bắt được thời cơ này, sẽ đạt được giải thoát theo giáo lý nhà Phật. Bằng việc “thể ngộ Phật phụ Phật mẫu Phổ Hiền Như Lai Vương”, tức trạng thái hợp nhất giữa thực tướng (tính không) và tâm linh, cũng có thể giúp người sắp chết lĩnh ngộ được ánh sáng để giải thoát. Đặc điểm nhận dạng của Phổ Hiền Như Lai Vương là hình ảnh Phật phụ khỏa thân với màu da xanh lam, ôm Phật mẫu khỏa thân màu da trắng. Phật phụ tượng trưng cho từ bi ôm lấy Phật mẫu tượng trưng cho trí tuệ, là biểu tượng của sự kết hợp giữa từ bi và trí tuệ bởi khỏa thân tượng trưng cho tính không. Như vậy, theo phật giáo cổ đại, bức tượng một cô gái ôm đức phật hoàn toàn không có ý nghĩa dâm dục mà chính là hiện thân của Phật phụ Phật mẫu Phổ Hiền Như Lai Vương (Samantabhadra, Samantabhadri). Mời bạn đọc cùng chiêm bái một số hình ảnh của Phổ Hiền Như Lai Vương và ảnh Sự hợp nhất giữa Tính không và Tâm linh trong sách Tây Tạng sinh tử kỳ thư: Sự hợp nhất giữa tính không và tâm linh (trích Tây Tạng sinh tử kỳ thư) Phật phụ Phật mẫu Phổ Hiền Như Lai Vương (trích Tây Tạng sinh tử kỳ thư) So sánh Thiền định vô tướng và Thiền định hữu tướng trong quá trình tìm kiếm sự giải thoát (trích Tây Tạng sinh tử kỳ thư) Thanh Ngọc - Tùng Linh - TTVN "Đây là bức tượng theo truyền thống mật giáo của tây tạng mà...bức tượng người sùng kính không thuộc truyền thống mật giáo thì sẽ mất tín tâm do không tìm hiểu hệ thống tư tưởng và hàm ý của mật giáo...nhưng thật sự bức tượng này biểu thị một cái ý nghỉa linh thiêng gì đó của mật giáo nhưng chưa được nhiều người biết đến thì đã gây ra một làn sống dư luận khá phẫn nộ...vì thế với con mắt chánh kiến của ng Phật tử ta không nên nhìn nhận và dừng lại ở một mức nghỉ đơn giản chẳng hạn như phi tượng trên" (Hội Phật Tử Việt Nam)
-
Bên cạnh cách giải thích như trên, còn có nhiều quan niệm khác về ý nghĩa của hình tượng Hoan Lạc Phật. Một quan điểm cho rằng người phụ nữ không mảnh vải che thân với những động tác gợi tình tượng trưng cho sự quyến rũ trần tục. Trong khi đó sự bình thản của Đức Phật là minh chứng cho cái tâm đã được giải thoát khỏi bụi trần. Chính sự giải thoát này là niềm hoan lạc vĩ đại nhất mà một con người có thể đạt được trong kiếp sống của mình. Một thuyết khác coi người phụ nữ khỏa thân là tượng trưng cho tín đồ dị giáo. Thái độ của người phụ nữ này chính là biểu hiện sự hàng phục giáo lý nhà Phật. Trở lại với bức tượng “gái khỏa thân ôm Phật” làm xôn xao dân mạng Việt Nam. Dù không thể xác định bức ảnh được chụp ở đâu, nhưng chắc chắn những bức tượng như vậy có thể được tìm thấy dễ dàng tại Tây Tạng, Nepal và một số vùng khác ở Nam Á, nơi có Phật giáo Mật Tông. Việc dư luận Việt Nam đưa ra những suy diễn “không lành mạnh” về bức tượng Hoan Lạc Phật mà không tìm hiểu về ý nghĩa cao quý của bức tượng này thực sự là một điều đáng tiếc.
-
Sự thật về tượng Phật ‘sắc dục’ gây xôn xao dư luận Sự thật đã rõ ràng: Bức tượng Phật khiến nhiều người Việt Nam “đỏ mặt” có nguồn gốc từ… dãy núi Himalaya. >> Truy tìm nguồn gốc của tượng Phật ‘lạ’ Hình ảnh cô gái khỏa thân trong bức tượng Phật “nhạy cảm” đã gây nên những cuộc tranh cãi nảy lửa trong cộng đồng mạng VN. Nghi vấn về nhân vật này đã có câu trả lời. “Cô gái” đó chính là Shakti – tên tiếng Phạn của một lực lượng siêu nhiên đại diện cho năng lượng vũ trụ sơ khai, khởi nguồn của sáng tạo, sự sinh sản và mang bản chất nữ tính. Shakti có nguồn gốc từ Ấn Độ giáo, đôi khi còn được hiểu như “Mẹ thiên chúa vĩ đại” trong thế giới quan của Ấn Độ giáo. Thuật ngữ Shakti được du nhập vào Phật giáo Mật Tông sau khi tông phái này ra đời. Nepal và Tây Tạng, những vùng đất nằm trên dãy Himalaya là nơi Mật Tông phổ biến nhất. Tại đây, hình tượng Shakti ôm Phật được gọi là Hoan Lạc Phật. Trong Ấn Độ giáo cũng có một hình ảnh tương tự Hoan Lạc Phật, đó là thần Shiva - tượng trưng cho sự hủy diệt - kết hợp với Shakti - sự sáng tạo (như trong ảnh). Khi được đưa vào Phật giáo, Shakti không còn mang ý nghĩa nguyên bản là sự sáng tạo và sinh sản. Thay vào đó, Shakti trở thành biểu tượng của trí tuệ. Sự “âu yếm”, “ôm ấp” giữa Đức Phật và Shakti chính là sự kết hợp viên mãn giữa thể xác và trí tuệ, trong đó thể xác tìm kiếm sự giải thoát thông qua trí tuệ. Sự “hoan lạc” trong Hoan Lạc Phật là sự hoan lạc của một con người đã khai mở trí tuệ chứ không phải sự hoan lạc dục tính giữa nam và nữ. Có thể ví von, nếu thành tựu cao nhất trong mối quan hệ nam nữ phàm tục là “lên đỉnh”, thì thành tựu của mối quan hệ giữa Đức Phật và Shakti chính là cõi Niết Bàn.
-
Ủa, Vậy phụ nĩ Việt Nam đã và đang trong tình trạng như bà Beate nói đây sao ta? Mà "nguyện vọng của họ" là gì? Khó hiểu quá!
-
Thần linh khiến những cây gậy biết bay? 24/02/2013 06:39 | Phóng sự - Khám phá (VTC News) - Người Dao Đỏ ở Hồ Thầu tin rằng thần linh tác động khiến cây gậy tự động nâng lên.Về bí ẩn của trò chơi giữ gậy, người Dao Đỏ ở Hồ Thầu (Hoàng Su Phì, Hà Giang) tin rằng đó là do thần linh tác động vào khiến cây gậy tự động nâng lên. Các thầy cúng thì úp mở rằng đó là do Sài tía (ma thầy cúng) nhập vào cây gậy. Tôi hỏi ông Triệu Chòi Hín, hỏi Bí thư Triệu Sành Quấy, rồi Triệu Ngà Tá, cùng khá nhiều những người ở Hồ Thầu làm được trò chơi này, họ đều khẳng định: “Bí mật của trò chơi này chính là ở câu thần chú. Ai biết nó sẽ làm cây gậy bay lên được. Và phải biết cách đọc thần chú”. Thực ra, cách “đọc thần chú” không có gì lạ. Các thầy mo, thầy tào, bà then, thầy cúng, dẫu ở các dân tộc khác nhau, nhưng đều đọc thầm trong miệng không lộ rõ tiếng, đọc liền một hơi dài, hai hàm răng và lưỡi không được chạm dính nhau. Khi tôi hỏi về nội dung câu thần chú, ai cũng chỉ cười cười rất tươi và bảo “Quên mất rồi”. Ông Hín còn úp mở: “Anh không biết điều khiển, cứ đọc bừa, đồ đạc trong nhà bay hết đi đấy”. Mày mò tìm hỏi mãi, cuối cùng chúng tôi cũng gặp được người tiết lộ về nội dung câu thần chú này, một trong những điều bí ẩn cốt lõi nhất của trò mà theo tiếng Dao là “Đam tờ chùi” này. Thầy cúng đọc thần chú, thần linh khiến gậy bay? Nhưng một người có một thời gian dài nghiên cứu đam mê về văn hóa của cộng đồng người Dao Đỏ trên địa bàn Hà Giang, nắm bắt được khá nhiều các tư liệu thì khẳng định rằng: “Bản chất của việc khiến cây gậy tự nâng được lên mặt đất chắc chắn không phải nhờ câu thần chú”. Đó là ông Trần Chí Nhân, Giám đốc Trung tâm Văn hóa thông tin thể thao huyện Hoàng Su Phì. Ông Nhân cho biết: “Tôi và một vài thầy cúng người Dao từng vài lần đọc thần chú, thử nghiệm trò đẩy gậy mà không có kết quả. Tôi cũng tự mình tham gia trò chơi với con mắt tỉnh táo, khoa học để khám phá các bí mật, thủ thuật, nhưng khi giữ cậy gậy, cảm giác như mình đang kéo cây tre ra giữa bụi tre, có luồng xung lực nào đó ghìm giữ lại rất mạnh. Một lãnh đạo Sở Văn hóa thể thao và du lịch Hà Giang cũng từng nhiều lần trực tiếp tham gia giữ gậy để nghiên cứu, tìm hiểu. Cảm giác của chúng tôi là trong không khí có cái gì âm âm, u u như cảm giác bị thôi miên, rất khó giải thích”. Ông Trần Chí Nhân không ngần ngại đưa cho chúng tôi những câu thần chú, mà anh tìm hiểu được và chép lại khá cẩn thận. Câu thần chú đó có 5 câu gồm 40 chữ bằng tiếng Dao, nhưng ở đây chúng tôi xin chỉ chép 3 câu: “Quan tài Stia pháo/ Quan pháo Stia phỉa/ Chấp quan, chấp cóng, chấp hó, chấp vùi…”. Nội dung toàn bộ câu thần chú tạm dịch là: “Hỡi các thần ma, hỡi tổ tiên! Nếu có linh thiêng thì khi trên ấn xuống dưới phải nâng lên. Trăm người đẩy không xuống, nghìn người nhấc không lên. Có làm được thì mới linh thiêng, ngày Tết mới vui”. Quả thực, với nội dung câu thần chú như trên, dù có đọc kiểu gì thì đọc, khó có thể nói rằng nó sẽ giúp những cây gậy bay lên với sức mạnh của “mười con trâu kéo” được. Gậy bay hay thủ thuật? Sau nhiều tìm tòi, mày mò với văn hóa của người Dao Đỏ, đặc biệt là trò chơi giữ gậy, ông Trần Chí Nhân cho rằng: “Giống như trò nhảy lửa, trò giữ gậy cũng cần đến sự hỗ trợ của thầy cúng. Còn người tham gia có thể là bất cứ ai, kể cả những người thuộc dân tộc khác hoặc những người hiếu kỳ. Những kiêng kỵ như người phải sạch sẽ, không bốc trộm đồ ăn… chưa phải vấn đề bản chất. Tôi không tin rằng bí quyết của sự kỳ lạ nằm ở khả năng thôi miên của một số thầy cúng. Về mặt văn hóa, đây là một trường đoạn saman giáo của người Dao Đỏ”. Tiến sĩ Hoàng Sơn, Phó Viện trưởng Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam cũng từng tham gia vào lễ hội truyền thống của người Dao Đỏ, ghi hình, phỏng vấn, tìm hiểu khá kỹ càng về trò đẩy gậy. Trao đổi với chúng tôi, ông Hoàng Sơn cho biết: “Đành rằng trong các trường đoạn saman giáo của đồng bào các dân tộc thiểu số, đặc biệt là của người Dao, luôn có những bí ẩn không dễ gì giải thích bằng khoa học, nhưng những lí giải đó chưa khiến chúng tôi thỏa mãn”. Những căn cứ khiến ông Hoàng Sơn hoài nghi là, không phải lúc nào thầy cúng cao tay và biết câu thần chú đó đều làm được. Người chủ trò vẫn phải hướng dẫn tư thế giữ gậy cho người chơi nắm giữ gậy theo đúng ý mình. “Điều quan trọng nhất là nếu không có sự chung tay của ít nhất hai người, thì cây gậy không tự nó “bay” lên được. Tại sao thần linh lại không để cây gậy tự nâng lên lơ lửng, mà cần có người vác giữ? Tôi cho rằng, nếu có sự tác động của con người, trong trạng thái tập trung cao độ, thì sự khéo léo, tiểu xảo của người chủ trò sẽ là yếu tố quyết định. Có nghĩa là có thể giải thích bằng kiến thức vật lí được. Khi hai người cùng cúi gập người, thẳng tay và duỗi chân để giữ hai tay vào cây gậy theo sắp xếp của người dẫn trò, thì tay người này và vai người kia đã có sự kênh giữ nhau, so le với nhau. Vai người này đang đè vào vai người kia, tay người kia đè tay người nọ, nên ai cũng có cảm giác nặng nề, bức bối. Khi chịu tác động là cái vỗ tay mạnh của thầy cúng vào đầu gậy, cây gậy sẽ bập vai, hoặc kênh tay người kia mà nâng lên mặt đất khoảng 20 cm theo cách choãi chân… Khi cả nhóm người cùng lao vào giúp đỡ hai người chơi, thường là nhảy lên lưng, lên vai họ, mà không giải quyết được nút thắt là kết cấu tay - gậy. Khi một ai đó vỗ vào đầu trên của gậy, thì lập tức cây gậy rơi ngay”. Tiến sĩ Hoàng Sơn kết luận: “Tôi không tin có sự thôi miên hay thần linh nào nâng cây gậy. Nhưng với một kết cấu vật lý hợp lý, cùng với sự khéo léo của người chủ trò, cây gậy sẽ có cảm giác rất nặng khi hai người đang kéo xuống, thực ra là đẩy ngang”. Trò chơi đẩy gậy thực chất là ảo thuật hay huyền bí, vẫn chờ các nhà khoa học giải mã một cách triệt để. Nhưng trong ngày Tết rộn ràng, đẩy gậy vẫn là một trong những trò chơi được đông đảo người Dao Đỏ vùng Hoàng Su Phì ưa thích. Những tiếng cười vui vẻ giúp người dân thêm đoàn kết, yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống hơn. Lê Quân
-
Giật tít cho nó giật gân thôi mà. Các Latma đã vẽ đi vẽ lại, đúc không bao nhiêu tượng từ hàng nghìn năm nay rồi. Nhưng báo chí khơi lên cũng có cái lợi là cái nhìn về Phật giáo Mật tông cũng sẽ thoáng hơn, hiểu nhau hơn. Vài hình nhìn thêm cho...thoáng!
-
Về Ninh Bình chia tay nghệ nhân Hà Thị Cầu TP - “Thế là hết đời bà Cầu” - cậu thanh niên địa phương thốt lên khi nấm mồ nghệ nhân Hà Thị Cầu được đắp gần xong. Nghe hơi bạc bẽo nhưng nó thể hiện sự hồn nhiên, chân chất của người dân quê với bu Cầu. Nghệ nhân Hà Thị Cầu trao truyền nghệ thuật dân gian cho thế hệ trẻ. Bà già quê mùa danh giá Tiếng băng cassette phát ra từ loa đài cũ kỹ nghẹt nghẹt nhưng cũng đủ để người tới chia tay nghe rõ tiếng nhạc lời ca mà bu đã thu âm năm nào. Tiếng hát của bu với phường bát âm xen lẫn nhau nghe não nề. Chị Mận - con gái bu Cầu vừa thấy chúng tôi đã òa lên “Các em ơi bu mất rồi”. Trông chị mệt mỏi, vì nỗi đau và có lẽ cả vì phải tiếp quá nhiều khách trong một ngày. Một bà già cả đời cơ cực với cái nghề vẫn chịu sự coi khinh hiểu lầm, ấy vậy mà khi mất đi lại nhiều người quan tâm đến thế. Lướt qua những vòng hoa viếng thấy có Bí thư Thành ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị, Bí thư Tỉnh ủy Ninh Bình, rồi Hội Văn nghệ dân gian VN, Nhà hát Chèo VN, Nhà hát Chèo Hà Nội… Nhà nghiên cứu Bùi Trọng Hiền đang công tác Tây Nguyên không thể kịp tiễn bu nhưng chị vợ cũng về đến, mang theo vòng hoa tiễn biệt. NSND Bạch Tuyết từ TPHCM muốn qua chúng tôi gửi một lẵng hoa thật đẹp thay lời chia tay nghệ nhân chị ngưỡng mộ nhưng chưa quen đường sá Ninh Bình, chúng tôi không tìm được lẵng hoa, đành thay bằng vòng hoa. Vừa viếng bu xong thì đoàn của Bộ VHTTDL - Cục Nghệ thuật Biểu diễn, Cục Di sản văn hóa do ông Thứ trưởng Vương Duy Biên dẫn đầu vào tới. Cây đàn nhị đặt trên ban thờ ở ngoài hiên, bên khung cửa sổ nơi bu vẫn ngồi đó nói vắt ra mỗi lần chúng tôi về thăm. Còn một cây đàn nữa, Mận bảo đang cất trong buồng, phải đưa bu ra đồng về mới bày lên bàn thờ chính. Mận kể, lúc bu hồi hồi lại đã dặn dò tỉ mỉ rằng khi bu chết nhớ phải mời bằng được đội sinh tiền múa cho bu xem. Ai đời đám hiếu lại có loại múa vốn chỉ xuất hiện trong những đám rước trang trọng hay hội hè, tiệc mừng thọ… tươi vui. Mận nói với bu như thế nhưng bu bảo “kệ, bu thích xem cho vui”. Thế rồi lúc đưa bu ra đồng có đủ đội múa sinh tiền chừng 6 cô gái mặc áo dài tân thời sặc sỡ đội khăn đóng múa ngay trước xe tang. Long đong tới phút cuối Chừng 21 giờ, nhân lúc khách thăm viếng thưa dần, chúng tôi thực hiện tâm nguyện hát mấy câu Xẩm để bu thêm yên lòng. Nhạc sĩ Giáng Son không đàn cũng chẳng hát nên có nhiệm vụ cầm micro. Còn chúng tôi, tất nhiên chẳng thể thiếu Thập ân - Mai Tuyết Hoa hát, Khương Cường - Dứa dại không gai, bạn trẻ tên Linh ở Hải Phòng hát Nhị tình còn tôi hát Xẩm Chợ. Có lẽ đó là lần biểu diễn đặc biệt chẳng bao giờ có thể quên. Chưa tới 8h sáng đã thấy đạo diễn, NSƯT Nguyễn Quang Thập, Giám đốc Nhà hát Chèo Ninh Bình cùng anh chị em diễn viên trẻ trong đoàn tề tựu đông đủ. Nghệ sĩ Thập cho biết, cả ngày hôm qua anh em luôn bên linh cữu bu. Đó là trách nhiệm, sự ghi nhận công ơn đồng thời thể hiện tình cảm của nhà hát và cá nhân các nghệ sĩ với một nghệ nhân lớn, nhân tài quý giá của đất nước nói chung, quê hương Ninh Bình nói riêng. Đoàn đưa bu ra đồng với quá nhiều hoa, phướn. Một đoàn dài các cụ cầm cái phướn trải dài vài chục mét. Rồi phường bát âm, đội múa sinh tiền với đủ sắc màu sặc sỡ… Trong tôi cứ mường tượng tới đám rước của một bà chúa, bà hoàng nào đó thời xa xưa. Mà quả thực, có thể coi bu ngày hôm nay như “bà thánh” của Xẩm trên cõi nhân gian có một đoàn người tháp tùng để đưa bu trở về với tổ Xẩm, với đất mẹ ngàn đời. Lại chạnh nghĩ nghệ nhân Quách Thị Hồ được trao danh hiệu cao quý Nghệ sĩ Nhân dân. Vậy sao Hà Thị Cầu lại chưa? Đoàn cờ trống bát âm sinh tiền đưa tiễn bu tới nghĩa trang Đồng Thuần. Chẳng hiểu có phải nghiệp Xẩm long đong đã vận vào bu hay sao, thời khắc quan trọng đã điểm mà mấy nam giới vẫn hì hục hất xúc từng xảng đất chuyển lên bờ. Phải chờ một lúc công việc mới hoàn thành, để đất mẹ ôm bu vào lòng. Chúng tôi mỗi đứa ném nắm đất, thắp nén nhang, đi vòng quanh khu mộ ngập tràn hoa tươi rồi đứng yên như bất động. Nguyễn Quang Long
-
Sến già nam SGTT.VN - Thấy tôi đứng loay hoay tìm kiếm mãi trên các kệ đầy nhóc băng đĩa ngổn ngang, cô bé bán hàng đến gần hỏi: - Bác muốn kiếm loại nào? - Nhạc. Nhạc xưa. Cô đọc vài cái tên gì đó… - Không. Xưa hơn nữa kìa. Chừng nửa thế kỷ trước. Có không? - Bác chờ con lấy. Một lúc, cô mang ra một cái... giỏ, đúng hơn là một cái rổ to, hình chữ nhật, chứa hàng ngàn đĩa CD, buộc dây thun từng cọc nói bác lựa đi. Tôi giật mình thấy trên thành rổ dán mấy mảnh giấy viết tay bằng chữ in khá to: “sến già nam”. Một đĩa nhạc xưa của ca sĩ Chế Linh được sản xuất trước năm 1965. Bìa bản nhạc Chiều làng em của nhạc sĩ Trúc Phương. Tuần trước, vào một siêu thị ở một tỉnh miền đông nọ tôi thấy nơi người ta bán băng đĩa có rất nhiều rổ đựng các thứ, được phân loại như có rổ phim hành động, phim kinh dị, phim Mỹ, phim Hồng Kông... và đặc biệt có hai rổ ghi: nhạc sến nam, nhạc sến nữ. Tôi định mua vài thứ xem sao, nhưng thấy kỳ kỳ nên thôi. Tuy vậy, tôi cũng học được vài từ mới. Có điều ở cửa hàng này, một cửa hàng bán băng đĩa khá lớn ở thành phố có cách phân loại độc đáo hơn: sến già nam. Tôi đoán đây là loại nhạc “sến” dành riêng cho nam giới “già”! - Có sến già nữ không cháu? Tôi tò mò. - Dạ có. Bác kiếm xong sến già nam con đưa sến già nữ ra bác lựa! Thì ra nam nữ đây không phải khách hàng mà là ca sĩ. “Sến” do “nam” ca sĩ hát cho người “già” nghe thì gọi là... sến già nam,v.v... Tiếng Việt ta thiệt hay! Nhớ lần ra Hà Nội năm xưa, người ta giới thiệu tôi một xí nghiệp có tên là Xí nghiệp Cao Xà Lá. Hỏi “Cao xà lá” là cái gì? Là cao su, xà bông và thuốc lá, gọi tắt cao xà lá! Tôi vừa tủm tỉm cười vừa lựa đống băng đĩa trong rổ sến già nam, chọn được vài đĩa. Nhiều khi cả đĩa chỉ có một bài ưng ý. Thôi vậy cũng được. Có một bài mình thích là quý rồi! Tôi hỏi còn sến già nữ đâu? Cô bưng ra một rổ sến già nữ nữa và nhìn tôi có vẻ nghi tôi mê cô ca sĩ nào đó của năm mươi năm trước! “Sến” là gì? Người ta bảo là do chữ Marie sến, tức người giúp việc, người ở đợ, con sen, người nhà quê, ít học. Nhạc sến là nhạc... tầm thường, nhà quê mà các cô gái này thường hát hỏng để trải tâm sự nỗi lòng khi vô công rỗi việc. Đã có những bài báo, những tranh luận sôi nổi về thứ nhạc “sến hay không sến” này. “Sến” mà sao người ta thuộc, người ta khắc cốt ghi tâm? “Sến” mà sao người ta cười người ta khóc?... Gần đây trên mạng, nhiều bạn trẻ “còm” rằng nhờ “sến” mà nuôi dưỡng được tâm hồn trong một thế giới vô cảm, và có bạn còn rất tự hào rằng đã sưu tầm được hàng ngàn bản nhạc “sến” để làm của quý! Còn tôi, tôi chỉ biết nhạc hay hay dở với mình mà thôi. Hay là thứ làm tôi “rung động sáu cách” (nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý)..., còn dở là nhạc “nghe không vô” ! Chiều làng em của Trúc Phương chẳng hạn, với tôi là một bài hay, không chỉ rất lãng mạn “khói lam buồn như muốn ngừng thời gian” mà còn do tác gải viết bài này lúc ở Bình Tuy, quê tôi, cho một cô gái mà tôi có lẽ cũng quen biết. Anh ơi nhớ về thăm thôn xưa, Để nghe tiếng ngọt ngào ru bóng dừa Xa xôi bước người anh lữ thứ Nhớ thương hoài câu hát chiều làng em.. Còn Mộng ban đầu của Hoàng Trọng làm sao quên được: Trông em mừng vườn cau Trái mập tròn xuân mới Bỗng me cười me nói Con bé lớn thật mau Mai mốt mẹ ăn trầu «Mai mốt mẹ ăn trầu» bây giờ không còn nữa nên đám trẻ không biết là phải rồi. Còn những trái cau «mập tròn xuân mới» cũng khó kiếm! Bây giờ là bưởi, là dưa hấu cả rồi! Rồi Lối về xóm nhỏ của Trịnh Hưng: Có những chiều hôm Trời nghiêng nắng xế đầu non Nắng xuống làng thôn Làm cho đôi má em thêm giòn Lúa đã lên bông Mắt già tươi sáng thôi chờ mong Tiếng hò cô gái bên Cửu Long Mơ rằng mai lúa lên đầy bông... hay Tình lúa duyên trăng của Hoài An Quê hương ta đất xưa vốn nghèo Nhưng giàu tình thương nhau Biết yêu lúa mầu xa cuộc đời cơ cầu Gái trai biết làm tròn lời thề khi ban đầu Tôi không hiểu vì sao những lời ca đầy tình quê hương, đất nước, tình gia đình, tình gái trai «biết làm tròn lời thề khi ban đầu» như vậy mà «sến» được? Hà Đình Nguyên trong một bài báo về vấn đề nhạc sến đã viết: «... nhưng không biết do đâu mà hầu như tất cả các bản nhạc được sáng tác trước 1975 - nhất là những bản có điệu boléro, rumba... đều bị quy là nhạc sến (tiếng "sến" được hiểu theo nghĩa dè bỉu, mỉa mai, khinh thị). Nhưng sẽ thật sai lầm khi quan niệm "nhạc sến" với hàm ý khinh thị, chê bai bởi trong dòng nhạc bình dân này có rất nhiều tuyệt tác mà chưa chắc các nhạc sĩ dòng nhạc "hàn lâm" đã sáng tác được, như: Khúc ca ngày mùa (Lam Phương), Hoài thu (Văn Trí), Xóm đêm (Phạm Đình Chương), Ai lên xứ hoa đào (Hoàng Nguyên), Nắng chiều (Lê Trọng Nguyễn), Đường xưa lối cũ (Hoàng Thi Thơ), Nửa đêm ngoài phố (Trúc Phương), Thương hoài ngàn năm (Phạm Mạnh Cương), Nắng lên xóm nghèo (Phạm Thế Mỹ)...» Nhiều bạn trẻ cho rằng nhờ “sến” mà nuôi dưỡng được tâm hồn trong một thế giới vô cảm Còn nhà thơ Đỗ Trung Quân có một bài thơ được Vũ Hoàng phổ nhạc rất hay tên Phượng hồng có lần bực mình:"Nói chú đừng giận, bài Phượng hồng phổ thơ của chú sến chảy nước", chàng trai 20 tuổi tóc tai kiểu hip-hop nói thẳng thừng... Thế hệ trẻ 8X hôm nay không thể tin nổi, không thể chấp nhận nổi có một gã nào đó trạc tuổi mình suốt một năm dài ngồi cạnh bàn, học cùng lớp để ý cô bạn gái mà vẫn cứ: "bài thơ còn trong cặp... giữa giờ chơi mang đến lại mang về...". Nhát gái đến thế, "yếu" đến thế thì "sến" là cái chắc. Bây giờ, chỉ cần một cú nhắn tin chớp nhoáng là alê hấp! Ra cà phê hộp ngồi ngay. Yêu à? Tỏ tình à? Đây, nhanh gọn lẹ: "Anh là number one, vừa đẹp trai lại vừa dễ thương...". Không yêu nữa cũng chẳng sao: "thà như thế, thà rằng như thế...". Đỡ lôi thôi, đỡ mất thì giờ, khỏi mang tiếng "sến». Gần đây nhiều ca sĩ bắt đầu quay về với nhạc «sến» có lẽ để đáp ứng nhu cầu tình cảm của con người trong một thế giới ngày càng vô cảm chăng! Có điều, vì sến... thiếu gốc nên nhiều khi hát sai mà không hay. Chẳng hạn «Đêm qua chưa mà trời sao vội sáng» trong Chiếc lá cuối cùng của Tuấn Khanh, có ca sĩ hát ngon lành «đêm chưa qua mà trời sao vội sáng»! Qua chưa với chưa qua khác nhau xa quá! Cũng như «Bây giờ tháng mấy rồi hỡi em» của Từ Công Phụng mà hát thành «Bây giờ mấy tháng rồi hỡi em?»... thì nguy tai! Tôi vẫn còn nhớ những đêm ngồi nghe Tuấn Khanh đàn piano dưới chân cầu sắt Đa Kao trong một quán cà phê nhỏ chênh vênh. Đêm qua chưa mà trời sao vội sáng Một đàn chim cánh nhỏ chở mùa sang Chiều vào thu tiễn em sầu lạnh giá Lá trên cành từng chiếc cuốn bay xa ... (xin đừng nhầm với các nhạc sĩ Tuấn Khanh, Hoài An đương thời). Tôi chắc rồi một hôm nào đó cậu trai 8X kia sẽ tìm đến bản nhạc “sến chảy nước” nọ và rồi 8X sẽ được thay thế bởi 9X, 0X… Rồi sẽ có những người tìm đến sến già nam, sến già nữ như tôi hôm nay cho mà coi! Không lâu lắm đâu! Hãy đợi đấy! Sài Gòn, 3.3.2013 ĐỖ HỒNG NGỌC =============================== Từ nhỏ tôi đã nghe nhạc Sến. Cậu tư tôi là người hát nhạc Sến "mùi" nhất xóm. Vì vậy mà lúc nhỏ mỗi lần cậu nhậu là tôi có dịp ngồi gõ ly gõ chén trên bàn nhậu cho cậu hát. Và...có khi tôi cũng rêu rao vài câu Sến trong những lúc vu vơ. Sến, nó hay da diếc, trầm lắng thiệt lạ. Vậy mà bây giờ tôi mới nghe từ "Sến già nam", cũng hơi thấy là lạ...nhưng biết ra thì lại thêm một lần thú vị... Nhạc nhẻo ngày nay nghe cũng thật nhạt nhẻo hơn nước ốc, bốp chát chụp giựt rống hét sao ....hong biết nói sao.... Thôi thì Sến mà nó thư giản, xả xì troét mà không hại não lại rất phiêu bồng , phiêu diêu.
