-
Số nội dung
6.278 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
75
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Thiên Đồng
-
gửi Trananh, Tất cả các môn bói của phương Đông đều dùng Âm Lịch, gọi là lịch Ta để phân biệt với lịch Tây. Tây cho rằng lịch của...Tây là Lịch mặt trời (calendrier solaire) và gọi là lịch Ta là lịch mặt trăng (calendrier lunaire). Thật ra, lịch Ta là lịch vừa mặt trăng vừa mặt trời. Cho nên Ta độn quẻ theo lịch...Ta. Quẻ của Tran anh như vậy là nhằm 12/7/M.Tý giờ Mùi vậy là Đỗ Đại An Quẻ này là được một nguồn lợi ổn định dài lâu, nếu không thì là nguồn lợi...bự!. Đại lợi. Nhận lời đi! ;) :P LacTuong B)
-
Thiệt là một tư liệu hay! nhưn mờ sao nhớ hết, chời? Chắc lập ra bộ tự điển "Kiêng" mới được à nghen! Hay à nghen! :P :lol:
-
Sư Phụ, Thời buổi "hại điện" ngày nay thông tin đi rất nhanh, tốc độ... "hàng vạn cây chuối trên giờ". Mình mà hó hé ra cái gì là ngày hôm sau đều được dịch ra tiếng Hoa, Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Ả Rập...cả Thiên Hà điều biết. Và vấn đề bản quyền như vậy thật là...khốn nạn. Biết đâu việc đổi chổ Tốn - Khôn của Sư Phụ, 100 năm sau được sách Tàu đạo lại và khẳng định là của Trung Hoa thì sao? Lúc chắc sẽ có một truyền thuyết rằng "Vào đầu thế kỷ XXI, ngài Đạo Văn một lần ngẫm nghĩ Lý học đông phương, rồi ngước mặt lên trời xem thiên tượng, liền thấy một vầng sáng tròn to lớn rực rỡ từ Thiên Hà bay xuống, trong tít tắc đáp ngay trước mặt Đạo Văn. Đạo Văn nhíu con mắt định thần nhìn kỷ thì thấy từ trong vật tròn khổng lồ ấy dần dần đi ra một người với vầng hào quang bao quanh. Sau ba lần chuyển ngữ, "người trời" mới chuyển sang tiếng Trung Quốc mà nói rằng " Ta là Thiên Sứ, đem đến cho ngươi một nguyên lý huyền vĩ để lưu truyền hậu thế phương Nam". Nói rồi liền chỉ tay về phía vật tròn, một luồng tia hồng ngoại phát ra, chạm vào vật thể quái dị ấy, vật thể liền sáng rực thêm hơn, rồi liền hiện lên trên mình vật thể tròn ấy rỏ mồm mộp là 8 quái Hậu Thiên mà trên ấy Tốn - Khôn đã đổi chổ cho nhau. Trong tít tắc, Thiên Sứ biến vào vật thể lạ. Vật thể sáng rực rồi vụt bay trở lại Thiên Hà. Đạo Văn còn nghe văng vẳng bên tai "Hãy nhớ lấy điều ta dạy". Đạo Văn sau đó liền 3 lần ghi lại và nhân bản ra thành nhiều phiên bản mà khẳng định rằng thuộc văn minh Trung Hoa. Hic! Nay lại thêm giải nghĩa vì sao an Cung mệnh theo như vậy thì e rằng bản quyền chưa chính danh mà đã bị chôm mất. Nguy thay nguy thay!!! :lol: LacTuong :P
-
Gửi Ocbuou, Nhắn thêm với anh bạn của Ocbuou rằng bỏ tiền đầu tư phải thận trọng,kẻo mất vốn bởi bị lừa. Học Lạc Việt độn toán tương đối dể hơn các môn khác như Dịch,Tử Vi...Ocbuou cứ học tự ngẫm sẽ rất hay. :P LacTuong :lol:
-
Gửi Ocbuou, Ngày K.Sửu th C.Than năm M.tý giờ tý an Khai Đai An Trong năm sau anh ấy có thể xoay sở được không ? Được, sẽ xoay sở được một số tiền khá lớn. Tháng 7 AL năm sau sẽ được. 3. Có nên đầu tư thêm vào thị trường vào năm tới không ? Hưu Lưu Niên Không nên sẽ chôn vốn dài lâu mà chẳng sinh lợi. 4. Chuyện lập gia đình có tốt đẹp không ? Sinh Tốc Hỷ Mọi sự sẽ được sẳn sàng, sớm là tháng 2 AL cưới, trể là tháng 3 AL cười. Chúc hạnh phúc :P LacTuong :lol:
-
Cả làng làm thơ Những đứa trẻ chăn bò trong làng Chùa (xã Sơn Công, huyện Ứng Hòa, Hà Tây) cũng tranh thủ đọc thơ - Ảnh: Lâm Hoài (Tuổi trẻ) Dân làng này từ đứa trẻ 4-5 tuổi đến các cụ già ngoài 80 đều có thể là nhà thơ. Họ không chỉ có một “đài phát thơ” mà còn mời thi nhân trong và ngoài nước về làng cùng... ngâm thơ. Ra ngõ gặp…nhà thơ! Buổi chiều bên bờ sông Đáy đang vào vụ mùa thu hoạch nên trên con đê dẫn vào đầu làng, hàng trăm người tập trung bó rơm, gặt lúa. Lạ một điều là cả cánh đồng đều vang vọng tiếng đọc, tiếng ngâm thơ thật trữ tình. Khắp con đường vào làng cũng giăng đầy apphich cổ động chỉ toàn bằng thơ: “Đường làng đâu của riêng ai/ Cùng nhau gìn giữ hôm mai đi về…”. Chúng tôi hỏi thăm một chị bán nước bên đường về chuyện những tấm apphich thơ, chị không trả lời mà lại... đọc thơ: “Làng này già trẻ gái trai/ Làm thơ bất kể là ngày hay đêm…”. Khi đến trước nhà trưởng thôn, chúng tôi thấy một bà mẹ đang lấy cây đánh con và mắng con ra rả. Ông chồng đang xúc lúa gần đấy, không ra tay can ngăn mà lại điềm nhiên ngâm thơ: “Dạy con không dạy bằng lời/ Bà dùng roi đánh tơi bời thế a/ Chửi con bới cả ông cha/ Con hư hay chính cả bà cũng hư”. Người đàn bà liếc xéo chồng một cái nhưng cũng thôi đánh con! Và trời ạ, một nhóm trẻ con khoảng 5-6 tuổi chơi gần đấy thấy chúng tôi đang lấp ló ngoài cổng đã vội vàng chạy vào nhà trưởng thôn, ứng khẩu ngay: “Bác ơi, có khách đến nhà/ Nhìn qua thì biết ở xa mới về…”. Ông Lê Xuân Sủng - trưởng thôn Hoàng Dương (xã Sơn Công, huyện Ứng Hòa, Hà Tây), hội phó Hội thơ làng Chùa - cười bảo: “Lạ một điều có những việc nói bằng lời không tác dụng nhưng dùng thơ rất hiệu quả chú ạ”. Ông Sủng kể trong thôn trước đây có trường hợp một anh con trai bỏ bê cha mẹ già không chăm sóc. Người trong làng biết chuyện, gửi ngay cho anh ta… một bài thơ: “…Cha mẹ sống trông nom chiếu lệ / Nuôi vài năm thì kể công lao/ Cụ sống thì chẳng muốn nuôi/ Cụ qui tiên lại lôi thôi vẽ vời/ Tổ cho làng xóm chê cười/ Hiếu mà như vậy ai ơi xin đừng”. Sau lần nhận được bài thơ này, mọi người thấy anh con trai đã thay đổi hẳn, biết quan tâm, lo lắng cho cha mẹ mình hơn trước. “Thi đàn” nông dân Ông Lê Xuân Sủng cho biết làng đã chính thức in được hai tập thơ là Thơ làng Chùa và Đất ngàn năm với hơn 700 bài. Còn thơ dạng viết tay hay các tập thơ in vi tính thì có đến cả trăm cuốn và hàng ngàn bài được lưu giữ ở nhà văn hóa của làng. Từ năm 1982, ở làng đã thành lập hẳn một “thi đàn” riêng cho mình: đó là Hội thơ làng Chùa với trên 50 hội viên được xét kết nạp là những người được dân làng nhìn nhận có nhiều bài thơ hay nhất. Hằng tuần, dân làng dành hẳn đêm thứ năm làm buổi “thơ trực tuyến” để tổ chức đọc, bình những bài thơ hay, góp ý, hướng dẫn sáng tác thơ cho các “thi sĩ nông dân”. Ngay cả những vấn đề thời sự trong nước, các “phát thanh viên” cũng làm thơ nóng hổi. Nhiều nhà thơ nổi tiếng như Phạm Tiến Duật, Trần Ninh Hồ... từng được mời về làng nói chuyện thơ ca. Vừa rồi nhà thơ nổi tiếng của Mỹ Bruce Weigl sang VN cũng tìm đến làng Chùa để nghe thơ. Cuối năm 2005, làng phát động cuộc thi thơ dành cho lứa tuổi học trò. Giải thưởng trị giá chỉ 100.000-200.000 đồng nhưng ban tổ chức đã nhận được gần 500 bài thơ gửi về. Tác giả nhỏ nhất là cô bé mới 4 tuổi và cao tuổi nhất là ông cụ đã ngoài 80! Ông Sủng đưa cho tôi xem bài thơ của em Ngô Thị Thoa, một học sinh lớp 9 mồ côi mẹ, bài thơ được trao giải nhất cuộc thi thơ: “… Người ta vá áo bằng kim/ Mẹ ơi con hỏi vá tim bằng gì?... Trăng buồn còn có bạn sao/ Tôi buồn chẳng có bạn nào trăng ơi/ Trăng treo lơ lửng giữa trời/ Còn tôi sống giữa cuộc đời buồn tênh…”. Làng Chùa đang chuẩn bị xây dựng một “trung tâm thi đàn” khá qui mô và nên thơ ở hồ sen giữa làng. Đây sẽ là nơi gặp gỡ, trao đổi thơ ca của người dân sau giờ đan nong, làm ruộng. Và tỉnh Hà Tây cũng đang có đề án gửi các ngành chức năng công nhận làng Chùa là làng thơ đầu tiên của cả nước. Theo Tuổi trẻ (Thứ Năm, 26/10/2006-3:58 PM)
-
Sự ra đời của hệ Mặt Trời Tác giả: Đặng Vũ Tuấn Sơn 27/08/2007 Việc tìm kiếm quá khứ của hệ Mặt Trời đã xuất hiện và trở thành một vấn đề hấp dẫn từ những thế kỉ 18,19 với nhiều cuộc tranh cãi. Việc nghiên cứu về sự ra đời của hệ Mặt Trời với các hành tinh của nó cùng các vệ tinh, các tiểu hành tinh, sao chổi, thiên thạch … đòi hỏi phải trả lời được nhiều câu hỏi về cấu trúc cũng như những tính chất lí hoá mà chúng ta đã biết như: Tại sao các hành tinh có cùng một mặt phẳng quĩ đạo và tại sao chúng chuyển động theo cùng một hướng, yếu tố nào gây ra sự liên quan giữa sự quay của Mặt Trời và các hành tinh hay nguyên nhân sự phân bố xung lượng từ Mặt Trời tới các hành tinh quay quanh nó là gì … Nỗ lực trả lời các câu hỏi này đã dẫn đến nhiều ý tưởng và giả thuyết khác nhau về sự hình thành hệ hành tinh của chúng ta. Các lí thuyết cổ điển Trước hết là thuyết tinh vân do Immanuel Kant* sáng lập và được hoàn thiện bởi Laplace* vào cuối thế kỉ 18. Thuyết này cho rằng hệ Mặt Trời ban đầu chỉ là một đám tinh vân (nebula) bao gồm khí và bụi. Đám tinh vân này tự quay quanh trục một cách chậm chạp. Mọi vật thể đều có lực hấp dẫn hướng tâm - tức là lực hấp dẫn hướng thẳng vào tâm vật thể. Lực này làm đám tinh vân quay ngày một nhanh, mật độ vật chất tăng lên do thể tích giảm xuống, tinh vân tụ lại thành một thiên thể dạng cầu – đó chính là Mặt Trời. Khối cầu Mặt Trời tiếp tục quay nhanh. Một bộ phận vật chất nhận được lực li tâm đủ lớn để thắng được hấp dẫn vào tâm tách ra khỏi Mặt Trời sơ khai trở thành các vành vật chất (ring). Trong mỗi vành này, hẫp dẫn lại đóng vai trò tập hợp vật chất thành các khối cầu lớn, đó là các hành tinh. Sự việc diễn ra tương tự đối với việc hình thành các vệ tinh từ sự quay của hành tinh. Việc tách vành vật chất thành các thiên thể nhỏ hơn được dừng lại khi lực li tâm sinh ra do sự quay của thiên thể không đủ lớn để thắng được hấp dẫn bản thân của thiên thể đó. Lí thuyết này không giải thích được yếu tố về sự phân bố xung lượng của các hành tinh khi chuyển động trên quĩ đạo Với cố gắng giải thích yếu tố này, đầu thế kỉ 20 đã có 2 lí thuyết được đề ra với cùng một ý tưởng chung là do sự tương tác của một ngôi sao di chuyển gần Mặt trời gây ra sự xuất hiện các hành tinh. Lí thuyết va chạm do Chamberlin* và Moulton* đề ra vào những năm đầu tiên của thế kỉ 20 cho rằng đã có một ngôi sao đi qua và có thể đã va chạm với Mặt Trời. Sự va chạm này gây ra những đợt triều (như thuỷ triều trên Trái Đất) lớn trên bề mặt của Mặt Trời. Các chấn động đó làm một lớp vật chất tách khỏi Mặt Trời và chuyển động trên các quĩ đạo elip. Khí và bụi tập hợp lại trên mỗi quĩ đạo tạo ra những thiên thể rắn, các quĩ đạo dần đi vào ổn định, các thiên thể rắn này trở thành các hành tinh. Năm 1918, James Jeans* và Harold Jeffreys* đề xuất lí thuyết triều, là một biến thể khác của lí thuyết va chạm nói trên. Giả thuyết này nói rằng trên bề mặt Mặt Trời đã xuất hiện một đợt triều lớn do một ngôi sao đi qua gần nó. Sức hút hấp dẫn của ngôi sao này cuốn khí và bụi từ Mặt Trời sơ khai thành các dòng chảy với khối lượng và kích thước khác nhau trên các quĩ đạo elip. Các dòng vật chất này, sau khi cô dặc lại, tạo thành hình dáng là các hành tinh như ngày nay. Lí thuyết này cũng vẫn chưa giải thích được sự phân bố xung lượng của các hành tinh. Lí thuyết hiện đại Lí thuyết hiện đại quay lại với giả thuyết tinh vân của Laplace để giải thích cho sự phân bố xung lượng từ Mặt Trời đến các hành tinh.. Tinh vân đó được xem như một hạt nhân đậm đặc bao quanh bởi một lớp khí và bụi mỏng. Lí thuyết này giống với lí thuyết do Gerard Kuiper* đưa ra, trong đó tinh vân xuất hiện sự quay không ổn định. Dưới tác dụng của các lực li tâm cùng với chuyển động nhiễu loạn của các đợt triều trên bề mặt, nó tách ra các đám bụi tiền hành tinh (protoplanet) chuyển động quanh tâm chung, các đám bụi tiền hành tinh này co đặc lại thành các hành tinh. Hiển nhiên giả thuyết này của Kuiper không giải thích được sự khác biệt đặc trưng về lí-hoá của các hành tinh. Lí thuyết hiện đại do một nhà khoa học khác là H.C. Urey* đưa ra. Giả thuyết này cho biết các hành tinh được hình thành ở nhiệt độ thấp khoảng 1200 đến 2200 độ C (chứ không phải ở nhiệt độ cao cùng với Mặt Trời như các giả thuyết nêu trên). Urey đề xuất rằng nhiệt độ này là vừa đủ. Nó đủ lớn để duy trì hoạt động của các chất khí như hydro hay heli, nhưng cũng đủ nhỏ để không làm nóng chảy các kim loại như sắt, silic. Dưới tác dụng của hấp dẫn, các đám bụi trên các quĩ đạo tập hợp lại với nhau, trở thành các tiền hành tinh. Lúc này nhiệt độ bắt đầu tăng cao, các kim loại nặng có xu hướng chìm sâu vào tâm khối vật chất và trở thành nhân nóng chảy của hành tinh, lớp ngoài gồm các nguyên tố nhẹ hơn nguội dần tạo thành lớp vỏ. Với các hành tinh ở xa, các chất khí phía ngoài như metan, ammoniac… bị đẩy xuống nhiệt độ rất thấp, chúng đóng băng lại ngăn cản sự tiếp cận của các nguyên tố nặng. Các hành tinh như thế trở thành các thiên thể có kích thước lớn với tỷ trọng khá thấp (như sao Mộc, sao Thiên Vương, …) Năm 1995, lần đầu tiên con người nghiên cứu về một hệ hành tinh ngoài hệ Mặt Trời của chúng ta , hệ 51 Pegasi*. Việc nghiên cứu những hệ hành tinh như thế đã cho thấy nhiều điểm tương đồng với những gì do lí thuyết hiện đại đề ra. Tuy nhiên, nhân loại cũng cần dừng lại và suy xét kĩ hơn về những nền tảng được nghiên cứu. Tại các hệ hành tinh đó, có những hành tinh nhỏ hơn sao Diêm Vương, có những hành tinh nhiều lần lớn hơn sao Mộc, cũng có những quĩ đạo gần sao mẹ hơn quĩ đạo của sao Thuỷ và có cả những quĩ đạo tròn hơn nhiều quĩ đạo các hành tinh của chúng ta. Điều đó nói lên rằng có một sự sai khác trong cơ cấu phân bố động lượng của các hệ đó, có nghĩa là bản thân sự ra đời của chúng có thể không hoàn toàn giống hệ Mặt Trời của chúng ta. Tất cả những điều này khiến lí thuyết hiện đại nêu trên cũng không tránh khỏi việc bị đưa ra xem xét lại và các cuộc tranh cãi có lẽ sẽ còn rất lâu mới chấm dứt.
