Thiên Đồng

Hội viên
  • Số nội dung

    6.278
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    75

Everything posted by Thiên Đồng

  1. Thiền là gì? Thiền là cái bánh dầy. Ký tên: LacTuong :rolleyes: :unsure:
  2. gửi thoidaianhhung, Em xin hỏi khả năng em vay được nguồn vốn đó có cao không? Ngày Q.Dậu 01 tháng C. Thân năm M.Tí giờ dậu độn Kinh Vô Vong yên chí, ngân hàng to, cho vay to, tiền cũng to. Khỏi phải lo! cơ hội sử dụng thành công nguồn vốn này như thế nào ? độn Khai Đại an Chắc chắn no. Sẽ tiến triển được dự án và có nguồn lợi ổn định lâu dài. Và có dược qưới nhơn giúp đỡ. Gửi bocu, độn Hưu Lưu Niên Bocu hãy cố nhẫn nại một chút nghen, nhanh thì một tuần, chậm thì một tháng sau sẽ suông sẻ. Anh bạn đi liên hệ họp đồng cũng cần có thêm một nữ xinh xinh, hoạt bát một tí, cùng thương thuyết thì sẽ mau thôi. :unsure: LacTuong :rolleyes:
  3. Hôm trước LacTuong có bốc quẻ. Hình như là Ngày T.Mùi tháng K. Mùi năm M.Tý giờ hợi an Kinh Lưu Niên Brazin thắng không? Đội Brazin chơi một cách bài bản và đầy hiểm hóc tạo những pha gây cấn bất ngờ cho đối phương. Hiệp một nhịp độ trận đấu hơi trầm nhưng gây cấn. Hiệp hai tốc độ tấn cong sẽ tăng lên, sẽ có những pha ngoạn mục đến kinh ngạc. Brazin thắng, tỷ số sẽ là 4-1 hoặc 3-1. :unsure: Lactuong :rolleyes:
  4. gửi Chú VânTừ, ngày Ất Sửu tháng K.Mùi năm M.Tý giờ Tý an Kinh Đại An sự bình an của cháu trong lúc xa nhà ? Nhắn chú Vân từ yên tâm, bé nhà sẽ được sự bình an như ý . Chỉ có đều đến môi trường mới hơi bở ngỡ , lạ lẫm . Vì được đi như mong muốn mà vui quá mức . Ấy vậy mà học được những điều bổ ích . Và có thể Bé sẽ thực hiện một việc gì đó có ý nghĩa cho bản thân, cũng đem lại sự bất ngờ ngạc nhiên và nể nang nơi bạn bè . Vì hoạt động nhiều nên có thể sẽ hơi hao tổn tí sức khỏe . Khuyên: cũng phải chú ý đến sức khỏe trong và sau khi đi . và xem cho chuyến đi có kết quả tốt cho học vấn không? Khai Lưu Niên "Đi một ngày đàng học một sàng khôn". Chuyến đi này làm bé vỡ ra nhiều ý hướng lạ , kiến thức thêm mở mang . Có thể bé sẽ nung nấu cho riêng mình một hoài vọng , một kế hoạch cho một tương lai gần . Có thể đó là một động lực mới cho sự học tập sau đó . Cũng là một dịp để bé giải phóng những tâm lý ức chế sâu xa (nào đó) . Nói chung, bé sẽ vui "mát trời ông địa". khuyên: sẽ có những thay đổi mới sau khi về, những hành động cụ thể cho ý tưởng . Gia đình nên để ý chia sẻ . :rolleyes: Lactuong :unsure:
  5. Gửi Titynguyen Xin anh chỉ giúp cho em xem nếu em mở rộng thêm thì có thành công không ?Khi nào thì em có thể đi tìm những hợp đồng mới được Ngày T.Dậu 18 tháng K.Mùi năm Mậu Tý giờ Tuất Cảm quẻ Cảnh Tiểu Cát độn Tử Vô Vong Tiểu cát thuộc mộc phù hợp lĩnh vực kinh doanh và sản xuất thực phẩm. Công ty này có xuất khẩu đi xa. Trong vòng từ năm nay đến năm sau sẽ còn gập nhiều khó khăn trong việc phát triển. Đến tháng 10, 11 năm sau (Kỷ sửu) sẽ ổn định và vượng phát lớn. Công ty này sẽ ngày càng có xu hướng vươn xa hơn và có thể tiến đến thị trường xa, như nước ngoài chẳng hạn. Cần đòi hỏi đầu tư về trí tuệ và thương hiệu sớm. Trước mắt vẫn kẹt về những việc tìm kiếm đầu mối, đối tác, hay hợp đồng. Nhanh là 9 tháng chậm là 1 năm mới có những hợp đồng như ý. Lưu ý: đối tác thường hay thay đổi, thái độ không nhất quán, không chân thành, thường yêu cầu những điều kiện phi lý hay có vẻ chấp nhận ngay. :mellow: LacTuong <_<
  6. gửi Phụng Hoàng, 1. Khi nào có thể thực hiện được? Ngày T.Dậu tháng K.Mùi năm M.Tý giờ Thìn an Tử Tốc Hỷ<br />Vướn mắc nhiều điều mà lo toan. Tiến độ trì trệ. Chớ nóng vội kẻo bất lợi. Mùa xuân năm sửu khởi sự hanh thông. Hạ, khở sự nhiề cập rập nhưng vẫn tốt. 2. Khi tiến hành gặp những khó khăn gì? độn Kinh Xích Khẩu Vấn đề chính là tài chánh. Dẫn đến những bàn cải không nhất trí và nhiều đắng đo thiệt hơn. Nên hạ nhiệt không khí, tránh bàn thảo dây dưa. 3. Số tiền cần đầu tư thực tế là bao nhiêu? độn Khai Tiểu Cát. Lactuong không có khả năng thẩm định giá trị dự án nên chỉ đoán chừng trong những con số đầu 60-80 hoạc 600-800. 4. Trường này tồn tại trong bao lâu? độn Hưu Vô Vong Bình yên dài lâu. LacTuong
  7. Gửi An Hạ Nhờ a và mọi người xem giúp e khi nào thì họ trả? Ngày Tân Mùi tháng K.mùi năm M.Tý giờ Tý cảm quẻ Kinh Tiểu Cát Họ sẽ trả một phần. Nhanh thì 4 ngày sau họ trả. Chậm thì 8 ngày. <_< LacTuong :mellow:
  8. Thứ Sáu, 18/07/2008, 02:37 (GMT+7) Chứng khoán xanh nhờ nhà đầu tư "nội" Sau khi chạm đáy 366,02 điểm vào phiên giao dịch ngày 20-6, VN-Index đã phục hồi mạnh mẽ kể từ phiên giao dịch 23-6. Trong 19 phiên giao dịch, VN-Index đã có 18 phiên tăng điểm với mức tăng lên tới 123,81, tức tương đương 33,82%! Ảnh: T.T.D - Đồ họa: Như Khanh TT - Nhờ các nhà đầu tư cá nhân trong nước mạnh tay mua đã tạo ra chuỗi tăng điểm kéo dài hơn ba tuần qua. VN-Index của sàn chứng khoán TP.HCM đã tăng hơn 33%, Hastc-Index của sàn Hà Nội tăng khoảng 37%. Trong thời gian này, nhiều cổ phiếu có mức tăng "sơ sơ”... 60-70%. Nhà đầu tư (NĐT) cá nhân trong nước đã soán ngôi NĐT nước ngoài trong vai trò dẫn dắt thị trường, chính điều này đã đưa thị trường chứng khoán (CK) bật dậy với đà tăng liên tục trong gần một tháng qua. Kết thúc phiên giao dịch ngày 17-7, VN-Index tăng thêm 3,3 điểm (0,67%), đạt 489,83 điểm. Bắt đầu phục hồi từ 23-6, qua 19 phiên, đã có 18 phiên VN-Index tăng thêm 123,81 điểm, tương đương 33,82%. Thêm nhiều gương mặt mới "CK đã có những phiên chao đảo nhưng trước nhu cầu mua vào quá mạnh từ NĐT cá nhân trong nước đã đẩy CK đi lên. Chính NĐT cá nhân đã đưa thị trường xanh trở lại" - một chuyên viên phân tích của Công ty CK Gia Quyền nói. Theo nhận định của nhà phân tích này, xu hướng của thị trường trong thời gian tới sẽ tiếp tục phụ thuộc vào NĐT cá nhân. Tại các sàn CK, không khí đã sôi động thay cho cảnh vắng vẻ trước đây. Người đã bỏ sàn thì quay trở lại và ở đó họ gặp những gương mặt khá mới. Số lượng tài khoản mới mở của NĐT cá nhân trong nước tăng lên rất mạnh, trong đó hầu hết đều tham gia giao dịch thay vì để tiền chờ trong tài khoản như trước đây. Diễn biến của thị trường trong suốt giai đoạn phục hồi vừa qua, kể từ phiên giao dịch ngày 23-6, cho thấy sức mua của NĐT cá nhân trong nước tăng lên mạnh mẽ và chiếm tỉ lệ áp đảo, trong khi NĐT nước ngoài có xu hướng ngược lại. Trong hơn ba tuần phục hồi, chỉ có hai phiên NĐT nước ngoài mua vào với khối lượng lớn. Trong gần 18 phiên giao dịch còn lại, khối lượng giao dịch của NĐT trong nước, chủ yếu là NĐT cá nhân, luôn chiếm tỉ lệ áp đảo với hơn 80%, thậm chí hơn 90% (như phiên giao dịch ngày 14-7). Tận dụng cơ hội giá thấp Người Thái muốn mua CK VN Chiều 17-7, tại buổi hội thảo "VN và cơ hội đầu tư” do Công ty CP CK Bản Việt tổ chức, nhiều NĐT đến từ Thái Lan đã bày tỏ sự quan tâm đến cơ hội đầu tư vào CK VN. Anh Aekpittaya Lemkongaek cho biết "không chỉ những NĐT chuyên nghiệp và tổ chức, ngay cả NĐT cá nhân cũng đánh giá cao cơ hội đầu tư vào thị trường VN...". Tại hội thảo, Công ty CP CK Bản Việt cũng giới thiệu với các NĐT Thái Lan cơ hội đầu tư vào các cổ phiếu ngành thủy sản VN. "Dù còn khó khăn