-
Số nội dung
6.278 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
75
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Thiên Đồng
-
Dĩ hòa vi quý ai ơi chớ đừng lớn tiếng nặng lời với nhau Đúng sai trúng trật để sau trước tiên luận đoán, cùng nhau ngẩm nghiền ai cũng có biệt tài riêng đổi trao học hỏi có phiền chi chi phép luận hay, cứ học đi! biết đâu hữu dụng, có thì lợi ta Phương pháp ai có viết ra Bảng quyền phải nhớ, công là phải ghi Ai ai có phát kiến gì đưa ra nghiên kíu rồi thì chỉnh chu biết đâu vạn thế thiên thu Danh tài Lạc Việt còn lưu đời đời Lactuong
-
Thế giới rộn ràng quả bóng lăng Quẻ Việt quẻ dịch thoải mái quăng Phép luận cũ mới tự do nghiệm Đồng môn, khách lạ chớ băng khoăn! Đồng môn, khách lạ chớ băng khoăn! Đúng sai trúng trật nô - prố - blăm (no problem) Sau cuộc Euro ai cũng sẽ Trình độ độn toán đạt cao thâm! Trình độ độn toán đạt cao thâm! Nhưng mà nên nhớ chớ có tham Độn quẻ đỏ đen vào cá độ Tẩu hỏa nhập ma trăm phần trăm. Một đường link mới chi tiết hơn www.bongdaso.com Lactuong
-
Con Nghê thuần túy Việt Dù là một biểu tượng thuần túy Việt Nam nhưng con Nghê lại chỉ được ít người biết đến. Chim hạc là linh vật từ thời các vua Hùng dựng nên nước Văn Lang ta, vậy con nghê xuất hiện từ bao giờ? Hai linh vật đặc thù của văn hóa Việt Nam là chim hạc và con nghê, thế nhưng trong khoảng trăm năm gần đây, ta thường thấy rồng và lân được dùng trang trí trong các đền chùa, dinh thự lớn. Như tượng hai con lân trắng ở ngay trước sân chùa Vĩnh Nghiêm, Sài Gòn chẳng hạn. Những ngôi nhà lớn của người Việt ở hải ngoại hay ở trong nước cũng trang trí bằng tượng con lân. Chim hạc là linh vật từ thời các vua Hùng dựng nên nước Văn Lang ta, vậy con nghê xuất hiện từ bao giờ? (Phải chăng từ đời Lý, khi nền văn hóa thuần Việt được phục hồi và phát triển sau một ngàn năm Bắc Thuộc?). Con Nghê Con Nghê là gì? Trong đời sống của người dân Việt, hai con thú được coi như những người bạn thân thiết, gần gũi và quan trọng nhất là con trâu và con chó. Trâu để cầy ruộng, giúp sản xuất lúa gạo, chó để giữ nhà, phòng kẻ gian, phòng thú dữ. Đời sống thực tế có chó giữ nhà, còn đời sống tinh thần thì sao? Ông cha ta cũng cần một linh vật để chống lại các tà ma ác quỷ nữa chứ. Chó đá được dựng lên vì thế. Ở làng quê miền Bắc Việt Nam, trước cổng làng bao giờ cũng có một con chó đá để bảo vệ cả làng, trước cổng đình bao giờ cũng có chó đá, và trước cổng nhà hay ở ngoài đầu hồi, ngoài cửa nhà cũng thường có chó đá ngồi trước canh giữ cho gia chủ. Những con chó đá này hình dạng thay đổi, cao khoảng từ nửa thước tới một thước, thường là những tảng đá được khắc đẽo rõ ràng oai vệ, nhưng có khi chỉ là một khối đá đặt nghiêng theo dáng một con chó đang ở thế ngồi canh giữ. Rồi để bầy chó đá hoá linh trước điện thờ, hay bàn thờ ở những nhà giàu có, ở các đình chùa đền miếu, chó đá được khắc đẽo với những chi tiết oai vệ, đầu chó, mặt chó đầy những nét uy nghiêm. Vì linh thiêng như thế, nên được gọi là con Nghê. Thủa nhỏ, vào khoảng đầu thập niên 1950 ở Thái Bình, còn thấy ở nhà cụ Hà Ngọc Huyền, ông ngoại chúng tôi có trưng tượng con Nghê cao gần một thước ngay lối vào phòng khách cùng với những bình, những chóe đời Khang Hy nhà Thanh, đời Minh… Con Nghê này không biết nay đã lưu lạc về đâu? Tóm lại con Nghê là một linh vật được sáng tạo để bảo vệ đời sống tâm linh của người Việt. Con Nghê thường được thấy qua các món đồ gốm như: Vài hình tượng con Nghê tiêu biểu 1. Tượng con Nghê 1. Tượng con Nghê: Dựa trên nước men, mầu men, chất đất ta có thể định rằng đây là một tác phẩm đời Lý (thế kỷ 11 –12). Con Nghê này cao độ 36cm, bằng đất nung, phủ men nâu, nét tô đắp cực kỳ tinh xảo, con Nghê trông sống động, oai vệ, tưởng chừng như có thể phóng lên xua đuổi tà ma ngay tức khắc. Mặt Nghê ngắn. Mình Nghê thon dài, rất thanh tú. Cổ Nghê đeo dây lục lạc có tua, cổ ngửng thẳng. Lông trên sống lưng dựng đứng như một hàng kỳ, chạy suốt từ đỉnh đầu xuống đến đuôi. Chân Nghê thanh nhưng thẳng và mạnh, chân sau ở thế ngồi bắp thịt đùi trông rắn chắc mạnh mẽ, hai chân trước chống cao, chỗ đầu gối có lông xoắn cong. Mắt to, miệng lớn, mũi lớn, miệng Nghê hơi hé mở để lộ những răng nanh nhọn hoắt, như sẵn sàng xua đuổi tà ma. Tai Nghê lớn nhưng không dựng lên như tai chó. Lông Nghê mượt sát vào mình với những đường khắc, uốn từ sống lưng xuống phía bụng, trông như vằn chó. Nậm rượu hình nghê Nậm rượu hình con Nghê 2. Chúng tôi xin đưa ra hình hai nậm rượu hình con Nghê, một mầu nâu, một mầu đen. Nghê với hình dáng và thế ngồi cũng như mô tả ở trên, tuy rằng các chi tiết không sắc sảo bằng. Nghê ngồi trên một bầu rượu có dáng trên tròn dưới ống. Mình Nghê rỗng, trên lưng Nghê có vòi loe để chuyên rượu vào (nắp đậy chỗ này không còn, cho nên ta không biết nắp cũng làm bằng đất sét nung hay bằng gỗ hoặc lá cuộn). Rượu được rót ra từ vòi dài đi từ thân nậm, tựa như cọc với dây xích buộc Nghê. 3. Bình trầm hương hình Nghê: Bình đốt trầm hương trên bàn thờ Mầu men, nước men, chất đất, độ nung của các bình hương này cho thấy đây là các tác phẩm làm thời Chu Đậu (thế kỷ 16, 17, 18 ) chứ không phải đồ đời Lý hay đời Trần. Bình hương gồm hai phần, phần dưới là một hộp nhỏ hình chữ nhật. Đây là chỗ bỏ trầm vào đốt. Phần trên là nắp. Nắp là con Nghê ngồi trên một mặt phẳng đậy vừa kín phần dưới. Mình Nghê rỗng, khi đốt, trầm khói từ phần hộp phía dưới luồn trong mình Nghê rồi bay ra từ miệng Nghê đang hơi khẽ mở, trông rất oai nghiêm. Vì trầm được đốt trong hộp kín phía dưới mà chỉ có thể thoát khói ra khỏi miệng Nghê nên cháy rất chậm, vừa toả đủ khói hương để mang đầy vẻ linh thiêng mà vẫn cháy lâu cả buổi. Phân biệt con Nghê và con Lân Con Nghê là linh vật đặc biệt của văn hóa Việt Nam, con Lân thuộc văn hóa Trung Hoa. Về hình dạng, con Lân giống sư tử, đầu có 1 sừng, chân ngựa, mình tròn mập có vảy, đuôi ngắn, miệng ngậm quả cầu, hay ngồi chống chân lên quả cầu. Con Nghê có kỳ mà không có sừng, mình thon nhỏ, dáng thanh, đuôi dài, trông rõ ràng