Thiên Đồng

Hội viên
  • Số nội dung

    6.278
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    75

Everything posted by Thiên Đồng

  1. RẮN DỜI CHỖ Ở Trời nắng, ao cạn, hai con rắn muốn dời đi ở chỗ khác. Rắn con bảo rắn lớn: - Anh đi trước, tôi theo sau, người ta biết là rắn kéo nhau đi tìm chỗ ở thì thế nào cũng tìm cách giết chết. Sao bằng anh để tôi ngậm vào mình anh, còn anh thì cõng tôi mà đi, người ta tất nhiên cho ta là rắn thần, không dám đụng đến. Nói xong, hai con rắn làm y như thế mà đi qua đường cái. Quả nhiên, người ta trông thấy ai cũng tránh sợ, bảo nhau là "Rắn thần". Những kẻ nương tựa nhau, thông đồng với nhau để làm điều gian xảo, lừa dối đời, mê hoặc người thì có khác gì hai con rắn cõng nhau đây mà giả làm Rắn Thần không? GIẢI NGHĨA: Tất nhiên: chắc như thế không sai. Thông đồng: nói nhiều người cùng mưu mẹo xếp đặt với nhau để làm một việc gì. Mê hoặc: lừa người ta tin những việc giả dối. LỜI BÀN: Những quân gian xảo định đánh lừa thiên hạ, khi chỉ có một mình, thiên hạ cũng mắc lừa chán, huống chi là chúng kết bè, kết đảng, đồng tâm bày mưu mà gạt lừa thiên hạ, thì ai dù khôn ngoan đến đâu dễ đã tránh cho được. Đoàn kết với nhau đề làm điều lành, hay cho thiên hạ, thì bè đảng với nhau để làm điều ác, nguy cho thiên hạ bấy nhiêu. Vậy ta thấy những điều gì lạ tai, lạ mắt, trái hẳn nhân tình thì một là đánh lừa, hai là lợi dụng, ta trước nên suy xét kỹ đã, rồi sau hãy tin theo.
  2. Ai chà, nếu quả thật như vậy thì hay quá! Người Việt mình thật tài. Nhưng từ xưa đến giờ cả thế giới đều biết Lục tổ là ... người Trung Quốc. Thanh minh thanh nga làm sao đây? :wacko:
  3. Thư Pháp giữa đời thường Thằng nó cùng hai sư đệ và một sư tỷ vác bút đi cho chữ. Cái thú cho chữ ngày nay được phục hồi tạo nhiều hứng khởi đến độ đam mê cho những ai cầm cây bút lên viết, vào những dịp có thể. Ngoài sân Trung tâm văn hóa đã đông người, họ đang thưởng thức những bài ca về mẹ thật cảm động. Trước bàn tặng chữ cũng đông người, những ánh mắt tò mò và những ánh mắt thích thú đang chen lẫn thưởng thức những đường bút bay bổng tạo nên những chữ, những câu thơ đầy ý nghĩa. -Hũ len a. (Đẹp à!) -Thư pháp đó, đẹp quá ha?! -Có viết chữ Hoa không ? -Dạ không ạ, chỉ viết chữ Việt. -Viết cho tôi chữ Phúc đi. ......... Những tờ giấy có chữ lại trao tay. Cảm ơn và trầm trồ. Có nhiều người cố gắng xin cho thật nhiều mới chịu đi. Nó và mấy đồng môn cứ viết. -Cái này cậu viết cho à? Nó chợt ngước lên. Một gương mặt và thân hình hơi khắc khổ, nghèo khó nhưng đôi mắt như soi thủng mọi thứ. -Dạ, cái này viết tặng. Mà chú muốn viết chữ gì? -Cậu viết cho tôi chữ Nghĩa đi! -À, chữ này hay, ít ai xin. Mà sao chú muốn viết chữ này? -...Tôi thấy cuộc đời này bất nghĩa nhiều quá nên tôi xin chữ Nghĩa. ........ Thằng nó lại vung bút với nét sắc bén. Chắc là chữ nghĩa này?- nó tự hỏi. Người nhận duy nhất một chữ Nghĩa, vui vẽ, cảm ơn rồi lẫn khuất bước đi. Phi Long Tại Thiên
  4. -Thư pháp là gì vậy chú? một người hỏi một "nhà thư pháp" -Thư là viết, là chữ. Pháp là đạo pháp. Thư pháp là viết chữ của đạo pháp. -Con thích viêt thơ của Hồ Xuân Hương. Vậy con cầm viết lông chấm mực Tàu viết: Chành ra ba góc da còn thiếu Khép lại hai bên thịt vẫn thừa Mát mặt anh hùng khi tắt gió Che đầu quân tử lúc sa mưa (Vịnh cái quạt) ...vậy cũng gọi là viết chữ của đạo pháp phải không chú? -!!! Phi Long Tại Thiên
  5. Chichbong nè, Không đặt câu hỏi, biết đường đau mà...bói. Nhưng noi vậy chứ thử "nghía" tình hình công việc của chích bông sơ sơ xem coi chơi! Khai Tốc Hỷ Công việc chichbong nếu thuộc truyền thống thì là... thợ điện, thuộc lĩnh vực "hại điện" thì một trong các ngành công nghệ thông tin, thuộc lĩnh vực kinh tế thì phải là chạy như rượt vì phải liên hệ đây đó giao tiếp nhận lãnh. Nhưng đoán là thuộc dân "ai ti" à nghen! Chichbong về làm công ty này thì nhiều áp lực, hoạt động nhiều, trách nhiệm cũng lắm, đôi khi cảm thấy đuối sức hoặc quá, so với khả năng. Đồng nghiệp nghi nghi kị hoặc ít ra là ganh về năng lực, đôi khi "xì xò" hay thọc gậy bánh xe. Sếp thì luôn trao nhiệm vụ như thử sức. Lời khuyên là nên dè chừng các mối quan hệ, cũng cố năng lực, tái lập tư duy tổ chức công việc. Làm theo nguyên tắc 3T: Tự tin - Thiền - Thực Hiện. :wacko: Thiên Đồng :wacko:
  6. gửi mophong, Ngay A.tị 3 tháng T.Dậu năm M.Tý giờ Dậu an Tử Đại An Trong tháng 8 âm này cháu muốn chuyển việc, cháu muốn hỏi xem công việc có diễn ra suôn sẻ như mong muốn không ạ? E rằng sẽ chưa được suông sẻ, phải đến tháng 12 âm thì việc này mới xong. :wacko: Thiên Đồng :wacko:
  7. Bài Phú Làm phương châm đoán về địa mạch : Bà Cửu Thiên Huyền Nữ Phạm Thị Chân tiên sự lập ra khoa bói chân gà này . Đã thâu tóm các sự bí ẩn của Trời Đất , quán triệt được những niềm vui hoặc gở đưa lại cho nhân gian , lại biết sự vận chuyển của mạch cục , khí đất động lặng rắn mềm ... -Dùng ngõn to ( ngón giữa của chân gà ) làm vị trí của HUYỀN - VŨ -Định ngón Cun ( ngón út nhỏ ngắn ) làm hệ CHU - TƯỚC -Lấy ngon trong của chân gà làm hệ THANH LONG -Dùng ngón ngoài của chân gà làm hệ BẠCH - HỔ - Lấy Cung ngọ là Hoả và alf vị tria của ĐẮNG - XÀ , nên lấy cái đó làm huyệt pháp - Lấy cung giữa ( còn gọi là đốt hay gọi là dóng ) ở ngón giữa của chân gà làm cung Thổ và là vị trí của câu TRẦN Lấy đó mà định làm nơi tôn quý ( là mổ mà tổ tiên và giòng họ về sau thuộc giòng san nào ) -Nếu vị trí THổ lệch sang ngón trái thì lấy đó là vị trí Câu TrẦn -Nếu cung THỔ lệch sang ngón phải thì định đó là vị trí của ĐẰNG - XÀ , đó cũng là vị trí chỉ cho về lục Thân , nếu ở chỗ đó có huyết hồng tươi là CHÂN LONG ( tức là đất tốt có mạch ) Cung giữa của ngón giữa ( ngón dài ) còn gọi là cung ngũ hào , nếu thấy huyết sắc tươi và như tơ nhỏ ấy là huyệt ĐÃI NGƯÒI HIỀN ( cái huyệt đó ) * Thứ nữa là tìm LONG MẠCH , định tên của các ngôi BÁT QUÁI mà biết được thịnh suy : Lại nói rộng ra : sét về về quẻ hào , nắm được 10 đơn vị hàng thiên can như ở trên bàn tay : ( 10 đơn vị Thiên Can là : Giáp , ẤT , BÍnh , Đinh , Mậu , Kỷ , Canh , Tân , Nhân , Quý ) và khởi tính được ngũ hành : ( Ngũ Hành là : Kim , Mộc , THổ , THuỷ , Hoả ) Phải biết được Âm Dương có thuân ? xét trong ngoài , xếp đặt được các cung Bát Quái : Càn , Khảm , Cấn , Chấn mà thấy ở