nhưng tình hình kinh tế vĩ mô đã có dấu hiệu ổn định trở lại, nhiều NĐT không còn quá lo lắng nữa nên đã tham gia thị trường..." - ông Võ Hữu Tuấn, phó tổng giám đốc Công ty CK Bảo Việt, nói. Ông Tuấn cho rằng yếu tố quan trọng nhất kéo NĐT bỏ tiền mua CK là do các kênh đầu tư khác trong thời gian này không còn hấp dẫn. Thị trường vàng từng là nơi thu hút rất nhiều NĐT CK trong giai đoạn điều chỉnh, nhưng hiện nay "đánh vàng" gặp nhiều rủi ro hơn. Những NĐT đã chọn sàn vàng nay trở lại sàn CK khi thị trường bắt đầu phục hồi. Thanh khoản trên thị trường bất động sản vẫn thấp. Giá USD đã giảm trở lại sát với giá USD của ngân hàng, vì thế đầu tư vào ngoại tệ không còn là kênh hấp dẫn. Theo TS Nguyễn Văn Thuận - trưởng khoa tài chính (Trường đại học Mở TP.HCM), yếu tố tâm lý đóng vai trò rất lớn đối với sức cầu của NĐT cá nhân trong nước. "Ai cũng muốn tham gia để không vuột mất cơ hội khi thị trường đang trong giai đoạn phục hồi..." - TS Thuận nói. Ông Huỳnh Anh Tuấn - tổng giám đốc Công ty CK SJC - cho rằng giá hầu hết CK trên sàn đã xuống mức rất thấp trong nửa đầu năm nay cũng được NĐT cá nhân xem như một cơ hội để tham gia và tìm kiếm lợi nhuận. Bên cạnh đó, các NĐT nước ngoài mua vào một lượng cực lớn CK trong phiên điều chỉnh ngày 7-7 cũng đã tạo lập một mức giá sàn cho thị trường, đồng thời hỗ trợ tâm lý rất tốt cho các NĐT cá nhân. Sẽ đến lượt nhà đầu tư nước ngoài? VN-Index đã tiến về gần 500 điểm - Ảnh: Thanh ĐạmLý giải tình trạng NĐT nước ngoài "chịu lép" NĐT cá nhân trong nước, các chuyên gia CK cho rằng dù kinh tế vĩ mô đã có những dấu hiệu lạc quan nhưng các NĐT tổ chức, đặc biệt là NĐT nước ngoài chờ thêm một thời gian. Theo ông Bùi Văn Quang - phó tổng giám đốc Công ty CK SME, NĐT nước ngoài thường đầu tư theo kế hoạch, đồng thời có xu hướng mua vào nhiều hơn khi CK đi xuống để bình quân giá. Khi CK tăng điểm liên tục, NĐT nước ngoài có xu hướng "đảo" danh mục, bán ra những CK không còn nằm trong kế hoạch và mua vào những CK mục tiêu. Tuy nhiên, một chuyên gia CK cho rằng không thể xem động thái của NĐT nước ngoài bị "lép vế" trước NĐT nội là dấu hiệu không lạc quan của thị trường. Bởi lẽ lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào VN trong những tháng đầu năm đã đạt con số kỷ lục với hơn 31 tỉ USD, cho thấy NĐT nước ngoài vẫn đánh giá rất cao sự phát triển của nền kinh tế VN trong thời gian tới. Đến thời điểm nào đó, luồng vốn gián tiếp nước ngoài vào thị trường CK cũng sẽ tăng lại. HẢI ĐĂNG (báo Tuổi Trẻ)
  9. LacTuong xin trả lời thay Si Phọ bằng bài cũ của Si Phọ, Trong bài trên, tôi đã trình bày hai phương pháp độn của Bát Môn: # Tháng Giêng tính từ cung Sinh, thuận chiều kim đồng hồ mỗi cung một tháng đến hết 12 tháng. # Tháng Giêng cũng tính từ cung Sinh, nhưng tháng 2/ 3 lại nằm chung một cung tại Thương..... Vậy trong hai phương pháp thì phương pháp nào hợp lý? Điều này cũng tương tự như sự sai lệch phương pháp an một số sao trong Tử Vi. Nhưng chúng ta ko biết phương pháp nào hợp lý vì thiếu một sự hiểu biết về nguyên lý lý thuyết căn bản lập thành nên môn Tử Vi. Chúng ta chỉ có thể trắc nghiệm trên thực tế trong suy nghiệm luận đoán. Nhưng ở đây tôi muốn trình bày từ nguyên lý của nó. Tôi nghĩ rằng: Khi chúng ta hiểu được tại sao như vậy thì chúng ta sẽ tự tin hơn khi thực hiện một quẻ bói. Bây giờ chúng ta phân tích những nguyên tắc nào tạo nên hai phương pháp này và lựa chọn tính hợp lý của nó. Bây giờ chúng ta phân tích phương pháp thứ nhất: 1) Tháng 2/ 3 nằm tại cung Thương.... Trước khi vào phân tích phương pháp này, chúng ta thấy rằng một năm có 12 tháng, lại chỉ có 8 cung được độn với 12 tháng. Bởi vậy, trong phương pháp này, người ta đã ghép các tháng Mộ của tứ hành vào chung một cung với tháng vượng của hành đó. Xuân thuộc Mộc. Tháng 3 là Mộ của Xuân, ghép vào tháng 2......Như vậy chúng ta có đủ 12 tháng phối với Bát môn. Với phương pháp này chúng ta nhận thấy những điều sau đây: # Chứng tỏ phép độn Bát Môn thuận theo 4 mùa và điều này phối Hà Đồ là hợp lý. Đây cũng chính là đồ hình của 12 thiên bàn Tử Vi - Ngũ hành tương sinh thuận theo chiều kim đồng hồ của Hà Đồ (Xin xem: Hà Đồ trong văn minh Lạc Việt). Cách phối này xác quyết sự phối Bát Môn với Hà đồ ở trên. # Phương pháp này cho thấy: Do có hai tháng bị trùng quẻ theo mùa. Nên sự tuần hoàn bị chựng lại theo mùa. Tức là đến tháng cuối của mùa nào thì quẻ sẽ trùng với tháng trước đó. 2) Tháng Giêng tại cung Sinh... Thuận tự mỗi cung một tháng cho đến hết 12 tháng. Phương pháp độn này sẽ cho 4 tháng cuối năm có các quẻ lặp lại với 4 tháng đầu năm. Vì đồ hình Bát Môn được luận theo thuận tự 12 tháng trong năm, nên cũng xác quyết cho chúng ta về sự phối Bát Môn với Hà Đồ (Hà Đồ: Bốn mùa - Ngũ hành tương sinh - theo chiều thuận kim đồng hồ). Như vậy, thoạt nhìn chúng ta dễ thấy sự hợp lý của phương pháp (1). Nhưng nếu chúng ta so sánh với qui luật vận động liên tục và lặp lại của tư nhiên và vũ trụ, thì không thể có sự lặp lại theo cùng đơn vị thời gian trong tự nhiên. Bởi vậy không thể có quẻ lặp lại theo từng tháng mùa. Đó là lẽ thứ nhất. Thứ hai, Đây lại là điều liên quan đến phương pháp Bốc Dịch theo giờ do ông Thiệu Khang Tiết công bố vào thời Tống. Theo phương pháp này, chúng ta sẽ có 8 quẻ Dịch liên tiếp nhau thuộc 8 giờ đầu trong ngày và 4 quẻ dịch lặp lại trong 4 giờ cuối (Giờ ta - 2 giờ đồng hồ Tây). Điều này đã được miêu tả trong: Tìm về cội nguồn Kinh Dịch Sự trùng khớp hợp lý giữa tự nhiên và phương pháp bốc Dịch, nên tôi đã chứng nghiệm và chọn cách tính tháng theo phương pháp 2 choLạc Việt độn toán. Thư ký LacTuong cẩn thận copy nguyên si. <_< :mellow:
  10. Những tấm hình xưa nhất của nước Việt-Nam Những tấm hình nầy được trích ra từ cuốn "Ðất Việt Trời Nam" xuất bản ngày 22-08-1960 tại Sàigòn của Việt-Ðiểu Thái-Văn-Kiểm (ông đang cư ngụ tại Pháp) "Ðồn Hai" ở Ðà Nẵng Bức ảnh đầu tiên về nước Việt-Nam do người Tây Phương (Jules Itier) chụp ngày 31-05-1845 với máy Daguerreréotype, phát minh năm 1839. Phim là một tấm kim loại bằng đồng có tráng bạc. Cụ Phan-Thanh-Giản (1796-1867) Hình chụp tại Paris năm 1863 nhân dịp ông cầm đầu sứ bộ sang Pháp để xin chuộc lại 3 tỉnh miền Ðông Nam Kỳ. Ở Pháp cả hai tháng mà không gặp được vua Napoléon III, ông đành trở về Việt Nam với vài lời hứa hẹn của Pháp, nhưng khi về tới Việt-Nam thì Pháp đã đánh chiếm thêm 3 tỉnh miền Tây ! Vua bổ trách nhiệm cho ông trấn thủ miền Nam, tới năm 1867 thì toàn lãnh thổ của Nam Kỳ rơi vào tay của người Pháp. Không hoàn thành sứ mạng, ông uống thuốc độc tự tử chết sau khi để di chúc lại cho con cháu và khuyên là không nên làm chánh trị ! Hình còn tàng trữ tại Bảo tàng viện Nhân-chủng-học của Paris. Họa phẩm (Hiếu-Ức-Quốc) xưa nhất về dân tộc Ðại-Việt (1078) Một họa phẩm danh tiếng của Lý-Công-Lân tức Lý-Long-Miên, người đất Chu, đại-thần đời nhà Tống, miêu họa các sứ giả của Hiếu-Ức-Quốc, có nghĩa là nước của những người có lòng hiếu thảo, tức là nước Ðại-Việt của ta vậy (theo Ô.Thái-Văn-Kiểm). Bức tranh nầy được lưu giữ tại viện bảo tàng Emile Etienne Guimet ở Paris !