-
GIỚI TÍNH TRONG NGHỆ THUẬT PHẬT GIÁO TẠNG TRUYỀNTaraNhân đại lễ Vesak 2008, vừa qua Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam phối hợp với nhà sưu tập Dương Phú Hiến đã cống hiến cho công chúng Hà Nội một cuộc trưng bày chưa từng có về nghệ thuật Phật giáo châu á. Với một số lượng lớn về tượng Phật Tạng truyền, triển lãm đã đem lại cho công chúng từ sự kinh ngạc này tới sự kinh ngạc khác (1). Rất nhiều câu hỏi được đặt ra trong triển lãm, gom góp những kiến thức rời rạc, bài viết tập trung vào việc giải thích một trong những lý do làm triển lãm thành một sự kiện văn hóa nổi bật nhất tháng 5 vừa qua. Phật giáo Tạng truyền là khái niệm ban đầu chỉ dòng Phật giáo lưu truyền ở Tây Tạng, Nepan, Bhutan, Sikkim. Giới tính trong nghệ thuật Phật giáo Tạng truyền là một chủ đề nghiên cứu rất thú vị; vì tôn giáo nói chung không mặn mà với vấn đề giới tính, tình dục, cứu cánh của tôn giáo không ở trên giường mà là ở trên thiên đường. Phật giáo là một tôn giáo hướng đến sự bình đẳng không phân biệt thành phần xuất thân, đẳng cấp xã hội. Nhưng Phật giáo nguyên thủy không đặt ra vấn đề bình đẳng giới. Phật giáo vốn là tôn giáo rất linh hoạt, khi vượt qua những dãy núi cao ngất quanh năm tuyết phủ của dãy Himalaya đã hòa nhập với tín ngưỡng và văn hóa bản địa nơi đây tạo nên những hình tượng nghệ thuật Phật giáo vô cùng đặc sắc. Một trong những điều làm nghệ thuật Phật giáo Tây Tạng mê hoặc người xem chính là sự cường điệu nhân tố giới tính. Hay nói theo cách của giới trẻ là rất sexy. 1. Sơ lược vài nét về nghệ thuật Phật giáo. Phật giáo tuy hình thành từ thế kỷ thứ 5 trước công nguyên nhưng thoạt đầu là tôn giáo không chủ trương lập tượng. Đức Phật ban đầu được thờ phụng với hình thức biểu tượng như Bánh xe hay chiếc ngai. Cho đến thế kỷ thứ nhất sau CN, tôn giáo Đại Thừa tại Tây Bắc ấn Độ bắt đầu hưng khởi, việc thờ các ngẫu tượng mới bắt đầu xuất hiện. Phật giáo Đại thừa dùng nghệ thuật tạo hình như một phương tiện để truyền giáo. Đây là lý do sự bùng nổ các loại tượng Phật của Phật giáo đại thừa. “Nghi lễ giáo lý nhấn mạnh đến “ quán” và “quán tưởng”, tín đồ khi tập trung ý chí để xem một bức tranh hay một bức tượng, sau đó thông qua thiền định, đạt tới “ tâm nhãn” nhìn thấu cảnh giới chân tướng của Phật và Bồ Tát, nhờ đó lĩnh ngộ được sự vĩ đại của Phật pháp. Trong quá trình này thì các tượng thờ không chỉ là hình ảnh thay thế của Phật hay Bồ tát, nó còn là một loại “ vật dẫn đạo”.(2) Bởi vậy, Phật giáo buổi đầu đến Trung Quốc còn có tên gọi tượng giáo để phân biệt với Đạo giáo một tôn giáo bản địa thoạt đầu không lập tượng thờ. Với Đại thừa Phật giáo, không có tôn giáo nào có thể sánh được về sự phong phú về chủng loại và sự đa dạng về phong cách. Và trong Phật giáo Tạng truyền số lượng các loại tượng Phật còn đông gấp bội. Thông thường có từ 300 tới 500 loại tượng Phật. Năm thứ ba đời vua Càn Long nhà Thanh, Chương Gia, quốc sư đã chủ biên bộ sách “ Tam bách tượng Phật tuyển” phỏng theo cách thức quy định của Phật giáo Tạng truyền. Năm 2007 cuộc trưng bày bộ sưu tập 100 hiện vật nghệ thuật Phật giáo Tạng truyền của ngôi chùa Bạch Tháp tự nổi tiếng (Bắc Kinh) tại thành phố Thâm Quyến tại Bảo tàng Thâm Quyến. 100 hiện vật hàng quốc bảo được tuyển chọn từ hơn một vạn hiện vật đã được phân chia thành 7 nhóm tượng chính yếu. Một. Tượng Tổ sư. Hai. Tượng. Mật tu bản tôn. Ba. Tượng Phật mẫu. Bốn. Tượng Phật tổ. Năm. Tượng Bồ tát. Sáu. Tượng La Hán. Bẩy. Tượng Hộ pháp. Nghệ thuật Phật giáo Tạng truyền mãi mãi là một sức hấp dẫn đầy ma lực của nghệ thuật Phật giáo. Triển lãm này tiếp sau triển lãm năm 2004 tại Dung Hòa Cung ở Bắc Kinh đã cho công chúng chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật Phật giáo Tạng truyền. Sự say mê của nghệ thuật Phật giáo này có phần bởi sự hấp dẫn của những nhân tố giới tính trên hệ thống đồ tượng, 2. Sự cường điệu giới tính trong nghệ thuật Phật giáo Tạng truyền. Những bức tượng Phật hiện diện gần như khỏa thân là điều chưa từng biết đến ở Việt Nam. ở Việt Nam tượng Thích Ca sơ sinh là tượng Phật hài đồng mới không mặc quần áo. Nhưng hiện nay nhiều chùa bắt tượng này khoác một chiếc áo choàng. Nên phần đông công chúng tới thăm triển lãm đều không ít băn khoăn, thậm chí có người còn cho rằng nó không phải là tượng Phật. Có hai loại tượng gây sốc về giới tính trong triển lãm này: một là tượng Phật nữ gần như khỏa thân, hai là tượng song thân một nam một nữ dính chặt vào nhau. Trước tiên xin đề cập tới tượng Độ mẫu Tara có nguồn gốc từ ấn Độ sau đó phát triển rất mạnh ở Tây Tạng. Trong triển lãm Nghệ thuật Phật giáo châu á vừa qua, chú thích ban đầu cho bức tượng chỉ ghi đơn giản “ tượng Phật” đã làm thắc mắc bao khán giả. Tượng với đôi gò bông đảo căng phồng, bụng thon mông nở, đùi căng mặt tươi rói gợi cho ta hình ảnh của một thanh nữ hơn là những khuôn mặt tiết hạnh, trìu mến ân cần của các tượng Phật bà quan âm. Theo “ Tạo tượng độ kinh”(3) phần qui định về hình tượng Độ mẫu ghi rõ “ hình tướng như các cô gái đồng trinh tuổi mười sáu”. Vẻ đẹp của tượng Độ mẫu làm người viết không khỏi liên tưởng tới chất nhục cảm của các pho tượng Tứ Pháp Việt Nam. Nhưng Tây Tạng trong lịch sử không bị sự kiềm tỏa của Nho giáo như Việt Nam nên chất nhục cảm không phải ẩn giấu mà cứ phơi phới, hừng hực phô bày. Độ mẫu Phật có nhiều loại theo mỗi mầu khác nhau mà theo đó có những công năng và ý nghĩa cầu chúc khác nhau như mầu xanh, mầu trắng mầu đỏ, mầu vàng. Cách biểu thị đa dạng mầu sắc này cũng lại làm ta nhớ tới cách tô mầu tượng Bà Mây bà Mưa, Bà Sấm, Bà Chớp trong tín ngưỡng Tứ Pháp hay cách tô mầu cho các vị tượng Mẫu của người Việt (4) Một pho tượng đồng khá lớn trong triển lãm này cũng làm người xem bối rối là bức tượng Vajrayogini trong hình ảnh của một cô gái khỏa thân hiên ngang mạnh mẽ. Đây là một biểu tượng của chiến thắng vô minh của Phật giáo. Tượng này có khởi nguồn từ ấn Độ khoảng thế kỷ thứ 10-12. Cũng giống như Tara, hình ảnh của Vajrayogini là một cô gái 16 tuổi trăng tròn, ngực để trần, căng mọng hiên ngang đứng thẳng trong quầng lửa mặt hướng lên trời. So với các nền nghệ thuật Phật giáo trên thế giới, tượng Phật Tạng truyền rất đàn ông và cũng rất đàn bà. Về điểm này Phật giáo Trung Hoa lại phát triển theo hướng nhòe mờ giới tính. Các bức tượng không những bị phủ kín vải vóc mà ngay cả các khuôn mặt các tượng Phật vốn là nam cũng dần mang chất nữ. Xu hướng suy giảm giới tính này của nghệ thuật tượng phật Trung Hoa biến chuyển từ Tây sang Đông, từ Nam Bắc triều đến thời Tống Minh. Chẳng hạn như tượng đức Phật ở Vân Cương, Đại Đồng tỉnh Sơn Tây thời Bắc Ngụy thì còn vẻ uy nghi cương nghị của một nam nhi. Càng về sau và càng đi vào sâu trong lục địa, tượng Phật Trung Hoa càng mềm mại hơn. Khuynh hướng này cũng đã ảnh hưởng ít nhiều tới tượng Phật Việt Nam. Xu hướng nữ hóa các tượng Phật về thực chất là sự trung hòa giới tính trong nghệ thuật Phật giáo thế giới, nó đã diễn ra ở rất nhiều nền nghệ thuật Phật giáo, kể cả Thái Lan, Lào, Cămpuchia, những đất nước của Phật giáo tiểu thừa. Nếu như tượng Độ mẫu hay tượng Quan âm thể hiện sự mềm mại, dịu dàng của nữ giới thì tượng Kim Cương (Vajrapani) - (5) lại là thái cực ngược lại thể hiện sự mạnh mẽ, quyết liệt. “ Vajra nhận lấy đặc tính của kim cương mà ý nghĩa của nó là đức tính tinh khiết bất diệt, còn gọi là tri thức tuyệt đối hoặc là tuệ, cắt đứt vô minh”. (6) Nhóm tượng thứ hai, tượng Song thân Phật phần lớn làm bằng vàng hay hợp kim vàng là tượng. Song thân Phật hay cũng gọi là tượng Hoan hỉ Phật là cách gọi không thực sự chuẩn của Trung Quốc đại lục đã từ lâu. Tượng có cấu trúc của một hình nữ và một nam. Từng có một thời ở Trung Quốc lục địa gắn cho tượng này với ý nghĩa dâm lạc. Đây là loại tượng đồ rất tiêu biểu của Phật giáo Tạng truyền, thể hiện sâu sắc minh triết về giới tính của Phật giáo Mật tông, biểu tượng cho hai nhân tố âm dương đối đãi, và nó không liên quan gì tới những hành vi dâm dục của thế tục. Khi Phật giáo Tạng truyền phát triển mạnh ở các nước phương Tây, thì một trong những chủ đề được các học giả chú ý là vai trò của nữ giới trong Phật giáo Tây Tạng. Thật vậy, ngay từ buổi bình minh Phật giáo ở trên mái nhà thế giới, vai trò của các nữ tu hành đã được đề cao. Khảo sát về danh xưng các nữ sỹ xuất gia trong tiếng Tạng, bà De Ji Zhou Ma ( Đắc Cát Trác Ma) phát hiện ra nhiều cách gọi thể hiện sự tôn kính như btsun-ma ( nữ tôn giả), dg-ma (thiện nữ), jo-mo (Phật mẫu), ma-jo (thân mẫu), A-n-jo-mo (cô mẫu). Cách gọi kính trọng này duy chỉ có trong ngôn ngữ Tạng. Cách xưng hô nói lên một nét văn hóa bản địa nơi đây và cho chúng ta tin vào những cứ liệu lịch sử rằng Phật giáo du nhập vào Tây Tạng đầu thế kỷ thứ 7 thì vào giữa thế kỷ thứ 8 đã có nhiều nữ sỹ xuất thân trong các gia đình quyền thế quý tộc xuất gia tu hành. Vào triều đại của Songtsn Gampo, một đức vua sùng tín đạo Phật có hai hoàng hậu từ hai nước Phật giáo là Nepan và Đại Đường Trung Hoa đã làm đạo Phật lan truyền nhanh chóng trong giới thượng lưu, quyền quý. Tì khâu ni (Bhikkhuni - nữ tu sỹ) kiệt xuất Zhuo Sa Jiang Ju đã cùng với 30 nữ sỹ xuất gia khác lập nên tăng đoàn tì khâu ni đầu tiên ở Tây Tạng. So với một lịch sử non trẻ của Phật giáo Tây Tạng lúc đó thì đây là một sự kiện trọng đại. Nó cũng là một nhân tố quan trọng thúc đẩy nghệ thuật Phật giáo Tây Tạng đề cao hình vị trí nữ giới trong thế giới tôn giáo vốn luôn là nơi ngự trị của các đấng mày râu. Lý giải về sự xuất hiện đậm nét những biểu hiện giới tính trong Phật giáo Tây Tạng là một chủ đề lớn mà người viết tự thấy vượt quá khả năng của mình. Trong phần kết này, tôi xin được nhắc đến bối cảnh lịch sử và vị trí địa lý của Tây Tạng. Khi Phật giáo bắt đầu suy tàn ở ấn Độ trước sức mạnh của lưỡi gươm của những tên cướp nhân danh Hồi giáo, Phật giáo đã tìm thấy ở Tây Tạng một nơi trú ngụ vĩnh hằng. Các hòa thượng ấn Độ đã tìm thấy sức sống mới ở đây, những cô gái Tây Tạng phải chăng đã thay đổi suy nghĩ của họ về vai trò của nữ giới với sự phát triển của đạo Phật. Thực ra, ở ấn Độ xu hướng khẳng định nguyên lý nữ tính (shakti) là lực lượng chủ yếu trong vũ trụ của phái Kim Cương thừa đã ảnh hưởng rất lớn tới cả nghệ thuật Phật giáo và Bà la môn giáo từ sau thế kỷ thứ 7. Tây Tạng với điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt với độ cao trung bình là 4900m, có nhiệt độ cao trong mùa hè nhưng cực lạnh về mùa đông, tỷ lệ tăng dân số thấp. Phật giáo nếu muốn đứng được ở đây nó không thể đi theo con đường của diệt dục và khổ hạnh. Nó tìm được những ý nghĩa tôn giáo trong cuộc sống thường nhật và đó cũng là một lý do khiến Latma giáo Tây Tạng có sức hấp dẫn lớn ở Phương Tây hiện nay. Trần Hậu Yên Thế (1) Tác giả không bàn tới niên đại và tính nguyên gốc của bộ sưu tập trong bài viết này (2) Zhenyan - Diện mạo Trung Hoa qua các văn vật lịch sử (3) Tạo tượng lượng độ kinh là sách làm thời Càn Long thứ 7 năm 1742 (4) Nhà nghiên cứu Phan Cẩm Thượng nhắc tôi về những nét tương đồng giữa nghệ thuật Tây tạng và Việt Nam. Có thể đây cũng là một hiện tượng cần được khảo cứu thêm (5) Tượng này gắn bó với Kim Cương thừa khởi nguyên từ ấn Độ do lấy Vajra (lưỡi tầm sét hoặc kim cương) làm biểu tượng trung tâm (6) Roy C.Craven. Mỹ thuật ấn Độ NBXB Mỹ thuật tr 209
-