-
Sự tích Đức Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Đức Văn Thù Sư Lợi, khi chưa thành đạo thì Ngài là con thứ ba của vua Vô Tránh Niệm, tên là Vương Chúng Thái Tử. Nhờ phụ vương khuyên bảo, nên Ngài phát tâm cúng dường Phật Bảo Tạng và Tăng chúng trọn ba tháng. Lúc ấy, có quan Đại Thần là Bảo Hải thấy vậy thì khuyên rằng: “ Nay Điện hạ đã có lòng làm sự phước đức, tạo nghiệp thanh tịnh, nên vì hết thảy chúng sanh mà cầu đặng các món trí huệ, và đem công đức ấy hồi hướng về đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thì tốt hơn là mong cầu mọi sự phước báu nhỏ nhen”. 1- Vương Chúng Thái Tử nghe quan Đại thần khuyến như vậy, thì liền chấp tay mà thưa với Phật rằng: “ Bạch Đức Thế Tôn! Công đức tôi cúng dường Phật Tăng và những hạnh nghiệp tu tập thanh tịnh của tôi đó, nay xin hồi hướng về Đạo Vô Thượng Bồ Đề, nguyện trải hằng sa kiếp tu hạnh Bồ Tát, đặng hóa độ chúng sanh, chớ tôi chẳng vì lợi ích một mình mà cầu mau chứng đạo quả. 2- Tôi nguyện hóa độ hết thảy mọi loài chúng sanh ở các thế giới trong mười phương đều phát tâm cầu đạo Vô Thượng Chánh Giác, giữ gìn tâm Bồ Đề cho bền chắc, và khuyến hóa theo môn lục độ (lục độ là: 1- bố thí, 2- trì giới, 3- nhẫn nhục, 4- tinh tấn, 5- thiền định, 6- trí huệ). 3- Tôi nguyện giáo hóa vô số chúng sanh ở các thế giới đều đặng thành Phật thuyết Pháp trước tôi, và trong khi thuyết Pháp, làm sao cho tôi đều xem thấy tất cả. 4- Tôi nguyện trong khi tu Bồ Tát Đạo, làm đặng vô lượng việc Phật, và sanh ra đời nào cũng tu theo Đạo ấy cả. 5- Bao nhiêu chúng sanh của tôi dạy dỗ đều đặng thanh tịnh, như các người đã có tu phép thiền định ở cõi Phạm Thiên, tâm ý không còn điên đảo. Nếu đặng các kẻ chúng sanh như vậy sanh về cõi tôi, thì khi ấy tôi mới thành đạo. 6- Tôi nguyện đem các món hạnh nguyện mà cầu đặng cõi Phật trang nghiêm và nguyện hết thảy các cõi Phật đều hiệp chung lại thành một thế giới của tôi. Đường giới hạn xung quanh trong cõi ấy đều dùng những chất: Vàng, bạc, ngọc lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu và mã não, mà xây đắp cho cao lên đến cõi Phạm Thiên, còn mặt đất thì toàn là ngọc lưu ly tất cả. Trong cõi ấy không có các món đất, cát, bụi bặm, chông gai, dơ dáy, và không có những sự cảm xúc, thô ác, và xấu xa, cũng không có những người đàn bà và tên hiệu của người đàn bà Hết thảy chúng sanh đều hóa sanh, chớ không phải bào thai trong bụng mẹ như các cõi khác, và hằng tu tập các pháp thiền định, vui đẹp tự nhiên, chớ không cầu phải ăn uống những đồ vật chất. 7- Trong cõi tôi không có người Tiểu thừa, Thinh Văn và Duyên Giác. Thảy đều là các bực Bồ Tát, căn tánh cao thượng, tâm trí sáng suốt, người nào cũng đã xa lìa mọi sự tham lam, hờn giận, ngu si, và đã tu đặng các môn phạm hạnh cả. 8- Trong khi chúng sanh sanh về cõi tôi, thì tự nhiên đủ tướng mạo Tỳ khưu, đều có cạo tóc và đắp y một cách chỉnh đốn cả. 9- Chúng sanh trong cõi tôi muốn ăn, thì tự nhiên có bình bát thất bảo cầm ở nơi tay và đủ các món đồ ăn ngon đẹp đầy bát. Khi ấy lại nghĩ rằng: Chúng ta chớ nên dùng những đồ này, nguyện đem bố thí, trước hết dâng cúng cho các Đức Phật, Bồ Tát, Thinh Văn, và Duyên Giác, sau nữa thì chúng sanh nghèo hèn và các loài ngạ quỷ đói khát đều dùng no đủ. Còn phần chúng ta thì nên tu pháp thiền định, hưởng sự vui đẹp tức là món ăn. 10- Mọi người suy nghĩ như vậy, liền đặng pháp Tam muội, gọi là “Bất khả tư nghị hạnh”, có sức thần thông, dạo đi tự tại, không có sự gì ngăn ngại tất cả. Độ trong giây phút, mọi người được dạo khắp thế giới mà cúng dường Phật, bố thí và diễn thuyết các pháp cho chúng sanh nghe rồi trở về nước thì vừa đúng bửa ăn. 11- Tôi nguyện trong thế giới của tôi không có tám món chướng nạn và các sự khổ não, và cũng không có những người phá hư giới luật. 12- Tôi nguyện trong thế giới ấy có nhiều món châu báu rất lạ lùng và không cần gì phải dùng đến ánh sáng của mặt trời và mặt trăng. Các vị Bồ Tát tự nhiên xung quanh thân thể có hào quang sáng chói, soi khắp các nơi, thường chiếu luôn không có ngày đêm, chỉ xem lúc nào bông nở thì cho là ban ngày, lúc nào bông xếp lại cho là ban đêm mà thôi. Còn khí hậu thường điều hòa, không nóng quá cũng không lạnh quá. 13-Nếu các vị Bồ Tát nào bổ xứ làm Phật các cõi khác, thì trước hết ở nơi cõi tôi, rồi đến cung Trời Đâu xuất, sau mới giáng sinh đến cõi ấy. 14- Tôi nguyện hóa độ chúng sanh đều thành Phật hết rồi, tôi mới hiện lên trên hư không mà nhập diệt. 15-Trong lúc tôi nhập diệt, thì có nhiều món âm nhạc tự nhiên kêu vang đủ pháp mầu nhiệm và các vị Bồ Tát nghe đều tỏ đặng các lẽ huyền diệu. 16-Thưa Đức Thế Tôn! Tôi nguyện khi làm Bồ Tát mà dạo trong các cõi Phật, xem thấy những thức trang nghiêm những châu báu, những hình trạng, những xứ sở, và những hạnh nguyện của chư Phật, thì tôi đều cầu đặng thành tựu tất cả. 17 - Tôi nguyện các vị Đẳng Giác Bồ Tát đều ở trong cõi tôi mà đợi đến thời kỳ sẽ bổ xứ làm Phật, chớ không thọ sanh các cõi nào khác nữa. Nếu các vị nào muốn đến cõi khác thành Phật mà hóa độ chúng sanh, thì tùy theo ý nguyện. 18-Thưa Đức Thế Tôn! Trong khi tôi tu đạo Bồ Tát, nguyện đặng cõi Phật rất tốt đẹp nhiệm mầu. Các vị Bồ Tát phát Bồ Đề tâm, tu Bồ tát hạnh, mà đặng bực bổ xứ thành Phật, đều sanh về trong cõi tôi cả. 19-Thưa Đức Thế Tôn! Tôi nguyện đặng như vậy, tôi mới thành Phật, và nguyện ngồi khoanh chưn trên tọa Kim Cang ở dưới cây Bồ Đề, trong giây lát chứng thành Chánh Giác. 20- Khi thành Phật rồi, tôi biến hóa ra các vị hóa Phật và các vị Bồ Tát, nhiều như số các sông Hằng, đặng dạo các thế giới mà hóa độ chúng sanh, giảng dạy các Pháp nhiệm mầu và khiến cho hết thảy nghe Pháp rồi đều phát Bồ Đề Tâm, cho đến khi thành đạo cũng không đổi dời tâm trí. 21- Khi tôi thành Phật rồi, chúng sanh ở trong các cõi nếu thấy đặng tướng tốt của tôi, hằng in nhớ trong tâm luôn luôn, cho đến khi thành đạo cũng không quên. 22-Tôi nguyện chúng sanh trong cõi tôi, người nào cũng đủ căn thân toàn vẹn, không hư thiếu món gì. Nếu các vị Bồ Tát muốn xem thấy tướng tôi, hoặc nằm, hoặc ngồi, hoặc đứng, hoặc đi, thì đều thấy đặng cả. Khi thấy rồi, liền phát Bồ Đề tâm, và lại trong lúc thấy tôi, những sự hoài nghi về đạo pháp tự nhiên hiểu biết đặng cả, không cần đợi tôi giải quyết nữa. 23- Tôi nguyện khi tôi thành Phật rồi, thì tôi đặng thọ mạng vô cùng vô tận, không kể xiết. Còn các vị Bồ Tát trong cõi tôi cũng đặng sống lâu như vậy. 24-Trong lúc tôi thành Phật, có vô số Bồ Tát đủ tướng mạo Tỳ khưu, người nào cũng cạo đầu, đắp y, cho đến khi nhập Niết Bàn thì những tóc không khi nào để mọc dài, và những y cũng không khi nào đổi bận như đồ người thế tục. Đức Bảo Tạng Như Lai nghe mấy lời nguyện rồi, liền thọ ký cho Vương Chúng Thái Tử rằng: “Hay thay! Hay thay! Ngươi là người Đại Trượng phu, trí huệ sáng suốt, tỏ biết mọi lẻ, phát nguyện rất lớn và rất khó khăn, làm những việc công đức rất rộng sâu, không thể nghĩ bàn đặng. Chính ngươi là bậc trí huệ nhiệm mầu, mới làm đặng mọi sự như vậy. Bởi ngươi vì hết thảy chúng sanh mà phát thệ nguyện rất nặng lớn và cầu đặng cõi Phật rất trang nghiêm như thế, nên ta đặt hiệu ngươi là: Văn Thù Sư Lợi. Trải vô lượng hằng sa số kiếp về sau, ngươi sẽ thành Phật hiệu là: Phổ Hiền như Lai ở thế giới rất đẹp đẽ, tên là Thanh Tịnh Vô Cấu Bảo Chi, thuộc về bên phương Nam. Tất cả mọi sự trang nghiêm của ngươi ước ao thảy đều thỏa mãn. Này Văn Thù Sư Lợi, từ rày sắp về sau, trải hằng sa kiếp, ngươi tu Bồ Tát đạo, trồng các căn lành, và tâm trí thanh tịnh. Ngươi hằng vì chúng sanh mà giáo hóa cho chúng nó đều dẹp trừ được các món tâm bịnh, vậy nên chúng nó đều xưng ngươi là một ông Thầy thuốc hay, có một món thuốc thần để chữa lành được bịnh phiền não. Vương chúng Thái Tử thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Nếu sự thệ nguyện của tôi đặng như lời Ngài thọ ký đó, thì tôi xin cả thế giới đều vang động và các Đức Phật mười phương đều thọ ký cho tôi nữa”. Vương chúng Thái Tử thưa rồi, đương cúi đầu lễ Phật, tự nhiên giữa hư không có các thứ tiếng âm nhạc vang rền diễn ra các pháp mầu nhiệm, và có các thứ bông tươi tốt thơm tho rải xuống như mưa. Các vị Bồ Tát ở các thế giới khác xem thấy như vậy, liền hỏi các Đức Phật rằng: “Do nhân duyên gì mà có điềm lành như thế?” Các Đức phật nói rằng: ”Nay Chư Phật ở mười phương đều thọ ký cho Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát sau sẽ thành Phật, nên hiện ra điềm lành ấy”. Vương chúng Thái Tử thấy vậy, lòng rất vui mừng, liền đãnh lễ Phật, rồi ngồi nghe thuyết Pháp. Từ đó sắp sau, Thái Tử mạng chung, bào thai ra các thân khác và đời khác, kiếp nào cũng giữ gìn bản thệ, quyết chí tu hành, học đạo Đại thừa, làm hạnh Bồ tát, hóa độ chúng sanh đều thành Phật đạo, mà cầu cho thỏa mãn những sự cầu nguyện của mình. Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát (Bodhisatva Muniusri) Lưỡi gươm vàng trí tuệ Văn Thù Sư Lợi cũng được gọi là Mạn Thù Thất lỵ, có nghĩa là Diệu Đức, Diệu Cát Tường. Diệu Đức được hiểu là mọi đức đều tròn đầy. Thủa xưa, Ngài là con thứ ba của vua Vô Tránh Nhiệm có tên là Thái tử Vương Chúng. Ngài cúng dường Phật Bảo Tạng và phát nguyện độ sanh nên được hiệu là Văn Thù Sư Lợi. Sau khi Phật Bảo Tạng thọ ký cho Ngài phải trải vô lượng hằng hà sa số kiếp về sau, thì Ngài sẽ thành Phật ở thế giới thanh tịnh Vô Cấu Bảo Chi thuộc về bên phương Nam, hiệu là Phật Văn Thù. Bồ tát Văn Thù Sư Lợi xuất hiện hầu như trong tất cả các kinh điển quan trọng của Phật giáo Đại thừa: Hoa Nghiêm, Thủ Lăng Nghiêm, Pháp Hoa, Duy Ma Cật…như là một nhân vật thân cận nhất của Đức Phật Thích Ca. Ngài có lúc thì chính thức thay mặt Đức Thế Tôn diễn nói Chánh pháp, còn có lúc đóng vai người điều khiển chương trình để giới thiệu đến thính chúng một thời pháp quan trọng của Đức Bổn Sư. Ngài thấu hiểu Phật tánh bao gồm cả ba đức: Pháp thân, Bát Nhã và Giải thoát cho nên trong hàng Bồ tát Ngài là thượng thủ. Là vị Bồ tát tiêu biểu cho trí tuệ, Văn Thù Sư Lợi Bồ tát thường được miêu tả với dáng dấp trẻ trung ngồi kiết già trên một chiếc bồ đoàn bằng hoa sen. Biểu tượng đặc thù của Ngài là trên tay phải, dương cao lên khỏi đầu, là một lưỡi gươm đang bốc lửa. Nó mang hàm ý rằng chính lưỡi gươm vàng trí tuệ nầy sẽ chặt đứt tất cả những xiềng xích trói buộc của vô minh phiền não đã cột chặt con người vào những khổ đau và bất hạnh của vòng sinh tử luân hồi bất tận và đưa con người đến trí tuệ viên mãn. Trong khi đó, tay trái của Ngài đang cầm giữ cuốn kinh Bát nhã trong tư thế như ôm ấp vào giữa trái tim. Đây là biểu trưng cho tỉnh thức, giác ngộ. Đôi khi, chúng ta cũng thấy tay trái của Ngài cầm hoa sen xanh, biểu thị cho đoạn đức. Có nghĩa là dùng trí tuệ để dứt sạch mọi nhiễm ô tham ái, như hoa sen ở trong bùn mà không nhiễm mùi bùn. Nói một cách khác là Bồ tát không phải người ẩn nơi non cao rừng thẩm, hoặc sống trong cảnh thanh tịnh u nhàn, mà là người sống chung đụng với quần chúng, lăn lộn trong đám bụi trần để cứu độ chúng sinh, nên có lúc họ ra làm vua, có lúc làm quan, cũng có khi làm kẻ tật nguyền nghèo khổ…Tuy sống trong dục lạc dẫy đầy, mà Bồ tát vẫn giữ tâm thanh tịnh không bị ô nhiễm như người đời. Đó là nhờ trí tuệ dứt sạch tham ái, viên thành đoạn đức. Chiếc giáp Ngài mang trên người gọi là giáp nhẫn nhục. Nhờ nó nên các mũi tên thị phi không xâm phạm vào thân. Nó có thể che chở cho Ngài vẹn toàn tâm từ bi do đó bọn giặc sân hận oán thù không thể nào lay chuyển được hạnh nguyện của Bồ tát. Bồ tát không bao giờ rời chiếc giáp nhẫn nhục bởi vì nếu thiếu nó thì họ không thể nào thực hiện được tâm Bồ đề. Nói về Phật giáo Á Châu, thì Ngũ Đài Sơn bên Trung Quốc được xem như là nơi trụ tích của Văn Thù Bồ tát. Ngũ Đài Sơn thuộc địa phận tỉnh Sơn Tây và có năm ngọn núi quần lại với nhau là Đông đài, Tây đài, Nam đài, Bắc đài và Trung ương đài. Phong cảnh rất thanh tú với hồ nước lung linh, những dòng sông trong veo uốn khúc cộng thêm những cảnh quan thiên nhiên kỳ thú như những bức tranh thủy mặc, nên từ lâu được coi là chốn bồng lai tiên cảnh, trú xứ của những vị Tiên theo truyền thuyết Trung Hoa. Kinh Hoa Nghiêm nói rằng: Ngài Văn Thù trụ lại ở núi Thanh Lương phía Đông Bắc và hiện đang thuyết pháp cho chư Bồ tát nghe. Mà núi Thanh Lương sau nầy được ám chỉ là núi Ngũ đài. Vì thế mà vào đời nhà Đường (736 sau T.L) có vị Thiền sư Đạo Nhất, một vị cao tăng, đã thực hiện một chuyến hành hương trên Ngũ đài sơn. Sư gặp một một lão tăng cưỡi trên mình một con voi trắng ở phía đối diện. Lão tăng nói ngày mai sẽ gặp được Văn Thù Bồ tát, nói xong thì lão tăng biến mất. Sư quá đổi vui mừng và suốt đêm nghĩ lại chùa Thanh Lương, trung tâm của núi Ngũ đài. Sáng hôm sau vào lúc tinh mơ, Sư đã thức dậy, một mình nhắm hướng Tây lên núi. Sư lại gặp vị cưỡi con voi trắng hôm qua và vị tăng khuyến khích sư tiếp tục đi lên núi. Khi sư đi về hướng Tây Bắc, đi qua một cây cầu thì Sư thấy một dinh thự hùng vĩ trang nghiêm như một tu viện, tất cả đều bằng vàng. Sau đó Sư gặp lại vị lão tăng và không còn nghi ngờ gì nữa, Sư biết chắc vị lão tăng kia chính là Văn Thù Bồ tát hóa hiện. Sư mừng đến độ choáng váng phải một lúc sau Sư mới hoàn hồn tỉnh lại. Nhân cơ hội nầy Sư đã tham vấn về những khúc mắc trong Phật pháp và Bồ tát cũng ân cần hỏi han về tình trạng Phật pháp ở quê hương Sư. Từ giã Bồ tát bước đi chừng trăm bước, Sư ngoái đầu nhìn lại, tất cả đều biến mất. Sư Đạo Nhất đem tất cả những điều chứng kiến được tâu trình lên vua Đường Huyền Tôn. Nhà vua rất thu hút bởi chuyện nầy nên sai thiết lập ngôi Kim Cát Tự. Đây là ngôi chùa vĩ đại được kiến trúc theo mô hình mà Sư nhớ lại được hoàn tất vào cuối thế kỷ thứ 8. Một nhà sư khác người Nhật tên là Viên Nhân (Ennin) cũng đã hành hương đến Ngũ Đài Sơn vào năm 840 sau T. L. Ông đã lưu lại đây hơn hai tháng và đã ghi lại những điều chứng kiến được như sau:”Vào khoảng đầu hôm, chúng tôi, một nhóm tăng khoảng mười người đột nhiên trông thấy trên bầu trời hướng Đông của thung lũng xuất hiện một cây đèn thần. Ánh sáng ban đầu chỉ nhỏ cỡ chừng bằng một cái bình nhưng sau đó lớn dần lên bằng cả cái nhà. Chúng tôi quả thật rúng động trước cảnh tượng nầy, vội vã quỳ xuống đánh lễ và niệm lớn danh hiệu Bồ tát Văn Thù. Rồi thì một cây đèn khác lại hiện ra gần chúng tôi hơn. Hai ngọn đèn này nhìn từ xa, cách nhau khoảng chừng 100 bộ, tỏa ánh sang rất rực rỡ cho đến khoảng nữa đêm thì tàn lụi dần và biến mất”. Trong cuốn hồi ký nầy, sư Viên Nhân cũng mô tả lại những kiến trúc, đền đài, những nơi thờ phượng ở trên Ngũ Đài Sơn, kể cả bức tượng Bồ tát Văn Thù rất nổi tiếng tại chùa Hoa Nghiêm. Đây là bức tượng Bồ tát cưỡi trên mình con sư tử lớn bằng cả một ngôi nhà năm gian. Con sư tử trông thật siêu nhiên, vĩ đại và sống động giống như là thật vậy. Khi nhìn, chúng ta có cảm tưởng như là nó đang đi và thở hơi khói ra ở miệng. Sư Viên Nhân viết thêm rằng:” Bức tượng nầy phải đúc đến lần thứ bảy mới hoàn thành bởi vì tất cả những lần trước, lần nào cũng bị bể cả. Cuối cùng nhà điêu khắc thành tâm khấn nguyện cùng Bồ tát Văn Thù xin Ngài hiện ra cho ông ta thấy hình ảnh trung thực nhất mà Bồ tát muốn miêu tả về mình. Sau khi cầu nguyện, nhà điêu khắc mở mắt ra và vô cùng kinh ngạc khi thấy Văn Thù Bồ Tát cỡi trên mình con sư tử màu vàng xuất hiện trước mắt. Một khoảnh khắc sau đó, Bồ tát bay lên đám mây ngũ sắc và mất hút dần vào khoảng không. Nhà điêu khắc vô cùng vui mừng và cảm kích khi được trông thấy hình ảnh thực sự của Bồ tát, nhưng đồng thời ông cũng không cầm được nước mắt vì hối hận khi đã diễn tả sai lầm về Bồ tát từ trước đến nay”. Con sư tử biểu thị công năng của trí tuệ. Bồ tát do trí tuệ viên mãn để thuyết pháp dẹp tan tất cả mọi tà thuyết. Vai trò tuyên dương Diệu Pháp của Bồ tát Văn thù, chúng ta có thể tìm thấy trong kinh: “Văn Thù Sư Lợi nói về cảnh Giới Bất Tư Nghị của Phật”. Đây là một tuyên ngôn của lý tưởng Bố tát đạo được công bố bởi một vị đại Bồ tát đại biểu cho trí tuệ. Mục tiêu, lý tưởng của Bố tát đạo không phải chỉ là để vượt qua vòng sanh tử, đạt đến cảnh giới Niết bàn mà là hoàn thành Phật đạo để cứu độ chúng sanh. Đặc biệt vai trò tuyên dương diệu pháp của Ngài đã được phô trương quá xuất sắc trong kinh”Duy Ma Cật”. Trưởng giả Duy Ma Cật là một cư sĩ tại gia nhưng tu hành chứng đắc, mật hạnh viên thông mà ngay cả những bậc đại đệ tử của Phật cũng không có vị nào sánh bằng. Vì muốn độ người nên Ngài thị hiện ở thành Tỳ Da Ly, dùng vô lượng của cải để nhiếp độ dân nghèo, giữ giới hạnh trong sạch để nhiếp độ kẻ phá giới, dùng hạnh nhẫn nhục để nhiếp độ kẻ giận dữ sân hận, dùng đại tinh tấn để nhiếp độ kẻ biếng nhác, nhất tâm thiền tịch để nhiếp độ kẻ tâm loạn, dùng trí huệ để nhiếp độ kẻ vô trí. Dù hiện thân bạch y mà giữ giới hạnh trong sạch của Sa Môn, dù ở tại gia mà không đắm nhiễm cõi đời, thị hiện có vợ con quyến thuộc mà thường tu thanh tịnh hạnh, dù mặc đồ quý báu mà dùng tướng tốt để trang nghiêm, dù ăn uống theo người đời mà lấy Thiền duyệt làm mùi vị, hoặc đến chỗ cờ bạc, xướng hát vẫn tùy cơ độ người. Tất cả người gặp đều cung kính cúng dường. Một hôm vì muốn tạo cơ duyên để hoằng pháp lợi sanh, ông đã mượn cớ bị bệnh để tạo dịp giảng giải giáo lý cho chúng sanh. Đức Phật đã biết rõ căn “bệnh” của ông nên đã lần lượt yêu cầu các vị đại đệ tử thay mặt mình đi thăm bệnh ông Duy Ma Cật. Thế nhưng tất cả những đại đệ tử của Phật trong quá khứ đã từng bị trưởng giả Duy Ma cật chất vấn về tâm pháp và sở học mà không một ai trả lời trôi chảy trước kiến thức Phật pháp uyên thâm và biện tài vô ngại của ông nên tất cả đều sợ hãi từ chối. Vài thí dụ điển hình như: Một hôm A Nan cầm bát đến trước nhà Bà la môn để xin sữa cho Thế Tôn khi Ngài có bệnh. Khi ấy Duy Ma Cật đến hỏi ông rằng: - Này A Nan! Làm gì mà cầm bình bát đến đứng đây sớm thế? A Nan đáp: - Thưa Cư sĩ! Thế Tôn thân có chút bịnh, cần dùng sữa bò nên tôi mới đến đây. Cư sĩ Duy Ma cật nói: - Thôi, thôi! A Nan chớ nói như thế. Thân Như Lai là thân Kim cương, ác đã dứt sạch, thiện đã viên mãn, đâu còn bệnh nào, đâu còn khổ não. A Nan, hãy im lặng về đi. Chớ phỉ bang Như Lai, chớ cho người khác nghe biết lời nầy. A Nan, Chuyển Luân Thánh Vương chỉ có chút ít phước đức mà còn chẳng bịnh tật, huống chi là Như Lai vô lượng phước tu, thù thắng khắp nơi. A Nan, nếu ngoại đạo nghe được thì họ sẽ nghĩ rằng: Sao gọi Phật là Thầy cho được? bệnh của mình không chữa nỗi mà chữa được bệnh cho người khác ư? A Nan, nên biết, thân Như Lai tức là pháp thân, chẳng phải thân sắc dục. Phật là Thế tôn siêu việt ba cõi. Thân Phật là vô lậu, các lậu đã sạch, thân Phật vô vi, chẳng lọt vào số lượng. Thân Phật như thế thì còn có bệnh gì? A Nan đành im lặng ra về. Một hôm khác Trưởng giả Duy Ma Cật gặp La Hầu La. Ông hỏi: - Thưa ông La Hầu La! Ông là con của Phật, vì đạo bỏ ngôi vua mà xuất gia, thế việc xuất gia đó có những lợi ích gì? La Hầu La trả lời: - Sự lợi ích của việc xuất gia đúng như pháp. Trưởng giả Duy Ma Cật nói thêm: - Này La hầu La! Ông chẳng nên nói lợi ích của công đức xuất gia. Tại vì sao? Vô lợi ích, vô công đức mới là xuất gia. Nếu đứng về pháp hữu vi, mới nói có lợi ích, có công đức. Còn việc xuất gia là pháp vô vi mà trong pháp vô vi chẳng có lợi ích và công đức. La hầu La! Việc xuất gia chẳng có bỉ thử đối đãi, lìa sáu mươi hai kiến chấp. Ở nơi Niết Bàn, là thọ dụng của người trí, là chỗ hành của bậc Thánh, hay hàng phục ma chúng, độ ngũ đạo, tịnh ngũ nhãn, đắc ngũ lực, lập ngũ căn, chẳng làm phiền não người khác, lìa mọi thứ ác, dẹp các ngoại đạo, siêu việt giả danh, ra khỏi bùn lầy thế gian, chẳng bị dính mắc, vô ngã và ngã sở, vô sở lãnh thọ, tâm chẳng nhiễu loạn, ham hộ niệm chúng sinh, tùy thuận Thiền định, lìa những tội lỗi. Nếu được như thế mới là chơn xuất gia. Cuối cùng chỉ có Văn Thù Sư Lợi thay mặt Đức Phật đến thăm bịnh của Trưởng giả Duy Ma Cật mà thôi. Cùng đi với Bồ tát Văn Thù còn có 8000 Bồ tát, 500 Thanh văn và trăm nghìn Thiên nhơn để xem một cuộc tranh luận về giáo pháp của hai nhân vật kiệt xuất nầy. Duy Ma Cật hỏi: Thế nào là hạt giống Như Lai? Văn Thù Sư Lợi trả lời: - Có thân là hạt giống Như Lai, vô minh, ái dục là giống, tham sân si là giống, tứ điên đảo là giống, lục nhập là giống, thất thức xứ là giống, bát tà pháp là giống, cửu não là giống, thập bát thiện đạo là giống. Nói tóm lại, sáu mươi hai kiến chấp và tất cả phiền não đều là hạt giống Phật. Duy Ma Cật hỏi: Tại sao? Văn Thù đáp: - Nếu kẻ thấy vô vi vào chánh vị thì không thể phát tâm Vô thượng Bồ đề nữa. Ví như chỗ gò cao thì không thể sanh hoa sen, mà nơi bùn lầy ẩm thấp hoa sen mới sanh được. Cũng thế, kẻ thấy pháp vô vi vào chánh vị thì chẳng còn có thể sanh khởi Phật pháp, trong bùn lầy phiền não mới có chúng sinh sanh khởi Phật pháp thôi. Nên biết tất cả phiền não là hạt giống Như Lai, ví như chẳng xuống biển cả thì chẳng được bữu châu vô giá. Cũng thế, chẳng vào biển phiền não thì chẳng thể nào được ngọc báu Nhất Thiết Trí vậy. v Chủ điểm nền tảng của kinh Duy Ma Cật là triển khai nhận thức về thực tại trên căn bản của nguyên lý bất nhị, tức hệ tư tưởng tánh Không của Bát nhã. Nguyên lý bất nhị hướng dẫn nhận thức khởi đi từ những thực tại sai biệt mà khám phá ra thực tại tối hậu là nhận thấy bản thể chân thật (tuyệt đối) ngay trong các thực tại sai biệt ấy. Để nhận thức được thực tại chân thật nầy, Bồ tát cần đi qua cánh cửa bất nhị, tức là cánh cửa giao thông cho Bồ tát qua lại giữa Niết bàn và sanh tử. Bây giờ, Duy Ma Cật bảo các Bồ tát rằng:Này nhơn giả Bồ tát! Làm sao nhập pháp môn bất nhị? Hãy tùy sở ngộ của mình mà nói ra. Tất cả 32 vị Bồ tát lần lượt trả lời về câu hỏi nầy, nhưng cư sĩ Duy Ma Cật đều không hài lòng về các câu trả lời đó. Cuối cùng tới ngài Văn Thù Sư Lợi đáp: - Theo ý tôi, nơi tất cả vô ngôn vô thuyết, vô thị vô thức, lìa nơi vấn đáp. Ấy là nhập pháp môn vô nhị. Khi đó Văn Thù hỏi Duy Ma Cật rằng: - Chúng tôi mỗi mỗi đã tự nói xong. Nay đến lượt Nhơn giả nói:”Thế nào là nhập pháp môn bất nhị của Bồ tát?” Duy Ma Cật im lặng. Văn Thù tán thán rằng: - Lành thay! Lành thay! Cho đến chẳng có văn tự, lời nói mới là chơn nhập pháp môn bất nhị. Bất nhị là cảnh giới của “đại trí tuệ bình đẳng”, có nghĩa là 2 cũng không và 3 cũng không. Nếu nói tới pháp môn bất nhị nầy thì phải lìa xa hẳn ngôn thuyết ở cảnh giới vong ngôn, tuyệt tự. Không thể đem hết thảy ngôn thuyết của tất cả các pháp mà hiểu rỏ được, cũng không thể chỉ bảo được và cũng không thể biết được. Không thể hỏi và trả lời được, thì đó mới là “pháp môn bất nhị”. Văn Thù Bồ Tát đồng thời cũng còn quan hệ mật thiết với ngọn núi Ghandhamana, “ngọn núi tỏa thơm mùi hương báu”. Trong bộ kinh “Văn Thù Sư Lợi Nhập Diệt”, Ngài được mô tả là đã từng đến viếng dãy Hy Mã Lạp Sơn để chuyển hóa 500 vị đại tiên cư trú tại đây trở về với Phật giáo. Và sau đó, kinh nầy cũng mô tả cảnh Ngài nhập diệt, khi dùng lửa tam muội tự thiêu đốt xác thân của mình. Xá lợi của Ngài được đưa về đỉnh núi Hương Sơn, nơi mà vô số lượng các Thiên, Long, quỷ , thần sẽ tu tập đến để làm lễ tôn kính Ngài. Núi Hương Sơn này đã được nhà học giả Pháp Lamotte xác định là Gandhamana. Sau hết, chúng ta thờ phượng Văn Thù Sư Lợi Bồ tát là để hướng về trí tuệ sẵn có của chúng ta. Vô minh, ái dục đã đưa chúng ta lặn hụp trong vòng sinh tử luân hồi, chịu chập chồng muôn nỗi khổ đau. Chúng ta hãy thức tỉnh để quay về với trí tuệ sẵn có của mình và dùng thanh gươm trí tuệ chặt đứt lưới tham ái để vượt ra khỏi bể khổ thâm sâu. Vâng, chỉ có trí tuệ mới có đủ công năng cứu chúng ta ra khỏi vòng luân hồi nghiệp báo. Thêm nữa, Bồ tát là tấm gương sáng cho lợi tha, chúng ta phải dùng lưỡi kiếm trí tuệ nầy để cứu thoát mọi người trước kẻ thù phiền não, của con rắn độc tham sân si. Có thực hành được như vậy, mới xứng đáng đánh lễ đức Văn Thù Sư Lợi tay cầm kiếm, mình mặc giáp, ngồi trên lưng sư tử. Công đức ở trong tự tánh chẳng phải bố thí, cúng dường mà được. Cho nên nói phước chẳng bằng công đức, bố thí chẳng kịp trì kinh là vậy
-
Trung Quốc: 4 tòa nhà trụ sở "sao" mô hình tòa nhà Quốc hội Mỹ Thứ hai 03/12/2012 13:15 (GDVN) - Mấy ngày qua, một số cư dân mạng Trung Quốc phát hiện ra có 4 tòa trụ sở tòa án các khu Nam Trường, Cao Tân, Giang Âm và Nghi Hưng thuộc thành phố Vô Tích tỉnh Giang Tô, Trung Quốc xây dựng trụ sở bề thế hoành tráng và kiến trúc dường như muốn "sao chép" trụ sở Quốc hội Mỹ tại Washington. Cả 4 tòa trụ sở này có diện mao khá giống với tòa nhà Quốc hội Mỹ từ mái vòm, cộ trụ và kết cấu toàn khu nhà khiến cộng đồng mạng Trung Quốc ngạc nhiên. Trụ sở tòa án khu Cao Tân, Vô Tích, Giang Tô, Trung Quốc Trụ sở khu Nam Trường, Vô Tích, Giang Tô, Trung Quốc Trụ sở tòa án khu Giang Âm, Vô Tích, Giang Tô, Trung Quốc Trụ sở tòa án khu Nghi Hưng, Vô Tích, Giang Tô, Trung Quốc "Bản gốc" - tòa trụ sở Quốc hội Mỹ tại đồi Capitol, Washington DC Dường như một số địa phương ở Trung Quốc muốn sao chép kiến trúc tòa nhà Quốc hội Mỹ Hồng Thủy (Nguồn QQ)
-
Chúc Mừng Sinh Nhật anh Hatgaolang, Lê Bá trung và Memphisto zô, zô, zô ô ô oooo....!!!