  11. Cuộc khởi nghĩa Ba Ðình (1887) (Phan Ðình Phùng - Ðinh Công Tráng ) Tù nhân bị bắt Phuc Yên (9-1909) Doi Van (?) Nguồn: http://nguyentl.free.fr/html/sommaire_photo_ancienne_vn.htm
  12. Cuộc khởi nghĩa của Ðề-Thám là một trong những cuộc khởi nghĩa vũ trang lớn nhất trong lịch sử đấu tranh chống Pháp của dân tộc Việt-Nam và cũng là một trong những cuộc khởi nghĩa duy nhất mà người Pháp đã lưu lại trên bưu thiệp. Sau hoà ước Quí-mùi (1883) chấp nhận sự bảo hộ của Pháp ở Bắc-kỳ, Vua Việt-Nam kêu gọi dân chúng nổi lên chống Pháp. Ðề-Ðốc Trương-Văn-Thám đã hưởng ứng phong trào này và nổi dậy chống Pháp chiếm giữ các vùng Bắc-Giang, Thái-Nguyên và Hưng-Hóa. Dân chúng gọi ông là Ðề-Thám. Pháp đem quân đánh mãi mà không được nên năm 1894, Pháp phải xử hoà với ông, cho ông cai quản 22 xã trong vùng Yên-Thế, Ðề-Thám lập căn cứ ở Chợ-Gò. Dân chúng gọi ông là con "Hùm thiêng Yên-Thế". Nhưng hai năm sau thì Ðề-Thám lại nổi lên đánh Pháp, tới năm 1898 thì Pháp lại xin ký hoà ước nhường cho ông thêm nhiều quyền lợi nữa. Ðề-Thám sống yên cho tới năm 1905 thì lại nổi dậy đánh Pháp một lần nữa (những tấm hình ông chụp với gia đình là trong khoãng nầy). Năm 1908, Ðề-Thám quyết định đánh một cú lớn để chiếm thành Hà-Nội nên đã âm mưu với nhiều người đầu bếp để bỏ thuốc độc (bột datura) cho 200 lính Pháp giữ thành ăn, nhưng vì liều thuốc hơi yếu nên lính Pháp chỉ bị lảo đảo chứ không chết, cuộc âm mưu bất thành. Ðầu năm 1909, quân đội Pháp quyết định mở chiến dịch lớn để tấn công Ðề-Thám trong tận sào huyệt, Ðề-Thám thua nên bỏ trốn vào rừng. Pháp ra giải thưởng 25.000 đồng cho ai bắt hay giết được Ðề-Thám. Có ba tay lãng tử người Tàu vì ham tiền nên tìm đến Ðề-Thám để xin gia nhập rồi thừa lúc ban đêm ông ngủ mà xúm đến chặt đầu ông đem về lãnh thưởng ngày 10 tháng 2 năm quí-sửu (18-3-1913), chấm dứt một cuộc kháng chiến trường kỳ trên một phần tư thế kỷ. Anh hùng Ðề-Thám (giữa 1898 và 1905) Bị bắt làm tù binh Một người trong nhóm Ðề-Thám bị bắt Tù binh Ðề-Thám trên hải cảng Alger trước khi vào tù ở Guyane Tù binh Ðề-Thám tới hải cảng Alger Những anh hùng của nhóm Ðề-Thám bị xử tử (1908) Thủ cấp của những anh hùng nhóm Ðề-Thám Thủ cấp của một anh hùng nhóm Ðề-Thám Tù nhân bị bắt trong vụ "Ðầu Ðộc" (1908) Bị xử trảm (1908) Thủ cấp (1908)
  13. Tản mạn về bức vẽ ‘Hiếu-Ức-Quốc’ (phần 1) (Họa phẩm cổ nhất liên hệ đến Việt Nam/Đại Việt) Họa phẩm bên dưới cho thấy hình ảnh các sứ giả của Hiếu-Ức-Quốc - dịch âm Hán Việt/HV trực tiếp từ chữ Trung Hoa/TH bên góc phải - rất đáng chú ý từ nhiều phương diện. Phần này tóm tắt cách nhìn từ quá trình phục hồi âm cổ để đưa ra một giải thích, hi vọng sẽ thấy được nghĩa chính xác hơn của cụm từ ‘Hiếu-Ức-Quốc’ này. 1. Bức tranh này được đăng trên mạng ‘Việt Nam hình ảnh xưa’ của Nguyễn Tấn Lộc1, trích lại từ cuốn "Đất Việt Trời Nam” của tác giả Việt Điểu Thái Văn Kiểm - xuất bản ngày 22-08-1960 tại Sàigòn. Theo lời trích thì ‘…Một họa phẩm danh tiếng của Lý-Công-Lân hay Lý-Long-Miên, người đất Chu, đại thần đời nhà Tống, miêu họa các sứ giả của Hiếu-Ức-Quốc, có nghĩa là nước của những người có lòng hiếu thảo, tức là nước Đại Việt…’. Đọc xong lời giải thích, người viết rất thắc mắc vì có thể Hiếu-Ức-Quốc chỉ là dạng phiên âm (của một tiếng ngoại quốc dùng các âm Hán Trung Cổ) chứ không mang nghĩa đặc biệt gì cả, như những ghi nhận sau đây. 2. Hiếu2 HV đọc là xiào (theo pinyin/phiên âm Bắc Kinh/BK) bây giờ. Ức HV đọc là yì BK bây giờ, nghĩa là trước ngực - ngực với phụ âm đầu ng- và phụ âm cuối –c cho thấy một dạng âm cổ hơn. Quốc HV đọc là guó BK bây giờ, dạng HV vẫn còn duy trì âm cuối –c3. Hiếu/xiào có dạng âm Hán Cổ ra sao ? Thật ra hiếu HV đã là một dạng âm cổ còn duy trì trong tiếng Việt. Ta có thể tìm thêm vài manh mối trong các từ có chữ hiếu làm thành phần hài thanh/HT sẽ thấy rõ hơn. Hao HV viết bằng bộ khẩu hợp với chữ hiếu HT là la hét, mà tiếng Việt còn có từ gào (thét), cũng như các từ HV khác như khiếu (kêu to) . Thêm vào đó là liên hệ rất gần4 giữa hai phụ âm h và k để ta có thể khôi phục âm cổ của hiếu/xiào là *khjô/kjô – so với dạng âm Hán Trung Cổ thường thấy là *kheo (phiên âm theo tiếng Việt). Còn ức/yì có dạng âm Hán Cổ ra sao? Ta để ý yì còn là giọng BK cho dịch/*diệt hay cũng là âm Hán Trung Cổ với phụ âm cuối –t : thành ra hai âm hiếu ức, ngược dòng thời gian hơn 1000 năm, có thể đọc như là *kjô *diệt. Hai âm này rất gần với hai âm Cồ Việt (đọc theo giọng Nam), tên của nước Việt Nam thời Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế (968) – tên này được dùng nhiều năm sau đó – phù hợp với khoảng thời gian bức họa của Lý-Công-Lân ra đời (thời Tống 960-1279 SCN). Đại trong Đại Cồ Việt chỉ là tiếng thêm vào cho oai vệ như các cách dùng (nước) Đại Hán, Đại Thanh, Đại Nam, Đại Việt, Đại Pháp, Đại nhân … Ngay cả trong tiếng Anh thuộc họ Ấn-Âu ta còn thấy nước Anh gọi là ‘Great Britain’ (nước Đại Anh). 3. Trong cách phiên âm của tiếng nước ngoài vào tiếng TH, ta nhận thấy những trường hợp như sau : nước Mĩ/Mỹ là Mỹ Quốc HV hay Mĕiguó BK, mĕi là mỹ (đẹp); Nước Pháp là Pháp Quốc HV hay Făguó BK, fă là pháp (luật) …v.v… Các âm Mỹ hay Pháp đều là âm tương đương của me- (trong chữ America, dấu nhấn vần thứ hai a-me’-ri-ca) và âm rút gọn của Pha-Lăng-sa (France, âm đầu). Nếu dựa trên các chữ mỹ để giải thích nước Mĩ/Mỹ có nhiều người đẹp, hay nước Pháp có nhiều luật lệ thì e không được ổn cho lắm : ta đã lầm phiên âm thành ra phiên nghĩa…v.v… Đây có thể là trường hợp của "Hiếu-Ức-Quốc" ghi trong phần 1 ở trên. 4. Một lầm lẫn rất thường gặp là dùng hệ thống âm thanh hiện tại để gán ghép vào hệ thống âm thanh trong quá khứ, nhất là khi khoảng cách thời gian rất lớn (như cả ngàn năm đã qua chẳng hạn). Ngôn ngữ con người luôn luôn thay đổi, theo thời gian để cho các tiếng cổ và theo không gian để cho các tiếng địa phương (phương ngữ, thổ ngữ…). Sự thay đổi này còn được ghi trên giấy tờ rõ ràng như tên thành phố Bắc Kinh, Nam Kinh : thế hệ bây giờ thường đọc là Bây-Ching (theo giọng Phổ Thông BK, bĕijīng) hay Nan-Ching (Nánjīng BK), nhưng các báo chí sách vở từ trăm năm qua vẫn thường ghi là Peking, Nanking … và ta vẫn cứ gọi là Bắc Kinh, Nam Kinh khi nói chuyện hàng ngày. Bắc HV còn duy trì âm cổ cuối –k (cũng như một số giọng miền Nam TH như Quảng Đông, Hẹ) và phụ âm cổ đầu k- của Kinh (thay vì ngạc hoá thành một dạng ch-). 5. Cách dùng hiếu ức có vẻ gượng ép, so với những cách dùng HV khác như hiếu tâm (lòng hiếu thảo5), hiếu tính (tính hiếu thảo của con đối với cha mẹ), hiếu đạo (đạo phụng dưỡng cha mẹ), hiếu thuận (hiếu thảo và phục tùng cha mẹ), hiếu nữ (người con gái có hiếu), hiếu tử (con có hiếu, con đang có tang cha mẹ) …v.v… 6. Cồ7 hay cù HV viết bằng bộ mục, giọng BK bây giờ là jù, qú, qū, jí, jī so với giọng Quảng Đông keoi4, geoi3, geoi6, geoi2 và âm Hẹ là ki1, gi5 … và âm Hán Trung Cổ phục hồi là *kuH (hay *gjuH), rất gần âm cù. Việt HV hay yuè BK có âm Hán Trung Cổ là *hjwot và âm Hán Thượng Cổ6 phục hồi là *wjat (rất gần âm Việt, giọng Bắc môi hoá cao độ cho ra âm v-). Tiếng TH hiện tại không có phụ âm môi xát v- như tiếng Việt. Tóm lại, ‘Hiếu-Ức-Quốc’ có thể là phiên âm của Cồ-Việt-Quốc (nước Cồ Việt), phù hợp với tên nước Việt Nam vào khoảng thời gian đó cũng như phù hợp với các cách đọc âm Hán Trung Cổ phục hồi. Phụ chú và phê bình thêm (1) địa chỉ mạng http://nguyentl.free.fr/html/cadre_sommaire_vn.htm : có nhiều hình ảnh xưa và nay cùng các tài liệu ít gặp (cập nhật tháng 3 năm 2007 từ lúc lên mạng năm 2000). Bức tranh này được lưu giữ tại viện bảo tàng Emile Etienne Guimet ở Paris. (2) chữ hiếu viết bằng bộ tử (con), các hình khắc cổ trên giáp cốt văn, kim văn, tiểu truyện … cho thấy một đứa bé (ở dưới) dắt một ông già (râu dài) – nói lên sự tôn kính/giúp đỡ người già hay cha mẹ nói riêng. Đây là một chữ mà trong tiếng Anh thuộc họ Ấn Âu không có một chữ hay nhóm chữ nào tương đương (‘filial piety’ chỉ là một nhóm chữ dịch gần đúng, cũng như áo dài dịch là ‘long dress’ vậy). Chữ này tóm tắt truyền thống Á Đông chúng ta và có thể viết cả mấy bộ sách về đề tài này mà vẫn chưa hết ý! Có tác giả (như G. D. Wilder và J. H. Ingram trong "Analysis of Chinese Characters" 1974) cho rằng chữ hiếu viết bằng bộ tử hợp với chữ lão HT, nhưng bây giờ chữ viết đã thay đổi mà ta chỉ còn một nửa chữ lão trong chữ hiếu. Điều này cũng có lý nếu ta để ý các liên hệ ngữ âm lão/khảo, cố, cổ, cũ, cụ, cựu, hủ … cho thấy phụ âm cuối lưỡi và thanh hầu cho thấy dạng âm cổ của hiếu có thể là *cổ/cồ (3) các phụ âm cuối vô thanh (voiceless) và tắc (stop) -p/t/k thường hiện diện trong các tiếng phía Nam Trung Hoa như Quảng Đông, Hẹ, Phúc Kiến, Tiều Châu … và âm Hán Trung Cổ khi phục hồi cũng có các dạng âm cuối này. Giọng BK thường có khuynh hướng mất đi các âm cuối này như các âm yì (ức) và guó (quốc) trên. (4) xem thêm liên hệ h-k trong bài "Nguồn gốc Việt Nam của tên 12 con giáp - Hợi/cúi – heo (phần 5)" cùng tác giả. Chiều biến âm g/k > h có thể thấy rõ khi so sánh tiếng Phạn (Sanskrit) agama (kinh A-Hàm), ganga (sông Hằng Hà) …Các bài này đăng trên mạng khoahoc.net (các số lưu trữ năm 2006/2007) hay dunglac.net, anviettoancau.net (5) các định nghĩa trích từ cuốn “Hán Việt Tự Điển” – SàiGòn (1960), bản cập nhật (revised edition) – NXB DAINAM (1987), California (USA). (6) theo William Baxter trong cuốn "A Handbook of Old Chinese Phonology" – NXB Mouton de Gruyter (1992). Theo Edwin Pulleyblank trong cuốn "Lexicon of reconstructed pronunciation in early Middle Chinese, late Middle Chinese, and early Mandarin" – NXB University of British Columbia (1991), thì âm Hán Trung Cổ phục hồi có dạng wuat. Theo người viết, dạng *diệt/*juat (giọng Nam, môi hoá w- không nhiều) thành ra gần với âm Hán Trung Cổ của ức là *ik/*jiat hơn, phản ánh qua cách đọc yì BK bây giờ. (7) Cồ là to lớn : chữ Nôm có những cách viết như cù HV (nghĩa là sợ, một họ người TH), cù HV hợp với chữ cổ, cù HV hợp với chữ đại … Ta có các cách dùng như gà cồ, vịt cồ … Trong "Cư Trần Lạc Đạo” (thế kỷ XIII) có câu ‘…mến đức cồ kiêng bùi ngọt…’. Tác giả Trần Văn Giáp cũng ghi nhận (tên Nôm) Đại-Cồ-Việt trong giai đoạn hình thành chữ Nôm, so với các tên gọi Bố Cái Đại Vương (Phùng Hưng, thế kỷ VIII) trong cuốn "Lược khảo vấn đề chữ Nôm” NXB Ngày Nay (2002). Chữ cù HV còn được dùng làm thành phần HT trong quá trình cấu tạo chữ Hán, hay để phiên âm Gautama (Cù Đàm, Cồ Đàm … một tên gọi của họ Thích/Sakya - họ của đức Phật Tổ).
  14. Ôi trờ ờ ...trời ơi! Cái "thằng khứa" Tầm Nhìn Mới này chửi nghe...đã con rái ha! Cái này chửi cũng có tầm...cỡ lắm chứ bộ! Chu choa ơi, hên là mình hong có nhậu dới (thằng) chả. Lỡ mà chả chửi nghe thì có nước lấy cuốc đào đất mà độn thổ tàng hình. Mồ tổ, chả chửi dậy đó mà hỏng biết có đọng tới ai hong? Chớ mà chộc tới chả thì chả chửi cho tắt bếp. Chả đào ông bới cha cho mà mang nhục ngàn thu. Chả chửi có dăng quá dzậy đó, mà nhứt cái lỗ nhĩ. Mèn đét ơi, chả mà còn "chửi ra bộ" nữa, thì ai mà nhìn thấy cũng tối tăm mặt mũi, chóng mặt nhứt đầu thấy ông bà ông dãi luôn! Mần cái dì mà chả chửi thấy ghê dzậy chời? Tui thiệt thà nói thiệt chớ, hồi nhỏ ở xóm tui, chửi nhau rất thường. Đến khi nước nhà mở cửa, đón gió thì hình như họ bớt chửi. Đèn nhà ai nấy sáng, trán nhà ai nấy xỉ, cơm nhà ai nấy ăn, vợ nhà ai nấy...nựng. Ít có chửi nhau. Hồi đó, ngừ ta chửi nhau ghê lắm, lấy cái bí hiểm nhất của đờn bà mà chửi, như dậy ngừ ta gọi là "chửi trây". Ở miền Nam, có "ca ra bộ" thì họ cũng ..."chửi ra bộ". Chửi lên cao chào họ họ vỗ phành phạch, phành phạch, hẩy hẩy. Lên cao chào hơn là họ sẽ uýnh nhau và có khi còn "động dao động búa" nữa à! Nhưn mà được cái là họ hong chủ động chửi liên khúc dây dưa ngày này sang ngày nọ, mà sang ngày hôm sau nếu có còn hậm hực muốn chửi thì họ kiếm cớ chửi đổng, còn gọi là chửi phong lông. Chửi phong lông dậy đó mà cả làng xóm đều nghe mà đối thủ thì cũng tức ứa gan. Còn về phần mấy đứa con nít hay thanh thiếu niên mà chửi nhau thì họ lôi tên cha mẹ, ông bà của đối thủ ra mà chửi. Vậy đó, cái sự chửi nó có nhiều nhiêu khê lắm chứ bộ! Đưa cái sự chửi lên hàng dăng quá kể ra chắc cũng là thị dị quá (thi vị hóa) chăng? Hỏng hỉu dăng quá chửi đi tới đâu kìa? Thôi, hỏng nói nữa. <_< LacTuong :mellow:
  15. Hồi lâu rồi, LT có nhìn thấy một bức ảnh "chộp" hai phụ nữ miền Bắc chỉ có mặc yếm và vấy, hình tư liệu cũ khoảng những năm 30 - 40 của thế kỷ trước (nói nghe dài quá ha?!). Hình chộp không phải là thiếu nữ mà là mấy bà xồm xồm. Do vậy, cũng nghĩ rằng ngày xưa chỉ có mấy "con gái...mẹ" mới dám mặc yếm kiểu như bây giờ, trời nóng mặc đồ ngũ, đồ bộ ra đường vậy. Còn bi giờ, nếu nói mặc yếm thì chỉ có mấy cô ca sĩ hay vũ công trên sân khấu mặc thôi. Mà công nhiên mặc trước bàn giân thiên hạ thế mới ghê! Và nếu nói không phải là mặc yếm nhưng thiếu vải hơn yếm thì...ôi thôi nhiều vô số kể! Đi ra đường là có nhiều phen "rửa mắt" cho nổ tròng tóe lửa chứ chẳng chơi! Kể cũng thú vị! Cái sự nó dậy! Đẹp khoe, xấu che. Nhưng nhiều khi chẳng biết là họ khoe hay che? Che thì cũng chẳng ra che mà khoe cũng chẳng ra khoe! Thôi thời cứ mát trời ông địa dzậy! Có dzậy mới mấy tay họa sĩ, mấy phó nhấy mới có những tác phẩm "hơi hướm dzân tộc và hiện đại và đương đại" ra đời. Âu là cái yếm cũng còn một chút "đất dụng...yếm". Chắc hong trở thành "văn hóa yếm đào" đâu. Đừng no! LacTuong <_< :mellow: :(
  16. Văn hóa là gì? Lactuong tui cũng mơ mơ màng màng. Thôi thì góp một câu chuyện có thật trên thế giới mà quên tên hai nhân vật trong câu chuyện này rồi. Tạm gọi là "Tân niêm hoa vi tếu" Vào những thập niên 60 của thế kỷ XX trước, có một cuộc gặp gỡ thưởng đỉnh tại Mỹ, trao đổi về Thiền học giữa một vị đạo sư Tây Tạng và vị cao tăng sứ Cao Ly. Học trò của hai vị sư theo ủng hộ rất đông. Khi hai vị găp nhau, họ ngồi đối diện chẳng nói chẳng rằng, học trò đều nín thở theo dõi.Để phá vỡ sự yên lặng, vị cao tăng sứ Hàn khởi sự trước, ông lấy từ trong tay áo ra một trái cam và đưa lên trước mặt vị đạo sư Tây Tạng rồi hỏi: -Cái này là cái gì? Vị đạo sư im lặng, khẻ mở mắt nhìn, rồi trở lại sự im lặng thiền định cố hữu. Vị cao tăng, lúc này đứng lên, dí quả cam vào mũi vị đạo sư, hét lớn: -Cái này là cái gì đây?! Vẫn yên lặng, hồi lâu, chợt vị đạo sư quay qua nói nhỏ với người thông dịch vài câu, người thông dịch gật đầu, vị đạo sư trở lại sự yên lặng Thiền định. Lâu sau, người thông dịch mới lớn tiêng nói lại với mọi người rằng: -Đạo sư bảo với tôi rằng, đó là quả cam nhưng cái gốc của vấn đề là ở đâu, khi ở Tây Tạng không có cây cam? Khung cảnh trở lại yên lặng và cuộc gặp gỡ kết thúc trong yên lặng. Lời bàn của LacTuong: Vị cao tăng sứ Hàn dùng tích "Niêm hoa vi tếu" mà hỏi vị đạo sư Tây Tạng. Vị đao sư cũng trả lời bằng cách "Niêm hoa vi tếu" không kém! Mọi sự trên đời đều phải đi từ gốc rể, căn cơ. Khi không hiểu biết chớ nói. Khi hiểu biết cũng chớ nói. Và có nói thì phải nói cái chân lý căn rể. Vậy "Văn hóa" là gì? Phải chăng không nắm bắt được cái căn rể, cái chân lý nên mới dẫn đến biết bao khái niệm mâu thuẩn và tệ hơn nữa là những sự chấp vá trong ngôn từ dẫn đến những "loạn khái niệm", loạn ngôn ngữ khi định nghĩa văn hóa? Lactuong <_< :mellow:
  17. Hồi học năm đầu đại học, LacTuong học môn "Cơ sở văn hóa Việt Nam" với thầy Trần Ngọc Thêm (TNT),lúc ấy nhiều bỡ ngỡ bờ ngờ, chẳng hiểu mô tê cái gì là "văn hóa". Nghe thầy Thêm giảng thuyết Âm Dương và khẳng định thuyết đó là của người Việt, Bát quái là của người Tàu thì càng ngạc nhiên một cách lạ lùng ta ơi! Rồi thầy bảo rằng có một mảng văn hóa gọi là..."Văn hóa chửi". Thầy TNT kể, chính thầy là người hướng dẫn cho một sinh viên làm đề tài này, đề tài "Văn hóa chửi của người Việt". Thầy dẫn sinh viên đó đi thực tế về quê thầy và nhiều lần kiếm cớ để làm cho bà cô chửi. Cuối cùng thì cũng được một bài chửi ra hồn. Và sau đó người học trò, đúng hơn là người nữ sinh viên này, đã trở thành vợ của GS Trần Ngọc Thêm. Âu là cái duyên đó cũng một phần nhờ..."Văn hóa chửi của người Việt". LacTuong :( :P
  18. CƯỚP CÁ Có con cò cạnh chùm cây chít, canh con cá. Cũng có con cua chựt con cá. Chợt con cò chộp con cá. Cua cũng cung càng kẹp cá. Cua cò cùng cướp cá. Cò cắp, cua kep. Chúng chẳng chịu chừa. Cò cãi:-Cá của cò! Cua chớ cướp chi! Cua cong cớn: -Cá của cua! Chẳng của cò! Cua cất công chựt chờ. Của cua! Cò cự: Của cua cái con...cóc! Cá chẳng của cua! Cò có cong canh. Cò chộp. Cá của cò! Cua chống chế: -Của cò cái con...cừu! Cua có công canh chừng chộp cổ cá. Công cua cao! cá của cua. Chúng cự cải, chống chế, chẳng chịu chia. Cò kiêu: -Các cô, các chú!! Cua cướp cá!!! Cua chẳng chừa chi. Cua cũng kiêu: - Các chị, các cô, các cậu!! Cò cướp cá của cua!!! Chợt, có con cáo cuối cụm cây. Cáo cười: -Chuyện chi cua cò cải cọ? Cua cò cùng kể chuyện chộp cá. Cáo cười chúm chím: -Các con câm! Cá chẳng của cò, cũng chẳng của cua. Cá của cáo! Cua cò cả kinh! Chúng chống chế: -Cáo chơi kỳ cục! Cáo chơi cha! Chẳng chịu! Cá chẳng của cáo! Cáo cướp cá. Cô, cậu, chú, chị!Cáo cướp! cướp cướp!! Chúng cải cọ cù cưa. Chúng cong cớn, chanh chua cố chống chọi. Chợt, có con cọp. Cọp chứng kiến cả câu chuyện. Cọp cười. -Cua cò cáo! các con các cháu! Cá chẳng của các con các cháu. Cá của cọp! Các con, các cháu chẳng chịu, cọp cắn chết cha! Cáo cua cò cả kinh! Cáo chua chát chuồn, cua chui, cò cũng cất cánh. Cọp cười kà kà kà. Cọp chộp cá. Cọp chĩm chệ chén cá. Cọp chén cả con cá. Chợt, cọp câu có. Cọp cảm chừng có chi chẳng chịu...Chừng cuối canh chuột. Cọp chết! Cũng chỉ, cá có chất chết chuột. Cọp chén cá, cọp chết. Lời bàn của LacTuong Cũng chuyện cọp cáo cò cua cướp cá, kể cũng có căn cơ. Căn cơ chỉ: "chớ cướp của, kẻo chết chẳng kịp chối, chẳng kịp kiêu cha chú, chẳng kịp cười". LacTuong sáng tác :( :P :P
  19. Gửi Phụng Hoàng, Người bạn này muốn nhờ Phoenix hỏi xem sự đầu tư này có đạt được mục đích hay không? Ngày C.tuất 7 tháng K.mùi năm M.tý giờ Tị lập quẻ ĐỖ TIỂU CÁT Đỗ, quả là tinh thần tâm trí và sức lực đều dồn vào công việc này, sự nghiệp này. Người này hiện đang quan trọng chỉ có sự nghiệp. Có thể sẽ bỏ tất cả chỉ để đạt điều này. Tiểu cát sinh xuất cho Đỗ, chứng tỏ tình yêu mãnh liệt nhất cũng chỉ là sự nghiệp. Trí lực, tâm lực và thể lực đều dồn vào việc xây dựng cuộc sống và tương lai. Thế là hao tổn (không nói là lợi hay hại). Người này theo lý tưởng dựa trên tình cảm và cảm tính rất nhiều. Có thể nói yêu là lụy, muốn là liều. Nếu người nay đi làm công thì cũng thuộc là người làm công số...2. Lương tháng cũng rủng rẻng 7-8 chai. Nếu là tự mình làm công cho ông chủ là...chính mình thì sẽ phát đạt như công cuộc đầu tư. Mùa xuân năm sau khởi phát rỏ. Cuối đông năm nay trên đà ôn định. Attention! Cũng coi chừng có dính líu chiện tình cởm à nghen! Nếu lính phòng không thì cứ tiến luôn nghen. Còn là lính mà có sếp rồi thì ...hì hì thì tùy tâm...hehe. Chúc "thồng canh". LacTuong :( :P :P
