Thiên Đồng

Hội viên
  • Số nội dung

    6.278
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    75

Everything posted by Thiên Đồng

  1. (tiếp theo) Ngày Canh Thân tháng Đinh Tị năm Mậu Tí Vận Thủy giờ hợi. quẻ càm ứng: Ngũ tử hợp quần bất hiếu động (cái này để ghi nhớ thui, chứ hong ý gì hết, Hihi) an TỬ ĐẠI AN Riêng Việt Nam Nông nghiệp: nhà nước sẽ có những quyết sách chú trọng tăng mục tiêu sản lượng nông sản sang các nước phương Tây chủ yếu vẫn là lúa gạo và nông phẩm. Sẽ đạt được mục tiêu và tăng hơn mục tiêu 9.5%. Sẽ gặp nhiều cạnh tranh và vướn mắc. Thủy Hải sản: nhu cầu mua và xuất khẩu sẽ rất cao, nhưng cung không đáp úng được cầu vì sản lượng không đủ hoặc do thiên tai. Du Lịch: Du lịch sẽ phát triển mạnh trong ngành du lịch nghỉ dưỡng, giao dịch hơn là các tour tham viếng khám phá. Tháng 6 AL sẽ đắc tour. Các nước phát triển Tử kim tử ở tị. Các nước này sẽ chịu ảnh hưởng của những cuộc khũng hoảng kinh tế thế giới nhưng sẽ giữ được cân bằng động thái. Các nước Kém phát triển Tử kim vượng ở thân. Các nước này càng lâm vào tình trạng bi đát, từ khũng hoảng kinh tế dẫn đến vấn đề xã hội càng nặng nề hơn. (Mong Su phụ Thiên Sứ sửa bài và chỉ lại phương pháp luận quẻ. Đệ tử rất lúng túng trong cách giải và luận cho nên nếu sai cũng là chuyện bình thường. Còn đúng là chuyện...bất thường. hihi) Hết rùi.
  2. Đây là bài tập dành riêng cho Thanhtrang và Lactuong: Nền kinh tế thế giới năm nay sẽ diễn biến như thế nào? Ngày Canh Thân tháng Đinh Tị năm Mậu Tí Vận Thủy giờ hợi. quẻ càm ứng: Ngũ tử hợp quần bất hiếu động (cái này để ghi nhớ thui, chứ hong ý gì hết, Hihi) an TỬ ĐẠI AN Tử Kim hưu, Đại An Thổ tù ở vận thủy và tý Thủy. Thiên can khắc vận. Quẻ thiên về các nước phưong Tây và Tây Tây Bắc. Tình hình kinh tế chung: Các nước Mỹ, Anh, các nước thuộc cộng đồng chung Châu Âu...sẽ có những những bước khó khăn trong nền kinh tế và những lúng túng trong các quyết sách trong việc an sinh xã hội. Tài chánh: Đồng USD, bảng Anh, Mark Đức, Euro... sẽ bị trượt giá gây trở ngại lớn. Các Ngân hàng tài chánh thế giới sẽ có những chính sách giải ngân gấp rút. Các cổ phiếu bị giảm giá, nhiều tập đoàn kinh tế lớn sẽ bán đi số lượng lớn cổ phiếu. Thị trường chứng khoán sẽ có một cuộc mất giá nặng nhất và đểm số thấp nhất vào tháng 11, 12 AL. tháng 6 AL, sẽ có một cơn sốt tụt điểm mạnh khởi đầu. Xuất khẩu: sẽ được đẩy mạnh, nâng mục tiêu xuất khẩu lên cao, những ngành kim khí, điện máy, ô tô. mô tô, kỹ thuật công nghệ cao, hàng không sẽ được đẩy mạnh xuất khẩu hay chuyển giao công nghệ. Nhập khẩu: chỉ nhập khẩu các hàng nhu yếu phẩm, thực phẩm và nông sản. Hạn chế thấp nhất giá trị nhập khẩu. Bất động sản: ngành bất động sản, kết trúc, xây dựng sẽ không được mùa. Những phương án, công trình hầu như chựng lại. Việc mua bán bất động sản sẽ gặp những khó khăn và đi vào khủng hoảng, tuy không nghiêm trọng, nhưng dài lâu. Các hợp đồng giao dịch sẽ ít đi. Hàng không: Vận chuyển hàng không sẽ rất thuận lợi, nhưng cũng cần phải chú trọng chất lượng và an toàn. Quân sự: việc mua bán vũ khí ngầm ở các nước phương Tây sẽ thấy nhiều hợp đồng béo bở. Riêng Việt Nam Bất động sản: Các sàn giao dịch đều vắng vẽ, dù các kế hoạch thúc đẩy mời gọi mua sản phẩm diễn ra gấp rút, nhưng nhu cầu mua vẫn còn thấp, ít và nhiều thận trọng. Kế hoạch đầu tư những cơ sở hạ tầng, những công trình lớn, công trình dân dụng sẽ gập khó khăn và trì trệ trong tiến độ. Các sàn giao dịch sẽ hoạt động cần chừng. Một cơn mất giá cổ phiếu sẽ diễn ra và tháng 11, 12 AL, có khả năng tình trạng điều hiu sẽ kéo dài sang năm sửu. Lạm phát mạnh sẽ diễn ra vào tháng 7 AL. VND lại mất giá. Các ngành kim khí sắt thép sẽ chựng, vì giá nguyên liệu cao. Việt Nam sẽ nhập siêu trong những ngành có đầu tư trang thiết bị kỹ thuật, công nghệ. như kỹ thuật tin học, vận tải, hàng không, cơ khí. Vận tải đường biển, đường hàng không sẽ được nhiều hợp đồng có giá trị cao. rất phát triển. Ngành đóng tàu, máy bay sẽ thuận lợi. (còn tiếp)
  3. Ở xóm LacTuong có một cái miểu, gọi là miểu Ông Tà, trong đó toàn thờ những cục đá lớn có, vừa có,nhỏ có. Nhưng đám con nít LacTuong thời đó không ai dám sờ vào những cục đá đó, vì được nghe nói rằng Ông Tà là những cục đá đó rất linh, và những cục đá này có thể tự lớn dần lên và tự đẻ ra đá con. Hồi nhỏ, LacTuong nghe thật thú vị, vì vậy cứ mỗi lần đến những ngày gần Tết Ông Tiêu nhằm ngày rằm cô hồn tháng bảy thì xem các ông các bà "tắm đá". LacTuong để ý 2,3 năm liền cục đá bự nhất gọi là đá Ông Tà và vài đá con xem xem có lớn tí nào không? và có đẻ "con đá" nào không? Vậy mà suốt 2, 3 năm liền cho đến tận bây giờ thì đá ông, đá cha, đá mẹ, đá con...đều vẫn vậy, Vẫn chẳng thấy ốm hơn hay mập ra thếm chút nào. Thiệt là thất vọng lắm ta ơi!! Sau này mới biết đó là tục thờ đá của người khờ-me còn sỏt lại ở Việt Nam. Ở đó có một tượng thần, mà dân trong hẻm gọi là Ông Tà, chắc bằng đồng, vì đen thui, trong những năm khó khăn những "anh chị" hút chích đã "thỉnh" Ông Tà ra...chợ ngồi để lấy một chút tiền cho qua cơn vã thuốc. Sau này mới biết đó là tượng thần SiVa hay Brama của Ấn giáo. Thế thì Cục đất (đá) mà biết đẻ, biết to / thì mấy sư mấy sãi mặc mo cau hết rồi. Hic
  4. Alo, alo, Lactuong là người mù tịt về vi tính, chỉ biết mổ cò gõ chữ thui. Nhưng cũng xin góp một tí râu ria, mầu mè cho phần này. Cho hỏi PhamThaiHoa rằng cái dòng chữ "Lac Việt Độn Toán" tựa đề trên có thể thay đổi bằng một font chữ khác cho thấy có nét thư pháp hơn, được hay không? Nếu đồng ý thì LacTuong sẽ cho một mẩu thư pháp khác, tự tay mình thiết kế. Và như vậy thì LacTuong sẽ gửi theo đường nào? như thế nào để đến tay PhamThaiHoa? :rolleyes:
  5. Vừa đọc xong thì nghe cái "bụp", từ trên bàn thờ rớt xuống trái dừa, nước lênh láng. Thôi thì lấy quẻ vậy: Ngày ất mão 10 tháng đinh tị năm mậu tí giờ tí KHAI ĐẠI AN Việc điều trị mắt cho SV Long sẽ được nhiều cơ quan hữu trách quan tâm (Đại An), sẽ có những sự giúp đỡ (Khai). Nhưng tiến trình chuẩn bị cho việc chữa trị sẽ chậm. Nếu điều trị trong nước, thì sẽ điều trị ở Tp HCM. Nếu ra nước ngoài thì sẽ đi một trong những nước châu Âu. Kết quả có thể sẽ khả quan (Sinh tốc hỷ). LacTuong :rolleyes:
  6. * Trên con bài tổ tôm - chỉ người Việt chơi - thì hình minh họa trên đó lại là y phục cổ Nhật Bản. Nào giờ, không để ý cái này, chắc LT tậu thử một bộ bài cho biết. * Đến thế kỷ thứ X, giới quý tộc Nhật vẫn ăn trầu và nhuộm răng đen. Cách đây lâu lắm, LT có nhìn thấy qua những tranh thủy mặc Nhật Bản, có vài tấm tranh vẽ những vị tướng quân tóc búi và đặc biệt là hàm răng đen.Rỏ ràng là tác giả thể hiện nhân vật có hàm răng đen. Nhưng vì không có liên tưởng đến tục nhuộm răng đen ở nước mình nên không để ý. Bây giờ thấy Sư phụ Thiên Sứ viết ra đây thì quả là thú vị. Chắc có thể tìm trong hội họa Nhật Bản thì cũng được ít nhất một tác phẩm. * Tục xăm mình phổ biến của người Nhật. Cái này quá phổ biến. Những tên mafia Nhật hay những người mang tinh thần yêu nước Nhật đều xăm mình rất rùng rợn. LacTuong :D
  7. Gửi ThanhTrang Nhìn thấy cái khăn treo trên cửa cái, thử xủi quẻ Ngày quý sửu 8 tháng đinh tị năm mậu tí giờ tí THƯƠNG XÍCH KHẨU Kim khắc mộc, Thương mộc vượng tướng. Đây là việc nhùn nhằn đấu tranh tư tưởng nửa muốn đi nửa muốn không. Có thê TT vướn phải chuyện buồn phiền, không vừa lòng nên không muốn đi. Nhưng cuối cùng thì phải cố mà đi (Sinh Tốc Hỷ). Giảng viên là một ...anh thầy "trẻ măng" hà. Nè, đố mà người ta đoán trúng thì... có thưởng hong zậy? hehe LacTuong
  8. Ngày mùng 9 tháng 4 Âm lịch này là hội nghị Phật giáo quốc tế họp tại Hanoi. Anh chị em dự báo xem thời tiết Hanoi trong suốt thời gian hội nghị sẽ như thế nào? Vừa xem xong thông báo chiêu dụ của Su Phụ Thiên Sứ thì có người hàng xóm đến muốn trả tiền cho người nhà, nhưng người nhà lại ngủ rồi, LacTuong bảo rằng để mai thanh toán cũng được. Do vậy liền lấy quẻ: Ngày Tân Hợi tháng Đinh Tị năm Mậu Tí giờ Hợi (22h17) Ngày 13/5/08 TỬ XÍCH KHẨU Thuần Kim quái hưu tại nhật, tại thời, tù tại nguyệt Tị. Thời tiết tại Hà Nội ngày này sẽ tương đối bất thường, có mây giông, trời oi, đôi khi gió mạnh, nắng thất thường gián đoạn, ban ngày không mưa, chiều lại có mưa vào khoản giờ dậu tuất, 17h00 - 21h00. Ngày 14/5/08 KINH TIỂU CÁT 3 Kim khắc một Mộc, tuy vậy Kim hưu ở Hợi, Mộc vượng sinh. Thời tiết có biến chuyển bất thường, ban ngày nắng đẹp, Trưa chiều có mây giông, tối có mưa rào vài nơi. Nhiệt độ dể chịu, trong gió có khí lạnh. Ngày 15/5/08 KHAI VÔ VỌNG Âm thổ tuy vượng nhưng hưu ở nhật thời. Ban ngày trời chuyển mây, giờ Tị có mưa, giờ hợi có mưa to. Nhiệt độ nóng ẩm oi bức. Ngày 16/5/08 HƯU ĐẠI AN Thủy được kim sinh vượng ở hợi, Thổ hưu. Mưa từ đầu hôm, từ giờ tí đến tị Chiều lại không mưa. Nhiệt độ hạ thấp. Trời mát mẻ hoặc có khí lạnh. Ngày 17/5/08 SINH LƯU NIÊN Thủy hưu mộc vượng Ngày này không mưa. Trời không mây. Nống ẩm. NHìn chung tình hình thời tiết tại Hà Nội trong nhưng ngày diễn ra Lễ Phật Đản Vesak từ ngày 13/5/08 đến 17/5/08 thời có những chuyển biến bất thường. Nóng ẩm, oi bức. Có mưa rải rác. Ngày đầu trời nóng nhất, ngày 16/5/08 nhiệt độ thấp nhất. Đoán từng ngày có lẽ hợp lý hơn. LacTuong