đó huyền sắc trôi chảy , nguyên vẹn , không pha trộn , Dương trôi chảy là thuận Thấy Âm chảy rẽ khác là nghịch . Xét ở cung : Tốn , Ly , KHôn, Đoài cần gấp rút thêm khắc , khắc là ngược lại ( không hợp lý bất lợi ) Không động ấy là đất chỉ để mộ tạm chôn mà thôi , vì đó là đất không có mạch Thấy Đoạn Động ấylà hồn phách không yên Có điểm đen ấy là phúc ít , hoạ nhiều ... Thấy hưu trù ( tức là huyết ở các cung nói trên có ngắt ngừng lại) thì ngưòi nhà gặp tai ương , súc vật trong nhà sẽ bị chết tiệt . Riêng vị trí cung Ngọ thấy huyết hồng tươi loang lổ là mộ đó ở về phưong nam có án ; -- Thấy ở cung Tốn cỏ hỷ sắc ( tươi tốt ) đó là điềm có bảng bút chi khoa ( ý nói là con cháu đỗ đạt ) Ở nơi đầu mối thấy có huyệt đọng là vượng lâu dài : Các hào vị có huyết hư ( huyết đến đó ngắt ngừng lại ) là phúc bị ít vì bị hãm Thấy ngón trong và ngón ngoài quay hướng vào nhau đó là đièu mau chóng , nếu thấy ngón trong và ngón ngoài vẫn quay , lắc lại ( vênh váo không quay vào nhau ) là hiện tượng chân chậm ) Thấy trùng độc (là 3 đầu móng ở đầu ngón , cả 3 đều cúi quắm gục lồng lên nhau) hoặc trùng khắc (là sung khắc lồng lớp lên nhau ) đó là cái thế sơn thuỷ bức bách xâm phạm mạch (là sơn thuỷ cưỡng bách ) Thấy hỷ động , hỷ giao (là có đầu ngón giữa ngẩng lên , lại có ngón khác ở đầu móng cúi xuống và giao vào nhau) ấy là Long Hổ trùng điệp ứng gấp --Hoặc ở vị trí cung CÀN thấy có huyết đọng lên đến cung Đoài ấy là mạch KIM UYỂN chuyển vào chùa hoặc là miếu nào đó -- Hoặc ở vị trí cung CHẤN thấy có ám phá (là tối phá) lên đến cung Tốn phải đoán đó là ảnh hưởng gôc cây và nhờ đó gió thổi vào , vậy là ở Phương Đông có chùa Phật đối lại ( quay vào mộ đó ) , ở Phương Nam có đền đài xung khắc với mộ - Nếu thấy huyết đọng ở cung Khảm , ở cung Hơị và Tý , ắc là về phía Bắc của mộ đó có Thuỷ khuyết xấu , đó gọi là Huyền Vũ Đoản Hiệp (;là bị gò ép ) -Hoặc có huyết đọng ở cung Cấn , ở vị trí sửu , dần .. là ở phía Đông BẮc của ngôi mộ đó có THổ Bách Ám , cái thế đó lộc thuộc bất minh (là trong nhà trong họ không yên ) KHOA XEM CHÂN GÀ Sách nầy do Bảo Trai Đường chép để lại từ ngày 7 tháng 7 năm Thiệu Trị thú bảy. Theo lời Ông nầy nói : Ta thuật lại lời của Thánh để di truyền cho đời sau nếu người nào quan tâm với đạo Thánh hiền mà bỏ tà quy chính , hãy dạy cho đấy! Sách nầy nói rõ nghĩa lý thông tường, rõ ràng huyết mạch, muôn phần không mất một. Quyển Khoa xem Chân gà nầy . Bảo Trai Đường kính chép Làm phương châm đoán về địa mạch. (Dịch từ bản chữ Hán ra quốc ngữ) Bà Cữu Thiên Huyền Nữ Phạm thị Chân tiên sư lập ra Khoa bói Chân Gà nầy, đã thâu tóm các sự bí ẩn của Trời Đất , quán triệt được những niểm vui hoặc gở đưa lại cho nhân gian, lại biết được sự vận chuyễn của mạch cục , khí đất động lãng rắn mềm ... Dùng ngón to (ngón giữa của chân Gà) làm vị trí của Huyền Vũ. Định ngón cun (ngón út nhỏ ngắn) làm hệ Chu tước. Lấy ngón trong của chân Gà làm hệ Thanh Long. Dùng ngón ngoài của chân Gà làm hệ Bạch hổ. Lấy cung Ngọ là Hõa là vị trí của Đằng xà nên lấy cái đó làm Huyệt pháp . Lấy cung giữa (còn gọi là đốt hay là dóng) ở ngòn giữa của chân gà làm cung Thổ là vị trí của Câu Trần. Lấy đó mà định làm nơi tôn quý (là mồ mã tổ tiên giòng họ và về sau thuộc về giòng san nào). Nếu vị trí Thổ lệch sang ngón trái thì lấy đó là vị trí Câu trần. Nếu cung Thổ lệnh thiên sang ngón phải thì định là vị trí của Đằng xà đó cũng là vị trí chỉ cho về Lục Thân, nếu ở chổ đó có huyết hồng tươi là Chân long (tức là đất tốt có mạch). Cung giữa của ngón giữa (ngón dài) còn gọi là cung Ngũ hào, nếu thấy hết sắc tươi và như tơ nhỏ ấy là huyệt đãi người hiền (cái huyệt đó) . Thứ nữa là tìm Long mạch, định tên của các ngôi Bát quái mà biết được thịnh suy. Lại nói rộng ra, sét các quẻ hào, nắm được mười đơn vị bảng thiên can như ở trên bàn tay: (10 đơn vị thiên can là : Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh,Tân,Nhâm,Quý) và khởi tính được ngũ hành : (ngũ hành là Kim, Mộc, Thủy, Hõa, Thổ). Phải biết được âm dương có thuận? Phải xét trong ngoài, xếp đặt được các cung Bát quái: Càn, Khãm, Cấn, Chấn, mà thấy ở đó huyền sắc trôi chảy, nguyên vẹn, không pha trộn, Dương trôi chảy là thuận. Thấy âm chảy rẽ khác ra là nghịch. Xét ở cung : Tốn, Ly, Khôn, Đoài, cần gấp rút them vào : Thấy Sinh là lợi cho mình, thấy ngang ra là khắc , khac là ngược lại không hợp lý . Không động ây là đất chỉ để mà tạm chôn mà thôi vì đó là đất không có mạch. Thấy loạn động ấy là hồn phách không yên. Có điểm đen ấy là phúc ít , họa nhiều . Thấy hưu tù tức là thấy huyết ở các cung nói trên có ngắt ngừng lại thì người nhà gặp tai ương , súc vật trong nhà sẽ ói chết bớt . Riêng vị trí cung Ngọ thấy huyết hồng tươi loang lỗ là mộ đó ở về phương Nam có ám . Thấy ở cung Tốn có hỷ sắc tươi tốt đó là điềm có bang bút chỉ khoa (ý nói là con cháu đổ đạt) . Ở nơi đầu mố thấy có huyết đọng là vượng lâu dài. Các hào vị thấy có huyết đen, đỏ ngắt ngừng lại là phúc ít vì bị hãm . Thấy ngón trong và ngón ngoài quay hướng vào nhau nghĩa là điềm mau chóng . Nếu ngón trong và ngón ngoài vẫy qua vắc lại (vênh váo không quay vào nhau) là hiện tượng chậm chạp. Thấy trùng động là ba đầu móng ở ba đầu ngón, cả ba đều cúi cám gục lồng bên nhau hoặc trùng khắc (là xung khắc lồng lớp lên nhau) ; đó là cái thế sơn thuỷ bức bách xâm phạm mạnh (là sơn thủy cưỡng bách). Thấy hỷ động , hỷ giao (là đầu ngón giữa ngẫng lên lại có ngón khác ở đầu móng cúi xuống và giao vào nhau) ấy là long hổ trùng điệp ứng gấp Hoặc vị trí cung Càn thấy có huyết đọng lên đến cung Đoài ấy là mạch Kim uyển chuyễn vào Chùa hoặc Miếu nào đó. Hoặc ở vi trí cung Chấn thấy có ám phá (là tối phá) lên đến cung Tốn phải đoán đó là ảnh hưởng gốc cây nhờ đó gió thổi vào, vậy là phương Đông có Chùa Phật đối lại (quay vào mộ đó), ở phương Nam có đền đài xung khắc với mộ đó . Nếu thấy huyết đọng ở cung Khãm, ở cung Hợi và Tý , ắt là về phía bắc của mộ đó có thủy khuyết xấu , đó gọi là Huyền Vũ đoãn hiệp (là bị gò ép). Hoặc là có huyết đọng ở cung Cấn, vị trí Sửu và Dần là ở phía đông bắc của ngôi mộ đó có Thổ bách ám, cái thế đó lộc thuốc bất minh (là trong nhà trong họ không yên).. Nếu thấy ở vị trí Tý và Sửu đọng huyết thì lại xem Kim Mộc giao sung, ấy là nước mưa của