-
Nhà hàng TQ kỳ thị người Nhật, Philippines và Việt Nam Thứ tư, 27/02/2013 10:36 Cộng đồng mạng đang hết sức phẫn nộ với tấm biển kỳ thị khách hàng nước ngoài của một nhà hàng ở Bắc Kinh. 'Không phục vụ người Nhật, người Philippines, người Việt Nam và chó' là dòng chữ tiếng Trung và Anh gắn ngay cửa nhà hàng có tên tiếng Anh là 'Beijing snacks', còn tên phiên Hán - Việt là Bách Niên Lỗ Chử. Nhà hàng này nằm ở quận Tây Thành, Thành phố Bắc Kinh, gần cổng phía Nam khu di tích Cung Vương Phủ, là địa điểm có nhiều khách du lịch. Chỉ trong vài ngày, bốn tấm ảnh được đăng trên Facebook, với chú thích là 'kỳ thị nhuốm màu chủ nghĩa dân tộc cực đoan', đã được hơn 3.500 người chia sẻ cùng hàng ngàn người theo dõi và bình luận. 'Tôi đưa các tấm ảnh lên Facebook vì tôi cảm thấy mình có trách nhiệm phải vạch trần điều này. Tôi quá chán ghét những lời to tát giả vờ yêu nước cùng mang tính kỳ thị kiểu vậy ở Trung Quốc và không còn muốn nghe thêm nữa. Tôi bị sốc vì sự kỳ thị trắng trợn đến như vậy', bà Rose Tang, người chụp bức ảnh cho hay. Được biết, bà Tang từng là GS báo chí của Đại học Princeton danh tiếng ở Mỹ và bức ảnh được bà chụp ngày 22/2 khi về thăm Bắc Kinh. Tấm biển với dòng chữ kỳ thị 'Tôi tự hào về việc mình làm. Tôi không quan tâm tới những gì người ta nói. Nhà hàng của tôi cũng không có nhiều người nước ngoài tới', Trả lời BBC tiếng Trung, chủ nhà hàng tên Vương nói. Paul Mooney, một nhà báo tự do ở Bắc Kinh, đã phản hồi dưới tấm ảnh của bà Rose Tang: 'Việc chính quyền nói sai về các nước khác và bóp méo lịch sử khiến người Trung Quốc chẳng biết gì cả và phản ứng như vậy'. Bạn đọc Quốc Vinh từ San Jose, California, lý giải: 'Người dân Trung Quốc đã bị bưng bít khiến họ ngây thơ tin rằng đất nước họ đang bị xâm lược chứ không hề biết chính nước họ đang xâm lấn nước khác'. Trả lời báo Tuổi Trẻ qua điện thoại, chủ nhà hàng Bách Niên Lỗ Chử xác nhận việc có treo tấm biển với nội dung như vậy. Trưa 26/2, Tuổi Trẻ đã phản ánh sự việc này với Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội, nhưng đến tối cùng ngày vẫn chưa có phản hồi nào. Nhà hàng Bắc Kinh kỳ thị người Nhật, Philippines và Việt Bởi THANH TUẤN | Tuổi Trẻ – 5 giờ trước TT - Cộng đồng mạng đang hết sức phẫn nộ với một tấm biển đầy tính kỳ thị với khách hàng nước ngoài của một nhà hàng ở Bắc Kinh, Trung Quốc. “Không phục vụ người Nhật, người Philippines, người Việt Nam và chó” là dòng chữ tiếng Trung và Anh gắn ngay cửa nhà hàng có tên tiếng Anh là “Beijing snacks”, còn tên phiên Hán - Việt là Bách Niên Lỗ Chử. Nhà hàng này nằm ở quận Tây Thành, thành phố Bắc Kinh, gần cổng phía nam khu di tích Cung Vương Phủ, là địa điểm có nhiều khách du lịch. Tấm biển gây sốc này được bà Rose Tang chụp ngày 22-2 khi về thăm Bắc Kinh. Bà Tang từng có 12 năm làm việc cho đài truyền hình CNN, ABC News của Úc và từng là giáo sư báo chí của Đại học Princeton danh tiếng ở Mỹ. “Tôi bị sốc vì sự kỳ thị” Chỉ trong vài ngày, bốn tấm ảnh được đăng trên Facebook của bà, với chú thích là “kỳ thị nhuốm màu chủ nghĩa dân tộc cực đoan”, đã được hơn 3.500 người chia sẻ cùng hàng ngàn người theo dõi và bình luận - điều chưa từng có với Facebook của nữ họa sĩ này. Bà Tang, 44 tuổi, sinh ra và lớn lên ở Trung Quốc, hiện đang sống ở New York (Mỹ). Bà là một họa sĩ và một tác gia. Trả lời Tuổi Trẻ qua Skype và email, bà Tang giải thích: “Tôi đưa các tấm ảnh lên Facebook vì tôi cảm thấy mình có trách nhiệm phải vạch trần điều này”. “Tôi quá chán ghét những lời to tát giả vờ yêu nước cùng mang tính kỳ thị kiểu vậy ở Trung Quốc và không còn muốn nghe thêm nữa. Tôi bị sốc vì sự kỳ thị trắng trợn đến như vậy”. Bà Tang còn kể lại chuyện bà từng bị ném đá và xua đuổi khi bà đi viết bài tường thuật các cuộc biểu tình chống NATO bên ngoài sứ quán Anh và Mỹ ở Bắc Kinh chỉ vì bà viết cho một tờ báo Hong Kong (tạp chí Asiaweek) khi đó. Vẫn chưa rõ ông chủ của Bách Niên Lỗ Chử đã treo tấm biển này từ khi nào. Nhưng trên các trang web của Sina, Weibo đã có hình tấm biển từ tháng 9-2012. Trên mạng Sina còn có hình nhà hàng He Jian Donkey (Hà Gian Lư Nhục) với tấm biển gần tương tự là: “Cấm người Nhật, Philippines và chó”. Trả lời BBC tiếng Trung, chủ nhà hàng Vương không chút che giấu: “Tôi tự hào về việc mình làm. Tôi không quan tâm tới những gì người ta nói. Nhà hàng của tôi cũng không có nhiều người nước ngoài tới”. Làn sóng phẫn nộ từ cư dân mạng Paul Mooney, một nhà báo tự do ở Bắc Kinh, đã phản hồi dưới tấm ảnh của bà Rose Tang: “Việc chính quyền nói sai về các nước khác và bóp méo lịch sử khiến người Trung Quốc chẳng biết gì cả và phản ứng như vậy”. Bình luận của ông có 234 người “like” (thích) trên Facebook. Nhà hàng này tại Bắc Kinh treo biển không phục vụ thực khách Nhật Bản, Philippines, Việt Nam, gây phẫn nộ trong dư luận - Ảnh: AFP chụp ngày 26.2 Bạn đọc Quốc Vinh từ San Jose, California, lý giải: “Lý do chính là đường lưỡi bò mà Trung Quốc yêu sách ở biển Đông. Cả ba nước như Nhật Bản, Philippines và Việt Nam đều phản đối Trung Quốc về đòi hỏi lố bịch này. Tuy nhiên, người dân Trung Quốc đã bị bưng bít khiến họ ngây thơ tin rằng đất nước họ đang bị xâm lược chứ không hề biết chính nước họ đang xâm lấn nước khác”. Bình luận của Quốc Vinh được tới hơn 800 người đồng tình. Một cư dân mạng khác lấy nickname Andrea Wanderer lại bình luận “đây chính là đầu độc thế hệ trẻ bằng lòng hận thù khiến họ lớn lên với lòng thù hận đối với các nước khác ở châu Á”. Yenni Kwok, một biên tập viên của International Herald Tribune và tạp chí Time, bình luận “chuyện chính trị từ biển giờ đã xuất hiện trên bàn ăn”. Người chụp hình, bà Rose Tang, hi vọng áp lực từ dư luận và báo chí sẽ “dạy cho chủ hàng Vương và những người như ông một bài học”. Bà Tang nói dù không thấy các biển hiệu tương tự ở khu vực Hồ Hậu Hải gần nơi nhà hàng đó, song “tấm biển này phản ánh một tâm lý chung chi phối [ở Trung Quốc] mấy năm gần đây”. Giải thích cảm nhận này của mình, bà viết: “Trong chuyến thăm gần đây tới Trung Quốc, tôi nghe rất nhiều bạn bè và thậm chí cả những người lạ tôi gặp trên xe buýt đều nói chuyện tranh chấp của Trung Quốc ở Trường Sa. Tất cả mọi người đều hào hứng khoe chuyện Trung Quốc đang trỗi dậy, nhưng nực cười là tất cả gia đình Trung Quốc tôi biết đều cố gửi con cái mình tới nước Mỹ”. ============================================ Vẫn còn người Trung Quốc tỉnh táo Trả lời Tuổi Trẻ qua điện thoại, chủ nhà hàng Bách Niên Lỗ Chử xác nhận việc có treo tấm biển với nội dung như vậy. “Các hình ảnh được đăng tải trên là xác thực. Tôi chỉ viết lên những suy nghĩ của mình và không có ý gì khác!” - ông Vương nói. Khi được hỏi ông thấy thế nào nếu người Nhật Bản, người Philippines và người Việt Nam xem được những dòng chữ này, ông Vương chỉ trả lời ngắn gọn “tốt nhất họ không nên xem các dòng chữ ấy!” rồi dập máy. Trưa 26-2, Tuổi Trẻ đã phản ánh sự việc này với Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội, nhưng đến tối cùng ngày vẫn chưa có phản hồi nào. Từ tháng 9-2012, trên các trang mạng xã hội Trung Quốc như Sina Weibo, Tengxun Weibo... bỗng rộ lên hình ảnh các cửa tiệm Trung Quốc treo những tấm bảng có nội dung kỳ thị người nước ngoài và những tấm ảnh này đã gây phản ứng cả hai chiều. Một người có biệt danh Duowanshitouxiong viết trên Tengxun Weibo: “Tôi đi vào cửa tiệm và dùng tay để chỉ món. Người phục vụ hỏi tôi “Biết nói tiếng người không?”. Tôi tức giận đáp lại “Tôi biết nói tiếng người giống như ông vậy”, ông ta cười. Ra về tôi mới thấy cửa tiệm có dán tờ giấy ghi những dòng chữ kỳ thị này”. Cư dân mạng Wenzi Meifengguonianpangshijin còn bình luận trên Tengxun Weibo: “Ai hô lên quần đảo Điếu Ngư là của Trung Quốc thì được giảm 10%, ai nói Nhật Bản là của Trung Quốc sẽ được giảm 20%”. Nhiều cư dân mạng cho rằng đây là biểu hiện cho một thứ chủ nghĩa dân tộc cực đoan đáng lên án. “Nơi nào cũng có người tốt kẻ xấu, đừng đánh đồng tất cả” - một cư dân mạng có biệt danh MM Chen An Mu viết trên Sina Weibo. (ĐÔNG PHƯƠNG) THANH TUẤN ============================ Lại một chiêu trò mới, hệ quả của việc bóp méo sự thật.
-
Sự tích Đức Địa Tạng Vương Bồ tát Trong kinh Địa Tạng Bồ-tát Bổn Nguyện, đức Phật nói về bốn tiền thân, với bốn đại nguyện của ngài Địa Tạng như sau. 1. Trong vô lượng kiếp về trước, ngài Địa Tạng là một vị Trưởng giả, nhờ phước duyên được chiêm ngưỡng, đảnh lễ và được sự chỉ dạy của đức Phật Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai, vị Trưởng giả này đã phát đại nguyện: “Từ nay đến tận đời vị lai, tôi vì những chúng sanh tội khổ trong sáu đường mà giảng bày nhiều phương tiện làm cho chúng nó được giải thoát hết cả, rồi tự thân tôi mới chứng thành Phật quả.” 2. Vào thời quá khứ vô số kiếp trước, thuở đức Phật Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai, tiền thân của Ngài là một người nữ dòng dõi Bà-la-môn có nhiều phước đức và oai lực; nhưng mẹ của cô không tin vào nhân quả tội phước, tạo rất nhiều ác nghiệp, sau khi chết bị đọa vào địa ngục. Là người con chí hiếu, cô rất thương nhớ mẹ, và đã làm vô lượng điều lành, đem công đức ấy hồi hướng cho mẹ, và cầu nguyện đức Phật cứu giúp. Nhờ các công đức chí thành ấy, đức Phật Giác Hoa Định Tự Tại đã cho cô biết là mẹ của Cô đã được thoát khỏi cảnh địa ngục và vãng sanh về cõi trời. Vô cùng hoan hỉ trước tin ấy, cô đã đối trước đức Phật Giác Hoa phát nguyện: “Tôi nguyện từ nay nhẫn đến đời vị lai những chúng sanh mắc phải tội khổ, thì tôi lập ra nhiều phương chước làm cho chúng đó được giải thoát.” 3. Trong hằng hà sa số kiếp về trước, thuở đức Phật Nhất Thiết Trí Thành Tựu Như Lai, ngài Địa Tạng là một vị vua rất Từ bi, thương dân như con … nhưng chúng sanh lúc ấy tạo rất nhiều ác nghiệp, vị vua hiền đức này đã phát nguyện: “Như tôi chẳng trước độ những kẻ tội khổ làm cho đều đặng an vui chứng quả Bồ Ðề, thời tôi nguyện chưa chịu thành Phật.” 4. Vô lượng kiếp về thuở quá khứ, thời đức Phật Liên Hoa Mục Như Lai, ngài Địa Tạng là một hiếu nữ tên Quang Mục có nhiều phước đức. Nhưng mẹ của Quang Mục lại là người rất ác, tạo vô số ác nghiệp. Khi mạng chung, bà bị đọa vào địa ngục. Quang Mục tạo nhiều công đức hồi hướng cho mẹ, và nhờ phước duyên cúng dường một vị A-la-hán, vị Thánh này đã cho biết rằng, mẹ của cô đã thoát khỏi cảnh địa ngục sanh vào cõi người, nhưng vẫn còn chịu quả báo sinh vào nhà nghèo hèn, hạ tiện, lại bị chết yểu… vì lòng thương mẹ và chúng sanh, Quang Mục đã đối trước đức Phật Liên Hoa Mục Như Lai phát nguyện: “Từ ngày nay nhẫn về sau đến trăm nghìn muôn ức kiếp, trong những thế giới nào mà các hàng chúng sanh bị tội khổ nơi địa ngục cùng ba ác đạo, tôi nguyện cứu vớt chúng sanh đó làm cho tất cả đều thoát khỏi chốn ác đạo: địa ngục, súc sanh và ngạ quỉ, v.v... Những kẻ mắc phải tội báo như thế thành Phật cả rồi, vậy sau tôi mới thành bậc Chánh Giác.” Ngoài những sự tích trong kinh nêu trên lại còn một sự tích Lịch sử Phật giáo Hàn Quốc ghi rằng : Ngài Địa Tạng Bồ tát tục danh Kim Kiều Giác (Kim Kyo-gak), sanh vào thế kỷ thứ VII, năm 696 TL, tại nước Tân La (Silla), hiện nay là Hán Thành, thuộc Nam Hàn. Ngài vốn là một Hoàng tử, sống trong lầu son nhung lụa, ở cung vàng điện ngọc, thế nhưng tính Ngài lại thích đạm bạc, không bị ảnh hưởng bởi nếp sống vương giả phong lưu đài các, mà chỉ chăm lo học hỏi và ham đọc Thánh hiền. Đức tướng trang nghiêm, lòng Từ bi thuần hậu của Ngài thì khó có ai sánh kịp. Vào năm Vĩnh Huy đời Đường Cao Tông, sau khi tham khảo hết Tam giáo, Cửu lưu và Bách gia chư tử thì Ngài bèn buông lời cảm thán: “So với Lục kinh của Nho gia, Đạo thuật của Tiên gia, thì lý Đệ nhất Nghĩa đế của nhà Phật là thù thắng hơn hết, rất hợp với chí nguyện của ta.” Sau đó lập chí xuất gia vào lúc 24 tuổi. Sau khi xuất gia, Ngài ưa đến chỗ vắng vẻ tu tập Tham thiền nhập định, nhân đây bèn nghĩ đến việc hành cước, tìm một nơi thanh vắng để tĩnh tu. Ngài chuẩn bị thuyền bè, đem theo một ít hành trang và lương thực, đồng thời dắt theo con Bạch khuyển (chó trắng) tên Thiện Thính, đã theo Ngài từ lúc xuất gia. Ngài một mình tự lái thuyền rời bến Nhân Xuyên (Incheon), trương buồm ra khơi, tùy theo hướng gió mà đi, sau nhiều ngày lênh đênh trên biển, đến cửa sông Dương Tử (Trung Hoa). Thuyền bị mắc cạn trên bãi cát, Ngài bèn bỏ thuyền đi bộ lên bờ, tiếp tục cuộc hành trình. Sau nhiều ngày lang thang, ngài đến chân núi Cửu Tử ở huyện Thanh Dương, tỉnh An Huy. Thấy phong cảnh nơi đây hùng vĩ, sơn xuyên tú lệ, ngài bèn quyết định ở lại. Ngài đi dọc theo triền núi lên phía trên cao để khảo sát, phát giác khoảng giữa các ngọn núi là một vùng đất bằng phẳng, cảnh trí nên thơ vô cùng tịch mịch, bèn trèo lên mỏm đá bên cạnh một khe nước suối trong và thong dong tự tại với năm tháng mà ngồi tĩnh tọa. Một hôm, đang lúc tĩnh tọa, bổng có một con rắn độc nhỏ đến cắn vào đùi, nhưng ngài vẫn an nhiên bất động. Giây lát sau, một người đàn bà tuyệt đẹp từ trên vách núi bay xuống, đến bên cúi lạy, đưa thuốc cho ngài và nói: “Đứa bé trong nhà rắn mắt, xúc phạm tôn nhan. Thiếp xin tạo một con suối mới để đền đáp lỗi lầm của cháu nhỏ.” Nói xong biến mất. Chưa đầy một sát na, trong vách núi phụt ra một dòng suối cuồn cuộn chảy xuống. Từ đó, ngài không còn phải lao nhọc đi xa gánh nước về. (Đây là dòng suối Long Nữ Tuyền nổi danh ở núi Cửu Hoa). Tương truyền, dưới chân núi có vị Trưởng giả tên Mẫn Công (Văn Các lão nhân), là người thích bố thí cúng dường chư tăng. Ông thường tổ chức cúng dường trai tăng hàng trăm vị. Thế nhưng, mỗi lần như thế, đều thiếu một vị Tăng. Vì vậy, mỗi lần tổ chức ông đều tự thân lên núi mời Ngài. Nếu không, công đức cúng dường không được viên thành. Không bao lâu sau, vì muốn mở rộng đạo trường để quảng độ chúng sanh, ngài Địa Tạng bèn đến xin Mẫn Công (Văn Các lão nhân) cúng dường một mảnh đất. Mẫn Công nói: “Tùy ngài muốn bao nhiêu con xin cúng bấy nhiêu.” Ngài Địa Tạng nghe thế, tung tấm Cà sa lên không. Tấm Cà sa tỏa rộng bao trùm toàn núi Cửu Hoa. Mẫn Công (Văn Các lão nhân) thấy thế bèn vô cùng hoan hỷ, đem toàn bộ núi Cửu Hoa cúng dường. Mẫn Công (Văn Các lão nhân) có một người con trai, ngưỡng mộ đức hạnh của ngài, bèn đến xuất gia, hiệu là Đạo Minh. Sau đó, Mẫn Công(Văn Các lão nhân), vì muốn thuận tiện trong việc nghe pháp, bèn lễ bái Đạo Minh làm thầy. Việc này trở thành một giai thoại nổi tiếng trong chốn Thiền môn. Hiện nay, trong các chùa ở Hàn Quốc thờ tượng đức Điạ Tạng, phần lớn đều có tượng của cha con (Văn Các lão nhân), Mẫn Công (một nhà sư trẻ và một ông lão) đứng hầu hai bên. Ngài Địa Tạng thường Tham thiền nhập định. Ngoài việc giảng kinh thuyết pháp, ngài thường mướn người sao chép bốn bộ kinh lớn của Đại thừa Liễu nghĩa, đem đi bố thí khắp nơi. Năm Chí Đức thứ nhất (TL 765), có danh sĩ Gia Cát Tiết, ngụ tại một làng dưới chân núi, hương dẫn các kỳ lão trong làng, lên núi thưởng ngoạn. Đến vùng đất bằng trên núi, thấy những áng mây trôi lững lờ trên bầu trời xanh với ánh nắng chan hòa ấm áp, tiếng suối reo từ khe núi chảy ra nghe róc rách, tiếng chim hót líu lo khiến cho mọi người bị phong cảnh tú lệ làm mê hoặc, đi dần vào rừng sâu, chợt thấy có một vị Thiền sư Tọa thiền trên mõm đá bên cạnh dòng suối, đang nhắm mắt nhập định. Bên cạnh là một cái đảnh cổ gảy một chân, trong đó có một ít gạo trộn lẫn đất trắng. Một lát sau, vị Thiền sư xuất định, lấy gạo đất nấu chín rồi ăn. Ăn xong, ngài lại tiếp tục tĩnh tọa Tham thiền. Những người trong nhóm thấy thế, vô cùng cảm động bèn đến thưa với ngài: “Thưa! Ngài tu khổ hạnh như vầy, đây là lỗi của dân làng chúng con!” Chẳng bao lâu, mọi người trong làng cùng nhau xây cất một ngôi Thiền đường rộng lớn hơn nữa, quanh năm đều cúng dường thực phẩm không hề gián đoạn. Năm Kiến Trung thứ nhất (TL. 780), vị Quận thú Trương Nghiêm, nhân vì kính ngưỡng đạo hạnh cao quý sùng kính công nghiệp hoằng pháp của ngài, bèn tâu lên Đức Tông Hoàng Đế, ban sắc dụ chính thức kiến tạo Tự viện. Bấy giờ Đạo tràng của Ngài Địa Tạng mới thực sự hùng vĩ trang nghiêm. Lúc ấy, các vị tăng nước Tân La (Silla) nghe danh, có đến vài trăm người tìm đến thân cận tu học với Ngài. Dần dần, số người càng lúc càng đông, thực phẩm trở nên thiếu thốn. Một hôm, ngài ra phía ngoài chùa, cho đào rất nhiều đất trắng nhuyễn như bột, dự định bổ túc vào phần ăn. Mọi người trong chùa, cảm mến bởi đức hạnh của Ngài, đều cùng nhau lên tiếng: “Nguyện dùng pháphỷ thực và Thiền duyệt thực nuôi sống tuệ mạng, không dùng vật thực nuôi sống thân mạng”. Điều này chứng tỏ mọi người trong chùa không lấy thân mạng làm trọng. Thời đó, mọi giới trong Phật giáo đều tỏ lời khen ngợi, ca tụng họ là “Nam mô Các Vị Tăng Gầy Ốm phương Nam”. Một hôm vào mùa hạ, năm Trinh Nguyên thứ mười (TL. 795), Ngài triệu tập Tăng chúng vào Chánh điện để từ giã. Mọi người cảm thấy hoang mang không rõ lý do gì. Lúc ấy, các ngọn núi phát ra tiếng khóc gào thét thảm thiết của muôn thú, những tảng đá lớn ầm ầm rơi xuống vực sâu, khắp rừng cây cỏ đều ngẩn ngơ sầu, mây che phủ kín trời đất đều rung chuyển và mây che phủ kín, mùi hương tỏa khắp núi rừng. Ngài an tọa kiết già Thị tịch. Hưởng thọ 99 Xuân. Sau khi Viên tịch, nhục thân của ngài được đặt trong một động đá. Ba năm sau, Tăng chúng mở động ra, thấy nhục thân vẫn còn nguyên vẹn, tướng mạo giống hệt như lúc sanh tiền. Đại chúng đem nhục thân đến Bảo tháp trên ngọn Thần Quang Lãnh. Dọc đường, nghe văng vẳng như có tiếng tích trượng vàng khua động theo nhịp chân của mọi người. Kinh dạy: “Bồ tát bị nạn, hình hài vang động ”. Đây là một dữ kiện chân chánh, không chút hoài nghi, chứng minh sự ứng hóa của ngài Bồ Tát Địa Tạng. Hơn nữa, nếu như cung kính lễ bái nhục thân của ngài Kim Địa Tạng, thì sẽ được lợi ích giống như Kinh Địa Tạng đã nói. Từ đó đến nay trải qua hàng thiên niên kỷ, Phật tử và mọi người khắp nơi trên thế giới đều không ngại gian lao, đều phát tâm đến Thánh tích Cửu Hoa Sơn, Trung Quốc để cùng chiêm bái nhục thân của ngài Địa Tạng Bồ Tát. Đặc biệt, mỗi năm vào ngày vía của Ngài vào ba mươi tháng bảy AL, tại Thánh địa Cửu Hoa Sơn, trong vòng mấy mươi dặm, dầy đặc những Phật giáo đồ, nam nữ lão ấu, đến tham dự nhất bộ nhất chiêm (một bước một xá) hoặc nhất bộ nhất bái (một bước một lạy), đủ chứng tỏ Bồ tát đã kết duyên Bồ đề rộng rãi, sức Từ bi cảm hóa sâu dày ! Đến đầu thế kỷ thứ VIII, nhân gian truyền nhau rằng: Bồ tát Địa Tạng thị hiện thành Thái tử Triều Tiên tục danh Kim Kiều Giác (Kim Kyo-gak), xuất gia tu Phật, rồi vân du sang Trung Quốc, tại núi Cửu Hoa, hóa hiện thần lực nhiếp độ quần sanh. Và từ đó về sau, Cửu Hoa Sơn trở thành đạo tràng của Bồ tát Địa Tạng. Từ khi Bồ tát Địa Tạng ứng hiện tại Cửu Hoa Sơn, niềm tin về sự cứu độ của Ngài trong lòng Phật tử ngày càng sâu rộng. Khách từ phương xa hành hương đến, chiêm bái và cầu nguyện tại Cửu Hoa Sơn ngày càng đông. Rồi theo thời gian, vì nhu cầu tu tập của Tăng Ni cũng như Phật tử, hàng trăm Tự viện được xây dựng trên dãy núi kỳ vĩ này. Cửu Hoa Sơn hưng thịnh nhất vào đầu và giữa triều đại nhà Thanh và suy giảm từ cuối nhà Thanh trở về sau... Ngày nay, dù không còn hưng thịnh như xưa, nhưng Cửu Hoa Sơn vẫn là một trong Tứ đại Danh Sơn linh thiêng bậc nhất của Phật Giáo Trung Hoa, và là điểm thu hút du khách cả nước và du khách Quốc tế. Từ Trung Quốc, Phật giáo truyền đến Triều Tiên. Qua ngõ Triều Tiên, Phật giáo truyền vào Nhật Bản đầu thế kỷ thứ VI TL. Trước khi Phật giáo truyền đến Nhật Bản, người dân nơi đây phần lớn tin theo Thần đạo. Họ tôn thờ nhiều vị thần linh. Khi Phật giáo du nhập và phát triển, dân chúng Nhật Bản đã lưu truyền nhiều câu chuyện về Bồ tát Địa Tạng như là hiện thân của vị Bồ tát chăm lo và cứu giúp những người bất hạnh và khổ đau. Họ tin rằng, Ngài luôn bảo hộ những lữ khách đi đường, phụ nữ có thai, người lính cứu hỏa… đặc biệt trẻ em bất hạnh. Ngài luôn hiện thân để bảo vệ trẻ em bị ngược đãi, bạo hành trong gia đình và xã hội. Với những trẻ thơ bất hạnh yểu mạng, Ngài thường đến bên bờ sông Nại Hà, dòng sông mà tín ngưỡng dân gian Á Đông tin là linh hồn phải đi qua trước khi vào điện Diêm La nghe Diêm vương phán xét tội hình, an ủi và che chở các em. Nhiều người tin rằng, những trẻ em yểu mạng, vì thương nhớ cha mẹ và người thân, linh hồn các em thường ở lại bên bờ Nại Hà nhặt những viên đá cuội xây lâu đài và thành quách để tưởng đến người thân. Các em rất khổ sở vì nhớ cha, nhớ mẹ và nhớ anh chị, Bồ tát Địa Tạng thường đến bên các em vỗ về, an ủi và cùng các em nhặt đá xây thành, giúp các em tích tạo công đức, và đưa các em qua sông Nại Hà. Nhiều người khác lại tin rằng, các em có tội bất hiếu vì khiến cha mẹ và người thân đau buồn, nên các em bị hình phạt bên bờ Nại Hà, bị qủy dữ hiếp đáp, và Bồ-tát Địa Tạng thường hiện thân cứu giúp các em, đưa các em qua dòng sông Nại Hà. Vì tôn thờ Bồ tát Địa Tạng là vị Bồ tát bảo vệ trẻ em, nên phần lớn tranh tượng của Ngài thường biểu hiện giống và liên quan đến trẻ thơ. Có tranh tượng, khuôn mặt Ngài trông giống trẻ em, rất ngây thơ, hồn nhiên. Có tranh tượng, trên tay Ngài bồng một em bé, dưới chân lại có vài ba em bé khác đang níu kéo Tăng bào và thiền trượng của Ngài. Và tượng Ngài thường được tôn thờ bên những dòng sông, con suối. Hằng năm, người dân Nhật Bản thường tổ chức lễ tưởng nhớ công ơn của Ngài dành cho trẻ thơ vào ngày 24 tháng 7 AL. Ngày nay, tín ngưỡng Bồ-tát Địa Tạng đã trở thành tín ngưỡng chung của Phật giáo và dân gian. Và sau Lễ Vu Lan rằm tháng 7 AL thì các Chùa thường khai kinh Địa Tạng tụng cho đến ngày cúng vía Ngài vào cuối tháng 7 tức ngày 30. Việt Nam ta chưa có lưu hành và thọ trì Địa Tạng Sám pháp kinh, trong khi Hàn Quốc thì Kinh này rất thông dụng cho các chùa thường tổ chức cho quý Phật tử thọ trì Địa Tạng Sám pháp kinh. Mong rằng gương hạnh Đại Nguyện Vương Bồ tát mãi thắp sáng trong tâm thức của nhân thế trần gian và nhất là những người cầm cân nãy mực điều hành đất nước khắp nơi trên thế giới để cùng nhau một Đại nguyện góp phần khắc phục những xung đột chiến tranh, hậu quả thiên tai dịch họa, xứng với câu kinh Phật : "Tâm bình thế giới bình " nói chung và riêng thịnh trị thái bình của mỗi quốc độ. . .