  9. Ngày mùng 9 tháng 4 Âm lịch này là hội nghị Phật giáo quốc tế họp tại Hanoi. Anh chị em dự báo xem thời tiết Hanoi trong suốt thời gian hội nghị sẽ như thế nào? Vừa xem xong thông báo chiêu dụ của Su Phụ Thiên Sứ thì có người hàng xóm đến muốn trả tiền cho người nhà, nhưng người nhà lại ngủ rồi, LacTuong bảo rằng để mai thanh toán cũng được. Do vậy liền lấy quẻ: Ngày Tân Hợi tháng Đinh Tị năm Mậu Tí giờ Hợi (22h17) TỬ XÍCH KHẨU Thuần Kim quái hưu tại nhật, tại thời, tù tại nguyệt Tị. Trong suốt thời gian hội nghị Phật giáo (Vesak) họp tại Hà Nội, Thời tiết tại nơi này sẽ tương đối bất thường, có mây giông, trời oi, đôi khi gió mạnh, nắng thất thường gián đoạn, không mưa. Nam mô Bổn sư thích ca Mâu ni Phật. LacTuong
  10. LacTuong xin gợi ý topic
  11. Xin vui lòng cho biết ông nghĩ thế nào về những lời trên đây của ông Hà Văn Thuỳ05/11/2006 Ông Hồ Thanh Thuỷ, 128 Tôn Thất Hiệp, P.13, Q.11, TPHCM: Trên KTNN 538, ông đã bác ý kiến của Nguyễn Tài Cẩn để khẳng định rằng Thần Nông, Đế Nghiêu, Đế Thuấn, Đế Tân là tên bằng tiếng Hán của những nhân vật người Trung Hoa. Nhưng trong bài Cuốn sách gây nhiều ngộ nhận, có sẵn trong máy chủ Google, tác giả Hà Văn Thuỳ đã viết: “Tiếp thu toàn bộ vốn từ vựng của người Việt nhưng vì tự ái dân tộc nên sau này người Hán cố tình giấu nhẹm chuyện đó. Các tác giả tự điển, các công trình phục nguyên Hán ngữ không bao giờ đề cập gốc gác xa xưa hơn của những từ mà họ tra cứu. Đã từng xảy ra chuyện thế này: Vào những năm 70 của thế kỷ trước, để chứng minh cho sự độc lập của Đài Loan với Hoa Lục, chính quyền Tưởng Giới Thạch lệnh cho nghiên cứu lịch sử hòn đảo này. Nhưng khi thấy trước thời Khổng Tử, đất này của người Bách Việt, việc nghiên cứu bị dừng lại! Nhưng dù che giấu kỹ thế nào, ta vẫn có thể tìm thấy trong Hán ngữ những từ thuần Việt như Nữ Oa, Thần Nông, Đế Nghiêu, Đế Thuấn, Đế Cốc... và trong Kinh Thi cũng bắt gặp khá nhiều trường hợp in dấu ấn cách nói của người Việt như: - Hồ vi trung lộ (Thức vi: trong sương) - Trung tâm rạng rạng (Nhị tử thừa chu: trong lòng áy náy) - Trung tâm hữu vi (Cốc phong: trong lòng băn khoăn) - Di vu trung cốc (Cát đàm: trong hang) Tại sao hàng nghìn năm thực hiện nghiêm cẩn xa đồng quỹ thư đồng văn mà trong quyển kinh quan trọng nhất của văn hoá Trung Hoa vẫn giữ cách nói của người Việt trung lộ, trung tâm, trung cốc... mà không chuyển sang cách nói của người hán lộ trung, tâm trung, cốc trung...? Đấy chính là những hoá thạch ngôn ngữ mách bảo cho người biết nghe những điều thầm kín: những câu ca của người Miêu Việt!” Xin vui lòng cho biết ông nghĩ thế nào về những lời trên đây của ông Hà Văn Thuỳ. Trả lời: Nếu chỉ tự hạn chế ở mức nói rằng người Hán đã tiếp nhận một số từ nhất định của tiếng Việt (Kinh) ngay từ thời cổ đại thì còn nghe được – mặc dù sự chứng minh thì hoàn toàn chẳng dễ dàng – chứ nói rằng họ đã “tiếp thu toàn bộ từ vựng của người Việt”, như ông Hà Văn Thuỳ đã viết, thì không còn là chuyện khoa học nữa. Không một nhà ngữ tộc học nghiêm túc nào lại nghĩ như thế. Nếu có là khoa học, thì đó chỉ khoa học giả tưởng. Câu chuyện xảy ra vào những năm 1970 của thế kỷ trước mà ông Hà Văn Thuỳ đã kể làm quà cũng chẳng đáng tin vì ông cũng không hề cho biết xuất xứ. Huống chi, nếu phát hiện ra rằng trước thời Khổng Tử, đảo Đài Loan là của người Bách Việt (chứ không của người Hán) thì các nhà nghiên cứu và Chính phủ Đài Loan phải mừng mới đúng chứ tại sao lại ém nhẹm? Đã muốn độc lập với Hoa Lục thì phải khẳng định rằng “Wo.men bù shì Hànrén” (Chúng ta không phải là người Hán) chứ cớ sao lại ém nhẹm? Đến như nói rằng Nữa Oa, Thần Nông, Đế Nghiêu, Đế Thuấn, Đế Cốc là những “từ thuần Việt” thì rõ ràng là hoàn toàn nghịch lý. Nếu quả đây vốn là những từ của tiếng Việt mà người Hán đã mượn, thì nó đã được phát âm theo đặc điểm của hệ thống âm vị của tiếng Hán. Những từ này về sau lại được người Việt mượn lại và đọc theo hệ thống âm Hán Việt là một hệ thống chỉ có thể xuất hiện từ đời Đường trở đi mà thôi. Những từ ngữ mà cái vỏ ngữ âm là Nữ Oa, Thần Nông, Đế Nghiêu, v.v. là những từ ngữ Hán Việt chứ thuần Việt thế nào được! Đó là còn chưa kể rằng, đi vào cụ thể thì những Thần Nông, Đế Nghiêu, Đế Thuấn, v.v., là những tên bằng tiếng Hán của các nhân vật người Trung Hoa, như chúng tôi đã chứng minh trên KTNN 538. Kỳ này xin nói rõ thêm về chữ đế như sau. “Đế + X” (X là những tên như Nghiêu, Thuấn, Khốc (chứ không phải “Cốc” như nhiều người đã đọc) v.v.) là một cấu trúc thông dụng trước đời nhà Tần trong đó chữ đế chỉ có nghĩa là “nhân vật tối cao” chứ chưa có nghĩa như các danh từ emperor/ empereur trong tiếng Anh/ tiếng Pháp. Chỉ khởi đi từ Thuỷ hoàng đế của hà Tần thì chữ đế mới mang cái nghĩa này. Vậy Đế Nghiêu, Đế Thuấn, v.v., là “ông Nghiêu - nhân vật tối cao”, “ông Thuấn - nhân vật tối cao”, v.v., chứ không phải “ông hoàng đế tên Nghiêu”, “ông hoàng đế tên Thuấn”, v.v.. “Đế + X” và “X + Đế” là hai cấu trúc khác hẳn nhau nhưng vẫn là tiếng Hán và đều có “cú pháp ngược” (định ngữ + bị định ngữ) thì ta làm sao có thể nói rằng cái trước là của tiếng Việt. Huống chi, “cú pháp xuôi” (bị định ngữ + định ngữ) đâu có phải là độc quyền của tiếng Việt. Vậy nếu nó không phải Hán thì nó cũng đâu có nhất thiết là tiếng Việt. Còn cái cấu trúc “trung + danh từ” mà ông Hà Văn Thuỳ đưa ra thì, trước ông, một số người đã từng đưa ra. Tiếc rằng chưa thấy ai phản bác họ. Thực ra, cấu trúc kiểu trung lộ, trung cốc, v.v. không chỉ có trong Kinh Thị mà thôi. Nó còn thông dụng cả về sau này nữa mà chỉ trong Toàn Đường thi đại từ điển do Trương Địch Hoa chủ biên, quyển nhất, (Sơn Tây Nhân dân xuất bản xã, 1992), ta cũng đã có thể đếm được mấy chục trường hợp: - trung châu (tr.146) là ở giữa bãi, chứ không nhất thiết là bãi giữa; - trung dã (tr.149) là ngoài đồng, ngoài nội (“trong” phạm vi đồng nội); - trung diên (tr.152) là trên chiếu, nghĩa là ở trong tiệc; - trung đạo, trung đồ (tr.152) là “trong” đường, nghĩa là trên đường (đi); - trung giang (tr.145) là “trong sông”, nghĩa là trên sông; - trung lâm (tr.145) là trong rừng; v.v. Những “hoá thạch ngôn ngữ” như thế này có quá nhiều trong tiếng Hán nên ta buộc phải xét lại xem chúng có “xứng đáng” với cái danh xưng đó hay không. Mà dù có đang gọi là “hoá thạch” thì đây cũng hoàn toàn có thể là một lớp trầm tích mà dòng chảy của Hán ngữ đã để lại. Phàm khi ta chưa đi vào ngữ pháp lịch sử (historical grammar, grammaire historique) của tiếng Hán thì ta dứt khoát chưa có quyền kết luận điều gì về cái hiện tượng mà ta đang quan sát này. Huống chi, như đã nói, “cú pháp xuôi” đâu có phải là độc quyền của tiếng Việt! Tóm lại, ta không thể chứng minh một kết luận nào đó chỉ bằng ý chí; khoa học đòi hỏi những chứng cứ đầy đủ sức thuyết phục. An Chi (Theo kienthucngaynay.vn)
  12. Nói thiệt với các cao nhân và những ai tham gia hoặc xem chơi diễn đàn này một điều là trình độ học vấn của LacTuong chỉ đủ vài ba lá mít lận lưng thôi, nhưng cũng thấy một và điều mâu thuẩn đến độ "ngây thơ kiểu tiến sĩ" rằng: Việt Thường Thị bị các vua Hùng thu phục và trở thành một bộ (trong 15 bộ) của nước Văn Lang rồi thì nói rằng: Trong các văn bản sử của Trung Hoa và VN đều không thấy nói đến chữ viết của Văn Lang, tức là thời đó nhà nước Văn Lang chưa có chữ viết. Vậy thử hỏi: các vua Hùng ra lệnh cho 15 bộ bằng thứ gì? Hể có vua thì phải có quan lớn, quan nhỏ, vậy lấy gì là bằng chứng là người đó là quan? Hể có quan thì phải có kiện cáo, Lấy gì làm đơn kiện đây? "Việt Thường Thị đã giấu bí mật chữ viết của mình". Được bao nhiêu năm vậy? Mà dấu bằng cách nào? Đại Việt thôn tính Chiêm Thành đã không kế thừa được hệ thống chữ viết của người Champa ...." Ngộ thiệt! Đã có sẵn, hay nói chính xác hơn là đã và đang dùng chữ Trung Hoa rồi, một nước lớn, hà cớ gì lại phải cải chữ, nhưng lại phải học lấy chữ viết của một tiểu quốc, như thế là hạ thấp thể diện của một Đại Việt lắm sao? Nếu có, là phải của riêng ta mới đáng tự hào kia chứ? Bằng chứng là chữ Nôm. Nhưng chữ Nôm vẫn không thoát khỏi cái vòng kim cô của chữ Hán. Văn Lang chưa có chữ viết, không văn minh bằng Việt Thường Thị nhưng mà cái gì thể hiện trên trống đồng vậy ta? Mình không phải là "Học giả" nên những điều trên không phải là phản biện, chỉ nêu một vài thắc mắc vậy à. Hic.LacTuong