dáng chó. Một số bình hương, chân đèn gốm Việt Nam thời Chu Đậu làm vào khoảng thế kỷ 16, 17 cũng có hình con lân, nhìn vào thì thấy rõ ngay là con lân chứ không phải là con nghê. (Trong sách "Vietnamese ceramics - a separate tradition" của John Guy và John Stevensen soạn, có nhiều hình bình hương trầm với con nghê nhưng đồng thời lại có hình con lân mà ghi chú nhầm là con nghê). Tượng con Lân Thời thịnh đạt của Con Nghê Trong những thế kỷ Bắc Thuộc khi người Trung Hoa làm đủ mọi cách để hủy diệt văn hoá Việt Nam, như: tịch thu, hủy diệt và cấm làm trống đồng, bắt người Việt đổi theo họ Tầu (vì thế những họ cổ Việt Nam như họ Trưng (Trưng Trắc)… không còn nữa….), thì không biết ông cha ta có làm hình tượng chó đá và con Nghê không? Quan sát cách sinh hoạt của người Thượng trên các miền cao nguyên, ta thấy rằng con chó vẫn là con vật rất quan trọng của đời sống thôn dã. Vậy thì ai có thể quả quyết rằng, chó đá, con Nghê không được phát sinh từ thời xa xưa? Tuy nhiên chúng tôi cũng chưa có dịp may được thấy các hình ảnh hay vật tích hình con Nghê của thời đại cổ xưa này. Ước rằng có người với những phương tiện đầy đủ sẽ làm các việc khai quật nghiên cứu và tìm ra di tích con Nghê từ thời xa xưa. Khi Đinh Bộ Lĩnh dành lại nền tự chủ cho nước Việt, nhà Lý, nhà Trần, rồi nhà Lê nối ngôi dựng lại nền văn hóa thuần Việt phong phú cùng văn học, xã hội, chính trị, nghệ thuật tạo hình của người Việt phát triển rực rỡ. Trong bối cảnh văn hoá ấy, với sự nẩy nở của những nghệ phẩm, tác phẩm Việt Nam, sự phát triển của kiến trúc đình chùa, sự phát triển của giới quý tộc, trưởng giả càng đòi hỏi nhiều hơn nữa những phẩm vật tế tự, sinh hoạt và trưng bày. Khung cảnh và nhu cầu này đưa đến biết bao phát triển của nghệ thuật tạo hình. Nhu cầu tinh thần, nhu cầu vật chất được đáp ứng bởi bàn tay, khối óc của các nghệ nhân Việt lúc nào cũng xông xáo sáng tạo. Biết bao kiến trúc, cung điện, đình chùa với mái cong thuần túy Việt được dựng lên. Đồ gốm Việt Nam bừng lên tổng hợp kỹ thuật và sắc men Trung Hoa với dạng thức, nét vẽ, và phong cách hoàn toàn Việt Nam. Từ đây những bình, ấm, tô, chén, đĩa… những món đồ Lý Trắng, Lý Nâu, Lý Lục, Lý Đen, những món đồ men ngọc, chuyển qua những món men trắng hoa chàm của đời Trần, đời Lê tuyệt vời, được sản xuất mạnh mẽ. Rồi tiếp theo đó, sang thế kỷ 16, 17, 18 là thời của gốm Chu Đậu, thời tuyệt đỉnh của đồ gốm Việt Nam, với biết bao phẩm vật xuất cảng sang vùng Ba Tư, Nam Dương, Phi Luật Tân, Nhật Bản…. Dựa trên số lượng và phẩm tính của những con Nghê trong các viện bảo tàng và bộ sưu tập của các tư nhân, ta thấy rằng thời thịnh đạt nhất của con Nghê là từ đời Lý cho đến cuối đời Tây Sơn (thế kỷ 11 đến thế kỷ 18). Suốt từ đời Lý, Con Nghê được trọng dụng ở khắp mọi nơi, từ những ngôi nhà dân dã, từ cung đình, cho đến lâu đài, đình chùa, lăng miếu… Đến cuối đời Lê, loạn Trịnh Nguyễn phân tranh, đất nước đi vào 300 năm khói lửa, nhưng không vì thế mà văn hoá Việt điêu tàn mà trái lại càng phát triển mạnh thêm về mọi mặt (thơ văn, kiến trúc, khắc gỗ, gốm sứ …). Trong suốt 8 thế kỷ này, các bình hương trầm, các nậm rượu, và các tượng hình con Nghê là những món không thể thiếu ở nơi tế tự, ở các nhà trưởng giả cho đến nhà bình dân. Thời suy tàn của con Nghê Khi Nguyễn Ánh thống nhất sơn hà, triều đình nhà Nguyễn - có lẽ do mặc cảm, do lòng thù ghét các dấu vết văn hóa của đất Bắc, của nhà Trịnh, nhà Tây Sơn - đã quay lưng lại văn hóa Việt Nam mà ưa chuộng văn hóa Trung Hoa. Thế nên, con rồng Việt Nam uyển chuyển của đời Lý Trần Lê, đã bị thay bằng con rồng Tầu thân mập vẩy to, mặt ngắn. Thế nên, thành Thăng Long bị phá đi xây lại nhỏ hơn và biết bao cung điện đời trước (còn lại sau những năm dài chinh chiến) đã bị nhà Nguyễn cho phá đi. Thế nên, trong dù đang chật vật cạnh tranh với đồ gốm Tầu trên thị trường quốc tế, cả một kỹ nghệ đồ gốm Việt nam đã không được triều đình nâng đỡ. Thay vào đó, các món đồ dùng trong cung đình Huế thì được đặt làm từ các lò gốm ở bên Tầu. Thế nên, cả làng Chu Đậu (Hải Dương) phải bỏ nghề gốm mà chuyển qua nghề dệt chiếu (một số nhỏ đã dọn đến Bát Tràng tiếp tục nghề cũ, trong phạm vi rất nhỏ hẹp so với Chu Đậu). Trong các cung điện ở Huế, con Nghê không được dùng, vì đã bị con Lân của Tầu thay thế. Các lư trầm bằng đồng với hình tượng con Lân trên nắp trở nên phổ thông. Các nhà trưởng giả đua theo triều đình chuộng các linh tượng Trung Hoa. Kỹ nghệ đồ gốm tàn lụi, con Nghê chỉ còn sót lại trong những bàn thờ cổ ở chốn thôn dã. Hãy đi đến các ngôi chùa, các kiến trúc ở Việt Nam làm từ thế kỷ 19, ta thấy ngay rằng, con rồng Việt đã biến đổi, con Nghê đã bị thay bằng con Lân, chim Hạc chỉ còn là biểu tượng xưa cũ. Thương thay, các biểu tượng thuần Việt, các nét tạo hình thuần Việt không còn được người Việt biết đến nữa. Lâu nay, khi đi qua cửa các nhà giàu có ở Hoa Kỳ, ta vẫn thấy chủ nhà hãnh diện bầy hai con Lân hai bên cửa, cứ như là chùa Tầu. Ở các lò gốm bên Việt Nam, ở Non Nước, Đà Nẵng-Hội An, các nhà khắc chạm cẩm thạch, đâu đâu cũng chỉ sản xuất toàn con Lân mà không có con Nghê. Buồn thay! Chúng tôi ước ao rằng các nhà làm đồ gốm Việt Nam sẽ làm lại tượng con Nghê, bình hương trầm con Nghê để tất cả chúng ta còn hãnh diện nối theo dòng văn hóa Việt Nam của ông cha thủa trước. Bùi Ngọc Tuấn
-
Croatia- Thổ Nhĩ Kỳ Thổ thắng không? Ngày T. Mão tháng M. ngọ năm M. Tí giờ Ngọ (12g45) an TỬ TỐC HỶ Thổ sẽ mở chiến lược tốc chiến tố thắng ngay từ đầu, hòng gi bàn rồi sau đó hạ nhiệt trận đấu để bảo lưu tỷ số. Tuy vậy cũng sẽ gặp nhiều chống chọi của Cro cũng nhằm hướng đến chiến thắng. Cuộc cầu sẽ quyết liệt ngay từ đầu đến phút chót. Kết quả Croatia - Thổ là 0 - 2 hoặc 2 - 4 nghiêng về đội Thổ. LacTuong :) :unsure:
-
Bồ Đào Nha - Đức BĐN thắng không? Ngày Canh Dần 16 tháng Mậu Ngọ năm Mậu Tý giờ Hợi SINH ĐẠI AN BĐN sẽ chơi một cách thận trọng, nhịp độ tương đối chậm, có nhiều cố gắng và nhiều pha gây bất ngờ. tuy vậty Bồ không thắng. Tỷ số Bồ - Đức là 1 - 3. LacTuong.