Trời dội xuống động lại , hoặc là nước bùn lầy tràn vào phạm mà lay động hoặc nước hoàng tuyền ở cạnh đó cuốn thẳng đi . Hoặc sông ngòi nơi đồng trạch nước lớn mênh mông, bị nước phá sau đầu , hoặc nước trong thung lũng trên núi chảy thẳng vào hoặc ở nóc nhà nhà nào chẳng thẳng vào . Xem kỷ vị trí cung cấn có loang lổ ẩn dấu là có thổ sơn . Bằng thấy ở cung Khôn có sắc khí tươi tía thì luận : Táng ở nơi gò đất lớn lại có thần linh ở phương bắc chiếu và ở phương nam có đền trên đĩnh núi hoặc ở gò cao. Bài của mình đến đây bị đứt đoạn nhưng mình chích ra đây một lời bàn để tham khảo: Xem chân gà là một môn khoa học cũng có nguồn gốc từ Kinh dịch. Ứng nghiệm nhất là xem về âm trach, mồ mả tổ tiên. Mà muốn linh thì trước hết tâm người muốn xem phải chính, phải thành tâm, con gà là vật cúng tế phải được nuôi tại gia chủ ít nhất là 3 ngày mới ngấm đủ âm dương địa khí của gia chủ. Sau đó trước khi cắt tiết gà để cúng phải lập bàn thờ ở giữa sân ,mặt người gia chủ phải quay về hướng của " Quan "quản từng năm ( cái nầy thì phải học mới biết ) . Thành tâm thắp hương ,tay trái cầm cổ gà, tay phải để trước ngực theo tư thế bái phật, miệng khấn thần linh ( cái này cũng phải học ) và nói lên những ước nguyện của mình về những điều cần xem...sau khi khấn xong, đem gà đi cắt tiết, làm lông. Nhưng nhớ trước khi nhúng nước sôi, cần nhổ 3 cái lông ở sau gáy, 3 cái lông ở đuôi, 3 cái ở đầu gối phải, 3 cái ở đầu gối trái, tổng cộng là 12 cái lông để riêng ra 1 chỗ cẩn thận. Sau khi mổ và làm vệ sinh con gà sạch sẽ, cắt riêng 2 cẳng chân gà luộc riêng cùng với 12 cái lông lúc nẫy.Lưu ý luộc vừa chín tới . còn con gà thì luộc bình thường như mọi ngày . Sau khi xong đặt cả gà và 2 chân lên bàn thờ gia tiên để cúng vái hết một tuần nhang, lúc đó thì có thể hạ lễ đem chân gà đi xem được. trích vanhoaphuongdong.com
  8. gửi htv, ngày N.Dần 30 tháng C.Thân năm m.Tý giờ tị an Đỗ Tiểu Cát 1.Vậy cho em hỏi liệu bao giờ vợ chồng em có thể có con được ạ?. Sang năm có bầu, năm tới có con, trể là năm 2011 có con. 2011 tốt hơn. Hai vợ chồng nên đi xét nghiệm cho chắc ăn. Hạn chế thuốc Tây. Và có thể chỉnh sửa phong thủy cho tốt hơn. 2.đường công việc của em liệu trong thời gian tới có ổn định và làm ăn thuận lợi không ạ? Kinh doanh lớn thì không được, đầu tư đất đai cũng không xong. Làm nhỏ nhỏ thì được. Đi làm lảnh lương cơ bản thì tốt. Muốn đổi việc cũng không xong. 3. Tuổi vợ chồng em như thế liệu khi mua nhà thì nên mua theo hướng nào thì thuận lợi . Mua nhà phải xem tuổi của chồng 1979 Kỷ Mùi, tuổi này chọn nhà 1 trong 4 hướng sau: cửa nhà quay hướng Bắc, Nam, Đông hoặc Tây-Nam. Đổi nhà, muốn biết tốt xấu phải coi nhà có hợp hướng như đã nói hay không. :rolleyes: Thiên Đồng :D
  9. Gửi Mai, Mai viết: chân trong chân ngoài, làm việc gì cũng rất thành công. Thiên Đồng viết: "Người này nghề nghiệp không ổn định, long bong". Trả lời: khi xem lại thì quẻ không sai, chỉ có người dịch chưa chính xác lắm. Cảm ơn Mai đã hồi âm. Mong rằng có những hồi âm đúng sai từ phía các thành viên để thuận tiện trong việc nghiệm lý. :D Thiên Đồng :rolleyes:
  10. Nhìn tượng lập quẻ thấy đã...phê! Không độn mà đoán lại càng ghê! Cảm ứng tế vi làm sao đạt? Lạc Việt Độn Toán thiệt nhiêu khê! Lạc Việt Độn Toán thiệt nhiêu khê Đồng môn quăng quẻ cho hả hê Đúng sai hay dở cứ mạc kệ Quăng riết lên tay rồi cũng nghề! Đông Thiền khai tốc hỷ thất ngôn tứ tuyệt thi. (29/7/MTý 20:08) :D
  11. VÀI NÉT VỀ LỄ CƯỚI THỜI HÙNG VƯƠNG Ở vùng Đất Tổ có rất nhiều hội làng được tổ chức vào mùa xuân. Các trò diễn về thần tích và truyền thuyết dân gian trong các hội này hầu hết tập trung vào 2 nhân vật các vua Hùng và Tản Viên Sơn Thánh. Các trò diễn "nổi đình nổi đám" và được diễn với lòng sùng mộ chất phác nhất của người dân Đất Tổ vẫn là trò diễn về Tản Viên, con rể vua Hùng thứ 18. Câu chuyện Sơn Tinh - Thủy Tinh đã trở nên quen thuộc với rất nhiều nười. Ở đó, ngoài việc phản ánh công việc trị thủy, tình trạng lụt lội của đồng bằng Bắc Bộ, sức mạnh phi thường của nhân dân chống lại thiên tai ta còn biết thêm việc hôn nhân của Sơn Tinh và suy rộng ra là tục lệ cưới xin của thời Hùng Vương. Trải qua bao đời, hình ảnh đám cưới của Sơn Tinh, Ngọc Hoa vẫn còn giữ đậm nét trong ký ức của mỗi người dân vùng đất Tổ mà mỗi một kỳ làng mở hội thì hình ảnh này lại được thể hiện một cách sinh động. Đám cưới của Sơn Tinh, Ngọc Hoa thường được diễn lại ở khá nhiều xã thuộc huyện Phong Châu như Cao Mại, Sơn Vi, Phù Ninh, Chu Hóa - một thanh niên trong làng được chọn đóng vai Sơn Tinh, những người khác đóng vai tùy tùng, trò vui diễn ra đông như một đám cưới thật. Dân làng ném đất, đá và hao quả vào người Sơn Tinh. Tục này hầu như vẫn giữ được nguyên vẹn ở nhiều địa phương tỉnh Phú Thọ trước Cách mạng tháng Tám. Trên đường đi đón dâu, nhà trai còn phải chịu nhiều thử thách : bị ném đất, đá, hoa quả và nhiều khi đoàn đón dâu đến cửa nhà gái còn phải dừng lại đối đáp những câu đối của họ nhà gái để thử tài trí thông minh của chàng rể, sau đó mới được đón dâu. Lễ cưới được tổ chức chu đáo và có nhiều trò vui nhộn. Nó đúng là ngày vui của hai họ, của cô dâu chú rể, của cả dân làng. Tục lệ này theo những cụ già tuổi từ 80-90 ở các xã vùng ven chân núi Nghĩa Lĩnh nói là có từ xa xưa. Phải chăng nó chính là hình ảnh của tục lệ cưới thờ Hùng Vương? Quanh khu vực đền Hùng còn có nhiều trò diễn dân gian khá sinh động như trò diễn "Bách nghệ khôi hài" và trò "Rước Chúa gái". Tìm hiểu trò diễn "Rước Chúa gái" ở xã Hy Cương. Hàng năm, dân làng tuyển chọn một cô gái đẹp, nết na có đủ tiêu chuẩn như gia đình không có tang, cô gái chưa chồng - làm Chúa gái. Gần đến ngày hội, dân làng đến trang trí phòng ở cho cô gái sau đó để cô ở một mình tách hẳn với gia đình. Mọi việc ăn uống sinh hoạt có các cô gái khác phục vụ. Ngày rước Chúa gái, dân làng tổ chức trò diễn "Bách nghệ khôi hài" để mong cho Chúa gái được vui. Theo các cụ kể lại thì đó là tục của làng diễn lại sự tích công chúa Ngọc Hoa. Sau khi kết hôn với Sơn Tinh nàng lại trở về với bố mẹ đẻ ở vùng này, lâu không trở về với chồng vì thế Tản Viên phải đến đón vợ. Vì thương nhớ cha mẹ, Ngọc Hoa buồn nên nhân dân đã phải làm trò "khôi hài" để nàng vui. Người con gái lấy chồng sau đó lại trở về nhà mình một thời gian đó là phong tục có từ thời Hùng Vương khi xã hội phụ quyền đã hình thành nhưng vẫn còn tàn dư của xã hội mẫu quyền. Điều này không chỉ được thể hiện ở hội làng, ở các trò diễn, mà nó còn là thực tế trong đám cưới ở một địa phương ở Phú Thọ. ở đám cưới của người Mường huyện Thanh Sơn, Yên Lập trong đêm tân hôn, cô dâu ngủ chung với bạn bè tới dự rồi sớm hôm sau trở về nhà mình một thời gian, sau đó mới về nhà chồng. Trong một thời gian ở nhà mình thường khi nhà trai có việc hoặc ngày rằm, ngày tiệc cô dâu mới về nhà chồng, nhưng chỉ về vào buổi tối, sớm hôm sau lại về nhà mình. Từ lễ cưới đến xin về (có nơi gọi là lễ lại mặt) thời gian không quy định, có thể vài ba ngày, có thể một thời gian khá dài khi cô dâu có thai mới làm lễ xin về. Lễ này cũng được tổ chức long trọng vui vẻ, sau đó bà con trong họ, bạn bè của cô dâu giúp cô dâu mang của hồi môn về nhà chồng. nguồn cuoihoivn.com