NEPAL VÀ TÂY TẠNGBồ tát Padmapain. Đồng.h: 61,9cm TK XII (Nepal) Bảo tàng Mỹ thuật Cleve landSự gìn giữ xã hội truyền thống và những hình thức sau này của đạo Phật là nhiệm vụ của những người trị vì xứ Nepal và Tây Tạng, ở những rặng núi phía nam Hy Mã Lạp Sơn là có thể thuận tiện du nhập vào từ vùng Bắc ấn, và phong cách Gupta trọn vẹn thuộc thế kỷ VI tìm thấy được những người hành nghề đầy lòng nhiệt tình và khéo tay ở đây. Loại đá màu xám - lục mịn hạt của vùng thung lũng Kathmandu thích hợp tốt cho những loại tượng trang nhã hấp dẫn của ấn giáo lẫn Phật giáo. Nhờ phẩm chất ưu tú của nghệ thuật khắc chạm và sự thông hiểu các tiêu chuẩn mô tả, các họa sĩ người Nepal không thể bị chê trách. Đôi khi, đặc biệt do ảnh hưởng của những tượng kim loại nhỏ đến từ Bengal thuộc thời kỳ Pala, các tác phẩm điêu khắc có khuynh hướng trang nhã và uốn khúc quá mức. Nhưng sự xử lý về y phục và sự thêm vào những loại đá quí vừa ở vòng đeo cổ, băng cánh tay, khăn trùm đầu tô điểm cho dáng vẻ từ bi và mềm mại. Trong tất cả những tác phẩm điêu khắc trên đá của người Nepal còn tồn tại, thì tác phẩm quan trọng nhất là Jalashayana Narayana ở làng Budhanilkantha gần Kathmandu. Tiếng Sanskrit gọi là Vishnu Anantashayin, tượng này là một biểu tượng thần Vishnu (Narayana) được chống đỡ bởi rắn thần Ananta, người ta cho là nổi trên Đại Dương Vũ Trụ trong nhiều niên kỷ giữa thời kỳ hủy hoại và sáng tạo. Một khái niệm cơ bản của người Hindu, hình tượng này vẫn được người Phật giáo và ấn giáo tiếp tục thờ cúng giống nhau. Một hình tượng đạt được một ý niệm nào đó về sức mạnh của đức tin tôn giáo với quyền lực hoàng gia ở thế kỷ thứ bảy là một bức tượng cao 6,4m được chạm trổ từ tảng đá duy nhất được mang về từ vùng đồi núi đến thung lũng Kathmandu khi tác phẩm điêu khắc được vua Vishnugupta đặt làm khoảng năm 641. Phật giáo Nepal hoàn toàn thuộc tông phái Đại Thừa (Mahayana) và sau đó là Mật tông (Tantric). Hệ thống này nhấn mạnh sự chuẩn bị phức tạp cho lễ qui y hay nhập môn, những phương pháp tu tập Yoga với những kỷ luật nghiêm khắc của vị đạo sư (gu ru), và sự quan trọng ngang bằng của nguyên lý nữ tính như là “shakti” hay là năng lượng của nam thần. Những hình tượng có nhiều tay và đầu là điều quen thuộc. ở những hình thức này, vật đúc tinh xảo, duyên dáng và kỹ thuật mạ vàng hoàn mỹ đã nâng cao giá trị món đồ vật có kích cỡ nhỏ bé và chi tiết quá mức tinh xảo. Ví dụ như khi người ta nghĩ đến những hình dáng có hệ thống dưới đây về những nhà điêu khắc hiện đại chẳng hạn như Jacques Lipchitz hoặc Theodore Roszak và sau đó quan sát những tượng và tranh ảnh của người Nepal, với vẻ duyên dáng linh hoạt và sự mở rộng mang đặc tính cứng rắn vào không gian bằng những phương tiện của những sự lồi ra và những chỗ lõm vào hay các lỗ hổng, người ta cảm thấy một thành quả thẩm mỹ đích thực. Những mối liên hệ chính thức giữa Trung Quốc và Nepal cùng với Tây Tạng khởi đầu vào triều vua Kubilai Khan (k.1280 - 1295), tạo nên những ảnh hưởng mạnh mẽ tác động lẫn nhau ở những kỹ thuật đúc kim loại và trên những phong cách hội họa. Phong cách mỹ thuật sau này thường mang tính cách điên cuồng ghê sợ có chủ ý của Tây Tạng tương tự với nền mỹ thuật Phật giáo Mật Tông của Nhật Bản ở nhiều khía cạnh. Nền mỹ thuật Tây Tạng đã thu hút thêm sự chú ý qua sự di dân đến ấn Độ và phương Tây của giới tăng lữ lẫn những tác phẩm điêu khắc và những món đồ vật nghi lễ sau sự sáp nhập Tây Tạng vào Trung Quốc năm 1951. Không còn những bức họa có qui mô lớn thuộc triều Pa la hay Sena tồn tại. Nhưng những hình ảnh tô màu rực rỡ bằng tay của khu vực Đông ấn vẫn còn giữ một cái gì đó của phong cách Gupta và phong cách đầu thời kỳ Trung cổ của vùng Ajanta ở nghệ thuật hội họa. Những bản viết tay được họa trên những nẹp lá cọ dài, thông thường với những đoạn kinh cùng một ít phần minh họa, và là những phương tiện mang phong cách Gupta, với những khái niệm của nó về nhân vật và sự trình bày về không gian, được truyền sang Nepal và Tây Tạng. Một chi tiết của một bản viết tay từ Đông ấn cho thấy gờ nổi nào đó quanh những đường nét của cơ thể, việc bố trí phong cảnh, và một sự biểu thị đơn giản về không gian và bằng cách đặt một đối tượng ở trên nó để hàm ý rằng nó ở phía sau. ở một chi tiết khác từ bản viết tay này là những hình dáng các tảng đá mang tính hình học lạ thường mà chúng ta trông thấy ở Ajanta. Một hệ thống màu đặc trưng sống động khác với màu sắc khá mềm mại và nhẹ nhàng của vùng Ajanta. Một bản viết tay có nguồn gốc từ Nepal, dựa trên phong cách của các bản viết tay thuộc khu vực Đông ấn được xuất khẩu sang Nepal, có niên đại đến năm 1111, khoảng 50 đến 100 năm sau đối với bản thứ nhất. Nó cho thấy sự tinh xảo tuyệt vời hơn, đặc biệt ở sự xử lý đường kẻ. Đường gờ, ở màu hoặc sắc màu, hầu như đồng màu. Những biểu thị của đường viền hoặc của sự chuyển động được tạo nên bởi những đường kẻ bên ngoài. Trong bản viết tay này, chúng ta có những hình thức mô tả duy nhất về các vị thần, hiện hữu trong kiểu bố trí bất biến ở những vầng hào quang của họ. Không có những quang cảnh trình bày về những phong cảnh, những nội thất, hoặc bất cứ sự bố trí nào ở khoảng không. Nó là một hình thức mỹ thuật mang tính qui ước thuộc giới tăng lữ, nổi trội bởi sự mô tả bằng tranh tượng của Phật giáo Đại thừa, nhưng, giống như đồ đồng, đầy vẻ duyên dáng cùng với đường nét uyển chuyển ở các nhân vật. Mặc dù những bức họa đầu tiên có qui mô lớn từ đông bắc ấn thông thường là vô danh, có một số tác phẩm có tầm cỡ và gây ấn tượng từ Nepal và Tây Tạng. Số nhiều trong những tác phẩm này là những “thangka”, những bức tượng ở khổ tranh cuộn treo tường, trình bày cùng phong cách được nhận ra ở các bức tranh vẽ dưới hình thức làm to ra. Một bức tượng lộng lẫy ở Bảo tàng Hạt Los Angeles, mặc dù được người ta cho là ở vùng trung bộ Tây Tạng, nhưng hầu như hoàn toàn thuộc phong cách Nepal, chứng thực tính quan trọng những cách diễn đạt về mỹ thuật Nepal và Pala ở sự hình thành khuôn mẫu riêng biệt sau cùng của Tây Tạng. Phẩm chất khác biệt của những bức họa này đem lại những nền tảng cho các “thangkas” của vùng Hy Mã Lạp Sơn sau này, bắt nguồn từ sự tô màu ấm áp của chúng, làm nổi bật màu đỏ, vàng, và cam cùng với những vết màu xanh và xanh lục nhỏ, từ những biểu lộ của nét mặt thể hiện sự mãnh liệt của tôn giáo, và những tính cách nhịp nhàng buộc phải lặp lại. Tây Tạng là một trường hợp đặc biệt. Những dãy núi trùng điệp cùng với những ngọn đèo rất cao tạo nên một rào chắn ghê sợ nhưng không phải không thể vượt qua để liên lạc với thế giới bên ngoài. Địa hình hiểm trở cùng với dân cư thưa thớt, tạo nên chủ nghĩa cục bộ. Phật giáo, truyền từ ấn Độ xuyên qua vùng Trung á, và được củng cố vững chắc ở Trung Quốc, và đã đến Nhật Bản hàng thế kỷ trước khi xâm nhập Tây Tạng. Vào phần sau của thế kỷ thứ 8, một vị vua Tây Tạng đã cung thỉnh các nhà sư Phật giáo Đại thừa vào xứ sở để truyền đạo và xây dựng chùa chiền. Dần dần đức tin ngoại nhập thành công trong việc hấp thu sự sùng bái thần núi, thần sông của người bản địa, và những vị thần bảo hộ khác hiện thân cho sức mạnh thiên nhiên. Trong các thế kỷ tiếp theo, vận mệnh của Phật giáo Tây Tạng gắn liền với các quyền lợi chính trị và khuynh hướng cá nhân của những dòng họ cai trị, do bởi vào thế kỷ thứ 10 Tây Tạng bị tan vỡ thành nhiều vương quốc nhỏ. Những làn sóng liên tục cho qui y của Phật giáo, tất cả cùng với sự bảo trợ của hoàng gia hoặc giới quí tộc, dẫn đến việc thành lập một số giáo hội hoặc tông phái, mỗi giáo hội hoặc tông phái có những tín đồ tại gia. Sự cạnh tranh giữa những giáo hội này không phải là không rõ ràng, sự cạnh tranh phản ánh giữa những người bảo vệ thuộc thế tục. Luân hồi trở thành một đức tin vững chắc ở thế kỷ 12, với sự lãnh đạo của một giáo hội trao quyền cho những cá nhân theo nghi thức được mọi người công nhận như là sự hiện thân của các vị sư tôn kính đi trước (được gọi là Lạt ma). Quyền lực tâm linh thường trở thành việc cha truyền con nối, và từ đó sinh ra quyền lực chính trị. Một số dòng dõi tu sĩ xem người lãnh đạo ở mỗi thế hệ là hiện thân của một trong những vị bồ tát cao cả, vì vậy được ban cho quyền lực với sự phê chuẩn của thần thánh. Không chỉ theo lý thuyết và sự sắp đặt của tôn giáo mà cả trật tự xã hội cũng được tổ chức thành giai cấp tăng lữ phức tạp. Trong khi đó, đế quốc Mông Cổ mở rộng khắp châu á, những dòng dõi thuộc giới tăng lữ cầm quyền xứ Tây Tạng với lòng trung thành với các Kha hãn (Khan) Mông Cổ. Sự tan rã đế quốc đã bỏ lại các chư hầu phía đông Mông Cổ theo về triều Minh của Trung Hoa (1368 - 1644) nhưng vẫn còn là một cường quốc được lưu tâm đến ở vùng Trung á, và sự cải đạo hàng loạt sang Phật giáo Tây Tạng vào năm 1578 khiến cho họ trở thành những người bảo vệ đức tin quan trọng. Cùng năm ấy là sự phong tước vinh dự Đạt Lai Lạt Ma được Đại Hãn Altan, người cải đạo ban cho các nhà sư gánh vác trách nhiệm cải đạo cho ông ta. Nhiều hoàng đế Trung Hoa thời Minh và Thanh (1644 - 1912) là những người bảo trợ nhiệt tình cho Phật giáo Tây Tạng, sự kiện này một phần được truyền cảm hứng bởi những phẩm chất có sức thu hút của các nhà sư du hành và một phần do bởi đường lối chính trị khôn ngoan hòa giải của các vị vua Mông Cổ. Năm 1642, một vị Kha Hãn Mông Cổ khác đã chính thức công nhận vị Đạt Lai Lạt Ma lúc ấy là lãnh tụ tinh thần cũng như thế tục của xứ Tây Tạng.... Sự kiện này đã chính thức công nhận tính chất bảo thủ của xã hội và cũng là sự bảo tồn nền nghệ thuật của nó cho đến giữa thế kỷ 20. ở Tây dạng, cũng như ở Ladakh, những hình thức Mật Tông của Đạo Phật sau này trở nên nổi trội, nhưng nhiều đến nỗi nền mỹ thuật Tây Tạng sau thế kỷ 13 là độc đáo trong phong cách thể hiện và không thể nhầm lẫn tác phẩm mang dáng vẻ đặc trưng Phật giáo Tây Tạng, nay được gọi là Lạt Ma giáo. Ngôi chùa xưa nhất còn tồn tại ở Tây Tạng là một công trình bằng thân tre trét đất bùn ở Kachu, cách phía đông Lasha khoảng 50 dặm. Nó được một công chúa người Trung Quốc, có tên Kong.co kết hôn với một vị vua Tây Tạng, dựng lên, giữa năm 728 và 739. Trên một bệ thờ phía trong có một pho tượng Phật Thích Ca Mâu Ni bằng đất sét không nung cao 3,65m (năm 728 - 739) và kèm theo vị Bồ tát cùng với những bức tượng thần bảo vệ (không bao lâu sau năm 822). Tất cả những tượng này cho thấy rằng các chiều hướng nghệ thuật ở Tây Tạng thật đa dạng. Tượng chính phần lớn theo phong cách Gupta, không giống một số tượng bằng ngà voi ở Kashmir, những tượng không quan trọng, có niên đại từ thế kỷ tiếp theo, cho thấy một mối liên kết rõ ràng với Khotan và Trung á. Những thế kỷ tiếp theo chứng kiến sự phát triển xa hơn của Phật giáo Đại thừa và Mật tông, hoặc đạo Phật Kim Cáng thừa Vajrayana đặt nặng những kỹ thuật Yoga, tính phổ biến về Phật tính được thể hiện bởi những con người giác ngộ và bởi những hình tượng Phật giáo, và hình ảnh của sự hợp nhất giới tính như là một sự diễn đạt về sự hợp nhất của Trí Tuệ (nữ) và Lòng Bi Mẫn (nam) và sự loại bỏ cái bản ngã. Sự phát triển nhanh của những hình tượng, kể cả tranh vẽ lẫn điêu khắc, như là những sự bổ sung cho việc thờ cúng, là một phần thiết yếu của sự phát triển Mật tông. Sau thời kỳ Trung cổ, khi những cách diễn đạt của thời kỳ Pala, Nepal, Kashmir, Trung Hoa, và Trung á được nghiên cứu và được đồng hóa, một khuôn mẫu của người Tây Tạng nổi bật rõ nét vào thế kỷ 15. Nó gây nên một ảnh hưởng nào đó vào nền nghệ thuật Trung Hoa mà triều đình của họ đã bảo trợ Lạt Ma giáo và trao đổi đại sứ, nghệ nhân và những vật chế tác với Tây Tạng. Phật giáo Tây Tạng nhấn mạnh đến trật tự, quân bình, hằng hà sa số thứ bậc, và những khuynh hướng về các vị thần ghê sợ, đặc biệt là những vị thần bảo vệ, và nó diễn đạt tổng quát bằng chủ nghĩa tượng trưng, được trang trí châu báu ngọc ngà phong phú. Do đó những yếu tố này trở thành những vật tượng trưng của phong cách Lạt ma, thể hiện trong những hình tượng, mandala và khuôn mẫu thờ cúng. Chúng ta đã nhận thấy có sự phỏng theo các yếu tố của người Nepal và Pala ở những thang ka (theo nghĩa đen là “tấm vải cuộn”) trình bày Ratnasambhava, từ vùng trung bộ Tây Tạng. Tình trạng bảo quản của nó hết sức lạ thường, và những mảnh mi ca làm cho màu sắc ánh lên vẻ phi phàm. Tính cân xứng nghiêm ngặt của tổng thể được kết hợp với động tác uyển chuyển của những chiếc bóng độc đáo, tạo nên một trong những hình tượng hoạt động và cực kỳ hấp dẫn kiểu Trung cổ. Khuynh hướng vị thần ghê sợ được thể hiện tinh vi trong thangka nói về Mahakala với những người đồng hành của ngài, một vị thần quan trọng, có quyền lực đặc biệt trong việc bảo vệ đền chùa và tu viện và nói chung cho các gia đình. Bố cục hài hòa, cân đối kỹ lưỡng và tỷ lệ có vẻ đồ sộ của hình ảnh chính giữa đặc biệt trở nên thôi thúc khi người ta tập trung vào ba con mắt trừng trừng giận dữ, cái miệng há toang hoác, chiếc vòng đeo cổ của những cái đầu bị chém, và nhân vật trần truồng lang thang, tượng trưng cho một loài quỷ hay ma đói (preta). Nhân vật Mahakala có thể xuất phát từ vị thần Shiva của ấn Độ giáo, với biểu tượng ghê sợ của ngài là Aghora. Những thangka thường làm bằng vải có kích cỡ cẩn thận cùng với một sự pha trộn một loại keo bằng da của thú vật (thường bằng loài bò Tây Tạng có lông dài, một con vật làm biểu tượng của xứ sở Tây Tạng), đá phấn, và Kaolin (đất sét) và sau đó người ta dùng đá cứng hay vỏ sò để đánh bóng. Những chất màu khoáng sản tinh khiết được sử dụng là: màu xanh (bằng khoáng chất azurite), xanh lục hay lá cây (malachite), đỏ (thần sa), vàng (orpiment), cam (chì đỏ); mực tàu (được làm từ than hầm), giống như ở Trung Quốc. Những loại màu tinh khiết bằng chất khoáng và thực vật, cùng với những kỹ thuật cần mẫn cho việc chuẩn bị và thực hiện, giải thích cho sức mạnh đặc biệt và việc khoác lên chiếc áo quyền lực của bức thangka vẻ mỏng manh. Với truyền thống lâu đời của một nền nghệ thuật tôn giáo mang màu sắc rực rỡ thì việc thực hiện một sự chọn lựa và đi theo con đường của nó vào khoảng năm 1500 với phong cách hội họa Trung Hoa gồm màu xanh, xanh lục và vàng là một việc dễ dàng. Vào bốn thế kỷ cuối cùng với những thangka có màu sắc rực rỡ cùng với hình ảnh các tu sĩ hoặc những người tạo nên những dòng dõi danh tiếng nổi bật lên trên nền phong cảnh trở thành một cách diễn đạt cổ điển của người Tây Tạng. Những tác phẩm điêu khắc được đúc bằng đồng, bạc và vàng, hầu như luôn luôn sử dụng phương pháp đúc bằng sáp ong, một qui trình phức tạp được thực hiện mặc dù như vậy cũng vẫn có những đòi hỏi nghệ thuật mô tả bằng hình tượng. Các vị thần nhiều đầu, nhiều tay với nhiều người hầu và những biểu tượng đặt ra những vấn đề về đổ khuôn cho các nghệ nhân Tây Tạng giải quyết. Một sự trình bày thường bị người phương Tây hiểu lầm là hình người Cha và Mẹ (tiếng Tây Tạng: yab yum), mô tả sinh động một nam thần và một nữ thần đứng hoặc ngồi trong hợp nhất giới tính. Từ sự xuất hiện xa xưa nhất của kiểu mẫu yab-yum, những kinh điển của Lạt Ma giáo đã giải thích rõ ràng ý nghĩa của nó: sự hợp nhất hạnh phúc với Trí Tuệ (Mẹ) và Lòng Bi Mẫn (Cha), đoạn trừ ảo tưởng về cái tôi hay bản ngã. Đây là mục đích của Đức Phật hay của Đạo Phật từ sự khởi đầu xa xưa nhất của nó. Yab-yum, bắt đầu ở Đại Thừa và được làm tinh tế hơn ở Mật tông (Tantric) và Phật giáo Lạt Ma, là một trong những hình ảnh tôn giáo thu hút và độc đáo nhất, và sự biểu hiện của nó trong một hình tượng điêu khắc đầy ấn tượng là một trong những thành quả tuyệt vời nhất của nền mỹ thuật. Sherman e.le