-
Vậy thì hay quá! Đệ tử sẽ đến. Mong rằng Sư phụ sẽ rảnh. hihi :lol:
-
Hoan hô BabyWolf! Hoan hô cho phát kiến phương pháp luận LVDT! Hoan hô anh này một cái, Hoan Hô!! Haha hehe hihi
-
Israrel có tấn công Iran hay không ? Nếu có tấn công thì thời điểm nào ? :lol: Ngày kỷ sửu 15 tháng mậu ngọ 5 năm mậu tý vận thủy 16h45 giờ thân an TỬ TỐC HỶ tốc hỷ, hiện tại nội các Israel hầu như trên dưới một lòng ủy hộ chiến lược đòn đánh phủ đầu Iran. Cơ quan ngôn luận của chính phủ sẽ tiếp tục duy trì thông tin này như một lời đe dọa và cảnh báo trước đối với Iran, đồng thời cũng đánh động sự ủng hộ của các cường quốc mang chủ trương chủ chiến, trong đó Mỹ là mục tiêu trước tiên. Có thể nói phía Israel cũng đã và đang chuẩn bị lược lượng quân sự cho một cuộc tấn công chủ động cần thiết. Mọi sự tuyên bố cũng như hành động đã sẳn sàng. Tử, Phía Iran chắc chắn đã biết thông tin về sự tuyên bố này và đã từ lâu, có thể nói là từ khi Israel chưa đe doa phủ đầu thì Iran đã ngầm trang bị quân dụng, vũ khí cho cuộc chiến cần thiết. Và chắc chắn họ cũng đã có những phát minh vũ khí tối tân như thế giới nghi ngờ. Có thể là loại vũ khí dạng phân tử kim loại hóa khí hoặc hóa lỏng. Nhìn chung: tuy vậy chiến tranh sẽ không xảy ra ít nhất là hết năm nay(2008). LacTuong
-
Thụy Điển - Spain (TBN) Đội nào thắng? Ngày  Dậu th. M. ngọ năm M. Tý giờ Tuất độn CẢNH LƯU NIÊN Tỳ số TỬ TỐC HỶ Đội có áo màu xậm hơn, tối hơn chơi thận trọng, mạo hiểm, đôi khi phạm lỗi. Đội áo màu sáng hơn chơi đẹp và lấy phòng vệ làm chính, tấn công là bất ngờ. Đội áo màu xậm hơn sẽ thắng tỷ sẽ sẽ là 4-2 hoặc 2-0 Hy Lạp - Nga Đội nào thắng? độn KINH XÍCH KHẨU Tỷ số KHAI TIỂU CÁT Hai đội chiến đấu một mất một còn, hăng say máu lửa, nả đạn vào khung thành đối phương không ngớt. Cả hai đều có chiến thuật chiến lược linh động, thay đổi bất ngờ. kết quả hai đội sẽ Hòa 1-1 LacTuong
-
Gửi Rin86. Rin86 mới bắt đầu học LVDT, mong được các bậc tiền nhân chỉ bảo ạ ngày 14/6/2008 lúc 1h 38 phút Rin hỏi: Ngày Ất Dậu 11 th M. ngọ năm M. Tý giờ Mùi Tuần tới B có đi mua vé máy bay không? HƯU XÍCH KHẨU Xích khẩu là giao dịch, mua bán, ngoại giao. Vậy thì chuyện đi mua vé là có. Hưu là nghỉ ngơi, hoãn lại, độ số là 1. Vậy là sẽ hoãn lại 1 giờ hoặc một ngay sau mới đi mua, nếu đã xác định một ngày cụ thể trong tuần tới. cũng có nghĩa là lui lại một tuần theo dự tính. Vậy Hưu Xích Khẩu là sẽ đi mua nhưng sẽ trể hơn dự tính là thêm 1 ngày, có thể đó là ngày 22/6/08. Tuần tới đi thi có vấn đề gì không? độn tới SINH TIỂU CÁT Tiểu cát là sách vở, niềm vui nhỏ, tri thức, báo chí...Vậy là có thi. Sinh là sống là chồi non mới nhú, là cố gắng...Vậy là thi hơ chật vật, bài vỡ chưa nắm chắc. (Coi chừng vấp cục đá là quên hết! Hihi) Sinh tiểu Cát là thi cữ còn phải có gắn nhiều hơn, chuẩn bị tư liệu nhiều hơn, thôi đi chơi lại...cần phải gạo bài kỷ hơn thì mới có niềm vui nhỏ được. Nhưng trước khó sau tốt. Nếu bị mọi người và thây cô mắng thì...đư cái mặt Tiểu Cát mười cái răng ra. hehe LacTuong
-
1. NIÊM HOA VI TẾU Ngày kia, Boudha (Bụt, Phật) Sakya Muni giảng rất nhiều về mọi lẽ. Bỗng, Boudha dừng lại, không giảng nữa rồi tự tay ngắt một hoa sen (đã được chúng cúng dường trước đó), khẽ đưa lên và mĩm cười.Thính chúng và các tỳ kheo đều chưa hiểu được ý của Boudha. Nhưng từ phía dưới, đại đệ tử Anandha (A nan đà), sau một lúc bất ngờ, chợt cũng mĩm cười và đứng dậy đảnh lễ Boudha. Boudha thấy biết Anandha đã ngộ. Sau khi boubdha tịch diệt, y bát đã được truyền cho Anandha. A nandha trở thành tổ thứ nhất của phật giáo Ấn Độ. Lời bàn (của LacTuong): Chân lý không thể dùng ngôn từ để làm người hiểu hết, chỉ có thể liễu ngộ mà thôi. Tự bất tận ngôn, ngôn bất tận ý, ý nan thuyết. 2. LẼ THỌ TỬ Một ngày kia, Boudha (Bụt, Phật) Sakya Muni giảng về lẽ thọ tử cho các tỳ kheo. Boudha hỏi: -Này các tỳ kheo, nghe ta hỏi đây, đời người sống được bao lăm? Một người thưa: -Thưa Đức thế tôn, sống được trăm năm. Boudha nói: -Ngươi chưa hiểu được đạo ta. Một người nữa thưa: -Thưa Đức thế tôn, sống được bảy mươi năm. Boudha nói: -Ngươi vẫn chưa hiểu được đạo ta. Một người nữa lại thưa: -Thưa Đức Thế Tôn, sống được chỉ ba mươi năm thôi. Boudha lại nói: -Ngươi vẫn chưa hiểu được đạo ta. Tất cả đều yên lặng để chờ lời bày minh, lúc đó Boudha giảng: -Đời người sống trong vòng hơi thở. ... Lời bàn (của LacTuong): đứt dòng hơi thở là hết sống. Nào ai biết được mình đứt khi nào? Lúc nào? Tại sao? Do vậy mà cuộc sống cũng ngắn, cũng dài. Đời như ảo mộng.
