-
Số nội dung
6.278 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
75
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Thiên Đồng
-
Thiên Đồng xin gợi ý cho Trung tâm Nghiên Cứu Lý Học Đông Phương, Sư Phụ Thiên Sứ cùng các cô chú bác anh chị em, nếu rảnh, chọn ngày lành tháng rách, mần một cuộc hành hương đến chốn này xem sao? Vừa picnique vừa ngâm cứu cái phong sủi bọt này, coi nó mần sao? Việt Nam có công trình kiến trúc mang nét thuần Việt này là việc đáng hoang nghênh và tự hào. Khôi phục Văn hiến Việt là phải ngay từ trong tâm thức mỗi người dân Việt. Hay thay! Hay Thay! :lol: B) :P :P :lol: B)
-
Gửi Linux Ngày Ất mão 13 tháng T. dậu năm M.tý giờ thìn Thương Không vong - Đỗ Đại An Chuyện này là mắc mướu ở thủ tục của cấp chính quyền. Hiện tại nếu cố gắng thì phải đi cho đúng nơi cơ quan giải quyết sự vụ thì sẽ êm. Việc này vào tháng hai năm sau sẽ được giải quyết. B) Thiên đồng B)
-
Hậu Thiên Lạc Việt bát quái gương Nhờ công thiết kế của Vô Thường Từ nay gương Tàu cứ bỏ xó Văn hiến Lạc Việt rọi muôn phương B) Đông Thiền B)
-
Si Phọ quả là...Sư Phụ ơi Mần thơ hay thiệt mát trời ông Đia (ông Địa) Nhắn Beemeo Sách Tàu nói chuyện...Tàu lao Lấy nhau cứ lấy...ào ào sợ chi Bây giờ cấm cảng ...ích chi? "Tiền trảm hậu tấu"... việc gì cũng xong Cha ông ta đã bài Phong thời nay hiện đại...lại không theo thời Ngó xem tuổi trẻ nay coi! Chúng yêu, ôm cứng, trời gầm chẳng buông vẽ vời chi cho thêm buồn Hạnh phúc con cháu cứ luôn thiệt thòi B) Thiên Đồng B)
-
Em và người yêu em đám cưới nhưng không được sự đồng ý của bố mẹ chồng do đi xem bói khắc tuổi. Trời ạ! thời buổi in tẹc nét này mà còn cấm với cảng. Lại còn tuổi nọ tuổi kia, không hợp, kị cọ này nọ. Quả là rắc rối nùi! Em nói với ba mẹ hai bên rằng sách Tàu nói sai, chớ mà tin. Chỉ có một chân lý tuyệt đối mà Sư Phụ Thiên Sứ nói là Yêu nhau thì cứ lấy nhau Chẳng cần coi tuổi sách Tàu sách Tây Còn chuyện giàu nghèo, hạnh phúc thì lại tùy thuộc vào tuổi...đứa con. bao giờ nhà trai sẽ hết căng thẳng với chúng em và bố mẹ em Khai Tiểu Cát Sớm thì phải sau một tháng, muộn thì phải ba tháng sau. Và chúng em bao giờ có nhà để ở anh nhé vì bây giờ chúng em vẫn phải đi thuê mà. Hưu Vô Vọng Việc này, sang năm sau bàn tiếp. Chứ bây giờ thì chưa có hy vọng. B) Thiên Đồng B)
-
Quẻ trước kia cách một tháng Beemeo hỏi thì Thiên Đồng trả nhời, Ngày N.Tý 10 tháng T.Dậu năm M.Tý giờ hợi an Kinh Xích Khẩu - Khai Tiểu cát Chớ lo lắng lần tới sẽ vui vẻ nhận được bằng lái mờ, được ơn trên phò hộ à nghen. :P Thiên Đồng :P
-
Hôm đi đến thăm chị Nga, Thiên Đồng có nói vui, cũng là lời chúc và động viên rằng "Chị yên tâm, ba tháng nữa chị sẽ khỏe nhiều và ba năm sau chị có thể chạy được rồi." Chị Nga cười hề hề. Cô Widlavender nói thêm "Chạy đi bán buôn" Sở dĩ nói vậy là Thiên Đồng bói được quẻ Sinh Tiểu Cát ngay lúc đến. Chị sẽ khỏe mà, bi giờ thêm chiêu phong sủi của Si Phọ trợ lực thêm thì yên chí lớn. Vài hàng ghi vậy. B) Thiên Đồng B)
-
KINH DỊCH, SẢN PHẨM SÁNG TẠO CỦA NỀN VĂN HIẾN ÂU LẠC Lời nói đầu < Kinh dịch, sản phẩm sáng tạo của nền văn hiến Âu Lạc Chuyện về lịch sử đâu đến lượt anh chàng làm về tự nhiên như chúng tôi thực hiện. Nhưng những chuyện tình cờ đã đưa chúng tôi vào cuộc. Giữa năm 2004, chúng tôi-những nhà khoa học trẻ có dự định làm một cuốn sách về Vật Lý. Tôi được phân công viết về các triết thuyết về vũ trụ. Các triết thuyết khác nói chung khá đơn giản vì chúng tôi đã làm quen qua. Nhưng Kinh Dịch lại hoàn toàn mù tịt. Thời công nghệ thông tin, đành gõ “Kinh Dịch” vào trang search của Google để tìm tài liệu. Cuộc tìm kiếm này đã dần đưa chúng tôi đến một diễn đàn tranh luận giữa một người có nickname là Thiên Sứ (Nguyễn Vũ Tuấn Anh) [1] và các người khác về đổi vị trí Tốn Khôn [2] của Hậu Thiên Bát Quái [3] trong website www.tuvilyso.com . Và chính cuộc bút chiến này làm cho chúng tôi đặt ra câu hỏi: “Liệu Hà Đồ [4] có hợp với Tiên Thiên Bát Quái? [5]”. Câu trả lời là chúng hoàn toàn không hợp với nhau. Vậy phải chăng Hà Đồ sai, hay Tiên Thiên sai?. Hay Hà Đồ được vẽ ra không dùng để ký hiệu Tiên Thiên?! Rồi càng nghiên cứu, càng lý thú. Đầu tiên, tôi thử đặt một giả thiết: “Ông Thiên Sứ đúng”. Và lý luận tiếp: “Nếu Thiên Sứ đúng thì truy nguyên lại, người Trung Quốc hoàn toàn không nắm bắt được những tư tưởng Hà Đồ, Lạc Thư. [6]”. Hà đồ thì khó, chứ Lạc Thư chả có gì đáng nói về toán học. Nó cũng chỉ là magic matrix đơn giản nhất thôi. Và trí tuệ người cổ đại hoàn toàn đạt được. Với bất cứ dân tộc nào! Mốc đột phá đầu tiên nhất là khi chúng tôi thử nghiên cứu đối xứng của cái gọi là “Hậu Thiên Bát Quái Văn Vương”. Nó thật thảm hại, luộm thuộm và phi logic đến mức buồn cười. Rồi dần dần ý tưởng về trống đồng của anh Nguyễn Thiếu Dũng [7] đã thôi thúc tôi. Ừ nhỉ? Tại sao không? Thế ông cha ta để lại thông điệp gì trên trống đồng. Thử dùng một thứ logic tự nhiên, đơn giản nhất để hiểu các cụ xem sao. Khoan nghĩ đến góc độ mỹ thuật để mà trầm trồ: “Ôi đẹp quá! Văn hiến Lạc Việt rực rỡ đấy chứ.”. Liệu có chăng một thứ triết lý nào đó trên trống đồng? Thay vì trầm trồ, thán phục vẻ đẹp của chúng (trống đồng), ta hãy lắng mình tìm những chi tiết nhỏ nhạnh nhất để thử tìm lại cái gì mà ông cha ta gởi gắm vào đó. Mặc dù, cái đẹp cũng là cái rất to tát rồi. Nào ngồi xuống đây, tôi kể anh nghe. Việt Nam ta có bí quyết trống đồng. Qua bao nhiêu trầm luân, Hán thuộc, Tây thuộc đủ cả; nhất là thời kỳ Bắc thuộc tổ tiên ta chịu mất đi ngữ văn của mình, chịu mất đi một phần ngôn ngữ cổ truyền của mình, chịu mất đi bao tài năng xuất chúng cho kẻ xâm lược. Thế mà bí quyết trống đồng, phương bắc không thể nào chiếm đoạt được. Cái gì thiêng liêng đến mức vậy?. Cái gì mà tổ tiên tôi với anh dù có bị tù đày, tra tấn, nhục hình vẫn không khai? Nó phải là cái gì cao quý chứ. Ít ra đối với dân tộc chúng ta. Chúng tôi bắt đầu tìm lại “nền văn hiến mồ côi...” như ông Kim Định [8] đã viết. Càng thôi thúc chúng tôi hơn khi đọc được bài phỏng vấn của bà Patricia Pelley trên BBC: BBC:Về vấn đề bản sắc dân tộc, chẳng phải đó đã luôn là quan tâm của mọi thế hệ sử gia hay sao? Đúng vậy, nhưng trong các xã hội hậu thuộc địa, không chỉ riêng ở Việt Nam, vấn đề bản sắc mang một tầm quan trọng đặc biệt. Nhất là khi các sách thời thuộc địa của Pháp tỏ ra tiêu cực về Việt Nam. Chẳng hạn, khi các nhà khảo cổ Pháp khai quật vùng Đông Sơn và thấy sự rực rỡ của trống đồng, họ liền cho rằng đây không thể nào là thành quả của người Việt. Người Pháp rõ ràng nghĩ họ đã chiếm được nước ta thì nước ta làm gì có nền văn hiến đáng kể!!! Hẳn nhiên, người Pháp với chủ quan của họ có quyền phán xét như vậy. Nhưng chúng ta có quyền nghĩ vậy không là điều đáng nói. Liệu chúng ta có thể nói văn hiến chúng ta không đáng kể trong khi dù bị đô hộ 1000 năm, dân tộc ta vẫn trường tồn không?... Khá khen cho các học giả người Pháp chăm chú và một cách thành kính nghiên cứu văn hiến Maya, văn hiến Aztec. Nền văn hiến của một dân tộc đã biến mất trên thế gian này; đâu còn gì để so đo, ganh tỵ mà mình không khen cơ chứ. Còn văn hiến của một dân tộc mất nước, một dân tộc bị mình đô hộ thì có chi đáng kể. Nếu có gì đó rực rỡ hay vĩ đại quá ngược với thành kiến của ta, ta cứ phán là không phải thành quả của họ. Người dân tộc khác cũng hoàn toàn logic khi nói: “Dân tộc Việt của các anh xướng ca vô loài, đàn bà đàn ông nhảy nhót với nhau, không ra thể thống gì. Làm gì có thể đặt vấn đề triết thuyết ra đây? Các anh làm ra trống đồng thật đấy. Nhưng há có một dân tộc nào không có một nghệ nhân khéo léo nào đó?! Người nghệ nhân của các anh chỉ vẽ thô sơ lại một vũ hội nào đấy mà thôi.”