  13. Có thể đây là một bậc thầy khí công thượng thừa. Cái cách ông lấy hơi từ lồng ngực sẽ sàng thổi vào chai là một trong những cách truyền siêu năng lượng vào nước. Năng lượng này có tác dụng cải hóa các năng lượng trong cơ thể người uống vào. Điều này chỉ có thể hiểu được hay tự kiểm chứng đối với người có luyện khí công, nhân điện, yoga...hay những người có sự am hiểu về vấn đề này. Chẳng có gì huyền bí cả. LacTuong
  14. To Công Minh Hay! đoán tuyệt cú mèo! Number 1! Cái tít giật gân thì mới hấp dẫn chứ, phải maketting mà lị! LaTuong
  15. Giỗ Quốc Tổ Hùng Vương 2007 Lê Việt Thường HẰNG TÍNH CỦA DÂN TỘC VIỆT Kính Dâng Quốc Tổ HÙNG VƯ� NG, vị ANH HÙNG VĂN HÓA của Dân Tộc VIỆT, Bản VIỆT CA về cuộc LINH PHỐI tại Cánh Ðồng TƯ� NG giữa MẸ TIÊN và CHA RỒNG, với tất cả LÒNG THÀNH của con. Lịch Sử Văn hóa Tây Phương cận đại chứng kiến sự đối đầu giữa một bên là CÁ NHÂN chủ nghĩa (Tư Bản) và bên kia là ÐOÀN LŨ chủ nghĩa (Cộng Sản) đưa tới chiến tranh Ý Thức Hệ. Trong khi đó, cái HẰNG TÍNH nền tảng nhất của Văn hóa VIỆT là đi theo con đường DÂN TỘC nhằm dung HÒA hai CỰC ÐOAN nêu trên. Phương pháp áp dụng là TÔI LUYỆN con người khỏi những ích kổ, hẹp hòi nhỏ nhen của Cá nhân chủ nghĩa để đẕt vào môi trường những CÔNG THỂ nhỏ đầy ắp TÌNH NGƯỜI như Gia Ðình, Làng Xã, Ðất Nước, trước khi bàn đến NHÂN LO�� I hầu cho ý niệm này một nội dung HUYNH ÐỆ phổ biến chân thực, đồng thời TRÁNH những ÁC QUẢ của chủ nghĩa TAM VÔ của Cộng sản được che dấu dưới những chiêu bài hoa mỹ về hình thức nhưng rỗng tuyếch về nội dung của một thế giới đại đồng KHÔNG TƯỞNG.Câu hỏi được đẕt ra ở đây là tuyên dương Hằng Tính của DÂN TỘC có đi ngược lại với xu hướng TOÀN CẦU HÓA ngày nay hay không? I) CĂN BẢN TRIẾT LÝ CỦA SỰ TRỞ VỀ HẰNG TÍNH CỦA DÂN TỘC VIỆT: A) DÂN TỘC TÍNH VÀ HIỆN TƯỢNG TOÀN CẦU HÓA: Thật ra, Toàn Cầu hóa (Globalization) là hiện tượng mà trình độ kỹ thuật ngày nay cho phép hiện thực giấc mơ con người đã lâu đời ấp ủ: đó là thống nhất nhân loại, thống nhất thế giới thành cảnh tượng "Bốn bể một Nhà". Vì nhu cầu thống nhất là một xu hướng tự nhiên, nên khuynh hướng này được bành trướng rộng rãi khắp mọi lãnh vực từ tôn giáo, triết học, chính trị..đến các sinh hoạt thường ngày. Tuy nhiên, các mưu định "thống nhất thiên hạ" đến nay hầu hết đều gẕp thất bại, mà nguyên nhân có lẽ bắt nguồn từ sự kiện là những người chủ xướng, khi áp dụng nguyên tắc "thống nhất ý chí của toàn dân, mọi người", thay vì theo ý chí chung hay ít nhất ý chí của đa số, họ lại áp đẕt ý chí của một cá nhân, một tập đoàn, một ý thức hệ, "trên đầu trên cổ" của toàn dân, của mọi người.(1) :P THỐNG NHẤT GIẢ T�� O: Ðó là lối thống nhất giả tạo và là nét đẕc trưng của các chế độ chuyên chế độc tài, luôn luôn muốn san bằng, đồng điệu hóa con người, mà tình trạng nguy hại hơn hết là khi nhà chuyên chế, độc tài bắt tay với ý thức hệ. Lý do là ý thức hệ dựa trên ý niệm, mà ý niệm là hình ảnh của sự vật được trừu tượng hóa, nên vẫn giữ tính cách tư riêng của sự vật, mà lại độc hữu, nên khước từ những dị biệt khác. Chế độ độc tài, chuyên chế dễ dàng bắt tay với một ý thức hệ nào đó, vì cả hai đều đẕt trên nguyên lý ÐỒNG NHẤT, đánh mất chữ TƯ� NG là chữ nối các dị biệt lại với nhau, chỉ biết A = A, A là A một cách trọn vẹn, không còn một mối liên hệ nào với B,C, D cũng như không còn một biến chuyển nào tự A sang A. Ðiều được hiện thực trọn vẹn ở thế giới ý niệm, nhà độc tài cũng áp dụng vào con người, mọi người phải đồng đều y hệt như nhau: tự tâm trí, óc tưởng tượng cho đến cả tiếng cười, tiếng khóc, các bản năng như ăn uống, tình dục..đến cách thức cắt tóc, mẕc áo quần, đi đứng, cái gì cũng phải đồng đều, y hệt nhau, như đống gạch, đống gỗ cùng một kích thước cân đo. Tất cả tạo thành một đoàn, một lũ, một thứ người đánh đống (mass man), như thứ người dưới phố, mà ta chỉ thấy môt cách hời hợt ở bên ngoài, không cần biết đến tâm tình, cảm nghĩ của họ bên trong như thế nào. Loại chế độ chuyên chế , độc tài trên cầm giữ con người lại ở đợt thú vật, không cho thoát lên đợt trên là nhân cách, (vì gọi là nhân cách thì phải có tính cách tư riêng, tư cách), do đó "sản phẩm" được khai sinh ra là từng loại người đồng đều, không phẩm tính, không nhân cách. Chế độ trên cũng chống đối mạnh mẽ những con người trổi vượt, lấy tư cách làm tôn chỉ, thường biểu lộ bằng sáng tạo, sáng kiến, vì sáng kiến bao giờ cũng phải xuất phát từ cá nhân. C) DỊ BIỆT TRONG THỐNG NHẤT: Tóm lại, các chế độ chuyên chế, độc tài, cũng như ý thức hệ, vì chỉ nhắm tới việc san bằng, đồng điệu hóa, ÐỒNG NHẤT hóa con người theo tiêu chuẩn của thế giới sự vật hay loài vật, nên mục tiêu họ nhắm tới chỉ là một loại thống nhất giả tạo. Lý do là một sự Thống Nhất Chân Thực đòi hỏi phải có PHỔ BIẾN tính giống như MINH TRIẾT, tức khả năng thâu tóm mọi DỊ BIỆT trong một nền THỐNG NHẤT bao la. Nếu khuynh hướng nhắm tới cái chung, sự thống nhất là một xu hướng tự nhiên, thì nhu cầu nhắm tới sắc thái tư riêng, dị biệt, độc đáo, cũng là một xu hướng tự nhiên khác. Thật vậy, nếu quan sát kỹ vũ trụ, vạn vật, ta có thể thấy Tạo Hóa trọng cá thể, sự dị biệt biết bao: ngay một hột gạo ta ăn, đã thấy có trên trăm thứ, cá biển thì phải kể tự triệu giống trở lên, chim trời cũng có cả hàng trăm ngàn thứ, không hề đồng đều. Có những cái mới coi tưởng như đồng đều như cá thể trong cùng một loại, thí dụ cả triệu con chim sẻ, nhưng nếu xét cho cùng cực sẽ thấy mỗi con có cái khác với con kia, mỗi con là một cá thể không trộn lẫn được. Ấy là con vật mà còn thế, phương chi con người là giống có mầm linh thiêng đã phát triển hơn. Mà linh thiêng là đi vào đường cá thể, dị biệt cho đến cùng cực. Vì thế ta có thể kết luận được rằng cá thể hóa, DỊ BIỆT hóa nằm ngay trong BẢN TÍNH con người. Chương trình làm nên người (Vi Nhân) phải dồn vào việc làm triển nở cùng cực cái khả năng riêng biệt mà Trời đã phú cho mình, cần được hiện thực cá thể đó trong sự hòa hợp với hoàn cảnh. Hoàn cảnh là cái dấu của cá thể. Hoàn cảnh thành bởi không gian và thời gian, vì không bao giờ có một thời điểm và không điểm lập lại y như nhau, nên hoàn cảnh chính là cái khung dị biệt cùng cực để giúp khám phá cá thể, đến nổi không có hai hoàn cảnh y hệt nhau, chỉ có hoàn cảnh dị biệt đến độ không thể thay thế.(2) Ðấy là lý do sâu xa giải thích tại sao Ðạo Làm Người tuy là Một, mà lại không thể có một nền văn hóa đồng đều cho hết mọi dân, mọi đời..Chỉ có môt nền văn hóa đẕc thù cho một nhóm người, nhóm dân, với các sắc thái đổi thay theo dòng thời gian. Và chỗ đứng của con đường trở về Hằng Tính của Dân Tộc VIỆT nằm ở đây. D) MẪU SỐ CHUNG: Tuy nhiên, trở về Hằng Tính của Dân Tộc bằng cách học hiểu những nét đẕc trưng, độc đáo của nhóm mình, dân tộc mình là nhằm tiến đến một cuộc ÐỐI THO�� I với các nhóm người khác, dân tộc khác, hầu tìm ra MẪU SỐ CHUNG để tạo nên sự THỐNG NHẤT CHÂN THỰC trong sự� PHONG PHÚ và DỊ BIỆT, trong niềm thông cảm và tương kính, chứ không nhắm tới chỗ "duy ngã độc tôn" có nguy cơ sa đọa thành cá nhân chủ nghĩa hay chủ nghĩa quốc gia, dân tộc quá khích. Hiểm họa mà cá nhân chủ nghĩa có thể gây ra là biến những cá nhân thành những ốc đảo cô đơn, trơ trọi, dễ trở thành mồi ngon cho âm mưu đồng nhất hóa của các chính quyền độc tài, chuyên chế. Nguy cơ mà chủ nghĩa quốc gia, dân tộc quá khích có thể đem tới là cô lập hóa và nghèo nàn hóa quốc gia, dân tộc mình, dễ trở thành mồi ngon cho âm mưu đồng hóa của một đế quốc xâm lăng. Tuyên dương con đường trở về Hằng Tính của Dân Tộc VIỆT qua việc cổ động hai bộ môn Dân Tộc học và Việt học đích thực giúp tránh khỏi các nguy cơ, hiểm họa nêu trên vì những lý do sau đây: Các bộ môn này đề cao dân tộc và những công thể cỡ nhỏ nhằm giúp duy trì cá tính như gia đình, hội đoàn, làng xã, là những môi trường giúp cá nhân học hỏi những bài học cụ thể về hy sinh, yêu thương, và dung HÒA cái RIÊNG với cái CHUNG. Chẳng hạn, môi trường GIA ÐÌNH có thể giúp học cách dung hòa quyền lợi, hạnh phúc của cá nhân với danh dự của gia đình và người gia trưởng. Môi trường LÀNG Xà giúp dung hòa hạnh phúc của cá nhân, danh dự của gia đình với sự sống