-
BIỂU TƯỢNG LƯỠNG LONG TRIỀU NGUYỆT, MỘT NÉT HỒN VIỆTTrong văn hoá tâm linh về tín ngưỡng tôn giáo có những không gian, biểu tượng thiêng liêng và đồ án cát tường để phục vụ niềm tin tâm thức. Thờ cúng tổ tiên có gian thờ trong nhà, thường bố trí gian giữa, thờ cúng dòng họ có nhà từ đường, thờ Thánh Hoàng có đình làng, thờ Phật có chùa, thờ thánh thần có đền, miếu, thờ Thượng Thanh, Ngọc Thanh, Thái Thanh (đạo giáo) có quan đạo. Trong không gian thiêng liêng ấy có đồ án quen thuộc, phổ biến là “Lưỡng Long Triều Nguyệt” thể hiện ở hình vẽ, phù điêu và hay gặp nhất hình tượng trên nóc đình, đền, miếu, trên trán bia đá. Ngoài con Long ra còn có con Li, Rùa, Phượng, dân gian gọi là “tứ linh” (Long, Li, Quy, Phượng). Con Li trên nóc trụ biểu tượng về sự bình yên. Con Phượng trên trụ biểu tượng sức mạnh, may mắn, nó được cách điệu như ngọn nến, búp sen mềm mại đẹp mắt. Con Long (Rồng) khởi nguyên là con Giao Long. Sách “Hoài Nam Tử” nói rằng: “Da nó có từng hột, người đời cho miệng nó là gươm đao”. Nham Sư Cổ trong “Tiền Hán Thư” dẫn lời Quách Phác: “Con Giao Long hình như con rắn mà có bốn chân, cổ nhỏ... giống to đến mấy ôm, sinh trứng to bằng một hai cái hộc, có thể nuốt người được (Đào Duy Anh - Lịch sử Cổ Đại Việt Nam 2005 - 31). Rồng Việt Nam là con cá sấu và con rắn hoá thân mà thành nó là con vật huyền thoại. ở Phú Thọ - Đất tổ có câu chuyện Đại Hải đánh Thục. Chuyện kể rằng trong La Phù (Huyện Thanh Thuỷ) có một vị quan tên là Đặng Hồng, có vợ thứ là Ngọc Dung đi tắm ở Giếng Giá có thuồng luồng lên phủ khắp người, sinh ra một cái bọc, nở ra một con vật đầu rồng mình rắn. Tản Viên giao cho cầm quân, dàn trận ở núi Quỳnh Nhai đã thắng lớn. Trong tâm linh người Việt, Rồng là chúa tể nơi sông, hồ, biển cả. Có tài biến hoá, ẩn sâu dưới vực, bay lên 9 tầng mây, nổi gió, khạc ra lửa thiêu đốt tà ma, có lợi cho Nông nghiệp. Bởi vậy Rồng biểu tượng cho nền văn hoá Việt Nam mang tính tổng hợp linh hoạt và hoà hiếu (biến cá sấu hung ác thành rồng hiền lành có ích). Chuyện Lạc Long Quân lấy bà âu Cơ đẻ ra một bọc “Long bào bách noãn”. Bọc rồng trăm trứng nở thành một trăm con trai trấn giữ đầu non góc biển của nước Văn Lang xưa. Không phải ngẫu nhiên mà người Việt nhận mình là “Con Rồng - Cháu tiên”. Theo đó người Việt thời Thượng Cổ săm mình hình Giao Long (rồng) để bảo vệ mình. Suốt dòng chảy lịch sử từ thời Hùng Vương đến phong kiến tự chủ các triều đại Đinh, Lí, Trần, Lê, Nguyễn vẫn lấy Rồng làm biểu tượng tài trí cao sang, quyền uy, may mắn để phản ánh tư duy tâm hồn của Vương quyền mình. Trong dân gian Việt Nam còn bảo lưu biết bao nhiêu câu chuyện thần thoại liên quan đến Rồng; thường theo mô típ người ăn ở phúc hậu, hiền lành, được gặp Rồng mà đẻ ra người con trai tuấn tú, trí dũng, trung với nước hiếu với bố mẹ dân làng. Về di vật trong trống đồng Đông Sơn có khắc con Rồng trông mượt mà, khoẻ khoắn có 4 chân, mõm dài đuôi to cong lên trông tựa con cá sấu. Đến thời nhà Lý Rồng mình thon thon dài, uốn lượn nhiều khúc cong nhỏ dần về phía đuôi, môi dưới có râu, môi trên có mào, sau gáy có bờm, chân móng sắc nhọn như móng chim, tung bay ngang dọc giữa mây trời, thể hiện tâm hồn, ước mơ tự do độc lập. Rồng nhà Trần tiếp thu Rồng nhà Lý có thêm tai, cặp sừng, trông đẫy đà, táo bạo đầy sức sống gắn liền với khí phách thắng quân Nguyên Mông hung hãn. Rồng nhà Lê nối tiếp nhà Trần, mình rắn khoẻ có mào, sừng, song có ảnh hưởng một số chi tiết Rồng Trung Quốc, nom giữ tợn hơn lộ rõ uy quyền nhà vua gắn liền với thời kì Nho giáo thay thế Phật giáo làm quốc giáo. Rồng nhà Nguyễn có dáng mạnh mẽ, giữ tợn tương tự như nhà Lê nhưng có phần hung hãn hơn bởi Nho giáo giữ địa vị thống trị, nhưng đã đi vào giai đoạn mạt kì. Qua đó ta thấy con Rồng đã đi vào kí ức thẳm sâu của con Người Việt biết chừng nào. Sức sống của nó mãnh liệt theo suốt chiều dài dựng nước kể từ thời bình minh đến các triều đại phong kiến tự chủ nó luôn là biểu tượng cao sang quyền uy thịnh vượng và may mắn. Dựa trên lý ấy và triết lý kinh dịch mà có biểu tượng “Lưỡng long triều nguyệt”. Trong đó mặt trăng ở giữa hai bên là Rồng, mặt trăng chiếu sáng ban đêm và có liên quan đến con người sinh vật. Người xưa làm lịch theo chu kỳ tuần hoàn của mặt trăng mặt trời quanh quả đất phục vụ nông nghiệp và săn bắt gọi là âm lịch nên mặt trăng mang tính âm ký hiệu nét đứt (--), con rồng biến hoá linh hoạt mang tính dương ký hiệu nét liền (-). Theo đó biểu tượng “Lưỡng long triều nguyệt” ký hiệu theo quẻ dịch là ( ) gọi tên quẻ li. ý nghĩa quẻ này: về thiên thời: ban ngày, về địa lý: phương nam, Ngũ hành: thuộc hoả, về nhân vật là nhân văn - về tính cách: tài học, thông minh, sáng, đẹp, về hướng: Nam, về thời gian: tháng 5, mùa hạ, nóng. Vậy rõ ràng biểu tượng “Lưỡng long triều nguyệt” phù hợp với đất nước con người Việt Nam. Một biểu tượng cát tường. Biểu tượng “Lưỡng long triều nguyệt” là “hồn việt”. Mặt trống đồng trang trí rất nhiều chim, có những con mỏ dài, cánh ngắn, thân thon xếp đặt thành một vòng ngoài cùng (chim lạc) có con trang trí trên nóc nhà sàn Đông sơn mỏ ngắn đuôi dài cong không có mào, trông rất hiền lành, không giống con Phượng hai cánh xoè ra như nan quạt, hai chân dạng ra mắt to sắc, sau gáy có bờm trông khí phách, dữ tợn (Phượng chạm gỗ đình Yên Bảng, Hà Bắc). Ai đó đã lựa chọn con chim lạc ở mặt trống đồng để thế vào vị trí con Rồng, con Phượng là không phù hợp với truyền thống văn hoá Việt Nam. Phải nói rằng trong ký ức Việt chỉ có “Long, Li, Quy, Phượng” là những con vật linh thiêng và trong tâm thức người Việt cũng chỉ có cặp “Rồng - Tiên” mới coi như: Vật Tổ của mình. Do vậy trong văn hoá tâm linh ở các di sản kiến trúc Việt, suốt mấy nghìn năm trải qua nhiều thời đại chỉ thấy mô típ “Lưỡng long triều nguyệt” rất quen thuộc khắp mọi nơi từ thôn làng đến kinh thành, có những hiểm lưỡng phượng triều nguyệt, mà không thấy con chim lạc triều nguyệt. ở đình biểu di của kiến trúc văn hoá tâm linh, ông cha ta chọn 4 con chim phượng chụm 1 vào nhau tạo thành một bông hoa đang nở mượt mà, đầy sức sống nhìn tựa như ngọn đèn thắp sáng vĩnh cửu - ý tưởng ngưỡng mộ, đối tượng tôn thờ, nhưng tài tính khéo léo đẹp mắt cát tường, chứ không như ở trên đỉnh trụ biểu đền thờ đương đại có đền thay bằng 4 con chim lạc bố cục rời rạc khô cứng trông lạ mắt không mấy cảm hứng. Theo phong thuỷ hình thái của một biểu tượng liên quan về “Khí” thu năng lượng của vũ trụ nó có thể tác dụng tích cực hoặc phản cảm (Sui) đến con người. Người xưa nói: “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” ý nghĩa rất sâu xa đối với văn hoá tâm linh là niềm tin thiêng liêng cao cả, niềm tin ấy thanh khiết bền vững trong tín ngưỡng, tôn giáo, trong tâm thức con người. Vào giữa tháng giêng năm Mậu Tý (2008) tôi cùng đoàn nhà văn chi hội văn học nghệ thuật Phú Thọ đến thăm thành phố Côn Minh tỉnh Vân Nam Trung Quốc giáp biên giới Việt Nam. Tôi đã thăm thủ phủ của Ngô Tam Quế (Phục Minh chống Thanh, thăm chùa Hoa Đình Tự, ngôi chùa cổ kính thâm nghiêm nổi tiếng của Vân Nam, nơi hội tụ 500 tượng La Hán và cả trên dọc đường từ Hà Khẩu đến Côn Minh không thấy có biểu tượng “ Lưỡng Long Triều nguyệt” mà chỉ thấy biểu tượng “Lưỡng Long triều quả bầu”, quả bầu có liên quan đến câu chuyện thần thoại Trung Quốc. Tôi suy ngẫm và bất ngờ nhận ra rằng biểu tượng “ Lưỡng Long Triều Nguyệt” tiếng vọng kỳ lạ của quá khứ thắp sáng mãi theo dòng lịch sử xưa và nay là hồn Việt. Nguyễn Xuân Đài
-
Chính phủ sẽ tăng giá xăng tiếp tục trong năm nay ? Ngày M.Dần Th C. Thân năm M.Tý độn Hưu Vô Vong Từ đậy đến cuối năng giá xăng không tăng nữa đâu. Yên Tâm!. :P LacTuong :lol:
-
Binh Pháp Tôn Tử :: Tôn Vũ và Sơ lược về Binh pháp Tôn Tử January 21, 2008 — LAC™ <!--[if gte vml 1]> <![endif]-->(LAC™) Nói đến các sách lược chiến đấu thì trên thế giới có không ít, nhưng không thể không nhắc đến “Thập Tam Thiên” (13 Chương) của “Tôn Tử Binh Pháp”. Vậy bạn biết gì về Tôn Tử Binh Pháp? Trong một đêm không gió… không mưa… không sương… không trăng sao… và đặc biệt là không ngủ (được)… Lắc đã ngồi nghiền ngẫm cuốn Tôn Tử Binh Pháp này và muốn giới thiệu cho mọi người biết những nét đặc sắc của Tôn Tử Binh Pháp. Cuốn sách mà ngày xưa là sách lận lưng của tướng soái xuất chinh còn ngay nay là cuốn sách gối đầu của các nhà tài phiệt, kinh doanh hàng đầu thế giới. Cuốn binh thư đầu tiên của thế giới, đúc kết những kinh nghiệm trận mạc của nhà quân sự hàng đầu thế giới: Tôn Vũ. I. Tôn Vũ là ai? Tôn Vũ (孫武 - pinyin: Sūn Wǔ), 554 - 496 trước Công Lịch, là người gốc nước Tề (Trung Hoa). Ông sinh ra trong thời loạn Xuân Thu Chiến Quốc (722 - 481 trước Công Lịch), đây cũng là thời kỳ ra đời của Khổng Phu Tử, hay còn gọi là Khổng Tử, học thuyết gia nổi tiếng với Nho học và Đạo Khổng tồn tại và phát triển ở các nước ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa cho tới tận ngày nay. Xuân Thu Chiến Quốc là giai đoạn mà chiến tranh và tư tưởng quân sự bao trùm gần như là tất cả. Ngay trong tên gọi của ông, chữ Vũ có nghĩa là vũ khí, vũ lực. Ông đã làm quan đến chức Phá Sở Đại Nguyên Soái, quân sư cho vua Ngô Hạp Lư và đã lập được nhiều công lớn. Vì nước Ngô mà ông đã đem ba (03) vạn quân phá tan hai mươi (20) vạn quân của nước Sở để vào Sính Đô, làm cho các nước Tề, Tấn ở chung quanh phải khiếp sợ, đưa nước Ngô từ một tiểu quốc chư hầu trở thành một đại quốc chư hầu có thể xưng hùng xưng bá với 6 nước còn lại. Mặc dù là một nhà quân sự lỗi lạc nhưng quan điểm của Tôn Tử là hòa bình và thanh đạm. Do không ham công hầu, danh tướng mà ông đã về ở ẩn tại La Phù Sơn (núi La Phù), thuộc nước Ngô và viết nên Thập Tam Thiên (13 chương) Binh Pháp, còn gọi là Tôn Tử Binh Pháp (孫子兵法 - pinyin: Sun-tzu ping fa). Tuy thời gian tham chiến không lâu nhưng những gì ông đã để lại cho đời có giá trị rất lớn và lâu dài. II. Sơ lược về Tôn Tử Binh Pháp http://babelac.files.wordpress.com/2008/01..._ucr_resize.jpg Binh pháp Tôn Tử là cuốn binh thư bằng tiếng Trung Quốc đầu tiên, được viết vào thế kỷ thứ 6 trước Công Lịch. Bao gồm 13 chương, mỗi chương là một khía cạnh khác nhau của chiến tranh quân sự, tập hợp các kỹ, chiến thuật trong đấu tranh. Có thể xem đây là một cuốn sách cổ xưa nhất về chiến thuật chiến tranh của thế giới. Cuốn sách đã được dịch thành 29 thứ tiếng và tạo được sức ảnh hưởng rất lớn về chiến thuật chiến tranh quân sự từ Đông sang Tây bán cầu. Thậm chí còn tạo ảnh hưởng đến thương mại và còn hơn thế nữa. Tôn Tử là người đầu tiên nhận thấy được tầm quan trọng của chiến thuật, kết hợp với các điều kiện, hoàn cảnh để tác động đến đối phương. Năm 1782, cuốn sách lần đầu tiên được dịch sang tiếng Pháp, và đã gây ảnh hưởng rất mạnh mẽ cho Hoàng đế Napoleon. Nhà lý luận quân sự nổi tiếng người Anh, người đặt nền móng lý luận ”đại chiến lược” Lydern Hatill không chỉ tự mình dịch toàn bộ nguyên bản cuốn Tôn Tử Binh Pháp ra tiếng Anh mà ông còn viết thêm một quyển “Luận chiến lược” để dẫn giải và tường thuật lại. Hatill cho biết, trong tác phẩm quân sự của ông, giải nghĩa rất nhiều quan điểm tìm thấy qua nguyên bản cuốn Tôn Tử Binh Pháp từ hơn 2500 năm trước. Nó cũng góp phần hoạch định chiến dịch Bão Sa Mạc tại Kuwait năm 1991 của Quân Mỹ và NATO. Theo ghi chép, cuốn sách là gối đầu của các đại tướng, tướng quân nằm trong 10 đại tướng của Thế Giới qua các thời đại như Võ Nguyên Giáp, Trần Hưng Đạo (người đã viết ra Bình Thư Yếu Lược). Mao Trạch Đông và Joseph Stalin cũng chịu ảnh hưởng rất lớn từ cuốn sách này. Nội dung của sách cũng đã được ứng dụng và rất thành công trong lĩnh vực thương mại và quản lý. III. Tôn Tử đã cầm quân bao nhiêu lần ? Trong bộ sử ký của mình, Tư Mã Thiên có viết về tài năng quân sự của Tôn Vũ (Tôn Tử) như sau: “Tôn Vũ phía tây