  12. 3 LỄ TỤC TIÊU BIỂU Lễ chạm ngõ (xem mặt, dạm ngõ) Đây là một lễ nhằm chính thức hóa quan hệ hôn nhân của hai gia đình. Theo số liệu xã hội học, tần suất thực hiện lễ chạm ngõ ở xã hội ta hiện nay đang có xu hướng tăng. Như thế, đây là nhu cầu xã hội chứ không phải hành vi hướng cổ có tính chất chơi trội của một nhóm xã hội nào. Tuy nhiên, do chưa có sự hiểu biết đầy đủ về lễ này (do người ta ít thực hành nó trong mấy chục năm qua) nên nhận thức của người dân và thực hành của họ về lễ này còn chưa đúng. Thậm chí, những người làm công tác quản lý xã hội và văn hóa cũng chưa có sự am hiểu sâu sắc về lễ này. Lễ chạm ngõ ngày nay cũng không theo lối xưa, chỉ là buổi gặp gỡ giữa hai gia đình. Nhà trai xin đến nhà gái đặt vấn đề chính thức cho đôi nam nữ được tự do đi lại, tiếp tục quá trình tìm hiểu nhau một cách kỹ càng hơn, trước khi đi đến quyết định hôn nhân. Buổi lễ này, không cần vai trò hẹn trước của người mối (kể cả những trường hợp yêu nhau nhờ mai mối), không cần lễ vật rườm rà. Về bản chất, lễ này chỉ là một ứng xử văn hóa, thông qua đó hai gia đình biết cụ thể về nhau hơn (về gia cảnh, gia phong), từ đó dẫn tới quyết định tiếp tục hay không quan hệ hôn nhân của hai gia đình. Lễ vật của lễ chạm ngõ theo truyền thống rất đơn giản: chỉ có trầu cau. Xét về mặt chức năng: nếu bỏ qua lễ này mà đi thẳng vào lễ ăn hỏi thì mọi việc sẽ bị cảm thấy đường đột, ngang tắt, không có khởi đầu. Vì thế, tuy không phải là một lễ trọng nhưng lại là một lễ không thể thiếu trong tiến trình hôn lễ. Hơn nữa, lễ này không tốn kém (lễ vật chỉ có trầu cau) mà lại biểu thị được bản sắc văn hóa dân tộc (văn hoá trầu cau) thì việc bỏ qua lễ này là điều không hợp lý. Đối với lễ này, thường người Việt Nam vẫn tiến hành theo khuôn mẫu cổ truyền: Thành phần tham gia: - Nhà trai : Bố, mẹ, chú rể, người mối (nếu có). - Nhà gái : Cả gia đình nhà gái. Trang phục: - Trai : complet - Gái : áo dài Nếu do điều kiện không có thì mặc những bộ quần áo đẹp nhất mà mình có. Phương tiện đi lại: - Ở thành phố : tốt nhất là thuê một chuyến xe con 5 chỗ (vừa đủ 4 người nhà trai đi) hoặc đi xe máy. - Ở nông thôn : nếu xa có thể đi bằng xe máy, nếu gần : đi bộ. Lễ vật của nhà trai: Trầu cau và chè Nhưng số lượng phải tính chẵn. (Ví dụ : 2 gói chè, hai chục cau). Đón tiếp ở nhà gái : Dọn dẹp nhà cửa sạch, đẹp. Ăn mặc trang trọng. Khi đoàn khách nhà trai đến, đón chào niềm nở. Tiếp khách bằng trà (nếu có trà thơm là tốt nhất). Khi nhà gái đồng ý nhận lễ vật, mang đặt lên bàn thờ thì cuộc lễ coi như kết thúc. Sau đó hai bên có thể ngồi lại nói chuyện đôi chút. <A name=2>Lễ ăn hỏi Có thể nói rằng, lễ ăn hỏi là sự thông báo chính thức về sự hứa giá thú của hai gia đình, hai họ. Nó đánh dấu một chuyển đoạn quan trọng trong quan hệ hôn nhân : Cô gái được hỏi đã chính thức trở thành vợ chưa cưới của chàng trai đi hỏi. Ngày nay, về hình thức lễ này vẫn giữ tên là lễ ăn hỏi, nhưng trên thực tế, thì lễ này bao hàm cả lễ dẫn cưới. (Sự quy giản này phần nào cho chúng ta thấy tính thích nghi của văn hóa cổ truyền trong xã hội đương đại). Chính vì thế, mô hình lễ ăn hỏi ngày nay phải phản ánh được sự thay đổi ấy, nói cách khác, trong các nghi thức ở lễ ăn hỏi ngày nay phải có cả những nghi thức của lễ dẫn cưới. Mô hình lễ ăn hỏi trong xã hội Việt Nam đương đại như sau: Về thành phần tham dự - Nhà trai : Đại diện gia đình, họ hàng, chú rể, một số cô gái chưa chồng đội mâm quả hay còn gọi là bê tráp (bây giờ có thể là nam thanh niên) vì các cô sợ "mất duyên", số người bê tráp là số lẻ, 5 hoặc 7 hoặc 9... - Nhà gái : Bố mẹ, ông bà (nếu còn), anh chị em ruột của cô dâu, cô dâu và một số bạn bè thân cận. Ở nông thôn có thể có một số cô dì chú bác của cô dâu). Về lễ vật: Cau tươi : 1 buồng Bánh cốm : 200 chiếc Hạt sen : 2 kg Chè : 2 kg Rượu : 2 chai Thuốc lá : 2 tút Bánh xu xê (phu thê) : 200 hoặc 20 Phong bì tiền : 2 chiếc Đó là những lễ vật tối thiểu theo tục lệ cổ truyền; tất nhiên, chất l­ợng và số lượng thêm thì tùy thuộc vào năng lực kinh tế của từng gia đình. Tuy nhiên, số lượng nhất thiết phải là 2. Về lễ vật cho lễ này, cần phải tránh xu hướng phục cổ cực đoan (phục hồi tục thách cưới hay thách cưới trá hình) cũng như một cực đoan khác là : nhà trai không có lễ vật dẫn cưới. Ý nghĩa của lễ vật dẫn cưới là : thể hiện lòng biết ơn của nhà trai đối với công ơn dưỡng dục của cha mẹ cô gái. Nói theo cách xưa là : nhà trai bỗng dưng được thêm người, còn nhà gái thì ngược lại, "Con gái là con người ta". Mặt khác, lễ vật cũng biểu thị được sự quý mến, tôn trọng của nhà trai đối với cô dâu tương lai. Trong một chừng mực nào đó, đồ dẫn cưới cũng thể hiện được thiện ý của nhà trai : xin đóng góp một phần vật chất để nhà gái giảm bớt chi phí xung quanh hôn sự. "Tiền mặt" : Đây là vấn đề đang được tranh cãi nhiều : có ý kiến cho rằng, lễ vật bằng tiền thì quá thô, thậm chí còn có người cho rằng, làm như vật là xúc phạm đến nhà gái,... có người thì lại cho rằng, vấn đề là ở cách đưa tiền : làm thế nào để tiền trở thành một lễ vật chứ không phải là một phương tiện trao đổi, mua bán như chức năng vốn có của nó. Nếu số tiền đó được đổi thành những đồng tiền mới tinh (như tiền mừng tuổi mà ông bà, cha mẹ chúng ta thường làm) và được bao bởi một phong bì đẹp màu đỏ, có in chữ "song hỷ" thì người nhận lễ sẽ không