-
CẦU NGUYỆN Ngày kia, Sakya Muni nói chuyện với một vị đạo sư Bái Hỏa Giáo. Vốn nghe danh Sakya Muni đã lâu và lòng còn nhiều điều chưa liễu ngộ, muốn khi diện kiến sẽ tọa đàm. Khi tọa đàm, vị đạo sư hỏi Sakya Muni: - Thưa Gotama, theo Người việc cầu nguyện sẽ mang lại lợi ích gì chăng? -Này Đạo sư, ta hỏi ông, khi liệng một hòn đá xuống sông, ông có thể cầu nguyện cho nó nổi lên đươc không? Sakya hỏi lại. Đạo sư lặng thin. Sakya lại hỏi: -Này đạo sư, khi ông đứng bên bờ này sông, ông muốn qua được bờ bên kia sông, ông phải làm thế nào? Vị đạo sư trả lời: -Với mọi khả năng, tôi có thể bắt cầu, đi thuyền hay cũng là bơi qua sông. Sakya Muni lại nói: -Này đạo sư, tôi hỏi ông, vậy ông có thể nguyện cầu cho bờ bên kia sông di chuyển cập qua bờ bên này sông để mà ông chỉ cần bước qua thôi? Vị đạo sư không nói. Sau đó ngài đã thuyết phục các tăng chúng của mình bỏ Bái hỏa giáo mà theo Sakya Muni LacTuong chua rằng: Ngày Hoa Kỳ tuyên bố tấn công Afganistan, cả thế giới Hồi giáo đều cầu nguyện cho chiến tranh không xảy ra, nhưng sau đó thì...Afganistan trở thành nơi đầy khói lửa bom đạn, một Afganistan tan hoang. :lol:
-
Đọc xong cảm thấy thật ngây ngây Hỏng biết Tiền bối nói gì đây? Âm dương bát quái nhiêu khê thế con cháu Lạc Hồng cũng...bó tay. Chạy!! LacTuong
-
[/code]
-
-
-
từ đầu đến giờ Lactuong thấy những con vật biểu trưng cho các nền văn hóa này đều ăn khớp với các con vật biểu trưng trong văn hóa Việt là con Chuột, Mèo, Cá Sấu (Rồng), Chim đầu rìu, con cua...
-
Ý - Rumani. Đội nào thắng? Ngày G. Thân 10 th. M. Ngọ năm M. Tý giờ Dậu. an SINH TIỂU CÁT Hai đội đều cười vui vẻ, ai cũng tưởng mình sẽ thắng đối phương. Họ đều chơi hết mình, chơi điệu nghệ chơi có cố gắng và rất fairplay. Tuy nhiên, hong ai thắng cả! Cả hai đội hòa 3-3. Nếu có đá hiệp phụ để phân thắng bại thì đội có áo màu xậm hơn hay có sắc vàng sỉn thắng. LacTuong
-
Có đi cho Lactuong theo với. Hong biết gì nhưng đi cho vui, Sư phụ ơi. mục này hấp dẫn à nghen. Chọ Bìn tây ai sây mà có? Ngộ Quách Làm (Đàm) dựng nó nị ơi! Hihi. LacTuong
-
Trích: Điện ảnh là thế! Đâu cứ phải lên mặt trăng mới quay được cảnh mặt trăng, miễn là làm thế nào khán giả tin được đó là mặt trăng là được rồi. Phim Lý Công Uẩn cũng vậy thôi! Có thể chúng tôi quay ở Trung Quốc hay ở bất kỳ đâu. Nhưng khi lên phim khán giả tin đấy là cảnh Việt Nam, người Việt Nam là được! ==>Nhiệt tình + Ngu Dốt = Phá Hoại Lời ấy không sai tí nào! Điện ảnh là thế! Càng có nhiều "quái ảnh", "quái hình" của những tay quái gỡ làm cho cho cái nhìn về văn hóa dân tộc trong mắt bao người bao thế hệ Việt càng trở nên quái quăm thêm. Thôi, âu cũng là những quái đảng vậy! Hic
-
Ở một vài đô thị Việt Nam hiện đại, như thủ đô Hà Nội, người ta đã làm và bán bánh chưng, bánh dầy hằng ngày, như một thứ hàng quà, để phục vụ cho thị hiếu thích ăn quà của người dân đô thị. Quà là để ăn chơi, tất nhiên cũng có thể "ăn no quà", nhưng về bản thể luận, quà là món ăn chơi, ăn qua loa thôi, chứ không phải là thứ lương thực thực phẩm chủ yếu, hằng ngày... Trong phong tục học và tâm (lý) học, người ta thường phân biệt hai cặp phạm trù: Cái thiêng liêng/cái thông thường (hay cái thiêng và cái tục). Cái nghi lễ/cái hằng ngày. Giữa hai phạm trù này, có một phép biện chứng chuyển hóa lẫn nhau. Ví như xôi, vốn là lương thực hằng ngày của người Việt cổ thời đại Đông Sơn - Âu Lạc trở về trước (trong nhiều di chỉ Phùng Nguyên - Bàu Tró đã tìm thấy chõ đồ xôi bằng đất nung) cũng như của các cư dân Thái-Mường miền thung lũng trước Cách mạng Tháng Tám Với xu hướng "tẻ hóa" của nhà nông trồng lúa nước (do áp lực dân số và nhu cầu tăng năng suất lúa), dần dà người Việt thời Lý, Trần và người Thái người Mường hôm nay hằng ngày đều dùng cơm tẻ. Người ta dành chỗ xôi cho những ngày giỗ chạp, tết nhất, cưới xin, ma chay... nghĩa là chuyển hóa xôi thành món ăn nghi lễ. Bánh chưng bánh dầy ở đô thị thời hiện đại đã thuộc phạm trù cái hằng ngày, hay nói cách khác, đã được giải thiêng. Nhưng ở thời đại Việt cổ truyền, và chừng nào đó, ở nông thôn Việt Nam cho đến Tết xuân này, bánh chưng bánh dầy vẫn thuộc phạm trù nghi lễ. Người ta chỉ làm và dùng nó (dùng để cúng, để ăn, để làm quà biếu tặng nhưng thường không để bán) trong ngày Tết hay trong những ngày lễ hội (nhiều làng đồng bằng Bắc Bộ có tập tục Tết, rằm tháng Giêng cúng và dùng bánh chưng, lễ hội tháng Ba lịch trăng (Mồng 3, mồng 6, mồng 10...) cúng và dùng bánh dầy, chè kho). Ngày trước, bánh dầy, bánh chưng là những lễ vật và món ăn dân tộc. Bây giờ nó vẫn còn là món ăn dân tộc đáng cho ta gìn giữ và trân trọng. Nhưng xin nhận thức lại cho đúng mức hơn: Nó không phải là lễ vật và món ăn độc đáo Việt Nam theo nghĩa chỉ Việt Nam mới có, mới dùng. Bà Á Linh, giảng viên trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội là người Việt gốc Hoa, quê gốc ở Tứ Xuyên, theo chồng Việt Nam sang sinh sống và công tác ở Hà Nội từ mấy chục năm nay, nhân ngày tết cổ truyền năm con Khỉ (1980) đã cho tôi biết là ở Tứ Xuyên quê bà có loại bánh lễ gần giống như "bánh Tét" (bánh chưng gói tròn như cái giò) và được gọi âm Hán Việt đọc là "tông bính" nhưng âm Hán Tứ Xuyên đọc gần như Téung pính. Ông Ohayashi Taryo, giáo sư nhân học văn hóa trường Đại học Tokyo trong bài báo cô đúc "Vị thần lấy trộm giống lúa" (Xem thông báo UNESCO tháng 12-1984, số chuyên đề về "Những nền văn minh lúa gạo") lại cho ta biết món bánh mochi rất phổ biến và quan trọng của bếp ăn Nhật Bản "được làm bằng gạo nếp hạt ngắn đem đồ lên đến khi chín mềm rồi đem giã nóng bằng chầy cho đến khi thành bột dính trong đó không còn phân biệt được hạt nữa... Mochi đóng vai trò quan trọng trong lễ tết, đầu năm mới ? Đó chính là bánh dầy với các loại hình to nhỏ khác nhau, được bày thành hàng trên bàn thờ cúng tổ tiên và sau đó được ăn với thứ cháo đặc biệt gọi là ojoni trong bữa ăn nghi thức sáng mồng