. Có thể như thế vậy chăng? Chuyện cơ ngẫu thì trong triết học từ Á sang Âu đều có viết. Nhưng người nghệ nhân làm ra một sản phẩm trí tuệ liệu có ngẫu nhiên phát họa những hình ảnh đập vào mắt mình không?... Và tôi đã tìm ra những ngẫu nhiên đáng ngờ... Chú thích: [1] : Nguyễn Vũ Tuấn Anh - nhà nghiên cứu văn hoá, chuyên về nền văn hiến Lạc Việt. Ông còn là nhà Dịch học. Một trong những người kiên quyết khẳng định, Kinh Dịch do người Việt cổ làm nên. Vào đây để đọc sách của tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh: [2] : Hai quái trong Bát quái. Có tám quái cả thảy vì chúng được xây dựng nên từ hai vạch Âm Dương và có ba lớp như thế, nên số quái sẽ bằng 23 = 8. Với Càn-3 lớp Dương cả, Khôn-3 lớp Âm cả, Đoài-2 Dương dưới và 1 Âm trên, Cấn-2 Âm dưới và 1 Dương trên, Chấn-1 Dương dưới hai Âm trên, Tốn-1 Âm dưới hai Dương trên, Ly-2 Dương trên dưới và vạch Âm giữa, Khảm-2 Âm trên dưới và vạch Dương giữa. [3] : Hậu Thiên Bát Quái tương truyền do ông Chu Văn Vương dựng nên khi bị Trụ Vương giam cầm ở Dữu Lý. Các quái trong Hậu Thiên Văn Vương được phân bố như sau: Khảm-Bắc, Càn-Tây Bắc, Đoài- Tây, Khôn-Tây Nam, Ly-Nam, Tốn-Đông Nam, Chấn-Đông, Cấn-Đông Bắc. [4] : Hà Đồ: tương truyền do vua Phục Hy nhìn thấy nó mà vẽ nên hai vạch Âm Dương. Đồng thời dựng nên Tiên Thiên Bát Quái. Hà đồ là một đồ số có các cặp số (được vẽ số nhỏ trong, số to ngoài) sau: 1-6, 2-7, 3-8, 4-9. Với 1-6 đối với 2-7, 3-8 đối với 4-9. [5]: Tiên Thiên Bát Quái. Các quái trong Tiên Thiên phân bố như sau: Khôn-Bắc, Cấn-Tây Bắc, Khảm- Tây, Tốn-Tây Nam, Càn-Nam, Đoài-Đông Nam, Ly-Đông, Chấn-Đông Bắc. Thật ra phương vị không quan trọng. Chúng tôi chép như thế để bạn đọc biết vị trí tương xứng của các quái mà thôi. [6] : Lạc Thư. Ma phương 3x3, tổng các số hàng ngang hàng dọc và chéo đều bằng 15. Các số từ 1-9 được xếp như sau (ở đây để tiện theo dõi vấn đề liên quan đến Dịch học, chúng tôi cũng phân các ô của Lạc Thư theo tám hướng: 5 ở giữa, 1-Bắc, 6-Tây Bắc, 7- Tây, 2-Tây Nam, 9-Nam, 4-Đông Nam, 3-Đông, 8-Đông Bắc. [7] : Nguyễn Thiếu Dũng. Người viết một loạt bài chứng minh Kinh Dịch là di sản của người Việt. Link tham khảo: Kinh dịch - Di sản sáng tạo của Việt Nam Thanh niên Online và Chiếc gậy thần Thanh niên Online [8] : Kim Định. Linh mục triết gia người Việt. Người viết nhiều về triết lý Việt cổ. Người viết cuốn “Gốc rễ triết Việt”. Lấy từ « http://www.thuvienkhoahoc.com/tusach/Kinh_...C4%91%E1%BA%A7u »
-
Phản hồi bài viết ''Kinh Dịch - di sản sáng tạo của Việt Nam?'' 09:10:05, 26/07/2004 báo Thanh Niên Hiện nay tôi đang là nghiên cứu sinh tiến sỹ thuộc đại học Oxford, Vương quốc Anh. Tôi tình cờ đọc được bài ''Kinh Dịch - di sản sáng tạo của Việt Nam?'' của tác giả Nguyễn Thiếu Dũng về việc chứng minh nguồn gốc của Kinh Dịch. Tôi rất lấy làm vui mừng vì đã có những nhà nghiên cứu để tâm đến điều này.Những ngày còn học đại học, tôi đã có thời gian theo học võ thuật với một vị võ sư về võ Việt Nam (xin lưu ý đây không phải là Vovinam - Việt võ đạo). Môn phái được đặt tên là Huỳnh Long Tây Sơn. Khi tôi học đến giai đoạn trở thành huấn luyện viên thì được vị võ sư cho về nhà để dạy lý thuyết tập nội công và các đồ giải về huyệt đạo. Vị võ sư tên là Huỳnh Đức Thọ, nguyên là Thư ký Liên đoàn Võ cổ truyền TP Hồ Chí Minh. Theo ông, hệ thống huyệt đạo cũng như các lý thuyết về Kinh Dịch, về các bản Lạc thư và Hà đồ cũng như các can, chi đều xuất phát từ dân tộc Việt và có rất nhiều điểm khác so với giải thích của người Trung Hoa. Các hệ thống huyệt đạo và kinh mạch cũng hết sức rõ ràng và được phân bố rất có qui luật chứ không rối rắm như đồ hình của người Trung Hoa. Tôi không có thời gian để theo học ông lâu, nhưng biết rằng ông đang nắm giữ rất nhiều tài liệu gia truyền lâu đời giải thích về các lý thuyết liên quan đến Kinh Dịch cũng như nguồn gốc của Kinh Dịch (xin lưu ý rằng theo lý thuyết được xây dựng từ Kinh Dịch mà việc con người có thể phát nhân điện đo được qua các thiết bị đo là do luyện tập mà nên, không phải do khả năng kỳ lạ bẩm sinh. Vị võ sư này đã từng sang Italia biểu diễn và cho các bác sĩ đặt máy đo khi ông vận công phát nhân điện). Tôi viết bài này mong tòa soạn giúp cho tác giả bài viết về Kinh Dịch có thông tin để tìm đến trao đổi với vị võ sư ấy. Tôi rất kỳ vọng tác giả sẽ có được những thông tin bổ ích nhằm giúp cho chúng ta có cơ hội khôi phục lại những gì dân tộc Việt đã bị mất và giữ vững được sự độc lập không chỉ về lãnh thổ mà còn về nền văn hoá tinh hoa của ông cha ta để lại. Nguyễn Sỹ Lâm
-
KINH DỊCH, DI SẢN SÁNG TẠO CỦA NGƯỜI VIỆT NAM? 16:40:40, 06/07/2004 báo Thanh Nien Đã có khá nhiều công trình nghiên cứu của các học giả Việt Nam về Kinh Dịch, trong số đó có một công trình đặt lại vấn đề " tác quyền" của bộ Kinh này. Đó là học giả Nguyễn Thiếu Dũng, qua nhiều tìm tòi và nghiên cứu, ông đã nêu ra một số chứng lý để minh chứng rằng Kinh Dịch là sáng tạo của người Việt Nam. Với sự thận trọng cần thiết, Thanhnien Online xin giới thiệu bài viết sau đây của học giả Nguyễn Thiếu Dũng để rộng đường tham khảo. Từ hai nghìn năm trước khi chúng ta bị phong kiến phương Bắc đô hộ, tổ tiên chúng ta ở thời đại Hùng Vương đã sáng tạo Kinh Dịch và dùng học thuyết này xây dựng nền tảng cơ bản cho văn hoá Việt Nam, nhờ thế trong suốt một nghìn năm lệ thuộc Trung Hoa, chúng ta vẫn đứng vững không bị đồng hoá như các dân tộc ở Hoa Nam. Người Trung Hoa không biết từ thời điểm nào đã tiếp thu được Kinh Dịch của Việt Nam và họ cũng đã dùng Kinh Dịch để góp phần xây dựng nền tảng văn hoá của họ. Cho nên trong sinh hoạt, chúng ta có nhiều điểm giống họ, sau một nghìn năm mất chủ quyền, ta mất luôn tác quyền Kinh Dịch và những gì ta nghĩ, ta làm thấy giống Trung Hoa ta đều tự nhận mình học của Trung Hoa. Kỳ thật không phải như vậy. Người Trung Hoa rất trọng hướng Đông, khi họ tiếp khách, chủ nhà ngồi quay mặt về hướng Đông để tỏ chủ quyền. Trong thời lập quốc họ luôn luôn hướng về biển Đông, không kể Nam Kinh những Kinh đô danh tiếng của Trung Quốc đều lần lượt nối nhau tiến dần từ Tây Bắc sang Đông. Ngày nay những thành phố lớn của họ cũng đều tập trung ở bờ Đông. Thế mà trong Kinh Dịch họ phải công nhận hướng Nam là hướng văn minh, mặc dầu trong sử sách họ vẫn cho Hoa Nam là xứ man di. Mỗi khi cần bói Dịch họ đặt Kinh Dịch trên bàn thờ cho quay mặt về hướng Nam như hướng ngồi của Hoàng đế, rồi lạy bái cầu xin. Cử chỉ này cho thấy trong tiềm thức họ không quên nguồn gốc Kinh Dịch đến từ phương Nam, từ đất nước của các vua Hùng. Trong vòng 60 năm trở lại đây một số nhà nghiên cứu Việt Nam đã trực giác thấy rằng Kinh Dịch là tài sản của Việt Nam nhưng khi nói như thế họ vẫn chưa thoát khỏi sự ràng buộc của truyền thuyết nên vẫn thừa nhận Phục Hy là nhân vật sáng tạo Kinh Dịch. Cho nên không tránh được mâu thuẫn. Ngày nay chúng ta có đầy đủ chứng lý để nói ngay rằng Kinh Dịch là sản phẩm của Việt Nam, do chính tổ tiên người Việt sáng tạo, trên chính quê hương Việt Nam với nhiều bằng chứng vật thể còn lưu dấu trên đồ gốm Phùng Nguyên, đồ đồng Đông Sơn. Phục Hy, Văn Vương chưa từng làm ra Dịch. 1) Chứng lý vật thể: Kinh Dịch xuất hiện tại Việt Nam một nghìn năm trước khi có mặt tại Trung Quốc: Tại di chỉ xóm Rền, thuộc nền Văn hoá khảo cổ Phùng Nguyên, các nhà khảo cổ đã đào được một chiếc nồi bằng đất nung (11, tr 642) trên có trang trí bốn băng hoa văn, mỗi băng nầy tương đương với một hào trong quẻ Dịch, theo phép đọc Hổ thể thì đây chính là hình khắc của quẻ Lôi Thuỷ Giải. Đây có thể xem là chứng tích xưa nhất trên toàn thế giới hiện chúng ta đang có được về Kinh Dịch. Chiếc nồi báu vật vô giá này mang trên mình nó lời cầu nguyện của tổ tiên chúng ta về cảnh mưa thuận gió hòa, mong sao được sống một đời an bình không có họa thuỷ tai. Lôi Thuỷ Giải là mong được giải nạn nước quá tràn ngập (lũ lụt), hay nước quá khô cạn (hạn hán). Niên đại của Văn hoá Phùng Nguyên được Hà Văn Tấn xác định: ”Phùng Nguyên và Xóm Rền đều là các di chỉ thuộc giai đoạn giữa của văn hoá Phùng Nguyên. Hiện tại chưa có niên đại