đại phá nước Sở mạnh, phía Đông dẹp yên Tề, Tần uy danh lừng lẫy khắp chư hầu, làm tướng như thế thật khó ai so bì”. Quả thật trong 30 năm sự nghiệp quân sự của mình, Tôn Vũ đã lập nhiều chiến công hiển hách và luôn xứng đáng với những lời tôn vinh trong sử sách. Tuy nhiên có một vấn đề luôn gây ra sự tranh cãi kịch liệt từ trước đến nay đó là: rốt cuộc Tôn Vũ đã thân chinh chỉ huy bao nhiêu trận đánh. Vừa qua giới nghiên cứu lịch sử cổ đại Trung Quốc khi đã nghiên cứu, đối chiếu, tổng hợp, so sánh từ các sử liệu như: “Ngô việt Xuân Thu”, “Việt sắc thư”, “Tả truyện”, “Sử ký” đã đưa ra kết luận: Trong sự nghiệp quân dịch của mình, Tôn Vũ chỉ trực tiếp chỉ huy 5 trận đánh và chính 5 trận chiến “để đời” này đã góp phần đưa tên tuổi của ông bất hủ cùng thời gian. Lần chỉ huy thứ nhất: Xảy ra vào tháng 12 năm 512 trước công nguyên, khi đó Ngô Vương là Hạp Lư ra lệnh cho Tôn Vũ chỉ huy quân tiêu diệt 2 nước nhỏ là nước Chung Ngô và nước Từ. Trong lần cầm quân đầu tiên này, Tôn Vũ đã xuất sắc hạ gọn 2 nước trên đồng thời thừa thắng chiếm được đất Thư thuộc nước Sở lập công lớn được Ngô Vương ban thưởng. Lần chỉ huy thứ hai: Theo lệnh của Hạp Lư, năm 511 trước công nguyên, Tôn Vũ lại thống lĩnh ba quân cùng Ngũ Tử Tư, Bạch Hỷ đi chinh phạt nước Sở bởi lý do “Sở Vương từ chối không chịu trao thanh bảo kiếm Trạm Lô cho Hạp Lư”. Dưới quyền chỉ huy của Tôn Vũ quân Ngô đánh hai trận thắng cả hai, chiếm gọn 2 xứ Lục và Tiềm thuộc đất Sở. Lần chỉ huy thứ ba: xảy ra vào năm 510 trước công nguyên, lúc này giữa nước Ngô và nước Việt lần đầu tiên xảy ra cuộc chiến tranh quy mô lớn mà sử sách còn ghi lại đó là cuộc “Đại chiến Huề-Lý”. Trong cuộc chiến này lần đầu tiên Tôn Vũ đưa ra cách dụng binh “Quý hồ tinh bất quý hồ đa” trong đánh trận do vậy chỉ với 3 vạn quân với phép dụng binh tài tình của Tôn Vũ đã đánh bại 16 vạn quân nước Việt. (Ghi chú: nước Việt này không phải là Việt Nam của chúng ta, vì thời gian đó, chúng ta là nước Âu Lạc). Lần chỉ huy thứ tư: Vào năm 509 trước công nguyên xảy ra cuộc “đại chiến Dự Chương” giữa hai nước Ngô và Sở. Khi đó vua Sở sai con trai là công tử Tử Thương và công tử Tử Phàm dẫn đại quân tiến đánh nước Ngô, nhằm báo thù nỗi nhục mất đất năm xưa. Một lần nữa Ngô Vương Hạp Lư lại giao cho Tôn Vũ cầm quân chống giặc. Lần này Tôn Vũ khôn khéo vòng tránh đội quân chủ lực của công tử Thường, dùng lối đánh vu hồi tập kích doanh trại bắt sống công tử Phàm, quân Sở từ thế mạnh, chuyển sang yếu cầm cự chưa đầy một tháng phải rút chạy về nước. Lần chỉ huy thứ năm: Vào ngày 18-11-506 trước công nguyên, 2 nước Ngô-Sở một lần nữa xảy ra chiến tranh, sử sách gọi đây là “cuộc chiến Bách Cử”. Đây là cuộc chiến lớn nhất trong lịch sử 2 nước. Lần này quân Sở huy động 25 vạn quân tiến đánh nước Ngô, khí thế báo thù rất sôi sục. Theo kế của Tôn Vũ và Ngũ Tử Tư, vua Ngô bí mật liên kết với 2 nước nhỏ là Đường và Thái làm thành liên minh chống Sở. Khi tác chiến, Tôn Vũ triệt để lợi dụng địa hình thuận lợi của 2 nước “đồng minh” để triển khai chiến thuật “Khống chế chính diện”, “Tập kích vu hồi mạn sườn” của mình. Sau 5 lần giao chiến với quân Sở, Tôn Vũ đều giành thắng lợi. Cuối cùng 3 vạn quân Ngô đã phá tan 25 vạn quân Sở tiến vào kinh đô nước Sở buộc Sở vương phải tháo chạy. Với 5 trận đánh “để đời” này, uy danh và tài thao lược quân sự của Tôn Vũ (Tôn Tử) lừng lẫy khắp thiên hạ. Thêm vào đó là bộ “Tôn Tử Binh Pháp” dài 13 thiên bất hủ của ông đã khiến cho tên tuổi của Tôn Vũ nổi tiếng khắp thế giới cho tới ngày nay
-
Binh Pháp Tôn Tử :: Thiên 4 :: Hình January 24, 2008 — LAC™ Tôn Tử nói: Trước kia người giỏi dụng binh đánh giặc, trước tiên phải không để bại, sau mới đánh bại kẻ địch. không để bại là do mình, giành chiên thắng là tại địch. Thế nên người giỏi dụng binh có thể làm kẻ địch không thắng được mình, nhưng không chắc làm kẻ địch bị ta đánh thắng. Cho nên nói thắng lợi có thể dự kiến nhưng không nhất thiết đòi hỏi được (”thắng khả tri,i nhi bất khả vi”); không thể thắng được thì thủ, có thể thắng được thì công. Thủ là do chưa đủ điều kiện, công là khi điều kiện có thừa. Người giỏi thủ ém quân tại các loại địa hình, người giỏi công phát huy mọi thế mạnh, thế nên bảo toàn được lực lượng mà vẫn toàn thắng (”thiện thủ giả, tàng ư cửu địa chi hạ, thiện công giả, động ư cửu thiên chi thượng”). Dự đoán chiến thắng mà không hơn nhiều người thì chưa gọi là giỏi trong những người giỏi, thắng 1 trận mà thiên hạ gọi là giỏi thì cũng chưa gọi là giỏi trong những người giỏi.. Cũng như nhấc một cọng lông thì không kể là khoẻ, nhìn thấy nhật nguyệt không kể là mắt tinh, nghe được sấm sét không kể là tai thính. Thời xưa, người giỏi dụng binh thường đánh bại kẻ địch dễ thắng nên việc giành được chiến thắng ấy không được tiếng là trí dũng. Chiến thắng của họ là không có gì phải nghi ngờ vì nó dựa trên cơ sở tất thắng kẻ địch đã lâm vào thế thất bại. Cho nên người giỏi dụng binh bao giờ cũng đặt mình vào thế bất bại mà cũng không bỏ qua cơ hội nào để thắng địch. Vì vậy, đội quân chiến thắng bao giờ cũng tạo điều kiện để thắng, sau mới giao tranh, đội quân chiến bại thường giao tranh tranh trước, sau mới tìm chiến thắng bằng sự cầu may. Người giỏi dụng binh có thể từ các mặt tu sửa cái lẽ không thể thắng để nắm được quyền quyết định sự thắng bại. Phép dụng binh là: Thứ nhất là “độ”, thứ hai là “lượng”, thứ 3 là “số”, thứ 4 là “xứng”, thứ 5 là “thắng”. Tính thế sinh độ, độ sinh lượng, lượng sinh số, số sinh xứng, xứng sinh thắng. Thắng binh dùng “dật” đánh “thù”, bại binh dùng “thù” chống “dật”. Người chiến thắng là người có quân lực hùng mạnh, chỉ huy tác chiến dùng binh như tháo nước đổ từ trên trời xuống vậy, cái này gọi là Hình của binh lực quân sự. Nguyên văn “Thắng giả chi chiến dân dã, nhược quyết tích thuỷ ư thiên nhẫn chi khê giả, hình dã”. Binh Pháp Tôn Tử :: Thiên 5 :: Thế Tử nói: Phàm điều khiển quân, bất kể nhiều hay ít đều là việc tổ chức biên chế quân đội, chỉ huy quân nhiều hay ít là vấn đề hiệu lệnh. Thống lĩnh toàn quân gặp địch tấn công mà không bị bại trận, ấy là nhờ vào thuật biến hóa kỳ ảo khi dùng binh là chính. Dùng binh công địch được thế như lấy đá chọI trứng, ấy là nhờ biết vận dụng chính xác tránh thực chọn hư. Phàm việc tác chiến, dùng chính binh đối địch, kỳ binh thủ thắng. Tướng giỏi dùng binh sẽ biết biến hóa tác chiến như trời đất không bao giờ cùng đường, sông biển không bao giờ cạn nước. Như mặt trăng mặt trời, lặn rồi lại mọc; như bốn mùa thay đổi, qua rồi lại đến. Âm nhạc cũng không quá 5 thanh âm, nhưng biến hóa khôn lường, nghe sao cho hết được; sắc màu cũng chỉ có 5 màu, nhưng biến hóa nhìn sao cho tận; vị bất quá cũng chỉ có 5 vị, như biến hóa nếm sao cho đủ. Chiến thuật cũng chỉ có kỳ và chính, nhưng biến hóa của kỳ và chính là vô cùng vô tận. Kỳ chính chuyển hóa lẫn nhau như vòng tròn không có khởi điểm cũng không có kết thúc, ai có thể biết được? Nước lã chảy xiết cuốn trôi cả đá gạch, đó là nhờ thế nước lũ. Chim ưng vồ mồi chỉ 1 cú có thể xé nát con mồi, đó là dựa vào thế tiết nhanh như chớp nhoáng. Người chỉ huy giỏi là người biết tạo nên thế hiểm hay tiết chớp nhoáng. Thế hiểm như cung đã giương hết mức, tiết chớp nhoáng như lấy nỏ phóng tên, nhanh vô cùng. Trong khi tác chiến, người ngựa rối loạn mà không để đội hình rối loạn. Hỗn loạn mù mịt mà vẫn đâu ra đấy, duy trì được thế, tiết thì không bị bại. Ta có tổ chức chặt chẽ thì khiến địch hỗn loạn, ta có lòng dũng cảm thì khiến địch khiếp sợ, ta có binh lực lớn thì khiến địch suy yếu. Chặt chẽ hay hỗn loạn là do ở tổ chức biên chế, dũng cảm hay khiếp sợ là do ưu thế tạo nên, lớn mạnh hay suy yếu là do thực lực đối sách thể hiện ra. Tướng giỏi là biết cách điều khiển quân địch, ngụy trang để dụ địch khiến kẻ địch di động theo ý mình, dùng lợi nhỏ dụ kẻ địch, địch ắt đến để chiếm. Dùng cách đó mà khiến quân địch đến nạp mạng. Người giỏi tác chiến là biết tạo ra tình thế có lợi chứ không trách thuộc cấp, biết chọn lựa và sử dùng nhân tài để tạo nên lợi thế. Người giỏi tác chiến tạo ra thế giống như lăn gỗ đá, gỗ đá ở chỗ bằng thì nằm im, ở chỗ nghiêng dốc thì dịch chuyển, vuông thì dừng, tròn thì lăn. Bởi vậy mà người giỏi chỉ huy tác chiến cũng như lăn hòn đá tròn từ trên núi cao vạn trượng xuống chân núi vậy. Thế tạo ra chính là như vậy. Binh Pháp Tôn Tử :: Thiên 6 :: Hư ThựcJanuary 30, 2008 — LAC™ Tôn Tử viết: Phàm đến chiến địa trước đợi địch là chiếm được thế chủ động an nhàn, đến chiến địa sau ứng chiến với địch là lâm vào thế mệt mỏi. Vì thế, người chỉ huy tác chiến giỏi là người có thể điều khiển quân địch chứ không thể theo sự điều khiển của quân địch. Khiến quân địch đến nơi ta làm chủ trước là kết quả của việc dùng lợi nhỏ nhữ địch. Khiến địch không thể đến nơi nó muốn, ấy là do ta ngăn cản được nó. Do thế, địch đang nghỉ ngơi, ta phải làm cho nó mệt mỏi, địch đầy đủ lương thảo, ta phải làm cho chúng đói khát, địch đóng trại yên ổn, ta phải làm cho chúng di chuyển, đó là vì nơi ta tấn công, địch ắt phải đến ứng cứu. Quân ta đi được nghìn dặm mà không mệt mỏi là do ta đến những nơi không bị địch ngăn trở, ta đánh mà chắc thắng là do ta tấn công vào nơi địch không cách gì phòng thủ, ta phòng thủ vững chắc do ta biết trước nơi sẽ bị địch tấn công. Người giỏi tiến công là người có thể làm cho địch không biết nơi mà phòng thủ, người giỏi phòng thủ là người có thể làm cho địch không biết phải tiến công vào nơi nào. Vi diệu, vi diệu đến mức vô hình. Thần kỳ, thần kỳ đến mức vô thanh. Vì thế mà ta có thể nắm vận mạng của quân địch trong tay. Ta tiến công mà địch không cản nỗi vì ta như tiến vào chỗ không người, ta thoái lui mà địch không đuổi theo vì ta hành động nhanh lẹ, địch không đuổi kịp. Bởi thế, ta muốn đánh thì dù địch có lũy cao hào sâu cũng phải ứng chiến với ta vì ta đánh vào nơi địch buộc phải ứng cứu, ta không muốn đánh thì vạch đất mà phòng thủ, địch cũng không thể đến đánh ta vì ta làm cho chúng phải đổi hướng tiến công. Ta khiến địch để lộ thực lực mà ta thì vô hình thì ta có thể tập trung binh lực, còn địch thì phân tán lực lượng. Ta tập trung binh lực ở một nơi mà địch phân tán lực lượng ở mười chốn, tức là ta dùng mười đánh một (he he … địch không chột cũng … chết vì bị hội đồng), như thế quân ta đông quân địch ít, lợi thế hẳn cho ta. Dùng nhiều đánh ít, tương quan lực lượng ta với địch rõ ràng là mình thắng. Nơi ta muốn tiến công, địch chẳng thể nào biết, không thể biết ắt địch phải bố trí phòng thủ nhiều nơi, đã phòng bị nhiều nơi thì quân số bị phân bố ắt nơi ta cần tiến công sẽ có ít quân địch. Địch giữ được “mặt tiền” thì mặt sau mỏng yếu, giữ được bên trái thì bên phải yếu mỏng. Binh lực mỏng là vì phòng bị khắp nơi, binh lực dồi dào là nhờ buộc địch phải phòng bị khắp chỗ. Vì thế, biết trước chiến địa và thời gian giao tranh thì dù xa ngàn dặm cũng có thể giao phong với địch. Không biết sẽ đánh ở đâu và vào lúc nào thì cánh trái không thể tiếp ứng cánh phải, cảnh phải không thể ứng tiếp cánh trái, mặt tiền không thể ứng cứu với mặt hậu, mặt hậu không thể ứng cứu mặt tiền, huống hồ xa ngoài ngàn dặm, gần trong vài dặm thì thế nào ? Theo ý ta, vượt người về số quân đâu có ích chi cho ta trong việc thắng bại, thắng lợi có thể do ta tạo thành. Quân địch tuy đông, có thể làm cho chúng không thể đấu với ta được. Phải bày mưu lập kế, phân tích kế hoạch tác chiến của quân địch, khiêu khích địch để nắm tình hình và phương cách hành quân của địch, trinh sát xem chỗ nào có lợi, chỗ nào bất lợi, đánh thử xem binh lực của địch mạnh yếu thực hư thế nào. Ta ngụy trang thật khéo khiến địch không tìm ra tung tích thì dù gián điệp có vào sâu trong đội hình cũng không biết rõ được quân ta, kẻ địch khôn ngoan mấy cũng chẳng biết cách đối phó với quân ta. Căn cứ vào sự thay đổi tình hình của địch mà vận dụng linh hoạt chiến thuật, dù có bày sẵn thắng lợi trước mắt chúng cũng không nhận ra sự ảo diệu của nó. Người ngoài chỉ biết ta dùng phương kế thắng địch chứ không biết ta đã vận dụng phương kế đó thế nào. Vì vậy, chiến thiến lần sau không lặp lại phương thức đã dùng trong lần trước mà phải thích ứng với tình hình mới, biến hóa vô cùng vô hình. Cách dùng binh cũng như dòng chảy của nước vậy, quy tắc vận hành của nước là từ chỗ cao đổ xuống thấp. Thắng lợi trên chiến trường là do ta biết tránh chỗ cứng, chỗ thực của quân địch mà đánh vào chỗ mềm, chỗ hư của địch. Nước tùy địa hình cao thấp mà định được hướng chảy, tác chiến căn cứ vào tình hình của địch mà quyết định cách đánh. Dụng binh tác chiến không có hình thế cố định, không có phương thức nhất định. Dựa vào biến đổi của địch mà chiến thắng thì gọi là dụng binh như thần. Ngũ hành tương sinh tương khắc, không có hành nào luôn thắng, bốn mùa nối tiếp nhau thay đổi, không có mùa nào cố định mãi, bóng mặt trời lúc dài lúc ngắn, vành trăng có khi tròn khi khuyết.