  20. 29/05/2008 03:34 (GMT+7)Cỡ chữ: Vấn đề tâm thể trong Tâm lý học Phật giáo </IMG>Chử Tâm (thư pháp Trung Quốc)I. Các học phái đồng thời với Phật và vấn đề Tâm thể Chúng ta có thể phân chia các học phái Ấn Độ đồng thời với Đức Phật đối với vấn đề Tâm thể ra làm hai đường hướng chính yếu: - Chủ trương về linh hồn thường trụ bất biến, tất là chủ trương hữu ngã, hay nói cách khác đó là khuynh hướng Tâm lý học về Duy tâm luận. - Chủ trương tác dụng của tâm lý chỉ những biểu thị của vật chất, tức là khuynh hướng Duy vật luận, Chủ trương này, thời bấy giờ, được Phật giáo mệnh danh là Thuận thế ngoại đạo. Về phía Phật giáo, trên đại thể mà nói, chủ trương của Đức Phật được mệnh danh là thuyết “Trung đạo”. Thái độ của Đức Phật là vừa không chấp nhận thuyết linh hồn thường trụ của khuynh hướng Duy tâm luận, vừa bác bỏ chủ trương Duy vật luận, đưa đến chủ trương điều hòa cả hai. Coi chủ thể sinh hoạt của con người như một linh hồn cố định bất biến chỉ là một thứ mê tín, vì sinh hoạt tâm linh con người luôn biến đổi trong từng sát na. Đó là đặc chất Vô ngã luận của Phật giáo. Nó phản đối chủ trương của triết học Upanishad và những học phái có cùng chủ trương tương tự. Về phía Duy vật luận nếu coi vật chất như là một thứ phi tinh thần nhưng từ đó mà sản xuất tinh thần lại là điều phi lý, bác bỏ cả hai chủ trương, coi như là hai thái cực ấy, Đức Phật đã nêu lên “con đường giữa”. Đối với con đường thuyết giáo của Đức Phật, theo đó các sinh hoạt tâm lý là do những mối quan hệ giữa các yếu tố, không phải chỉ là đặt trên nền tảng duy nhất của tâm hay vật. Đứng trên lập trường sinh hoạt hiện thực, người ta có thể phân biệt những yếu tố riêng biệt tâm và vật, nhưng phân biệt ấy phải được nhìn theo tính cách quan hệ lẫn nhau. Đức Phật không chú trọng đến vấn đề giải thích tâm và vật là hai hay là một. Nhưng nếu chúng ta muốn biết sự quan hệ giữa yếu tố tâm lý và yếu tố vật chất, thì chúng ta cứ tạm gọi là chúng không phải một mà cũng không phải là hai, hay nói cách khác, không đồng nhất cũng không dị biệt. Bởi vì, cứ theo những lời thuyết giáo của Phật, các yếu tố ấy, không một yếu tố nào cố định. Như vậy nói tâm hay nói vật chỉ là nói theo ước lệ, nói theo một giai đoạn sinh hoạt nào đó của tâm lý. II. Vấn đề Tâm thể trong Phật giáo Nguyên thủy Ở những điều vừa nói trên, chúng ta có thể nêu ra ở đây mấy điểm nhận định: 1. Đức Phật bác bỏ những quan niệm cho rằng “Linh hồn là cố định” của các dòng tư tưởng về trước. 2. Sinh hoạt của tâm lý là một trạng thái phức hợp. 3. Tác dụng của sinh lý và tâm lý không phải đồng nhất cũng không phải là dị biệt. 4. Tâm lý luôn luôn lưu động trong sát na sinh diệt và biến đổi. Tâm lý học Phật giáo cũng không phải chỉ dừng lại ở đó. Sự tiến bộ của nó dần dần dẫn đến những vấn đề tâm sở. Điều nên để ý ở đây Tâm lý học Phật giáo không chỉ hạn cuộc vào những sinh hoạt tâm lý hiện tại mà còn đề cập đến những quan hệ giữa các tình trạng tâm lý hiện tại đối với những sinh hoạt tâm lý trong quá khứ và cả đến vị lai nữa. Chuỗi thời gian này sẽ kéo dài bất tận trong quan điểm về luân hồi lưu chuyển. Đằng khác, lại còn có sự quan hệ giữa những sinh hoạt đó đối với thế giới của những sinh hoạt đó, và thế giới cũng không chỉ giới hạn vào thế giới khả giác hiện tại của nhân gian mà còn là những thế giới bên trên sinh hoạt tầm thường của thế gian, nghĩa là cả: Dục giới (Kamavacana), Sắc giới (Rùpavacana) và Vô sắc giới (Arùpavacana). Phật giáo chủ trương Vô ngã (Anatta), không có một thực thể linh hồn thực tại bất biến, nhưng lại chủ trương luân hồi, vậy cái gì luân hồi? Đó là vấn đề cần phải giải quyết. Ở đây, chúng ta có thể trích dẫn một đoạn văn trong kinh A Hàm (Agama), coi như là giải thích vấn đề đó: “Có nghiệp báo, không có tác giả; khi ngũ ấm (skandha) này đã diệt, ngũ ấm khác tương tục sinh khởi”. Điều này đòi hỏi một trình độ kinh nghiệm tập Thiền khá cao, mới có thể nhìn thấy được những tương tục tiếp nối của những tổ hợp tâm lý, tức ngũ uẩn hay ngũ ấm, và ngay cả những người theo Phật giáo thời bấy giờ vẫn có ý đồ coi Thức (Citta) như một thực thể tương tục sau khi chết nhưng bất biến. Do đó, Đức Phật mới thuyết giáo về đạo lý Duyên khởi (Pratityasamutpàda), theo đó, thức cũng chỉ là một thứ do duyên sinh: có cái này là vì có cái kia, không có một thực thể độc lập. Thêm nữa, theo một ý nghĩa khác, Phật như đã thừa nhận Tâm là một yếu tố chính yếu, gọi là “Vô ý thức”, được coi như quan niệm về vô minh (avidya) và nghiệp (karma). Nghiệp, có thể nói đó là tính cách “vô ý thức”. Vô minh, gần giống như kiểu ý chí sinh tồn của Schopenhauer. III. Từ Vô ngã đến Hữu ngã Đặt cơ sở trên bối cảnh tâm lý học như vậy, đối với sự phát triển và tổ chức của nó ở thời Phật giáo Nguyên thủy, người ta phải cần đến một giải thích xác định nào? Đó là đề mục về Tâm lý học của thời đại bộ phái Phật giáo. Về bộ phái mà có thể biểu trưng cho tinh thần chính thống Phật giáo, ta có thể nói đến Thượng tọa bộ ở Tích Lan (Theravàda), hoặc là Thuyết Nhất thiết hữu bộ (Sarvàstvàda) ở vùng Kasmir. Những bộ phái này thủy chung chủ trương Vô ngã. Tuy vậy, trong những chi phái của các bộ phái lớn này cũng có nảy sinh chủ trương Hữu ngã. Về phía Đại chúng bộ, có thái độ Quan niệm luận, vì là đề cao tư tưởng Không, cho nên hẳn là phản đối chủ trương hữu ngã, nhưng trong sự phát triển lại cũng phát sinh một vài ý hướng như muốn tiến gần đến Hữu ngã luận. Như vậy, bản chất tâm lý, tức là vấn đề sinh mạng, tư tưởng của Tiểu thừa Phật giáo đã không ngừng phát triển, và đã trở thành vấn đề sôi nổi. Đối với lịch sử Phật giáo, nó là vấn đề quan trọng nhất. Theo một bộ luận Hán dịch, mang tên là Tam di để bộ luận (Samityasastra), tương truyền là thuộc Chánh lượng bộ (Samitya), có ghi những ý kiến bất đồng giữa các bộ phái như sau: 1. Chủ trương vô ngã 2. Chủ trương bất khả thuyết hữu ngã, vô ngã 3. Chủ trương hữu ngã 4. Ngũ uẩn luận 5. Con người (Pudgala) và ngũ uẩn khác nhau 6. Con người là vô thường 7. Con người là hữu thường. Chủ trương thứ ba là lập luận ngã vừa có vừa không. Thứ tư và thứ năm là lập luận về tâm thể và ngũ uẩn đồng nhất hay dị biệt. Thứ sáu là lập luận về tâm thường và vô thường. Như vậy, trong bảy điểm trên, không hẳn là những điểm chống đối nhau. Tóm lại liên quan đến vấn đề chủ thể của tâm lý, đã có rất nhiều ý kiến khác nhau. Nhưng, lập trường chính yếu của Phật giáo là Vô ngã luận, mà nội dung của nó, như chúng ta đã thấy trên, có thể là đứng về phía vô ngã hoặc về phía hữu ngã khác nhau; tất có lẽ đã không có ai sai lầm đối với lập trường vô ngã chính yếu của Phật giáo. IV. Cơ giới Vô ngã luận Chủ trương của các luận sư A tì đàm (Abhidharma) là mọi sinh hoạt tâm lý đều đặt trên quan hệ của hiện tượng tâm lý, gọi là chủ trương cơ giới vô ngã. Về phương diện giáo chứng, nghĩa là dẫn dụng những lời thuyết giáo của Phật để chứng minh cho lập luận và chủ trương của mình, các luận sư A tì đàm đã hay nhấn mạnh đến chủ trương vô ngã của Phật. Đức Phật căn cứ vào tâm lý mà giảng thuyết vô ngã, có khi giải phẫu các hiện tượng tâm lý, có khi giảng thuyết những trạng thái sinh hoạt của tâm lý. Những yếu tố cấu thành là sắc, thọ, tưởng, hành, thức (ngũ uẩn), và những sinh hoạt tâm lý của chúng ta không ngoài năm yếu tố ấy. Như vậy, tuy nói tâm hay nói ngã, cũng như nhiều chi tiết, bộ phận cấu thành một chiếc xe, nhưng ngoài những yếu tố ấy ra, không còn cái xe nào khác. Thêm nữa, tình trạng sinh hoạt mà tâm lý trải qua, là đi từ cảm giác đến hiện tượng phức tạp của tâm lý. Đoạn văn được trích dẫn dưới đây là một chứng minh cho điều đó: “Nhãn, sắc duyên nhãn thức, cả ba hòa hợp phát sinh xúc, xúc càng phát sinh với thọ, tưởng, tư, bốn vô sắc ấm...” (Luận Câu xá – Abhidharmakosasàstra, quyển 13). Như vậy gọi là phương diện vô ngã, thủy chung coi tâm lý như là hiện tượng. Để nhận ra chân tướng của tâm, đặc biệt thuyết minh những hiện tượng cấu thành tâm lý và thuyết minh sự quan hệ của các hiện tượng ấy. Thí dụ: phân tích tâm lý thành những hiện tượng phức tạp là tâm vương và tâm sở, rồi quy định các luật tắc nhân duyên sinh khởi của chúng, cho đến thuyết minh các thứ tác dụng của tâm lý cùng tương ưng đồng thời sinh khởi như thế nào, và thực tại là kết quả phát sinh từ đó. Các luận sư Abhidharma, đối với nhiệm vụ của tâm lý học, phân tích rất tỉ mỉ những tác dụng của tâm lý và đem sự liên