C14 cho giai đoạn này. Nhưng hiện nay chúng ta đã có một niên đại C14 của di chỉ Đồng Chỗ là di chỉ mà tôi cho là thuộc giai đoạn sớm của Văn hoá Phùng Nguyên: 3800 + 60 BP (Bln-3081) tức 1850 + 60BC (Hà Văn Tấn 1986: 181-182). Như vậy, các di chỉ Phùng Nguyên và Xóm Rền phải muộn hơn niên đại này. Nhưng Phùng Nguyên và Xóm Rền lại sớm hơn các niên đại C14 của lớp dưới di chỉ Đồng Đậu. Hiện nay lớp này có các niên đại: 3330 + 100BP (Bln-830), 3050 + 80BP (Bln-3711); 3015 + 65BP (HCMV 05/93); 3100 + 50BP (HCMV 06/93). Nếu tin vào các niên đại C14 này thì giai đoạn giữa của văn hoá Phùng Nguyên nằm vào khoảng giữa thế kỷ 17 và thế kỷ 14 trước Công Nguyên... tương đương với văn hoá Thương ở Trung Quốc, thậm chí với giai đoạn sớm của văn hoá này (1, tr 578-579). Về phía Trung Quốc, tuy theo truyền thuyết cho là Kinh Dịch do Phục Hy thời đại tối cổ Trung Quốc tạo ra nhưng trên thực tế không có chứng cứ nào để xác nhận chuyện này. Triết gia đầy uy tín của Trung Quốc Phùng Hữu Lan đã khẳng định trong Trung Quốc Triết học sử: ’’Suốt thời nhà Thương chưa có Bát Quái” (bản Hồng Kông 1950, tr 457). Chưa có Bát Quái nghĩa là chưa có Kinh Dịch. Quẻ Dịch xuất hiện sớm nhất ở Trung Quốc là trên sách Tả Truyện thời Xuân Thu-Chiến Quốc (772-221 BC). Vào thời kỳ này trên một số lớn các trống đồng Đông Sơn ở Việt Nam đã có khắc hình quẻ Lôi Thuỷ Giải bằng 6 dải băng nghĩa là đầy đủ 6 hào. Vậy là rõ ràng Kinh Dịch đã có ở Việt Nam từ thời các Vua Hùng, so với chứng cứ cụ thể của Trung Quốc Kinh Dịch đã có ở nước ta trước Trung Quốc cả nghìn năm. Chuyện này chẳng khác chi chuyện tổ tiên ta đã biết trồng lúa nước nghìn năm trước Trung Hoa mà Trần Trọng Kim vẫn viết trong Việt Nam sử lược là người Trung Hoa có công dạy dân ta làm ruộng. 2) Chứng lý ngôn ngữ học: Một số tên quẻ Dịch là tên tiếng Việt không phải tiếng Trung Quốc: Người ta thường gọi Kinh Dịch hay Kinh Diệc và cứ đinh ninh Diệc là do Dịch đọc chệch đi, kỳ thật tổ tiên ta nói Kinh Diệc và người Trung Hoa đã đọc chệch đi thành Dịch. Tiếng Trung Hoa Dịch còn có thể đọc là Diệc(Xem Khang Hy Từ Điển). Diệc là một loài chim nước, có họ với loài cò. Đây là những loài chim quen thuộc với đồng ruộng, với văn minh nông nghiệp, văn minh Văn Lang. Kinh Dịch là kết tinh của văn minh nông nghiệp, các nhà sáng tạo kinh Dịch Việt Nam lấy hình ảnh con diệc, con cò làm tiêu biểu cho hệ thống triết học của mình là hợp lý, nhưng người Trung Quốc muốn làm biến dạng cho khác đi, cho rằng chữ Dịch là hình ảnh con tích dịch - một loại thằn lằn hay biến đổi màu sắc theo thời gian chẳng thân thiết gần gũi gì với người nông dân cả. Điều này đã được ghi chú rất rõ trên trống đồng Đông Sơn về sau sẽ giải rõ. Tên tám quẻ đơn Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài đều là tiếng Việt không phải là tiếng Trung Quốc. Các học giả Trung Hoa rất lúng túng khi giải nghĩa nguồn gốc tên những quẻ này vì họ cứ cho đó là tiếng Hoa nên tìm mãi vẫn không lý giải được. Ở đây chỉ dẫn một quẻ để minh chứng. Quẻ Ly không có nguồn gốc Trung Hoa, đây chỉ là chữ ghi âm tiếng Việt, một dạng chữ Nôm loại giả tá. Kinh Dịch bản thông hành ghi là Ly, âm Bắc Kinh đọc là Lĩ, nhưng bản Bạch Thư Chu Dịch đào được ở Mã Vương Đôi thì lại ghi là La, âm Bắc Kinh đọc là lúo (đọc như lủa). Rõ ràng đây là cách ghi của hai người Trung Hoa ở hai nơi hoặc hai thời điểm nghe người Việt Nam nói là quẻ Lửa, một người bèn ghi là lĩ (Ly), một người lại ghi là lủa (La). Còn người Việt Nam viết chữ Nôm Lửa thì lại dùng chữ lã làm âm. Cả ba âm Ly, La, Lã đều là cận âm với âm lửa, dùng để ghi âm âm lửa. Như vậy quẻ Ly không phải là quẻ có nghĩa là lìa hay là dựa như người Trung Hoa nghĩ mà chính là quẻ Lửa tức là quẻ Hoả như về sau họ đã dịch đúng nghĩa của nó. 3) Chứng lý đồ tượng: Kinh Dịch Trung Hoa thiếu một hình đồ trọng yếu, trong khi hình đồ này đang được cất giấu tại Việt Nam. Chứng tỏ Việt Nam mới là nước sáng tạo Kinh Dịch. Đồ tượng và quái tượng (quẻ) là những hình tượng cơ bản cấu tạo nên Kinh Dịch. Cả hai đều có những giá trị bổ túc cho nhau để hình thành Kinh Dịch. Đọc Dịch mà chỉ chú trọng đến quẻ không chú ý đến Đồ là một thiếu sót đáng tiếc vì như thế là đã bỏ qua quá nửa phần tinh tuý của Dịch. Những ứng dụng quan trọng của Dịch đa phần đều căn cứ trên đồ, như thuyết trọng nam khinh nữ chi phối sâu đậm nhân sinh quan Trung Quốc thời kỳ phong kiến là ảnh hưởng Càn trọng Khôn khinh của Tiên Thiên Đồ, xem phong thuỷ, coi tử vi, học thuyết Độn Giáp, Thái Ất phát sinh ở Trung Hoa là do ảnh hưởng của Hậu Thiên Đồ. Y học, Võ thuật, Binh Thư Đồ trận lừng danh của Trung Quốc đều từ các Thiên Đồ mà ra. Theo thuyết Tam tài, cơ sở để xây nên toà lâu đài Kinh Dịch thì phải có ba Đồ chính là Tiên Thiên Đồ, Hậu Thiên Đồ và Trung Thiên Đồ nhưng suốt cả hai nghìn năm nay, Trung Quốc chỉ lưu hành hai Đồ Tiên Thiên và Hậu Thiên. Người Trung Hoa tuyệt nhiên không tìm ra Trung Thiên Đồ, cuối cùng họ đành bó tay, rồi thản nhiên kết luận, không cần có Trung Thiên Đồ. Đã có Tiên Thiên Đồ làm thể và Hậu Thiên Đồ làm dụng là đủ lắm rồi. Đây chính là khuyết điểm lớn nhất của Dịch học Trung Quốc mà cũng là cái may lớn nhất cho ta để từ chỗ sơ hở này ta tìm ra chứng lý quan trọng nhất, quyết định nhất để xác nhận tác quyền của Việt Nam. Trung Quốc không có Trung Thiên Đồ, một Đồ quan trọng bậc nhất dùng làm la bàn để viết nên kinh văn các lời hào, Việt Nam lại cất giữ Trung Thiên Đồ! Vậy thì ai là chủ nhân Kinh Dịch? Câu hỏi đã được trả lời, bí ẩn hai nghìn năm đã được trưng ra ánh sáng. Tác giả bài này có may mắn là đã thiết lập được Trung Thiên Đồ. Đồ này quẻ Càn ở phương Nam, quẻ Đoài ở phương Đông Nam, quẻ Tốn ở phương Đông, quẻ Khảm ở phương Đông Bắc, quẻ Ly ở phương Bắc, quẻ Cấn ở Tây Bắc, quẻ Chấn ở Tây và quẻ Khôn ở phương Tây Nam. Đây chính là Đồ thứ ba trong số ba Thiên Đồ trọng yếu của Kinh Dịch mà người Trung Hoa không tìm ra. Nếu Tiên Thiên Đồ là Thiên Đồ, Hậu Thiên Đồ là Địa Đồ thì Trung Thiên Đồ là Nhân Đồ nghĩa là Đồ nói về con người. Có một danh hoạ tài ba nào chỉ trong một hình vẽ có thể biểu đạt ba hình thái khác nhau về con người? Điều này chưa ai làm được, ngay cả máy móc tân tiến nhất, hiện đại nhất cũng không thể làm việc này. Thế mà Trung Thiên Đồ cùng một lúc có thể diễn tả ba trạng thái khác nhau đó: Trung Thiên Đồ có mục đích nói về những vấn đề liên quan đến con người cho nên hình đồ Trung Thiên có thể biểu thị ba khía cạnh khác nhau của con người về mặt sinh lý, về mặt siêu lý và về mặt đạo lý: a) Con người sinh lý: Quẻ Càn tượng cho bán cầu não phải, Quẻ Khôn tượng cho bán cầu não trái. Khi một người bị tai biến mạch máu não ở bán cầu phải thì tay chân bên trái thường bị liệt, ngược lại cũng thế. Vì Càn thuộc dương nên liên quan đến tay trái gồm hai quẻ Chấn dương và Cấn dương và vì tay trái đã dương thì chân trái lại thuộc về âm nên chân có quẻ Ly âm. Trái lại, bán cầu não trái Khôn âm sẽ ảnh hưởng đến tay phải Trạch âm và Tốn âm cùng với chân Khảm dương. Điều này tương đồng với kết quả thực nghiệm của Leokadia Podhorecka (1986), trình bày năm 1986 tại hội nghị quốc tế về Trường sinh học tại Zagrev về tính bất đối xứng phải - trái trong nhân thể (2, tr 117). Hình đồ cũng thể hiện được y lý Đông Phương cho rằng Thiên khí tả truyền: Dương khí đi từ bên phải (Càn dương) sang bên trái (Cấn, Chấn dương), Địa khí hữu truyền: Âm khí đi từ bên trái (Khôn âm) sang bên phải (Đoài, Tốn âm). Con người muốn sống cần phải thở (Càn phế, chủ khí), sau đó phải được nuôi dưỡng bằng thức ăn (Khôn, tỳ vị). Con người khoẻ mạnh khi tâm (Ly) giao hoà với thận (Khảm), nếu tâm thận bất giao sẽ sinh tật bệnh, vị y tổ Việt Nam Lê Hữu Trác đã phát triển học thuyết này để chữa bệnh rất hiệu quả. Con người siêu lý :wacko: Con người siêu lý: Theo trãi nghiệm của các hành giả Yoga hoặc Khí công, Thiền, thì