còn của làng xã. Và mối liên hệ LÀNG - NƯỚC nhằm dung hòa Lệ Làng vơí Phép Nước, nét đẕc trưng của làng xã với sự trường tồn của đất nước. Ðó là những bài học cụ thể, sống động, được thực hiện từ từ, từng bước một, nên có nôi dung chân thực giống như bốn bước "Tu, Tề, Trị, Bình" của Nho Giáo. Những con người sống trong những công thể đầy ắp tình người như trên, khó bị dẫn dụ đi vào con đường đoàn lũ hóa của các chế độ độc tài, chuyên chế. Trái lại, các chế độ chuyên chế thường coi thường gia đình, quốc gia, tôn giáo, và chỉ chú trọng đến nhân loại hay quốc tế. Lý do là nhân loại, quốc tế là những danh xưng hổ lốn vắng bóng mọi dị biệt nên rất trừu tượng, trống rỗng, rất thuận lợi để gói ghém ý đồ chuyên chế nhằm ÐỒNG NHẤT HÓA con người. E) PHONG PHÚ HÓA, ÐA D�� NG HÓA: Tóm lại, nhu cầu trở về HẰNG TÍNH của Dân Tộc VIỆT qua việc học hỏi về DÂN TỘC TÍNH và VIỆT TÍNH tỏ ra cần thiết nhằm GIÚP nhân loại và tiến trình TOÀN CẦU HÓA tránh khỏi các nguy cơ, hiểm họa vừa nêu trên. DÂN TỘC HỌC là bộ môn nghiên cứu về đất nước và con người, về nguồn gốc cùng quá trình hình thành ra đất nước, cũng như về bản sắc và nội lực của một dân tộc, nên giúp con người ý thức những nét dị biệt, đẕc trưng, độc đáo của mỗi dân tộc, hầu đem lại sự phong phú, đa dạng cho văn hóa nhân loại, cũng như cung cấp nội dung, chất liệu CỤ THỂ, SỐNG ÐỘNG cho các danh xưng như TOÀN CẦU, THẾ GIỚI, NHÂN LO�� I.. F) THỐNG NHẤT BẰNG CON ÐƯỜNG VĂN HÓA: VIỆT HỌC cũng là môt bộ môn Dân Tộc Học nên cũng đóng góp vào tính chất phong phú, độc đáo, đa dạng nêu trên. Ngoài ra, VIỆT TRIẾT là một nền NHÂN BẢN TÂM LINH Tinh Tuyền nhất, nên Việt Triết không chỉ dành riêng cho người Việt, mà còn có thể thích hợp CHO MỌI NGƯỜI ở mọi nơi và mọi thời. Do đó, VIỆT HỌC không chỉ làm phong phú hóa, đa dạng hóa văn hóa nhân loại và tiến trình toàn cầu hóa, mà còn chứa đựng khả thể giúp nhân loại THỐNG NHẤT BẰNG CON ÐƯỜNG VĂN HÓA với SỨ ÐIỆP HÒA BÌNH đã được ghi khắc từ muôn đời trên các TRỐNG ÐỒNG của Dân Tộc L�� C VIỆT.(3) II) BÀI HỌC VỀ HẰNG TÍNH CỦA DÂN TỘC VIỆT: Phần trình bày trên cho thấy sự tối cần thiết của việc học biết về HẰNG TÍNH của DÂN TỘC để GIÚP dự án TOÀN CẦU HÓA tránh được sự Thất Bại Não Nề của biết bao mưu định "Thống Nhất Thiên Hạ" từ xưa đến nay, hầu đạt được mục tiêu tối hậu là phục vụ cho H�� NH PHÚC của con người và nền HÒA BÌNH thế giới. A) NỘI DUNG BÀI HỌC: Về Nội Dung, VIỆT TÍNH (hay Dân Tộc Tính của ngưới VIỆT) gồm hai yếu tố chính cấu thành: _ Yếu tố Dân Tộc: VIỆT _ Yếu tố Văn Hóa, Văn Minh: TÍNH Cả hai yếu tố trên bao gồm các đẕc tính khiến cả hai: _ vừa là BẨM SINH (Innate) _ vừa là THỦ ÐẮC (Acquired) dẫu ở yếu tố DÂN TỘC, tính BẨM SINH giữ vai trò căn bản, còn ở yếu tố VĂN HÓA VĂN MINH, xem ra tính THỦ ÐẮC lại có vai trò chủ yếu. :P HẰNG TÍNH CỦA DÂN TỘC VIỆT: 1) YẾU TỐ DÂN TỘC: Trong yếu tố DÂN TỘC, thành tố quan trọng nhất phải tiến hành khảo sát đầu tiên là a) CẤU TRÚC DI TRUYỀN: Chúng ta biết: " Những tế bào của mọi động vật cũng như thực vật đều chứa yếu tố DNA, ví như một bảng thiết kế, giúp cuộc sống được lưu truyền từ đời nọ đến đời kia. DNA tạo nên "gene" và chính các "gene" đã mang tín hiệu làm cho muôn loài, từ thực vật, động vật đến con người có được cái sắc thái đẕc biệt như mắt xanh, da nâu..." "Các nhiễm sắc thể DNA trong "gene" của mỗi giống người như trên là một HẰNG TÍNH. Một khi đã cấu thành, nó tồn tại vĩnh viễn trong con người hay mọi chủng loại động vật, thực vật và di truyền mãi mãi cho các thế hệ về sau". Vậy nhiễm sắc thể (DNA) là một Hằng Tính, là cái Căn Cước Tính bẩm sinh của một dân tộc. Cái căn cước tính này sẽ bất biến, sẽ không thay đổi cho đến khi có sự gẕp gỡ đưa vào cơ thể con người các yếu tố đẕc biệt ( như một vài vi khuẩn, tia cực tím do ánh mẕt trời đến một mức nhất định hoẕc vài loại chất độc hay khoáng sản và phóng xạ nguyên tử!) khiến con người hội đủ yếu tố để tạo thành một đột biến di truyền tự nhiên mà khoa học gọi là "spontaneous point of mutation"." Trong trường hợp đó, nhiễm sắc thể thay đổi sẽ làm con người cũng thay đổi theo có thể về hình dạng, về màu da, về râu tóc, về sức khoẻ, bệnh tật., cả về sự thông minh, về tác phong thiên hướng như thiện hay ác, nghiện rượu, đa sát hay hiền lương, quân tử! Và nhiễm sắc thể đổi mới này, một khi đã lập thành lại trở thành một HẰNG TÍNH, một Căn Cước Tính MỚI, như trên đã nói, tồn tại vĩnh viễn trong con người và lưu truyền mãi mãi cho các thế hệ mai sau.cho đến khi gẕp được kỳ duyên có sự đột biến di truyền mới". Bản chất sinh học của một dân tộc có một lịch sử lâu dài nhiều ngàn năm, trải qua nhiều thăng trầm như dân tộc Việt Nam thì không chỉ BẨM SINH mà chắc chắn còn có sự đóng góp của những THỦ ÐẮC là kết quả của sự Ðột Biến Di truyền của các Di Thể với Môi Sinh trong con đường Tiến Hóa nữa. :( SỰ HÌNH THÀNH DÂN TỘC: Về Hằng Tính, sau yếu tố Di Truyền, sự HÌNH THÀNH Dân Tộc cũng đóng một vai trò rất quan trọng. Thật vậy, tùy theo từng lý thuyết về sự cấu thành dân tộc, ta sẽ có một Căn Cước Tính của dân tộc đó khác biệt. Từ trước đến nay đã có nhiều lý thuyết về nguồn gốc dân tộc Việt Nam. Tựu trung ta có thể quy về 3 mô thức: _ Mô Thức I: Cho người Việt là hậu duệ của người từ phương Bắc: Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư, LAurousseau, Trần Trọng Kim, Ðào Duy Anh. _ Mô Thức II: Cho người Hắc chủng ở hải đảo vào đất liền, lai giống với người Mongoloid vốn từ phương Bắc đi xuống, là tổ tiên của người Việt. Mô thức này được nhiều Giáo sư Ðại học Hà Nội như Phạm Huy Thông chủ trương. Gs Nguyễn Khắc Ngữ ở miền Nam trước kia cũng có ý kiến tương tự. _ Mô Thức III: Nhưng có lẽ phải đảo ngược lại kết luận của hai mô thức vừa nêu trên thì mới đi sát lại Sự Thật theo Khoa học Ngày nay. Thực ra, nếu chấp nhận con người Hiện Ðại (Homo Sapiens) trên địa cầu này đều cùng một nguồn gốc duy nhất như khoa học đã chứng minh gần đây, thì người Ðông Phi Châu trên đường di chuyển về phương Ðông đã đến Ðông Nam Á trước khi lên Ðông Bắc Á và ra Hải Ðảo Thái Bình Dương. Nói cho sát sự thực thì mô thức I không phải hoàn toàn sai. Nhưng mô thức này chỉ nói lên được cái giai đoạn sau từ khi có sự bành trướng của các đế quốc Tần Hán, những người thuộc Văn Hóa Hòa Bình mà Sử học gọi là Ðại Tộc Bách Việt (thường là những thủ lãnh hay những ai không chịu sự đồng hóa của nòi Hoa Hán) mới di cư về phương Nam hòa nhập với những dân đã có sẵn ở đó trước. Cao điểm của sự di cư này xảy ra nhiều lắm chỉ khoảng nửa thế kổ trước và sau Công nguyên. Nhưng nhiều chục ngàn năm trước đó, khi chưa có đế quốc Tần Hán, khi đại lục Trung Nguyên mới vừa qua thời kỳ Băng hà, dân cư còn thưa thớt, thì đã bắt đầu có sự di chuyển từ Nam lên Bắc của dòng người thuộc Văn Hóa Hòa Bình của Ðại Chủng Bách Việt. Như vậy, người miền BẮC là HẬU DUỆ, người HẢI ÐẢO cũng là HẬU DUỆ của người ÐÔNG NAM Á, chứ không phải người Ðông Nam Á là hậu duệ của người từ miền Bắc đi xuống hay người Hải Ðảo vào đất liền rồi lai giống với người Mongoloid thuộc miền Bắc di cư xuống mà thành. Với mô thức III này, ta sẽ có một CĂN CƯỚC TÍNH của người VIỆT có những đẕc tính BẨM SINH khác hẳn với Căn Cước Tính của những người tưởng là người Việt do các lý thuyết từ các mô thức I và II tạo nên. Thật vậy, đã là giống người TIỀN PHONG, thì họ phải là người có: _ ÓC KHAI PHÁ để tiến bộ chứ không phải óc ổ lại _ ÓC SÁNG T�� O để sống chứ không phải óc bắt chước _ DÁM ÐƯ� NG ÐẦU nhận trách nhiệm, chứ không trốn tránh, nhát chết _ DŨNG MÃNH KIÊN CƯỜNG chứ không bệnh hoạn, yếu hèn (4) 2) VAI TRÒ CỦA VĂN HÓA VĂN MINH: Yếu tố thứ hai tạo nên HẰNG TÍNH của một dân tộc là VĂN HÓA VĂN MINH. Ở đây, vấn đề là TÌM RA TRONG NHỮNG YẾU TỐ KHÔNG ÐẶC THÙ, tức ở đâu cũng có, NHỮNG NÉT ÐẶC THÙ làm nên Căn Cước Tính của môt dân tộc là những gì mà Dân Tộc liên hệ THỦ ÐẮC� �#273;ược trong quá trình tiến hóa qua các tác động của con người với môi sinh được thấy chẳng hạn với a)VĂN MINH VIỆT qua bốn phạm trù : TỪ, TƯỢNG, SỐ, CHẾ: "_ TỪ: có nghĩa là từ ngữ, lời văn , lời nói. Thí dụ như những truyện tích cổ xưa, các vần ca dao, các câu tục ngữ, những lời nói truyền miệng trong dân gian. _ TƯỢNG: như hình ảnh, nét vẽ, dấu vết ghi lại cảm xúc, ý thức, cuộc sống, ước vọng tâm linh..qua các hoa văn trên các di vật đồ sứ, đồ gốm, đồ đồng cổ xưa. Hoẕc ngay trong các vật dụng thường ngày như cán dao, hòn sỏi.v.v. mà khảo cổ đã tìm được. _ SỐ: Các số 2,3,5 có đầy khắp trong khảo cổ hay ngay trong ca dao như: "Ai về đường ấy hôm mai Gửi dăm (5) điều nhớ, gửi vài (2) điều thương." Hay: "Cưới em quan tám tiền cheo, Quan NĂM tiền cưới lại đèo buồng cau." _ CHẾ: là nề nếp sinh hoạt, thói tục, thể chế nơi đời sống gia đình, làng xóm, xã hội. Chế còn là thuần phong, là mỹ tục, là lễ nghĩa ràng buộc mỗi cá nhân trong xã hội với nhau.