lạc quan hệ của chúng để thuyết minh tính cơ giới của chúng. Tính cách phức tạp của tâm lý học ở các nhà Nhất thiết hữu bộ (Sarvàstivàda) và phái Thượng tọa bộ ở Tích Lan (Theravàda) phát sinh từ đó. Ngoài ra, chứng minh cho chủ trương Vô ngã luận, trong nhiều kinh điển cũng đã nói đến, và các luận sư A tì đàm cũng dựa vào đó làm căn cứ cho chủ trương của mình. Về phương diện tiêu cực, họ cực lực phá xích chủ trương Hữu ngã luận. Như phái Thượng tọa bộ ở Tích Lan, tuy bài xích các chủ trương của Độc tử bộ và Kinh lượng bộ, nhưng về phương diện tích cực, cũng chưa được tỏ rõ cho lắm. Tóm lại, Vô ngã luận là căn bản của triết học Phật giáo, chỉ nhắm vào chỗ phá xích chủ trương hữu ngã. Cố nhiên, sự phá xích của các nhà Tiểu thừa đã có tương hợp với những lời thuyết giáo của Đức Phật. Nhưng đồng thời, những người chủ trương Hữu ngã luận cũng đặt ra nhiều vấn đề cho các nhà chủ trương Vô ngã luận, và tài liệu ấy cũng không phải là ít. Do đó, nhiệm vụ của các luận sư A tì đàm là trả lời cho những nạn vấn đó. Tài liệu phá xích chủ trương hữu ngã của những nhà Vô ngã luận phong phú và tiện lợi cho hiểu biết nhất, có lẽ là “Phá ngã phẩm” của Câu Xá (nhiều người cho rằng phẩm này chỉ là một sự thêm thắt của những người đi sau Thế Thân (Vasubhandu) điều này có lẽ đúng). Đối tượng chủ yếu của phẩm phá ngã này là Độc tử bộ. Về phía những người không phải là Phật giáo, thì phẩm này nhằm vào Vedanta và Vaisesika. Đồng thời, về phía chủ trương của những nhà Vô ngã luận Phật giáo, nhiều nạn vấn cũng được đặt ra. Những nạn vấn chủ yếu: Nếu đúng là vô ngã, thì: 1. Lưu chuyển trong vòng sinh tử là ai? 2. Ký ức làm thế nào mà sinh khởi? 3. Chủ thể của nhận thức là thế nào? 4. Sự liên tục tồn tại của tự ngã như thế nào? 5. Con người tác nghiệp như thế nào? 6. Ai là kẻ lãnh thọ quả báo của các nghiệp ấy? Luận chủ, tuy phân chia thành ba phương diện để giải thích, nhưng những nghi vấn ấy đại đồng tiểu dị , nếu nắm được cái nhất quán của vấn đề, thì những vấn đề ấy sẽ được giải quyết. Ngoài ra, chứng minh cho chủ trương Vô ngã luận, trong nhiều kinh điển cũng đã nói đến, và các luận sư A tì đàm cũng dựa vào đó làm căn cứ cho chủ trương của mình. Về phương diện tiêu cực, họ cực lực phá xích chủ trương Hữu ngã luận. Như phái Thượng tọa bộ ở Tích Lan, tuy bài xích các chủ trương của Độc tử bộ và Kinh lượng bộ, nhưng về phương diện tích cực, cũng chưa được tỏ rõ cho lắm. Tóm lại, Vô ngã luận là căn bản của triết học Phật giáo, chỉ nhắm vào chỗ phá xích chủ trương hữu ngã. Cố nhiên, sự phá xích của các nhà Tiểu thừa đã có tương hợp với những lời thuyết giáo của Đức Phật. Nhưng đồng thời, những người chủ trương Hữu ngã luận cũng đặt ra nhiều vấn đề cho các nhà chủ trương Vô ngã luận, và tài liệu ấy cũng không phải là ít. Do đó, nhiệm vụ của các luận sư A tì đàm là trả lời cho những nạn vấn đó. Tài liệu phá xích chủ trương hữu ngã của những nhà Vô ngã luận phong phú và tiện lợi cho hiểu biết nhất, có lẽ là “Phá ngã phẩm” của Câu Xá (nhiều người cho rằng phẩm này chỉ là một sự thêm thắt của những người đi sau Thế Thân (Vasubhandu) điều này có lẽ đúng). Đối tượng chủ yếu của phẩm phá ngã này là Độc tử bộ. Về phía những người không phải là Phật giáo, thì phẩm này nhằm vào Vedanta và Vaisesika. Đồng thời, về phía chủ trương của những nhà Vô ngã luận Phật giáo, nhiều nạn vấn cũng được đặt ra. Những nạn vấn chủ yếu: Nếu đúng là vô ngã, thì: 1. Lưu chuyển trong vòng sinh tử là ai? 2. Ký ức làm thế nào mà sinh khởi? 3. Chủ thể của nhận thức là thế nào? 4. Sự liên tục tồn tại của tự ngã như thế nào? 5. Con người tác nghiệp như thế nào? 6. Ai là kẻ lãnh thọ quả báo của các nghiệp ấy? Luận chủ, tuy phân chia thành ba phương diện để giải thích, nhưng những nghi vấn ấy đại đồng tiểu dị, nếu nắm được cái nhất quán của vấn đề, thì những vấn đề ấy sẽ được giải quyết. Trước hết, đi từ phương diện thấp mà nói, nhận thức của chúng ta không ra ngoài sự giả định có một tự ngã để nhận thức nhưng cũng có thể thành lập lý do vô ngã. Bởi vì nhận thức chỉ là tác dụng của nguyên lý nhân duyên, do sự phối hợp giữa căn và cảnh. Nhận thức như vậy, không cần thiết phải thiết lập một tự ngã cố định nào đó, bởi lẽ, nhận thức chỉ là tác dụng của những diễn tiến tâm lý. Và bởi vì nhận thức là sinh diệt trong từng giây phút, khỏi phải nói, hẳn nhiên đó là tính cách “tương tợ” và “tương tục” trôi chảy trong từng sát na, gọi nó là tâm mà cũng gọi nó là thức. Sự tồn tại liên tục của một tự thể, giả định người ta có thể cảm thấy, cũng không ngoài sự tương tục ấy mà thôi. Ở trong dòng tương tục đó, niệm trước vừa chìm xuống, niệm sau tiếp tục sinh khởi, vị tất đã là đồng nhất với nhau. Nếu đứng về phương diện ký ức mà thuyết minh, người ta có thể cả quyết phải có một tự ngã hay không? Những nhà Hữu ngã luận nói: “Nếu như không có tự ngã làm chủ thể cho ký ức, khi mà ý thức niệm niệm sinh diệt thì làm thế nào ký ức có thể nhớ lại những gì đã xảy ra?”. Ký ức của chúng ta là tác dụng hồi tưởng, nó nhớ lại những gì đã xảy ra, và những gì đã xảy ra đó được xuất hiện lại với ký ức, ảnh tượng của nó như là tương đồng với thực tại quá khứ. Mặc dù tâm thể luôn luôn sinh diệt biến chuyển, nhưng niệm trước diệt niệm sau sinh không phải không có một mối liên lạc nào cả. Và vấn đề luân hồi lưu chuyển ở phương diện thứ ba được đặt ra: sự quan hệ giữa tác nghiệp, chủ thể tác nghiệp và chủ thể thụ báo như thế nào, tự khắc được giải quyết. Như luận chủ nói, luân hồi không có tự ngã, nghĩa là không cần phải có một tự ngã bất biến mới luân hồi; đó chẳng qua chỉ là sự biến thiên bất tuyệt, trôi chảy không ngừng của dòng sinh mạng mà thôi. Thí dụ, như quay vòng đốm lửa, do sự tương tục mà người ta thấy có một vòng lửa. Nhưng vòng lửa ấy nhất định không có một tự ngã nào cả. Như vậy, do tu tập các uẩn (skandha) mà giả thuyết có hữu tình, rồi do sự ái thủ đó mà lưu chuyển sinh tử. V. Sinh cơ Hữu ngã luận Trong các học phái thuộc Phật giáo Nguyên thủy, phần lớn cố nhiên là chủ trương vô ngã, nhưng một phần khác đi gần đến kết luận hữu ngã không phải là ít. Những luận sư Hữu bộ có tranh cãi với những nhà mệnh danh là “Bổ đặc già la luận sư” (Pudgala: nhân thể). Pudgala, không rõ chỉ vào những bộ phái nào, nhưng chắc chắn là những người theo Phật giáo. Và Nam phương Thượng tọa bộ (Theravàda), tác phẩm "Luận sự” của họ, ở chương thứ nhất, đã nhằm vào chủ trương của những “Bổ đặc già la luận sư” để đả kích, và những “Bổ đặc già la luận sư” này được chú là Độc tử bộ (Vajjiputtaka Vatsìputriya) và Chính lượng bộ (Samatya). Và căn cứ theo Dị bộ tông tôn luận của Thế Hữu (Vasumitra) thì Đại chúng bộ (Mahàsanghika) tuy mang khuynh hướng Không luận, nhưng một phần nhỏ hình như đi đến chủ trương hữu ngã theo kiểu Kỳ Na giáo. Bộ phái này chủ trương: Tâm bao khắp châu thân, tâm tùy theo cảnh mà có thể co giản. Về những nhà Độc tử bộ (Vatsiputriya), họ chủ trương có một thứ ngã “Phi tức uẩn phi ly uẩn”. Kinh lượng bộ (Sautrantika) chia làm hai thứ uẩn: ngũ uẩn thông thường thì gọi là “Căn biên uẩn” và thêm một thứ uẩn mệnh danh là “Nhất vị uẩn”, ngầm chứa đựng có một chủ thể của tâm lý là Nhất vị uẩn. Ngoài ra, như Xích đồng bộ (hay Đồng diệp bộ) chủ trương “Hữu phần thức”, Đại chúng bộ nói đến “Căn bản thức”; Hóa địa bộ nói đến “Cùng sinh tử uẩn”. Như vậy, ở những bộ phái Tiểu thừa này cũng đã chứa đựng mầm mống của thuyết A lại da thức. Chúng ta làm một bảng liệt kê những phái chủ trương Hữu ngã luận, gồm: 1. Độc tử bộ (Vatsiputriya) 2. Đại chúng bộ (Mahasanghika) 3. Chính lượng bộ (Sammatiya) 4. Hóa địa bộ (Mahisasiha) 5. Kinh lượng bộ (Sautrantika) 6. Đồng diệp bộ (một chi phái nhỏ ở Tích Lan) 7. Pháp thượng bộ 8. Hiền trụ bộ 9. Mật lâm sơn bộ. Người ta cũng có thể thêm vào chủ trương của Đại thừa là Du già phái (Yogacara) tức là Duy thức học. Về khởi điểm khuynh hướng hữu ngã này, người ta không biết rõ. Cứ như truyền thuyết, Đề Bà Thiết Ma là nhân vật sinh vào khoảng sau Phật Niết bàn 100 năm, mà đã có nói đến Bổ đặc già la luận sư. Tuy nhiên, niên đại của Đề Bà Thiết Ma không chắc chắn. Vậy, trên đại thể, sau khi Phật Niết bàn khoảng 200 năm, các trào lưu theo chủ trương hữu ngã đã xuất hiện khá nhiều. VI. Độc tử bộ và Hữu ngã luận Độc tử bộ là một chi phái phát xuất từ hệ phái Thượng tọa bộ (Sthavira), tất nhiên là những giải thích về lập trường vô ngã của hệ phái này đã gặp nhiều khó khăn, và những người