-
Binh Pháp Tôn Tử : Thiên 2 :: Tác Chiến Tôn Tử nói: Nguyên tắc chung khi dụng binh tác chiến là khi phải huy động chiến xa nghìn chiếc, xe tải nặng nghìn chiếc, quân đội mười vạn, vận lương đi xa nghìn dặm, thì tình huống đó, chi phí ở tiền phương và hậu phương, chi phí đãi khách khứa sứ thần, bảo dưỡng và bổ sung tiêu phí nghìn vàng thì mới có thể cho mười vạn quân xuất chinh được. Dùng một đạo quân khổng lồ như thế để tác chiến thì đòi hỏi phải thắng nhanh. Nếu kéo dài thời gian, quân đội sẽ mệt mỏi, nhuệ khí sẽ suy giảm; tấn công thành trì sẽ hao hết sức chiến đấu, quân đội tác chiến ở ngoài lâu có thể làm nền tài chính của quốc gia gặp khó khăn. Nếu quân đội mỏi mệt, nhuệ khí suy giảm thì lúc đó cho dù là người tài giỏi sáng suốt đến đâu cũng không thể cứu vãn tình thế được. Cho nên dùng binh đánh giặc, chỉ nghe nói trong tốc thắng có những thiếu sót vụng về chứ không bao giờ có việc kéo dài mà lợi cho quốc gia cả. Cho nên người không hiểu biết chỗ hại khi dụng binh thì không thể hiểu được chỗ lợi trong dụng binh. người giỏi dụng binh, lính mãn ngũ không gọi lại, lương thực không vận tải quá 3 lần, quân nhu lấy tại nước mình, lương thực giải quyết tại nước địch. Được vậy thì lương thảo cấp dưỡng cho quân đội sẽ được thoả mãn. Sở dĩ quốc gia phải nghèo vì dụng binh là do vận tải lương thực đi quá xa. Vận tải lượng thực xa, bá tánh sẽ nghèo. Chung quanh nơi quân đội tập kết, vật giá sẽ cao vọt bất thường. Vật giá cao vọt sẽ làm cho tiền tài của bách tính khô kiệt. Tiền tài khô kiệt tất phải gấp rút thu thêm thuế. Sức mạnh tiêu hao hết, tiền tài khô kiệt, trong nước khắp đồng quê nhà nhà đều trống rỗng. Bách tính thì tiền tài 10 phần hao bẩy, quốc gia thì xe hỏng ngựa mỏi mười phần hết sáu. Cho nên tướng soái giỏi lấy lương thực ở nước địch. Ăn 1 chung gạo ở nước địch bằng 20 chung gạo ở nước nhà. Dùng 1 thạch cỏ ở nước địch bằng 20 thạch cỏ ở nước nhà. Muốn quân hăng hái giết địch phải làm quân biết hận địch. Cướp của địch mà thưởng cho quân nhà. Đánh bằng xe, cướp được hơn 10 cái thì thưởng cho người đầu tiên cướp được. Bỏ cờ xe địch, cắm cờ quân nhà mà dùng chung với xe nhà. Đãi tù binh tử tế thì thắng địch mà làm quân nhà thêm mạnh. Thế nên dụng binh cốt thắng, không cốt kéo dài. Tướng soái giỏi dụng binh là thần hộ mệnh của dân, là người giữ sự an nguy cho quốc gia. <H2>Binh Pháp Tôn Tử :: Thiên 3 :: Mưu Công January 24, 2008 — LAC™ Tôn Tử nói: Đại phàm cái phép dụng binh, làm cho cả nước địch khuất phục trọn vẹn là thượng sách, đánh nó là kém hơn. Làm cho toàn quân địch chịu khuất phục là thượng sách, đánh nó là kém hơn. Làm nguyên lữ quân địch khuất phục là thượng sách, đánh nó là kém hơn. Làm nguyên một tốt địch khuất phục là thượng sách, đánh nó là kém hơn. làm nguyên một ngũ địch khuất phục là thượng sách, đánh nó là kém hơn. Thế nên bách chiến bách thắng cũng chưa phải cách sáng suốt trong sự sáng suốt. Không cần đánh mà làm kẻ địch khuất phục mới gọi là sáng suốt nhất trong sự sáng suốt. Cho nên thượng sách trong việc dùng binh là lấy mưu lược để thắng địch, kế đó là thắng địch bằng ngoại giao, kế nữa là dùng binh thắng địch, hạ sách là tấn công thành trì. Đánh thành là biện pháp bất đắc dĩ, chế tạo chiến xa, vũ khí phải mất 3 tháng mới hoàn thành, chuẩn bị binh mã lại mất 3 tháng nữa. Tướng sốt ruột xua quân đánh thành, thương vong 3 phần mất 1 mà vẫn chưa hạ được. Đó chính là cái hại của việc đánh thành. Cho nên người giỏi dụng binh, thắng địch mà không phải giao chiến, đoạt thành mà không cần tấn công, phá quốc mà không cần đánh lâu, nhất địch phải dùng mưu lược toàn thắng mà thủ thắng trong thiên hạ, quân không mỏi mệt mà vẫn giành được thắng lợi hoàn toàn. Phép dụng binh, gấp mười lần địch thì bao vây, gấp năm lần địch thì tấn công, gấp đôi chì chia ra mà đánh, bằng địch thì phải đánh khéo, kém địch thì rút, tránh giao tranh với địch. Binh yếu mà đánh thẳng tất bị bắt làm tù binh. Tướng soái là trợ thủ của quốc gia, trợ thủ tốt thì nước cường thịnh, kém thì nước suy yếu. Vua có thể gây bất lợi cho việc quân trong 3 trường hợp: Không biết quân không thể tiến mà bắt tiến, không biết quân không thể thoái mà bắt thoái, đó là trói buộc quân đội. Không biết việc quân mà can dự vào khiến tướng sĩ hoang mang khó hiểu. Không biết mưu kế dụng binh mà can dự vào khiến tướng sĩ băn khoăn nghi ngờ. Quân hoang mang nghi ngờ thì các nước chư hầu thừa cơ tấn công. Đó là tự làm rối mình khiến địch thắng. Cho nên có năm điều có thể thắng: Biết có khả năng đánh hay không có khả năng đánh, có thể thắng, Biết dựa vào binh lực nhiều ít mà đánh, có thể thắng, Quân tướng đồng lòng có thể thắng, Lấy quân có chuẩn bị đánh quân không chuẩn bị có thể thắng, Tướng giỏi mà vua không can thiệp vào có thể thắng. Đây là 5 điều có thể đoán trước được thắng lợi. Cho nên có thể nói: Biết địch biết ta, trăm trận không bại, biết ta mà không biết địch trận thắng trận bại, không biết địch không biết ta, trận nào cũng bại. (nguyên văn: Tri bỉ tri kỷ giả, bách chiến bất đãi, bất tri bỉ nhi tri kỷ, nhất thắng nhất phụ, bất tri bỉ bất tri kỷ, mỗi chiến tất đãi)</H2>
-
Gửi Dim, Ngày Đ.Sửu 5 tháng C. Thân năm M.Tý giờ hợi 1. Thời gian tới, trong công việc có sự thay đổi, thuyên chuyển sang bộ phận khác ko? độn Sinh Tiểu Cát Công việc hiện tại của Dim là văn phòng bàn giấy, công việc thuộc hành chính. Dim sẽ chuyển sang một công việc mới trong nội bộ công ty. Công việc này lúc đầu thì vẫn thuộc hành chánh, nhưng sau đó chuyển dần sang công tác có tiếp xúc, giao thiệp, ngoại giao, có đi lại đôi chút. Sớm là 3 tuần trể là 2 tháng sau. 2. Sự thay đổi/ ko thay đổi này có tốt cho em ko? độn Thương Vô Vong Sự thay đổi công tác này không có gì trở ngại. Chỉ có điều hay luôn âu lo, trăn trở với những trách nhiệm mới lạ. Nói chung là tốt. 3. Tình hình tài chính của em thời gian tới thế nào? độn Đỗ Đại An Công việc nhiều mà tiền cũng nhiều. Có cơ hội lên lương. Thu nhập ổn định. Quẻ này Đại cát đại lợi. 4. Có nên đầu tư kinh doanh gì thêm ko? độn Cảnh Lưu Niên Việc đầu tư kinh doanh này suy tính đã lâu cỡ cũng đà một năm,muôn phiêu lưu vươn xa trong sự nghiệp. Khởi sự mùa xuân năm sau thì tốt. Chớ quá nóng vội trong công cuộc đầu tư, bỏ vốn vào đầu tư điều gì phải suy tinh kỹ. Chậm mà chắc ăn. Gửi FireScorpion 1. vậy cháu có nên đổi nghề khác sang kinh tế hoặc XNK không? độn Tử Tốc Hỷ Lòng bạn đang nao núng, lo lắng cho sự nghiệp, muốn có những thay đổi bức phá vươn tới tương lai. Cái tương lai trong tưởng tượng nhiều thêu dệt. Nếu chuyển sang môi trường khác, bạn lại vẫn lẫn quẩn như bây giờ.Nên ở lại, chuyên chú công việc, chơi thể thao, nhậu lai rai với bạn bè, tập yoga...Nên tạo một năng lượng hoạt động thì hơn. 2. nếu không đổi nghề mà đổi chỗ làm thì công việc và thu nhập có tốt hơn ko? độn Kinh Xích Khẩu Nếu đội chổ làm thì công việc mới nhiều áp lực hơn, tính cạnh tranh nhiều hơn nhưng tiền cũng nhiều hơn. Lương sẽ cỡ 4 "chai" trở lên. 3. về đổi chỗ làm thì hiện tại có một người nam là sếp cũ cháu đang hứa giúp đỡ, vậy xin hỏi là có thành hay ko? độn Khai Tiểu Cát Lợi đến từ qưới nhơn. Chắc chắn thành.Yên chí lớn. Chúc hai người thành công. :P LacTuong :lol:
-
Binh Pháp Tôn Tử :: Thiên 1 :: Kế Sách January 24, 2008 — LAC™ Tôn tử nói: Chiến tranh là đại sự của quốc gia, quan hệ tới việc sống chết của nhân dân, sự mất còn của nhà nước, không thể không khảo sát nghiên cứu cho thật kỹ. Cho nên, phải dựa vào năm mặt sau đây mà phân tích, nghiên cứu, so sánh các điều kiện tốt xấu giữa hai bên đối địch, để tìm hiểu tình thế thắng bại trong chiến tranh: Một là Đạo. Hai là Thiên. Ba là Địa. Bốn là Tướng. Năm là Pháp. Đạo là chỉ việc chính trị, đạo nghĩa, phải làm cho nguyện vọng của dân chúng và vua nhất trí với nhau, đồng tâm đồng đức. Có như vậy, trong chiến tranh mới có thể bảo nhân dân vì vua mà chết, vì vua mà sống, không sợ hiểm nguy. Thiên là thiên thời, nói về ngày đêm, trời râm trời nắng, trời lạnh trời nóng, tức tình trạng về khí hậu thời tiết. Địa là địa lợi, nói về đường sá xa gần, địa thế hiểm yếu hay bằng phẳng, khu vực tác chiến rộng hẹp, địa hình phải chăng có lợi cho tiến công, phòng thủ, tiến tới, thối lui. Tướng là tướng soái, tức nói về tài trí, uy tín, lòng nhân ái, lòng can đảm, sự uy nghiêm của người tướng. Pháp là pháp chế, nói về tình trạng tổ chức, biên chế, sự quy định về hiệu lệnh chỉ huy, sự phân chia chức quyền của tướng tá, sự cung ứng vật tư cho quân đội và chế độ quản lý… Tình huống về năm mặt nói trên, người tướng soái không thể không biết. Chỉ khi nào hiểu rõ và nắm chặt được những tình huống đó thì mới có thể giành được sự thắng lợi. Không thật sự hiểu rõ và nắm chắc được thì không thể đắc thắng. Cho nên phải từ bảy mặt sau mà tính toán, so sánh những điều kiện đôi bên giữa địch và ta để tìm hiểu tình thế thắng bại trong chiến tranh. Tức là phải xem xét: Vua bên nào có nền chính trị được lòng dân hơn? Tướng soái bên nào có tài năng hơn? Thiên thời địa lợi bên nào tốt hơn? Pháp lệnh bên nào được quán triệt hơn? Thực lực quân đội bên nào mạnh hơn? Binh sỹ bên nào được huấn luyện thành thục hơn? Thưởng phạt bên nào nghiêm minh hơn? Căn cứ vào những điều đó, ta có thể tính toán mà biết trước được ai thắng ai thua. Nếu chịu nghe mưu kế của ta, để cho ta chỉ huy tác chiến thì chiến tranh có thể thắng lợi, ta sẽở lại; Nếu không chịu nghe mưu kế của ta, cho dù có dùng ta để chỉ huy tác chiến, chiến tranh tất nhiên bị thất bại, ta sẽ rời đi (nguyên tác “Tướng thinh ngã kế, dụng chi tất thắng, lưu chi; tướng bất thinh ngã kế, dụng chi tất bại, khứ chi”) Nếu kế sách có lợi và được chấp thuận, còn phải tìm cách tạo ra tình thế có lợi để làm điều kiện phụ trợ bên ngoài cho việc tiến hành chiến tranh. Thế, tức là căn cứ vào tình huống phải chăng có lợi để mà có hành động tương ứng. Dùng binh đánh giặc là hành động dối trá (nguyên tác “Binh giả, quỷ đạo giã” là câu cửa miệng rất nổi tiếng của các vị trí tướng). Thông thường, nếu có thể tấn công thì giả như không thể tấn công, muốn đánh như giả như không muốn đánh, muốn hành động ở gần nhưng giả như muốn hành động ở xa, muốn hành động ở xa nhưng lại giả như muốn hành động ở gần. Lấy lợi mà dụ kẻ tham, chiến thắng kẻ loạn, phòng bị kẻ có thực lực, tránh kẻ thù mạnh, khiêu khích kẻ hay giận dữ. Địch khinh thường thì làm chúng thêm kiêu, địch nhàn hạ thì làm chúng vất vả, địch đoàn kết thì làm chúng ly tán. Tấn công kẻ thù lúc chúng không phòng bị, hành động khi chúng không ngờ tới (nguyên tác “Công kỳ vô bị, xuất kỳ bất ý”). Tất cả những điều nói trên đều là sự khôn khéo để thủ thắng của nhà quân sự, nhưng lại không thể quy định trước một cách máy móc. Phàm trước khi khai chiến, đoán được thắng là do tính toán đầy đủ.Trước khi khai chiến mà đoán không thắng là do tính toán không chu đáo. Tính nhiều hơn tính ít, huống hồ không tính toán gì. Quan sát đủ các mặt đó, ai thắng ai bại có thể đoán trước được.
-
Ui dào! Vậy là quẻ bốc sai hả Nai? Chuyện nhỏ mà. Cho nên LacTuong mới khuyên là dùng quẻ ngày tháng năm sinh của người đó thì có thể đoán được. LacTuong có đoán Nai tóc vàng mà là da vàng, nghĩa là không trắng như hột gà bốc, cũng hong đen như bánh gai.hì hì :P LacTuong :lol:
-
Lucky nè, em có thể đăng ký và hoàn thành luận văn tốt nghiệp thật tốt đẹp không ạ? Ngày A.hơi th c. Thân năm M.Tý giờ hợi Kinh Lưu Niên việc đăng ký đề tài của Lucky sẽ gặp nhiều trở ngại bước đầu. Chớ yêu cầu hay chọn một giáo viên đứng tuổi (lão) làm người hướng dẫn hoặc nộp đơn xin, sẽ gặp nhiều trở ngại. Ít nhất là lần thứ hai em mới được đồng ý duyệt cho thực hiện đề tài. Em muốn hỏi là việc xin đi du học của em có thành công k? Khai Tốc Hỷ Việc này cũng không suông sẻ, phải đến tháng 5 AL thì mới xong. Nói chung là tương đối tốt. :P LacTuong :lol:
-
Lời khuyên: 1.Chớ dùng quẻ cảm ứng để đoán hình dáng đối tượng, nếu cảm ứng không thật sự dồi dào. Nghĩa là chưa đạt cấp độ 3 LVDT. 2.Nên dùng ngày tháng năm giờ sinh của đối tượng mà đoán. Nghĩa là lấy quẻ mệnh. 3.Ngoài ra còn nhiều "chiêu" khác, "món" khác cũng đoán được nhân dạng con người. 4.Còn lại là...không cần đoán mà..."thấy" ngay nhân dạng người đó như thế nào. Cái này chỉ có khi đạt được như Van-ga, Phan Thị Bích Hằng...(ACE mình thì botay.com.hihi) :lol: LacTuong :P
-