cơ thể có bảy trung tâm năng lượng tác động chi phối sự sống của con người, gọi là bảy đại huyệt hay là bảy luân xa. Trung Thiên Đồ chính là biểu đồ hệ thống bảy luân xa đó, theo thứ tự từ dưới lên: luân xa 1 là Hoả xà Kundalinê chính là quẻ Ly hoả, Luân xa 2 là Mệnh môn quan chính là quẻ Khảm (thận thuỷ), Luân xa 3 là Đơn điền Ngũ Hành Sơn chính là quẻ Cấn sơn, Luân xa 4 là Luân xa tâm gồm hai quẻ Tốn (tâm âm) và Chấn (tâm dương), luân xa 5 là trung tâm Ấn đường chính là quẻ Đoài, luân xa 6 nằm ở chân mi tóc hay huyệt Thượng tinh mà Đạo giáo thường gọi là Kim mẫu chính là quẻ Khôn (Địa mẫu), Luân xa 7 là huyệt Thiên môn Bách hội chính là quẻ Càn Thiên. Con người đạo lý c) Con người đạo lý: Trung Thiên Đồ còn biểu đạt một mẫu người đạo lý tâm linh: quẻ Sơn Tượng cho tính người tham lam muốn tích luỹ như núi (Tham), quẻ Ly Hoả tượng cho người có tính sân như lửa (Sân), quẻ Khảm Thuỷ tượng cho người có tính si như nước đổ dồn về chỗ thấp (Si), ba thói xấu đó sẽ dẫn con người đến chỗ ác tượng trưng bằng quẻ Tốn (tâm âm, nhục tâm, vọng tâm), (như thuyết Tam Độc của Phật Giáo). Nhưng nếu con người biết phát triển tâm từ bi như tình yêu của mẹ tượng bằng quẻ Khôn (Địa Mẫu - Từ Bi), khiến tâm thanh tịnh an lạc tượng bằng quẻ Đoài (Vui, Hỉ), lúc nào cũng sẵn lòng cảm thông tha thứ cho người, tượng bằng quẻ Càn (Xả) thì con người sẽ đạt được cõi phúc, tượng bằng quẻ Chấn (Tâm dương, Chân tâm, Đạo tâm), (như thuyết Tứ vô lượng tâm của Phật giáo). 4) Phát hiện Trung Thiên Đồ trong truyền thuyết Kinh Dịch có tám quẻ đơn: Càn còn gọi là Thiên có tượng là trời, là vua, là cha. Khôn còn gọi là Địa có tượng là đất, là hoàng hậu, là mẹ. Khảm còn gọi là Thuỷ có tượng là nước, là cá (ngư). Ly còn gọi là Hoả có tượng là lửa. Cấn còn gọi là Sơn có tượng là núi. Đoài còn gọi là Trạch có tượng là đầm (hồ). Chấn còn gọi là Lôi có tượng là sấm, là con trai trưởng. Tốn còn gọi là Phong có tuợng là gió, là cây (mộc). Khi tám quẻ đơn chồng lên nhau ta được 64 quẻ kép, nhưng khi tám quẻ đơn được đặt trên vòng tròn ta sẽ được ba thiên đồ căn bản: Tiên Thiên Đồ thường được người Trung Hoa gọi là Tiên Thiên Đồ Phục Hy vì cho là do Phục Hy chế ra, Hậu Thiên Đồ cũng được người Trung Hoa gọi là Hậu Thiên Đồ Văn Vương vì cho là do Văn Vương thiết lập, ở đây chúng tôi chỉ gọi là Tiên Thiên Đồ và Hậu Thiên Đồ vì đã chứng minh được Kinh Dịch do người Việt Nam sáng chế nên Phục Hy, Văn Vương chẳng can dự gì vào việc sáng tạo các thiên đồ. Dịch đồ thứ ba chính là Trung Thiên Đồ đã được tổ tiên Việt Nam cất giấu trong truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ. Truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ không chỉ là một huyền sử về nguồn gốc dân tộc "Con Rồng cháu Tiên", một thông điệp về tình đoàn kết, nghĩa yêu thương giữa các dân tộc anh em, đồng bào mà còn chứa đựng một thông tin về di sản tinh thần vô giá của dân tộc Việt Nam đã được tổ tiên chúng ta bí mật cất giữ trong đó: tôi muốn nói đến Kinh Dịch đứa con lưu lạc của Việt Nam đã được Trung Quốc nuôi dưỡng và đã thành danh ở đó. Nếu chúng ta kết hợp những thông tin nằm rải rác trong các truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ, truyện Hồ tinh, Mộc tinh, Ngư tinh ta sẽ thiết lập được một Trung Thiên Đồ mà người Trung Quốc chưa hề biết đến. Theo Kinh Dịch, Lạc Long Quân thường được nhân dân gọi là Bố mỗi khi có việc cần giúp đỡ có thể ký hiệu bằng quẻ Càn có tượng là vua, là cha. Lạc Long Quân thường sống ở Thuỷ phủ ký hiệu là quẻ Khảm có tượng là nước. Lạc Long Quân diệt được Hồ tinh là con cáo chín đuôi sống hơn ngàn năm ở đầm Xác Cáo nay là Hồ Tây, sự kiện này có thể ký hiệu bằng quẻ Đoài tức quẻ Trạch có tượng là đầm. Đất Phong Châu thời Thượng cổ có cây Chiên đàn sống hàng ngàn năm, chim hạc thường đến đậu ở đấy nên nơi đó còn gọi là đất Bạch Hạc (nay thuộc tỉnh Phú Thọ), lâu ngày cây hoá thành yêu tinh dân gọi là thần xương cuồng, Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân ra sức đánh đuổi, cứu dân thoát khỏi sự bức hại của xương cuồng. Sự kiện này có thể ký hiệu bằng quẻ Tốn còn gọi là quẻ Phong có tượng là mộc. Lạc Long Quân cũng có công diệt được ngư tinh, con yêu ngư xà ăn thịt người, chuyện này cũng thuộc quẻ Khảm ký hiệu ở trên. Truyền thuyết thường nói chung là Lạc Long Quân (quẻ Càn) diệt hồ tinh (quẻ Đoài), diệt mộc tinh (quẻ Tốn), diệt ngư tinh (quẻ Khảm) để cứu dân, từ đó ta đã có được một vế của Trung Thiên Đồ: Càn - Đoài - Tốn - Khảm. Theo truyền thuyết Lạc Long Quân nói với Âu Cơ (được tôn xưng là Quốc mẫu, là mẹ, ký hiệu là quẻ Khôn): (1, tr 30). Như thế là truyền thuyết đã xác định rất rõ tính cách tương phản giữa Lạc Long Quân và Âu Cơ. Long Quân thuộc quẻ Khảm (Thuỷ) thì Âu Cơ thuộc quẻ Ly (Hoả). Truyền thuyết kể tiếp: "Âu Cơ và năm mươi con lên ở đất Phong Châu (nay là huyện Bạch Hạc) suy phục lẫn nhau, cùng tôn người con cả lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, lấy tên nước là Văn Lang". Lên Phong Châu là lên núi ký hiệu là quẻ Cấn có tượng là núi, tôn người con cả ký hiệu là quẻ Chấn vì Chấn có tượng người con trưởng. Ta lại có thêm vế thứ hai của Trung Thiên Đồ: Ly - Cấn - Chấn - Khôn. Đến đây ta đã khai quật được Trung Thiên Đồ từ lớp ngôn ngữ truyền thuyết, các quẻ xếp theo thứ tự Càn - Đoài - Tốn - Khảm - Ly - Cấn - Chấn - Khôn theo chiều ngược kim đồng hồ. 5) Vai trò Trung Thiên Đồ trong việc hình thành văn bản Kinh Dịch: a) Bố cục Kinh Dịch: Kinh Dịch có 64 quẻ, 30 quẻ đầu thuộc về thượng kinh, 32 quẻ sau thuộc về hạ kinh. Nhìn vào cách sắp đặt vị trí các quẻ Dịch trong bản kinh văn thông hành ta không thể không nghĩ rằng các nhà làm Dịch đã sử dụng Trung Thiên Đồ như là la bàn để phân bố các quẻ. Mở đầu kinh văn là hai quẻ Càn số 1, Khôn số 2 đúng như vị trí Càn Khôn đứng bên nhau trên Trung Thiên Đồ, cuối thượng kinh là hai quẻ Khảm số 29 và Ly số 30 đúng như vị trí Khảm Ly dưới Trung Thiên Đồ. Mở đầu hạ kinh là hai quẻ Trạch Sơn Hàm số 31 và quẻ Lôi Phong Hằng số 32 đúng như vị trí quẻ Đoài Trạch đối qua tâm với quẻ Cấn Sơn tạo thành quẻ Trạch Sơn Hàm, quẻ Chấn Lôi đối qua tâm với quẻ Tốn Phong tạo thành quẻ Lôi Phong Hằng nằm giữa Trung Thiên Đồ. Cuối hạ kinh là hai quẻ Thuỷ Hoả Ký Tế số 63 và Hoả Thuỷ Vị Tế số 64 đúng như vị trí quẻ Khảm Thuỷ giao hoán với quẻ Ly Hoả tạo thành. Khác hẳn với Tiên Thiên Đồ và Hậu Thiên Đồ các quẻ Càn Khôn Ly Khảm đứng đối nhau qua tâm, biểu hiện trạng thái phân ly, trên Trung Thiên Đồ các quẻ Càn Khôn Ly Khảm đứng gần nhau từng đôi một biểu hiện trạng thái giao hội. Ở tự nhiên mọi vật có thể đối nghịch, vừa tương phản vừa tương thành. Nhưng ở con người thì khác, con người là một chỉnh thể, một thái cực, một toàn đồ âm dương phải tương hội điều hoà, nếu một bên thiên thắng con người sẽ bất ổn, phát sinh bệnh tật. :wacko: Đặt tên cho quẻ Dịch: Nhiều nhà chú giải Kinh Dịch Trung Quốc khi giải thích nghĩa chữ giao của hào thượng cửu quẻ Thiên Hoả Đồng nhân số 13 "Đồng nhân vu giao" thường chỉ dừng lại ở vấn đề chính trị xã hội nên hiểu giao theo một nghĩa rất hẹp, họ cho giao là vùng đất ngoại ô kinh thành nếu muốn đồng thì nên tìm người ở xa mà liên hiệp. Hiểu như vậy thì không sát nghĩa và không đúng với lập ý của người làm ra Kinh Dịch. Có lẽ vì người Trung Quốc trong tay không có la bàn Trung Thiên Đồ là đồ đã bị Tổ tiên người Việt Nam cất giấu rất kỹ không truyền ra ngoài nên không hiểu rằng giao tức là giao hội, khi hoả xà Kundalinê từ lâu cuộn mình ở đốt xương cùng có đủ điều kiện lên hợp nhất với thần Vishnou cư trú ở huyệt Thiên môn nghĩa là khi luân xa số 1 là quẻ Ly Hoả hoà nhập với luân xa số 7 là quẻ Càn Thiên là lúc con người đạt đến trạng thái toàn thức, hạnh phúc hoàn hảo nhất, con người đạt đến mức độ giao hội cùng vũ trụ, tha nhân, vì thế mới đặt tên cho quẻ này là Thiên Hoả Đồng nhân. Giao nằm ở hào thượng