bị mặc cảm là mình đã nhận tiền theo nghĩa đen nữa. Rước lễ vật : Tất cả các lễ vật phải được sắp xếp gọn gàng và thẩm mỹ. Và nhất thiết phải được bày vào quả sơn son thếp vàng (hay mâm đồng đánh bóng, phủ vải đỏ). Có như thế mới nhấn mạnh được tính biểu trưng của lễ vật. Xưa, người đội lễ phải khăn áo chỉnh tề, thắt dây lưng đỏ. Nay, các cô gái đội lễ đã có áo dài đỏ thay thế (trông đẹp hơn) nên không cần phải dùng thắt lưng đỏ nữa. Dù dùng phương tiện đi lại là : ô tô, xích lô, xe máy, hay đi bộ thì đoàn ăn hỏi cũng nên dừng lại cách nhà gái khoảng l00m, sắp xếp đội hình, rồi mới đội lễ vào nhà gái. Đây thực sự là một hình thái văn hóa dân tộc. Những lễ vật dẫn cưới theo phong tục cổ truyền đều thể hiện được ý nghĩa trên và ngày nay người Việt Nam vẫn tuân thủ. Trang phục : trang phục cho cô dâu (tốt nhất là một bộ áo dài, vừa có thể mặc trong lễ cưới, vừa có thể mặc ở những dịp lễ hội sau này). Nếu kinh tế nhà trai khá giả có thể sắm cho cô dâu tương lai một trong những đồ trang sức sau : xuyến, vòng, hoa tai... Chú rể thì comple, cà vạt. Tiếp khách : Vì đây là một lễ trọng nên nhà gái phải chuẩn bị chu đáo hơn lễ chạm mặt. Tuy nhiên, do nội dung chủ yếu của lễ này là sự bàn bạc cụ thể, chính thức của hai gia đình về việc chuẩn bị lễ cưới, nên nhà gái không bày tiệc mặn mà chỉ bày tiệc trà. Nghi thức trao nhận lễ vật cũng nên trở thành nghi thức bắt buộc. Trách nhiệm của cô dâu : Phải ngồi trong phòng cho đến khi nào chú rể vào đón hoặc cha mẹ gọi mới được ra. Ra mắt tổ tiên bằng cách thắp hương lên bàn thờ (đối với những nhà không theo đạo Thiên chúa). Sau đó cô dâu sẽ cầm ấm trà đi từng bàn để rón nước mời khách. Nhà gái : sau khi nhận lễ rồi đưa lên bàn thờ thắp hương, nhà gái sẽ lấy ra mỗi thứ trong đồ lễ ăn hỏi một ít để "lại quả". Lưu ý là đối với cau thì phải xé chứ không được dùng dao để cắt. Khi nhà trai nhận lại tráp để bê về thì phải để ngửa, không được úp tráp lại. Biếu trầu : Xưa, sau lễ ăn hỏi, nhà gái dùng các lễ vật nhà trai đã đưa để chia ra từng gói nhỏ để làm quà biếu cho họ hàng, bè bạn, xóm giềng,... ý nghĩa của tục này là sự loan báo : Cô gái đã có nơi có chỗ. Ngày nay, lễ ăn hỏi và lễ thành hôn không cách xa nhau nhiều về mặt thời gian nên trong khi biếu trầu người ta thường kết hợp với đưa thiếp mời đến dự cưới. Có nhiều người phản đối việc duy trì tục này với lý dó là : những quà biếu này không được sử dụng, gây lãng phí, tốn kém cho nhà trai. Tuy nhiên, tục "biếu trầu" chỉ áp dụng đối với họ hàng hay một số bạn bè thân thiết, nếu không thì việc đưa thiếp mời sẽ không có tính biểu trưng. http://' target="_blank">Lễ cưới Lễ cưới là đỉnh điểm của cả quy trình tiến tới hôn nhân, là hình thức liên hoan, báo hỉ mừng cô dâu, chú rể, mừng hai gia đình, có ý nghĩa rất thiêng liêng. Do đó, cả xưa và nay, mọi người đều rất coi trọng. Đây cũng chính là nghi lễ được dư luận xã hội quan tâm nhiều hơn cả. Lễ cưới chỉ được tổ chức sau khi đã được chính quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn. Thủ tục đăng ký kết hôn rất đơn giản. Hai người chỉ việc mua 2 mẫu đăng ký tại Uỷ ban Nhân dân phường (xã) (nam 1 tờ và nữ 1 tờ), điền vào mẫu và mỗi người đều phải lấy chứng nhận của phòng tổ chức nơi mình công tác. Nếu chưa đi làm, bạn có thể xin xác nhận của ông tổ trưởng dân phố (xóm). Sau đó, cả hai cùng đến Uỷ ban Nhân dân phường đem theo hộ khẩu và chứng minh để xin đăng ký. Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn sẽ được trao cho hai người sau đó khoảng 10 ngày. Trước đây, người ta gọi lễ này là lễ rước dâu. Ngày nay, trong ngôn từ của đời sống thường ngày, người ta gọi lễ này là lễ cưới (dịch theo tiếng Hán là hôn lễ). Điều đó chứng tỏ vị trí rất quan trọng của lễ này trong hệ thống hôn lễ. Ý nghĩa của lễ này là : Công bố sự thành hôn của đôi trai gái, vì thế lễ này còn gọi là lễ thành hôn. Trong tâm thức người Việt (từ xưa cho đến ngày nay) thì lễ cưới (chứ không phải tờ hôn thú) có giá trị pháp lý cao nhất. Tuy nhiên, chính ở lễ này nhiều vấn đề xã hội "gay cấn" diễn ra, khen chê của dư luận xã hội đều tập trung vào lễ này. Vấn đề càng trở nên phức tạp hơn khi sự khen chê ấy không đồng nhất, thậm chí còn đối lập nhau. Ví dụ : ngày nay một đám cưới theo nghi thức cổ truyền có thể vừa được khen, vừa bị chê. Người khen thì cho rằng, thế mới là đám cưới Việt Nam, thế mới không sợ sự du nhập của văn hoá bên ngoài, nhưng người chê thì lại nói rằng : thế là rườm rà, lãng phí và luỵ cổ... Lễ xin dâu: Trước giờ đón dâu, mẹ chú rể sẽ cùng một người thân trong gia đình đến nhà gái đem cơi trầu, chai rượu để báo trước giờ đoàn đón dâu sẽ đến, nhà gái yên tâm chuẩn bị đón tiếp. Trước đây, do có sự gả bán, cưỡng hôn nên trong hôn lễ dễ có sự cố (chú rể hoặc cô dâu vì không đồng ý tổ chức hôn lễ, tự bỏ trốn...), nên lễ này nhằm xác định chính xác lần cuối cùng thời gian đón dâu hoặc xem lại có sự cố, bất trắc gì không. Ngày nay, hôn nhân dựa trên cơ sở của tình yêu đối lứa, nên những bất trắc rất hiếm, thời gian đã thống nhất trước thường được đảm bảo. Rước dâu : Dù đoàn rước dâu của nhà trai có đi bằng phương tiện gì đi chăng nữa thì trước khi vào nhà giá cũng phải "chấn chỉnh đội hình". Thông thường, đi đầu là đại diện nhà trai (là người khéo ăn, khéo nói, có vị thế xã hội). Tiếp đến là bố chú rể, chú rể và bạn bè (ở Việt Nam, mẹ chồng không bao giờ đi đón con dâu, thậm chí khi cô dâu về đến nhà chồng, mẹ chồng còn phải trốn một lúc rồi mới ra tiếp khách). Thời nay, đoàn rước dâu cũng không đông người lắm, chỉ khoảng 20 người vì đông quá nhà gái không đủ chỗ tiếp vả lại còn phải nhường chỗ ở xe ô tô cho nhà gái đưa dâu. Làm như thế, trước hết để đoàn nhà trai tránh được sự lộn xộn, lúng túng trong ứng xử (nếu vào nhà gái mà vẫn không theo thứ tự sắp đặt trước); nhưng điều quan trọng hơn là tạo điều kiện để nhà gái không bị động, không bị bất ngờ trong nghênh tiếp. Trước đây, nhà trai báo hiệu cho nhà gái bằng một tràng pháo và khi nào nhà gái đáp lại bằng một tràng pháo khác thì nhà trai mới được và có một tục khác là tục chằng dây cũng có tác dụng tương tự. Tục này từng bị phê phán là hủ tục nên đã bị bãi bỏ từ lâu. Trong tình hình mới hiện nay, "hình thức" của tục này vẫn tồn tại nhưng "nội dung" lành mạnh, nhẹ nhàng, vui vẻ hơn : Nhà gái bố trí vài em nhỏ bụ bẫm, xinh xắn, mặc áo đỏ (hay thắt lưng, nơ đỏ) chăng dây chờ sẵn ở trước nhà gái khoảng độ 20-30m. Khi nhà trai đến, một trong các em nhỏ chạy về báo cho nhà gái biết. Nhà trai chuẩn bị một ít kẹo để phân phát cho lũ trẻ chăng dây này (khi đã nhận được kẹo bọn chúng sẽ rút dây để đoàn nhà trai đi vào nhà gái). Như vậy, tục chăng dây sẽ trở thành một hình thái văn hóa khác hẳn về chất so với tục lan nhai ngày xưa. Nó sẽ tô điểm thêm bản sắc văn hoá của người Việt. Sau khi đã vào nhà gái, nhà trai được mời an tọa. Hai bên giới thiệu nhau, sau một tuần trà, đại diện nhà trai đứng dậy có vài lời với nhà gái xin chính thức được rước cô dâu về. Nhà gái đáp từ : Sau khi được "các cụ" cho phép, chú rể mới được vào phòng trong để trao hoa cho cô dâu và cùng cô dâu đến trước bàn thời thắp nén hương rồi ra chào bố mẹ, họ hàng hai bên. Cha mẹ cô dâu dặn dò đôi vợ chồng trẻ về cách sống, về tình yêu thương, về đạo lý vợ chồng. Vị đại diện nhà trai đáp lời thay cho chú rể và xin rước dâu lên xe. Nhà gái cùng theo xe hoa về nhà trai dự tiệc cưới. Trước đây, khi xe hoa (đám rước dâu) về tới cửa, nhà trai đốt pháo mừng. Nay, không có pháo nữa, người ta phải thế vào đó bằng cách khởi nhạc sống hoặc mở băng nhạc để tạo không khí vui vẻ, long trọng để nghênh tiếp cô dâu và nhà gái. Đầu tiên, cô dâu và chú rể được cha mẹ dẫn đến bàn thờ để thắp hương yết tổ (lễ gia tiên), rồi chào họ hàng bên chồng. Sau đó là lê tơ hồng, (ngày nay, lễ tơ hồng không còn là một nghi thức. có tính bắt buộc nữa) tùy từng gia đình, lễ này có thể làm, có thể không). Tiếp theo, cô dâu được dẫn vào phòng cưới, ngồi lên chiếc giường cưới do một người được nhà trai chọn sẵn (mắn con) trải chiếu. Cuối cùng, nhà trai mời nhà gái và tất cả những người tham dự ăn tiệc cưới. Trước kia, tiệc cưới do gia đình người ta thường thuê chỗ và người nấu tiệc. Không biết tự bao giờ, nhiều gia đình ở thành phố thường làm "ngược" tiến trình này : Họ không rước dâu về nhà mà rước thẳng đến phòng cưới (mà thực chất là phòng tiệc nhà hàng). Sau khi xong việc ở phòng cưới, cô dâu - chú rể mới về nhà chồng, gia đình nền nếp thì có lễ gia tiên, lễ tơ hồng, trải chiếu, có một số gia đình coi như đám cưới đã xong! Về trang phục : - Chú rể : complet, cài hoa trước ngực. - Cô dâu : áo cô dâu theo mốt châu Âu, màu trắng hoặc màu kem Về biểu trưng : Khoảng gần trăm năm qua, dân ta cũng đã cố gắng suy nghĩ - sáng tạo ra nhiều biểu trưng khác nhau cho lễ cưới (như đôi chim bồ câu, đèn lồng, trái tim, chữ lồng, mặt hai người hôn nhau,...) nhưng không thể thay thế được biểu trưng của chữ song hỷ : sở dĩ như vậy là do chúng vừa thiếu tính thẩm mỹ vừa thiếu tính thông tin (hiểu theo nghĩa ký hiệu học). Cho đến nay, và có lẽ mãi mãi, biểu trưng song hỷ vẫn là biểu trưng của đám cưới: người không hiểu chữ Hán nhìn vào chữ này cũng hiểu và cảm nhận được ngay : đám cưới. Cũng phải khẳng định thêm rằng: chữ song hỷ đã được đúc kết từ hàng ngàn năm, nó đã đạt đến độ hoàn thiện (cả về ý nghĩa xã hội lẫn tính hoàn mỹ). Ở đây cũng nên phê phán quan điểm dân tộc hẹp hòi, cho rằng chữ này là của Tàu, ta phải có biểu trưng của ta, riêng biệt, độc nhất. (Cái gì được du nhập từ bên ngoài, nhưng đã bắt rễ và sống ở ta thì cái đó đã trở thành truyền thống của ta rồi). Về đồ mừng cưới : Xưa, các cụ ta có tục mừng đỡ, nay, người đến dự đám cưới tặng đôi vợ chồng trẻ cái gì đó cũng là điều hiển nhiên. Vấn đề nổi cộm của việc mừng cưới hiện nay là : Cấp dưới nịnh, hối lộ cấp trên thông qua phong bì mừng cưới. Tuy nhiên, số đám cưới của các con quan này không phải là nhiều, vì thế đây không phải là vấn đề của văn hóa, (những hành vi kiểu này chỉ là nhất thời, nó sẽ biến đi theo sự thay đổi thời cuộc). Vấn đề đáng quan tâm hơn về phương diện văn hóa (xây dựng nếp sống) ở đây là : Tặng quà cưới thế nào để người tặng và người nhận đều giữ được lễ? Quà cưới và tặng quà cưới cần phải bảo đảm được những nguyên tắc sau : Trang trọng : muốn vậy, quà phải được bọc giấy điều, dù là tiền cũng phải được bọc trong phong bì đẹp. Trong đám cưới, cần có ban lễ tân (thường là người thân) đứng ra nhận quà mừng, hướng dẫn khách và đỡ gói quà cho khách (nếu cồng kềnh) vào nơi qui định. Cần tránh việc cô dâu - chú rể vừa đi chào mọi người vừa thu tiền mừng (trông không được đẹp mắt lắm). Nếu không biết được "nhu cầu sở thích" của cô dâu - chú rể, thì không nên mua đồ mà nên mừng bằng tiền. Số tiền cũng theo "mặt bằng" chung. Ban tổ chức đám cưới cũng nên lưu ý một vấn đề khác, tế nhị hơn là: phải tạo điều kiện để những người không có tiền mừng (ví dụ tầng lớp sinh viên chẳng hạn) vẫn đến mừng đám cưới được. Nhiều gia đình đã "xử lý" tình huống này rất hay theo cách : ngoài tiệc mặn, có thêm tiệc trà. Tiệc trà, không có tiền mừng nhưng người tham dự không bị áy náy như ở tiệc mặn. Về tiệc cưới : Ngày nay, khi nền kinh tế đã tăng trưởng, các gia đình đã có những tích lũy nhất định, thì việc cưới to hay nhỏ (nhiều mâm hay ít mâm) không còn là vấn đề phải bàn cãi nữa. Đặc biệt là ở nông thôn, tính cộng đồng xóm giềng, làng xã, họ hàng đang còn mạnh thì tiệc cưới là một dịp tốt để củng cố tính cộng đồng ấy. Vấn đề cần bàn ở đây chỉ là tiệc cưới ở thành phố. ở thành phố, người ta thường kết hợp tiệc cưới với lễ thành hôn, cho nên nhiều khi cái "tục" của sự ăn lấn át mất cái "thiêng" của lễ cưới : Người ta đến ăn, ngồi cùng bàn ăn là những người không quen biết, ăn sao cho đúng giờ, khi cô dâu - chú rể đến thì rút phong bì ra trao cho họ, khiến người ta cảm thấy như là sự trả tiền cho bữa ăn. Chụp hình ngoài trời: Ở một số thành phố lớn, cô dâu và chú rể thường đến một số địa điểm đẹp ngoài trời để chụp ảnh làm kỷ niệm. Cảnh đẹp sẽ tôn thêm vẻ đẹp của dâu và chú rể cùng những ước mong về một cuộc sống tươi đẹp và ngập tràn hạnh phúc. Với cách chụp hình ngoài trời, cô dâu và chú rể sẽ lưu lại được những bức ảnh có giá trị cùng với phong cảnh tự nhiên. Phong trào này hiện nay rất phổ biến, được nhiều người ở thành phố áp dụng. Đây cũng là một cơ hội để bà con họ hàng của cô dâu chú rể được tận mắt trông thấy những cảnh đẹp và bộ mặt thay đổi của thành phố, đặc biệt là đối với những người không có nhiều điều kiện "ra tỉnh".