(5) :unsure: VĂN HÓA VIỆT qua Ý NGHĨA ẨN TÀNG : Tuy nhiên, qua bốn phạm trù nêu trên, nếu chỉ dừng ở đợt VĂN MINH Hiện Tượng Hữu Hình, thì khó nắm bắt được HẰNG TÍNH hay các NÉT ÐẶC THÙ của dân tộc VIỆT. Lý do là dân tộc nào cũng có suýt soát như nhau các yếu tố TỪ, TƯỢNG, SỐ, CHẾ. Muốn nắm bắt được các Nét Ðẕc Thù của VIỆT TÍNH, theo tinh thần Cơ Cấu Luận (Structuralism), phải biết vượt qua đợt VĂN MINH Hiện tượng, Vật lý, Lý trí, Ý thức bên ngoài để đào sâu vấn đề đến tận đợt VĂN HÓA Siêu trần, Vi thể, cõi Tiềm thức, Vô thức nhằm nắm bắt C� CẤU (Structures) nằm sâu trong lòng sự vật gồm những mối LIÊN HỆ, TƯ� NG QUAN có tính cách VÔ HÌNH ẩn tàng trong các yếu tố VĂN MINH Hữu Hình nêu trên. 3) CÁC NÉT ÐẶC THÙ CỦA VIỆT TÍNH: Như đã đề cập ở trên, về khía cạnh SỐ chẳng hạn, ta có thể tìm thấy các số 2,3,5 "lu bù" trong nền Khảo Cổ VIỆT và nhiều địa hạt khác nữa. Mà các số 2,3,5 cũng là nét ÐẶC TRƯNG của KINH DỊCH với các thuyết Âm Dương (2), Tam Tài (3), Ngũ Hành (5). Ðiều này cũng phù hợp với Chủ thuyết VIỆT NHO của Cố Triết Gia KIM ÐỊNH được kiện chứng với những khám phá mới nhất của Khoa học ngày nay là: _ Bách Việt vào đất Trung Hoa trước Hoa tộc, và do đó _ Ðẕt nền móng đầu tiên cho Nho Giáo Hệ quả là nếu người phương BẮC là HẬU DUỆ của người VIỆT, thì KINH DỊCH, cuốn Kinh Nền Tảng của Nho Giáo, trước tiên là của người VIỆT với các nét: a) SONG TRÙNG LƯ�� NG HỢP: Nét SONG TRÙNG (số 2) nói đây là hai gạch song song gẕp thấy khắc vào những viên đá cuội tìm được ở Bắc Sơn (tỉnh Thái Nguyên) phổ cập đến độ đã được coi như dấu chỉ của nền văn hóa Ðông Nam Á xưa, cũng như của cả nền văn hóa Việt Nho sau này. Tới di chỉ Phùng Nguyên thì nét trên thành hoa văn chỉ đạo, rồi đến Ðông Sơn thì càng trở nên nổi bật với vô số vòng song song chạy quanh đồ vật và nhất là cả quanh tượng người nữa, cũng như với các cẕp đôi tràn ngập cả vật lẫn người. Thế là đã đủ lý do khiến nét SONG TRÙNG trở thành một HẰNG TÍNH của dân tộc VIỆT được móc nối với một HẰNG TÍNH khác là nét LƯ�� NG HỢP của biết bao TRUYỀN THUYẾT và HUYỀN THO�� I thường đi cẕp đôi như giữa: _ ÐẤT với NƯỚC, CHIM với RỒNG, CÁI với ÐỰC,ông ÐÙNG với bà ÐÀ. Ðó là nét vừa xuất hiện rất nhiều vừa thâm sâu đến độ trở thành VẬT BIỂU của Nước, của Người dưới danh hiệu TIÊN RỒNG. Ðiểm đẕc sắc ở đây là không có một nước nào khác trên thế giới có Vật Biểu đi đôi như thế, mà tất cả chỉ là một: Ấn Ðộ là con Voi, Pháp là con Gà, Ðức là Chim Ưng, Anh là Sư Tử, Tàu trước Hổ sau Rồng.. Ở nền văn hóa LƯ�� NG HÀ mà Perse là đại diện cuối cùng, thì không thấy Lưỡng Hợp, mà chỉ có ÐỘC TRỤ hay CẶP ÐÔI ÐỐI CHỌI: Sáng chọi Tối, Thần Lành Thần Dữ tranh đấu liên tục. Nét MÔT CHIỀU là nguyên nhân của sự sụp đổ của Lưỡng Hà. Sang đến HY L�� P cổ đại thì nét Một Chiều được công thức thành NHỊ KHÁNG THUYẾT (Dualism) theo nghĩa CHỌN MỘT BỎ MỘT, chọn Nước bỏ Lửa, chọn Hữu bỏ Vô, chọn Tâm bỏ Vật hay ngược lại.. Bên Ấn Ðộ cũng đấu tranh theo kiểu đó như hiện lên rõ trong việc chim Ðại Bàng (Garuda) ăn thịt loài RẮN (Naggi), chứ không có chuyện Chim Trời giao thoa với Thủy Tộc như ở Lạc Việt. Nét SONG TRÙNG LƯ�� NG HỢP, một HẰNG TÍNH của Việt Tộc đã được Khoa học ngày nay kiện chứng ban đầu là với hai giây Nóng Lạnh của Ðiện lực, rồi hai cực Tiêu Tích của Từ Khí, sau là Proton-Electron trong Nguyên tử. Và cuối cùng bắc cầu qua Triết là thuyết Tương Ðối của Einstein mà tinh hoa là Không-Thời- Nhất-Phiến, tức Ðúc Không gian và Thời gian thành Một (Space-Time-Continuum) (6) Con dân VIỆT nhờ được tô tạo lâu ngày trong tinh thần KINH DỊCH với thuyết TIÊN-RỒNG, ÂM-DƯ� NG nên đem đức tính THÍCH NGHI lên hàng đầu để đẕt thành một KINH, do đó có được sự MỀM DẺO, UYỂN CHUYỂN giúp THÂU HÓA được các nền Văn Hóa Tôn Giáo khác nhau như Nho-Lão-Phật, rồi Thiên Chúa Giáo.Và các đức tính� �HÍCH NGHI, MỀM DẺO, UYỂN CHUYỂN, THÂU HÓA .đã trở thành những HẰNG TÍNH của Văn Hóa VIỆT. :lol: NHÂN CHỦ TÍNH: Ngoài đức tính Thích Nghi, với thuyết TAM TÀI (số 3), Dịch Lý còn đẕt con NGƯỜI như một TÀI ngang hàng với TRỜI cùng ÐẤT, nên cũng gọi là "Tham Thông" tức cả ba TÀI đều tham dự: nếu TRỜI làm, ÐẤT làm thì NGƯỜI cũng làm nên gọi là NHÂN CHỦ, được biểu thị qua những câu như : " Có Trời thì cũng có Ta" hay "Xưa nay Nhân định thắng Thiên cũng nhiều". Nhờ tinh thần NHÂN CHỦ nêu trên, ở thời xa xưa, nếu các dân tộc khác chỉ có THẦN THO�� I ở trong đó Thần làm Chủ, thì Việt Tộc lại có NHÂN THO�� I ở đây con NGƯỜI làm CHỦ, như chuyện Ông BÀN CỔ biểu hiểu con người Ð�� I NGà TÂM LINH với việc Ông giữa vai trò CHỦ ÐỘNG bằng cách tham gia vào việc KIẾN T�� O ra VŨ TRỤ. Không phải kiến tạo ra vũ trụ từ KHÔNG đến CÓ, vì trước Ông Bàn Cổ đã có cảnh Thái Hoang rồi. Nhưng theo nghĩa NHÂN CHỦ trong VĂN HÓA, tức con người nắm phần XẾP ÐẶT vũ trụ thế nào để con NGƯỜI LÀM CHỦ NHỮNG Ý NGHĨA TRONG VŨ TRỤ. Về NGUỒN GỐC số 3 trong TAM TÀI, thì chúng ta thấy bằng chứng tràn ngập trong Khảo Cổ VIỆT. Trước hết là con "thiềm thừ" cóc trời chỉ có 3 chân. Rồi ta lại gẕp chim 3 chân, cả chim 3 mình nữa. Tới những cái chạc tìm được trong các mộ ở Phùng Nguyên bao giờ cũng thấy đi bộ 3. Người ta suy đoán rằng tục lệ vái 3 cái, đốt 3 nén hương, bàn thờ có 3 bậc, đánh 3 hồi trống.v.v. đã có mãi từ thời đó.(7) Các chứng cớ nêu trên trong các địa hạt khác nhau như trong Triết lý qua thuyết TAM TÀI với vai trò của tài NHÂN như gạch nối giữa hai tài THIÊN và ÐỊA, như trong ca dao, tục ngữ vơí vai trò CHỦ ÐỘNG của con người, như trong sự kiện Việt Tộc là dân tộc duy nhất có NHÂN THO�� I nơi đây con NGƯỜI làm CHỦ, trong Khảo cổ VIỆT với "lu bù" số 3, tất cả điều trên đều xác nhận rằng NHÂN CHỦ TÍNH được biểu bằng số 3 là một HẰNG TÍNH của Việt Tộc . Về phương diện Xà HỘI, truyền thống KÍNH TRỌNG TUỔI GIÀ cũng là hậu quả của số 3. Muốn hiểu liên hệ nêu trên, phải trở về câu đố mà chúng ta thường nghe hồi nhỏ: "Sớm đi 4 chân, Trưa đi 2 chân, Chiều đi 3 chân, Ðêm đi 8 chân. Ðố biết là gì?". Trong câu đố trên, số 3 chỉ lúc TUỔI GIÀ phải chống gậy làm thành chân thứ 3, nên các cụ xưa thường được gọi là LÃO TRƯỢNG ("Trượng" là "gậy"). Nhưng theo TÂM LINH SỬ QUAN, thì GẬY trở nên tiêu biểu cho MINH TRIẾT hay nói nôm na là KINH NGHIỆM SỐNG mà nơi quy tụ là người sống trước quen gọi là TIỀN NHÂN hay TIÊN NH� N hoẕc TIÊN. Ðó cũng là nền tảng cho truyền thuyết GẬY THẦN của HÙNG VƯ� NG. Ngoài ra, các TIÊN cũng thường xuất hiện với cây GẬY trong tay là nằm trong bầu khí đề cao KINH NGHIỆM SỐNG, KÍNH TUỔI GIÀ . (8) Như vậy số 3 được móc nối bằng hình ảnh cây GẬY biểu hiệu cho MINH TRIẾT và KINH NGHIỆM SỐNG, với truyền thống KÍNH TRỌNG TUỔI GIÀ cũng đã trở thành một HẰNG TÍNH của văn hóa VIỆT. c) THÁI HÒA: Tuy đề cao NHÂN CHỦ TÍNH nhưng Triết VIỆT không có tính chất DUY NHÂN (Anthropocentrism) như một trường phái Triết học Tây Phương thời xưa chủ trương. Lý do là Văn Hóa VIỆT không dừng ở con người Cá Nhân, Tiểu Ngã, mà vươn lên tới con người Ð�� I NGà TÂM LINH nên có khả năng "Hòa Trời, Hòa Ðất, Hòa Người", do đó đạt được Ðạo THÁI HÒA. Môt khi nói đến chữ HÒA thì phải hiểu là có HAI BÊN.Vì có HAI mới có thể HÒA HỢP ÐỐI ÐÁP. Khi nói HÒA đạt đến độ cùng tột, tức THÁI HÒA, thì phải có khả năng đi vào hết mọi tác động, mọi sự vật, nên quen biểu thị bằng hai chữ TRỜI ÐẤT dùng để chỉ HAI ÐỐI CỰC của tất cả mọi hiện tượng từ lớn như Trời-Ðất, Sáng-Tối, Cứng-Mềm đến nhỏ như Ðực-Cái, Nam-Nữ, rồi đến mọi sự việc ở Ðời phải giàn hòa được hai đối cực. Trong truyện HÙNG VƯ� NG, hai đối cực xuất hiện trong hình thái TIÊN-RỒNG, NON-NƯỚC hoẕc NÚI-SÔNG. TIÊN ở trên TRỜI biểu thị bằng NON, RỒNG ở dưới NƯỚC biểu thị cho ÐẤT. Huyền Sử VIỆT có nói đến chuyện ÂU C� (hay TIÊN) và L�� C LONG QUÂN (hay RỒNG) gẕp nhau ở Cánh Ðồng TƯ� NG là nói đến hai lực ngược chiều ÂM-DƯ� NG nằm ở trong thế HÒA HỢP LINH PHỐI đó để sinh ra được HÙNG VƯ� NG, tức con Người đúng cỡ NGƯỜI, TỰ CƯỜNG TỰ LỰC. Bản chất THÁI HÒA, một HẰNG TÍNH của Văn Hóa VIỆT còn được thể hiện qua quan niệm sống DĨ HÒA VI QUÝ, "qua nếp sống trọng tình nghĩa nơi chốn làng quê, nơi sự tương nhượng trong quan hệ gia đình, thân tộc, xóm làng. Câu tục ngữ " HÒA CẢ LÀNG" mới thấm đượm cai tình quê, người quê hòa ái biết bao! Bản Chất Thái Hòa của dân tộc dấu chỉ rõ nơi sự kính ngưỡng các niềm tin tôn giáo