cửu (theo Dịch lý thuộc tài thiên), tức là ở mức độ đồng nhân cao nhất, mức độ hoà đồng siêu việt, Nếu hiểu giao như nghĩa các chữ Đông giao (ngoại ô phía đông), Nam giao (ngoại ô phía Nam) thì không phù hợp với cấu trúc quẻ Dịch, hiểu như vậy là mặc nhiên nhận giao thuộc về đất phải nằm ở hào hai, tài Địa. Cũng như quẻ Đồng Nhân, các Dịch học gia Trung Quốc cũng bị hạn chế khi hiểu quẻ Đại Hữu chỉ là sở hữu tài sản vật chất họ không ngờ rằng Đại Hữu là sở hữu tài sản tinh thần vĩ đại, quẻ này chính là ghi lại thành tựu một quá trình công phu trãi nghiệm của hành giả đã hợp nhất với vũ trụ, mà mỗi hào mô tả thành quả một chặng đường liên tục từ hạ đẳng công phu đến thượng đẳng công phu. c) Đọc lại Kinh Dịch: Nhờ có Trung Thiên Đồ ta có thể đọc lại Kinh Dịch một cách chính xác hơn, điều này nghe có vẽ nghịch lý vì ta làm sao thông thạo ngôn ngữ Trung Hoa hơn người Trung Hoa được, nhưng vì ta có Trung Thiên Đồ là la bàn tổ tiên ta dựa vào đấy để viết các lời hào nên chúng ta có cách đọc thuận lợi hơn. Ở đây tôi chỉ xin dẫn ra một thí dụ để minh chứng. Kinh Dịch có ba quẻ nói đến Tây Nam, quẻ Giải: "Lợi Tây Nam", quẻ Kiển: "Lợi Tây Nam, bất lợi Đông Bắc”, quẻ Khôn: "Tây Nam đắc bằng, Đông Bắc táng bằng”. Căn cứ vào Hậu Thiên Đồ, quẻ Khôn (đất) nằm ở hướng Tây Nam, quẻ Cấn (núi) nằm ở hướng Đông Bắc, Vương Bật, người thời Tam Quốc, trong Chu Dịch chú giải thích như sau: ”Tây Nam là đất bằng, Đông Bắc là núi non. Từ chỗ khó mà đi đến chỗ bằng, cho nên khó khăn sẽ hết, từ chỗ khó mà đi lên núi, thì sẽ cùng đường”, Khổng Dĩnh Đạt trong Chu Dịch chính nghĩa viết: ”Tây Nam thuận vị là hướng bằng phẳng dễ đi, Đông Bắc hiểm vị là chỗ trắc trở khó khăn. Đường đi lắm trắc trở, tất cả đi đến chỗ bằng dễ đi thì khó khăn sẽ hết, trái lại nếu đi vào chỗ hiểm thì càng bế tắc cùng đường. Đi ở phải hợp lý vậy”, (3, tr 846).Trương Thiện Văn trong Từ điển Chu Dịch giải thích: ”Lợi cho việc đi về đất bằng Tây Nam, không lợi cho việc đi về phía núi non đông bắc. Tây nam tượng trưng cho đất bằng, Đông bắc tượng trưng cho núi non. Đây nói ở thời kiển nạn mọi hành động đều phải tránh khó khăn hiểm trở, phải hướng về phía bằng phẳng thì mới có thể vượt qua kiển nạn,vì vậy nói lợi tây nam, bất lợi đông bắc”, (3, tr 907). Nói chung lời giải thích của đa số Dịch gia Trung Quốc đều dựa vào vị trí các quẻ trên Hậu Thiên Đồ và đều cho núi là trở ngại, nhưng giải như vậy không thể khớp với Dịch lý, quẻ Kiển tức là quẻ Thuỷ Sơn Kiển, hình tượng nước ngập núi, trận đại hồng thuỷ. Vậy núi chỉ là trở ngại thứ yếu. Sự thật đối với người cổ đại núi tuy có khổ ải hơn nơi bằng phẳng nhưng không phải là trở ngại đáng kể. Đối với người cổ đại núi là nhà, hang hốc là nhà. Núi che chở cho họ, cung cấp thực phẩm, đùm bọc nuôi dưỡng họ. Nói cho cùng với tượng quẻ như vậy, người ta không lo về núi mà nỗi lo triền miên chính là nước. Suốt thời cổ đại, nhất là ở Việt nam, chiến tranh bất tận là chiến cuộc giữa NGƯỜI với NƯỚC. Con người khơi dòng lấy đất canh tác, đẩy lùi biển để giành đất sống. Khi con người thắng biển nghĩa là khi Sơn tinh thắng Thuỷ tinh, Kiển nạn được giải. Vấn đề lật ngược, quẻ Thuỷ Sơn Kiển lật thành quẻ Sơn Thuỷ Mông, Thoán từ ca ngợi chiến công thần thánh này là Lợi Trinh (thắng lợi bền chặc). Ở Hậu Thiên Đồ cũng như ở Trung Thiên Đồ, quẻ Khôn cùng ở vị trí Tây Nam nhưng ở vị trí Đông Bắc thì quẻ của hai đồ hoàn toàn ngược nhau. Nếu Hậu Thiên Đồ là quẻ Cấn (núi) thì ở Trung Thiên Đồ lại là quẻ Khảm (nước). Ta thấy rõ muốn hiểu nghĩa lời hào của ba quẻ đó không thể dựa vào vị trí quẻ trên Hậu Thiên Đồ, vì không chính xác. Chỉ có thể dựa vào vị trí quẻ trên Trung Thiên Đồ mới làm sáng tỏ được nghĩa quẻ. Con người không ngại núi mà chỉ e sông, e biển. Câu lợi Tây Nam, bất lợi Đông Bắc không phù hợp với thực tiển Trung Quốc vì con đường sống của họ luôn dịch chuyển từ Tây Bắc sang Đông Bắc, hành trình các kinh đô của các triều đại Trung Hoa thường đi từ núi ra biển:Tây An - Trường An - Lạc Dương - Khai Phong - Bắc Kinh. Đó là hành trình ngược với lời hào ba quẻ: Giải, Khôn, Kiển. Trong khi đó lời hào ba quẻ trên lại hoàn toàn phù hợp với thực tiển Việt Nam. Đối với Việt Nam, Đông Bắc mới thực là bất lợi, đó là biển cả là cửa ngỏ cho phong kiến phương bắc xâm lược. Việt Nam chỉ có con đường sống là mở nước về phương Nam và Tây nam. Lịch sử Việt Nam đã chứng thực lời đó, đã hai lần chúng ta tiến về hướng Tây Nam, đợt đầu tiến về đồng bằng Thanh Nghệ Tĩnh, đợt sau tiến về vựa lúa châu thổ sông Cửu Long. Lời hào trên vẫn còn là lời dự báo ứng nghiệm với Việt Nam ngày nay: Tây Nam đắc bằng khi gia nhập khối Đông Nam Á, con đường Tây nam đang ở thế thuận lợi. 6/ Kết luận: Chúng ta còn nhiều chứng lý từ vật thể đến phi vật thể, từ ngôn ngữ đến văn bản, nhưng mấu chốt hơn hết để chứng minh Kinh Dịch do Tổ tiên người Việt Nam sáng tạo vẫn là vai trò của Trung Thiên Đồ. Khi một người muốn chứng minh một vật là sản phẩm do chính mình đúc ra thì ngườI đó phải trưng ra khuôn đúc, ở đây cũng vậy Trung Quốc không có Trung Thiên Đồ giống như không có khuôn đúc thì làm sao bảo rằng Trung Quốc đã sáng chế ra Kinh Dịch. Thật ra Trung Quốc chỉ có công phát huy Kinh Dịch nhờ đó Kinh Dịch mới có bộ mặt vĩ đại như ngày nay, cũng như họ đã làm rạng rỡ cho Thiền nhưng không ai có thể quên Thiền có nguồn gốc từ Phật giáo Ấn Độ. Đã đến lúc cái gì của César phải trả lại cho César. Khi chúng ta nhận ra rằng Kinh Dịch là di sản của Tổ tiên ta sáng tạo, ta sẽ hiểu được do đâu ta cũng cùng giải đất với các dân tộc vùng Hoa Nam, núi liền núi, sông liền sông mà họ bị đồng hoá còn chúng ta thì không. Kinh Dịch chính là cuốn Cổ văn hoá sử của Việt Nam mà Tổ tiên chúng ta còn lưu lại ngày nay, tuy có bị sửa đổi nhuận sắc nhiều lần nhưng những vết tích của nền văn minh thời các vua Hùng dựng nước vẫn còn đậm nét trong nhiều quẻ Dịch. Người sáng tạo Kinh Dịch đã dựa vào Trung Thiên Đồ để bố cục vị trí các quẻ đúng như bản thông hành hiện đang phổ biến. Các Dịch học gia Trung Quốc căn cứ vào vị trí các quẻ theo Hậu Thiên Đồ nên có nhiều câu trong Kinh văn bị họ giảng sai với ý nguyên tác, muốn giảng cho đúng phải dựa vào Trung Thiên Đồ, không thể làm khác được. Trung Thiên Đồ giữ một vị trí quan trọng và quyết định như vậy đã được Tổ tiên Việt Nam cất giấu rất kĩ trong truyền thuyết Lạc Long Quân Âu Cơ. Từ truyền thuyết này có thể tìm lại Trung Thiên Đồ. Trung Thiên Đồ còn được khắc ghi cẩn trọng trên Trống đồng Đông Sơn có điều kiện tác giả bài này sẽ công bố sau. Chúng tôi còn nhiều minh chứng khác để kiện toàn chứng lý cho kỳ án này. Không còn nghi ngờ gì nữa, Kinh Dịch chính là sáng tạo của Tổ tiên Việt Nam. Muốn hiểu đúng bản chất văn hoá Việt Nam không thể không khảo sát Kinh Dịch, như là sáng tạo của Việt Nam. Sách tham khảo * Vũ Quỳnh - Kiều Phú: Lĩnh Nam chích quái, Văn học, Hà Nội, 1990. * Nguyễn Hoàng Phương: Tích hợp đa văn hoá Đông Tây cho một chiến lược giáo dục tương lai, Giáo Dục, Hà Nội, 1995. * Trương Thiện Văn: Từ Điển Chu Dịch, bản dịch, Khoa học Xã Hội, Hà Nội, 1997. * Nguyễn Thiếu Dũng: Một phát hiện mới về Kinh Dịch: Trung Thiên Đồ,Thông tin khoa học ĐH DL Duy Tân tháng 05/1999 * Nguyễn Thiếu Dũng: Con đường Tây Nam, Thông tin khoa học Đại Học DL Duy Tân, tháng11/1999. * Nguyễn Thiếu Dũng: Chúng ta có một di sản hàng đầu thế giới Báo Lao Động, Trang miền Trung & Tây Nguyên số 32/99, ngày 13/12/1999. * Nguyễn Thiếu Dũng: Văn Lang cội nguồn Kinh Dịch, Khoa học & phát triển số 67, năm 2000. * Nguyễn Thiếu Dũng: Những con số ở vùng đất Tổ, Xưa & Nay,73b, tháng 03/2000. * Hồ Trung Tú: Dịch học sáng tạo của người Việt cổ, Tia Sáng, Xuân Nhâm Ngọ 2000. * Nguyễn Thiếu Dũng: Nhìn qua chữ số, Khoa học & phát triển số 74, tháng 3/01. * Hà Văn Tấn: Theo dấu các văn hoá cổ, NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội 1998.