một Tết của người Nhật. Cho nên, xin nói lại cho chính xác hơn là bánh chưng - bánh dầy là sản phẩm độc đáo của một vùng văn minh lúa gạo rộng lớn ở Đông á và Đông - Nam Á. Tất nhiên Giáo sư viện sĩ Đào Thế Tuấn cho ta biết là lúa nếp có loại hình đa dạng nhất và điển hình nhất là ở lưu vực sông Hồng. Bởi vậy, nơi đây phong phú các lễ vật và món ăn được chế tạo từ gạo nếp. Dù sao, bánh chưng vẫn là lễ vật và món ăn cổ truyền điển hình nhất của ngày Tết Việt Nam. Tôi xin đưa ra một minh giải văn chương: Bà con cô bác miền nam gọi bánh chưng là bánh tét, chữ bánh tét này là tiếng đọc chạnh kiểu miền nam của bánh tết. Và nhân đây xin thanh toán một "ngộ nhận văn hóa". Thoạt kỳ thủy, bánh chưng không được gói vuông như bây giờ mà gói tròn như bánh Nam Bộ, gọi là đòn bánh tét là hoàn toàn chính xác. Ngay giờ đây, xin các bạn chỉ quá bộ sang Cổ Loa, Đông Anh ngoại thành Hà Nội thôi, vẫn thấy bà con cố đô Cổ Loa gói bánh chưng như đòn bánh tét và vẫn gọi nó là bánh chưng, thảng hoặc mới gói thêm bánh chưng vuông. Thế cho nên, cái triết lý gán bánh chưng vuông tượng Đất, bánh dầy tròn tượng Trời là một "ngộ sự văn hóa". Trời tròn đất vuông là một triết lý Trung Hoa muộn màng được hội nhập vào triết lý Việt Nam. Đó không phải là triết lý dân gian Việt Nam. Nó không phải là Folklore (nguyên nghĩa: trí tuệ dân gian) mà là Fakelore (trí tuệ giả dân gian). Bánh chưng tròn dài tượng Dương vật, như cái chày, cái nõ. Bánh dầy tròn dẹt tựa Âm vật, như cái cối, cái nường. Đó là tín ngưỡng và triết lý nõ-nường-chày-cối-chưng-dầy của dân gian, của tín ngưỡng phồn thực dân gian. Ngay như khi đã gói bánh chưng vuông, dân gian ngày trước vẫn có tục lệ buộc hay ấp hai chiếc bánh một sấp một ngửa đặt trên bàn thờ và khi biếu họ hàng khách khứa ngày trước dân gian cũng giữ tục biếu một cặp bánh chưng (cũng như trước đấy bao giờ dân ta cũng mua một đôi chiếu) chứ không bao giờ tặng một chiếc bánh chưng (cũng như không bao giờ mua một chiếc chiếu). Nhân tiện nói thêm: việc mua hay chặt cây mía cả gốc cả ngọn đặt bên bàn thờ với giải thích hữu thức ngày sau đó là "gậy chống của ông vải" về nguyên ủy cũng thuộc về tín ngưỡng phồn thực. Bánh chưng gói ghém trong nó cả một nền văn minh nông nghiệp lúa gạo. Trong bầu khí văn minh đó, người Việt Nam sống vừa hòa hợp (thích nghi tối đa và tối ưu) vừa đấu tranh (biến đổi) với tự nhiên. Lá dong gói bánh là lá dong riềng lấy sẵn của thiên nhiên. Cái bánh chưng, là sản phẩm của trồng trọt và chăn nuôi Việt Nam: gạo nếp, đỗ xanh, hành, thịt lợn... Cái đặc sắc, độc đáo của bánh chưng không phải chỉ là, thậm chí không phải chủ yếu là ở từng yếu tố họp thành cái bánh mà là ở cơ cấu của bánh, nó tạo nên nét khác biệt trong hình khối, mầu sắc, hương vị của bánh chưng so với các loại xôi đỗ và bánh nếp khác. Với gạo nếp, đỗ xanh, thịt lợn... có thể tạo nên mấy chục loại bánh xôi Việt Nam dùng hằng ngày như quà và trong các dịp cưới xin, giỗ, tết như lễ phẩm. Huyền thoại quy công sáng tạo bánh chưng bánh dầy cho Lang Liêu, một người con thứ của vua Hùng, tổ dựng nước Việt Nam. Cũng như "vua Hùng", "Lang Liêu" là một "anh hùng văn hóa", nó không hề hiện hữu như một cá thể (cá nhân) nhưng chỉ tồn tại trong công thể (cộng đồng) của nhân dân, dân tộc Việt Nam. Lang Liêu có tài sáng tạo, làm ra bánh chưng bánh dầy cho nên được nhường ngôi, trở thành "vua Hùng" mới. Tuy cũng là cha truyền con nối như xu hướng phổ quát của lịch sử loài người, nhưng không truyền cho con trai trưởng (trước thế kỷ 19, dường như Việt Nam không có tập tục này và sau đó cho mãi đến thế kỷ 14, 15 (Hồ Quý Ly cũng không nhường ngôi cho con trai trưởng là Hồ Nguyên Trừng mà cho con thứ là Hồ Hán Thương) nó vẫn là một truyền thống yếu, có xu hướng ngoại sinh) theo lý, cũng không truyền ngôi cho con trai của một bà ái phi nào theo tình, mà truyền ngôi cho con nào hiền tài, đó là sự kết hợp giữa truyền tử và truyền hiền, đó là sự hòa hợp lý tính thời cổ đại... Trong các cuộc thi tài thuở trước, mà ở đây là thi nấu cỗ, có biết bao người con của "vua Hùng" đã làm ra biết bao nhiêu món lạ, lạ mắt, lạ miệng... những sơn hào hải vị kiếm tận đâu đâu... Cái giỏi của "Lang Liêu", cái con mắt tinh đời của "vua Hùng" cũng là cái sáng giá trong bảng giá trị văn hóa của dân tộc dân gian là tìm cái phi thường trong cái thường thường. Trong tâm lý thường nghiệm, có thói quen chuộng lạ, ưa của lạ. Cái hằng ngày thân quen, nếu không biết cách nhìn, cách thưởng thức, cách biến đổi thành cơ cấu mới từ những nhân tố quen thuộc thì dễ trở thành nhàm chán. Tìm cái đặc biệt trong những của lạ thì nào có khó khăn gì! Có khả năng diễn tả cái phi thường bằng những cái bình thường mới là một tài năng đặc biệt không dễ nhận ngay được giá trị vì cứ tưởng là không khó mà thật ra rất khó, vì nó đòi hỏi sự thấu hiểu, sự đi sâu tìm hiểu, sự nhập thể rất sâu trong lòng văn hóa và nhân dân... TQV
-
Bé sinh ngày 25/8/2008 là nhằm ngày 21/4/ Mậu Tí AL là ngày Ngọc Đường Hoàng Đạo, theo đánh giá chung của âm lịch là Vô cùng tốt. Vậy đặt là: NGUYỄN LÂM NGỌC ĐƯỜNG được không? tham khảo web xemngay.com LacTuong
-