muốn đi tìm lối giải thích khác đã phát xuất Độc tử bộ. Những vấn đề khó khăn, như đã nói: Chủ thể luân hồi như thế nào? Chủ thể của ký ức như thế nào? Trung tâm của nhận thức là gì? Chúng ta có thể khái lược về căn cứ của chủ trương Hữu ngã luận những “Bổ đặc già la luận sư” như sau, theo Thức thân tức luận của Đề Bà Thiết Ma. 1. Căn cứ vào chủ thể của tác nghiệp và cảm thọ của nó, và 2. Căn cứ vào chủ thể của tri giác, phán đoán. Từ những căn cứ đó, hình thành lập trường hữu ngã. Hoặc giả, theo như luận Đại tì bà sa, Độc tử bộ thuyết minh hữu ngã là căn cứ trên lập trường về chủ thể của nhận thức; hay, do tìm kiếm chủ thể của ký ức mà thiết lập Hữu ngã luận. Ở Câu xa, phẩm Phá ngã, cho rằng Hữu ngã luận được thành lập do sự tìm kiếm chủ thể của ký ức. Thêm nữa, lý do thành lập Hữu ngã luận của những nhà Sammatya (Chính lượng bộ) là đối với trách nhiệm về thiện và ác, từ đó thuyết minh chủ thể thọ báo luân hồi. Những luận Tam di đề của phái Chính lượng bộ (Sammatya) không nói đến chủ trương hữu ngã của những nhà Độc tử bộ. Và theo như trình bày của Dị bộ tông tôn luận, Độc tử bộ chuyên môn dựa trên giải thích luân hồi mà thành lập chủ trương hữu ngã. Điểm khó khăn cho Độc tử bộ trong công trình thành lập Hữu ngã luận là như thế này: nguồn gốc, căn cứ theo những lời thuyết giáo của Đức Phật, thì sinh mạng, tâm lý của con người do sự tích tụ năm uẩn; ngoài năm uẩn ra, không có một tự ngã cố định nào cả. Còn đối với Độc tử bộ thì ngoài năm uẩn, các luận sư còn thành lập thêm một ngã thể nữa, như vậy giống với chủ trương của những người bài xích Phật giáo, cố nhiên là khó đứng vững với truyền thống. Điều nan giải đó là mối bận tâm lớn lao của những nhà Độc tử bộ. Cuối cùng, họ thành lập một thứ ngã mệnh danh là “không phải uẩn cũng không phải phi uẩn” (phi tức uẩn phi ly uẩn ngã). Như vậy có một tự thể “bất khả thuyết” là tự thể trung tâm cho các sinh hoạt của con người. Theo những nhà Độc tử bộ, sự quan hệ giữa uẩn và ngã cũng giống như sự quan hệ giữa lửa và nhiên liệu. Ngoài nhiên liệu ra không có lửa và ngoài lửa ra cũng có nhiên liệu. Như vậy, sự quan hệ giữa uẩn và ngã là “bất nhất, bất dị”, “bất tức, bất ly”. Vượt ngoài hai kiến chấp đoạn và thường, người ta mới có thể tìm thấy bản chất chân thật của sinh mạng. Với ý nghĩa đó, những nhà Độc tử bộ thành lập có “Bổ đặc già la” (Pudgala) nó không phải thực hữu cũng không phải giả hữu. Pudgala, không phải biệt lập với uẩn, cũng không phải chỉ là giả danh do những tích tập, mà là nội bộ của thân tâm tồn tại do các yếu tố cảm giác, và làm trung tâm cho chúng. Tiến thêm, bản thể của các tự ngã “phi tức uẩn phi ly uẩn” đó như thế nào? Ấy là điều không thể nói được, và những nhà Độc tử bộ mới nói rằng “Bất khả thuyết”, và họ thành lập “Bất khả thuyết tạng” để chỉ cho tự ngã ấy. Lối giải thích của những nhà Độc tử bộ tuy là rất lý thú, nhưng nếu họ không đồng lập với những hữu bộ, là vì cả hai không nhìn ngũ uẩn dưới một cái nhìn như nhau. Một đằng, những nhà Độc tử bộ, lấy vô minh hoặc nghiệp làm trung tâm của ngũ uẩn. Đằng khác, những nhà Hữu bộ coi ngũ uẩn như là cơ giới. Có thể nói, họ cùng đứng trước một cái hồn nhiên nhất thể mà lại không nhìn như nhau. Cái hồn nhiên nhất thể đó, khi phân tích, tuy là ngũ uẩn nhưng không phải là tích tụ theo kiểu cơ giới, cho nên không thể nói năm uẩn chính là ngã, và đồng thời, phân tích các yếu tố của cái hồn nhiên nhất thể đó, thì cái hồn nhiên nhất thể ấy lại cũng không ở ngoài ngũ uẩn, cho nên không thể nói nó tồn tại ở ngoài ngũ uẩn. Đó là ý nghĩa căn bản của chủ thuyết “phi tức uẩn phi ly uẩn ngã”. Song, chủ trương có một tự ngã không phải uẩn cũng không phải ở ngoài uẩn của những nhà Độc tử bộ không giống như chủ trương của những học thuyết bên ngoài truyền thống Phật giáo; tự ngã có lưu động, mặc dù có sự nhất quán của một cái nhất thể hồn nhiên tiếp nối từ trước và sau. Pudgala của họ được thành lập bên ngoài hai kiến chấp đoạn thường. Nó gần giống, và có thể là tiên phong, cho chủ thuyết A lại da sau này của những nhà Duy thức. Mặc dù Độc tử bộ bị các nhà Phật học đả kích kịch liệt, cho rằng đó là chủ trương của “những người ngoại đạo bám vào Phật giáo”, nhưng ảnh hưởng của nó không phải là không có. Như Duy thức học, mặc dù cũng đả kích Độc tử bộ, vẫn có quan hệ với Độc tử bộ, ở chủ thuyết A lại da thức. Cố nhiên, như những điều đã trình bày, Độc tử bộ không phải hoàn toàn ở ngoài truyền thống của Phật giáo, khi mà họ đã cố gắng vượt khỏi hai thái cực thiên chấp là đoạn kiến và thường kiến. VII. Kinh lượng bộ và Hữu ngã luận Kinh lượng bộ (Sautrantika) là một bộ phái phát xuất từ Nhất thiết hữu bộ, không đồng ý như những nhà Hữu bộ là lấy Luận tạng (Abhidharmapitaka) làm căn bản mà trở về với nguồn gốc lấy Kinh tạng (Sutrapitaka) làm căn bản, thêm một phần ảnh hưởng của Độc tử bộ. Đại khái về chủ trương của những nhà Kinh bộ này theo Dị bộ tông tôn luận của Thế Hữu (Vasumitra), như sau: “Họ bảo rằng các uẩn từ tiền thế chuyển biến đến hậu thế, do đó cũng có tên là Thuyết chuyển bộ. Họ chủ trương có Căn biên uẩn và Nhất vị uẩn...; chấp có Thắng nghĩa Bổ đặc già la”. Và sách Đại thừa pháp uyển nghĩa lâm của Khuy Cơ viết: “Kinh bộ chủ trương có Thắng nghĩa Bổ đặc già la. Ở trong cấp bậc di sinh (chúng sinh) cũng có thánh pháp. Có Căn biên uẩn, có Nhất vị uẩn. Nhất vị uẩn tức là tế ý thức (ý thức vi tế). Ngoài ra, phần lớn chủ trương đồng với Nhất thiết hữu bộ”. Những nhà Hữu bộ chủ trương sát na tương tục, không có một pháp nào lưu chuyển từ tiền thế đến hậu thế, nhưng cũng có sự tương tục của thực chất. Do đó được mệnh danh là Thuyết chuyển bộ. Theo truyền thuyết Nam phương Thượng tọa bộ, bộ phái Sambauntika tức Thuyết chuyển bộ khác với Kinh lượng bộ. Có lẽ cả hai chỉ là sự phát triển giai đoạn trước và giai đoạn sau của Kinh bộ. Uẩn có “Căn biên uẩn” và “Nhất vị uẩn”: Căn biên uẩn tuy niệm niệm sinh diệt, nhưng Nhất vị uẩn cũng gọi là Thắng nghĩa Bổ đặc già la lại là chủ thể cho sự tương tục từ tiền thế đến hậu thế. Uẩn hay ngã này cũng gọi là tế ý thức. Chủ trương này không khác với chủ trương Hữu ngã luận của những nhà Độc tử bộ. Vì Kinh bộ cho rằng ngoài ngũ uẩn phổ thông (Căn biên uẩn) còn có căn bản uẩn (Thắng nghĩa). Căn cứ trên lập trường này, Kinh bộ thành lập những chủng tử, huân tập, và có thể đã là tiên phong cho Duy thức học trong các thể tài này. VIII. Tổng kết Phật giáo Nguyên thủy đã chối bỏ quan điểm có một linh hồn như là tự thể bất biến đồng thời cũng chối bỏ luôn cả chủ trương Duy vật Tâm lý học, và thừa nhận hoạt động của tâm lý là một quá trình phức tạp. Điều này đáng kể là một thành tích quan trọng về vấn đề Tâm lý học cổ đại ở Ấn Độ. Tuy nhiên, đó không phải là Tâm lý học thuần túy, mà còn là “sinh mạng quan” theo kiểu Phật giáo nữa; nó không phải dừng lại ở Tâm lý học thuộc phạm vi kinh nghiệm thông thường mà lại được xây trên một quá trình liên tục vô thủy vô chung của con người. Nhưng, mối liên lạc cho một quá trình liên tục vô thủy vô chung như vậy là gì? Đức Phật chỉ trả lời rằng: Nghiệp, và Ngài không quy định rõ. Điều này phát sinh nhiều giải thích khác nhau của những nhà Phật học về sau. Tựu trung lại, học chia nhau làm hai khuynh hướng. 1. Chủ trương Cơ giới luận với lập trường vô ngã. Phái này thường hay lấy thí dụ vòng lửa để cắt nghĩa sự liên tục, hay như một thí dụ khác: lửa bén cháy từ cây củi này sang cây củi khác, tương tục vô cùng, và cố nhiên không có củi thì cũng không có lửa tồn tại, nên lửa không phải tồn tại như là tự thể bất biến. 2. Phái thứ hai, như những nhà Độc tử bộ chẳng hạn, dựa trên chủ thuyết “sinh cơ”, cắt nghĩa sự tương tục ở phương diện lưu động. Và đến chỗ này, Phật giáo có vẻ như tiến gần đến chỗ thừa nhận có linh hồn theo kiểu nhận thức phổ thông, mà thực chất của nó ở Phật giáo lại không phải là cố định theo kiểu phổ thông ấy. Thích Tâm Huyền