-
TRỐNG ĐỒNG ĐẠI TỘC ĐÔNG SƠN LÀ TRỐNG NÒNG NỌC (3) (Phần 3 bài nói chuyện trong buổi ra mắt sách Giải Đọc Trống Đồng Nòng Nọc, Âm Dương Đông Nam Á ngày 13 tháng 7 năm 2008 tại Little Saigon, Orange County, California, Hoa Kỳ). Nguyễn Xuân Quang Bản Thể Trống Đồng Của Đại Tộc Đông Sơn Mang Tính Nòng Nọc. Kính thưa quí vị, Trên trống đồng có chữ viết nòng nọc thì bản thể từ hình thức cho tới nội dung của trống đồng phải liên hệ với nòng nọc, âm dương. A.Hình thức hay thể chất trống đồng của đại tộc Đông Sơn mang tính nòng nọc. I. Trống đồng là trống nòng nọc, âm dương Trống đồng có chủ đích là làm với mặt đáy để hở. Trống đồng hở đáy là trống đồng nòng nọc, âm dương. Mặt trống kín, đặc là mặt đực (tre đặc là tre đực). Mặt trống có mặt trời là mặt dương. Mặt đáy hở, hổng là mặt âm. Mặt đáy hở là một vòng tròn trống không, một cái lỗ hổng trống không. Hổng có một nghĩa là không như hổng thèm là không thèm. Không là trống không, hư không, không gian.Trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn có mặt đáy hở khi để đứng ở vị trí đánh trống là dương khi lật lên thành một vật có mặt hở mang âm tính. Trống đồng Ngọc Lũ I Cồng, cối hay nồi. Bát hương Tam Thế Bát Tràng (Bảo Tàng Viện Lịch Sử, Hà Nội). Khi lật ngược lên, trống trở thành cồng (hay gồng), cối hay một vật đựng như nồi mang âm tính. Cồng mang âm tính thấy rõ qua câu tục ngữ lệnh ông không bằng cồng bà và câu: Muốn coi lên núi mà coi, Coi bà "Triệu Ẩu" cưỡi voi đánh cồng. Cồng là khuôn mặt âm của trống đồng vì thế mới nói là cồng (của) bà và bà Triệu đánh cồng chứ không đánh trống. Khi ta lật ngược một trống Tam Thế, Vũ Trụ Nguyễn Xuân Quang VI tức Heger I hình cây nấm như trống đồng Ngọc Lũ I chẳng hạn (xem chương Cơ Thể Học Trống Đồng Nòng Nọc, Âm Dương Đông Nam Á) ta có được một cái bát nhang (hương) Tam Thế của Vũ Trụ giáo. Cũng cần nói thêm là ở những bát hương Tam Thế này, theo đạo thờ cúng tổ tiên ông bà của Vũ Trụ giáo chỉ cắm ba cây nhang: một cây dâng cúng cho những bậc siêu phàm, tạo hóa của Thượng Thế, Cõi Trên, một cây dâng cúng cho nhân thần của Trung Thế, Cõi Giữa (nhân thế) và một cây dâng cúng cho thần linh của Hạ Thế, Cõi Dưới và chỉ lạy ba lạy (Phật giáo và các tôn giáo khác có thể cắm ít hay nhiều nén nhang, lạy ít hay nhiều lạy và giải thích theo cách khác dựa trên giáo thuyết của các tôn giáo đó). Điểm này cũng cho thấy rõ bát hương Tam Thế là một vật thờ thì ngược lại trống đồng nòng nọc, âm dương cũng là một vật thờ Tam Thế, Vũ Trụ của Vũ Trụ giáo. Tóm lại về vật thể, thể chất trống đồng của của đại tộc Đông Sơn có một nét đặc thù là trống chỉ có một mặt và hở đáy để diễn tả nọc nòng, dương âm. Những trống làm bằng đồng nhưng có hai mặt kín, không hở đáy và không có mặt trời ở tâm trống như trống kiểu nhà Thương của Trung Hoa không phải là trống đồng nòng nọc của đại tộc Đông Sơn. Tôi gọi trống đồng của đại tộc Đông Sơn là trống đồng nòng nọc, âm dương là trống có nét đặc thù là làm bằng đồng có mặt trống đặc là nọc, dương và đáy để hở, trống không là nòng, âm. Như thế, về thể chất trống đồng của đại tộc Đông Sơn có hai khuôn mặt nòng nọc, âm dương, là trống nòng nọc, âm dương. II. Dùi trống đồng là dùi nòng nọc, âm dương. Kính thưa quí vị, Trống mang ý nghĩa biểu tượng thì dùi trống cũng phải mang ý nghĩa biểu tượng. Trống đồng của đại tộc Đông Sơn là trống nòng nọc âm dương, vậy thì dùi đánh trống đồng nòng nọc, âm dương bắt buộc phải là dùi nọc nòng, dương âm. Bắt buộc, bắt buộc và bắt buộc. Mặt trống dương đi đôi với dùi trống âm và ngược lại. Câu hỏi được đặt ra là dùi trống âm dương có hiện hữu không? Câu trả lời là có. Chứng tích dùi trống có hai khuôn mặt âm dương còn thấy rõ là cặp dùi trống tế, dùi trống thờ (ritual drumsticks) của người Lenapse, một tộc thổ dân Mỹ châu ở miền Đông Bắc Mỹ châu. Cặp dùi trống tế của người Lenapse, ở miền Đông Bắc Mỹ châu (Owusu, Heike, Symbols of Native America, Sterling Publishing New York, 1999, p.224-225). Dùi trống dương đầu bịt kín lại có khắc một khuôn mặt đàn ông. Kín, đặc mang dương tính. Khe chữ V bịt kín lại thành hình tam giác ngược, khi đánh cầm dùi đâm xuống mặt trống âm (có trang trí biểu tượng âm), khe tam giác ngược này trở thành hình tam giác thuận delta, một biến dạng của chữ viết nòng nọc mũi mác, răng cưa, răng sói (/\) có nghĩa là đực, dương, bộ phận sinh dục đàn ông. Dùi trống âm có khắc một khuôn mặt đàn đàn bà có hai bím tóc buông xuống hai bên mặt. Khe để hở mang âm tính. Khe chữ V này cũng cường điệu hơn. Chữ V là một chữ viết nòng nọc có nghĩa là nòng âm, bộ phận sinh dục đàn bà. V là dạng dương hóa, dạng thái dương của chữ viết nòng O. Như đã biết O chuyển động mở ra thành những dạng dương hóa như hình chữ U, chữ V. U là dạng thái dương của O thái dương vì U có hai nhánh đứng là hai nọc, là thái dương) của phía âm, ngoại (âm vì vẫn còn phần đáy bầu tròn mang âm tính), trong khi V là dạng thái dương của O (vì có hai nhánh là hai nọc là thái dương) của phía dương, nội (dương vì có mũi nhọn mang dương tính, không còn phần nào hình cong mang âm tính nữa). O, U, V có cùng gốc nòng O nhưng khác nhau về tính âm dương. Điều này ta còn thấy rất rõ trong Việt ngữ, ta có O = U = V (ốc tu oa = tu u a = tù và). Người Huế gọi mụ, cô là O, người Bắc gọi mẹ là U và người Bình Định gọi mẹ là Vú (ta có từ láy vú vê nghĩa là vú = vê = V). Rõ như ban ngày O, U, V có cùng gốc nòng O nữ. Ta cũng thấy rõ Việt ngữ ví (ngày nay dùng như một tiếng lóng) chỉ bộ phận sinh dục nữ, Pháp ngữ vagin, Anh ngữ vagina đều khởi đầu bằng chữ V. Dan Brown trong The Da Vinci Code cho rằng Leonard da Vinci trong bức tranh The Last Supper đã vẽ khoảng hở ở giữa Chúa Jesus và vị tông đồ tên John ngồi bên trái Chúa có hình chữ V này, là cố ý dùng làm Code cho biết John là một nhân vật nữ (xem bài đọc thêm The Da Vinci Code và Chữ Nòng Nọc Trên Trống Đồng Nòng Nọc, Âm Dương Đông Nam Á). Leonard da Vinci đã dùng một chữ viết nòng nọc làm code. Dùi trống đực dùng đánh vào trống cái và ngược lại dùi trống cái đánh vào trống đực cho âm dương giao hòa với nhau. Như thế dùi trống nòng nọc, âm dương là có thật, vậy dùi trống dùng đánh trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn phải là dùi nọc nòng, dương âm và cũng là một điều có thật. Cũng xin lưu tâm là thổ dân Mỹ châu đến từ duyên hải Á châu nên tín ngưỡng thờ trống và dùi trống âm dương của đại tộc Đông Sơn và thổ dân Mỹ châu Lenapse giống nhau là điều có thể có, nếu không muốn nói là một chuyện tất nhiên. Thật vậy những cảnh đánh trống trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I và các trống họ hàng cho thấy rõ dùi đánh trống đồng nòng nọc, âm dương cũng có hai khuôn mặt âm dương. Một cảnh đánh trống trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I. Ta thấy rất rõ dùi trống rỗng, đầu trên kín là đầu dương và đầu dưới hở là đầu âm. Dùi trống đồng nòng nọc là dùi âm dương. Thân dùi rỗng cho thấy dùi trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn có thể làm bằng một thân cây rỗng như cây tre, một đầu kín để lại mắt tre là đầu đực và một đầu rỗng cắt bỏ mắt tre là đầu cái. Ống tre thờ của tộc Kalimantan ở Borneo có thể là một hình ảnh của dùi trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn vì trên ống tre này cũng khắc triết thuyết vũ trụ tạo sinh dựa trên nguyên lý âm dương giống như trống đồng nòng nọc, âm dương. Ống tre cũng là một vật thờ như trống đồng nòng nọc, âm dương. Ống tre thờ ở Kalimantan, Borneo (A.B. J. B. Kempers, Plate 22.07). Dùi trống đồng nòng nọc, âm dương làm bằng thân cây như cây tre giải thích tại sao ngày nay đào được hành ngàn trống đồng nòng nọc, âm dương mà không tìm thấy một chiếc dùi trống nào cả. Lý do hiển nhiên là các dùi làm bằng thực vật đã tiêu hủy với thời gian. Có một vị nào đó sẽ nêu lên thắc mắc là tại sao không làm dùi trống âm dương bằng đồng có một đầu hở một đầu kín? Câu trả lời là làm được trống đồng nòng nọc thì làm dùi trống âm dương bằng đồng không có gì là khó cả. Tuy nhiên người đại tộc Đông Sơn không làm có thể vì một lý do dựa vào đức tin tín ngưỡng. Đó là dùi đồng đánh xuống trống đồng sẽ làm hư mặt trống nhất là làm hư hại mặt trời. Mặt trời là linh hồn, là trái tim của trống và được thờ phượng như một vị thần. Làm hư hại mặt trời được tin là phạm tới đấng thiêng liêng toàn năng, sẽ gặp phải những đại