Quá trình hình thành quốc hiệu Việt Nam Trước và trong thời Hai Bà Trưng, tiên tổ của người Việt Nam hôm nay gọi đất nước mình là gì? Đó là một câu hỏi khó. Tuy vậy, tôi cũng tạm nêu ra từ “Âu Lạc”, trong đó Âu là Đất, Lạc là Nước. Từ ghép “Âu Lạc” mang nghĩa là đất nước hay xứ sở[1]. So sánh hơi khập khiễng thì tổ chức xã hội Âu Lạc khi ấy không khác mấy vùng đồng bào thiểu số Tây Nguyên cách đây trên dưới 100 năm. Nếu người Pháp từng kí âm “Đạ Lạch” thành Đà Lạt (nghĩa gốc là nước của người Lạch, xứ sở của người Lạch) thì người Hán cũng đã kí âm “Đất nước” thành “Âu Lạc”. Chúng ta chỉ hình dung được: dường như Âu Lạc - Đất Nước có qui mô lớn hơn Đà Lạt - Nước Lạch. Từ Âu Lạc xuất hiện lần đầu tiên trong Sử kí của Tư Mã Thiên. Song nó hàm nghĩa rất rộng, đó là một khu vực bao la gồm Quảng Tây, Quảng Đông và miền bắc Việt Nam ngày nay. Vương quốc Âu Lạc nửa hư nửa thực gắn với An Dương Vương hầu như chỉ là sự ghép nối vụng về các mảnh sử liệu rời rạc có sau Sử kí. Trên một góc nhìn nào đấy thì nước Nam Việt của Triệu Đà cũng có thể mang tên bản địa là Âu Lạc. Sử kí viết về nước Nam Việt, nhưng luôn nêu rõ dân là dân Việt, tuồng như trong thông nghĩa Bách Việt (hàng trăm / nhiều tộc Việt khác nhau phía nam Trường Giang). Vậy chủ nhân của mảnh đất Việt Nam hôm nay có phải người Việt không, hay Việt chỉ là một từ ngoại lai mà lịch sử trót dùng. 1. Nước Việt thời Xuân Thu – Chiến quốc Theo Việt vương Câu Tiễn thế gia (Sử kí, thiên 41[2]): Việt vương Câu Tiễn là hậu duệ vua Hạ Vũ. Con thứ vua Thiếu Khang đời Hạ được phong đất Cối Kê để thờ cúng vua Hạ Vũ. Họ khai hoang lập ấp, cắt tóc xâm mình, trải qua hai mươi đời thì đến Doãn Thường. Doãn Thường đánh nhau với vua ngô là Hạp Lư. Doãn Thường chết, Câu Tiễn được lập làm Việt vương. Các chú giải của đoạn Sử kí trên: 1. Sách Chính Nghĩa, trích lại từ Ngô Việt xuân thu (viết vào năm 232 đến 300): Vua Hạ Vũ đi khắp thiên hạ, đến Đại Việt, lên Mao Sơn họp quần thần bốn phương phong thưởng, rồi mất và được an táng tại đó. Đến thời Thiếu Khang, vua sợ không ai tế tự tôn miếu, bèn phong con thứ là Ư Việt hiệu Vô Dư đất ấy. 2. Sách Cối Kê kí viết rằng: Con thứ của vua Thiếu Khang hiệu là Ư Việt, do đó tên nước Ư Việt xuất phát từ tên hiệu ấy. 3. Sách Chính Nghĩa viết: Sách Xuân Thu Công Dương truyện gọi Ư Việt là do vùng đất ấy chưa thông với Trung Quốc. Thông rồi thì gọi là Việt. 4. Sách Xuân Thu Tả truyện cho rằng Việt là tiếng nói của người bản địa (Cối Kê) có âm như thế, dùng từ Việt để ghi lại. 5. Sách Thích Danh của Lưu Hi (219 SCN): Việt mang nghĩa vượt, vì là nước man di khác vòng lễ nghĩa Hoa Hạ. Sau khi Câu Tiễn diệt Ngô, quân Việt vượt sông Hoài cùng các nước Tề và Tấn hội ở Từ Châu, cung tiến vật phẩm cho triều Chu. Chu Nguyên Vương phong Câu Tiễn là Bá, trông coi các chư hầu vùng Giang Nam. Đến đời Việt vương Vô Cương, Sở Uy Vương diệt nước Việt. Con cháu Câu Tiễn cũng như giới quí tộc Việt lưu lạc khắp miền Giang Nam, xưng tiểu vương hoặc quân trưởng và thần phục vua Sở. Đến Tần mạt, hai quân trưởng vùng đất Mân là Dao và Vô Chư giúp Hán Cao tổ đánh quân Tần. Năm 202 TCN Vô Chư được phong Mân Việt Vương cai quản vùng phía nam đất Mân (Quận Mân Trung thời Tần). Năm 192 TCN Dao lại được nhà Hán phong làm Đông Âu vương, cai quản vùng phía bắc đất Mân, ở lưu vực sông Âu. Trong Sử Kí của Tư Mã Thiên, Ư Việt (於越) còn được viết là Vu Việt (于越 – Hóa thực liệt truyện SK 129). Sách Thuyết văn giải tự : Vu = Ư dã (là Ư vậy). 2. Dân Âu Việt là ai? Cũng Sử Kí (Triệu Thế gia SK 43[3]) ghi nhận: 夫翦发文身,错臂左衽, 瓯越之民也 / Phu tiễn phát văn thân, thác tí tả nhẫm, Âu Việt chi dân dã / Như người Âu Việt, đàn ông cắt tóc, vẽ mình, đặt vạt áo về bên tay trái. Sách đời sau chú đoạn Sử Kí trên khá nhiều, với mục đích trả lời câu hỏi “Âu Việt chi dân” là ai: Sách Ẩn nói theo Lưu Thị thì người Châu Nhai, Đạm Nhĩ (Đảo Hải Nam ngày nay) là người Âu nên có từ Âu Việt. Sách Chính Nghĩa cho rằng họ là người Nam Việt của Triệu Đà. Xét trên đặc trưng văn hóa được Sử Kí ghi nhận thì người Âu Việt, người Ư Việt hay Vu Việt gần như là một. Để chứng minh Ư = Vu = Âu, cần phải có một công trình ngôn ngữ học truy nguyên các ngữ âm Hán cổ, cũng như cách kí âm phương ngữ bằng Hán tự của người Trung Quốc xưa. Chữ Âu ở đây rất quan trọng, nó có liên quan mật thiết với cổ sử Việt Nam, vì một trong những thuật ngữ mù mờ nhất trong cổ sử Việt Nam là từ Âu Lạc. Sử Kí đã dùng những chữ Âu sau: 1. Đông Âu: Xứ sở của Đông Âu vương tên Dao. Từ này xuất hiện trong các thiên: Hiếu Vũ Bản Kỉ SK 12, SK 114, SK 22, SK 30. 2. Âu Lạc : Nói chung toàn khu vực Nam Việt, kể cả Mân Việt / SK 20, SK 113. 3. Người Đông Âu ở bên bờ sông Âu / SK 114, SK 22. 4. Âu Việt : Người Âu Việt / SK 43. 5. Âu nhân : người Đông Âu / SK 130. 6. Âu Thoát : Tên một vùng đất của Hung Nô phía bắc / SK 114. Theo Thuyết Văn giải tự, Âu = 甌:小盆也從瓦區聲 / Tiểu bồn dã tòng Ngõa Khu thanh (Cái bồn nhỏ, bộ Ngõa, âm như chữ Khu). Chữ Âu 甌 ghép bởi chữ Khu 區 (Khang Hi: vực dã) là vùng đất và chữ Ngõa 瓦 là ngói, đồ gốm. Xin đề nghị một liên tưởng dân dã: U = nhô lên = đồi, núi vú (nguồn sống nhô lên từ ngực phụ nữ) = rú (âm Việt cổ chỉ núi, trong từ rừng rú). Vú em = dưỡng mẫu U = mẹ Bu = mẹ già Khu (đất) u = mẹ. Khu = vực = đất Ý Đất trong chữ Âu có thể xuất phát từ âm Khu. Ta có thể có mối tương quan giữa các âm như sau: Ư = Vu = Khu = Âu = U = Bu = Mẹ = Đất = Rú (Núi = Non). Như vậy, hoàn toàn tồn tại khả năng người Trung Quốc đã dùng Hán tự để kí âm phương ngữ vùng Giang Nam để nói về nước Ư Việt thời Xuân Thu – Chiến quốc. Từ nước Việt bên giòng Trường Giang ấy mà liên hệ ngôn ngữ với nước Việt Nam hôm nay là rất khó thuyết phục, tuy nhiên đặc trưng văn hóa cắt tóc xâm mình tương đồng là không thể phủ nhận. Có chăng một cuộc di cư lớn, kéo dài hàng trăm năm của cư dân và quí tộc Ư Việt sau khi nước Việt bị nước Sở sáp nhập? Nếu hậu duệ Câu Tiễn từng được ghi nhận chạy loạn xuống Mân Việt (địa bàn tỉnh Phúc Kiến ngày nay), thì không có lí do gì không có những nhánh khác đi xa hơn như đến Quảng Đông, đảo Hải Nam, bờ biển Hợp Phố (Quảng Tây) và đồng bằng sông Hồng. 3. Âu Lạc – Lạc Việt Khi hai dân tộc, hai nền văn hóa vì những biến động lịch sử vô tình hòa vào nhau, kết hợp làm một, nó sẽ để lại dấu tích trong ngôn ngữ. Đó sẽ là những tổ hợp từ sinh ra trên cơ sở phối hợp hai từ đồng nghĩa của hai nền văn hóa riêng biệt. Từ mới nọ tất nhiên phải đồng nghĩa với hai từ cũ. Ví dụ: Chó = Má = Chó má (Thái + Việt) Chia = Ly = Chia ly (Việt + Hán) Vậy phải chăng Âu Lạc chính là hợp từ sinh ra bởi Âu và Lạc. Nếu câu chuyện này thuyết phục, thì ta có thể truy ngược được nghĩa