-
Thiên Đồng cảm ơn cachua2008 nhé. Chúc cachua2008 vui khỏe, may mắn và bội thu tài lộc.
-
Thiên Đồng cảm ơn Sư Phụ. Chúc Sư Phụ an lạc và thịnh vượng. Thiên Đồng cũng cảm ơn các anh chị em: Anh Hatgao, anh thanhphuc, anh Bach Dang Giang, Thiên Bồng, tranlong07, phamhung, Lan Anh, longphibaccai, thangbacninh. Chúc mọi người vui khỏe, may mắn và bội thu tài lộc.
-
CHUẨN ĐỀ PHẬT MẪU Huyền Thanh dịch I _ DANH TỰ: Chuẩn Đề được dịch âm từ các tên Phạn là Cundì , Cunïtïi , Cunïdïhi , Kunïdïi , Cunõdhe , Cunde, Cumïdi , Cumïdhe , ‘Suddhe ( Trong các tên Phạn này thì 2 tên thường được dùng là Cunõdhe với ‘Suddhe ) và được phiên dịch theo các ý nghĩa là Khiết Tĩnh, Thanh Tịnh, Diệu Nghĩa, Minh Giác, Hộ Trì Phật Pháp. Đây là vị Bồ Tát hay hộ mệnh và tế độ các chúng sinh khiến cho ngộ giải Phật Quả . Theo Truyền Thuyết của Ấn Độ thì Cunïtïi hay Cunïdïhi là tên của một Apsara và có ý nghĩa là Nguồn suối nhỏ, cái giếng nhỏ, may mắn, tốt giỏi, người có tài ba lỗi lạc. Theo Truyền Thuyết khác thì Chuẩn Đề ( Kunïdïi ) là một tên gọi của Durga ( Hóa thân của Hắc Mẫu Thiên Kàli ) với bài Chú xưng tán là: OMÏ _ KÀLI KULI KUNÏDÏI _SVÀHÀ ( Quy mệnh Hắc Mẫu Thiên. Nguyện tuân theo sự tôn kính ‘Sakti mà thành tựu Pháp của Durga ). Theo Truyền Thống Hoa Văn thì Chuẩn Đề còn có các tên gọi khác là: Thất Câu Chi Phật Mẫu hay Thất Câu Đê Phật Mẫu ( Sapta_Kotïi Buddha màtrï ) , Chuẩn Đề Phật Mẫu ( Cunõdhe Màtrï ) , Thất Câu Đê Phật Mẫu Chuẩn Đề (Sapta_Kotïi Buddha Màtrï Cunõdhe ), Chuẩn Đề Bồ Tát ( Cunõdhe Bodhisatva ), Chuẩn Đề Quán Aâm hay Chuẩn Đề Quán Tự Tại ( Cunõdhe Avalokite’svara ) Hiện Đồ Thai Tạng Giới Man Đa La ghi nhận Chuẩn Đề là một trong 3 vị Phật Mẫu thuộc Biến Tri Viện với Tôn Tượng màu vàng lợt, mặc áo lụa mỏng như Thiên Y , đầu đội mão báu có ngọc lưu ly rũ treo, mặt có 3 mắt, ngồi trên tòa sen, toàn thân có 18 tay, mỗi tay có đeo vòng xuyến khảm Xà Cừ và mỗi tay đều cầm các loại khí cụ biểu thị cho các Tam Muội Gia ( Bản Thệ_ Samaya ). Trong Viện này thì Chuẩn Đề biểu thị cho sự thanh tĩnh vô nhiễm cấu là đặc tính của Liên Hoa Bộ ( Padma Kulàya ) nên Chuẩn Để được xem là Mẫu ( Màtrï ) của Liên Hoa Bộ trong Phật Bộ ( Buddha Kulàya ) nghĩa là từ Tôn này sinh ra các Tôn trong Liên Hoa Bộ. Trong Kim Cương Giới Man Đa La thì Chuẩn Đề được nhận biết dưới danh hiệu Kim Cương Hộ Bồ Tát ( Ràksïa Bodhisatva ) là một trong 4 vị Bồ Tát thân cận của Đức Phật Bất Không Thành Tựu ( Amoghasiddhi Buddha ) [ tức là Đức Phật Thích Ca ( ‘Sàkyamunïi Buddha ) ] ở phương Bắc. Tôn này được sinh từ Môn Giáp Trụ Đại Từ của tất cả Như Lai vì thế Chuẩn Đề được dịch ý là Hộ Trì Phật Pháp và là vị Bồ Tát thường đi lại trong Thế Gian để đập nát các Hoặc Nghiệp của tất cả chúng sinh, khiến cho kẻ đoản mệnh được thọ mệnh lâu dài, tăng tiến Phước Tuệ , đời đời xa lìa nẻo ác, mau chóng phát Tâm Bồ Đề ( Bodhicitta ) và viên mãn mọi ước nguyện. Ý nghĩa này thường được đại chúng nhận biết nhiều qua các công năng của Thần Chú Chuẩn Đề ghi trong các Kinh Quỹ. Dựa trên hai truyền thống này mà các Dòng Phái Mật Giáo đã có sự nhận định khác nhau về Bồ Tát Chuẩn Đề. _ Chuẩn đề thuộc Quán Aâm Bộ ( hay Liên Hoa Bộ ) Căn cứ và chủng tử BU ( ) nghĩa là “ Ngộ Giải chẳng thể đắc”: của Bồ Tát Chuẩn Đề trong Biến Tri Viện và Quán Tự Tại Bồ Tát ( Avalokite’svara Bodhisatva ) ở cánh hoa Đông Bắc trong Trung Đài Bát Diệp Viện cũng có chủng tử là BU , đồng thời cả 2 Tôn này đều biểu thị cho Tâm Tính thanh tịnh nên người đời hợp xưng thành danh hiệu Chuẩn Đề Quán Aâm và hồng danh này biểu thị cho Hạnh Nguyện của Tâm Bồ Đề với Đức Tự Chứng. Dựa trên ý nghĩa này nên Hệ Đông Mật của Nhật Bản đem Chuẩn Đề làm một Tôn trong 6 vị Quán Aâm và nhiếp vào trong 6 vị Quan Aâm của Liên Hoa Bộ. 6 vị Quán Aâm này chia vào 6 nẻo tác thân ứng hóa để tế độ các chúng sinh. Theo Ma Ha Chỉ Quán thì 6 vị Quán Aâm với hình sắs, danh hiệu như sau đều hiển tướng Từ Bi cứu độ chúng sinh trong 6 nẻo , gồm có : 1 ) Đại Từ Quán Aâm là Biến Thân của Chính Quán Aâm có chủng tử là JAHÏ ( ) cứu Địa Ngục Đạo , Thân màu xanh, tay trái cầm hoa sen xanh, tay phải Thí Vô Úy . Kết Đại Tam Cổ Ấn , dùng Bản Chú. 2 ) Đại Bi Quán Aâm là Biến Thân của Thiên Thủ Quán Aâm có chủng tử là HRÌHÏ ( ) Cứu Ngạ Quỷ Đạo. Thân màu vàng ròng , 6 mặt có tướng Từ Bi. Tay trái cầm hoa sen hồng, tay phải Thí Vô Úy. Kết Liên Hoa Hợp Chưởng, tụng Chú là: OMÏ _ VAJRA DHARMA _ HRÌHÏ 3 ) Sư Tử Vô Úy Quán Aâm là Biến Thân của Mã Đầu Quán Aâm có chủng tử là KHÌ ( ) hoặc HÙMÏ ( ) cứu Súc Sinh Đạo. Thân màu xanh, tay phải cầm hoa sen trên hoa có Phạn Khiếp , tay trái Thí Vô Úy. Kết Phạn Khiếp Ấn, tụng Chú là: OMÏ _ VAJRA KHÌ _ SVÀHÀ 4 ) Đại Quang Phổ Chiếu Quán Aâm là Biến Thân của Thập Nhất Diện Quán Aâm có chủng tử là KA ( ) cứu A Tu La Đạo. Thân màu thịt. Tay phải cầm hoa sen hồng trên hoa có bình hoa, miệng bình dứng báu Độc Cổ. Tay trái Thí Vô Úy. Kết Bất Động Ấn, tụng Chú là: OMÏ _ MAHÀ PRABHA _ SVÀHÀ 5 ) Thiên Nhân Trượng Phu Quán Aâm là Biến Thân của Chuẩn Đề Phật Mẫu có chủng tử là SU ( ) cứu Nhân Đạo. Hợp 2 ngón út, 2 ngón vô danh cài chéo nhau bên trong. Dựng 2 ngón giữa , đem 2 ngón trỏ phụ lưng ngón giữa, đem 2 ngón cái phụ bên cạnh 2 ngón trỏ. Tụng Chú là: OMÏ _ SURE SURE SUNÏE _ SVÀHÀ 6 ) Đại Phạm Tấn Tốc Quán Aâm là Biến Thân của Như Ý Luân Quán Aâm có chủng tử là HRÌHÏ ( ) cứu Thiên Đạo. Thân màu trắng. Tay trái cầm hoa sen, trên hoa dựng chày Tam Cổ. Tay phải Thí Vô Úy Kết Đại Tam Cổ Ấn, ngón trỏ như hình báu. Tụng Chú là: OMÏ _ HRÌHÏ MAHÀ PRA _ SVÀHÀ . ) Thắng Quân Bất Động Quỹ ghi :” Trùy Chung Ca Thái La Vương là thân sở biến của Chuẩn Đề Quán Aâm” . ) Quỹ ghi :” Tu Pháp Chuẩn Đề đều thấy tượng của Quán Tự Tại” . ) Tiểu Dã Sao ghi:” Thiên Nhân Trượng Phu là Chuẩn Đề Phật Mẫu cứu độ Nhân Gian” . ) Khuyến Tu Tự Sao ghi:’ Chuẩn Đề là Quán Aâm” . ) Thạch Sơn ghi:” Chuẩn Đề Quán Tự Tại Bồ Tát” . ) Thiền Tông cũng dùng Chuẩn Đề là một Tôn trong Quán Aâm Bộ Lại nữa Chuẩn Đề dịch là Thanh Tịnh tức Thanh Tĩnh Quán Aâm , Vì Bất Không Quyến Sách Quán Aâm cũng có tên là Thanh Tịnh và cũng là một Hóa Tôn cứu độ tất cả chúng sinh trong Nhân Đạo nên Chuẩn Đề chính là Bất Không Quyến Sách . Do nhận định Chuẩn Đề là một Tôn trong Quán Aâm Bộ nên các hệ phái này đều dùng Kết Giới Minh Vương là Mã Đầu hoặc Quân Trà Lợi. _Chuẩn Đề thuộc Phật Bộ Theo Hiện Đồ Thai Tạng Giới Man Đa La thì Chuẫn Đề là một Tôn trong Biến Tri Viện biểu thị cho đức Năng Sinh của chư Phật và từ Tôn này sinh ra các Tôn của Liên Hoa Bộ. Lại nữa Chuẩn Đề còn biểu thị cho Tâm Tính Thanh Tĩnh là khuôn mẫu để sinh ra các Phật Tử ( Buddhaputra ) nên Chuẩn Đề được tôn xưng là Phật Mẫu ( Buddha Màtrï ). Do Biến Tri Viện là một Viện trong Phật Bộ thuộc Thai Tạng Giới nên Chuẩn Đề phải là một Tôn trong Phật Bộ. Cao Huệ nói:” Chuẩn Đề là Hộ Bồ Tát, một trong 4 Bồ Tát thân cận của Đức Bất Không Thành Tựu Như Lai mà Bất không Thành Tựu Như Lai lại là Đức Phật Thích Ca. Do đó Chuẩn Đề là một Hóa Thân của Đức Phật Thích Ca” Khẩu nói:” Bất Động là Hóa Thân của Thích Ca Mâu Ni mà Thắng Quân Bất Động Quỹ ghi: Hiện Thân thứ năm trong 8 loại thân là thân sở biến của Chuẩn Đề. Do đó Chuẩn Đề là hóa thân của Đức Phật Thích Ca” Khẩu nói:” Tu Pháp Chuẩn Đề thì dùng Ô Sô Sa Ma ( Ucchusïma ) làm Kết Giới Minh Vương mà Ô Sô Sa Ma là thân sở biến của 2 Tôn Thích Ca và Bất Động. Do đó Chuẩn Đề là một hóa Thân của Thích Ca”. Quỹ ghi :” Dùng Ô Sô Sa Ma hay Vô Năng Thắng làm Kết Giới Kim Cương” vì Ô Sô Sa Ma và Vô Năng Thắng (Aparajita ) đều là thân sở hóa của Thích Ca nên Chuẩn Đề phải là Hóa Thân của Thích Ca Bạch Bảo Khẩu Sao ghi nhận:” Chuẩn Đề là hoá thân của Thích Ca biểu thị cho Đức Thuyết Pháp “ Hệ Thai Mật của Nhật Bản đem Chuẩn Đề nhập vào Phật Bộ, dùng làm một Tôn trong Phật Bộ. Do nhận định Chuẩn Đề là một Tôn trong Phật Bộ nên các Hệ Phái này thường dùng Ô Sô Sa Ma hay Vô Năng Thắng làm Kết Giới Minh Vương. II_ TRÚ XỨ: Chuẩn Đề Phật Mẫu cư ngụ tại Trời Sắc Cứu Cánh. III _ TÔN TƯỢNG: Tôn Tượng Chuẩn Đề có nhiều dạng: 4 tay, 6 tay, 14 tay, 18 tay… nhưng thông thường người ta hay thờ phụng Tượng 18 tay. Tượng Chuẩn Đề Quán Aâm của Trung Hoa : Tượng có 4 cánh tay, trên đỉnh đội Định Ấn là một vị Hóa Phật. Bên trái : Tay thứ nhất để trước eo, tay thứ hai cầm Bảo Châu ( Viên ngọc báu ). Bên phải: Tay thứ nhất cầm chày Độc Cổ, tay thứ hai nâng cao lên đem ngón cái và ngón vô danh cùng vịn nhau, Nhũ phòng ( hai vú ) sung mãn lộ xuất biểu thị cho tướng Phật Mẫu. Tượng Chuẩn Đề Quán Aâm của Tây Tạng: Tượng có 4 tay, ngồi Kiết Già trên hoa sen. Hai tay trái phải thứ nhất đặt ở trên rốn cầm Bình Bát. Tay phải thứ hai rũ xuống tác Thí Vô Uý Ấn, tay trái thứ hai co ở trước ngực cầm hoa sen trên hoa an trí một rương Kinh Phạn. Tôn Tượng Chuẩn Đề Phật Mẫu 18 tay được ghi nhận rất rõ trong Kinh Quỹ.Nay dựa vào Bạch Bảo Khẩu Sao ghi nhận lại sự minh họa ý nghĩa của Tôn Tượng này . Tượng có thân màu vàng trắng: Màu vàng ( A ) tượng trưng cho Thai Tạng Giới, màu trắng ( VAMÏ ) tượng trương cho Kim Cương Giới. Màu vàng trắng biểu thị cho nghĩa “ Lý Trí chẳng hai, Định Tuệ một Thể” và biểu thị cho Đức Năng Sinh của chư Phật. Mặt Tượng có 3 mắt: 3 mắt là Phật Nhãn, Pháp Nhãn, Tuệ Nhãn biểu thị cho nghĩa “ 3 Đế chẳng dọc chẳng ngang, nhất như bình đẳng” Thân Tượng có mọi loại trang nghiêm tỏa ánh hào quang tròn sáng rực lửa: Sắc Pháp biểu thị cho nghĩa của Thai Tạng Giới. Mọi loại biều thị cho các Pháp như cát bụi. Trang Nghiêm biểu thị cho nghĩa Bồ Tát dùng phiền não làm Bồ Đề.Ánh hào quang tròn sáng rực lửa biểu thị cho nghĩa Tâm Pháp của Kim Cương Giới, là Trí hay phá mọi ám chướng của Tâm hư vọng. Thân Tượng có 18 tay: Hai tay bên trên tác Tướng Thuyết Pháp: Tôn này vào Nhân Đạo hay làm vị Hóa Chủ phá 3 Chướng nên đặt biệt hiện ra 3 mắt Trí nói Pháp lợi sinh nên y theo giáo vì Pháp Cơ khiến cho chứng quả vị của 3 Thân Bên Phải: Tay thứ hai tác Thí Vô Úy: 5 ngón tay bên phải biểu thị cho 5 Trí là nghĩa của Quang Minh. Tôn này là Hóa Chủ của Nhân Đạo nên ở Thế Giới Sa Bà có hiệu là Thí Vô Úy ( Abhayamïdada ) . Do hiển nghĩa Đại Bi chân thật sạu rộng nên hiện tay này. Tay thứ ba cầm cây Kiếm: Cây Kiếm biểu thị cho Trí Tuệ giáng 4 Ma , trừ 3 Chướng, hại 3 Độc , dứt 5 Dục. Tay thứ tư cầm Sổ Châu ( Tràng Hạt ) : Tràng Hạt biểu thị cho Trí Tuệ mang nghĩa Chuyển Pháp Luân. Mẫu Châu là Bản Tôn A Di Đà. Manh mối của tràng hạt là Quán Aâm, đây là manh mối Đại Bi của Quán Aâm xâu suốt 108 phiền nảo. Mỗi lần chuyển dời một hạt ắt dứt bỏ một phiền não, nên đoạn 108 phiền não chứng 108 Tam Muội, mỗi mỗi đều đủ cho Pháp, như Đức Thần Lực chẳng thể nghĩ bàn,mỗi mỗi đều đủ vô lượng Bản Thệ Tam Muội của thân khẩu ý. Tay thứ năm cầm quả Vĩ Nhạ Bố La Ca ( Bìjapùraka): Bìja là hạt, Pùraka là tràn đầy nên Bìjapùraka được dịch là Tử Mãn Quả, quả này chí có ở Thiên Trúc.Quả này biểu thị cho hạt giống mãn vạn hạnh vạn thiện, hiển nghĩa công đức viên mãn của Phật Quả. Tay thứ sáu cầm cây búa (Phủ Việt ): Cây búa phá tất cả, không có gì không tồi phá được là tồi phá nạn Vô Minh, cắt đứt Hoặc Chướng biểu thị không dư sót. Tay thứ bảy cầm móc câu: Móc câu ( Anõku’sa ) có nghĩa là vua, 4 biển đều triều tôn nhà vua nên vạn đức đều quy vào Tôn này, nghĩa là vua của các Tôn nên gọi là Phật Mẫu. Sở Thuyên Câu Triệu tất cả chúng sinh khác vào cung Pháp Giới Nội Chứng vốn có là có triệu vào Như Lai Tịch Tĩnh Trí Đức. Do vậy hiện tay cầm móc câu. Tay thứ tám cầm Bạt Chiết La ( Vajra ) : Đường gọi Độc Cổ Xử là chày Kim Cương, Tam Cổ Xử là Bạt Chiết La ( Vajra ). Tam Cổ Xử hay tồi diệt 3 Độc hiển chư Tôn của 3 Bộ nên là Phật Mẫu của 3 Bộ. Tay thứ chín cầm vòng hoa báu ( Bảo Man) : Hoa Man xâu suốt hoa lá biểu thị cho nghĩa Vạn Đức Trang Nghiêm, là công đức của Bình Đẳng Tính Trí. Bên trái: Tay thứ hai cầm cây phướng báu Như Ý: Phướng báu Như Ý là phướng báu của Tâm Bồ Đề ( Bodhicitta ) có địa vị cao tột. Đối với chúng sinh không có Phước Tuệ , bần cùng thì ban cho Nguyện Thế Xuất Thế. Viên ngọc báu ( Bảo châu ) là gốc rễ của mọi thiện, đáy nguồn của vạn hạnh. Tay thứ ba cầm hoa sen hồng: Hoa sen hồng tên Phạn là Padma. Hoa sen là tự tính thanh tĩnh biểu thị cho nghĩa Tự Tính Thanh tĩnh của tất cả các Pháp. Là Pháp tĩnh 3 Độc , 5 Dục, tất cả tội của Nhân Gian. Màu hồng biểu thị cho màu sắc khả ái ( đáng yêu ) Tôn này vào Nhân Đạo làm vị Hóa Chủ nên đặc biệt dùng hoa sen hồng biểu thị cho Đức này Tay thứ tư cầm bình Táo Quán: Cái Bình mang nghĩa chứa đầy tất cả vật. Phật Mẫu Tôn sinh ra các Tôn trong 3 Bộ là Đức chứa đầy. Do vậy hiện thị tay cầm bình Táo Quán. Tay thứ năm cầm sợi dây: Sợi dây biểu thị cho nghĩa giáng phục Ác Ma. Các Tôn Phẫn Nộ ( Krodha Nàtha ) hay cầm sợi dây. Tôn này trói buộc kẻ khó phục khiến cho khuynh động dẫn vào cung Pháp Giới vốn có. Trong 4 Nhiếp Phương Tiện thì đây là phương tiện Đại Bi cực vị vậy. Tay thứ sáu cầm bánh xe: Bánh Xe ( Luân_ Cakra ) nghĩa là chuyển hoặc tồi phá, biểu thị cho sự lưu chuyển sinh tử trong 25 Hữu. Khi luân chuyển đã diệt thì bánh xe dừng lại vậy. Tay thứ bảy cầm loa : Loa là vỏ ốc ( ‘Sanõkha ) mang nghĩa nói tịch tĩnh như Pháp. Lại biểu thị cho tiếng rống của sư tử, khi sư tử rống thì muôn thú trong sơn dã đều bị giáng phục. Nay dùng tiếng vang lớn của loa khiến giáng phục loại phiền não hoặc chướng của chúng sinh. Tay thứ tám cầm Hiền Bình: Hiền Bình là Tam Muội Gia ( Samaya ) biểu thị sự chứa đầy 4 Trí Cam Lộ ban cho chúng sinh đều khiến mở Hoa Giác vốn có. Tay thứ chín cầm rương Kinh Bát Nhã : Rương Kinh Bát Nhã biểu thị cho Thể của Trí Tuệ. 10 phương 3 đời Phật Bồ Tát đều y theo Bát Nhã này thành Chính Giác. Do Tôn này là Phật Mẫu của chư Phật nên cầm rương Kinh Bát Nhã. Để giúp cho Đồ Chúng dễ ghi nhớ Tôn Tượng 18 tay của Chuẩn Đề Phật Mẫu, các vị Đạo Sư Trung Hoa đã biên soạn bài tán Chuẩn Đề Phật Mẫu là: Khuôn mặt Bồ Tát như trăng đầy Sắc tướng trắng vàng rất đoan nghiêm Nay con đỉnh lễ , thệ quy y Nguyện thấy Tôn nhan thường cúng dường NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT Trên mặt Bồ Tát có ba mắt Như bốn biển lớn thật lặng trong Nay con đỉnh lễ, thệ quy y Nguyện được năm loại mắt thanh tịnh NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT Tai Bồ Tát đeo báu trang sức Mọi thứ thù thắng rất trang nghiêm Nay con đỉnh lễ, thệ quy y Nguyện được Nhĩ Thông , nghe Diệu Pháp NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT Lồng ngực Bồ Tát hiện chữ Vạn Như trăng tròn diệu hiển quang minh Nay con đỉnh lễ , thệ quy y Nguyện được Tâm Thông, nghe liễu ngộ NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT Bồ Tát đội mão hoa trên đỉnh Trong mão hóa hiện năm Như Lai Nay con đỉnh lễ, thệ quy y Nguyện được Từ Tôn ban quán đỉnh NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT Bồ Tát khoác áo màu trắng tinh Sáu Thù đeo thể thật trang nghiêm Nay con đỉnh lễ, thệ quy y Nguyện được quần áo khéo giải thoát NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT Thân Bồ Tát đeo Châu Anh Lạc Tay, ngón đeo vòng báu trang nghiêm Nay con đỉnh lễ, thệ quy y Nguyện đủ băm hai ( 32 ) tướng Như Lai NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT Bồ Tát ngồi thẳng trên hoa sen Lớn cao chẳng động tựa núi vàng Nay con đỉnh lễ, thệ quy y Nguyện sau sẽ ngồi tòa Bồ Đề NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT Mọi chi phần trên thân Bồ Tát Thường phóng vô lượng ánh sáng lớn Nay con đỉnh lễ, thệ quy y Nguyện được Từ Quang đến hộ niệm NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT Tay Bồ Tát kết Ấn Thuyết Pháp Biểu thị khéo nói tất cả Pháp Nay con đỉnh lễ , thệ quy y Nguyện được các Pháp đều thông đạt NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT Tay Bồ Tát cầm Phướng báu diệu Biểu thị Thế Gian là Tối Thắng Nay con đỉnh lễ , thệ quy y Nguyện con hay dựng Phướng Đại Pháp NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT Bồ Tát kết Ấn Thí Vô Úy Dìu dắt chúng sinh bị hiểm nạn Nay con đỉnh lễ, thệ quy y Nguyện con mau lìa sự đáng sợ NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT Tay Bồ Tát cầm hoa sen diệu Biểu thị sáu căn thường thanh tịnh Nay con đỉnh lễ, thệ quy y Nguyện con lìa dơ ( ly cấu ) như hoa sen NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT Tay Bồ Tát cầm kiếm Trí Tuệ Hay chặt trói buộc của phiền não Nay con đỉnh lễ, thệ quy y Nguyện con chặt đứt Tham, Sân, Si NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT Tay bồ Tát cầm bình Táo Quán ( rưới vảy ) Tuôn nước Cam Lộ thấm chúng sinh Nay con đỉnh lễ, thệ quy y Nguyện con thường được Phật quán đỉnh NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT Bồ Tát cầm tràng hoa màu nhiệm Mọi thứ trang điểm thật thù thắng Nay con đỉnh lễ , thệ quy y Nguyện con được buộc lụa Diệu Pháp NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT Bồ Tát cầm sợi dây Kim Cương Khéo hay dẫn nhập vào tất cả Nay con đỉnh lễ, thệ quy y Nguyện con được vào Pháp tương ứng NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT Tay Bồ Tát cầm quả Thiên Diệu Biểu thị viên thành quả Bồ Đề Nay con đỉnh lễ, thệ quy y Nguyện con rộng tu các quả lành NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT Bồ Tát cầm bánh xe tám căm Uy quang chiếu diệu khắm Tam Giới ( 3 cõi ) Nay con đỉnh lễ, thệ quy y Nguyện con thường chuyển Đại Pháp Luân NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT Tay Bồ Tát cầm cây búa lớn Hay phá Pháp Bất Thiện bền chắc Nay con đỉnh lễ, thệ quy y Nguyện con đập nát núi Nhân Ngã ( Người và Ta ) NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT Tay Bồ Tát cầm Loa Đại Pháp Âm thanh chấn động ba ngàn cõi Nay con đỉnh lễ, thệ quy y Nguyện con hay nói tất cả Pháp NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT Bồ Tát cầm móc câu Kim Cương Khéo hay câu triệu khắp tất cả Nay con đỉnh lễ, thệ quy y Nguyện con thành tựu Pháp Câu Triệu NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT Tay Bồ Tát cầm Bình Như Ý Tuôn ra Tạng báu với Kinh Điển Nay con đỉnh lễ, thệ quy y Nguyện con thọ dụng thường như ý NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT Tay Bồ Tát cầm chày Kim Cương Tám Bộ Trời Rồng đều quy ngưỡng Nay con đỉnh lễ, thệ quy y Nguyện con điều phục kẻ khó phục NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT Tay Bồ Tát cầm Kinh Bát Nhã Hàm chứa nghĩa vi diệu thâm sâu Nay con đỉnh lễ, thệ quy y Nguyện con không Thầy tự nhiên ngộ NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT Bồ Tát cầm viên ngọc Ma Ni Hào quang tròn trắng không tỳ vết Nay con đỉnh lễ , thệ quy y Nguyện Tâm Địa con luôn lanh lợi NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT Phật Mẫu Chuẩn Đề Đại Bồ Tát Hiện mười tám tay ngồi trên Đàn Tám Đại Bồ Tát hộ tám phương Đệ Tử một lòng quy mệnh lễ NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT IV- CHÂN NGÔN: Theo truyền thống Hoa Văn thì Chuẩn Đề có Mật hiệu là Tối Thắng Kim Cương ( Vijaya Vajra ) hay Kim Cương Mẫu ( Vajra Màtrï ) Chủng tử là : BU ( ) hay SA ( ) hay CA ( ) Tam Muội Gia hình là : Hiền Bình, Hoa sen, Giáp trụ, chày Tam Cổ, chày Ngũ Cổ. Phạn Hiệu là ÀRYA BUDDHÀ BHAGAVATI ( Thánh Phật Thế Tôn ) hay ÀRYA BUDDHÀ BHAGAVATI BODHISATVA ( Thánh Phật Thế Tôn Bồ Tát ) Tam Mật Phòng ghi là: NAMO ÀRYA ‘SUDDHA BODHISATVA MAHÀ SATVA ( Kính lễ Thánh Thanh Tịnh Bồ Tát Ma Ha Tát ) Tâm Chú của Chuẩn Đề được ghi nhận qua nhiều bản khác nhau: _ Hiển Mật Viên Thông ghi là: OMÏ _ CALE CULE CUMÏDE _ SVÀHÀ _ Thắng Định Phòng ghi là: OMÏ _ ‘SALE ‘SULE ‘SUDDHE _ SVÀHÀ _ Thất Câu Chi Viện ghi là: OMÏ_ ‘SALE ‘SUDDHE _ SVÀHÀ _ Pháp Tự Luân Quán ghi là; OMÏ _ CARE SURE ‘SUDE _ SVÀHÀ _ Bạch Bảo Khẩu Sao ghi là: OMÏ_ ‘SALE ‘SULE ‘SUNTE _ SVÀHÀ _ Tự Luân Quán ghi là: OMÏ _ CALE SULE ‘SUDDHA _ SVÀHÀ _ Đồ Tượng 10 ghi nhận là: OMÏ _ ‘SALE ‘SULE CUMÏDE _ SVÀHÀ Hay OMÏ_ CALE SURE ‘SUNDHE _ SVÀHÀ _ Bản thường dùng ghi là; OMÏ _ CALE CULE CUNÕDHE _ SVÀHÀ _ Bản khác ghi là: OMÏ_ ‘SARI ‘SÙRI ‘SUDDHE _ SVÀHÀ Nay theo sự khảo cứu của chúng tôi thì chỉ có 3 bài Chú biểu thị rõ nghĩa của Phạn Văn là: 1 ) OMÏ : Cảnh Giác ‘SARI : Thú tính hoang dã, người hung bạo, loài thú hoang ‘SÙRI : Biến đổi trở thành anh hùng ‘SUDDHE : Thanh tịnh SVÀHÀ : Quyết định thành tựu. 2 ) OMÏ : Nhiếp triệu ‘SALE : Cây thương , cây giáo ‘SÙLE: Tay cầm cây thương, quyền lực với cây thương ‘SUDDHE : Thanh tịnh SVÀHÀ : Quyết định thành tựu 3 ) OMÏ : 3 Thân quy mệnh CALE : lay động. Nghĩa bóng là Giác động tức là chuyển động sự Giác Ngộ. CULE : Nghi thức cạo tóc Quy Y, đỉnh cao của căn nhà, trung tâm của sao chổi. Nghĩa bóng là Trực khởi tức là đi thẳng đến CUNÕDHE ( hay CUNÏDÏHI ) là nguồn suối nhỏ, cái giếng nhỏ, nguồn hạnh phúc.Nghĩa bóng là Tự Tính thanh tĩnh của Tâm Bồ Đề. SVÀHÀ : Quyết định thành tựu, hay thành tựu tự tính an lạc của Đại Niết Bàn. Nếu dựa theo nghĩa đen thì bài Chú trên hàm chứa nhiều ý nghĩa thô tục nên một số Học Giả đã loại bỏ câu Chú này và thay bằng câu Chú thứ hai bên trên (Nhật Bản thường dùng câu Chú thứ hai ) . Tuy nhiên dựa theo thói quen tu tập và nghĩa bóng thì người ta thường dùng câu Chú thứ ba này với ý nghĩa là: “ Khi thân khẩu ý hợp nhất với sự giác ngộ Phật Tính sẽ đi thẳng vào Tự Tính Thanh Tĩnh của Tâm Bồ Đề và thọ nhận mùi vị an lạc tịch tĩnh của Đại Niết Bàn” CÔNG