  21. Đêm đông nọ, một sư già lạc bước đường, ngang một ngôi chùa, liền hỏi tá túc. Sư trụ trì cho ở. Trời quá lạnh. Sư già nhóm lửa sưởi ấm. Củi cháy hết. Nhìn quanh, sư già chẳng thấy gì để đốt thêm. Sư chạy vô điện. Hồi lâu, rinh ra một tượng phật gỗ, sư đốt lửa. Vị trụ trì chùa biết chuyện, chạy ra, nổi giận hỏi sư: -Tại sao sư lại đốt tượng thế?! Sư già chẳng nói, cầm cây củi khều khều trong đám lửa và tro than như tìm vật gì. Sư trụ trì thấy thế hỏi: -Ông tìm gì thế? Sư già từ tốn trả lời: -Tôi đang tìm xá lợi của Phật. Sư trụ trì lặng thinh chẳng nói. Lời bàn của LacTuong: Công nhiên đốt tượng ấy là lỗi trong con mắt phàm phu, lỗi ấy đáng trách. Nhưng lấy cớ ấy mà sân hận thì cũng là phàm phu khởi tâm. Phàm phu lấy hình tướng giả tạo mà chiêm bái, tưởng rằng đấy là chính đạo mà lẫn đường mê. Vì tìm đâu ra trí tuệ trong chiêm bái, kệ tụng? Việc ấy há chẳng khác chi mưu tìm xá lợi trong tượng gỗ sao? Thế gian biết có hạnh tuệ nhưng chẳng đi con đường tuệ như cá bắt bóng trăng, như lạy tượng mà cầu phúc hay tưởng thế là con đường đưa đến khai ngộ hay chứng quả. Thế là vẫn đọa địa ngục (mê vẫn hoàn mê). Lại bàn thêm, vả chăng nếu khổ hạnh thì cần chi sưởi ấm? Cần chi chùa tự? Nghĩ thế chắc cũng cạn đường suy, vì lẽ ấy chẳng hợp thời chăng? Máy lạnh, lò sưởi, máy bay, xe hơi...sư đều có cả, sư đều dùng cả. Vậy khổ hạnh ở đâu? Nghĩ vậy chắc cũng chẳng hợp nhẽ... LacTuong
  22. Thị trường chứng khoán VN trong tháng 9 AL sẽ khoảng bao nhiêu điểm? Ngày K.dậu 6 tháng K.mùi năm M.Tý giờ Thân an TỬ ĐẠI AN Hiện TTCK VN đang bị chựng lại và giảm mạnh. Hết tháng 6 AL này thì có thể sẽ qua. Đến tháng 9 AL điểm số sẽ ở trong khoảng 500 - 900 điểm, thấp nhất là 500 điểm. Cùng lúc ấy thị trường nhà đất những biến động tích cực, nhưng có tính chất tạm thời. LacTuong :( :P
  23. Thứ bảy, 05 Tháng bảy 2008, 18:59 GMT+7 http://vietbao.vn CON NGƯỜI Đà MANG GIÀY TỪ 40.000 NĂM TRƯỚC Nghiên cứu nhân chủng học mới đây tiết lộ loài người bắt đầu mang giày cách đây khoảng 40.000 năm, sớm hơn nhiều so với người ta từng nghĩ. Quần áo nói lên nhiều điều về người mặc. Hiện nay, các nhà nhân chủng học đang tìm kiếm những thay đổi thể chất gây ra do mang giày để hình dung ra khi nào giày trở thành mốt thời trang. Hóa ra, quần áo thực sự làm nên con người, ít nhất là đối với đôi bàn chân. Đó là vì mang giày thay đổi cách con người bước đi và cách phân bố trọng lượng cơ thể. Nếu bạn đi giày đều đặn, như phần lớn mọi người ngày nay, những thay đổi này phản ánh lên xương và dây chằng. Susan Cachel, nhà nhân chủng học tại ĐH Rutgers, New Jersey cho biết khoa học đã biết về ảnh hưởng của đi giày lên chân kể từ đầu thế kỷ 20. Các nhà nghiên cứu phát hiện nhiều sự khác biệt giữa những người đi giày thường xuyên và người không. Ví dụ, đi giày chật dẫn đến sưng tấy ở ngón chân cái, tức sự phồng to đau đớn của xương hoặc mô trong ngón chân cái. Những người không đi giày có chân rộng hơn và khoảng cách giữa ngón cái và các ngón còn lại lớn hơn. Những phụ nữ đi giày cao gót lâu sẽ có cơ bắp chân nhỏ hơn. Erik Trinkaus, nhà nhân chủng học tại ĐH Washington, St. Louis, là người đầu tiên áp dụng kiến thức này về việc thời trang thay đổi cơ thể người vào nhân chủng học. Ông phát hiện một thời điểm trong lịch sử con người mà kích cỡ xương ngón chân bắt đầu thu lại. Kết hợp dữ liệu với kiến thức về giày dép ảnh hưởng cách con người bước đi, Trinkaus lý giải rằng xương ngón chân nhỏ có nghĩa là con người đã bắt đầu đi giày. Trong khi những đôi giày cổ xưa nhất còn đến ngày nay khoảng 10.000 năm tuổi, phát hiện của Trinkaus đẩy lùi thời gian chấp nhận giày đến 30.000 năm. Ông xuất bản nghiên cứu của mình vào năm 2005. Hiện nay, nhờ vào bản phân tích sẽ xuất bản vào tháng 7 năm 2008 trên tờ Journal of Archaeological Sciene, Trinkaus phát hiện rằng thời điểm con người đi giày có thể lâu hơn nhiều, cách đây 40.000 năm. Xương dày xương mỏng Giả thuyết của Trinkaus được dựa trên một sự thực đơn giản: Cỡ xương không bị ảnh hưởng bởi đá. Tim Weaver, nhà nhân chủng học ĐH California, cho biết “Xương, ít nhất ở một mức nào đó, phản ứng lại những tác động cơ học trong cả một đời người. Ví dụ nếu bạn tập luyện ở phòng tập, không chỉ cơ bắp lớn hơn mà xương của bạn cũng dày hơn.” Trong phần lớn lịch sử loài người, con người có xương ngón chân to, dày. Trinkaus cho rằng đây là bởi vì họ đi, leo trèo và mang vác nhiều hơn chúng ta ngày nay. Thực ra, tất cả xương chân của họ đều to hơn, với cùng một lý do. Điều này đúng cả với người Neanderthal và người hiện đại thuở sơ khai nhất. Nhưng, cách đây khoảng 40.000 năm, điều này bắt đầu thay đổi. Trinkaus chú ý thấy xương từ thời này vẫn có xương chân dày, khỏe nhưng các ngón của họ đã trở nên nhỏ hơn. “Họ có ngón chân nhỏ.Tôi cố hình dung ra điều gì đã lấy đi áp lực lên các ngón, chứ không phải trên chân, câu trả lời là giày.” Những đôi giày đầu tiên, những thợ may đầu tiên Trong khi Weaver đồng ý với giả thuyết của Trinkaus, Cachel không bị thuyết phục. Bà chỉ ra rằng không lâu sau khi thời gian Trinkaus nghiên cứu, con người rõ ràng dừng hoạt động tích cực và tất cả xương chi, không chỉ ngón chân, bắt đầu thu nhỏ. “Nếu xương bàn chân nhỏ hơn, điều này có lẽ phản ánh đi lại và các hoạt động thể chất ít hơn là sự phát minh ra giày.” Cả Weaver và Cachel nghĩ rằng sẽ có lý khi cho rằng giày xuất hiện vào thời điểm mà Trinkaus đề nghị. Khoảng 40.000 và 30.000 năm trước, văn hóa nhân loại phát triển mạnh mẽ. Weaver cho biết “Chứng cứ khảo cổ cho thấy nhiều thay đổi, bao gồm loại hình công cụ mọi người sử dụng và những tác phẩm nghệ thuật đầu tiên, cả những cái kim xưa nhất dùng để may quần áo xuất hiện không lâu sau đó.” Và Cachel cho biết đây có lẽ thời gian bùng nổ dân số cho phân công lao động, có nghĩa là lần đầu tiên, một ai đó có thể dành toàn thời gian để làm ra quần áo tốt hơn, cầu kỳ hơn. “Có vẻ có lý khi xuất hiện sự thay đổi trong giày dép xung quanh khoảng thời gian này. Nhưng trước công trình của Erik Trinkaus chúng tôi không có chứng cứ trực tiếp.”
  24. Thứ bảy, 16 Tháng mười hai 2000, 18:16 GMT+7 "http://vietbao.vn" Các nhà thiên văn học đã phát hiện thêm bốn vệ tinh đang bay theo quỹ đạo quanh sao Thổ, nâng tổng số các vệ tinh được biết tới xung quanh hành tinh khí khổng lồ này lên 28, vượt hơn nhiều các hành tinh khác. Những khám phá liên tiếp về các vệ tinh mới đã khiến cho sao Thổ trở thành một hành tinh không có “đối thủ” trong tốc độ tìm kiếm “họ hàng”. Số vệ tinh được ghi nhận chính thức xung quanh sao Thổ đã tăng lên mười trong vòng chưa đầy ba tháng. Chỉ trong 18 tháng qua, số lượng vệ tinh của hành tinh khổng lồ này đã lớn hơn gấp đôi so với trước đây. J.J. Kavelaars, người đã góp phần trong việc tìm ra mười vệ tinh mới đây nhất của sao Thổ cho biết “Lý do giải thích cho việc phát hiện nhỏ giọt và đều đều như vậy là do chúng tôi tìm thấy tất cả những vệ tinh này bằng kính thiên văn Hawaii. Các vệ tinh quá mờ nhạt đến nỗi phải mất một thời gian mới quan sát lại được chúng bằng các kính thiên văn khác”. Các vệ tinh này khá khác biệt so với những vệ tinh lớn hơn từng được biết rõ trước đây. Quỹ đạo của chúng nghiêng mạnh so với vành đai xung quanh và đường xích đạo của sao Thổ, một số trong đó có dạng elip rõ ràng. Một vài vệ tinh chuyển động cùng hướng với sao Thổ, số khác quay theo chiều ngược lại. Những vệ tinh mới được phát hiện cách sao Thổ từ 10 đến 20 triệu kilomét. Các nhà thiên văn dự đoán rằng đường kính của chúng nằm trong khoảng từ vài kilomét đến 50 kilomét. Quỹ đạo không bình thường của các vệ tinh cho thấy, có lẽ sao Thổ đã hút các vệ tinh này sau khi chúng được hình thành. Bích Hạnh (theo CNN, 16/12).
  25. Thứ tư, 14 Tháng ba 2007, 11:23 GMT+7 "http://vietbao.vn" VŨ TRỤ LÀ MỘT CHỈNH THỂ Hình ảnh radar do NASA công bố cho thấy các vùng chứa chất lỏng màu xanh trên bề mặt Titan - mặt trăng lớn nhất của sao Thổ - Ảnh: APLần đầu tiên các nhà khoa học phát hiện nhiều vùng chứa chất lỏng, có lẽ là methane hoặc ethane, trên bề mặt mặt trăng lớn nhất của sao Thổ, trong đó có một vùng rộng lớn tương đương bang Montana của Mỹ. Phát hiện - do tàu thăm dò Cassini ghi nhận - đã khiến nhiều nhà nghiên cứu phấn khích. Các nhà nghiên cứu này cho rằng mặt trăng Titan của sao Thổ có các biển hydrocarbon do trong bầu khí quyển của nó có sự hiện diện của methane hay các hợp chất hữu cơ khác. Tuy nhiên cho đến nay, tàu Cassini chỉ mới phát hiện những hồ nhỏ trên mặt trăng này. “Chúng rất rõ ràng. Không có gì nghi ngờ về chúng”, nhà khoa học Jonathan Lunine thuộc Trường ĐH Arizona, Tucson nói. Mặt trăng Titan là một trong số các vật thể mới bên ngoài Hệ mặt trời có một bầu khí quyển đáng kể, và các nhà khoa học đã mất khá nhiều công sức nhằm khám phá về nó. Methane trên Trái đất ở dạng khí, dễ cháy nhưng lại ở dạng lỏng trên Titan do áp lực không khí và cái lạnh khắc nghiệt trên mặt trăng này. TƯỜNG VY (Theo AP)