thiêng liêng, để Hòa Hữu Hạn với Vô Biên, để Hợp Tương Ðối cùng Tuyệt Ðối. Ðó cũng là lý do tinh thần " Tam giáo Ðồng Nguyên" trổi vượt thời Lý Trần thanh bình. Cũng như Văn Hiến Nguyễn Trãi đã trải lòng viết nên Hồn Dân Tộc sau buổi " Bình Ngô" " Lấy Ðại Nghĩa thắng hung tàn, mang Chí Nhân thay cường bạo"(9) d) TÂM LINH: Ngoài các HẰNG TÍNH vừa nêu trên như: Song Trùng Lưỡng Cực, Nhân Chủ, Thái Hòa, một nét ÐẶC TRƯNG khác của Văn Hóa VIỆT là tính chất TÂM LINH được biểu hiệu bằng số 5, mà ta có thể tìm thấy chẳng hạn trong cách đẕt BÀI VỊ trong tục Thờ Cúng Tổ Tiên. TRIẾT LÝ GIA TIÊN: Thật ra, trong các xã hội xa xưa, đâu đâu cũng có việc thờ cúng tổ tiên, chứ không riêng gì bên Viễn Ðông hay Việt Nam. Thế nhưng nếu chúng ta chịu quan sát học hỏi nghiêm túc thì sẽ thấy một sự khác biệt quan trọng, quan trọng đến độ khiến cho LỄ GIA TIÊN trở thành một HẰNG TÍNH của dân tộc VIỆT để được duy trì cho đến ngày nay và do đó duy trì luôn nền văn minh Việt Nam vàViễn Ðông suốt trên 50 thế kổ, trong khi nền văn minh cổ đại La-Hy cũng như rất nhiều nền văn hóa khác đã sụp đổ, kéo lôi theo cả sự thờ cúng tổ tiên vào nấm mồ đô thị cổ xưa (cité antique). Sự tồn tại hay sụp đổ của một nền văn minh là chuyện lớn lao. Nó không hệ tại nơi sự thờ cúng tổ tiên, nhưng ở chỗ THỜ CÁCH NÀO? Và chính ở điểm này mà có sự khác biệt căn bản giữa một bên Việt Nam vàViễn Ðông và bên kia các nền văn minh khác. Ðiều khác căn bản là bên Viễn Ðông có một Bài Vị gọi là VĂN TỔ để giữa 4 Bài Vị của Cao, Tằng, Tổ, Nỉ, xếp theo khung NGŨ HÀNH, nghĩa là đẕt ở 4 phương, còn Trung Cung dành cho VĂN TỔ. Chính sự xếp đẕt này nói lên một cuộc Cách Mạng vĩ đại vì đã biến đổi Thờ Cúng Ông Bà theo kiểu Ma Thuật (như tin ông bà về ăn của dâng) để vươn lên đợt TÂM LINH gọi là LỄ GIA TIÊN mà ý nghĩa cao nhất là THỜ NHÂN TÍNH, và chỉ ở đợt này mới có lối xếp Bài Vị theo cơ cấu NGŨ HÀNH. Triết lý NGŨ HÀNH hệ tại mỗi HÀNH được móc nối với Trung Cung Hành THỔ mới có đủ LINH ỨNG: Thủy, Hỏa, Mộc, Kim đều phải đi qua Hành THỔ mơí trở thành LINH NGHIỆM. Trong việc Thờ Cúng Tổ Tiên cũng thế, không được chỉ biết có Cha, Ông, Tằng, Tổ của mình, nhưng phải vươn tới TỔ TRÊN HẾT CÁC TỔ, cực Tinh Ròng gọi là VĂN TỔ (The Perfect Ancestor) rất Linh Thiêng nên có tính cách PHỔ BIẾN như TRỜI cùng ÐẤT.(10) CÁCH M�� NG HIỆN THỰC: Việc Thờ Cúng Tổ Tiên có ảnh hưởng như thế nào trên phương diện Xà HỘI và CHÍNH TRỊ? Xưa kia bên La-Hy cũng như bên Trung Hoa cổ đại chỉ hàng Quý Tộc mới có quyền Thờ Cúng Tổ tiên, (vì theo họ chỉ có tổ tiên họ mới đáng được thờ, bởi thuộc máu Thần Linh). Ðiều này rất quan trọng, vì có quyền cúng tế tổ tiên, tức là cũng có quyền công dân với các quyền lợi theo sau như được hưởng đất, mua sắm, đi học, làm quan.vì thế phái quyền quý không chịu mở rộng việc tế Gia Tiên. Số người được cúng chỉ suýt soát hai mươi phần trăm. Tuy chỉ chiếm một tổ lệ nhỏ, nhưng nhờ vào sự ăn học, sự khôn khéo của họ cũng như trình độ vô học của đại chúng mà họ nắm được điều khiển trong nước.Nhưng đến một lúc nào đó khi tâm thức con người đã được khai mở đủ thì dần dần nhận chân ra sức mạnh của mình , cũng như những đẕc ân của phái quyền quý,và rõ ràng những đẕc ân này chỉ dựa trên những lý lẽ huyền hoẕc. Ðã thế, giới cai trị lại bị yếu dần do sự phân tán vì ý hệ giằng co giữa Hữu với Vô, nên sự nhất trí yếu đi và dần dần ảnh hưởng lan sang phạm vi xã hội, để rồi cuối cùng gây nên sự sụp đổ của xã hội như Ai cập, Babylon, Assyrie, Mesopotamie, Khmer.. eo Gs Creel cả thảy hơn 20 nền văn minh đã sụp đổ như thế, còn lại nền văn minh Viễn Ðông là duy nhất tồn tại. Vì không có cách mạng (révolution) nên bên Việt Nam và Viễn Ðông, lễ GIA TIÊN vẫn còn, nhưng đã biến hóa (évolution), nghĩa là thay đổi nền tảng: thay vì đẕt ở sự tin có linh hồn tồn tại vẫn gắn liền với huyết thống, thì đẕt sang nền mới là VĂN TỔ, tức TỔ của Nhân Loại, của mọi người. Do đó, hễ ai là NGƯỜI thì đương nhiên có đủ quyền đứng ra TẾ GIA TIÊN. Vì nhờ quan niệm rộng rãi đó nên ai cũng như ai, đều có quyền làm người, bất cứ gia đình nào cũng có quyền lập bàn thờ tổ tiên. Lễ Gia Tiên từ đấy hết còn là đẕc ân dành riêng cho Quý tộc như xưa,mà mở rộng cho khắp mọi tầng lớp vơí các quyền lợi đi kèm theo như quyền được đẕt tên tự, và do đó quyền được hưởng công điền, quyền được đi học, đi thi làm quan.(11) Tóm lại, nhờ thực hiện được cuộc CÁCH M�� NG TÂM LINH đích thực mà Văn Hóa VIỆT đã nâng tục thờ cúng Ông Bà có tính chất "mê tín dị đoan" (cái PHỔ QUÁT vì ở thời xa xưa nơi nào cũng có) thành LỄ GIA TIÊN là Ðạo Thờ NHÂN TÍNH (là nét ÐẶC THÙ của VIỆT TÍNH). e) THỜ NHÂN TÍNH: CON NGƯỜI được tôn trọng, trân quý trong đồng văn của nền Văn Hóa VIỆT, đến độ được PHỤNG THỜ, là điều mà các nền Văn Hóa khác chỉ dành cho THẦN LINH. Và chính quan niệm trên làm nên nét ÐẶC TRƯNG của Văn Hóa VIỆT qua Tục THỜ CÚNG TỔ TIÊN. Tục Thờ Cúng TỔ TIÊN còn được nới rộng ra các tục khác như tục Thờ các vị ANH HÙNG DÂN TỘC, Thờ QUỐC TỔ, cũng là những nét ÐẶC TRƯNG khác của Văn Hóa VIỆT , vì không có nơi nào khác có những tập tục kể trên. Quốc Tổ VIỆT có danh hiệu là HÙNG VƯ� NG hay là Vua HÙNG, trong khi vào cùng thời ở các nơi khác, người ta có Vua THẦN ( God King). Ý niệm "Vua Thần" phát xuất từ miền Lưỡng Hà ở giai đoạn của các nền văn minh Assyria, Perse.Người Ai Cập xưa chẳng hạn tin chỉ một mình VUA có LINH HỒN nên có thể thay thế cho THẦN để mà nắm cả Quyền ÐỜI lẫn Quyền Ð�� O. Tuy nhiên, đó chỉ là trường hợp thái thậm, còn thông thường hơn như ở bên Tây Phương thời Trung Cổ, nhà VUA chỉ còn đại diện cho Quyền ÐỜI, còn giới TƯ TẾ thì nắm giữ Quyền Ð�� O. VUA dựa trên QUÂN ÐỘI, còn TƯ TẾ thì dựa trên THẦN QUYỀN, cả hai giồn lại một thì thành nhà CHUYÊN CHẾ có đủ quyền lực để NÔ LỆ HÓA người DÂN cả THÂN lẫn TÂM. Tuy nhiên, bên cạnh QUYỀN bính võ LỰC của Vua THẦN, lại có một loại UY QUYỀN khác dựa trên TÀI ÐỨC của các vị ANH HÙNG như Vua HÙNG của đất VIỆT. Ðây là những VỊ có khả năng làm những việc VĨ Ð�� I bằng một thứ Quyền Uy SIÊU VƯỢT rất MẦU NHIỆM , tương đương với Thần Quyền nhưng không đẕt nơi Thần Linh mà nơi chính CON NGƯỜI. Nếu Vua THẦN dùng QUYỀN LỰC để THỐNG TRỊ và Nô Lệ hóa Con Người trong các nền văn minh DU MỤC như Tây Phương và Ấn Ðộ,thì Vua HÙNG trái lại dựa trên TÀI ÐỨC để CAI TRỊ nhằm điều hợp công tác chung và nhất là xuất hiện như GƯ� NG MẪU cho mọi con dân trong nền văn minh NÔNG NGHIỆP của Lạc Việt. Ðể đối chọi với tính chất VÕ BIỀN của Vua THẦN, Vua HÙNG có thể được xem là các Vị ANH HÙNG VĂN HÓA của dân tộc VIỆT, vì CÔNG NGHIỆP của các Ngài toàn là những việc thuộc Văn Hóa TÂM LINH Cao Cả, mà nói một cách bóng bảy là của Con NGƯỜI Ðại Ngã nối được TRỜI cùng ÐẤT như trong truyện Bánh Giầy TRÒN, Bánh Chưng VUÔNG, hay truyện Thánh Dóng, truyện Trầu Cau..(12) Do đó, nói theo ngôn ngữ NHO, HÙNG VƯ� NG xứng đáng là QUÝ TỬ của LONG PHỤ TIÊN MẪU, còn nói theo VIỆT, Vua HÙNG là CON CƯNG của MẸ TIÊN CHA RỒNG! Tóm lại, từ Hằng Tính THỜ CÚNG TỔ TIÊN, Văn Hóa VIỆT nới rộng ra các Hằng Tính khác như THỜ ANH HÙNG DÂN TỘC, THỜ QUỐC TỔ. Nhưng như đã nói ở trên, nhờ áp dụng Triết Lý NGŨ HÀNH vào việc sắp xếp BÀI VỊ trong việc Thờ Cúng TỔ TIÊN, nên Văn Hóa VIỆT đã thực hiện được cuộc Cách Mạng TÂM LINH nhằm biến đổi tục thờ cúng Ông Bà kiểu Ma Thuật thành LỄ GIA TIÊN, tức đạo THỜ NHÂN TÍNH qua sự hiện diện của Bài Vị thứ Năm nằm ở Trung Cung hành THỔ gọi là VĂN TỔ. Do đó, Văn HóaVIỆT không dừng lại ở Cha, Ông. Tằng, Tổ của mình mà còn vươn tới VĂN TỔ tức TỔ Chung của cả Nhân Loại. Hệ quả là từ Hằng Tính THỜ CÚNG TỔ TIÊN, Văn Hóa VIỆT không chỉ nới rộng ra các Hằng Tính khác như THỜ ANH HÙNG DÂN TỘC, THỜ QUỐC TỔ, mà còn nhắm đến Hằng Tính Tối Hậu qua việc THỜ VĂN TỔ, tức TỔ của Văn Hóa, TỔ của Nhân Loại, TỔ TRÊN HẾT CÁC TỔ. Lê Việt Thường CHÚ THÍCH: (1)& (3)Lê Việt Thường, "Việt Học trong Xu Hướng Toàn Cầu Hóa", Tư Tưởng Việt,2003, tr.10 - 13 (2) Kim Ðịnh,"Phong Thái An Vi", An Việt Houston, 2000, tr.86-90 (4) Cung Ðình Thanh,"Góp Ý Xây Dựng Căn Cước Tính VN", Tư Tưởng 27-28, th.9/2004, tr.2 - 10 (5) Ðông Lan,"Huyền Sử Hồng Bàng với Tâm Thức Lưỡng Hợp", Chương Trình Phát Thanh "Tìm Hiểu Triết Việt", tại Houston,Little Saigon Radio, 09-2006. (6) Kim Ðịnh, "Kinh Hùng Khải Triết", Thanh Niên Quốc Gia, USA, tr.17 - 21 (7) Idem, tr.39 - 48 (8) Idem, tr. 49- 50 (9) Ðông Lan, Tìm Hiểu Triết Việt, Tập I. (10) Kim Ðịnh, "Hồn Nước Với Lễ Gia Tiên", Nam Cung, CA., 1979, tr.27 - 31 (11) Idem, tr. 41 - 43 (12) Kim Ðịnh, "Hùng Việt Sử Ca", Thằng Mõ, 1984, tr.188 - 198.