họa khôn lường. III .Cách đánh trống phải tuân theo luật nòng nọc, âm dương. Trống đồng là trống nòng nọc âm dương và dùi trống đồng là dùi dương âm, hiển nhiên cách đánh trống đồng phải tuân theo luật âm dương. Qua hình dàn trống trên trống đồng nòng nọc Ngọc Lũ I ở trên, ta thấy rất rõ cách đánh trống trên trống đồng nòng nọc rất đặc biệt không giống cách đánh trống ở bất cứ loại trống nào khác. Người đánh trống cầm dùi thẳng đứng đâm thẳng xuống mặt trời ở tâm trống. Phải dùng đầu âm hở của dùi đánh thẳng từ trên xuống mặt trời dương cho âm dương giao hòa. Cách đánh trống đặc biệt này người Mường gọi là “chàm thấu” (“đâm trống”). Ngày nay cách đánh trống đồng nòng nọc trong các “festival” ở Việt Nam và ở nhiều nơi khác đều sai cả, thậm chí còn đùng đầu dùi trống đặc (đực) đánh vào mặt trời dương tức là đánh theo kiểu đồng tính luyến ái nam (gay). Cũng xin lưu tâm là các trống ở hình dàn trống được để trong một cái giá cho phần đáy hở của trống hổng khỏi mặt đất, để không bị mặt đất bít kín lại, có nghĩa là mặt đáy vẫn hở, vẫn giữ được âm tính, trống vẫn còn là trống nòng nọc, âm dương. Trống để mặt đáy bít kín lại không còn là trống đồng nòng nọc, âm dương nữa. Một điểm nữa là những người đánh trống đồng nòng nọc, âm dương ở hình trên đều ngồi. Vì sao? Vì vị thế ngồi là âm còn đứng là dương. Trống đồng nòng nọc, âm dương để ở vị thế đánh trống tức mặt đực, dương hướng thiên mang dương tính nên ngồi ở vị thế âm đánh trống cho dương âm giao hòa. Trong khi đó cối mang âm tính, giã chầy vào cối phải ở tư thế đứng tức dương cho âm dương giao hòa. Nói tóm lại, nhìn dưới diện đại cơ thể học (gross anatomy) trống đồng hở đáy là trống nòng nọc, dương âm. Dùi đánh trống đồng nòng nọc là dùi dương âm và cách đánh trống đồng phải theo luật âm dương. Về hình thức hay thể chất, trống đồng là trống đồng nòng nọc, âm dương. .B NỘI DUNG Chủ điểm nội dung của trống đồng là nòng nọc, âm dương. Ta thấy rất rõ phần trọng tâm, phần chủ yếu, chính yếu của trống đồng là phần tâm trống. Tâm trống của bất cứ trống đồng nòng nọc, âm dương nào của đại tộc Đông Sơn cũng có hình mặt trời có vòng tròn bao quanh đầu tia sáng. Vòng tròn là vỏ bọc của không gian, vỏ của Trứng Vũ Trụ. Mặt trời là dương, Không gian là âm. Mặt trời nằm trong không gian mặt trời không gian. Mặt trời-không gian là nòng nọc, âm dương, là Trứng Vũ Trụ, là Vũ Trụ, Universe, Tạo Hóa. Rõ như dưới ánh sáng mặt trời, chủ thể của trống đồng là nòng nọc, âm dương biểu thị cho Vũ Trụ Tạo Sinh, trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn là giáo biểu của Vũ Trụ giáo. Sau đây là định lý của tôi về trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn: Điều kiện ắt có và đủ để một trống đồng được cho là thuộc về họ trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn thì về thể chất hay hình thức, trống đó phải để hở đáy và về nội dung, ở tâm mặt trống đó phải có mặt trời nằm trong vòng tròn không gian. Những trống làm bằng đồng không có hai diều kiện trên không phải là trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn. .Mặt trời nòng nọc, âm dương. Tổng quát có hai loại mặt trời nòng nọc, âm dương. Mặt trời nọc dương là mặt trời có tia sáng hình nọc nhọn. Còn mặt trời nòng âm là mặt trời hình đĩa tròn không có tia sáng hình nọc nhọn bắn ta ví dụ như mặt trời trên lá cờ Nhật, con cháu của Thái Dương Thần Nữ Amaterasu, như mặt trời Ai Cập cổ đã nói ở trên. Mặt trời trên trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn cũng mang tính nòng nọc, âm dương. Hầu hết các mặt trời trên trống đồng nòng nọc của đại tộc Đông Sơn đều là những mặt trời có nọc tia sáng mũi mác mang dương tính. Mặt trời đĩa tròn không có ánh sáng mang tính thuần âm (nữ) như mặt trời của Thái Dương Thần Nữ của Nhật không thấy trên trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn vì trên trống đồng nòng nọc, mặt trời bắt buộc phải có cả dương và âm tính. Mặt trời đĩa tròn không có tia sáng mang tính thuần âm (nữ) chỉ thấy trên cồng (cục u tròn trên cồng chiêng có thể có một khuôn mặt là mặt trời thuần âm) và thấy trên gương đồng (gương là biểu tượng của phái nữ). Điều này cũng giải thích tại sao người Nhật thờ mặt trời nhưng không có trống đồng nòng nọc, âm dương vì mặt trời của Nhật là mặt trời thuần âm nữ (trong khi trống đồng nòng nọc, âm dương có khuôn mặt dương mang tính trội vì trống có nghĩa là đực như gà trống và là biểu tượng cho đực, cho ngành mặt trời dương, có nọc tia sáng). Trong mớ tài liệu có trong tay, tôi không thấy một trống nào chỉ có mặt trời hình đĩa tròn thuần âm nữ không có ánh sáng mà chỉ thấy có một mặt trời đĩa tròn mang âm tính nhưng mặt trời này có ánh sáng hình vòng tròn trên trống đồng Đào Xá (xem dưới). Mặt trời đĩa tròn mang âm tính có nòng ánh sáng trên trống đồng nòng nọc Đào Xá. .Ánh sáng mặt trời trên trống đồng nòng nọc cũng mang tính nòng nọc, âm dương. Ngay cả ánh sáng mặt trời trên trống đồng nòng nọc của đại tộc Đông Sơn cũng mang tính âm dương. Có hai loại ánh sáng: ánh sáng dương hình nọc nhọn mũi mác như thấy hầu hết trên các trống và ánh sáng âm hình nòng vòng tròn, như thấy trên trống Đào Xá. Trống này có 6 vòng ánh sáng nòng âm. Số 6 theo Dịch là số lão âm (âm già). Trong 8 quẻ đầu từ 0 đến 7 của 64 quẻ Dịch, ta có những số chẵn là số âm: 0, 2, 4, 6. Số 0 là số âm sơ sinh, số 2 là số âm trai trẻ (ứng với 20 tuổi), số 4 là số âm trưởng thành (ứng với 40 tuổi) và số 6 là số âm già, lão âm (ứng với 60 tuổi, vì thế mới có câu hát “em ơi, có bao nhiêu, 60 năm cuộc đời”), trung bình tuổi thọ của phái nữ ngày xưa chỉ có 60 năm, sau đó coi như là già lão sống được năm nào là được “bonus” năm đó, trong khi đó theo duy dương, số 7 là số lão dương ứng với 70 tuổi, các ông sống được 70 tuổi coi là thượng thọ là vậy). Âm già biến thành dương (đàn bà già không còn kinh trở thành đàn ông, trong khi đàn ông già hết tinh khí, hết hùng khí trở thành đàn bà. Vì thế về già đàn bà “thống trị” đàn ông, điều này thấy rõ nhất ở các “cụ bà” Việt Nam vì xã hội Việt Nam vốn đã theo âm dương đề huề). Số 6 lão âm, âm già mang dương tính cao nhất tức thái dương. Số 6 là số âm thái dương. Mặt trời trên trống Đào Xá là mặt trời âm có ánh sáng nòng âm thái dương (có âm có dương mới thích hợp với trống đồng nòng nọc, âm dương). Điểm tối quan trọng cần lưu tâm là loại ánh sáng âm nòng vòng tròn gần như không thấy ở đâu cả ngoại trừ trên trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn. Hai loại ánh sáng âm dương nòng vòng tròn và nọc mũi mác này chỉ thấy đi cặp đôi với nhau trên trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn cho thấy trống đồng của đại tộc Đông Sơn là trống nòng nọc, âm dương. Hai loại ánh sáng âm dương còn ở dưới dạng nòng nọc này trên trống đồng nòng nọc của đại tộc Đông Sơn khẳng định là chữ viết nòng nọc là chữ viết diễn tả bằng hình vòng tròn và hình nọc là có thật, ta thấy được, sờ thấy được (không phải do tôi bịa đặt ra), nền văn hóa Đông Sơn là một nền văn hóa nòng nọc tối cổ hay là di duệ của một nền văn hóa tối cổ của nhân loại. Tóm lại về thể chất và nội dung trống đồng của đại tộc Đông Sơn là trống nòng nọc, âm dương. Như thế qua chữ viết nòng nọc, qua hình thức và nội dung của trống, ta đã thấy trống đồng là trống nòng nọc, âm dương, vậy thì tất cả những gì còn lại của trống đồng nòng nọc, âm dương đều phải mang tính nòng nọc. Bắt buộc. Bắt buộc. Và bắt buộc. Vì thì giờ có hạn, tôi sẽ lướt qua thật nhanh các khía cạnh chính yếu còn lại của trống đồng nòng nọc, âm dương để chứng minh cho quí vị thấy rõ rằng trống đồng một trăm phần trăm là trống nòng nọc, âm dương. (còn một kỳ nữa). trích www.hungsuviet.us
-