NĂNG CỦA THẦN CHÚ CHUẨN ĐỀ: Công Năng của Thần Chú Chuẩn Đề được ghi nhận rất nhiều trong các Kinh Quỹ. Nay chúng tôi chỉ ghi nhận thêm một số công năng mà Kinh Quỹ ghi thiếu như sau: _ Trừ Khẩu Thiệt: Đoạn 5 Tân, đủ Trai Giới, trong 14 ngày vào Đạo Trường này liền tăng lộc ép buộc oan gia tai hoạnh vì khẩu thiệt. Mỗi đêm 3 thời hướng về Bản Tôn tụng Chân Ngôn 108 biến, cứ một biến thì xưng tên gọi của kẻ ấy một lần liền giải oán kết, thân như cha mẹ. Trừ Khẩu Thiệt Lợi Quan Trị Tất Trúng Chú là: “ Phu phu, túc bà túc bà, a kính bà a kính bà, cứu tra cứu tra, sa ha” BHUHÏ BHUHÏ_ ‘SUBHA ‘SUBHA _ AKAMÏPA AKAMÏPA _ KUTÏA KUTÏA _ SVÀHÀ _ Cầu Thông Minh: Nếu muốn cầu thông minh. Lấy Thạch Xương Bồ, Ngưu Hoàng mỗi thứ nửa lạng, đảo quết làm bụi nhỏ rồi hòa với bơ. Ở trước Phật làm Man Trà La, niệm tụng 5000 biến rồi uống vào liền được thông minh. Thông Minh Chú là: “ Mỵ đế mỵ đế, ưu đế ưu đế, ưu đà đế , sa ha” MITI MITI_ UTTI UTTI _ UDÀTTI _ SVÀHÀ _ Thấy cha mẹ đã chết và diên mệnh: Nếu muốn thấy cha mẹ đã quá vãng với nam nữ đã quá vãng kèm biết nơi thọ sinh. Trong 14 ngày y theo Pháp niệm tụng đều được thấy biết. Lại Quỹ ghi rằng: Cha mẹ gặp Pháp này, được vào Quán Đỉnh hay khiến cho con cháu đều cùng được phước. Nếu nam nữ được vào Quán Đỉnh hay khiến cho cha mẹ sống lâu tăng phước, vĩnh viễn không có tai nạn, mong cầu vừ ý. _ Cầu mưa: Nếu có đại hạn. Vào giữa đêm đốt An Tất Hương , kết Ấn rồi Sắc cho Rồng ở 5 phương mau khiến tuôn mưa. Nếu 21 ngày mà chưa tuôn mưa, liền lấy Trầm Thủy Hương khắc 5 vị Rồng dài 9 thốn, tùy phương vẽ 5 màu đều an trên Đàn. 7 ngày y theo Pháp niệm tụng liền được tuôn mưa. Nếu muốn tạnh mưa liền ngửa mặt hướng lên Trời tụng Đà La Ni 81 biến tức tạnh mưa. _ Hiện Thanh Y Đồng Tử phụng sự: Mỗi ngày đêm 6 thời tụng Đà La Ni này 1080 biến. Trải qua 49 ngày như Niệm Tụng này tức Thanh Y Đồng Tử sẽ hiện thân phụng sự người niệm tụng. Hai Đồng Tử ấy đều tự có Sứ Giả ( 7 người ) . Đồng Tử bên trái biết việc sinh sống, thiện ác, cát hung của Nhân Gian. Vị Đồng Tử bên phải biết việc thiện ác trong Minh Đạo ( Cõi Aâm ) . Muốn biết việc Quan Lộc, tuổi thọ, cát hung của người liền Sắc cho Đồng Tử bên phải khiến nơi Minh Đạo sao chép Tính ( Họ Tên ) sắc cho Tư Mệnh với Diêm La mau chóng báo . Mỗi lần Sắc thời kết Ấn tụng Đà La Ni 7 biến liền ở trong cõi Aâm biết đủ thiện ác. Vị Đồng Tử bên phải ấy tự hiện thân có thể hỏi gốc rễ. Thầy nói: Nếu có thể 49 ngày như 6 thời này niệm niệm xong. Sau đó tụng thêm 108 biến, cũng chẳng khác biến số. Hai vị Đồng Tử ấy hỏi lấy Danh Tự, cần sai khiến liền sai khiến. V_ ẤN KHẾ : Ấn Khế của Chuẩn Đề có rất nhiều. Nay chi ghi nhận 2 Ấn với ý nghĩa cơ bản của Ấn Khế. Đệ Nhất Căn Bản Ấn: Hai Luân Địa , hai Luân Thủy cài nhau đặt trong lòng bàn tay. Hai Luân Hỏa dựng đứng thẳng cùng vịn nhau. Hơi co hai Luân Phong vịn trên lóng thứ nhất trên lưng hai Luân Hỏa. Hai luân Không đặt bên cạnh hai Luân Phong Ấn này gọi là Tam Cổ Ấn, Tam Năng Sinh Phật Mẫu Ấn tức là Phật Đỉnh Ấn biểu thị cho nghĩa của Phật Mẫu.Trong đó: Hai Luân Địa ( 2 ngón út ) cài bên trong biểu thị cho Thành Sở Tác Trí, làm nghiệp Đức bên trong là Phật Đỉnh Ấn nên tác nghiệp chẳng lộ ra ngoài. Hai Luân Thủy ( 2 ngón vô danh) cài bên trong biểu thị cho Diệu Quan Sát Trí là Đức Thuyết Pháp Đoạn Nghi nên thường ở bên trong Hai Luân Hỏa ( 2 ngón giữa ) là Pháp Thể của Pháp Nhĩ căn bản Hai Luân Phong ( 2 ngón trỏ ) là Giới Tuệ của Tu Sinh Thủy Giác, thường hay khai mở nghĩa Tâm Bồ Đề của chúng sinh Hai Luân Không ( 2 ngón cái ) là nghĩa Nhất Đức Thành Tựu của Pháp Giới Thể Tính Trí Kết Ấn này , tụng Chân Ngôn: NAMO SAPTÀNÀMÏ SAMYAKSAMÏBUDDHA KOTÏINÀMÏ OMÏ_ CALE CULE CUNÕDHE _ SVÀHÀ Đệ Nhị Căn Bản Ấn: Hai tay hướng ra ngoài cài chéo nhau, kèm dựng 2 ngón trỏ, 2 ngón cái liền thành Ấn này thường dùng để Hộ Thân. Khi kết Ấn Hộ Thân thì khởi Tâm Đại Bi duyên khắp 4 loài sinh trong 6 nẻo. Nguyện cho tất cả Hữu Tình đều mặc áo giáp Kim Cương bền chắc trang nghiêm Đại Thệ mau chứng Vô Thượng Chính Đẳng Bồ Đề. Kết Ấn này, tụng Chân Ngôn là: OMÏ _ KAMALE VIMALE CUNÕDHE _ SVÀHÀ Ý nghĩa của tay Ấn này là: 6 ngón ( 2 ngón út, 2 ngón vô danh, 2 ngón giữa ) cùng cột buộc nhau biểu thị cho sự ràng buộc sinh tử trong 6 nẻo 2 ngón trỏ chỉ cho Thể ngưng nghỉ của Mệnh mà chúng sinh cột buộc trong Tả Đạo đã trở thành mệnh ngắn ngủi vô thường. Do Phật Giới thuận Hữu Đạo nên Tuệ Mệnh thường trụ bất biến. Như vậy 2 ngón trỏ hợp nhau biểu thị cho sự hòa dung của Phật Giới và Sinh Giới khiến cho chúng sinh đoản mệnh được hòa hợp với Tuệ Mệnh thường trụ của Phật Giới. 2 ngón cái hợp dựng biểu thị cho sự Quy Pháp Giới Đại Không. Riêng Ấn này tập Giáp Trụ Ấn. Do Tôn này là sở biến của Bắc Phương Hộ Bồ Tát , mặc giáp trụ Kim Cương bền chắc hộ Phật, hộ mệnh cho chúng sinh. Bên trong tồi phá phiền não của nẻo ác, bên ngoài giáng phục 3 chướng nạn của Ma. Duyên khắp 4 loài trong 6 nẻo thành tựu diên mệnh cho Hữu Tình. Nếu cầu Diên Mệnh Tất Địa thời quán nghĩa lý này. VI_Ý NGHĨA PHÁP VẼ TƯỢNG CHUẨN ĐỀ PHẬT MẪU: Thất Câu Đê Phật Mẫu Sở Thuyết Chuẩn Đề Đà La Ni Kinh ( Do Tam Tạng BẤT KHÔNG dịch ) có ghi: “ Tượng Chuẩn Đề Phật Mẫu với thân màu trắng vàng, ngồi Kiết Già trên hoa sen, thân tỏa hào quang tròn có dính hạt thóc nhẹ như áo của 10 Ba La Mật Bồ Tát, phía trên bên dưới đều tác màu trắng. Lại góc áo khoác ngoài ( Thiên Y ) có quấn anh Lạc, đội Mão Trời, cánh tay đều đeo vòng xuyến. Đàn Tuệ ( 2 bàn tay ) đều đeo vòng báu. Mặt Tượng ấy có 3 mắt, 18 cánh tay. Hai tay bên trên tác tướng Thuyết Pháp Bên phải: Tay thứ hai tác Thí Vô Úy, tay thứ ba cầm cây Kiếm, tay thứ tư cầm vòng hoa báu, lòng bàn tay thứ năm cầm Cụ Duyên Quả, tay thứ sáu cầm cây Búa, tay thứ bảy cầm Móc Câu, tay thứ tám cầm chày Kim Cương, tay thứ chín cầm Tràng Hạt. Bên trái: Tay thứ hai cầm cây Phướng báu Như Ý, tay thứ ba cầm Hoa Sen hồng hé nở, tay thứ tư cầm Quân Trì, tay thứ năm cầm Sợi Dây, tay thứ sáu cầm Bánh Xe, tay thứ bảy cầm Thương Khư (‘Sanõkha_Vỏ ốc ) , tay thứ tám cầm Hiền Bình, tay thứ chín cầm rương Kinh Bát Nhã. Bên dưới hoa sen vẽ ao nước. Trong ao có Long Vương Nan Đà ( Nanda Nàga ràja ) , Long Vương Ổ Ba Nan Đà ( Upananda Nàga ràja ) nâng tòa hoa sen. Bên trái vẽ người Trì Minh , tay cầm lò hương chiêm ngưỡng Thánh Giả. Chuẩn Đề Phật Mẫu thương xót người Trì Minh, hướng mắt nhìn xuống. Bên trên vẽ 2 vị Tĩnh Cư Thiên Tử, một vị tên là Cụ Sách Đà Thiên Tử, tay cầm vòng hoa hướng xuống dưới, nương theo trên hư không đến cúng dướng Thánh Giả”. Ý nghĩa của Tranh Tượng này là: _ Thân màu trắng vàng: Biểu thị cho nghĩa Lý Trí chẳng hai, Định Tuệ một Thể hàm chứa Đức Năng Sinh của chư Phật. _ Ngồi Kiết Già: Biểu thị cho tính Nhất Như của sinh tử và Niết Bàn _ Hoa sen : Biểu thị cho Tâm Đại Bi _ Thân tỏa hào quang: Biểu thị cho Trí phá ám chướng của Tâm hư vọng. _ Phía trên bên dưới toàn là màu trắng: Biểu thị cho sự hiển bày Pháp Đại Bi trắng tịnh để hóa độ chúng sinh _ Mọi thứ trang sức trên thân: Biểu thị cho hiện tượng Bồ Tát đi vào dòng sinh tử dùng phiền não để hiển thị Bồ Đề. _ Mặt có 3 mắt : Hiện Phật Nhãn, Pháp Nhãn, Tuệ Nhãn biểu thị cho nghĩa Ba Đế chẳng dọc chẳng ngang, nhất như bình đẳng. _ Thân có 18 tay: Hai tay thứ nhất : tác tướng thuyết Pháp biểu thị cho sự hiển bày Phật Pháp hóa độ chúng sinh . Còn lại tám tay bên trái biểu thị cho Mê Giới và tám tay bên phải biểu thị cho Phật Giới . Hai tay thứ hai : Tay trái cầm Phướng báu tượng trưng cho Tâm Bồ Đề vốn có nơi mọi chúng sinh mà chẳng tự biết . Nay dùng tay Thí Vô Úy bên phải gia trì khiến cho hiển đắc Tâm Bồ Đề đó . Hai tay thứ ba : Tay trái cầm hoa sen tượng trưng cho Bản Thể vô cấu nhiễm vốn có của mọi chúng sinh, nhưng do dựa vào phiền não ngăn trệ mà dư Tập khí chưa hết nên chẳng hiển lộ được vạn đức . Nay dùng cây kiếm sắc bén bên phải tượng trưng cho Đẳng Giác của Phật giới, một lần chuyển kiếm chém đứt dư Tập khí ấy khiến cho hoa sen thanh tịnh nở bày những cánh hoa vạn đức vạn thiện . Hai tay thứ tư : Tay trái cầm bình Quân trì chứa nước Táo quán ( Nước rưới vảy ) tượng trưng cho Trí Tuệ vốn có của chúng sinh . Nhưng do không có Phước, không có trí như đất khô cằn chẳng có nước thấm ướt nên mầm giống Bồ Đề chẳng thể sinh trưởng được, đây tức là dựa vào phiền não mà chẳng thể phát sinh Trí Tuệ . Nay dùng tay phải cầm Tràng hạt gia trì khiến cắt đứt 108 phiền não để cho hiển đắc được nước Trí Tuệ của Như Lai rưới thấm ướt đất tâm khô cằn . Nước ấy là Đức của Trí Thủy chứa trong bình Quân Trì vậy . Hai tay thứ năm : Tay trái cầm sợi dây tượng trưng cho sự ràng buộc cột trói chúng sinh trong nhà sinh tử, sự ràng buộc này thiên về Thức thứ tám (Alàya vijnõàna). Tay phải cầm Cụ Duyên Quả ( Bìja pùraka_ Tử Mãn Quả ) tượng trưng cho thức thứ tám là thức của tâm . Nhiều hạt giống của Pháp ở ngoài Tâm được thu nạp vào mà chẳng bị hư hoại hao tổn, lại tùy ý khiến sinh ra sự xoay chuyển làm cho Thức thứ tám lưu chuyển, chứng đắc được cảnh giới Đại Viên . Khi ấy tất cả năm ấm thuộc chủng tử trong Thức thứ tám đều bị thiêu hủy hết nên A lại gia hiển bày Tâm Tĩnh Bồ Đề vô cấu nhiễm giống như đẳng hư không . Như vậy, dùng Cụ Duyên Quả gia trì chuyển Thức thành Trí thì dây nghiệp bị thiêu cháy hết mà ngưng nghỉ sự luân chuyển của sinh tử bản hữu . Hai tay thứ sáu : tay trái cầm Bánh xe tượng trưng cho sự luân chuyển trong ba cõi sáu đường của các chúng sinh . Tay phải cầm cây búa là lợi khí đập nát . Nay dùng búa lớn đập nát bánh xe luân chuyển khiến nó trở thành Đức Luân Viên Cụ Túc của Như Lai . Hai tay thứ bảy : Tay trái cầm Thương Khư ( ‘Sanõkha ) là vỏ ốc trong biển tượng trưng cho chúng sinh đang trầm luân trong biển khổ sinh tử . Nay tay phải cầm Đại Bi Câu ( Móc câu Đại Bi ) tiếp dẫn khiến cho đến được bờ bên kia là Niết Bàn an lạc . Hai tay thứ tám : tay trái cầm Hiền Bình tượng trưng cho sự hòa hợp của Sắc ( Rùpa ) Tâm ( Citta ) là nẻo sinh tử, nước trong bình tượng trưng cho sự nắm giữ tội của ba nghiệp mà lưu chuyển không cùng . Nay tay phải dùng Bạt Chiết La Tam Cổ Xử ( Chày Tam Cổ Kim Cương ) phá nát ba nghiệp ấy mà chặn đứng dòng sinh tử . Hai tay thứ chín : Tay trái cầm Bát Nhã Phạm Khiếp là Trí Thức sở nạp trong Tâm, do chẳng tự biết nên phải bị trầm luân trong biển khổ . Nay tay phải dùng Bảo Man ( Vòng hoa báu ) gia trì khiến khai phát Bản Trí ấy . Bảo Man là Tâm Tính Nghiêm vậy Do các nghĩa này mà Chuẩn Đề ( Cunõdhe ) còn được dịch ý là MINH hoặc Diệu Giác . Đây là thành quả của Tuệ Ba La Mật và là điều kiện căn bản để phát sinh Chư Phật vậy . _ Trong ao nước có 2 vị Long Vương Nan Đà, Ô Ba Nan Đà cùng nâng đỡ tòa sen: Tòa sen tượng trưng cho núi Tu Di ( Sumeru ) 2 anh em Long Vương Nanda và Upananda là 2 Long Vương quấn quanh chân núi ấy. Khi Đức Thích Ca đản sinh thời Long Vương dùng nước nóng tắm gội nên 2 vị Rồng này biểu thị cho Đẳng Giác Vị hay Vô Cấu Vị . Dùng nước Vô Cấu tắm gội khiến thành Diệu Giác, mãn Quả Diệu Giác này thì Thích Ca và Chuẩn Đề đồng Thể. Sau khi mãn Quả dùng Đẳng Giác Vô Cấu nên hai vị Rồng làm Tòa biểu thị cho nghĩa này. Hai vị Rồng nâng đỡ cọng sen: Bồ Tát Đạo theo thứ tự tu hành Địa Ba La Mật từ Địa thứ nhất cho đến Địa thứ mười một. Nên biết Địa sau dùng Địa trước làm thềm bậc nên nói Như Lai dùng Thân Bồ Tát làm Tòa Sư Tử. Nay 2 rồng nâng đỡ cọng sen được biểu thị cho nghĩa này Hoa sen sinh từ nước: Nước biểu thị cho nước Định ( Định Thủy ) mang ý nghĩa Dưỡng Nuôi Thủ Hộ . Do đó hoa sen sinh từ nước được hiểu là Dùng nước Định nuôi dưỡng tự tính thanh tịnh bất nhị . _Bên trên vẽ 2 vị Tĩnh Cư Thiên: Chúng Tĩnh Cư gồm có 5 vị Thiên Tử là: Tự Tại Thiên Tử, Phổ Hoa Thiên Tử, Quang Man Thiên Tử, Ý Sinh Thiên Tử, Danh Xưng Viễn Văn Thiên Tử. Các vị Thiên này đều biểu thị cho nghĩa Trong Sạch ( ‘Suddha ) đều là Pháp căn bản để sinh ra Thánh Giả. Nay đề cử 2 vị Thiên này đều là Thánh Giả thân cận Đức Phật, lắng nghe nói Pháp để hóa độ phương khác. Vì Chuẩn Đề Phật Mẫu hay vào Nhân Đạo nói Pháp lợi sinh, xoay chuyển Pháp Luân tồi phá tội ác của chúng sinh. Nên trong tranh tượng vẽ 2 vị Thiên này. _ Bên trái vẽ người Trì Minh , tay cầm lò hương chiêm ngưỡng Thánh Giả. Chuẩn Đề Phật Mẫu thương xót người Trì Minh, hướng mắt nhìn xuống: Người Trì Minh cầm lò hương chiêm ngưỡng Thánh Giả: Biểu thị cho sự đem nhiệt tâm chân thành quán sát rõ ràng Pháp Yếu của Bản Tôn nhằm chuyên chú thực hành Chuẩn Đề Phật Mẫu thương xót người Trì Minh , hướng mắt nhìn xuống: Biểu thị cho lực gia trì của Bản Tôn luôn luôn hiện hữu. Nếu Hành Giả biết cách thọ nhận sẽ thành tựu Tất Địa mong cầu. Ngoài ra trong Kinh còn ghi rằng bên dưới trang tượng nên viết Bài Kệ Pháp Thân Duyên Khởi nhằm giúp cho Hành Nhân chuyên chú quán niệm sẽ mau chóng thực chứng được Pháp Duyên Khởi mà chứng Đạo Bồ Đề. Pháp Thân Duyên Khởi Kệ là: “ Chư Pháp tùng Duyên Khởi Như Lai thuyết thị Nhân Bỉ Pháp Nhân Duyên tận Thị Đại Sa Môn thuyết” Dịch là: “ Các Pháp theo Duyên khởi Như Lai nói là Nhân Pháp ấy Nhân Duyên hết Là Đại Sa Môn nói” Các Bậc Đạo Sư Tây Tạng thì thay bài Kệ trên bằng Thần Chú Duyên Khởi là: OMÏ_YE DHARMA HETU PRABHÀVA HETUN TESÏÀMÏ TATHÀGATO HYA VADATA TESÏÀMÏ CHAYO NIRODHA. EVAMÏ VÀDI MAHÀ ‘SRAMANÏAHÏ YE _ SVÀHÀ Mùa Xuân năm Giáp Thân ( 2004 ) HUYỀN THANH (Nguyễn Vũ Tài) kính ghi <br style="page-break-before:always" clear="all"> Mật Tạng Bộ 3_ No.1075 ( Tr.173_ Tr.178 ) PHẬT THUYẾT THẤT CÂU ĐÊ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI MINH ĐÀ LA NI KINH Hán dịch : Đời Đường_ Thiên Trúc Tam Tạng KIM CƯƠNG TRÍ Việt dịch : HUYỀN THANH Như vậy tôi nghe. Một thời Đức Bạc Già Phạm ( Bhagavan_Thế Tôn ) ngự tại vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc trong đại thành Danh Xưng.Bấy giờ Đức Thế Tôn suy tư quán sát thương lo cho các chúng sinh đời vị lai nên nói Quá Khứ Thất Câu Đê Chuẩn Đề Như Lai Đẳng Phật Mẫu Chuẩn Đề Đà La Ni cho đến nay Ta cũng nói. Liền nói Đại Minh là: “ Ná ma táp đa nam, tam miệu tam bột đà, câu đê nam. Đát điệt tha: Aùn_ Chiết lệ chủ lệ chuẩn đề, sa phộc ha” NAMO SAPTANÀMÏ SAMYAKSÏAMÏBUDDHA KOTÏINÀMÏ. TADYATHÀ : OMÏ_ CALE CULE CUNÕDHE _ SVÀHÀ Nếu có Bật Sô, Bật Sô Ni, Ô Ba Sách Ca, Ô Ba Tư Ca thọ trì đọc tụng Đà La Ni này mãn 90 vạn biến thì 5 tội Vô Gián với tất cả tội nặng trong vô lượng kiếp sau đều diệt hết không sót. Ở nơi sinh ra đều gặp thẳng chư Phật, Bồ Tát, hết thảy tư cụ tùy ý sung túc, vô lượng trăm ngàn đời thường được xuất gia, thường là nơi chư Thiên yêu kính cũng thường thủ hộ. Nếu sinh vào chốn nhân gian sẽ làm con của nhà Đế Vương, hoặc sinh vào nhà quý tộc. Nhà đó không có tai hoạnh, bệnh khổ gây não hại, chẳng bị đọa vào 3 nẻo ác, mọi việc tạo tác trong chư Hữu (các cõi ) không có gì không có đồng bạn, nói ra lời dạy thì người đều tin nhận. Tụng Đà La Ni này 10 vạn biến thì được thấy Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, chư Phật, nếu có tội nặng chẳng được nhìn thấy. Liền tụng đủ 10 vạn biến tức trong Cảnh Giới nôn mửa cơm màu đen. Hoặc thấy lên cung điện. Hoặc lên núi cao với trên cây. Hoặc thấy biển lớn xoáy nước. Hoặc bay trên hư không tự tại. Hoặc thấy Thiên Nữ ban cho Diệu Ngôn Biện. Hoặc thấy ở trong Đại Tập Hội nghe nói Diệu Pháp. Hoặc thấy nhổ tóc, tự mình cạo đầu. Hoặc ăn Lạc Phạn ( Cơm có trộn lạc ), uống Cam Lộ màu trắng. Hoặc vượt qua biển lớn. Hoặc nổi trên sông nhỏ sông lớn.Hoặc lên Tòa Sư Tử. Hoặc thấy cây Bồ Đề. Hoặc ngồi trên thuyền. Hoặc thấy Sa Môn. Hoặc mặc áo trắng, áo vàng dùng áo che phủ đầu. Hoặc thấy mặt trời, mặt trăng. Hoặc thấy đồng nam, đồng nữ. Hoặc thấy trên thân của mình có cây sữa. Hoặc lên cây có hoa quả. Hoặc thấy trong miệng của Hắc Trượng Phu phun ra lửa mạnh, sợ hãi chạy đi. Hoặc thấy ngựa, trâu ác có dạng tựa như đánh nhau. Hoặc thấy tự ăn cháo sữa. Hoặc thấy hoa trắng có mùi thơm. Nếu thấy tướng như trên liến biết Diệt tội sinh phước. Nếu bị 5 tôi nghịch , nghiệp cực nặng chẳng được thấy tướng trên. Cần phải tụng đủ 70 vạn biến ắt được thấy tướng mạo như trước. Lại nữa, nay Ta nói công năng, việc tạo tác của Đà La Ni này.Nếu ở trước tượng Phật hoặc ở trước tháp xá Lợi hay nơi thanh tĩnh, dùng Cù Ma Di xoa tô đất rồi làm Man Trà La ( Manïdïala _ Đàn ) hình vuông rộng 4 khuỷu tay. Lại đem hương , hoa, phướng, lọng, thức ăn uống, đèn sáng, đuốc lửa tùy theo sức bày biện y theo Pháp cúng dường. Nếu muốn cầu nguyện. Trước tiên nên niệm tụng, gia trì vào nước thơm rải 8 phương, trên, dưới để Kết Giới. Kết Giới xong, ở 4 góc và chính giữa Man Trà La đều để một cái bình nước thơm. Hành Giả ở mặt Tây hướng về phương Đông, quỳ dài niệm tụng 1080 biến. Bình nước thơm ấy liền tự chuyển động, tùy ý Đông Tây nhận dùng cao thấp. Hoặc dùng cái bát sành sứ sạch, đốt hương xông ướp, trong ngoài bôi xoa hương thơm, chứa đầy nước thơm và hương hoa tốt rồi đặt ở trong Mạn Trà La. Y theo Pháp cái bình lúc trước mà tác niệm tụng thì cái bát ấy liền chuyển động cùng với cái bình không khác. Nếu muốn biết tất cả việc : Thành Tựu, Chẳng Thành Tựu. Liền đốt hương, phát nguyện, khải bạch Thánh Giả, Nguyện Tâm quyết nghi. Nếu chuyển bên phải thì biết thành tựu, chuyển bên trái tức chẳng thành tựu Lại lấy hoa tốt, niệm tụng 108 biến. Khiến một Đồng Tử tắm gội sạch sẽ, mặc áo mới sạch. Dùng bột hương xoa tay, nâng hoa án khôn mặt. Lại đưa tay của mình liền lấy hoa riêng niệm tụng. Cứ một biến thì một lần ném lên thân Đồng Tử, đồng tử liền nghe việc thiện ác và nói lại. Tùy ý múa cười, đứng ngồi, đi lại. Hoặc ở mặt gương sáng sạch, dùng hoa tốt niệm tụng 108 biến rồi rải lên trên gương thì Sứ Giả liền hiện trong gương. Lại dùng Pháp trước, liền lấy hoa tốt rải trên mặt gương liền có tướng thiện ác hiện trong gương. Hoặc dùng Chu Sa , hoặc dùng dầu thơm bôi móng ngón tay cái ( Dầu thơm dùng hoa Tô Ma Na xâm trong dầu Hồ Ma ) niệm tụng 108 biến liền hiện Thiên Thần với hình tượng chư Tăng, Bồ Tát,Phật. Nếu Tâm có sự nghi ngờ việc trong ba cõi, mỗi mỗi thỉnh hỏi đều biết thiện, chẳng thiện tức đều tự hiện trên ngón tay cái. Nếu người bị bệnh ác. Dùng cành Thạch Lựu, mầm non màu trắng, cỏ thơm… niệm tụng, dùng roi phất phẩy liền khỏi. Hoặc dùng cỏ mầm để trong bơ, niệm tụng 7 biến ném vào trong lửa thiêu đốt rồi xông khói vào người bệnh, liền trừ khỏi. Hoặc nhờ Đồng Nữ xe sợi thành dây chỉ, niệm tụng một biến thì kết một gút. Như vậy đủ 21 gút đem cho người bệnh, trẻ con nam nữ cột buộc trên đỉnh đầu thì bệnh do hàng Ma. Quỷ, Mỵ ác gây ra đều được trừ khỏi. Hoặc dùng hạt cải trắng để trong bơ. Lấy chút ít hạt cải, niệm tụng một biến thì một lần ném trong lửa, 21 lần như vậy thì bệnh liền khỏi. Lại dùng Cù Ma Di xoa tô đất làm Mạn Trà La. Dùng tro vẽ đất làm hình ấy, dùng roi gậy bằng cành Thạch Lựu đánh thì Quỷ đó kêu khóc cầu xin, tự bỏ chạy chẳng dám đến. Hoặc dùng Đồng, Thiếc, Gỗ làm chày Kim Cương để bên cạnh người bệnh, niệm tụng dùng gậy đánh thì Quỷ cũng liền bỏ chạy. Lại có Pháp. Nếu có người bị Quỷ ám thân, lại ở nơi xa không thể tự đến, hoặc Hành Giả chẳng thể tự đi. Nên lấy cành Dương Liễu, niệm tụng 108 biến rồi sai người mang đến chỗ ấy, nói rằng:” Ngươi ở hay ngươi đi. Ta tên (….. ) sai mang gậy roi này cho ngươi. Nếu ngươi chẳng đi sẽ tổn hại cho ngươi”. Nếu chẳng đi , dùng roi đánh thì Quỷ liền bỏ đi. Lại có Pháp. Nếu đi đêm trên đường, niệm tụng không thiếu sẽ không bị vướng nạn sợ hãi về giặc cướp, trộm cắp, cọp, sói, Quỷ, Mỵ ác. Giữ Tâm niệm tụng và tác Hộ Thân thì các nạn thuộc nhóm ấy đều tự tiêu diệt, hoặc phát Tâm Bồ Đề hoặc sinh sợ hãi, hoặc có lời nói Tâm cầu miễn nạn, nếu bị cột trói liền tự giải thoát. Nếu muốn vượt qua sông hồ, biển lớn mà trong nước có hàng Rồng, Cù đáng sợ. Niệm tụng như Pháp trước liền được chẳng sợ. Hoặc bị rắn cắn, liền khiến người ấy nhiễu vòng quanh người Niệm Tụng một số vòng, liền khỏi. Hoặc bị Đinh Sang, ung thư, ghẻ nhọt, bệnh lác, bệnh lậu. Lấy Huân Lục Hương, đất sạch cùng hòa với nước, niệm tụng 21 biến rồi xoa bôi lên trên, liền khỏi. Hoặc quốc thổ bị khô hạn, nguồn nước chẳng đều. Nhóm trâu, ngựa, súc vật vướng dịch độc lưu hành. Nên dùng Du Ma, Đại Mạch, gạo tẻ, hạt dẻ, đậu, bơ, mật, sữa, lạc, cây có nhựa trắng, các loại hương tạp… đều để một bên, đốt hương phát nguyện:” Vì tất cả chúng sinh trừ khử tai nạn” . Liền tác Thủ Khế ( Tay Ấn ) Hộ Thân, tưởng niệm. Lấy các vật lúc trước niệm tụng gia trì rồi ném vào trong lửa thiêu đốt. Như vậy 7 ngày, mỗi ngày 3 thời tác Pháp, mỗi thời 1080 biến liền được mãn nguyện, tất cả an vui, tất cả Tam Bảo thảy đều hộ trợ cũng hay thành tựu tất cả Đại Nguyện. Nếu muốn giáng phục các Đại Quỷ Thần, nhìn thấy liền tâm phục. Lấy 7 hạt xương Xá Lợi để trong cái bát Lưu Ly trắng. Lấy nửa thăng Đề Hồ đổ đầy cái bát. Vào đêm thuộc ngày 15 của kỳ Bạch Nguyệt, trước Đài Hương với trước tháp Suất Đổ Ba, dùng bùn xoa tô Mạn Trà La hình vuông rộng một, hai khuỷu tay. Đặt cái bát ở trong, lấy hoa tốt cúng dường, mặt Tây để một lò hương, thiêu đốt An Tất Hương, gấp rút niệm tụng thì Xá Lợi trong cái bát ấy sẽ tỏa ánh sáng, hoặc sinh ra Xá Lợi thời Hành Giả cầm lò hương phát nguyện lễ bái. Liền lấy Xá Lợi ra, uống hết Đề Hồ. Lấy cái bình Lưu Ly chứa Xá Lợi ấy, dùng lụa ngũ sắc phủ đầy rồi đội trên đầu, tức vô lượng câu đê Phật thường toại hạnh, các hàng Quỷ Thần tự nhiên giáng phục. Lúc tác