  13. Đúng là mây, Mai à. Nhưng mà dù mây hay nước đều được cả, không hề thay đổi bố cục tranh. Và như vậy dể liên hệ hơn. Cảm ứng tốt là được. Hihì :rolleyes: Thanh Trang nè, đôi khi cũng phải thơ thẩn cho thơ thái chút mà. Vậy cho có...cảm ứng tiên tri chứ mờ. haha :rolleyes: :D Đông Thiền <_<
  14. Gửi Khonghoi, Ngày Kỷ hợi 27 tháng C.Thân năm M.Tý giờ ngọ an Sinh Tốc Hỷ 1.sắp tới em có công việc rất quan trọng liên quan đến công danh, các anh chị xem giúp mọi việc có xuôn sẻ ko ạ? Công cuộc này trù tính đã lâu, ít nhất là đã sáu tháng nhiều là một năm. Nay thì cơ hội thật sự đã đến. Tương lai sẽ vấn vào một cuộc đổi đời nhưng cũng nhiêu khê. Tuy vậy, đó là một sự nghiệp tốt. Khoảng 2 năm nữa sẽ thấy đà đi lên rỏ rệt và ba năm nữa sẽ gặt hái thành tựu. (lúc đó nhớ mời Thiên Đồng nhậu à nghen. Hihi :rolleyes: ) :D Đông Thiền :rolleyes:
  15. Kính Sư Phụ, Ngày K.Hợi tháng C.Thân năm M.Tý giờ tị Cảm quẻ Khai Đại An Vừng hồng lặn xuống đằng Tây Báo rằng sẽ tới một ngày tàn suy Nước ra biển lớn trốn nguy Cơn sóng lớn nhỏ mà tùy cơ mang Đông phương vận hội rỡ ràng Càng nhiều cơ hội càng gian nan nhiều Giải đoán: Tình hình kinh tế thế giới sang năm 2009 sẽ có nhiều chuyển biển. Các phương Tây một lần nữa phải rốt ráo giải quyết những vấn đề về năng lượng. Lại sẽ có những đợt khủng hoảng dầu hỏa vào những tháng 9,10 năm sau. Nền kinh tế các nước phương Tây Bắc (so với Việt Nam) sẽ lâm vào tình trạng chung về những vấn đề khó khăn về an sinh xã hội, việc làm và các đối sách giải quyết việc làm dường như đều không khả thi. Việc này sẽ lên cao trào vào những tháng 6,7 âm lịch. Tốc độ phát triển kinh tế của các nước nầy dường như chựng lại. Các tập đoàn kinh tế, các nhà đầu tư, do vậy phải chạy về những nước phương đông đầu tư nhằm tìm cơ hội phát triển. Họ sẽ có thêm nhiều cơ hội ở những nước này. Công cuộc đầu tư sẽ ồ ạt vào khoảng tháng 3,4 al. Các nước phương Đông sẽ đón nhận những đợt sóng kinh tế mới. Những cơ hội lại được mở ra. Tuy vậy, sự phản ứng đối với những tương tác phát triển này quá là bất ngờ so với thực lực, tiềm lực hoặc cơ sở vật chất của các nước này. Các nước lại phải luôn có những đối sách mang tính ứng phó cho sự chuyển biến phức tạp này, nhưng họ cũng làm nên bước phát triển thần kỳ. :rolleyes: Thiên Đồng :D
  16. -Sao anh? Có chữ gì mới không? người bạn hỏi ông già Công Tấn. -ừ, có gì mới đâu. Ba cái chữ xào đi xào lại thôi mà. À mà coi món đồ xào này nè! Ông già hạ bút: Cuối đời mới biết đời là cúi Đứt thở mới hay đức tuyệt vời. Quả là...đồ xào! Phi Long Tại Thiên
  17. Một Bài Thơ - Một Ngàn Đô Cái thời nó thế! Cái thời của cái cửa Kinh tế vừa hé mở. Đàn trai thách gả với "giá" trên trời cũng vì chê cái đàn gái nghèo. Nhưng vì xấp nhỏ nó thương nhau quá đỗi, ông già Công Tấn phải chạy vại cho ra tiền để cho hai đứa yên bề gia thất. Hết đường binh, ông già mới nghĩ tới người anh ở bên Mẽo (MỸ). Ông già trăn trở, rồi cuối cùng ông chỉ viết một bài thơ. Ngày nay con gái khổ trăm bề Đem gả nơi nào chúng cũng chê Chạm ngỏ vấn danh đi đủng đỉnh Tân hôn hỏi cưới kéo lê thê Gạo thơm hàng tấn cha nuôi lớn Rượu dỏm vài chai chúng dắt về Để khỏi lụy phiền cha mẹ nữa Đời sau tớ chọn kiếp pê - đê! Người anh nhận được thơ. Sau đó ông già nhận được 1000 USD. Ông già làm đám cưới rình rang cho con gái. Ông già cười hề hề: -Mẹ nó! Cái đời, nó là thế! Phi Long Tại Thiên
  18. Dám Treo Hong? Hôm ấy, cả nhóm vui vẽ, trà - bút lôm xôm. Người cao tuổi và vui tính nhất vẫn là chú Công Tấn. Vì cao hứng, "Nhà thư pháp" Hùng Quý vui miệng xin chữ của Ông già Công Tán:- Chú ạ, cháu muốn xin chú vài chữ treo ở cơ quan. Chú viết đẹp đẹp cho cháu một bức và thiệt là có ý nghĩa. -Được, dể mà! Thế là ông già khìn khìn đó hạ bút: "Muốn làm con nước hiền lành nhưng chung đợt sóng phải đành nhấp nhô" "Nhà thư pháp" Hùng Quý vừa nhìn xong đường bút, chợt dựng tóc gấy: -Thôi, treo cái này chắc...chít! Phi Long Tại Thiên.