KIM DUNG GIỮA ĐỜI TÔI VŨ ĐỨC SAO BIỂN Khái quát phong cách xây dựng nhân vật Trong những năm trước 1975 tại miền Nam người đọc xem Kim Dung tiên sinh, tiểu thuyết gia Hongkong, là một nhà văn lớn. Những tác phẩm tiểu thuyết võ hiệp của ông, được đăng báo dưới dạng feuilleton hoặc in thành sách, đã hấp dẫn hàng triệu người đọc Việt Nam. Văn của ông đã được truyển trạch để đưa vào giáo trình văn cấp trung học và đại học tại Đài Loan, Hongkong và Hoa Lục. Và ngay trong lòng nước Mỹ, người Hoa đã lập ra “Kim Dung học hội”, chuyên nghiên cứu, giới thiệu và dịch những tác phẩm của ông ra tiếng Anh, Pháp, Tây Ban Nha....Điều mà người ta dễ nhận ra nhất là bút lực của Kim Dung rất hùng hậu. Mỗi tác phẩm là một bộ (thường trên 10 quyển, trung bình khỏang 500, 600 trang một quyển). Chúng tôi chỉ xin giới thiệu đầu tiên một khía cạnh trong kỹ thuật tiểu thuyết của ông: phong cách xây dựng nhân vật. Trước năm 1975, sách Kim Dung được in gồm: 1. Thư kiếm ân cừu lục 2. Bích huyết kiếm 3. Xạ điêu anh hùng truyện 4. Thần điêu hiệp lữ 5. Tuyết Sơn phi hồ 6. Phi hồ ngoại truyện (Lãnh nguyệt bảo đao) 7. Ỷ thiên Đồ long ký 8. Liên thành quyết (Tố tâm kiếm) 9. Thiên Long bát bộ (Lục mạch thần kiếm truyện) 10. Hiệp khách hành 11. Tiếu ngạo giang hồ 12. Lộc Đỉnh ký Một điều cần lưu ý là nếu chúng ta phân biệt rõ 4 khái niệm: Truyện (tiểu thuyết hoàn toàn hư cấu), Ký (tác phẩm văn xuôi viết về người thật, việc thật) và Lục (cuốn sách) thì Kim Dung sử dụng 3 khái niệm đó với một ý nghĩa duy nhất để chỉ các bộ tiều thuyết võ hiệp của ông. Khuynh hướng của Kim Dung là thường đặt những cuốn tiểu thuyết của mình vào những hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Trung Quốc. Bộ Thiên Long bát bộ được đặt và khung cảnh lịch sử triều Tống (1127-1279) với sự tương tranh, tương giao của 6 thế lực phong kiến: Tống, Đại Lý, Khiết Đan (Liêu), Tây Hạ, Thổ Phồn và Yên (Tiên Ti, đã suy tàn). Bộ Lộc Đỉnh ký được đặt vào khung cảnh lịch sử triều Khang Hy (1662-1722) nhà Thanh, khi mà các thế lực chống Thanh như Đường Vương, Quế Vương, Lỗ Vương và Thiên Địa hội hoạt động mạnh... Chính vì thế, trong tiều thuyết của ông, có những nhân vật lịch sử như Triệu Hú (Tống Triết Tông), Gia Luật Hồng Cơ (hoàng đế Đại Liêu), Đoàn Chính Minh (hoàng đế Đại Lý), Khang Hy (hoàng đế Thanh), Trần Vĩnh Hoa (Trần Cận Nam, tổng đường chủ Thiên Địa hội)... Bên cạnh đó là nhưng nhân vật thuần túy hư cấu, thường là nhân vật chính của tiều thuyết... Trong Thiên Long bát bộ, đó là Kiều Phong, Đoàn Dự, Hư Trúc, Du Thản Chi, Đinh Xuân Thu...Trong Lộc Đỉnh ký, đó là Vi Tiểu Bảo. Những nhân vật tiểu thuyết của ông kết hợp với nhân vật lịch sử tạo thành một phong cách tiều thuyết hư hư, thực thực. Phong cách này khá đậm nét khi ông xây dựng cặp nhân vật Khang Hy-Vi Tiểu Bảo trong Lộc Đỉnh ký. Từ 1 thằng bé lưu manh trong động điếm Lệ Xuân viện thành Dương Châu, Vi Tiểu Bảo đã bị hoàn cảnh đẩy đưa lên Bắc Kinh giả làm thái giám rồi thân cận với vua Khang Hy, gia nhập Thiên Địa hội làm một thứ gián điệp hai mang, trờ thành công tước triều Thanh, nhận nhiệm vụ ký hoà ước lịch sử Hắc Long giang 1684 với Phí Diêu Đa La (Féodore) của Nga Ta Lư! Tác giả có ghi chú rõ về chuyện hư cấu của mình nhưng điều ấy vẫn không làm giảm đi sự thú vị trong lòng người đọc. Một cách khái quát, nhân vật trong tiểu thuyết Kim Dung thường được chi làm 2 tuyến: chính phái (hay bạch đạo) và tà phái (hay hắc đạo). Tuy nhiên, trong tác phẩm Kim Dung không hề rơi vào chủ nghĩa công thức: những kẻ mà ông xếp vào hàng tà thường là những chính nhân quân tử, những kẻ mà ông giới thiệu như là chính nhân quân tử là là kẻ chẳng ra gì. Bất kỳ người Trung Quốc nào cũng gọi Minh giáo (tức Bái hỏa giáo) từ Ba Tư truyền sang là tà đạo. Trong Ỷ thiên Đồ long ký, Kim Dung đã chứng minh ngược lại: Minh giáo là một chính giáo, nồng nàn tình cảm yêu nước, xả thân để cứu trăm họ ra khỏi ách thống trị của Mông Cổ. Những Trương Vô Kỵ, Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu, Phạm Dao, Hân Thiên Chính... là những con người quang minh lỗi lạc, hành sự trong sáng, sống rất người. Và chính nghĩa thuộc về họ, chứ không phải thuộc về nhân vật Chu Nguyên Chương, vốn đầy thủ đoạn chính trị, đã cướp công Minh giáo để lên ngôi mở ra nhà Minh. Còn có ai đẹp hơn Quân tử kiếm Nhạc Bất Quần, chưởng môn phái Hoa Sơn trong Tiếu ngạo giang hồ? Thế nhưng từ cuốn 9 trở đi, Nhạc Bất Quần dần dần hiện nguyên hình là một kẻ độc ác; dùng con gái làm bậc thang để leo lên, giết cả rể, lừa vợ, giết học trò, quyết chiếm được ngôi MInh chủ Ngũ Nhạc phái, tự thiến để trở thành kẻ lại cái. Nguỵ quân tử vẫn nguy hiểm hơn chân tiểu nhân! Những nhân vật chính trong tác phẩm của Kim Dung thường là những con người bao dung, đôn hậu, không hủ nho, câu nệ, không làm bộ làm tịch. Đó là Kiều Phong tự tử ngoài Nhạn Môn quan để mưu cầu hòa bình cho trăm họ Tống-Liêu. Đó là tiểu anh hùng Hồ Phỉ (Phi hồ ngoại truyện) tìm ra kẻ thủ giết cha mà vẫn không xuống tay hạ sát. Đó là Quách Tĩnh (Xạ điêu anh hùng truyện) liều chết để giữ thành Tương Dương, là Thạch Phá Thiên chỉ biết sống thuần phác khôn hề hại ai... Họ chính là mẫu “người hùng” lý tưởng theo nhận thức đạo đức Trung Hoa. Chúng ta không nắm rõ lắm về thân thế Kim Dung. Nhưng truyện của ông thường danh tình cảm cho những con người xuất thân rất tầm thường, những đứa bé mồ côi không cha mẹ hoặc không biết ai là cha mẹ. Lệnh Hồ Xung, Hồ Phỉ, Thạch Phá Thiên, Trương Vô Kỵ, Dương Qua...là những chàng trai, những cậu bé như vậy. Đời đã dạy họ cách sống và vốn sống. Và họ đã thành người, những con người rất trung thực, đạo đức. Kim Dung đặt tên cho những nhân vật mình rất hay. Có những nhân vật mà cái tên biểu hiện đầy đủ tính cách của mình: Nhậm Ngã Hành (chỉ làm theo ý mình), Nhạc Bất Quần (không chơi với ai) nhưng lại có rất nhiều bạn bè. Thông thường, trước mỗi tên nhân vật, tác giả đặt cho một ngoại hiệu. Điều thú vị là loại nhân vật càng xoàng xĩnh thì ngoại hiệu càng “kêu”: Đoạn ngạc tam quyền, Đoạt mệnh tam quền, Nhất kiếm chấn Thiên Nam...Nhân vật có ngoại hiệu dài nhất là Giang dương đại đạo vạn lý độc hành thái hoa dâm tặc khoái đao Điền Bá Quang (tướng cưới đường sông biển, tên dâm tặc chuyên hãm hiếp phụ nữ, ngàn dặm đi một mình, đánh đao rất nhanh) và Đả biến thiên hạ vô địch thủ kim diện Phật Miêu Nhân Phượng (đánh khắp thiên hạ không ai địch nổi, Phật mặt vàng). Có ngoại hiệu làm cho người đọc nhận lầm là 3 nhân vậtt khác nhau như Côn Lôn tam thánh Hà Túc Đạo (Ỷ thiên Đồ long ký). Thực sự, “tam thánh” là lời người đời xưng tụng Hà Túc Đạo cầm thánh, kỳ thánh, kiếm thánh chứ không phải là “3 ông thánh”. Có những nhân vật thoạt đọc ngoại hiệu cứ tưởng là một người hoá ra 2 như Hoàng Hà Lão Tổ (Lão Đầu Tử và Tổ Thiên Thu sống trên sông Hoàng Hà - Tiếu ngạo giang hồ). Những nhân vật chính, siêu việt thuờng không có ngoại hiệu hoặc ngoại hiệu rất ngắn : Kiều Phong, Hư Trúc, Đoàn Dự, Bắc cái Hồng Thất... Ngay cách đặt tên nhân vật cũng đã nói lên tài năng của Kim Dung. Đây cũng là chỗ giúp người đọc phân biệt truyệt thật của Kim Dung và những nguỵ tác. Truyện của Kim Dung thường có những nhân vật quái dị, mỗi nhân vật mang một phong cách riêng, không giống ai. Đó là Tiêu Tương dạ vũ Mạc Đại tiên sinh (Tiếu ngạo giang hồ), chưởng môn phái Hành Sơn, vẫn ăn mặc rách rưới, giấu thanh kiếmỏng như lá lúa trong cây đàn; là Đoàn Dự, Du Thản Chi (Thiên Long bát bộ) suốt đời si tình, chạy theo nhan sắc; là Vi Tiểu Bảo (Lộc Đỉnh ký) lưu manh nhưng chẳng bao giờ cần che giấu tính lưu manh... Loại nhân vật này tiều biểu cho quan điểm “hoà nhi bất đồng” (có hòa mình vẫn không giống được) của Nho giáo. Những nhân vật của ông sống với cả tính cách, đặc điểm của mình. Họ có thể sống rất tố, cũng có thể rất xấu những mỗi con người như vậy - dù chỉ xuất hiện trong một đọan ngắn ngủi - vẫn để lại những ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Điều ấy đã bao nhiều nhà văn làm được. Kim Dung sử dụng phong cách xây dựng nhân vật như một cách đánh lừa độc giả và gây cho độc giả sự thú vị khi được “bị lừa” như vậy. Mở đầu Tiếu ngạo giang hồ là hình ảnh tốt đẹp của Lâm Bình Chi. Sau đó, Lâm Bình Chi bị lâm nạn nhà tan, người chết, phải lưu lạc tha hương. Ai cũng nghĩ Lâm Bình Chi là nhân vật trung tâm, con người chính nân quân tử. Nhưng không! Đọc hết bộ sách chúng ta mới thấy cái rởm đời của Lâm Bình Chi, cái chân thật của Lệnh Hồ Xung. Hạnh phúc thuộc về những con người chân thật. Đọc Hiệp khách hành, ta cứ ngỡ Thạch Phá Thiên là một tên tiểu ma đầu tàn bạo, dâm ác, lừa lọc. Nhưng không, cậu chỉ có một cái tội: giống hệt người anh ruột tàn ác, dâm đãng Thạch Trung Ngọc. Chỉ có đôi mắt trẻ thơ của A Tú mới nhìn ra được chỗ khác biệt tốt đẹp đó, điều mà tất cả mọi người lớn không nhìn ra. Và cuối cùng, Thách Phá Thiên đã tìm ra được pho võ công thượng thặng ẩn trong bài thơ Hiệp khách hành của Thi tiên Lý Bạch, không phải do nghiên cứu được ý nghĩa của bài hành, mà nhờ chỉ nhìn nét viết (vì cậu không biết chữ). Kim Dung muốn chứng mình một điều: cái chân thật, cái dốt nát vẫn thắng được cái cơ tâm, cái hiểu biết rộng rãi nhất. Ai không thú vị với những định đề như vậy? Sẽ rất thiếu sót nếu như chúng ta bỏ quên những nhân vật nữ trong tác phẩm Kim Dung. Tuy mang danh là truyện võ hiệp nhưhng tác phẩm Kim Dung thực chất là những tiều thuyết về tình yêu đôi lứa. Các nhân vật nữ của ông xuất thân trong xã hội phong kiến nhưng sống và yêu rất lãng mạn - tất nhiên trong sự cho phép của lễ giáo Trung Hoa. Đó là nhưng con người biết yêu say đắm và biết xả thân vì người yêu: Nhậm Doanh Doanh - Lệnh Hồ Xung (Tiếu ngạo giang hồ), Triệu Mẫn – Trương Vô Kỵ (Ỷ thiên Đồ long ký), Viên Tử Y - Hồ Phỉ (Lãnh nguyệt bảo đao), A Tú - Thạch Phá Thiên (Hiệp khách hành), A Châu - Kiều Phong (Thiên Long bát bộ). Tuy nhiên trong mọi tình huống, họ vẫn giữ được tiết sạch giá trong của người phụ nữ phương Đông. Nói như vậy, không có nghĩa là Kim Dung vẫn giữ nhân vật nữ của mình bo bo trong vòng tư duy cổ điển của lễ giáo Trung Hoa. Không, ông đã tạo ra những tình huống có vấn đề: Kỷ Hiểu Phù đã hứa hôn với Hân Lợi Hanh nhưng lại thất thân với Dương Tiêu, sinh ra đứa con gái và đặt tên là Bất Hối (không hối hận) (Ỷ thiên Đồ long ký). Tiểu Long Nữ là sư phụ, đã bị kẻ khác cưỡng dâm nnhưng vẫn yêu say đắm đồ đệ của mình là Dương Qua (Thiền điêu hiệp lữ). Những nhân vật nữ của ông biết đánh kiếm, đánh chưởng, ám khí, ghen tuông, giận hờn, đau xót vì chia ly. Họ có một vẻ đẹp riêng từ ngoại hình đến tâm hồn, rất lý tưởng, nhưng cũng rất thật. Cũng có thể nói Kim Dung là nhà văn lớn phương Đông thế kỷ XX. Về mặt trước tác, tác phẩm của ông đồ sộ hơn bất cứ nhà văn nào khác. Bút pháp của ông lôi cuốn, hấp dẫn người đọc một cách lạ lùng. Và hệ thống kiến thức của ông từ y học đấn địa lý, lịch sử, võ thuật, tâm lý, bệnh học, tôn giáo... hoàn chỉnh một cách vô song. Tiếc thay một nhà văn như vậy là chưa có tên trong những nhà văn được nhận giải Nobel văn học. Nhưng dù gì đi nữa, những nhà văn khác cũng đã học tập được từ Kim Dung nhiều kinh nghiệm tiểu thuyết. Ông xứng đáng là nhà văn bậc thầy của những bậc thầy trong thế kỷ chúng ta.
-
NHỮNG GIAI THOẠI VỀ TÀI LÝ SỐ của TRẠNG TRÌNH NGUYỄN BỈNH KHIÊM 1. Chuyện sắt ngắn gỗ dài: Tối 30 Tết, Cụ Trạng Trình đang ngồi luận lý số cùng một học trò ở xa đến thăm và biếu cụ lễ vật. Bỗng ở ngoài cổng có tiếng người gọi mở cửa. Cụ sai gia nhân ra bảo hãy chờ cụ một chút. Rồi Cụ bảo học trò bấm quẻ đoán xem người kêu cổng ấy gọi mở cửa để làm gì. Cả hai thầy trò đều bấm ra quẻ "Thiết đoản mộc trường" dịch ra là: Sắt ngắn gỗ dài. Cụ hỏi học trò: - Vậy anh đoán nó vào đây có việc gì? Anh học trò đáp: - Thưa Cụ, theo ý con thì sắt ngắn gỗ dài, ắt hẳn người ấy vào đây mượn cái xuổng hay cái cuốc. Cụ cười đáp: - Khác với anh, tôi đoán nó vào đây mượn cái búa. Nói xong, Cụ cho gia nhân ra mở cửa và mời người gọi cửa vào, thì đó là người láng giềng đi vào yêu cầu cho mượn cái búa, đúng như lời Cụ đoán. Cụ giải thích cho anh học trò: - Anh bấm quẻ giỏi, nhưng đoán còn thấp. Ngày 30 Tết thì ai đi mượn cái xuổng hay cái cuốc làm gì, cho nên tôi đoán nó mượn cái búa để chẻ củi nấu bánh cúng Tết mà thôi. Bấm quẻ trúng nhưng khi đoán phải có ý thức cơ biến mới tránh khỏi sai lầm. 2. Số phận chiếc quạt giấy và cái gối. Cụ Trạng Trình muốn thử xem lý số mà cụ học được có hiệu nghiệm không. Cụ làm hai thí nghiệm sau đây: * Cụ làm một chiếc quạt giấy. Làm xong, Cụ bói số mệnh của cây quạt giấy nầy thì được quẻ: "Nữ nhân phá hủy". Cụ viết 4 chữ nầy lên quạt và treo quạt ở đầu giường. Đến gần tới ngày giờ quẻ ứng, Cụ ngồi trên giường luôn luôn để mắt theo dõi quẻ ứng hiện như thế nào? Chợt bên hàng xóm có người đến mời Cụ qua dự đám giỗ, nhưng Cụ bận theo dõi chiếc quạt nên chưa thể qua ngay được. Người hàng xóm đến mời nữa, và nói với Cụ Bà giục Cụ đi qua để trễ tiệc. Cụ Bà vào phòng hối Cụ đi mấy lần, nhưng Cụ vẫn lo theo dõi cái quạt nên chưa thể đi được. Cụ Bà bực tức thấy ông ngồi không mà chưa chịu đi, mắt lại nhìn cái quạt không rời. Cụ Bà liền giựt phăng cái quạt, xé đi rồi nói: - Quí báu gì cái quạt giấy nầy mà ông cứ nhìn nó hoài như mất thần, để người ta qua đây ba bốn phen mời mọc. Cụ cười xòa vui vẻ và liền đi ngay qua đám giỗ. Cụ nhận thấy lẽ nhiệm mầu trong khoa lý số đã thể hiện rất chính xác. Nhưng Cụ vẫn còn chút hồ nghi sự việc xảy ra có phải do ngẫu nhiên chăng? Do đó, Cụ làm thêm thí nghiệm thứ nhì: * Cụ làm một chiếc gối bằng gỗ để ở đầu giường. Cụ bói số mệnh chiếc gối thì được quẻ: "Thử đầu nhi phá". Cụ rất ngạc nhiên vì gối kê ở đầu giường luôn luôn thì làm sao chuột phá hỏng được. Cụ ghi lên gối 4 chữ ấy rồi chờ thời gian xem kết quả. Tới ngày tháng đúng như trong quẻ đã định, có một ông bạn thân đến thăm Cụ và ngồi nói chuyện với Cụ trong phòng. Chợt có một con chuột thập thò ở gầm ghế, ông bạn quơ tay xua đuổi, con chuột không chạy đi, mà cứ ở đó nhìn ông lau láu như có ý chọc tức. Ông bạn nổi giận, thuận tay lấy ngay cái gối gỗ ném vào con chuột. Con chuột lanh chân chạy thoát, còn chiếc gối gỗ thì va vào gạch gãy ra làm nhiều mảnh. 3. Thánh nhân mắt mù: Khi sắp mất, Cụ Trạng Trình có ghi vào gia phả và dặn con cháu rằng; "Bình sanh ta có một tấm bia đá để sẵn và đã sơn kia. Khi ta nhắm mắt rồi, các con phải nhớ, hễ hạ quan tài xuống, phải để tấm bia ấy lên nắp rồi mới lấp đất lại. Sau 50 năm, hễ khi nào có một người lạ đến viếng mộ ta mà nói rằng: Thánh