Pháp thời một ngày một đêm chẳng ăn. Nếu cầu giàu có. Dùng gạo tẻ, Du Ma để trong bơ, lạc. Tay nhúm chút ít, phát nguyện niệm tụng 7 biến rồi ném vào trong lửa thiêu đốt. Tùy sức từ 7 ngày đến 49 ngày , liền như nguyện ấy. Nếu cầu con. Ở trên lá, vỏ cây hoa viết Đà La Ni này và vẽ Đồng Tử. Dùng áo lót màu tím, niệm tụng 1080 biến rồi để trong búi tóc, liền mang thai. Nếu muốn kẻ khác kính nhớ thì xưng tên gọi của người ấy, niệm tụng Bản Bộ 1080 biến liền được kính nhớ. Nếu chồng chẳng thích vợ. Lấy cái bình sạch chứa đầy nước thơm, đặt riêng ở Tĩnh Xứ. Dùng Cù Ma Di xoa làm Mạn Trà La, niệm tụng 108 biến. Như vậy 7 cái bình đều tác Pháp này. Ở Tĩnh Xứ dùng hương hoa làm Đạo Trường, lấy nước thơm bên trong bình tắm gội thì người chồng liền yêu thích, cũng được mang thai. Vợ chẳng thích chồng cũng như Pháp lúc trước. Nếu muốn giáng phục Xả Đổ Lô ( ‘Satrù: Oan Gia ) Lấy một Kiếp Ba La, nước nóng thơm tắm gội sạch sẽ. Lấy Hoàng Đan hòa với bơ xoa bôi trên Kiếp Ba La liền xoa tô khắp rồi đặt trong một Mạn Trà La nhỏ. Xong lấy 5 chén đèn bơ đặt ở 4 góc và chính giữa, xưng Na Ma (Nàma: Tên gọi ) trước tiên, niệm tụng , một lần xưng một lần tụng, gia trì vào hạt cải trắng. Để một chén sữa trên Mạn Trà La cúng dường Kiếp Ba La này, một đêm đổi một lần, nói rằng:” Vì Con lấy Chất Đa (Citta: Tâm ) ấy đến “. Cái đó tức Chất Đa Nậu Khư ( Citta duhïkha : Sự khổ não bất toàn của tâm ) Muốn Mẫu Đà ( Buddha: Giác Tuệ ) thì Xả Đổ Lô ( ‘Satrù : Oan gia) ấy liền phục thật. Chớ khiến hết, vì hết tức nhiều kiếp chất chồng sẽ trừ bỏ Đạo. Nếu muốn cầu thông minh. Lấy Thạch Xương Bồ, Ngưu Hoàng, mỗi thứ nửa lạng, giã thành bụi, dùng bơ hòa. Ở trước Phật làm Mạn Trà La, niệm tụng 5000 biến rồi uống vào, liền được thông minh. Muốn được thấy tất cả Quỷ Thần. Lấy Ngưu Hoàng niệm tụng khiến cho khói, lửa hiện ra. Liền bôi con mắt và uống vào, liền nhìn thấy. Lại có Pháp. Ở bên cạnh biển lớn hoặc trên bãi cát bên sông, sông dùng ấn hình tượng cái Tháp. Ấn cát trên đầm làm hình tượng Tháp, niệm tụng một biến thì ấn thành hình cái Tháp, như vậy đủ số 60 vạn biến liền được nhìn thấy Tượng của Thánh Giả Quán Tự Tại, hoặc thấy Đa La Bồ Tát, Kim Cương Tạng Bồ Tát, tùy theo tâm nguyện ấy đều được mãn túc. Hoặc thấy trao cho Thuốc màu nhiệm của Tiên Thần, hoặc thấy trao cho Bồ Đề thọ ký, hoặc hiện trước mặt đến hỏi thì tùy theo điều cầu nguyện đều được địa vị của hàng Bồ Tát. Lại có Pháp. Nếu nhiễu quanh Tượng của cây Bồ Đề, hành Đạo niệm tụng mãn 100 vạn biến liền thấy Phật, Bồ Tát, La Hán vì mình nói Pháp. Ý muốn tùy Bồ Tát liền được làm tùy tòng, sự mong cầu như nguyện cho đến thân đời này thành Đại Chú Tiên, liền được đi đến Tĩnh Thổ ở 10 phương phụng sự chư Phật, được nghe Diệu Pháp. Lại có Pháp. Nếu lúc khất thực thời thường trì Đà La Ni này thì chẳng bị người ác, chó ác… xâm hại, khất thực dễ được. Lại có Pháp. Nếu ở trước Tháp hoặc trước tượng Phật hoặc trước Tháp Xá Lợi tụng trì Đà La Ni này 30 vạn biến. Lại vào ngày mồng một cho đến ngày 15 của kỳ Bạch Nguyệt, bày cúng dường lớn, một nhày một đêm chẳng ăn, chính niệm tụng thời được thấy Kim Cương Tạng Bồ Tát liền đưa người ấy đến trong cung của mình. Lại có Pháp. Nếu vướng Vương Nạn ( Nạn vua chúa ) bị cột trói, nhốt cùm, xiềng xích, cấm đoán thân ấy. Tụng Đà La Ni này liền được giải thoát. Lại có Pháp. Nếu ở trước Tháp Chuyển Pháp Luân , hoặc trước Tháp nơi Phật sinh ra, hoặc trước Tháp ở thềm báu mà Đức Phật từ Trời Đao Lợi đi xuống, hoặc trước Tháp Xá Lợi . Ở trước các Tháp của nhóm như vậy niệm tụng nhiễu theo bên phải 49 ngày liền thấy A Bát La Thị Đa Bồ Tát ( Aparajita Bodhisatva: Vô Năng Thắng Bồ Tát ) và A Lợi Đề Bồ Tát ( Hrïtye Bodhisatva_ Quỷ Tử Mẫu Bồ Tát ) , tùy theo sự cầu nguyện đều được mãn túc. Nếu cầu Thuốc Tiên tức liền trao cho, lại vì người ấy nói Pháp để hiển bày Đạo Bồ Đề. Nếu có người tụng Đà La Ni này cho đến chưa ngồi Đạo Trường thì tất cả Bồ Tát sẽ làm bạn tốt của người ấy. Lại Chuẩn Đề Đại Minh Đà La Ni này được chư Phật nói vì lợi ích cho tất cả chúng sinh về Đạo Trường Bồ Đề vô biên. Nếu có chúng sinh bạc phước không có chút căn lành, không có căn khí, không có Bồ Đề Phần. Nếu người đó được nghe Chuẩn Đề Đà La Ni này hoặc đọc một biến liền được sinh mầm giống căn khí của Bồ Đề Phần, huống chi tụng trì thường xuyên mà chẳng giải được sự vô dụng ư ? !... Do căn lành này mau thành hạt giống Phật, đều được thành tựu vô lượng công đức, vô lượng chúng sinh mau lìa trần cấu quyết định thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề ( Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác ). PHẬT THUYẾT THẤT CÂU ĐÊ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐÀ LA NI NIỆM TỤNG PHÁP Y theo bản Kinh Phạn có 10 vạn Kệ Tụng. Nay Ta lược nói niệm tụng, Quán Hạnh, thứ tự cúng dường Nếu có Bật Sô, Bật Sô Ni, Ô Ba Sách Ca, Ô Ba Tư Ca phát Tâm Bồ Đề , hành Hạnh Bồ Tát , cầu mau ra khỏi sinh tử. Trước tiên nên vào Tam Muội Gia Quán Đỉnh Đạo Trường, thọ trì Cấm Giới bền chắc chẳng lui, yêu thích Giới Hạnh Bồ Tát Đại Thừa, nơi 4 Uy Nghi tu 4 Vô Lượng, phát 4 Hoằng Nguyện, cầu mau lìa Tam Đồ ( 3 nẻo Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sinh ) . Đối nới tất cả sự nghiệp, tâm chẳng tán loạn thì mới có thẩ vào Pháp Môn Bí Mật này Phàm Pháp Niệm Tụng Cúng Dường. Ở nơi cư trú đều nên tắm gội sạch sẽ, mặc áo mới sạch, tùy sức bày biện nghiêm sức Đạo Trường Pháp Đạo Trường ấy. Nên lựa chọn Thắng Địa, Đông Tây Nam Bắc đều rộng 4 khuỷu tay làm Mạn Trà La hình vuông, đào sâu xuống dưới một khuỷu tay trừ bỏ các loại: Xương, đá, gạch, ngói, đất ác, tóc, lông, tro, than, trấu, cây nhiều gai, trùng, kiến… Dùng đất sạch tốt lấp đầy và nện chặt cho bằng phẳng. Lấy Cù Ma Di ( Phân trâu trắng ở núi Tuyết ) và đất tốt hòa chung với nước thơm xoa tô đất. Nếu ở lầu gác , hoặc ở trên Điện thì y theo Pháp Nê Đồ ( dùng bùn xoa tô) Nếu ở trong núi với nhà sạch tốt thì chẳng nên đào đất mà y theo trước xoa tô nghiêm sức. Liền giương Thiên Cái ( Lọng Trời ) , 4 mặt treo phướng. Nếu có Tượng Bản Tôn Thất Câu Đê Phật Mẫu thì đặt yên trong Mạn Trà La hướng mặt về phương Tây. Nếu không có Bản Tôn mà có các Tượng Phật, Xá Lợi với Kinh Điển Đại Thừa thì cúng dường cũng được. Mài Bạch Đàn Hương xoa tô làm Mạn Trà La có 8 góc ( Bát Giác Mạn Trà La ) giống như trăng đầy hoặc tựa như hoa sen 8 cánh. Liền đem vật cúng mới sạch là vật khí bằng vàng, bạc, đồng đã tôi luyện (Thục Đồng) Thương Khư ( ‘Sanõkha: Vỏ ốc ) , Bối ( vỏ sò ), Ngọc, đá, đồ sứ, gỗ…chứa đầy các thức ăn uống với hương hoa tốt, đèn sáng, nước thơm Ứ Già tùy theo sức mà đặt bày cúng dường. Nếu là Bật Sô, Bật Sô Ni . Trước tiên giữ Giới Hạnh rồi mới vào Đạo Trường, lại nên Sám Hối liền tự thề phát nguyện Thọ Giới. Nếu là Bồ Tát tại gia , mới đầu vào cũng nên tự thề phát nghuyện tùy theo sức, thọ Tam Quy Ngũ Giới hoặc thường giữ 8 Giới. Nếu thường 3 thời niệm tụng. Liền ở Tây Nam của Đạo Trường hướng về phương Đông, chí Tâm chắp tay cúi 5 vóc sát đất kính lễ chư Phật Bồ Tát ở 10 phương, Chân thành vận tưởng tràn khắp Hư Không Giới. Liền quỳ gối phải sát đất, chắp tay, chí Tâm Sám Hối : ” Từ Vô Thủy trở đi có bao nhiệu tội của Thân Khẩu Ý. Nay đối trước chư Phật Bồ Tát, Đệ Tử ( họ tên… ) xin phát lộ sám hối cho đến mọi loại Công Đức do viên mãn Phước Trí của chư Phật Bồ Tát 3 đời quá khứ, hiện tại, vị lai . Nay con xin tùy hỷ” Liền an Tâm quyết định ngồi theo thế Kiết Già hoặc Bán Già, trừ tất cả vọng tưởng, quán chúng sinh trong 6 nẻo từ vô thủy đến nay ở trong biển sinh tử bị luân hồi 6 nẻo. Nguyện đều phát Tâm Bồ Đề, hành Hạnh Bồ Tát, mau được ra khỏi. Liền dùng dầu thơm xoa tay rồi kết Thủ Khế ( Tay Ấn ) . Lúc kết Khế thời dùng áo che tay đừng để người khác nhìn thấy.Trước tiên kết 3 Bộ Tam Ma Gia Khế rồi kết các Khế. Khế thứ nhất :” Phật Bộ Tam Ma Gia Khế”. Tướng của Khế đó là: Đều ngửa tay Phước Trí ( 2 bàn tay ) hơi co Đàn ( ngón út phải ) Giới ( Ngón vô danh phải ) Nhẫn Nhục ( ngón giữa phải ) Bát Nhã ( ngón út trái ) Phương Tiện ( ngón vô danh trái ) Nguyện ( ngón giữa trái ) cùng trụ nhau. Tiến Lực ( 2 ngón trỏ ) đè lóng trên Nhẫn Nguyện ( 2 ngón giữa ) , Thiền Trí ( 2 ngón cái ) phụ bên cạnh Tiến Lực ( 2 ngón trỏ ) liền thành. Tụng Chân Ngôn là: “ Aùn_ Đát tha nghiệt đổ phộc bá gia, sa-phộc ha” OMÏ_ TATHÀGATA UDBHÀVAYA _ SVÀHÀ (Tụng 3 biến, đem Khế bung trên đỉnh đầu. Liên Hoa Bộ, Kim Cương Bộ đều dựa theo đây ) Khế thứ hai :” Liên Hoa Bộ Tam Ma Gia Khế”. Hai Phước Trí (2bàn tay) cùng hợp nhau. Giới ( Ngón vô danh phải ) Nhẫn ( ngón giữa phải ) Tiến ( ngón trỏ phải ) Phương Tiện ( ngón vô danh trái) Nguyện ( ngón giữa trái ) Lực ( ngón trỏ trái ) mỗi mỗi bung tán rồi hơi co lại. Sáu Ba La Mật ( 6 ngón tay ) mở như hoa sen. Đàn ( ngón út phải ) Tuệ ( ngón út trái ) Thiền ( ngón cái phải ) Trí ( ngón cái trái ) cùng dính nhau, cũng hơi co lại liền thành. Tụng Diệu Ngôn là : “ Aùn _ Bát đầu mâu phộc bá gia, sa-phộc ha” ( Tụng 3 biến ) OMÏ_ PADMA UDBHÀVAYA _ SVÀHÀ Khế thứ ba : “ Kim Cương Bộ Tam Ma Gia Khế” Úp Phước ( Bàn tay trái) ngửa Trí ( bàn tay phải ) Thiền ( ngón cái phải ) Bát Nhã ( ngón út trái ) Đàn (ngón út phải ) Trí ( ngón cái trái )cùng cài nhau, liền thành. Tụng Diệu Ngôn là: “ Aùn_ Phộc chiết lỗ bà bá gia, sa-phộc ha” ( Tụng 3 biến ) OMÏ_ VAJRA UDBHÀVAYA _ SVÀHÀ Khế thứ tư :” Chuẩn Đề Phật Mẫu Căn Bản Thân Khế “. Tướng của Khế đó là: Trước tiên đem 2 ngón út , 2 ngón vô danh cùng cài chéo nhau trong lòng bàn tay. Dựng thẳng 2 ngón giữa cùng dính đầu ngón, 2 ngón trỏ phụ bên cạnh lóng trên của 2 ngón giữa, 2 ngón cái đều phụ bên cạnh 2 ngón trỏ liền thành. Diệu Ngôn, tụng Căn Bản Đà La Ni ( Tụng 7 biến, đưa Khế bung tán trên đỉnh đầu. Dùng các Khế bên dưới kết thành, đè chạm Ấn xong cũng đều nên bung trên đỉnh đầu ) Khế thứ năm : “ Tịch Trừ Nhất Thiết Thiên Ma Aùc Quỷ Thần Đẳng Khế”. Khế ấy: Trước tiên đem ngón giữa, ngón vô danh, ngón út và ngón cái của tay phải nắm ngón giữa, ngón vô danh, ngón út của tay trái. Tiếp đem ngón cái trái nắm trên móng của 3 ngón giữa, vô danh, út của tay trái rồi hợp thành quyền, đem 2 ngón trỏ cùng dính đầu ngón , liền thành. Diệu Ngôn là: “ Aùn_ Câu lỗ đa na, hồng, nhạ” OMÏ _ KRODHANA HÙMÏ JAHÏ ( Tụng một biến, đem Khế chuyển quanh thân theo bên phải. Làm như thế 3 lần ) Khế thứ sáu: “ Kết Địa Giới Quyết Khế”. Tướng của Khế đó là: Đem 2 ngón giữa, 2 ngón vô danh cùng cài chéo nhau trong lòng bàn tay, bên phải đè bên trái, co ngón trỏ trái như móc câu, dựng thẳng ngón trỏ phải. Khiến 2 ngón cái, 2 ngón út cùng dính mặt ngón, liền thành. Diệu Ngôn là: “ Aùn_ Chuẩn nễ, nê, chỉ la dã, sa-phộc ha” OMÏ_ CUNÕDHE _ DHE , KÌLÀYA _ SVÀHÀ ( Tụng một biến, đem ngón cái của Khế chạm đất một như thế đóng cọc. Làm 3 lần rồi nghỉ ) Khế thứ bảy: “ Kết Tường Giới Khế”. Tướng của Khế là: Dựa theo Quyết Khế lúc trước, đem ngón trỏ phải co như móc câu, dựng thẳng ngón trỏ trái, liền thành.Diệu Ngôn là: “ Aùn_ Chuẩn nễ, nê, bát la ca la gia, sa-phộc ha” OMÏ_ CUNÕDHE_ DHE, PRAKARÀYA _ SVÀHÀ ( Tụng ba biến, đưa Khế quơ theo bên phải 3 vòng ) Khế thứ tám: “ Kết Võng Khế” . Khế đó dựa theo Tường Khế, mở ngửa dính nhau, ngón cái phải vịn đầu ngón trỏ trái, ngón cái trái vịn đầu ngón trỏ phải, ngón út y như cũ cùng trụ nhau, liền thành. Diệu Ngôn là: “ Aùn_ Chuẩn nể, nê, bán nhạ la, sa-phộc ha” OMÏ_ CUNÕDHE _ DHE , PAMÏJALA _ SVÀHÀ ( Tụng 3 biến , đưa Khế tùy theo mặt trời quơ 3 lần ) Khế thứ chín: “ Kết Ngoại Hỏa Viện Đại Giới Khế”. Khế đó : Dùng tay trái đè kín lưng tay phải, trùng nhau. Dựng thẳng 2 ngón cái cùng cách nhau khoảng 2 thốn, liền thành. Diệu Ngôn là: “ Aùn_ A tam ma nghĩ nễ, hàm, sa-phộc ha” OMÏ_ ASAMÀMÏGNI HÙMÏ _ SVÀHÀ ( Tụng 3 biến, đưa Khế chuyển bên phải 3 lần ) Khế thứ mười: “ Kết Xa Lạc Ấn”. Tướng của Khế đó là: Trước tiên, 2 tay hướng vào bên trong cùng cài chéo nhau, bên phải đè bên trái. Liền ngửa mở lòng bàn tay, duỗi thẳng 2 ngón trỏ dính đầu ngón, đưa 2 ngón cái bật đầu 2 ngón giữa, đưa qua đưa lại, liền thành. Diệu Ngôn là: “ Aùn_ đổ lô, đổ lô, sa-phộc ha” OMÏ_ TURU TURU _ SVÀHÀ ( Kết Khế này, Tâm tưởng trong Tập Hội ở cung Trời A Ca Ni Sắt Tra (Sắc Cứu Cánh ) 10 Địa Bồ Tát vây quanh Đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai. Thỉnh Chuẩn Đề Phật Mẫu ngồi trên Xa Lạc 7 báu trang nghiêm. Trên Xa Lạc có tòa hoa sen trắng, trên Tòa có hình tượng như mong cầu. Trong Tâm tưởng niệm như ở ngay trước mắt. Liền tụng Diệu Ngôn 3 biến ) Khế thứ mười một: “ Kết Nghinh Thỉnh Thánh Giả Khế” . Dựa theo Đệ Nhất Căn Bản Khế lúc trước, đưa 2 ngón cái qua lại, triệu mời 3 lần, liền thành. Diệu Ngôn là: “ Aùn_ Chiết lệ, chủ lệ, chuẩn đề, ê hế duệ tứ, bạc già phộc để, sa-phộc ha” OMÏ_ CALE CULE CUNÕDHE _ EHYEHI BHAGAVATI _ SVÀHÀ ( Kết Khế này, tưởng Thánh Giả từ trên Xa Lạc đi xuống đến Đạo Trường trên tòa sen trắng. Liền tụng Diệu Ngôn 3 biến ) Khế thứ mưới hai: “ Kết Liên Hoa Tòa Khế”. Dựa theo Căn Bản Khế lúc trước, kèm 2 ngón cái hướng về thân mở thẳng, liền thành. Diệu Ngôn là: “ Aùn_ Ca ma la, sa-phộc ha” OMÏ_ KAMALA _ SVÀHÀ ( Kết Khế này, Tâm tưởng trong Đạo Trường có mọi loại lưới báu, trên Tòa Sư Tử nở sen trắng, an đặt Thánh Giả trên hoa sen. Liền tụng Diệu Ngôn 3 biến ) Khế thứ mười ba: “ Kiết Ứ Già Khế”. Dựa theo Căn Bản Khế lúc trước, đem 2 ngón cái đều vịn dưới cạnh lóng thứ nhất ở gốc ngón trỏ, liền thành. Diệu Ngôn là: “ Aùn_ Chiết lệ, chủ lệ, chuẩn đề, át kiềm, bạc già phộc để, bát la để sai, sa-phộc ha” OMÏ _ CALE CULE CUNÕDHE _ ÀRGHÀMÏ BHAGAVATI PRATICCHA _ SVÀHÀ Khế thứ mười bốn:” Kết Táo Dục Khế” Dựa theo Ứ Già Khế lúc trước, đem 2 ngón cái đều vịn cạnh lóng giữa của 2 ngón giữa , liền thành. Diệu Ngôn là: “ Aùn_ Chiết, sa-phộc ha” OMÏ_ CA _ SVÀHÀ Khế thứ mười lăm : “ Kết Đồ Hương Khế”. Dựa theo Căn Bản Khế lúc trước,đe 2 ngón cái nắm dính lóng dưới của ngón trỏ phải, liền thành. Diệu Ngôn là: “ Aùn_ Lệ, sa-phộc ha” OMÏ _ LE _ SVÀHÀ Khế thứ mười sáu : “ Kết Hoa Man Khế”. Dựa theo Căn Bản Khế lúc trước, đe 2 ngón cái để cạnh lóng dưới của ngón trỏ trái, liền thành. Diệu Ngôn là: “ Aùn_ Chủ, sa-phộc ha” OMÏ _ CU _ SVÀHÀ Khế thứ mười bảy: “ Kết Thiêu Hương Khế”. Dựa theo Căn Bản Khế lúc trước, co ngón trỏ phải vịn đầu 2 ngón cái, liền thành. Diệu Ngôn là; “ Aùn_ Lệ, sa-phộc ha” OMÏ _ LE _ SVÀHÀ Khế thứ mười tám : “ Kết Cúng Dường Ẩm Thực Khế”. Dựa theo Căn Bản Khế lúc trước, đem ngón trỏ trái vịn đầu 2 ngón cái, liền thành. Diệu Ngôn là: “ Aùn_ Chuẩn, sa-phộc ha” OMÏ _ CUNÕ _ SVÀHÀ Khế thứ mười chín: “ Kết Đăng Khế”. Dựa theo Căn Bản Khế lúc trước, đem 2 ngón trỏ đều vịn đầu 2 ngón cái, liền thành. Diệu Ngôn là: “ Aùn, đề, sa-phộc ha” OMÏ _ DHE _ SVÀHÀ ( Nhóm Đồ Hương Khế bên trên, mỗi mỗi đều dùng Khế chạm vào trên sắc vật thật rồi cúng dường ) Khế thứ hai mươi : “ Kết Bố Tự Khế”. Tướng của Khế đó là: Đưa 2 ngón giữa, 2 ngón vô danh hướng vào bên trong cùng cài chéo nhau. Kè dựng thẳng 2 ngón cái, 2 ngón trỏ, 2 ngón út cùng dính đầu ngón, liền thành. Kết Thủ Khế này thành, liền tưởng thân của mình giống như Thích Ca Như Lai với 32 tướng tốt 80 loại tùy hình đẹp, thân tỏa ánh hào quang àu vàng tía ( Tử Ma Kim Sắc ) . Tưởng xong, dùng Thủ Khế ( Tay Ấn ) chạm trên đầu an chữ Aùn (OMÏ _ ) , chạm mắt an chữ Chiết ( CA_ ) mỗi mỗi y theo thứ tự chữ cho đến đầy đủ và dùng Khế chạm bày. Nói Pháp Tưởng chữ của Đà La Ni an bày ở thân: _ Aùn ( OMÏ _ ) tưởng an trên đầu Màu sắc trắng như trăng Tỏa nơi vô lượng quang Trừ diệt tất cả chướng Liền đồng Phật Bồ Tát Xoa trên đỉnh người ấy _ Chữ Chiết ( CA_ ) an hai mắt Màu sắc như Nhật Nguyệt Chiếu soi các ngu ám Hay phát Thâm Tuệ Minh ( Ánh sáng Tuệ thâm sâu ) _ Chữ Leä ( LE_ ) an trên cổ Màu như Lưu Ly cam Hay hiển các sắc tướng Dần đủ Trí Như Lai _ Chữ Chủ (CU_ ) tưởng an tim Màu sắc như trắng sáng Giống như Tâm thanh tĩnh Mau đạt Đạo Bồ Đề _ Chữ Leä ( LE_ ) an hai vai Màu vàng như Kim Sắc Do quán sắc tướng ấy Hay mặc Giáp Tinh Tiến _ Chữ Chuẩn ( CUNÕ_ ) trưởng trong rốn Màu trắng vàng màu nhiệm Mau khiến lên Đạo Trường Được Bồ Đề Bất Thoái _ Chữ Đề ( DHE_ ) an hai đùi Màu sắc như vàng lợt Mau chứng Đạo Bồ Đề Được ngồi Tòa Kim Cương _ Sa-Phộc ( SVÀ _ ) hai bắp chân Dạng ấy màu vàng đỏ Thường hay tưởng chữ ấy Mau được chuyển Pháp Luân _ Chữ Ha ( HA_ ) hai bàn chân Màu sắc như trăng đầy Hành Giả tác tưởng đó Mau được đạt Viên Tịch Như vậy Bố Tự ( an bày chữ ) tưởng niệm xong Liền thành Chuẩn Đề Thắng Pháp Môn Cũng là Bản Tôn Chân Thật Tướng Hay diệt các tội, được cát tường Giống như tụ Kim Cương bền chắc Gọi là Chuẩn Đề Thắng Thượng Pháp Nếu thường tu hành y như thế Nên biết người ấy mau Tất Địa ( Siddhi_ Thành Tựu ) Khế thứ hai mươi mốt:” Đệ Nhị Căn Bản Khế”. Tướng của Khế đó là: Đưa 2 tay hướng vào bên trong cùng cài chéo nhau. Kèm dựng thẳng 2 ngón trỏ, 2 ngón cái, liền thành. Diệu Ngôn là: “ Nam mô táp đá nẫm,tam miệu tam bột đà, câu đê nam. Đát diệt tha: Aùn_ Chiết lệ, chủ lệ, chuẩn đề, sa-phộc ha” NAMO SAPTÀNÀMÏ SAMYAKSAMÏBUDDHA KOTÏINÀMÏ TADYATHÀ : OMÏ_ CALE CULE CUNÕDHE _ SVÀHÀ ( Tụng 7 biến, đưa Khế lên đỉnh đầu bung tán ) Khế thứ hai mươi hai: “ Kết Phụng Sổ Châu Khế” Tướng của Khế đó là: Trước tiên lấy Sổ Châu ( Tràng hạt ) để trong 2 lòng bàn tay, liền để ngang trái tim rồi chắp hai tay lại. Tụng Căn Bản Đà La Ni lúc trước 3 biến, đem tràng hạt đội trên đỉnh đầu, liền tác Bả Sổ Châu Khế để Tĩnh Châu ( Làm cho tràng hạt thanh tịnh ) Khế thứ hai mươi ba: “ Bả Sổ Châu Khế”. Tướng của Khế đó là: 2 ngón vô danh, 2 ngón cái đều vịn trên hạt châu, 2 tay cùng cách nhau khoảng một thốn, bung mở các ngón còn lại rồi hơi co lại, liền thành. Tụng Tĩnh Sổ Châu Diệu Ngôn là: “ Aùn_ Vi lô già na, a ma la, sa-phộc ha” OMÏ_ VAIROCANA AMALA _ SVÀHÀ ( Tụng 3 biến ) Tĩnh Sổ Châu xong. Tự Tâm tưởng trong miệng của Thất Câu Đê Phật Mẫu tuôn ra văn tự của Thất Câu Đê Đà La Ni, mỗi một chữ phóng tỏa ánh sáng ngũ sắc nhập vào trong miệng của Hành Giả rồi an trong vành trăng ngay trái tim của mình, xoay chuyển theo bên phải đặt bày. Liền tụng Căn Bản Đà La Ni một biến, dùng ngón vô danh phải lần qua một hạt châu, cứ thế giáp vòng trở lại hạt ban đầu, chẳng gấp chẳng chậm, chẳng được cao giọng. Nên xưng chữ rõ ràng mà tự nghe được chữ an bày trên thân với Bản Tôn đã quán. Niệm tụng Ký Số.