  19. Gửi Mặt Trời Hồng, ngày M. Tuất 26 Tháng C. Thân năm M.Tí giờ thân an Kinh Thương Xích Khẩu 1. Em có một công việc đang tiến hành thuận lợi thì có tranh chấp. Anh xem giúp tranh chấp này giải quyết trong bao lâu thì xong? Cuộc tranh chấp này xuất hiện khi có người thứ ba. Sẽ ổn thỏa sau ba tháng nữa, chậm là 9 tháng, khi các thủ tục giấy tờ, hành chánh điều rỏ ràng và nhất chí. 2. Sếp em có 1 công trình thi công đã lâu nhưng đến giờ vẫn chưa lấy được tiền, sắp tới em nghe nói còn phải kiểm toán nữa. Anh xem trong bao lâu thì lấy được tiền và số tiền lấy được có như ý không? Sẽ lấy được tiền trọn vẹn. Nhanh là tháng 10, chậm tháng giêng sang năm. 3. Em có một kế hoạch nhưng để thực hiện phải thông qua 1 người. Nếu em trình bày kế hoạch đó với người kia có tán thành không? Họ chỉ liếc sơ qua và nếu có nhận thì ...bỏ vào học bàn. Phải nhậu nhẹt, thân mật trước thì sẽ tạo được cơ hội thành công, nhưng mà khi đi nhậu phải nhờ người "trên cơ" của người đó "nói giúp" một tiếng, trên bàn nhậu. hic Gửi Như Thông, 1.xem công việc có thuận lợi và trắc trở nào không ? Sẽ có vài trắc trở, cù cưa cù nhằn đến tháng 11,12 al mới giải quyết xong. :D Thiên Đồng :rolleyes:
  20. Sư Phụ ơi, hỏng có quẻ quyết gì ráo trọi. Chỉ có thơ thôi sư phụ ơi. "Đang say ngao ngán mong cho tỉnh Vừa tỉnh, ngỡ ngàng lại muốn say" Thơ: Công Tấn :D Đông Thiền cẩn bút :rolleyes:
  21. Cóc Con mến, Ngày Đ Dậu 25 tháng C. Thân năm M.tí Giờ Tị Khai Đại An 1.Và kết quả việc xin cấp phép này ra sao ? Việc xin xỏ giấy phép này sẽ không đi tới đâu. Có nhờ luật sư đó cũng chẳng giúp được gì. Khoảng một tháng sau sẽ thấy hy vọng khả quan, nhưng đâu xuân năm sau mới cầm được giấy phép. 2.Xin anh xem giúp bao giờ thì thuê được nhà ? Sớm là tháng 10 năm nay, trể là tháng giêng năm sau sẽ mướn được. 3.Mẹ của CC muốn bán hoặc cho thuê căn nhà đang ở. Vậy việc này tiến hành có dễ không ? Bán nhà được thuận lợi, nhưng lỗ vốn so với thời giá hiện tại. Cho mướn thì khó, giá rẻ, khách hay cò kè. Xu hướng là bán nhà. :) Đông Thiền :)
  22. Ta Đang Thờ Vị Sư Tổ Phật Giáo Nào? Việt Nam có vị Thiền sư Tăng Hội lớn hơn tới 300 tuổi so với Thiền sư Bồ Đề Lạt Ma - người mà đa số chúng ta đang thờ là Sơ tổ Phật giáo. Ảnh: Thiền sư Thích Nhất Hạnh chủ trì lễ cầu siêu "Đại trai đàn bình đẳng chẩn tế" tại chùa Vĩnh Nghiêm, TP HCM Sau đây là bài giảng của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại Viện Nghiên cứu Tôn giáo - Hà Nội, ngày 18/1/2005 - "Lịch sử của Phật giáo ngày nay dưới cái nhìn tương tức". Chúng ta biết rằng vào thượng bán thế kỉ thứ 3 tại Giao Châu có Thiền sư Tăng Hội, cha là người Khương Cư, mẹ là người Việt Nam. Ngài xuất gia năm 10 tuổi, trở thành cao tăng, mở đạo tràng tu tập ở Luy Lâu, Bắc Ninh, thiết lập một trung tâm dịch thuật và sáng tác ở đó và tịch vào tháng 9 năm 280. Thiền sư Tăng Hội đã sử dụng những kinh bản nguyên thủy như kinh Quán Niệm Hơi Thở, kinh Bốn Niệm Xứ để thực tập thiền. Trong khi đó, Thiền sư sử dụng con mắt Đại Thừa để thực tập. Vào khoảng giữa thế kỉ thứ 3, Thiền sư Tăng Hội mà chúng ta đang công nhận là vị Sư tổ của Thiền Tông Việt Nam đã rời đất nước chúng ta sang nước Ngô để truyền đạo. Cao Tăng Truyện nói rất rõ ràng là khi thầy Tăng Hội đi sang nước Ngô thì bên đó chưa có tăng sĩ Phật giáo. Chính Thiền sư Tăng Hội đã tổ chức đàn truyền giới đầu tiên cho những người Ngô trở thành những vị xuất gia đầu tiên. Ngôi chùa mà thầy Tăng Hội thành lập có tên chùa Kiến Sơ - ngôi chùa đầu tiên. Bài tựa kinh An Ban Thủ Ý do Thiền sư Tăng Hội đã viết tại Việt Nam, trong đó nói Lạc Dương như là kinh đô. Lúc đó chưa chia ra làm tam quốc. (Nếu đã chia tam quốc thì kinh đô là Bành Thành). Trong bài tựa An Ban Thủ Ý, chúng ta tìm ra được sự thật là bài tựa kinh Quán Niệm Hơi Thở được viết tại Giao Châu. Sau khi đã tiếp xúc với truyền thống Phật giáo phương Nam, chúng tôi vẫn tiếp tục giảng dạy và xiển dương Thiền học Việt Nam theo đúng tinh thần của Tăng Hội. Nghĩa là căn cứ và thiền kinh của Nam tông mà giảng dạy theo tinh thần thực tập rộng rãi và phóng khoáng của Bắc tông. Nếu quý vị có tới Làng Mai để tu tập, sẽ thấy rằng pháp môn của Làng Mai nối tiếp một cách rất trung thực và kì diệu với truyền thống của Thiền sư Tăng Hội. Thiền sư Việt Nam và Thiền sư Tăng Hội lớn hơn Thiền sư Bồ Đề Lạt Ma - Sơ tổ Thiền tông Trung Quốc tới 300 năm. Như vậy trong các chùa của chúng ta, theo nguyên tắc thì phải thờ Thiền sư Tăng Hội làm Thiền tổ Việt Nam, chứ không phải Thiền sư Bồ Đề Lạt Ma. Nếu quý vị là nhà học giả, nhà văn, hay họa sĩ thì phải vẽ ra hình ảnh của Tổ sư Thiền đầu tiên của chúng ta là Thiền sư Tăng Hội. Chúng tôi đã viết cuốn "Thiền sư Tăng Hội" và cuốn này đã được phiên dịch ra nhiều thứ tiếng. Giới Phật tử lâu nay thường theo Thiền Trung Quốc và Nhật Bản, chưa phản ứng vì họ thấy rất lúng túng, lâu nay đã lỡ tin Bồ Đề Lạt Ma là Sơ Tổ Thiền tông Trung Quốc và Việt Nam rồi. Bây giờ lại nghe nói Thiền sư Tăng Hội lớn hơn Tổ Đạt Ma tới ba trăm tuổi, chính là người đầu tiên giảng dạy Thiền học tại Việt Nam và Trung Quốc thì điều đó chưa chấp nhận được. Thiền sư Tăng Hội rất uyên bác về Lão giáo, Khổng giáo và Phật học, cho nên đã thuyết phục được vua Ngô Tôn Quyền yểm trợ xây ngôi chùa đầu tiên tại nước Ngô. Sau đó thì Tôn Hạo tiếp nối Tôn Quyền, nghe lời một số cộng sự làm khó dễ, nhưng cuối cùng đã được thầy Tăng Hội thuyết phục và vua đã thọ Tam quy Ngũ giới với thầy. Chúng ta thấy khả năng hóa độ của thấy Tăng Hội rất lớn. Thầy không chỉ là Tổ Sư Phật giáo Thiền Việt Nam mà phải được cọi như Tổ Sư Phật giáo đầu tiên ở tại Trung Quốc. Chúng tôi mong rằng cuốn "Thiền Sư Tăng Hội" đó, đã được dịch sang tiếng Anh, sẽ được dịch ra tiếng Trung Quốc một ngày rất gần. Thiền sư Thích Nhất Hạnh
  23. Gửi Mai, Ngày T.Dậu 24 tháng C.Thân năm M.Tý giờ ngọ an Kinh Vo Vong 1. Bao giờ ổn định được nơi ở (Mai đang tìm thuê nhà mà mãi chưa thuê được)? trong tháng này 9 ngày nữa sẽ thuê được, trể là một tháng sau sẽ thuê được. 2. Tình cảm với bạn trai hiện tại sẽ có tiến triển tốt không? Sẽ có nhiều sóng gió đắng cay. Người này nghề nghiệp không ổn định, long bong. Mai sẽ không đi đến cùng với người này. Hè năm sau sẽ gặp một người khác. Người này sẽ đi đến hôn nhân. 3. Công việc sẽ tốt hơn năm qua không? Nhìn chung là năm qua tốt hơn, năm nay bắt đầu từ tháng này thì có chiều hướng đi xuống rỏ rệt.Sang năm sẽ khá, lấy lại tư thế phát triển. :) Đông Thiền :)
  24. gửi vinco, Ngày Ât mùi 23 tháng C. Thân năm M.tý giờ hợi. Thương Xích khẩu Đỗ Tiểu Cát Chuyện muốn thay đổi công việc này tính đến nay là cũng đã nghĩ đi nghĩ lại là ba bốn lượt. Công việc không thuận lợi bắt đầu từ mùa xân năm nay hoặc chí ít cũng vừa xảy ray từ tháng này. Trước sau gì cũng đổi việc. tháng giêng trể là tháng hai năm Kỷ Sửu sẽ đổi việc. Công việc tốt hơn, môi trường thoải mái, lương khá. :) Đông Thiền :)
  25. gửi Namie mong đợi việc? Ngày Qtị 21 tháng C Thân năm M Tý giờ Tuất Khai Đại An Nhẫn nại đợi, nhanh thì cuối tháng 8, chậm thì tháng 9. Công ty lớn, di chuyển nhiều, áp lực cao, thu nhập ổn định. Chuẩn bị tinh thần và chuyên môn, kẻo công việc quá sức. :) Thiên Đồng :)