Âu. Tại hội nghị nghiên cứu thời kì Hùng Vương năm 1971, trong tham luận “Thử tìm nguồn gốc ngữ nghĩa của từ tố Lạc”, Nguyễn Kim Thản và Vương Lộc đã giải thích Lạc nghĩa là nước. Hai ông cũng liên hệ được Lạc với Nác (tức nước) theo phương ngữ miền trung Việt Nam. Bằng các phương pháp truy nguyên ngữ âm học, các chuyên gia ngôn ngữ học Việt Nam hiện nay đã đi đến kết luận chữ Giang trong Trường Giang là Hán tự kí âm phương ngữ. Thật vậy, chữ Giang ghép bởi chữ Thủy (mang nghĩa nước, sông) và chữ Công (kí âm). Công có họ hàng với Krông, tức là dòng sông, dòng suối trong ngôn ngữ của cộng đồng người Đông Nam Á cổ và hiện vẫn tồn tại trong ngôn ngữ Tây Nguyên. Trường hợp tên gọi Mêkông[4] (tiếng Thái, tức là mẹ của các dòng sông, dòng suối) cũng vậy. Ngày nay ở Tây Nguyên nhóm từ Đạ / Đak / Krông đều chỉ nước, sông, suối. Theo tôi từ Lạc không đơn thuần chỉ là nước mà nó đôi khi còn được sử dụng với nghĩa Xứ Sở với các dẫn chứng liên hệ như Negeri (tiếng của người Mianagkabau ở Malaysia), Nưgar (tiếng của người Chiêm Thành). Như vậy, khi xâu chuỗi các nghiên cứu trên lại với nhau ta có một nhóm từ tố mang nghĩa rất giống nhau là : Đạ / Đak / Krông / Lạc / Nác / Nước / Nưgar / Negeri. Giả định Âu Lạc = Đất nước đến đây đã trở nên không hề hoang tưởng. Thậm chí nó có thể mở ra cách giải nghĩa một từ có liên đới là Lạc Việt: tên gọi này thể hiện sự kết hợp hai chủng tộc là bản địa (Lạc) với con dân cũ của nước Việt di cư xuống. Ở góc độ nào đó, nó là sự rút gọn của Lạc – Âu Việt. 4. Nam Việt Mở đầu thiên Nam Việt liệt truyện (Sử kí 113[5]) đã thấy Tư Mã Thiên dùng từ Việt với hàm ý dân Việt: 秦时已并天下,略定杨越 置桂林, 南海、象郡, 以谪 徙民,与越杂处十三岁 / Tần thời dĩ tính thiên hạ, lược định Dương Việt trí Quế Lâm, Nam Hải, Tượng quận, dĩ trích tỉ dân, dữ Việt tạp xứ thập tam tuế. Nghĩa là: Nhà Tần, sau khi chiếm cả thiên hạ bèn lấy đất Dương Việt chia thành quận Quế Lâm, quận Nam Hải và quận Tượng, bắt những người bị tội đày xuống sống chung với người Việt, việc diễn ra đã được 13 năm. Về tổng thể, thời Tây Hán sách sử Trung Quốc đều thống nhất cho rằng chủ nhân nước Nam Việt là người Việt. Chữ Việt trong tiếng Hán: 越. Thuyết Văn tự giải của Hứa Thận thời Đông Hán định nghĩa: 度也從走戉聲 / Độ dã tòng tẩu việt thanh (Nghĩa là vượt qua, bộ tẩu, âm như chữ Việt là chiếc rìu đá). Một chữ Việt khác đồng âm, đồng nghĩa nhưng dị tự vẫn hay được các bản in xưa nay dùng là 粵. Trong ghi chép của Tư Mã Thiên, con người bản địa nước Nam Việt do Triệu Đà dựng lên là người Việt. Tuy vậy, dường như chữ Việt này được rút từ từ ghép Bách Việt, chứ không dính dáng gì đến nước Việt thời Chiến Quốc trước đó. Bách Việt không phiếm chỉ một dân tộc, một đất nước. Nó gần như là một khái niệm và mang nặng hàm nghĩa văn hóa. Phổ quát nhất và thường được lập đi lập lại là đặc trưng “văn thân, đoạn phát / xăm mình, cắt tóc”. Theo Đông Việt liệt truyện (SK 114)[6] và Việt vương Câu Tiễn thế gia(SK 41)[7], vùng Mân Việt (Phúc Kiến) phía đông bắc Nam Việt là đất nước dưới quyền cai trị của hậu duệ Việt vương Câu Tiễn. Năn 202 TCN nhà Hán phong Vô Chư làm Mân Việt Vương, năm 192 TCN nhà Hán lại cắt một phần phía bắc Mân Việt phong cho quân trưởng Dao làm Việt vương (theo SK 41) hoặc Đông Âu vương (theo SK 114). Thật khó khăn nếu muốn giải nghĩa Triệu Đà lấy tên Nam Việt với hàm í gì. Xét theo ngữ pháp tiếng Hán ta có Nam Việt = Đất nước phía nam nước Việt. Do đó người Việt ở nước Nam Việt có lẽ là người Bách Việt hơn là người Việt đồng chủng với cư dân Mân Việt? Điều này sẽ bị mấy câu văn vần của Thái sử công ở cuối thiên SK 113 phủ nhận, khi mô tả sự kiện Mân Việt đánh nhau với Nam Việt : Âu Lạc tương công, Nam Việt động dao / (Người, xứ) Âu Lạc đánh nhau, (Nước) Nam Việt xáo động. Hơn nữa, tục cắt tóc xăm mình cũng rất thịnh hành ở nước Việt của Câu Tiễn. Có không khả năng giai cấp lãnh đạo Mân Việt là người Việt (con cháu Câu Tiễn), trong khi đại bộ phận nhân dân là người Lạc? 5. Việt Nam Sau khi diệt Nam Việt, có một cách đoạn nhiều trăm năm cái tên Nam Việt không được cả người Hán lẫn người Âu Lạc cũ dùng tới. Sau đây là biên niên và tên gọi Việt Nam[8] ngày nay theo dòng lịch sử: Hán: quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam Tam quốc (thuộc Ngô) trở đi : Giao Châu Đường : An Nam Tống : An Nam, như việc phong Đinh Bộ Lĩnh làm An Nam quận vương. Năm 1017 nhà Tống phong Lý Công Uẩn Nam Bình Vương. Năm 1164 nhà Tống lại dùng danh xưng An Nam Quốc Vương cho vua Lý. Minh: An Nam, năm 1428 Lê Lợi thay Trần Cao và được nhà Minh phong làm An Nam quốc vương, sau đến nhà Mạc được phong An Nam đô thống sứ. Thanh: An Nam, như đã phong cho vua Quang Trung là An Nam Quốc vương. Đến năm 1802, lần đầu tiên Bắc triều mới chấp nhận để chữ Việt vào quốc danh để thành Việt Nam. Tai sao Bắc triều tránh dùng chữ Việt, có những lí do sau: Sợ nhầm lẫn với nước Nam Việt thời Tây Hán hoặc nước Việt thời Chiến quốc. Chữ Việt nhắc đến một quốc gia độc lập và tự chủ, trong khi Bắc triều luôn muốn áp đặt đô hộ trực tiếp hoặc thống thuộc gián tiếp mảnh đất phương nam này như một thuộc quốc. Chia để trị là một đối sách mà các nước đế quốc ưa dùng. Quá trình Hán hóa các dân tộc thiểu số ở Hoa Nam bắt buộc phải thủ tiêu thuật ngữ Bách Việt. Hán hóa chính là xâm lăng văn hóa, thôn tính văn hóa, bước tiếp theo của vũ lực quân sự. Sau khi nước Việt thời Chiến quốc và nước Nam Việt của Triệu Đà đã bị gộp vào Hán tộc, Bắc triều gọi các nước phương nam là Nam cũng có thể xác nhận cách nhìn nhận phi Hán trong văn hóa, con người cũng như cương vực của khu vực này. Ngược lại với Bắc triều, các phong trào giành độc lập cũng như các vương triều của cư dân Việt Nam xưa có xu hướng chuộng chữ Việt: Năm 544 Lý Bí tự xưng Nam Việt đế, đặt tên nước là Vạn Xuân. Năm 549 Triệu Quang Phục xưng là Việt Vương. Năm 939 Ngô Quyền mở nước Đại Việt. Năm 968 Đinh Bộ Lĩnh đặt tên nước