Ở trong một niệm và tu một thời, quán thấy chẳng được khiếm khuyết khiến Tâm tán loạn.Nếu Quán Niệm mệt mỏi thì tùy sức niệm tụng hoặc 1000, 2000, 3000, 4000 cho đến 5000 biến . Thường lấy một số làm hạn định. Nếu có duyên sự, cũng chẳng được giảm số dưới 108 biến. Đây gọi là Thanh Niệm Tụng. Nếu cầu giải thoát sẽ mau ra khỏi sinh tử. _ Tác Tam Ma Địa Quán Hạnh này thì không có ký không có số. Người niệm liền tưởng trái tim của mình có một mặt trăng đầy rất ư thanh tĩnh, trong ngoài rõ ràng. Đem chữ Aùn ( ) để trong tâm mặt trăng. Đem các chữ Chiết lệ, chủ lệ, chuẩn đề, sa-phộc ha( ) từ phía trước chuyển theo bên phải, thứ tự giáp vòng an bày Luân Duyên. Thành thật quán ( Đế quán ) nghĩa của mỗi một chữ, đem Tâm tương ứng chẳng được khác biệt. Nói Nghĩa Bố Tự của Tam Ma Địa Quán Niệm Aùn Tự Môn ( ) có nghĩa là Lưu Chú chẳng sinh diệt. Lại ở tất cả Pháp làm nghĩa Tối Thắng Chiết Tự Môn ( ) Ở tất cả các Pháp làm nghĩa Vô Hành ( không có lưu chuyển ) Lệ Tự Môn ( ) ở tất cả Pháp làm nghĩa Vô Tướng (không có tướng ) Chủ Tự Môn ( ) ở tất cả Pháp làm nghĩa Vô Khởi Trụ ( Không có khới trụ ) Lệ Tự Môn ( ) ở tất cả Pháp làm nghĩa Vô Cấu (không có bợn nhơ ) Chuẩn Tự Môn ( ) ở tất cả Pháp làm nghĩa Vô Đẳng Giác Đề Tự Môn ( ) ở tất cả Pháp làm nghĩa Vô Thủ Xả ( không có lấy, không có bỏ ) Sa-phộc Tự Môn ( ) ở tất cả Pháp làm nghĩa Bình Đẳng Vô Ngôn Thuyết Ha Tự Môn ( )ở tất cả Pháp làm nghĩa Vô Nhân Tịch Tịnh Vô Trụ Niết Bàn Đã nói nghĩa của chữ. Tuy lập văn tự đều là nghĩa không có văn tự. Để không có văn tự nên đế quán mỗi một nghĩa tướng, vòng quanh rồi lại bắt đầu, không có ký không có số, chẳng được cắt đứt ( đoạn tuyệt ) . Chẳng cắt đứt là nghĩa Tối Thắng lưu chú chẳng sinh chẳng diệt. Do nghĩa tối thắng chẳng sinh chẳng diệt cho nên là Vô Hành. Vì nghĩa Vô Hành cho nên là Vô Tướng. Vì nghĩa Vô Tướng cho nên là Vô Khởi Trụ. Vì nghĩa vô khởi trụ cho nên là Vô Đẳng Giác. Vì nghĩa vô đẳng giác cho nên là vô thủ xả. Vì nghĩa vô thủ xả cho nên là Bình đẳng vô ngôn thuyết. Vì nghĩa bình đẳng vô ngôn thuyết cho nên là vô nhân tịch tịnh vô trụ niết bàn. Vì nghĩa Tịch Tịnh Vô Trụ Niết Bàn cho nên là bất sinh bất diệt tối thắng vô đoạn tuyệt, vòng quanh rồi lại bắt đầu. Đây gọi là Tam Ma Địa Niệm Tụng Nói Pháp Chuẩn Đề Cầu Nguyện Quán Tưởng: Nếu cầu Vô Phân Biệt nên quán Vô phân biệt vô ký niệm Nếu cầu Vô Tướng Vô Sắc nên quán văn tự vô văn tự niệm Nếu cầu Pháp Môn Không Hai ( Bất Nhị Pháp Môn ) nên quán 2 cánh tay Nếu cầu Bốn Vô Lượng nên quán 4 cánh tay Nếu cầu Sáu Thông nên quán 6 cánh tay Nếu cầu Tám Thánh Đạo nên quán 8 cánh tay Nếu cầu Mười Ba La Mật, viên mãn Mười Địa nên quán 10 cánh tay Nếu cầu Như Lai Phổ Biến Quảng Địa nên quán 12 cánh tay Nếu cầu mười tám Pháp Bất Cộng nên quán 18 cánh tay. Liền quán Pháp như tượng vẽ Nếu cầu 32 Tướng nên quán 32 cánh tay Nếu cầu 84000 Pháp Môn nên quán 84 cánh tay Quán Niệm như trên sẽ vào Nhất Thiết Như Lai Tam Ma Địa Thậm Thâm Phương Quảng Bất Tư Nghị Địa, là Chính Niệm Xứ, là Chính Chân Như, là Chính Giải Thoát. Niệm Tụng Quán Hạnh xong. Muốn ra khỏi Đạo Trường , lại nên y theo thứ tự trước. Liền kết Thủ Khế của nhóm: Thiêu Hương, Đăng Minh, Aám Thực, Cúng Dường, Sám Hối, Tùy Hỷ, Phát Nguyện. Liền kết Đệ Nhất Căn Bản Khế lúc trước, tụng Căn Bản Đà La Ni 7 biến rồi bung Ấn trên đỉnh đầu. Lại kết Xa Lộ Khế lúc trước, đưa 2 ngón cái hướng ra ngoài, bật đầu ngón giữa 3 lần, tụng Diệu Ngôn là: “ Aùn_ Đổ lô, đổ lô, Sa-phộc ha” OMÏ_ TURU TURU _ SVÀHÀ ( Tụng 3 biến ) Lại kết Nghinh Thỉnh Ấn lúc trước. Đem ngón cái hướng ra ngoài, mở 3 lần liền thành Tống Thánh Giả Hoàn Bản Cung. Diệu Ngôn là: “ Aùn_ Chiết lệ, chủ lệ, chuẩn đề, nghiệt xa nghiệt xa, bà nga phộc để, sa phộc bá nẫm, bố ná , a yết la nga, ma na gia, sa-phộc ha” OMÏ_ CALE CULE CUNÕDHE _ GACCHA GACCHA BHAGAVATI SVÀBHANÀMÏ BUDDHA ARGHA MANÀYA_ SVÀHÀ Liền kết Ngoại Hỏa Viện Đại Giới Khế lúc trước, tụng A Tam Ma Kỳ Neã Diệu Ngôn, chuyển bên trái 3 lần liền thành. Liền kết 3 Bộ Tam Ma Gia Khế, đều tụng Diệu Chân Ngôn một biến liền xong, tùy ý ra khỏi Đạo Trường, tùy ý Kinh Hành. Đọc tụng Đại Bát Nhã hoặc Hoa Nghiêm, hoặc Vô Biên Môn, hoặc Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, Niết Bàn, Kinh Luận Đại Thừa…suy tư, tụng, nói hoặc đem ấn Tháp Tượng Thất Câu Đê Phật, dùng ấn bùn thơm,trên cát, trên giấy… tùy ý nhiều ít. Nếu niệm tụng có công đức như cảnh giới đã nói trong Kinh, mỗi mỗi biết thứ tự thật rõ ràng. Muốn tác mọi loại phương pháp của nhóm Phiến Để Ca ( ‘Sàntika_ Tức Tai ) hoặc vì tự thân hoặc vì người khác liền dốc lòng y theo Pháp mà tác niệm tụng.Nếu muốn Tức Tai trừ tất cả Quỷ Thần và được thông minh, trường thọ, cầu giài thoát. Liền ở trong Đạo Trường, hướng mặt về phương Bắc, chéo 2 bắp chân dựng thẳng đầu gối mà ngồi. Quần áo, thức ăn uống, hương, hoa, đèn, đuốc, đất đều dùng màu trắng. Từ ngày mồng một đến ngày mồng 8 của tháng, một ngày 3 thời niệm tụng với Pháp của nhóm Hộ Ma. Nếu Niệm Tụng thời trước tiên tụng Căn Bản Đà La Ni 7 biến xong, sau đó chỉ tụng từ chữ Aùn. Diệu Ngôn là: “ Aùn_ Chiết lệ, chủ lệ, chuẩn đề ban cho ( họ tên của mình hay người khác) trừ tai nạn, sa-phộc ha” OMÏ_ CALE CULE CUNÕDHE ( Khiến cho…. ) ‘SÀNTIMÏ KURU _ SVÀHÀ Nói Pháp Bố Sắt Trí Ca ( Pusïtïika _ Tăng Ích ) . Nếu muốn cầu tăng trưởng 5 Thông, Chuyển Luân, mọi loại Bảo Tạng, Bố Xa Luân, Kiếm, Hiền Bình, Như Ý Bảo, An Thiện Na, Ngu Lý Ca, Gương, Búa, Sợi dây, Tam Cổ Xoa… tất cả tài bảo, cỏ thuốc… cầu Pháp thành tựu. Thân mặc áo vàng, hướng mặt về phương Đông, ngồi Kiết Già. Mọi thứ cúng dường như hương, hoa, thức ăn uống, quả trái, đèn đuốc, đất… đều dùng màu vàng. Từ ngày mồng 8 đến ngày 15 của tháng, mỗi ngày 3 thời niệm tụng, làm việc Hộ Ma, niệm tụng như trước. Diệu Ngôn là: “ Aùn_ Chiết lệ, chủ lệ, chuẩn đề ban cho ( họ tên… ) sở cầu như ý, sa-phộc ha” OMÏ_ CALE CULE CUNÕDHE ( Khiến cho…. ) PUSÏTÏIMÏ KURU _ SVÀHÀ Nói Pháp Phạt Thí Ca La Noa ( Va’sikaranïa_ Kính Aùi ) Nếu muốn hô triệu tất cả hàng Trời, Rồng, Quỷ , Thần, Người, Phi Nhân…thì nên tác Pháp này. Thân mặc áo đỏ, hướng mặt về phương Tây, ngồi theo thế Hiền Tọa. Hương, hoa, thức ăn uống, Quả trái, đèn đuốc, đất… đều dùng màu đỏ. Từ ngày 16 đến ngày 23 , mỗi ngày 3 thời niệm tụng, tác Pháp Hộ Ma. Diệu Ngôn là: “ Aùn_ Chiết lệ,chủ lệ, chuẩn đề. Vì con nhiếp triệu vị Thần ( tên là…. ) thành tựu nguyện của con, sa-phộc ha” OMÏ _ CALE CULE CUNÕDHE ( Khiến cho…. ) VA’SI KURU _ SVÀHÀ Nói Pháp A Tỳ Già Lỗ Ca ( Abhicàruka_ Giáng Phục ) Nếu muốn giáng phục tất cả Quỷ Thần với Người, Trời… là tổn hoại Tam Bảo, chúng sinh có nhiệu tội nghiệp chướng nặng, kẻ khó điều phục … hay khiến phát Tâm Bồ Đề, tu các nghiệp lành thì nên khởi Tâm Từ Bi mà tác Pháp này. Thân mặc áo xanh, hướng mặt về phương Nam, tác Tông Cứ Tọa ( chéo ống chân ngồi xổm ) ống chân phải đè ống chân trái. Dùng hương, hoa, thức ăn uống, quả trái, đất… đều là màu xanh đen. Từ ngày 23 đến ngày cuối tháng, mỗi ngày 3 thời niệm tụng, tác Pháp Hộ Ma. Diệu Ngôn là: “ Aùn_ Chiết lệ, chủ lệ, chuẩn đề, hồng, phát tra” OMÏ_ CALE CULE CUNÕDHE HÙMÏ PHATÏ Tác Pháp xong, niệm tụng như thường Nói Pháp Vẽ Tượng Thất Câu Đê Phật Mẫu Chuẩn Đề Lấy lụa trắng thanh tịnh chư bị cắt, loại bỏ tóc người. Họa Sư thọ 8 Giới Tế, chẳng dùng keo nấu bằng da thú để hòa màu sắc, mọi thứ trang nghiêm thân ấy. Từ eo trở xuống mặc áo trắng, áo trên có hoa. Lại thân khoác áo ngoài ( Thiên Y ) bằng lụa mịn màng mỏng nhẹ. Dùng đai ngũ sắc cột eo, mây sắc đỏ sáng sớm quấn quanh thân, cổ tay đeo xuyến bằng vỏ ốc trắng, cánh tay đeo vòng xuyến dùng 7 báu trang nghiêm. Trên mỗi một tay đeo Chỉ Hoàn ( Nhẫn ) . Thân có 18 tay, mặt có 3 mắt. 2 tay bên trên tác tướng Thuyết Pháp Bên phải: tay thứ hai Thí Vô Úy, tay thứ ba cầm cây Kiếm, tay thứ tư cầm tràng hạt, tay thứ năm cầm quả Vĩ Nhạ Bố La Ca ( Đường gọi là Tử Mãn Quả, nơi này không có chỉ Tây Tạng mới có ) , tay thứ sáu cầm cây búa, tay thứ bảy cầm móc câu, tay thứ tám cầm Bạt Chiết La ( Vajra_ Chày Kim Cương ) , tay thứ chín cầm vòng hoa báu ( Bảo Man ) Bên trái : tay thứ hai cầm cây phướng báu Như Ý, tay thứ ba cầm hoa sen, tay thứ tư cầm bình Táo Quán, tay thứ năm cầm sợi dây, tay thứ sáu cầm bánh xe, tay thứ bảy cầm vỏ ốc ( Loa ) tay thứ tám cầm Hiền Bình, tay thứ chín cầm rương Kinh Bát Nhã Ba La Mật. Phía dưới Bồ Tát làm ao nước. Trong ao có 2 vị Long Vương ( Nàga Ràja ) là Nan Đà ( Nanda ) và Ô Bạt Nan Đà ( Upananda ) cùng nâng cuống hoa sen, ở trên hoa sen an Chuẩn Đề Bồ Tát ( Cunõdhe Bodhisatva ) . Vòng tròng chung quanh Tượng ấy an lửa rực sáng. Tượng ấy tác con mắt thương xót nhìn xuống. Hành Giả ngồi ngay bên dưới, tay cầm lò hương, hướng mặt lên trên nhìn Bồ Tát. Ở phía trên Bồ Tát vẽ 2 vị Tĩnh Cư Thiên. Tượng Pháp như vậy, xong. PHẬT THUYẾT THẤT CÂU ĐÊ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐÀ LA NI KINH ( Kèm Niệm Tụng Quán Hạnh Pháp ) _ Hết_ 19/10/2002
-
Phật Mẫu Chuẩn Đề Vương Bồ tát Trong kinh Chuẩn Đề Đại Minh Đà La Ni có ghi Bồ tát Chuẩn Đề là hóa thân của Đức Quán Thế Âm, thị hiện vào trong sáu đường sanh tử để hóa độ chúng sanh. Bồ tát Chuẩn Đề có thệ nguyện hộ trì Phật pháp và hộ mạng cho những chúng sanh nghiệp chướng sâu dày, thân nhiều tật bệnh… Phật Mẫu Chuẩn Đề tên Phạn là Cundì, tên Hán văn là Thất Câu Chi Phật Mẫu hay Thất Câu Đê Phật Mẫu, Chuẩn Đề Bồ tát. Ngài là một trong lục Quan Âm của Phật giáo, trong Tạng Giới Mạn Đà La ghi Chuẩn Đề là một trong 3 vị Phật Mẫu thuộc Biến Tri Viện. Thân Bồ tát Phật Mẫu Chuẩn Đề có màu vàng trắng hay màu vàng lợt, ngồi kiết già trên đài sen, có hào quang tỏa sáng xung quanh, mình mặc thiên y, trên đầu trang điểm ngọc anh lạc. Đầu đội mão báu có ngọc lưu li rũ treo, có 18 tay đều đeo vòng xuyến khảm xà cừ và mỗi tay đều cầm các loại khí cụ biểu thị cho các Tam muội gia. Phật Mẫu Chuẩn Đề có 3 mắt, chuyên hộ trì Phật pháp và bảo hộ những chúng sinh có mạng sống ngắn ngủi được thọ mạng lâu dài. Pháp môn tu hành của vị Bồ tát này là trì tụng Phật Mẫu Chuẩn Đề thần chú: “Khể thủ quy y Tô tất đế. Đầu diện đảnh lễ Thất cu chi. Ngã kim xưng tán Đại Chuẩn Đề. Duy nguyện từ bi thùy gia hộ. (Cúi đầu lạy pháp Tô tất đế Chân thành đảnh lễ bảy ức Phật Con nay ca ngợi Đức Đại Chuẩn Đề Xin Ngài duỗi lòng từ bi gia hộ). Nam mô tát đa nẫm, tam miệu tam bồ đà câu chi nẫm, đát diệt tha. Án, chiết lệ chủ lệ Chuẩn Đề ta bà ha”. Hiện thân của Chuẩn Đề Bồ tát có nhiều hình hài, nhưng chân thân của Ngài như sau: Bửu tượng của Ngài có nhiều vẻ quang minh tốt đẹp, đều chiếu diệu cả mình, còn thân tướng thì sắc vàng mà có lằn điển quang trắng. Ngài ngồi kiết già, trên thì đắp y, còn dưới thì mặc xiêm đều trọn một sắc trắng mà có bông, lại có đeo chuỗi anh lạc và trên ngực có hiện ra một chữ “Vạn”. Còn hai cườm tay có đeo hai chiếc vòng bằng ốc trắng, hai bên cánh tay có xuyến thất châu trông rất xinh lịch, lại hai trái tai có được ngọc bửu đương và trong các ngón tay đều có đeo vòng nhỏ. Trên đầu Ngài thì đội mão Hoa quang, trên mão ấy có hóa hiện ra 5 vị Như Lai. Nơi mặt Ngài có 3 con mắt, trong mỗi con mắt ấy lại rất sắc sảo, dường như chăm chú ngó vào chúng sanh mà có ý sanh lòng từ mẫn. Toàn thân của Ngài có mười tám cánh tay, mỗi bên chín cánh. Hai bàn tay ở trên hết thì kiết ấn Chuẩn đề, như tướng đương lúc thuyết pháp. Tay trái thứ hai cầm lá phướn như ý, còn tay mặt cầm cái thí vô úy. Tay trái thứ ba cầm một bông sen đỏ, còn tay mặt cầm cây gươm. Tay trái thứ tư cầm một bình nước cam lồ, còn tay mặt cầm một xâu chuỗi Ni ma bửu châu. Tay trái thứ năm cầm một sợi dây Kim cang, còn tay mặt cầm một trái la ca quả. Tay trái thứ sáu cầm một xa luân, còn tay mặt cầm một cái búa. Tay trái thứ bảy cầm pháp loa, còn tay mặt cầm cái thiết câu. Tay trái thứ tám cầm một bình như ý, còn tay mặt cầm một cái chày kim cang. Tay trái thứ chín cầm một cuốn kinh Bát nhã Ba la mật, còn tay mặt cầm một xâu chuỗi dài. Ngài ngồi trên tòa sen, dưới có hai vị Long Vương ủng hộ. Đó là bửu tượng của Ngài đại lược như vậy, nếu ai có lòng trì niệm, muốn chiêm vọng và quán tưởng, thì vọng niệm chẳng sanh mà chơn tâm hiển hiện. Nếu công phu thuần thục lâu rồi, chẳng có chút gì gián đoạn, thì sẽ đặng phước quả rất rộng lớn, có ngày đạt tới nơi cực quả bồ đề. Trong Kim Cương Giới thì Chuẩn Đề được nhận biết dưới danh hiệu Kim Cương Hộ Bồ tát (Ràksïa Bodhisatva) là một trong 4 vị Bồ tát thân cận của Đức Phật Thích Ca ở phương Bắc. “Nam mô tát đa nẫm tam miệu tam bồ đà câu chi nẫm đát điệt tha. Án, chiết lệ, chủ lệ, Chuẩn Đề ta bà ha”. Đức phật chỉ rõ: Nếu có Tỳ khưu, Tỳ khưu ni, ưu bà tắc, ưu bà di nào thọ trì đọc tụng thần chú này mãn 80 vạn biến thì những tội ngũ vô gián đã tạo từ vô lượng kiếp đến nay hết thảy đều được tiêu diệt. Sanh ra chỗ nào cũng gặp chư Phật và Bồ tát, đời sống tùy ý đầy đủ, đời đời thường được xuất gia, trì đủ luật nghi tịnh giới của Bồ tát, thường sanh nhơn thiên, không đọa ác thú, thường được chư thiên thủ hộ. Nếu có những người tại gia nam nữ thường trì tụng, thì nhà kẻ ấy không có khổ não tai ương, bịnh khổ. Ra làm việc gì đều được hanh thông, nói ra lời gì đều được tín thọ. Nếu tụng thần chú này mãn 10 vạn biến trong chiêm bao thấy được chư Phật, Bồ tát, Thanh Văn, Duyên Giác tự thấy trong miệng mửa ra vật đen. Nếu có ngũ nghịch tội thì không được thấy những hảo mộng như vậy. Nên tụng mãn 70 vạn biến thì sẽ được thấy những tướng như trước cho đến mộng thấy mửa ra sắc trắng như sữa, cơm, vân vân thời phải biết người đó tội diệt, được tướng thanh tịnh. Chúng ta sinh trong thời mạt pháp, pháp nhược, ma cường, Đức Phật Mẫu Chuẩn Đề là một trong các vị Bồ tát phát nguyện hộ trì người tu tập gặp nhiều chướng duyên trở ngại. Vì thế, mỗi hành giả trên bước đường tu học cần đặt chánh tín trọn vẹn và tâm thành đảnh lễ, một lòng trì niệm thần chú Phật Mẫu Chuẩn Đề cầu Bồ tát gia hộ, ngõ hầu vượt thoát mọi chướng duyên, ma nghiệp là điều không thể thiếu của người con Phật chúng ta. Trí Bửu
-
Sự tích Quán Thế Âm Bồ Tát Hiện nay Quan Thế Âm đã chứng được bực Đẳng Giác Bồ Tát, ở cõi Cực Lạc mà hầu hạ Đức Phật A Di Đà, hằng ngày tiếp dẫn chúng sanh trong mười phương đem về cõi ấy. Đức Quan Thế âm Bồ Tát, khi chưa xuất gia tu hành, có một kiếp Ngài làm con đầu lòng của vua Vô Tránh Niệm, tên là Bất Huyến Thái Tử. Trong thời kỳ vua ấy thống trị thiên hạ, thì có Phật Bảo Tạng ra đời. Vua thấy nhơn tâm xu hướng theo lời giáo hóa của Phật càng ngày càng đông, bèn suy nghĩ rằng: “Nếu Đạo Phật không phải chơn chánh, thì đâu có lẻ người ta sùng bái khắp xứ như vậy!” Nên vua mới phát tâm sắm đủ lễ vật đến cúng dường Phật và chúng Tăng trong ba tháng, và lại khuyên các vị vương tử và đại thần cũng làm như vậy. Khi ấy Bất Huyến Thái Tử vâng lời Phụ Vương, hết lòng tin kính, sắm đủ các món ngon quý và đem những đồ trân trọng của mình mà dưng cúng cho Phật và đại chúng trong ba tháng, không trễ nãi bữa nào và cũng không món gì kém thiếu. Quan Đại thần Bảo Hải, là phụ thân của Phật Bảo Tạng, thấy vậy khuyên rằng: “Điện hạ đã sẳn lòng tu phước mà cúng Phật cúng Tăng: vậy xin Điện hạ hãy đem công đức đó mà hồi hướng về Đạo Vô Thượng Bồ Đề, chớ nên cầu sự phước báu trên cõi Trời Đao Lợi hay là cõi Trời Phạm Thiên làm chi. Bởi vì mấy cõi ấy, tuy là cảnh vật vui tốt, nhơn dân vui sướng, căn thân đẹp đẽ, thọ mạng lâu dài, đặng phép thần thông, dạo đi tự tại, những đồ y thực sẵn có, các cuộc du hí đủ bày, trăm thức tự nhiên thọ dụng đủ đều khoái lạc, không có sự khổ như cõi nhơn gian. Cái phước báu trong các cõi đó tuy là mỹ mãn như thế, nhưng còn thuộc về hữu lậu, có hư có mất, chắc chắn gì đâu, chính là sự vô thường, thật là tướng vô định, như cơn gió thổi mau không có thế lực gì cầm lại đặng: hết vui thì xảy ra buồn, hết sướng thì trở lại khổ, dầu có sống lâu đến mấy ngàn năm đi nữa, cũng không khỏi con ma sanh tử lôi kéo vào đường nọ ngõ kia. Nếu Điện hạ cứ cầu phước báu đó, chắc không thoát khỏi ải sanh tử luân hồi: nếu đã không khỏi luân hồi, thì chưa chắc lúc nào đặng tiêu diêu tự tại. Chi bằng Điện hạ đem công đức đó mà cầu món phước báu vô lậu, không hư không mất, đời đời kiếp kiếp vượt ra ngoài ba cõi bốn dòng hưởng sự an vui vô cùng vô tận, và hồi hướng về Đạo Bồ Đề mà cầu mau thành Phật quả, đặng cứu độ chúng sanh khỏi sông mê biển khổ. Vậy phần tự lợi đã vuông tròn, mà đức lợi tha lại đầy đủ nữa. Bất Huyến Thái Tử nghe ông Bảo Hải khuyên nói như vậy, bèn đáp rằng: “Ta xem xét cả thảy chúng sanh trong đường địa ngục chịu sự khổ cực: còn kẻ nhơn gian và người thiên thượng thì đủ điều cấu nhiễm, lắm chuyện trần lao, không có chút nào đặng thanh tịnh, bởi đó mà tạo thành tội nghiệp, nên mới thọ quả báo mà đọa vào ba đường dữ là: địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh”. Bất Huyến Thái Tử đáp lại rồi tự nghĩ rằng: “Bởi chúng sanh ở trong đời không gặp đặng những người hiền nhơn quân tử, khuyên việc lánh dữ làm lành mà dìu dắt lên con đường giải thoát, chỉ gặp những kẻ tàn ác tiểu nhơn cũ dụ nhau kết bạn bè, thường xúi dục những điều bất thiện, và lại phá hư Chánh Pháp, khinh Pháp Đại Thừa, làm cho mất cả căn lành, thêm điều tà kiến, vì vậy mới che lấp tâm tánh, không biết đạo đức là gì, nên phải chịu nổi đày đọa”. Bất Huyến Thái Tử ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi thưa rằng: “ Nay tôi đối trước mặt Phật và đại chúng mà tỏ lời như vầy: Tôi nguyện đem tất cả các món công đức tôi đã từng cúng dường Tam Bảo và các món công đức tôi đã từng tu tập Pháp mầu mà hồi hướng về đạo Vô Thượng Bồ Đề. Tôi nguyện trong khi tôi tu những điều công hạnh Bồ Tát, làm những việc lợi ích cho chúng sanh, nếu tôi xem có kẻ mắc sự khốn khổ hiểm nghèo ở trong hoàn cảnh ám muội, không biết cậy nhờ ai, không biết nương dựa đâu, mà có xưng niệm danh hiệu tôi, tức thời tôi dùng phép Thiên nhỉ mà lóng nghe và dùng phép Thiên nhãn mà quan sát coi kẻ mắc nạn ấy ở chỗ nào, cầu khẩn việc gì, đặng tôi hiện đến mà cứu độ cho khỏi khổ và đặng vui . Nếu chẳng đặng như lời thề đó thì tôi không thành Phật. Thưa Đức Thế Tôn! Nay tôi vì hết thảy chúng sanh mà phát lòng đại nguyện, tu học về Pháp xuất thế, lo làm các công hạnh tự giác tự lợi, nguyện khi phụ vương tôi là Vô Tránh Niệm, trải hằng sa kiếp nhẫn sau thành Phật, hiệu là A Di Đà Như Lai ở cõi An Lạc, Thế giới, hóa độ chúng sanh xong rồi, chừng nhập Niết Bàn, Chánh Pháp truyền lại, thì tôi tu hạnh làm việc Phật sự. Đến lúc Chánh Pháp gần diệt, hễ diệt bửa trước thì bửa sau tôi chứng Đạo Bồ Đề. Xin Đức Thế Tôn từ bi mà thọ ký cho tôi, và tôi cũng hết lòng yêu cầu các Đức Phật hiện tại ở hằng sa thế giới trong mười phương đều thọ ký cho tôi như vậy nữa? Đức Bảo Tạng Như Lai nghe mấy lời nguyện ấy, liền thọ ký Bất Huyến Thái Tử rằng: “ Ngươi xem xét chúng sanh trong cõi Thiên Thượng Nhơn gian và trong ba đường dữ đều mắc những sự tội báo, mà sanh lòng đại bi, muốn đoạn trừ mọi sự khổ cực, dứt bỏ những điều phiền não và làm cho cả thảy đều đặng hưởng sự an vui. Vì người có lòng soi xét những loài yêu cầu của loài hữu tình trong thế gian mà cứu khổ như vậy, nên nay Ta đặt hiệu là: Quan Thế Âm. Trong khi ngươi tu hạnh Bồ Tát, thì giáo hóa cả vô lượng chúng sanh cho thoát khỏi sự khổ não và làm đủ mọi việc Phật sự. Sau khi A Di Đà Như Lai nhập Niết Bàn rồi, thì cõi Cực Lạc lại đổi tên là: “Nhứt Thiết Trân Bảo Sở Thành Tựu”, y báo càng tốt đẹp hơn trước đến bội phần. Chừng đó, đương lúc ban đêm, độ trong giây phút, có hiện ra đủ thức trang nghiêm, thì ngươi sẽ ngồi trên tòa Kim Cang ở dưới cây Bồ Đề mà chứng ngôi Chánh Giác hiệu là: “Biến Xuất Nhất Thiết Quang Minh Công Đức Sang Vương Như Lai”, phước tròn hạnh đủ, muôn sự vẻ vang, đạo Pháp cao siêu, thần thông rộng lớn, rất tôn rất quý, không ai sánh bằng mà lại sống lâu đến chín mươi sáu ức na do tha kiếp, rồi khi diệt độ thì Chánh Pháp còn truyền bá lại đến sáu mươi ba ức kiếp nữa. Bất Huyến Thái Tử nghe Phật Bảo Tạng thọ ký rồi, liền vui mừng mà thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Nếu sự thề nguyện của tôi quả đặng hoàn mãn như lời Ngài nói đó, thiệt là hân hạnh biết bao! Nay tôi lạy Ngài xin làm thế nào cho các Đức Phật hiện ở hằng sa thế giới cũng đều thọ ký cho tôi và khiến cho cả thảy thế giới đều đồng thời vang ra những tiếng âm nhạc, và các kẻ chúng sanh nghe tiếng ấy đều đặng thân tâm thanh tịnh mà xa lìa mọi sự dục vọng trên đời”. Lúc Bất Huyến Thái Tử thưa rồi, đương cúi đầu Lễ Phật, tức thì các Thế giới tự nhiên rung động vang rền, kêu ra những tiếng hòa nhã, ai ai nghe đến cũng sanh lòng vui vẻ, là cho các điều dục vọng bổng nhiên tiêu tan cả. Khi ấy, thoạt nghe các Đức Phật ở mười phương đồng thinh thọ ký cho Quan Thế Âm rằng: “Đương khi thời kiếp Thiện trụ, ở tại cõi Tán Đề Lam thế giới, nhằm lúc Phật Bảo Tạng ra đời mà giáo hóa chúng sanh, có con của vua Vô Tránh Niệm, tên là Bất Huyến Thái Tử phát tâm cúng dường Phật và Đại chúng trong ba tháng: Do công đức đó, nên trải hằng sa kiếp sẽ thành Phật, hiệu là: Biến Xuất Nhất Thiết Công Đức Quang Minh Sang Vương Như Lai, ở về thế giới Nhứt Thiết Trân Bảo Sở Thành Tựu”. Bất Huyến Thái Tử khi đặng Chư Phật thọ ký rồi, thì lòng rất vui mừng. Đến khi mạng chung, thì Ngài thọ sanh ra các đời khác, trải kiếp nọ qua kiếp kia, hằng giữ bổn nguyện, gắng công tu hành, cầu đạo Bồ Đề, làm hạnh Bồ Tát, chăm lòng thi hành những sự lợi ích cho chúng sanh, không có khi nào mà Ngài quên cái niệm đại bi đại nguyện. Hiện nay Quan Thế Âm đã chứng được bực Đẳng Giác Bồ Tát, ở cõi Cực Lạc mà hầu hạ Đức Phật A Di Đà, hằng ngày tiếp dẫn chúng sanh trong mười phương đem về cõi ấy. Đến sau, Đức Phật A Di Đà nhập Niết Bàn rồi, thì Ngài kế ngôi Phật vị mà giáo hóa chúng sanh. Trích "Sự tích Phật A Di Đà và bảy vị Bồ tát" - Phật học tạp chí Từ Bi Âm (200-204) SỰ TÍCH ĐỨC QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT Huệ Lương Quán Âm Bồ Tát là danh hiệu của một vị Phật đáng lẽ đã chứng quả Phật, nhưng còn nguyện ở lại cõi ta bà để cứu độ chúng sinh. Người ta cũng gọi Ngài là Quan Âm Phật, Quan Âm Như Lai, Quan Thế Âm, Quan Âm Nam Hải, Phổ Đà Phật Tổ, v.v... Quyền pháp năng lực của Ngài cao siêu. Quyển kinh nói về Ngài, mà hiện nay phái Bắc Tôn (Trung Hoa, Cao Ly, Nhựt Bổn, Việt Nam) còn truyền tụng là quyển “Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Quan Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm”. Theo lời kinh Phổ Môn bất cứ là hạng nào trong chúng sanh, bất cứ là ở vào tình cảnh nào, lúc nào, hễ cầu đến Ngài, niệm danh hiệu Ngài thì đặng cứu ngay. Ngài dùng huyền diệu cứu vớt chúng sanh không biết muôn ức nào mà kể. Nếu cầu Ngài với danh hiệu thuộc về một phân thân nào của Ngài thì Ngài xuất hiện y theo phân thân ấy để cứu độ. Kinh Phổ môn có biên rành 12 điều đại nguyện của Ngài. Theo kinh truyện để lại, Ngài phân thân giáng trần 33 kiếp, khi thì mượn xác nam nhi, khi thì làm thiếu nữ, khi thì ở vào cảnh quyền quý cao sang, khi thì vào hàng bần cùng cơ khổ, khi thì sanh làm đạo sĩ, khi thì làm tỳ khưu, v.v... Hiện nay đời còn truyền tụng hai kiếp giáng trần làm phụ nhơn của Ngài là: kiếp thứ mười làm bà Thị Kính, kiếp chót làm bà Diệu Thiện. Sau khi thoát kiếp chót này Ngài được chứng quả Phật Tổ tại Phổ Đà Sơn (Nam Hải). SỰ TÍCH THỨ NHỨT: QUÁN ÂM THỊ KÍNH Trước kia Đức Quan Âm Bồ Tát tu đã đặng tám kiếp rồi. Qua tới kiếp thứ chín Ngài phân thân nam nhi đi tu chứng bực tỳ khưu. Khi kiếp thứ chín của Ngài gần mãn thì Đức Thích Ca giáng xuống thử lòng. Đấng Thế Tôn hiện ra một người con gái tới lần khân ép nài vị tỳ khưu kia kết duyên với mình. Vị này mới thốt rằng: “Có chăng họa may là kiếp sau, chớ kiếp này vì lời thề nguyện tu trì thì không thể nào đặng.” Vì lời hứa ấy mà sau khi mãn kiếp thứ chín rồi vị tỳ khưu kia phải giáng trần đầu thai làm thiếu nữ, suốt đời phải chịu trăm điều cay đắng về vấn đề tình duyên để thử lòng Ngài coi ra sao. Ấy là phép Phật định vậy. Vâng lịnh của Đức Phật Tổ chơn linh vị Bồ Tát kia bèn giáng trần đầu thai làm con gái nhà họ Sùng là Sùng Ông, một nhà giàu có ở xứ Cao Ly lại là nhà từ tâm chưởng đức. Hai ông bà tuổi đã cao mà không con nên đi cầu tự và sanh ra nàng Thị Kính, dung nghi đẹp đẽ, tướng mạo đoan trang. Hai ông bà mừng được chút gái để có người hôm sớm trong lúc tuổi già. Khi nàng đã đúng tuần cập kê thì gần đó có chàng Thiện