  16. Giỗ Quốc Tổ Hùng Vương 2007 Nguyễn Minh Triết SỰ TÍCH TIÊN RỒNG VÀ VÒNG THÁI CỰC Kinh Dịch đã được phổ biến rộng rải và ngày nay ai ai cũng thừa nhận đó là một sản phẩm văn hóa của Hán tộc. Sự xác nhận với đầy rẩy chứng cớ trong sách vở khiến khó có ai có thể phủ nhận được. Công việc dẫn chứng để phủ nhận Kinh Dịch không phải của Hán tộc là một việc đội đá vá trời. Chúng tôi không có khả năng cũng như không dám làm công việc vĩ đại ấy mà chỉ nêu dưới đây một vài điểm tương đồng thân thuộc một cách kỳ lạ giữa sự tích Tiên Rồng của Việt tộc với Kinh Dịch của Hán tộc mà thôi. Một quan niệm căn bản của Kinh Dịch là thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng và biểu tượng rất được phổ biến của Kinh Dịch là Thái cực đồ với hình vòng tròn được chia hai bằng một đường dạng chữ S phân vòng tròn ra làm hai phần đều nhau, nửa đen nửa trắng. Vòng tròn được gọi là vòng thái cực, hai phần trắng đen là hai yếu tố âm dương. Biểu tượng Thái cực đồ nói lên vũ trụ quan của Kinh Dịch là mọi sự vật trong thái cực tức vũ trụ đều do hai yếu tố âm dương chi phối và cấu thành. Chúng ta ai cũng biết đến sự tích Tiên Rồng nói về nguồn gốc của dân Lạc Việt. Theo chuyện tích này thì dân Lạc Việt khởi nguồn từ sự kết hợp của hai giống Tiên và Rồng. Rồng Lạc Long Quân đã kết duyên cùng Tiên Âu Cơ và do sự kết hợp này mà mẹ Tiên Âu Cơ đã sinh ra một bọc chứa một trăm trứng nở được một trăm người con trai. Cha Rồng, mẹ Tiên sống với nhau một thời gian thì cha Rồng nhớ nguồn cội của mình là Thủy cung nên chia con ra làm hai, 50 con theo cha xuống biển, 50 con ở lại với mẹ Tiên trên non. Trước khi chia tay cha Rồng hẹn mẹ Tiên mỗi năm gặp nhau ở cánh đồng Tương hoặc khi cần cứ gọi thì ta về ngay. Sự tích Tiên Rồng mới nghe có vẻ huyền thoại khó tin nhưng nếu nghiên cứu tường tận ta sẽ tìm thấy rất nhiều ẩn ý mà tiền nhân muốn nhắn nhủ và lưu truyền lại cho hậu thế về nguồn gốc và triết lý của dân tộc Lạc Việt. Có thể cuộc hôn nhân của Tiên Âu Cơ và Rồng Lạc Long Quân cũng bình thường như các cuộc hôn nhân khác, nhưng có lẻ vì muốn câu chuyện được hấp dẫn cho dễ lưu truyền từ đời này sang đời khác mà tổ tiên ta đã huyền thoại hoá chuyện tình Âu Cơ và Lạc Long Quân chăng? Tiên và Rồng là hai biểu tượng không có thật. Tiên là hình ảnh của con người đã thánh hóa, siêu thóat, tượng trưng cho sự thanh nhã, khoan ái, trường tồn. Rồng theo quan điểm phương đông là rắn thăng hoa biểu trưng cho oai dũng, cho sức mạnh, tính nhẫn nại và tài năng biến hóa vô cùng. Trong khi các chủng tộc khác thường chỉ có một vật tổ, chủng tộc Lạc Việt có hai vật tổ cùng lúc là Tiên và Rồng tức có đủ cả hai yếu tố âm và dương. Tiên là giống cái thuộc âm, Rồng là giống đực thuộc dương. Cuộc hôn nhân của Tiên và Rồng là sự kết hợp sinh động của nét thanh nhã hiền hòa với sức mạnh và tài năng thiên biến vạn hóa. Sự kết hợp đó đã tạo nên giồng giống Việt, một giống dân vừa xinh đẹp, dịu hiền, vừa hùng dũng, cương quyết, vừa tình vừa lý, vừa linh động vừa thường hằng, vừa vật thể vừa siêu phàm. Và đó chánh là ẩn ý mà tiền nhân muốn trao gởi lại cho hậu thế để biết tự hào về đẕc tính của dân tộc Lạc Việt. Trước tiên, một bọc trăm con tượng trưng cho hình ảnh một nhóm người sống quây quần thành một cộng đồng hay xã hội. Trăm trứng trong cùng một bọc cũng chuyên chở ý nghiã là dân Việt có chung một nguồn gốc và bọc nở ra trăm con là tổ tiên muốn nhắc nhở mọi người dân Việt phải nhớ tới nguồn gốc mà thương yêu đùm bộc nhau. Thêm vào đó, vì cùng sinh ra đồng thời, đồng lúc nên tất cả đều bình đẳng, đều là anh em, đồng thời cũng hàm ý là con người từ khởi thủy đã sống trong cộng đồng và đã có tinh thần xã hội rồi. Một cách tổng quát sự tích Tiên Rồng dạy cho mọi người dân Việt phải biết yêu thương đùm bọc nhau trong tình anh em ruột thịt, trong nghiã đồng bào. Chánh trong ý nghiã này mà tiếng Việt mới có chữ đồng bào để chỉ người dân trong cùng một nước. Mẕt khác chữ trăm trứng không chỉ có nghiã thuần 100 trong ý nghiã số học. Trăm ở đây còn có nghiã là nhiều như trong câu: ta còn trăm việc phải làm, hoẕc cũng có nghiã là tất cả như trong các từ ngữ trăm họ, trăm hoa đua nở. Với ý nghiã này, tổ tiên Lạc Việt qua sự tích "bọc trăm trứng" đã dạy chúng ta là không chỉ giống giồng Tiên Rồng mà tất cả con người đều cùng một nguồn gốc sinh ra và tất cả các giống dân trên trái đất này đều bình đẳng và phải thân thương nhau trong tình ruột thịt. Bọc trăm trứng cũng nói lên sự kết hợp âm dương. Cha là đực hay dương, mẹ là cái hay âm, cha mẹ tức âm dương kết hợp đã sinh ra bọc 100 con. Nếu xem bọc tượng trưng cho vũ trụ thì từ lâu ông cha ta đã có một quan niệm khá rõ ràng về vũ trụ. Trăm con được chia làm hai, 50 theo mẹ 50 theo cha, đó là tổ tiên với óc sáng tạo độc đáo đã cụ thể hóa hai ý niệm âm dương vốn trừu tượng không thể thấy bằng mắt sờ bằng tay được. Cái bọc chỉ toàn thể vũ trụ được cấu tạo bởi hai yếu tố âm dương cân bằng nhau. Hình ảnh mẹ Tiên tượng trưng cho âm và cha Rồng tượng trưng cho dương để nói lên nguyên lý âm dương kết hợp và vận hành trong vũ trụ. Hai yếu tố âm dương hiện diện trong mọi vật thể từ nhỏ nhất đến lớn nhứt, hai yếu tố này tuy khác nhau nhưng quyện xoắn lấy nhau, tương giao, tương hợp để tạo thành vũ trụ và muôn loài. Như vậy ta thấy sự tích Tiên Rồng của giống Lạc Việt đã nói lên một cách dễ hiểu vàtrọn vẹn những điều trong Kinh Dịch diễn tả một cách trừu tượng là: Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng (Hệ Từ XI). Cái bọc trong sự tích Tiên Rồng là cách nói dễ hiểu để chỉ vòng thái cực; bọc chia làm hai gồm 50 và 50 chính là ý niệm lưỡng nghi của Kinh Dịch. Nhưng tính chất độc đáo trong sự tích Tiên Rồng là cho con người và vạn vật đều do hai yếu tố âm dương kết hợp. Ý niệm này cũng tìm thấy trong Kinh Dịch qua câu: nhất âm nhất dương chi vị đạo (Hệ Từ V) tức Ðạo của trời đất và vũ trụ là phải có âm dương. Nhưng hai yếu tố âm dương trong Kinh Dịch hoàn toàn trừu tượng, thuộc phần suy luận của lý trí, trong khi đó hai yếu tố âm dương trong sự tích Tiên Rồng được diễn tả bằng hai con người sống động và hiện thực là mẹ Tiên Âu Cơ và cha Rồng Lạc Long. Vấn đề chia con ra làm 50 theo Mẹ và 50 theo cha khiến nhiều người không chịu tìm hiểu tường tận đã vội kết luận rằng bản chất của dân Việt là chia rẻ. Thực ra, hành động Mẹ Âu Cơ dẫn 50 con lên núi nói lên nguyên lý mẹ tức mẹ làm chủ trong văn hóa Lạc Việt. Dẫn con lên núi là ý niệm đi lên cao, đi đến chỗ triệt cùng, triệt để tức là tìm về với minh triết, đi đến chỗ phân cực triệt thượng. Cha Lạc Long dẫn 50 con xuống đáy biển là một sự việc đối nghịch lại với sự dẫn con lên núi nhưng có cùng một mục tiêu là tìm đến sự triệt để mà ở đây là triệt hạ. Triệt thượng thì lên đến cùng cực của siêu thực, triệt hạthì xuống thấp nhứt đến hiện tượng tức là việc làm ăn sinh sống hằng ngày. Khi đạt đến cùng cực thì mọi sự hội thông đúng như châm ngôn của Lý Thái Cực là: "nhất lý minh, vạn lý thông". Hai hành động lên non, xuống biển nói lên sự phân cực để tiến hóa là một ý niệm hoàn toàn khoa học. Chia nhưng không chia, chỉ đi về hai phiá để làm nổi rõ sự cách biệt thôi. Sự chia tay này còn biểu thị cho cơ cấu của vạn vật trong trời đất đâu đâu cũng phải phân cực như vậy. Cha Rồng đã nói rõ là mỗi năm gặp nhau ở cánh đồng Tương và khi gọi thì ta về đã nói rõ sự kết hợp giữa Tiên và Rồng dù kẻ lên núi, người xuống biển vẫn còn tồn tại, vẫn là một. Ðiều này cũng nói lên lưỡng nhất tính trong văn hóa của Việt tộc: hai mà một, một mà hai: Tình đôi ta tuy hai mà một Ðời chúng mình tuy một mà hai. Dẫn con lên núi và xuống biển còn nói lên ý niệm núi vươn cao, biển nằm dài, hai hình ảnh ngang dọc chỉ ý niệm trời đất, đồng thời cũng cốt để diễn đạt quan niệm phân cực. Mẹ lên non đứng thẳng chỉ non nhân, cha xuống biển nằm ngang chỉ nước trí. Mẹ non nhân, Cha nước trí, nước non phối hợp hài hòa cho quốc gia vững mạnh, dân tộc trường tồn. Sự tích Tiên Rồng cũng thể hiện rõ rệt quan niệm về Ðạo của Việt tộc. Ðạo bao gồm ba yếu tố là âm, dương và hóa tức âm dương hòa hợp tạo nên Ðạo. Bình thường người ta chỉ thấy có âm và dương: âm tán dương tụ. Muốn trở thành Ðạo âm dương phải kết tụ, giao hòa. Tán tụ là hai luật căn bản của vạn vật trong vũ trụ vì tán tụ là hai mối liên hệ ràng buộc vạn vật với nhau một cách mật thiết. Nói cách khác là vạn vật phải giao hòa để tạo thành nhất thể như Kinh Dịch có ghi nhận là vạn vật nhất thể. Ðể nói lên