là Đại Cồ Việt. Năm 1054 Lý Thánh Tông đổi quốc hiệu là Đại Việt. Năm 1400 Hồ Quí Ly lấy tên Đại Ngu. Năm 1427 Lê Lợi dùng lại tên Đại Việt. Năm 1802 Nguyễn Ánh lấy tên nước là Nam Việt nhưng Thanh triều đổi thành Việt Nam. Năm 1838 vua Minh Mạng dùng lại tên Đại Nam. Năm 1945 chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định tên nước là Việt Nam. Trường hợp dân tộc Tráng (Choang): Không riêng gì người Việt Nam, người Tráng ở Quảng Tây cũng có một lịch sử chống Bắc thuộc dai dẳng và bền bỉ. Từ thời Đường, các lãnh tụ khởi nghĩa của họ đã xưng vương và lấy những danh xưng có liên quan đến từ Việt và từ Nam như: Trung Việt Vương, Nam Hải Vương, Nam Việt Vương. Ngang thời Lý ở Việt Nam, Nùng Trí Cao xuất thân từ tỉnh Cao Bằng đã xây dựng nước Đại Lịch Quốc, sau lại đổi thành Nam Thiên Quốc với cương giới gần phủ kín hai tỉnh Quảng Tây và Quảng Đông [9]. Có hai khuynh hướng chủ đạo thiết lập nền độc lập ở các dân tộc phía nam Hoa Hạ: 1. Lãnh đạo từ phương bắc xuống (hoặc hậu duệ nhiều đời của họ), hòa đồng với người phương nam, phát triển văn minh nhà nước tập quyền trên cơ sở thống nhất các bộ lạc tự trị, các vùng quyền lực bản xứ: Tổ tiên Câu Tiễn, Triệu Đà, Hậu duệ Câu Tiễn, Sĩ Nhiếp, Lý Bí, Trần Thủ Độ, Hồ Quí Ly… 2. Người bản xứ đứng lên tự cởi ách đô hộ, xưng vương: Hai Bà Trưng, các tù trưởng người Tráng ở thời Đường, Nùng Trí Cao, Lê Lợi… Không kể Lê Lợi xây dựng vương triều từ nền móng chính trị sẵn có, ta thấy rõ khuynh hướng thứ nhất phổ biến hơn, thành công hơn. Trừ Hồ Quí Ly muốn ngang hàng Bắc triều bằng cách đổi tên nước thành Đại Ngu (với giải thích ông là hậu duệ vua Nghiêu khai quốc Hoa Hạ), Sĩ Nhiếp tìm sự độc lập trong khuôn khổ hẹp, đa phần các lãnh tụ chọn từ Việt cho vương quốc mình. Các lí do hữu quan: Phần nào đó tầng lớp lãnh đạo chính trị phương nam có huyết thống phương bắc, tác động của yếu tố này sẽ khiến họ chủ động thực nghiệm văn hóa chính trị tiến bộ trong khu vực vào quốc gia họ xây dựng trên mảnh đất phương nam. Dư âm nước Việt tiểu bá phương nam của Câu Tiễn thời Chiến quốc có thể là biểu trưng tinh thần, khích lệ các lãnh tụ tự tin và nỗ lực bồi đắp độc lập, tự chủ, thâu tóm quyền lực. Trong ý nghĩa ấy, nước Việt mới, dân tộc Việt mới vẫn chứa nội dung phi Hán. Một cách tự nhiên, từ Việt dần dần hóa thạch vào văn hóa chính trị phương nam với ý nghĩa li khai, bất khuất. Nó mang tính chính thống hiển nhiên trong đối nội và đối ngoại của bất cứ chế độ nào. 6. Kết luận Tóm lại, Việt 越 là một từ cổ, một từ bình thường trong bể từ vựng giữa đời sống văn minh Hoa Hạ. Nó được áp vào tên nước thời Chiến quốc với ý nghĩa[10]: 1. Sách Cối Kê kí cho rằng Ư Việt là tên của một hậu duệ vua Hạ Vũ, đến Cối Kê lập nên nước Việt để tiện việc thờ tự Hạ Vũ (vốn mất và được chôn cất tại Đại Việt). 2. Sách Chính Nghĩa viết: Sách Xuân Thu Công Dương truyện gọi Ư Việt là do vùng đất ấy chưa thông với Trung Quốc. Thông rồi thì gọi là Việt. 3. Sách Xuân Thu Tả truyện cho rằng Việt là tiếng nói của người bản địa (Cối Kê) có âm như thế, dùng từ Việt để ghi lại. 4. Sách Thích Danh của Lưu Hi (219 SCN): Việt mang nghĩa vượt, vì là nước man di khác vòng lễ nghĩa Hoa Hạ. Vì nhiều lí do (một số đã dẫn ở trên) ngày nay Việt Nam đã trở thành tên gọi chính thống của dải đất hình chữ S bên bờ Tây Thái Bình dương. Để được như thế, hai từ Việt và Nam đã trải qua một quá trình vận động bổ xung ngữ nghĩa hàng ngàn năm, với biết bao thăng trầm của lịch sử. Một lần nữa ta thấy dấu ấn của Triệu Đà ở đây, như một người gieo mầm văn minh chính trị tiến bộ phương bắc vào khu vực có đất nước Việt Nam hôm nay. Nếu có thể phân biệt được con người huyết thống (sinh học) và con người văn hóa trong tổng thể con người nói chung của nhân vật lịch sử Triệu Đà, thì rõ ràng không thể gọi ông là con người văn hóa Hán tộc. Đánh đồng con người huyết thống Hán của ông với con người văn hóa, một thứ văn hóa khởi sinh bởi sự tương tác văn hóa Tiền Hán – Tiền Việt mà ông là nhạc trưởng, là việc làm đành tình đoạn lí. Tôi tin rằng, gần như đã đến lúc người Việt Nam đặt câu hỏi họ là người Việt, người Nam, người Việt Nam hay người Âu Lạc? Văn minh Việt Nam hôm nay đang có những bước chuyển mình mạnh mẽ về nhận thức quá khứ, với chiều hướng dân trí và kinh tế đi lên, sáng sủa hơn bao giờ hết trong cuộc đời văn hiến đã khá dài của mình. Nó cần định hình và đồng thuận những giá trị mới của lịch sử, trên căn bản hài hòa xưa – nay, trước – sau và thấm đẫm tinh thần khoa học, trung trực. Chắc chắn quá trình vượt thoát, thực thi tinh hoa tự chủ, độc lập truyền thống trong bối cảnh chuyển biến thời cuộc khác trước rất nhiều, sẽ tiềm ẩn nhiều giải pháp hứa hẹn thú vị và lớn lao. CHÚ THÍCH [1] Xin xem thêm cùng một tác giả: Cổ sử Việt Nam, một cách tiếp cận vấn đề – NXB Lao Động 2007. [2] http://www.guoxue.com/shibu/24shi/shiji/sj_041.htm [3] http://www.guoxue.com/shibu/24shi/shiji/sj_043.htm [4] Nếu Âu là Mẹ, thì sông Âu nơi người Âu Việt sống có thể hiểu là Sông mẹ, sông lớn, tương tự Mêkong. [5] http://www.guoxue.com/shibu/24shi/shiji/sj_113.htm [6] http://www.guoxue.com/shibu/24shi/shiji/sj_114.htm [7] http://www.guoxue.com/shibu/24shi/shiji/sj_041.htm [8] Theo Việt Nam niên biểu, Việt Nam sử lược, Trần Trọng Kim. Bản điện tử của viethoc.com. [9] Đoạn này tham khảo Journal of Southeast Asian Studies, Vol. XVIII, No. 2, September 1987. Người Choang các dân tộc ít người, vùng biên giới Việt – Hoa trong triều đại nhà Tống. JEFFREY G.BARLOW. Bản dịch của Ngô Bắc. [10] Có tham khảo Văn Minh Lạc Việt – Nguyễn Duy Hinh – NXB VHTT 2004. TRƯƠNG THÁI DU Thảo Điền 3.2007
-
đội Spain - Nga Ngày T. Tị 7 th M. Ngọ năm M. Tý giờ Hợi Đội Nga thắng không? độn SINH TIỂU CÁT Thương Vô Vong Đội Nga thi đấ khá chật vật, đá hết mình. Nội lực 2 nên ngang nhau. Có thể sẽ hòa 1-1 LacTuong
-
Thêm cái chủ đề này nữa chắc cũng hữu ích. :P