Sĩ, con nhà quyền quý trâm anh cậy mai đến nói. Vợ chồng Sùng Ông thấy phải đôi vừa lứa bèn chịu gả con gái mình. Đến ngày nạp thái vu quy nàng Thị Kính buồn tủi muôn phần! Buồn là vì thấy mình là con một, một khi đã xuất giá rồi thì bề nhà sau trước quạnh hiu, lấy ai mà thần tỉnh mộ khang thế cho mình! Tủi là lỡ sanh làm con gái thì đúng tuổi phải xuất giá tòng phu rủi may phải chịu và ơn sanh thành không sao trả đặng! Cha mẹ nghe nàng than thở làm vậy bèn kiếm lời khuyên giải và nói rằng: Cha mẹ sanh con là gái, thì khôn lớn có nơi có chốn làm đẹp mặt nở mày mẹ cha đó là đủ rồi. Con chẳng nên lo điều chi khác nữa! Vả lại nhà bên chồng con cũng gần đây thì sự thăm viếng cũng thuận tiện. Nghe vậy nàng mới an lòng chiều ý muốn của cha mẹ. Từ khi về nhà chồng, nàng giữ một mực tôn kính, phụng sự nhà chồng, trong êm ngoài ấm, ai nấy đều khen. Một ngày kia nàng đương ngồi may, chàng Thiện Sĩ sau khi đọc sách mỏi mệt mới ra gần chổ nàng may mà nằm nghỉ, luôn dịp ngủ quên. Từ khi về nhà chồng đến giờ nàng chưa có dịp nhìn chàng cho chính đính. Nay có cơ hội đưa đến nàng, nhơn lúc chàng ngon giấc mà nhìn kỹ mặt đức lang quân. Chợt thấy dưới cầm chàng có mọc một sợi râu và biết coi tướng ít nhiều, nàng thấy quả là sợi râu bất lợi! Nhơn cầm sẵn cái kéo trong tay nàng mới đưa kéo ra cắt lấy. Đương lúc ấy, chàng Thiện Sĩ giựt mình thức dậy, thấy vợ cầm kéo đưa ngay cổ mình, vụt la hoảng lên rằng: “Vợ tôi muốn giết tôi.” Trong nhà vỡ lở, cha mẹ gia tướng chạy đến gạn hỏi. Nàng tình thật cứ nói ngay, không ngờ cha mẹ chồng quá ư nghiêm khắc bắt tội nàng có ngoại tình và mưu giết chồng. Nhơn cớ ấy cha mẹ chồng buộc chàng Thiện Sĩ làm tờ để vợ và mời vợ chồng Sùng Ông đến lãnh con về. Vợ chồng Sùng Ông hơ hãi tới nơi mới tường tự sự. Hai ông bà kêu con ra hỏi, rầy la than trách một hồi rồi lãnh con về. Lúc ấy Thiện Sĩ lòng như dao cắt, tưởng là việc đáng bỏ qua không dè đến nỗi rẽ thúy chia loan thì chàng ăn năn vô ngần, châu rơi lã chã. Khi nàng Thị Kính lạy từ công cô và chàng ra về, vì sợ uy cha mẹ chàng chẳng dám hở môi nói bào chữa nàng một lời nào. Về nhà, nàng Thị Kính buồn bã muôn phần. Một là buồn cho số phận long đong, tình duyên trắc trở; hai là buồn cho cha mẹ phải mang điều phiền não trong lòng. Vì nàng là một người đàn bà chân chính may rủi một chồng mà thôi, nàng khăng khăng không chịu “ôm cầm thuyền ai”. Nàng than rằng nếu có anh em đông thì nàng cũng đành nhắm mắt cho rồi để khỏi mang tiếng nhơ. Nhưng vì nàng là con một, nàng không nỡ hủy mình, sợ e thất hiếu, mà ở như vậy thật rất khổ tâm cho nên nàng quyết chí xuất gia, noi gương Phật Tổ, tu hành cho đắc đạo rồi trở về độ lại mẹ cha. Một hôm, nàng lén cải trang nam tử, rồi bỏ nhà trốn đi. Hay tin cha mẹ nghi nàng vì buồn tình xưa mà sanh nhẹ dạ theo người và sai người đi kiếm cùng nơi mà không gặp. Từ khi nàng lìa gia đình ra đi thì nàng có ý tìm một cảnh chùa để gởi thân. Đến ngôi chùa được chọn nàng gặp giờ sư cụ đang thuyết pháp. Nàng trộm xem tướng mạo thì thấy rõ đó là một bậc chơn tu, đạo pháp khá lớn. Nàng bèn xin thọ pháp quy y. Sư cụ ban đầu rất nghi ngờ nàng, bèn ngọn hỏi ngành tra vì sợ e trang thiếu niên kia sau này bán đồ nhi phế mà đắc tội với Phật Trời. Nàng thì một mực nói mình là một thư sanh, con nhà quyền quý, lòng chán công danh nên vào nương nhờ cửa Phật để gột rửa lòng phàm. Thấy chí quả quyết của vị thiếu niên, sư ông mới vui nhận cho làm đệ tử và ban pháp danh là Kính Tâm. Vì sãi Kính Tâm là nữ trá hình cho nên dung mạo khôi ngô kiều mị, làm cho hàng tín nữ trầm trồ, nhất là nàng Thị Mầu, con của một vị phú ông trưởng giả vùng ấy. Mượn cớ ra vô trong chùa, nàng Thị Mầu lắm khi đưa tình trêu ghẹo sãi Kính Tâm, nhưng nàng vẫn trơ trơ như không hay không biết. Thất vọng, Thị Mầu mới quay lại tư tình với đứa ở của nàng. Khi thai đã gần già, khí sắc nàng đổi, làng xã thấy thế mới đòi phú ông và nàng ra hỏi. Chịu đòn không kham, Thị Mầu túng phải cung xưng. Trong khẩu cung Thị Mầu quả quyết rằng mình có tư tình với sãi Kính Tâm nên mới ra cớ đỗi và xin làng rộng lượng cho sãi Kính Tâm hoàn tục kết duyên với mình. Trống mõ inh ỏi, cửa thiền xưa nay êm lặng phút chốc trở nên huyên náo, sóng dậy ba đào. Người nhà làng đến chùa đòi sư ông và sãi Kính Tâm ra nghe dạy việc. Thầy trò cùng dắt nhau đi. Đến nơi mới hay tự sự! Tá hỏa tâm thần, thầy hỏi trò có sao nói thiệt. Trò một mực kêu oan chớ không nói điều chi thêm nữa. Hương đảng đông đủ tra hỏi sãi nhỏ đủ điều, khi dọa, khi khuyên nhủ rằng: Nếu nói thật thì làng cũng chứng cho để lập gia thất. Kẻ thì mai mỉa: Sãi kia tu có trót đời không? Rốt cuộc vì không chịu xưng tội tình và một mực kêu oan cho nên sãi Kính Tâm phải bị đem ra tra tấn. Đứng trước cảnh thịt nát máu rơi và thấy trò bất tỉnh, sư ông mới động mối từ tâm đứng ra xin bảo lãnh cho trò để sau này về nhà khuyên nhủ dạy răn. Thấy thế hương đảng cũng niệm tình ưng thuận cho sư tiểu cùng về. Đến chùa, Sư ông dạy tiểu ra ở ngoài tam quan để tránh tiếng không tốt cho chùa. Thời gian qua, Thị Mầu đến ngày mãn nguyệt khai hoa, hạ sanh đặng một mụn con trai. Nàng bèn bồng hài nhi đến cửa tam quan bỏ đó rồi về, nói rằng: “Con của ngươi, đem trả cho ngươi.” Sãi Kính Tâm đương tụng kinh nghe đứa nhỏ bị bỏ dưới đất giãy giụa khóc la, động mối từ tâm người bèn ra ẵm đứa bé vào, mướn vú nuôi bên tự. Mẹ vò nuôi con nhện lắt lẻo qua ngày. Hết thời trì kinh thì sãi Kính Tâm lại phải giữ gìn bồng bế đứa trẻ. Nghe vậy, sư cụ mới vời sãi Kính Tâm vào mà trách rằng: “Trước kia con nói rằng con bị hàm oan, mà nay như thế thì chính thầy đây cũng phải nghi ngờ nữa là ai?” Sãi Kính Tâm bèn bạch rằng: “Bạch sư phụ, khi xưa sư phụ có dạy đệ tử rằng cứu đặng một người, phước đức hà sa. Đệ tử vâng lời thầy mới cứu mạng đứa trẻ này, chớ kỳ trung con không có ý chi hết.” Tuy vậy sãi Kính Tâm cũng không đặng phép vô ra trong chùa để tránh tiếng cho chùa. Đứa trẻ khi đặng hai, ba tuổi đã có vẻ thông minh và giống sãi Kính Tâm như hệt. Khi hài nhi đúng ba tuổi thì sãi Kính Tâm đến ngày phải theo Phật. Biết trước giờ phân ly, sãi Kính Tâm mới viết hai bức thơ gởi lại, một kính gởi cho sư cụ, còn một bức thì gởi cho cha mẹ ruột. Khi sãi Kính Tâm tắt hơi thì đứa nhỏ y như lời cha dặn đem bức thơ vào dâng cho sư cụ. Xem thơ xong, sư ông rất ngậm ngùi, bèn phái vài vị ni cô ra coi tẩm liệm. Khám xét xong thì mới hay sãi Kính Tâm là nhi nữ trá hình. Tin ấy truyền ra hương lân nhóm lại đòi cha con Thị Mầu đến buộc tội cáo gian và phạt phải chịu tổn phí về các cuộc tống táng và làm ma chay cho sãi Kính Tâm. Bằng chứng sờ sờ phú ông phải chịu, Thị Mầu xấu hổ muôn phần bèn quyên sinh để trốn khổ nhục. Đến ngày an táng sãi Kính Tâm thì thiên hạ đồng thấy Phật hiện trên mây rước hồn sãi Kính Tâm là nàng Thị Kính. Hai vợ chồng Sùng Ông và Thiện Sĩ đặng thơ và hay tin đau đớn này đồng có đến dự. Sau cuộc tống táng vợ xưa Thiện Sĩ ăn năn lỗi trước bèn phát nguyện tu hành. Tục truyền rằng Thiện Sĩ sau đắc quả thành con chim ngậm xâu chuỗi bồ đề, đậu một bên Đức Phật Quan Âm, Đức Phật Quan Âm cũng độ luôn con của Thị Mầu đắc quả hầu gần bên Ngài. Ngày nay, người xứ ta và người Tàu khi họa tượng Phật Quan Âm thì thường họa một bà đội mũ ni xanh hoặc đen, ngồi trên tòa sen hoặc thạch bàn, bên tay mặt có một con chim mỏ ngậm xâu chuỗi bồ đề, dưới có đứa trẻ bận khôi giáp chắp tay hầu. Ấy là con của Thị Mầu. SỰ TÍCH THỨ NHÌ: TÍCH BÀ DIỆU THIỆN HAY QUAN ÂM NAM HẢI Theo sự khảo cứu của nhà bác học Hòa Lan tên là De Groot thì trong kiếp chót của Đức Phật Quan Âm, Ngài hạ phàm làm một vị công chúa Ấn Độ, con vua Linh Ưu, niên hiệu Diệu Trang. Vào năm 2587 trước Chúa giáng sanh thuộc vào thời đại kim thiên (ciel d’or) bên Ấn Độ bên phương Tây có một tiểu quốc kêu là Hưng Lâm. Nhà vua trị vì nước ấy tên Linh Ưu (Spirituel Excellent) lấy niên hiệu là Diệu Trang (Miao Tchoang). Tứ vi xứ Hưng Lâm là như vầy: Phía Tây giáp ranh Thiên Trúc Quốc (Inde), Phía Bắc giáp ranh Xiêm La, phía Đông giáp ranh Phật Chai Quốc (Sumatra), phía Nam giáp ranh Thiên Chơn Quốc (Tiên Tchan). Trong nước Hưng Lâm cảnh tượng thái hòa là nhờ có vua hiền, tôi giỏi, bá tánh chuyên lo cày cấy, nông trang. Chánh thê của nhà vua là bà hoàng hậu Bửu Đức. Từ ngày nhà vua tức vị đến nay đã 40 năm rồi mà bà hoàng hậu chưa hạ sanh đặng vị hoàng tử nào. Thấy thế bà lấy làm buồn và xin nhà vua đi cùng bà lên núi Huê Sơn cầu tự. Núi Huê Sơn ở về hướng Tây. Trên núi ấy có một vị thần rất linh thiêng. Ai cầu chi thì đặng nấy. Vua nghe theo, một ngày kia quân gia rần rộ, xa giá nhắm Huê Sơn trực chỉ. Cầu tự xong về triều thì một ít lâu bà có thai và đến ngày sanh đặng một vị công chúa đặt tên là Diệu Thanh (Miao Tsing). Cách một ít lâu hoàng hậu lại hạ sanh một nàng công chúa tên là Diệu Âm (Miao Yin) và sau rốt sanh ra nàng công chúa Diệu Thiện (Miao Chen). Vị công chúa thứ ba này ngày sau tu hành đắc đạo lấy hiệu là Quan Âm (Quan Yin). Vì nhà vua không có con trai nên vua nhứt định truyền ngai vàng lại cho một trong ba vị phò mã (rể vua). Hai công chúa đầu là Diệu Thanh và Diệu Âm thì nhà vua đã đính hôn cho hai vị quan to thinh danh nhứt trong triều. Trái lại nàng công chúa thứ ba là Diệu Thiện thì cương quyết không chịu lấy chồng và nhứt định phế trần đi tu để thành chánh quả. Nghe con quyết định như thế nhà vua nổi cơn thịnh nộ và buộc nàng Diệu Thiện phải tuân lịnh xuất giá. Thấy thế nàng mới xin vua cha nếu ý định nhà vua như vậy thì ít nữa xin cho nàng kết hôn với một thầy thuốc và thưa rằng: “Ý con là muốn cứu chữa hàng quan lại bất tài và ngu xuẩn, những tai nạn do sự nắng lửa mưa dầu, tuyết giá mà ra, những tính xấu xa ích kỷ về nhục dục, các tật nguyền, bịnh hoạn do sự già nua cằn cỗi mà ra, sự phân chia giai cấp, sự khinh rẻ kẻ nghèo và sự tư lợi.” Nàng lại nói to lên rằng: “Chỉ có Đức Phật là được chứng quả bồ đề, minh tâm kiến tánh.” Nghe vậy nhà Vua lại càng tức giận thêm bèn hạ lệnh lột hết áo quần của công chúa và nhốt nàng vào huê viên để bị đói lạnh mà chết. Công chúa không sờn lòng. Trái lại nàng cảm ơn vua cha đã phạt nàng như thế và chỉ vui tươi mà chịu khổ hình. Các bà mệnh phụ được lệnh ra khuyến dụ nàng hồi tâm tuân ý thánh chỉ. Nàng khư khư một mực và nhứt định vào chùa Bạch Tước ẩn tu, nhập thất tham thiền. Chùa Bạch Tước thuộc quận Long Thọ (Loung Chou), tỉnh Nhữ Châu (Ju Tcheou). Hay tin ấy nhà vua không cấm cản chi, đinh ninh rằng ra nơi ấy một ít lâu công chúa chịu không nổi với những nỗi khổ cực, sẽ chán nản mà về triều. Nơi Bạch Tước Tự có mật lệnh của nhà vua phải buộc nàng làm những công việc đê tiện, hèn hạ và mệt nhọc nhứt. Nàng vẫn cúi đầu vâng chịu, không một tiếng than, là vì khi nàng làm phận sự có những hùm beo, chim chóc và thần thánh giúp sức. Biết được thế cho nên bà sư cụ chùa Bạch Tước mới cụ sớ về triều tâu vua mọi sự. Vua cha bèn nghĩ ra một chước cốt làm nàng kinh khủng bỏ chùa mà về đền. Một bữa kia quân lính đến bao vây và phóng lửa thiêu chùa bốn mặt. Sư cụ và tất cả ni cô kinh tâm tán đởm chạy ngược chạy xuôi tầm phương tẩu thoát. Tiếng kêu trời kêu đất inh ỏi! Nàng Diệu Thiện điềm tĩnh như thường. Nàng chỉ lâm râm cầu Đức Phật mà nàng nguyện theo gương và xin Ngài đến cứu nàng. Nàng bèn rút trâm cài đầu đâm vào họng và phun máu tươi lên không trung, tức thì mây kéo mịt mù, thiên hôn địa ám, mưa xuống như cầm chĩnh mà đổ. Bị đám mưa to các ngọn lửa đỏ ngất trời kia lần lần êm dịu rồi tắt. Thấy vậy quân chạy về phi báo. Nhà vua liền hạ lệnh bắt nàng và đưa về đền. Khi điệu nàng về tới, nhà vua dạy mở yến tiệc ca xang, bày một cuộc lễ hội thật lớn cốt để đem nàng trở lại quãng đời phong lưu khoái lạc. Nhưng các cuộc bài trí ấy cũng không hiệu quả gì và cho đến những điều hăm dọa ghép nàng vào tử hình cũng không thấm vào đâu. Cùng thế nhà vua mới hạ lệnh trảm quyết nàng và dạy ba quân điệu nàng khỏi đền mới hành hình. Thần hoàng bổn cảnh liền tâu sự ấy lên cho Ngọc Đế rõ. Đức Ngọc Đế hạ lệnh cho thần hoàng bổn cảnh giữ gìn hồn nàng đừng cho nhập địa phủ. Giờ hành hình đến, giám sát vừa giơ gươm lên thì gươm gãy làm hai. Giám sát bỏ gươm rút giáo toan đâm thì giáo lại tét làm hai. Giám sát chỉ còn một nước là xử giảo nàng (thắt cổ). Đến giờ hành hình thì có một trận cuồng phong thổi tới, làm cho trời đất tối tăm mà chung quanh mình nàng thì hào quang hiện ra sáng rỡ. Thần bổn cảnh liền hóa ra một con hổ, từ trong rừng xanh nhảy ra và cõng thây nàng chạy thẳng vô núi. Những kẻ đi xem hoảng chạy tứ tung. Quan quân và giám sát ảo não muôn phần, lật đật về triều tâu vua mọi sự. Nhà vua không nao núng và lại cho rằng cọp tha thây là một sự trừng phạt nặng nề, gán thêm vào sự trừng phạt của nhà vua để phạt nàng về tội bất hiếu và tội bất tuân lệnh vua cha. Nhờ huyền diệu ấy mà nàng DIệu Thiện tuy chết nhưng xác vẫn còn nguyên. Lúc ấy nàng mơ màng như thấy một giấc chiêm bao, cơ hồ như nàng đã lướt gió tung mây... Khi tỉnh lại nàng lấy làm lạ mà thấy mình ở vào một thế giới không nhật nguyệt, tinh tú, không núi non, không người, không loài vật. Bỗng chốc nàng thấy hiện ra trước mắt một vị thanh niên mặc áo màu xanh dương, hào quang chói rạng. Vị ấy đến trước mặt nàng, tay cầm một tờ giấy dài và nói rằng: Mình vưng lệnh Diêm Chúa (Yama) mời nàng xuống viếng Diêm Cung để thấy rõ ràng cảnh khốn khổ và những hình phạt mà kẻ có tội phải chịu sau khi chết. Nơi Diêm Cung mỗi khi nàng đi đến đâu nhờ sức thần thông và đức từ bi thuyết kinh của nàng các hồn bị giam cầm đều đặng cứu rỗi và thoát khỏi ngục môn hầu tái kiếp trở lại trần gian. Thập Điện Minh Vương cũng ao ước đặng nghe nàng thuyết pháp. Chiều ý Mười Vua, nhưng nàng xin rằng sau cuộc ấy các hồn tội nhân đều đặng phóng thích. Sau khi khoản ấy đã đặng các vua ưng thuận thì nàng mới dùng hết phép thần thông của nàng mà thuyết pháp. Trong nháy mắt chốn U Minh biến thành lạc cảnh và các âm hồn đều đặng trở lại cõi trần. Thấy mười cõi U đồ đã trống trơn, Thập Điện Minh Vương mới lật đật phán rằng: “Mười điện chúng ta không quyền giam cầm vong hồn nàng Diệu Thiện.” Và tức khắc dạy đưa nàng trở lại dương gian. Khi tỉnh dậy nàng Diệu Thiện lấy làm bối rối chưa biết phải đi phương nào. Lúc ấy Đức Phật Thế Tôn hiện ra trên mây dạy nàng phải ra ở núi Phổ Đà, giữa Nam Hải thuộc cù lao Hương Đảo để tu thêm. Muốn đến đó phải trải qua ba ngàn dặm đường. Bởi thế, Đức Phật Thế Tôn mới ban cho nàng một trái bàn đào vườn Tây Vương Mẫu để nàng đỡ đói khát trong một năm và nhơn có đặng trường sanh. Nàng sắm sửa thượng trình. Thấy nàng sức yếu mà đường lại xa Đức Trường Canh Thái Bạch mới truyền cho thần bổn cảnh hóa ra con hổ, cõng đưa nàng ra nơi ấy. Thần bổn cảnh tuân y và trong giây phút nàng đã đến Phổ Đà Sơn. Khi nàng tu đặng chín năm thì có một vị Phật Tiếp Dẫn đến cho các vị thần trấn Phổ Đà Sơn hay rằng nàng Diệu Thiện tu hành đạo pháp hiện nay cực kỳ cao siêu mà từ trước đến giờ chưa vị nào đạt được. Nàng đã đứng trên tất cả chư vị Bồ Tát và cai quản các đấng ấy. Hôm nay, ngày 19 tháng 02 chúng ta phải yêu cầu vị ấy nhận một địa vị cao thượng hơn để cứu rỗi và ban hạnh phúc cho quần sanh.” Sơn thần Phổ Đà Sơn bèn triệu tập tất cả các thần tiên, thánh phật vùng ấy đến chầu và xưng tụng công đức của vị Bồ Tát mới vừa chứng quả và từ nay người thường gọi là Quan Âm Như Lai, Quan Âm Nam Hải, Phật Tổ Phổ Đà Sơn. Tân Bồ Tát ngự trên tòa sen và tiếp kiến các đấng thiêng liêng đến bái kiến và khánh chúc. Lúc ấy chư thánh tiên mới định lựa một vị đồng tử để hầu Ngài. May đâu lúc ấy có một vị trẻ tuổi xưng là Hoàn Thiện Tài (Hoan Chen Tsai) nghĩa là người chỉ có đọc kinh mà đặng đức lành phép lạ. Thiện Tài đồng tử thú nhận rằng vì mồ côi cha mẹ chàng mới phát nguyện tu hành quy y Phật pháp nhưng chưa chứng quả. Nay nghe tin Nam Hải Phổ Đà Sơn có Bồ Tát ngự nên quyết chí vượt qua mấy muôn dặm đến đây để hầu Ngài và xin làm đệ tử. Trước khi ưng chuẩn lời nguyện ấy, Đức Bồ Tát muốn thử tâm chí coi ra sao, Ngài bèn truyền cho sơn thần, thổ địa hóa làm ăn cướp đến vây đánh Phổ Đà Sơn. Riêng về phần Ngài thì Ngài giả dạng sợ sệt, kêu la cầu cứu và giả té xuống hố sâu. Thấy vậy Thiện Tài đồng tử chạy theo cứu thầy và nhảy luôn xuống hố. Vì quyền năng pháp lực chưa đặng cao cho nên đồng tử phải thiệt mạng. Bồ Tát liền dùng thần thông cứu tử. Khi đồng tử tỉnh dậy thì thấy một cái xác bên mình, Bồ Tát cho biết đó là xác phàm của đồng tử và hiện nay đồng tử đã bỏ xác phàm và nhập vào cõi thánh. Từ đó Thiện Tài đồng tử một lòng phụng sự Bồ Tát trong sự cứu độ chúng sanh. Sau lại Đức Bồ Tát có thâu làm đệ tử nữ vị cháu gái của vua Nam Hải Long Vương tên là Long Nữ. Việc đã xảy ra như vầy. Ngày kia đệ tam thái tử con vua Long Vương hóa làm con cá, dạo chơi trên mặt biển, chẳng may vướng phải lưới của ông chài. Ông chài bắt cá ấy đem bán ngoài chợ. Ngự trên liên đài Bồ Tát biết rõ việc ấy, bèn sai Thiện Tài Đồng tử giả dạng thường nhơn đến mua cá ấy đem ra biển phía Nam thả. Nam Hải Long Vương nhớ ơn cứu tử con mình mới định dưng cho Bồ Tát một cục ngọc ban đêm chiếu sáng để giúp Ngài đọc sách không cần đèn, và dạy Long Nữ là con gái của đệ tam thái tử phải bổn thân đem ngọc đến dưng. Đến nơi dưng ngọc xong, Long Nữ rất cảm phục huyền năng và đức độ của Bồ Tát và cầu xin Ngài cho theo hầu Ngài cùng quy thuận Phật pháp. Bồ Tát ưng cho. Từ ấy Long Nữ đặng thâu làm đệ tử hiệp cùng với đồng tử Thiện Tài mà phụng sự Ngài. Từ khi Diệu Trang Vương dùng chước độc mà hại nàng Diệu Thiện thì nhà vua phải một chứng bệnh hết sức khổ sở. Thân thể nhà vua phải thúi tha đầy ung thư ghẻ chốc làm cho nhà vua nhức nhối đau đớn vô hồi. Đức Bồ Tát phóng đại quang minh biết rõ mọi sự. Nhà Vua lúc ấy hạ lệnh đăng bảng cầu danh y, Bồ Tát bèn giả dạng một nhà sư già đến xin chữa bịnh. Khi đến trước mặt vua thì nhà sư bèn tâu phải kiếm cho đặng đôi mắt và một đôi cánh tay của thân nhân nhà vua mới trị đặng bịnh, nhưng mà phải ra núi Phổ Đà mới kiếm đặng hai món ấy. Vua liền phái hai vị quan cấp tốc đến Phổ Đà Sơn để tìm hai món vừa nói. Thấy vậy hai vị phò mã rất bất bình và âm mưu định giết nhà sư và sau đó thí vua mà soán ngôi. Bồ Tát rõ sự việc ấy và đã sai Thiện Tài đồng tử giả làm tên thị vệ hầu bên cạnh vua. Khi một tên quân của hai vị phò mã dưng cho vua một chén thuốc độc nói dối là của nhà sư dạy đem cho vua ngự thì tên thị vệ kia tiếp bưng chén ấy và sẵn tay làm đổ ngay xuống đất. Đang lúc ấy một người lẻn vào phòng nhà sư để thích khách. Bồ Tát bèn dùng thần thông làm cho tên ấy tê liệt không còn hoạt động nữa và bị bắt trói. Cơ mưu bại lộ, hai vị phò mã vì sợ bị khổ hình nên đã uống độc dược tự tử. Hai vị công chúa phải tội liên can đều bị biếm vào lãnh cung đời đời cấm cố. Hai nàng mới ăn năn, noi gương em mình là Diệu Thiện lo tu hành. Khi hai nàng đã tấn hóa nhiều về con đường tu niệm thì Bồ Tát và Thiện Tài đồng tử hóa ra hai thớt tượng bạch mà đưa hai vị công chúa đến cảnh Phật Đài để tránh xa mùi tục lụy. Từ ngày hai vị sứ giả phụng mệnh nhà vua, tuôn mây lướt sóng trải biết bao khổ cực mới đến Phổ Đà Sơn, Thiện Tài đồng tử phụng lịnh Bồ Tát hiện ra tiếp rước. Hai sứ giả trình bày mọi sự rồi được đến yết kiến Bồ Tát. Bồ Tát Diệu Thiện ngồi trên liên đài bèn trao cho hai vị sứ giả con mắt bên tả và cánh tay bên tả của mình. Việc xong sứ giả cáo tạ rồi hồi trào, và dưng lên cho vua và hoàng hậu hai món đã kiếm đặng. Hoàng hậu nhìn lên cánh tay tả thấy có nốt ruồi và sau khi nghe sứ giả tả dung mạo người đã cho nhà vua hai vật ấy thì quả quyết đó là con mình và đau đớn không ngần. Nhà sư bèn trộn hai món ấy với ít vị thảo dược rồi đem tất cả đắp lên nửa thân bên trái của nhà vua thì nhà vua tức khắc khỏi đau phía bên mặt. Thấy thế nhà sư bèn tâu vua xin sứ giả ra Phổ Đà Sơn tìm cho đặng con mắt phía tay mặt và cánh tay mặt. Sứ giả vâng lệnh ra đi, không bao lâu đem về dưng đủ hai món. Nhà sư cũng làm y như trước thì nửa thân bên phải của nhà vua khỏi ngay. Từ ấy vua Diệu Trang hoàn toàn lành bịnh. Trong triều, ngoài quận ai ai cũng đồng biết rằng nhờ con chí hiếu là Diệu Thiện mà nhà vua mới khỏi bệnh ngặt nghèo. Sau khi khỏi chết vua cùng hoàng hậu cám ơn cứu tử, định ra Phổ Đà Sơn một chuyến để tạ ơn. Xa giá đăng trình gặp không biết bao là nguy nan, nhưng đều nhờ Bồ Tát dùng phép thần thông mà cứu khỏi. Đến nơi vua cùng hoàng hậu thấy Bồ Tát tọa thoàn trên liên đài mất cả hai mắt và hai tay. Nhìn biết là con mình nhà vua ăn năn xúc động vô cùng bèn quỳ xuống cầu nguyện cho con đặng sống và đặng huờn y hai con mắt và hai tay. Khẩn nguyện xong thì nhà vua và hoàng hậu thấy con mình hiện trước mắt, tay mắt đủ, hình dạng mạnh khỏe như xưa. Thấy phép thần thông vô biên của Bồ Tát vua cùng hoàng hậu nhứt định lìa nơi điện ngọc đền vàng, lánh mình trần tục tìm đàng thiên thai. Huệ Lương
-
Giác Ngộ Online Hình ảnh Đức Phật Di Lặc-Mật Tông-Tây Tạng Hình tượng Đức Phật Di Lặc có nhiều phong cách tạo hình khác nhau,Mọi người Phật tử khi nói đến Đức Di Lặc ai cũng hình dung là một vị Phật miệng cười,bụng bự,nhưng chúng ta ít khi nào nghĩ Đức Phật Di Lặc có nhiều thể loại khác nhau tùy theo từng quốc gia , các bộ phái mà hình ảnh của Ngài được thể hiện khác nhau. Dưới đây GNO sưu tập 6 ảnh Đức Di Lặc thuộc Mật Tông-Tây Tạng xin giới thiệu đến đọc giả . Sưu tập.