nhân mắt mù, thì phải lập tức mời người ấy về nhà, yêu cầu họ đặt hướng lại ngôi mộ cho ta. Chúng bây phải nhớ kỹ và canh chừng, chớ không được cải cát. Nếu trái lời ta, dòng dõi về sau sẽ suy đồi lụn bại." Con cháu nghe lời và làm y theo lời Cụ dặn. Đúng 50 năm sau, một hôm có một người Tàu đến viếng mộ, nhìn ngôi mộ của cụ một lúc thì cất tiếng than rằng: - Cái huyệt ở đàng chân sờ sờ thế kia mà không biết, lại tự đem để mả thế nầy? Vậy là Thánh nhân cái gì đâu? hay là Thánh nhân mắt mù đó! Người nhà nghe câu Thánh nhân mắt mù, liền chạy về báo cho Tộc trưởng hay, ông nầy vội vàng ra rước người Tàu đó vào nhà, thết đãi tử tế, rồi nhờ đặt giùm ngôi mộ lại. Khi nói chuyện mới hay người Tàu đó là một nhà địa lý nổi tiếng ở bên Tàu mới sang nước ta. Ông ta đến đây là để xem di tích của Cụ Trạng thế nào mà tiếng đồn qua tới bên Tàu rằng: An Nam lý học hữu Trình Tuyền. Khi nghe ông Trưởng tộc yêu cầu đặt hướng lại cho ngôi mộ thì người Tàu tỏ ý sẵn sàng giúp, để chứng tỏ Trạng Trình còn thua ông ta một bực. Do đó ông ta cảm thấy rất thích chí, hiu hiu tự đắc và thầm nghĩ rằng: Với Cụ Trạng, thực ra chỉ nghe đồn chớ thực mục sở thị thì có gì giỏi đâu? Ông ta bảo: - Không cần phải đem đi đâu xa cả, chỉ đào lên rồi táng lại tại chỗ, nhích ra sau một chút và quay đầu lại là được. Ông Trưởng tộc cả mừng, vội tụ họp con cháu lại, đưa thầy địa lý người Tàu ra mộ rồi đào lên. Khi đào xuống sắp tới quan tài thì gặp một tấm bia đá, ông thầy Tàu lấy làm lạ, sẵn tính hiếu kỳ, ông bảo đem rửa sạch bia đá, để xem trên đó khắc chữ gì, thì thấy trên bia ấy có khắc bài thi: Ngũ thập niên tiền mạch tại đầu, Ngũ thập niên hậu mạch tại túc. Hậu sinh nhĩ bối ná năng tri, Hà vị Thánh nhân vô nhĩ mục? Nghĩa là:Năm chục năm trước mạch tại đầu, Năm chục năm sau mạch tại chân. Biết gì những kẻ sanh sau, Thánh nhân có mắt mù đâu bao giờ? Khi xem xong bài thơ trên, ông thầy Tàu mới bật ngửa ra, phục Cụ Trạng Trình sát đất. Cụ tiên tri tài thiệt, sao Cụ lại biết trước những lời của mình sẽ nói? Quả thật, mình chỉ đáng là học trò của Cụ thôi.4. Thằng Khả làm ngã bia tao: Trước ngày Cụ Trạng qui Tiên, Cụ tạc một bia đá và dặn chôn ở rìa mộ của Cụ, trên đó có ba câu: "Cha con thằng Khả, đánh ngã bia tao, làng biết được bắt thường tam quán." Lúc đó người coi bia chẳng hiểu ra sao, cứ làm đúng lời Cụ dặn. Cho tới một thời gian rất lâu về sau, đến một hôm có hai cha con người đó tên là Khả, đi đào chuột. Khi hai cha con đến gần nơi mộ của Cụ Trạng thì thấy có hang chuột, liền đào xuống để bắt chuột. Hang chuột chạy lòn xuống đáy bia đá, chỉ lo đào hang mà quên để ý đến tấm bia đá, đào một hồi thì tấm bia đá mất chưn đứng, ngã kềnh ra mà chưa bắt được con chuột nào. Bọn trẻ mục đồng thấy bia ngã, chúng tri hô lên, rồi làng biết, kêu cha con ông Khả lên làng, bắt nộp tiền phạt và phải dựng bia lại như cũ. Cha con anh Khả đành chịu nộp phạt, nhưng nhà nghèo, trong nhà chỉ có một quan tiền tám, nên xin làng cho nộp phạt bao nhiêu đó mà thôi. Làng cũng đành chịu. Thế mới biết Cụ Trạng Trình rất tài giỏi về khoa lý số, biết được tên người làm ngã bia của Cụ, và lại biết số tiền nộp phạt là tam quán, nói lái là quan tám. 5. Ông Nguyễn Công Trứ phá Đền: Năm Minh Mạng thứ 14, vua Minh Mạng bắt khai con sông Hải Dương. Lúc ấy, ông Nguyễn Công Trứ đang làm Tri Huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương, lãnh chiếu chỉ của vua thi hành việc khai con sông đó, địa chính theo lịnh của vua phải cắm cho thẳng, nhưng khổ thay lại trúng thẳng vào Đền thờ của Cụ Trạng Trình, mà ngôi Đền nầy nổi tiếng linh thiêng. Ông Trứ truyền lịnh cho dân phải phá Đền khai sông. Dân chúng không ai dám phá, Ông Trứ cũng phân vân, vì trên là lịnh của vua, dưới là ý của dân, nếu không tuân lịnh vua thì sợ vua bắt tội, mà tuân lịnh vua thì trái lòng dân. Ông Trứ sắm nhang đèn vào Đền vái Cụ Trạng Trình xin Cụ cho phép phá Đền, vì lịnh vua, ông phải thi hành, xin Cụ hiểu lòng của ông. Rồi ông Trứ xin chịu hết trách nhiệm cho công việc phá Đền, lúc đó dân quân mới dám phá. Khi đào phá tới cái bệ thờ, thấy hiện ra một tấm bia đá chôn dưới bệ, có chạm khắc bốn câu sau đây: "Minh Mạng thập tứ, Thằng Trứ phá Đền. Phá Đền thì phải làm đền, Nào ai lấn đất tranh quyền của ai." Ông Nguyễn Công Trứ thấy Cụ Trạng Trình nói đúng tên của mình thì sợ quá, truyền cho dân chúng ngưng việc phá Đền, và lo việc cất Đền trở lại như trước. Khi đó, lại tìm thấy trên đầu cột cái có đề 4 hàng chữ: "Hỏng Đền thì lại làm đền, Rồi sau tìm thấy bạc tiền của ta. Của ông, ông để còn xa, Ai mà tìm được ắt là thưởng công." Ông Tri Huyện Nguyễn Công Trứ đọc 4 câu thơ nầy xong thì suy nghĩ mãi, chợt nẩy ra ý nói lái: CÒN XA nói lái lại là XÀ CON. Ông Trứ liền quan sát các cây xà con đã tháo xuống, thấy có một cây khá nặng, nặng hơn các cây khác. Ông Trứ mừng rỡ, cho bửa cây nầy ra thì có bạc nén văng ra. Ông Trứ liền dùng số bạc nầy đi mua các thứ vật liệu, cất Đền trở lại cho Cụ Trạng, với tấm lòng vô cùng kính phục Cụ Trạng. Số bạc còn dư, ông Trứ giao cho dân làng Vĩnh Lại để dành tu bổ các đền chùa đình miểu trong làng. 6. Cây xà nhà đổ: Khi Cụ Trạng Trình sắp mất, Cụ kêu con cháu lại giao cho một cái ống tre sơn son thếp vàng, gắn bít hai đầu lại và dặn đúng ngày giờ ấy, tháng ấy, năm ấy, phải để cái ống lên kiệu, rước lên dinh quan Tổng Đốc Hải Dương, thì sẽ cứu được tình thế quá nghèo khổ của gia đình, nhưng tuyệt đối không được mở ra xem, chỉ có quan Tổng Đốc được mở mà thôi. Cái ống tre ấy truyền đến cháu 7 đời của Cụ Trạng thì mới đúng ngày giờ đã định. Người cháu ấy mới đưa lên quan Tổng Đốc Hải Dương đúng theo lời Tổ tiên đã dặn ghi trong gia phả. Quan Tổng Đốc cầm cái ống, mở ra xem, thấy có hai câu thơ như vầy: Ngã cứu nhĩ thượng lương chi ách, Nhĩ cứu ngã thất đại chi bần. Nghĩa là:Ta cứu mầy khỏi cây xà nhà đổ, Mầy cứu ta cháu bảy đời nghèo. Quan Tổng Đốc đang lúc làm việc quan, thấy hai câu thơ nói xấc xược, gọi quan là MẦY thì cả giận, sẵn cầm cây quạt, ông bước tới đánh người vừa dâng cái ống tre có hai câu thơ ấy. Khi vừa bước ra khỏi chỗ ngồi thì bỗng nhiên cây xà nhà to lớn trên nóc nhà đổ xuống ngay cái ghế mà quan vừa ngồi, đánh rầm một cái, làm cho cái ghế gãy nát.Quan Tổng Đốc hốt hoảng, kêu la inh ỏi, giựt mình ngó lại, nếu còn ngồi tại cái ghế đó, cây xà nhà đập xuống ắt phải chết nát xương. Khi quan bình tĩnh suy nghĩ trở lại hai câu thơ vừa rồi thì mới biết người viết hai câu thơ đó đã cứu quan thoát khỏi tai nạn hiểm nghèo hy hữu đó. Quan hỏi đến người dâng cái ống tre, mới rõ đó là cháu 7 đời của Cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, và hai câu thơ trên là Cụ Trạng Trình viết ra để cứu ông thoát nạn. Quan Tổng Đốc cho dọn dẹp, rồi mời người cháu 7 đời của Cụ Trạng vào nhà trong, thết đãi cơm rượu, và giúp cho một món tiền lớn./.
-
<SPAN style="mso-fareast-font-family: 'Arial Unicode MS'">Danh từ Tây Sơn phát xuất từ những ngọn núi cao phía tây tỉnh Bình định, giáp với tỉnh Pleiku (Gia lai) gồm phần lớn bộ lạc Jarai, phần ít người Chàm mà ngôn ngữ có liên hệ với ngôn ngữ Mường-Việt. Sở dĩ có danh từ Tây sơn là vì trước kia, cũng vào thời đại nhiễu nhương ấy, tức là thời kỳ Lê mạt Nguyễn sơ, đã xuất hiện danh từ Ðông sơn (ngọn núi miền đông), vốn là một đảng hiệp sĩ do Ðỗ Thành Nhân (?-1781) sáng lập ở vùng Ba giồng (Ðịnh tường), phò chúa Ðịnh vương Nguyễn Phúc Thuần, rồi phò chúa Nguyễn Ánh, thắng trận <SPAN style="mso-fareast-font-family: 'Arial Unicode MS'">Ngày xưa còn truyền lại một lời than van của cô gái nhà quê: nhờ quý Quản trị xóa giúp phần này
-
Tương truyền thuở nhỏ Nguyễn Bỉnh Khiêm có tên là Văn Đạt. Mẹ ông là Nhữ thị vốn tinh thông tướng số và có ước vọng là lấy chồng làm vua hoặc có con làm vua. Do đó trong quá trình dạy dỗ, bà đã truyền cho ông mơ ước ấy rồi. Một hôm khi bà đi vắng, ông Định ở nhà với con và tình cờ hát: "Nguyệt treo cung, nguyệt treo cung". Không ngờ Nguyễn Bỉnh Khiêm nhanh nhảu ứng đối lại ngay: "Vịn tay tiên, nhè nhẹ rung". Khi bà về đến nhà, ông rất tâm đắc kể lại chuyện ấy thì bị bà trách nuôi con mong làm vua làm chúa cớ sao lại mong làm bầy tôi (nguyệt chỉ bầy tôi). Lại một lần khác bà dạy Nguyễn Bỉnh Khiêm câu hát "Bống bống bang bang, ngày sau con lớn con tựa ngai vàng". Ông Định hoảng sợ vì nếu triều đình hay được sẽ mất đầu về tội khi quân nên sửa lại: "Bống bống bang bang, ngày sau con lớn con vịn ngai vàng". Nhiều lần như vậy, bà rất bất bình nên bỏ đi. Nguyễn Bỉnh Khiêm lớn lên chỉ được ở cạnh bố. Tương truyền sau đó bà lấy một người họ Phùng và sinh ra Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan. Sau chính Khắc Khoan trở thành học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bà Nhữ Thị vẫn không thoả chí vì họ Phùng không có chí làm vua. Mãi sau này bà Nhữ tình cờ gặp một trang nam nhi làng chài đang kéo lưới mà bà tiếc nuối vì cho rằng người này có số làm vua, còn tuổi mình đã cao. Người đó chính là Mạc Đăng Dung, vị vua khai triều của nhà Mạc.
-
Tả ao Phong thủy nhất trên đời Họa phúc cầm cân định chẳng sai. Mắt Thánh trồng xuyên ba thước đất, Tay Thần xoay chuyển bốn phương Trời. Chân đi Long Hổ luồn qua gót, Miệng gọi Trâu Dê ứng trả lời. Ai muốn cầu sao cho được vậy Ấy ai Địa lý được như ngài. ***** Nhà Phong Thủy nổi tiếng của Việt nam Tả Ao tên thật là NGUYỄN ĐỨC HUYỀN, người làng Tả Ao thuộc tỉnh Hà tĩnh. Cụ sống vào đời Chúa Trịnh , gia đình quá nghèo, cha lại mất sớm, mẹ bị mù nên phải tìm đủ mọi việc để giúp đỡ mẹ già. Lúc bấy giờ có một ông thầy thuốc người Tầu nổi tiếng về khoa chữa mắt, nên cụ tìm đến xin được hầu hạ thầy để thầy ra tay tế độ chữa mắt cho mẹ mình. Ông thày Tầu thấy cụ siêng năng, chăm chỉ lại thông minh nên đã truyền cho cụ một số phương cách chữa mắt. Nhờ vậy mà cụ chữa được mắt cho mẹ. Khi nghe tin ông thày Tầu sắp về nước, cụ vội vã đến xin phép thầy đi theo hầu hạ và học hỏi thêm về khoa chữa mắt. Ông Thầy bằng lòng. Thế là cụ bôn ba theo thầy Tàu và được truyền dạy tất cả những gì mà ông thày Tầu có được về nghề chữa mắt, nhất là khi ông thày Tầu đã quá già.Từ đó cụ tự chữa cho nhiều người lành bệnh mắt, danh cụ vang khắp vùng.Có một thày Địa lý nổi danh trong vùng bị đau mắt, nghe danh cụ , liền cho người dẫn đến gặp cụ. Chỉ trong một thời gian ngắn ,cụ đã chữa khỏi bệnh mắt cho ông thầy Địa lý. Thầy Địa lý mừng quá, đem vàng hậu tạ, nhưng cụ không nhận mà chỉ xin được làm đệ tử môn Địa lý Phong thủy mà thôi. Thấy người có tài đức lại có chí ham học hỏi, nên thầy Địa lý không ngần ngại đồng ý truyền hết những gì về Phong thủy mà mình có được. Chẳng bao lâu, cụ đã thành thạo tất cả những gì mà vị thày Địa lý đã truyền cho mình. Qua bao phen thử thách trắc nghiệm tài năng(cái này đã có chuyện, mình sẽ bỗ sung sau),ông thày Địa lý công nhận cụ là người sáng trí, tài cao, đức trọng, nên không tiếc rẻ công sức mình truyền dạy cho. Khi dời nước Tầu về nước, cụ đã chữa mắt cho rất nhiều người, ngoài ra cụ còn đi tìm những vùng đất tốt và nghiên cứu các Long mạch, các Địa linh ở quanh vùng. Cụ không vì tiền bạc, danh vọng mà đi tìm các cuộc đất tốt cho những kẻ không xứng đáng được hưởng. Dù cụ giới hạn về khoa địa lý, nhưng nhiều người đã tìm đến cụ để nhờ cụ giúp tìm đất tốt cho nhà cửa, mồ mả, phương hướng thuận lợi cho họ. Dân chúng thời bấy giờ đã gọi cụ là cụ Tả ao ( Làng Tả ao ), danh tiếng của cụ vang đi khắp nơi và người đương thời truyền tụng cho nhau nhiều giai thoại của cụ Tả ao ngay còn lúc cụ còn sống. Tương truyền cụ để lại 2 bộ sách về địa lý: 1/-Địa Lý Tả Ao (Địa Đạo Diễn Ca) 120 câu 2/-Dã Đàm Tả Ao Tầm Long Gia Truyền Sau này có nhiều dị bản chép lại và có nhiều tên khác: -ÐỊA LÝ TẢ AO DI THÝ CHÂN CHÍNH PHÁP. -TẢ AO CHÂN TRUYỀN DI THÝ. -TẢ AO CHÂN TRUYỀN TẬP. -TẢ AO TIÊN SINH BÍ TRUYỀN GIA BẢO TÀNG. -TẢ AO TIÊN SINH ÐỊA LÝ. -TẢ AO TIÊN SINH THÝ TRUYỀN BÍ MẬT CÁCH CỤC. -BẢN QUỐC TẢ AO TIÊN SINH ÐỊA LÝ LẬP THÀNH CA.
-
Tả Ao là nhân vật tương truyền giỏi về thuật phong thuỷ đời nhà Lê. Ông là người làng Tả Ao, huyện Nghi Xuân, phủ Đức Quang, Trấn Nghệ An, nay là huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Không rõ họ tên thật, trong sách Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú cho biết ông tên là Hoàng Chiêm, hoặc Hoàng Chỉ. Ở quê hương ông, không có gia phả nhưng lưu truyền tên ông là Vũ Đức Huyền. Trong Cuộc chiến Tâm linh thì ghi "thời Lê - Trịnh chúng ta có tiến sĩ Hòa Chính Nguyễn Đức Huyên, người làng Tả Ao mà dân gian quen gọi ông là Ông Trạng Tả Ao". Trong Phật giáo Hòa Hảo thì ghi "Khoa địa lý từ Trung Hoa truyền sang Việt Nam đời Lê; có ông Nguyễn Đức Huyên gốc làng Tả Ao huyện Nghi Xuân, tỉnh Nghệ An, sang bên Tầu học và sau đó ông nổi danh lừng lẫy như thủy tổ khoa địa lý tại Việt Nam. Sau ông Tả Ao, có ông Hòa Chính cũng sang Tầu học khoa địa lý. Trong bài Con đường tam giáo Việt Nam từ khởi nguyên đến thế kỷ XIX của tác giả Lê Dũng ghi rằng "Đời vua Lê chúa Trịnh ở làng Tả Ao, tỉnh Nghệ An, có Nguyễn Đức Huyên vang danh nhờ khoa địa lý". Ông từng sang Trung Quốc học được thuật phong thủy địa lý và trở về hành nghề tại Việt Nam. Truyền thuyết cho rằng, làng này có phong tục này, làng kia có nghề nghiệp nọ là nhờ Tả Ao lấy đất cho hoặc chỉ cho hướng dựng đình làng mà có. Lại có truyền thuyết nói ông dùng thuật phong thuỷ giúp người nghèo hèn trị kẻ ác, nhưng không dùng để mưu lợi cho mình và cho con cháu.