cùng một ý niệm sự tích Tiên Rồng chỉ cần dùng hình ảnh bọc mẹ trăm con rất đơn giản và dễ hiểu. Trống đồng Ðông Sơn là những cổ vật không ai chối cải là di sản văn hóa của Việt tộc cũng đã ghi khắc lại trên mặt trống những tư tưởng về vũ trụ quan của sự tích Tiên Rồng. Mặt trống tròn chánh là cái bọc được nhắc đến trong sự tích Tiên Rồng tương đương với ý niệm vòng thái cực của Kinh Dịch. Mặt trống vẻ toàn các hình tượng người và vật có mang lông chim nói lên ý niệm Tiên và sự kiện 50 con theo Mẹ lên núi. Tang trống thì vẻ hình 6 thuyền rồng đi trên nước hàm ý 50 con theo Cha xuống biển. Mặt trống cũng được chia ra làm hai với một nửa có các hình tượng số chẳn như nóc nhà 2 chim, đoàn 6 người, chim 4 cẕp, và một nửa có các hình tượng số lẻ như nóc nhà 1 chim, đoàn 7 người, chim 3 cẕp. Sự phân chia này trùng hợp với điều trong Kinh Dịch gọi là Thái cực sinh lưỡng nghi. Vòng ngoài cùng của mặt trống với 36 con chim là tượng trưng cho 4 hoa hướng dương 9 cánh nói lên ý niệm lưỡng nghi sinh tứ tượng của Kinh Dịch. Một ý niệm khác của Kinh Dịch là tam tài Thiên Ðịa Nhân cũng được diễn tả trên trống đồng Ðông sơn của Việt tộc. Ngay giữa mặt trống là hình mặt trời rõ nét, đó chánh là yếu tố Thiên. Kế đến là hai vòng vẻ hình người múa hát, tượng trưng cho yếu tố Nhân. Hai vòng ngoài cùng vẻ hình chim thú tượng trưng cho đất, chính là yếu tố Ðịa vậy. Tang trống cũng diễn tả ý niệm tam tài bằng ba phần: phần trên chỉ trời, phần thân chỉ người và phần chân trống chỉ đất. Ngoài ra, nhìn vào mặt trống ta cũng thấy thấp thóang hình bóng của ngũ hành là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa và Thổ. Như trên vừa nói hai vòng ngoài cùng của mặt trống có hình chim thú, kế đến là hai vòng hình người, trong cùng ở ngay giữa là vòng mặt trời biểu thị cho hành Thổ trung cung, cọng tất cả các vòng lại ta có con số 5 của ngũ hành với hành Thổ ở giữa và bốn hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa ở bốn phương đông, tây, nam, bắc. Tóm lại, sự tích Tiên Rồng đã được thể hiện trên trống đồng Ðông Sơn. Và qua trống đồng Ðông Sơn ta thấy hình người và chim muông cùng hợp ca múa hát trong cảnh thái hòa hạnh phúc giữa trời, đất và người. Nếu minh triết là nghệ thuật tối cao sắp đặt cuộc sống sao cho mọi người đạt được hạnh phúc, thì triết lý của Việt tộc được gói ghém trong sự tích Tiên Rồng và biểu hiện qua trống đồng Ðông sơn đã nói lên được tánh cách ưu việt đó là hội nhập được hai thái cực cùng tột là có với không, chẳn với lẻ, vuông với tròn, âm với dương một cách trọn vẹn và hài hòa. Những tánh cách ưu việt đó đem đối chiếu với Kinh Dịch nói chung và thái cực đồ nói riêng ta thấy có nhiều điều trùng hợp. Qua các điều dẫn chứng vừa trình bày, ta có thể ghi nhận là sự tích Tiên Rồng và Thái cực đồ của Kinh Dịch là hai ấn bản của cùng một tư tưởng triết học, Tiên Rồng của Việt tộc có tánh cách bình dân dễ hiểu, Kinh Dịch của Hán tộc có tánh cách bác học khó hiểu. Cả hai cùng nêu cao một vũ trụ quan lưỡng nhất tính và quan niệm âm dương vẫn được nền triết học thế giới thừa nhận là hai yếu tố đẕc thù của nền triết học Ðông phương. Ðiều sau cùng tưởng cần ghi nhận là sự tích Tiên Rồng đã có từ hơn năm ngàn năm trong khi Kinh Dịch chỉ mới biết đến khoảng hai ngàn năm trăm năm mà thôi. Nguyễn Minh Triết ( Nguon: An Viet toan cau) Tài liệu tham khảo: Kim Ðịnh -- Thái Bình Minh Triết, Thời Ðiểm xuất bản, 1997. Ðào Văn Dương, et. al. -- Tinh Hoa Tư Tưởng Việt, Tủ Sách Việt Thường xuất bản, 1997. Nam Thiên -- Kinh Việt, Hoa Tiên Rồng xuất bản, 1993.
  17. PHẬT - LÃO HỘI NGỘ Ngày kia, Boudha (Bụt, Phật) Sakya Muni giảng rất nhiều điều cho các Tỳ Kheo, rồi chợt Boudha nhặt một nắm lá và nói:-Này các Tỳ Kheo, các vị có thấy rừng lá kia không? Cái ta hiểu được là như rừng lá ấy. Nhưng mà các Tỳ Kheo, cái mà ta nói được với các người chỉ bằng nắm lá này thôi. .... Khi ở khoản thời gian cuối đời, một ngày nọ, Boudha lại nói với các Tỳ Kheo: -Này các vị Tỳ Kheo, thật ra suốt những năm tháng qua, ta chẳng nói một điều gì. XXX Trong Đạo Đức Kinh, Lão Tử nói "Đạo khả đạo phi thường đạo".LacTuong chua rằng: Ngứa, tự gãi, tự...đã. Hihi
  18. Xin lỗi Jimsy, LacTuong nhầm quẻ. Xem lại quẻ này Đêm qua 24h00, LacTuong có thấy câu hỏi của Jimsy cũng lấy quẻ thử, nhưng thấy quẻ xấu nên thôi không quăng lên, vì nghĩ rằng có lẽ không hợp. Nhưng bây giờ lên đây thì vẫn thấy chưa ai quăng quẻ nên nghĩ lại có thể hoàn cảnh này hợp với quẻ đã bốc. Ngày Quý Mão 28 tháng Bính Thìn năm Mậu tí giờ Tí Quẻ HƯU VÔ VỌNG Quẻ này đại loại là "biệt tâm biệt tích rồi cũng tái ngộ". Quẻ Hưu Thủy , gian nan, nguy hiểm, tai nạn vượng ở Tí. Vô Vọng thổ bị Mão khắc. Trường hợp này là do Jim ỷ y, lơ là, nghĩ rằng không sao. Nhưng kẻ cắp đã theo dõi chắc cũng gần một giờ trước đó, chờ phút lơ là mà ra tay. Vô vọng là để xe ở ngoài tiệm sách mà không gửi xe thì phải. Lúc ấy chắc cửa hàng ít người, nơi này hơi vắng vẻ. Vô vọng thổ vượng ở thìn khắc Hưu thủy. Kẻ cắp sẽ bị bắt. Vật cũ hồi gia, nhưng chậm. Kết quả Sinh Đại An có thể sẽ tìm lại được nhưng chậm, vì cơ quan phải cố gắn điều tra. Có thể tháng Tị thì sẽ tìm lại được. Còn mấy ngày nữa là sang tháng tị, chừng 10 ngày nữa là có kết quả. LacTuong
  19. Gửi Jimsy, Đêm qua 24h00, LacTuong có thấy câu hỏi của Jimsy cũng lấy quẻ thử, nhưng thấy quẻ xấu nên thôi không quăng lên, vì nghĩ rằng có lẽ không hợp. Nhưng bây giờ lên đây thì vẫn thấy chưa ai quăng quẻ nên nghĩ lại có thể hoàn cảnh này hợp với quẻ đã bốc. Ngày Quý Mão 28 tháng Bính Thìn năm Mậu tí giờ Tí Quẻ HƯU LƯU NIÊN Quẻ này đại loại là "biệt tâm biệt tích khó lòng tái ngộ". Quẻ thuần Thủy, gian nan, nguy hiểm, tai nạn. THủy được sinh ở mão, Vượng ở Tí. Việc nảy khó lòng mà tìm lại được. trường hợp này là do Jim ỷ y, nghĩ rằng đi một chút rồi ra ngay nên không quan tâm sát sao. Kẻ cắp đã theo dõi chắc cũng gần một giờ trước đó, chờ phút lơ là mà ra tay. Hy vọng rằng Thủy ở tháng này bị khắc mà tìm lại được. Kết quả Sinh Tiểu Cát, có thể sẽ tìm lại được nhưng chậm, vì cơ quan phải cố gắn điều tra. Có thể tháng Tị thì sẽ tìm lại được.
  20. ngày Nhâm Dần tháng Bính Thìn năm Mậu Tí giờ Tuất. Quẻ độn: Thương Xích Khẩu. Gói thầu này có rất nhiều đối thủ cạnh tranh (xích khẩu). Trong tháng này nếu có họp mặt các chủ thầu thì sẽ không tránh khỏi lời qua tiếng lại mà mất lòng nhau (Thương). Công vụ này từ phía chủ công trình cũng muốn ngã ngũ cho xong để đảm bảo tiến độ xây dựng. Tuy vậy vẫn bị vướng các thủ tục theo như quy định của một công trình. Và điều quan trọng là phía chủ thầu chưa đạt hết tin tưởng, còn nghi ngờ vào uy tín của công ty bạn. Điều đó là trở ngại hiện tại. Việc hóa giải bây giờ là chứng tỏ năng lực công ty, nhưng điều quyết định là tranh thủ tình cảm. Việc thương thuyết này chắc phải bàn trên bàn nhậu và phải có thêm một người thương thuyết của công ty bạn là một người nữ, duyên dáng sắc xảo thì sẽ thành công. Nhưng chắc chắn là thành công, có điều hơi tổn tâm lực. Nội trong 3-4 tuần nữa là có kết quả, trể thì chắc 9 tuần. Thử xem. LacTuong :P
  21. Vậy thì đệ nhờ tỷ Laviedt đưa đường chỉ lối giùm. Đệ sinh Bính ngọ nhật 25 canh dần nguyệt Bính thìn niên Thìn thời nhứt khắc (7h15). Tỷ có thể hồi âm qua mail tuan_ab2004@yahoo.com Đa tạ tỷ tỷ. :P
  22. Đúng là Lạc Tướng bị...lạc quẻ. Phải là Tử Tiểu Cát mới đúng. Thế thì cái trên đã sai. Hic :P Vậy thì nhờ LinhTrang và NinhThuan ra tay giùm. Đa tạ lắm lắm!!!
  23. Sư phụ Thiên Sứ ơi, LT ghi thiếu một cung.Vậy đt xin bổ sung: 10. Cung BÀO: Suy Ngọ - Khai Vô Vong - "Tha phương tứ xứ" Thổ lâm Suy, được Ngọ sinh khắc Thủy. Anh chị em xa sứ lập nghiệp. không giúp đươc gì. Một người đi xa còn trở về. Một người đi xa biền biệt, chắc vì cuộc sống khó khăn. Mong tin Sư phụ. LacTuong. :P
  24. Kết quả thời tiết ngày 1/5/2008 ở Tp HCM, Ban ngày trời nắng đẹp, trưa và chiều có mây giông, mưa rào từ 15h55 đến 17h35. Ban tối, trời không mưa. Nhiệt độ ngày và đêm thấp hơn bình thường (xin lỗi vì không có thước đo độ). Theo dân gian gọi là trời mát. Các dự báo đúng sai trước đó, mời các bạn tham khảo ở các bài trên. :P
  25. ngày T sửu tháng B thìn năm M Tí giờ Mùi An quẻ Tử Vô Vong điểm chuẩn của các trường theo dự đoán như sau: 1. ĐH Ngân hàng TPHCM. 19 đ 2. ĐH Kinh tế TPHCM 15 đ 3. ĐH ngọai thương 16 đ 4. ĐH Mở 17 đ 5. ĐH Sài GÒn 14 đ Mấy việc thi ĐH bây giờ LT cũng không rành lắm. Có thể đoán không hợp lý. Có thể sai. Nhưng cũng thử xem. :P