TRỐNG ĐỒNG ĐẠI TỘC ĐÔNG SƠN LÀ TRỐNG NÒNG NỌC (2 - tiếp theo) (Bài nói chuyện trong buổi ra mắt sách Giải Đọc Trống Đồng Nòng Nọc, Âm Dương Đông Nam Á ngày 13 tháng 7 năm 2008 tại Little Saigon, Orange County, California, Hoa Kỳ). Nguyễn Xuân Quang B. Chữ móc câu Trên trống Nam Ngãi II có một vành hình người thể điệu hóa (stylized) thành người chim hình móc câu và có những vật hình thoi trong có những hình móc câu. Các nhà khảo cổ học ở Việt Nam hiện nay gọi những hình thoi này là những “vật hình trâm” tức là những vật nhọn như cây trâm cài tóc của phái nữ. Trống Nam Ngãi II có vành hình người thể điệu hóa thành người chim hình móc câu và có những“vật hình trâm” hình thoi trong có những hình móc câu. Hiện nay không ai hiểu người thể điệu hóa thành hình chim móc câu và “vật hình trâm” hình thoi này có nghĩa là gì? Hình móc câu này chính là một chữ nòng nọc. Giải đọc được chữ nòng nọc móc câu này là ta biết được người chim móc câu này, “vật hình trâm” hình thoi này có nghĩa là gì và ta suy ra trống Nam Ngãi II là trống gì? Xin quí vị hãy theo tôi giải đọc chữ móc câu này. Khác với chữ nòng thuần âm ba vòng tròn đồng tâm ở trên, chữ móc câu này có phần thân hình nọc, là chữ nọc nên có mang một yếu tố dương. Phần cong mang âm tính. Vì chữ nòng nọc này có nòng, có nọc, có âm, có dương ta phải đọc theo âm (duy âm), theo dương (duy dương) và theo âm dương nhất thể (âm dương còn quyện vào nhau chưa tách ra làm hai cực âm và dương riêng rẽ) (Oneness, Totality, Unity, Two in One). Có hai cách đọc: -Đọc theo hai chữ riêng rẽ nòng O và nọc I: Trường hợp này chữ móc câu coi như có hai phần là hai chữ riêng rẽ: phần thân thẳng là chữ nọc (I) và phần cong hình móc là chữ nòng O mở ra. -Đọc theo một chữ duy nhất nòng-nọc nhất thể. Bây giờ chúng ta hãy 1. - Đọc theo hai chữ riêng rẽ nòng O và nọc I: O mở ra là dạng nòng O mang dương tính. O mở ra hoặc do chuyển động mở ra, chuyển động là dương (tĩnh là âm) hoặc do hiệp (accord) với nọc dương nó đi theo (chữ viết nòng nọc cũng hiệp theo tính âm dương giống như Pháp ngữ hiệp theo giống đực giống cái). a. Đọc theo duy âm (phần cong âm đọc trước: ta có nòng O dương tức nước dương, Mặt Trời Nước, nước chuyển động: mưa, sóng, biển… Ta hãy lần lượt đi từ cổ chí kim xem hình móc câu có nghĩa là gì?. .Hình móc câu khắc, vẽ trên đá (petroglyph) Trước hết ta hãy trở về thời xa xưa xem những hình móc câu này khắc, vẽ trên đá có nghĩa là gì? Thổ dân Mỹ châu có biểu tượng sấm như sau: Biểu tượng sấm của thổ dân Mỹ châu. Biểu tượng sấm này có chữ viết nòng nọc móc câu ở bên trái có nghĩa là nước dương, nước chuyển động tức mưa; hình bên phải có nét ngang bằng ở trên cùng biểu tượng cho bầu trời, Cõi Trên và tia chớp hình chữ S gẫy phát xuất từ bầu trời nét ngang. Chữ S gẫy ba khúc hình chữ “chi” “zigzag” do ba nọc (III) tạo thành tức quẻ Càn, lửa vũ trụ, lửa trời có một khuôn mặt là chớp. Ngày nay hình chữ S gẫy này dùng làm dấu hiệu cho tia chớp, điện cao thế (high voltage). Mưa-chớp là sấm. Ta cũng thấy rất rõ khi phân tích hình ngữ bên phải “chớp từ trời” ta có hai nọc mũi mác (>) là hai dùi làm ra lửa liên hệ với chớp. .Dấu tích chữ móc câu trong các hình ngữ. Kế đến ta tìm dấu tích chữ móc câu này trong các nền văn hóa cổ có chữ viết hãy còn là hình ngữ. .Linh tự N của Ai Cập cổ Ai Cập cổ có hai linh tự diễn ta mẫu tự N. Một chữ diễn tả bằng hình sóng nước. Mẫu tự N diễn tả bằng hình sóng nước. Ta thấy N liên hệ với nước. Điều này thấy rõ trong Việt ngữ, ta có gốc na- là nước như nà (ruộng nước), nã (âm cổ của lã là nước ngọt, nước lã), nác (nước), ná là mẹ như áng ná là cha mẹ, nạ là mẹ như có nạ là mạ thiên hạ (tục ngữ) (mẹ, thuộc dòng âm, nước)… Người cổ Việt có thể đã phát âm N là /na/ là nước (Tiếng Việt Huyền Diệu) .Chữ N thứ hai diễn tả bằng vương miện đỏ (red crown) trên có chữ viết nòng nọc móc câu. Mẫu tự N diễn tả bằng vương miện đỏ. So sánh hai chữ N này ta thấy hiển nhiên chữ viết nòng nọc móc câu có một nghĩa là nước. Ở đây vương miện có chóp hình nọc mũi mác (răng sói, răng cưa) mang dương tính. Mầu đỏ của vương miện cũng là mầu nọc, mầu dương. Như thế vương miện cho thấy chữ nòng nọc móc câu rõ ràng là mang ý nghĩa nước dương, nước chuyển động. Chữ N này là chữ N mang dương tính (thái dương của nước dương) trong khi chữ N hình sóng nước mang âm tính (thái dương của nước âm vì sóng là nước chuyển động và nhọn đầu là dương, thái dương). Qua hai linh tự N này ta thấy mẫu tự cũng có âm dương. Vậy thì tiếng nói, ngôn ngữ cũng mang tính âm dương. Tiếng Việt cũng có âm dương (Tiếng Việt Huyền Diệu). Như đã biết ở trên Ai Cập cổ thuộc dòng mặt trời âm nòng Khôn. Khôn dương là thiếu âm khí gió và Khôn âm là nước. Triều vua có vương miện trắng hình túi thuộc ngành Khôn dương, khí gió, không gian. Vương miện này có chỏm hình nọc dương nhưng đầu tròn (không nhọn) là nọc mang âm tính diễn tả thái dương của âm và màu trắng cũng là mầu âm, mầu khí gió (trong suốt). Triều vua có vương miện trắng này thuộc ngành Khôn dương thái dương, Mặt Trời Gió thái dương. Trong khi triều vua có vương miện đỏ hình thác nước thuộc ngành Khôn âm, nước. Vương miện đỏ có góc cạnh mang dương tính. Vương miện này có chỏm hình nọc mũi mác nhọn mang dương tính diễn tả thái dương của dương và màu đỏ là mầu dương, lửa, thái dương. Triều vua có vương miện đỏ này thuộc ngành nước dương, nước lửa, nước thái dương, Mặt Trời Nước thái dương, một khuôn mặt tương ứng với Lạc Long Quân. Hiển nhiên ta thấy chữ viết nòng nọc móc câu trên vương miện đỏ là nước mang dương tính, nước thái dương. .Chữ vân (mây) trên giáp cốt thời Trung Hoa cổ Nguồn gốc của Hán tự yún (vân, mây) thấy qua triện văn, cổ văn, kim văn (chữ viết trên đồ đồng còn gọi là chung đỉnh văn) và xa xưa nhất là trong giáp cốt văn đều có chữ viết nòng nọc móc câu hay dạng biến thể của chữ này. Nguồn gốc của Hán tự yún, vân, mây (Wang Hongyuan, The Origins of Chinese Characters, Sinolingua Beijing, 2004). Chữ viết nòng nọc móc câu đẻ ra chữ yún, mây, tiền thân của mưa. . Mũi hình móc câu của Thần Mưa Chac Maya Hãy trở lại với cái mũi hình cong như móc câu rất kỳ dị của thần Mưa Chac của Maya. Bây giờ thì ta đã hiểu rõ tại sao. Mũi thần Chac chính là chữ nòng nọc móc câu có một nghĩa là mưa. Mũi chính là tên của Thần Mưa Chac. Ở đây ta thấy rõ là cả thế giới hiện nay và ngay cả người Maya không ai hiểu tại sao thần Chac có mũi kỳ dị như thế. Chữ viết nòng nọc đã giúp giải nghĩa được những điều bí ẩn trong các nền văn hóa cổ của nhân loại. Chữ viết nòng nọc do tôi khám phá ra sẽ mở ra một chân trời mới trong việc nghiên cứu các nền văn hóa cổ của nhân loại. Mũi móc câu của Thần Mưa Chac cũng khẳng định là chữ nòng ba vòng tròn trên mũi của Thần Chac cũng có cùng một nghĩa là mưa, nước. Ta có từ ghép mưa móc (ơn mưa móc) với móc có nghĩa là sương, một hình thức liên hệ với mưa bụi. Theo qui luật từ ghép ta có mưa = móc. Điểm lý thú là chữ viết nòng nọc móc (câu) = mưa. Một điểm cũng cần nói thêm cho đủ ở đây là Dịch thường được suy diễn ra đem dùng vào tướng số. Ta thấy Thần Mưa Chac có mũi móc câu, nhe răng nanh trông thật dữ tợn, độc ác, tà ma bởi vì mưa, sấm thuộc phía âm nên có một khuôn mặt âm nhiều khi thái quá, “âm u” quá trở thành mưa gió, bão tố, thiên tai. Cái mũi móc câu của Thần Mưa Chac có một khuôn mặt tà ma. Nên suy diễn ra, cho rằng xem tướng mũi biết được tính tình, lòng dạ con người. Các mụ phù thủy gian ác của Tây phương thường có mũi khoằm như móc câu. Các bà các cô ngày nay nhiều người đi sửa mũi lại cho ngay thẳng để khỏi bị chê là không… thẳng thắn (!). .Hình bóng chữ viết nòng nọc móc câu trong các tôn giáo Tiếp đến ta tìm hình bóng chữ viết nòng nọc móc câu trong các tôn giáo: -/Vũ Trụ giáo của người Dayak, Borneo, Nam Dương Người Ngaju, có cây dù payong biểu tượng cho Cây Đời, Cây Tam thế, Cây Vũ Trụ. Dù payong biểu tượng Cây Tam Thế của người Dayak. Dù (ô) có ba tầng lá biểu tượng cho Cây Tam Thế. Vòm nóc dù biểu tượng cho vòm không gian, vũ trụ, vòm trời ứng với Cõi Trên, Không Gian, Thượng Thế. Chỏm dù đầu mũi lao nhọn mang hình bóng Núi Trụ Thế Gian ứng với Cõi Đất, Trung Thế. Đuôi dù uốn cong hình chữ móc câu có nghĩa là nước ứng với Cõi Nước, Hạ Thế hay Âm Thế. Thân dù biểu tượng cho Trục Thế Giới thông thương Tam Thế, Ba Cõi. Nếu lật ngược cây dù lên, đuôi móc câu cây dù trở thành hình chiếc mũi của vị Thần Mưa Chac của Maya mang nghĩa nước ở Cõi Trên tức Mưa. -/Ấn giáo Trong Ấn giáo dấu tích của chữ viết nòng nọc móc câu có nghĩa là nước cũng còn thấy ở hình tượng thần Ganesha. Thần Ganesha có bốn tay cầm bốn biểu tượng ứng với Tứ Tượng là Lửa, Gió, Đất và Nước của Vũ Trụ tạo sinh. Tượng Thần Ganesha của Ấn Giáo. Tay phải phía trước cầm nọc nhọn như ngà voi biểu tượng cho Tượng Lửa dương, tay trái phía trước cầm cái túi tròn biểu tượng cho Tượng Gió dương, tay trái phía sau cầm rìu lưỡi ngang biểu tượng cho Tượng Đất dương và tay phải phái sau cầm chùy hình lá sen trên có phụ đề những hình móc câu biểu tượng cho Tượng Nước dương. Ảnh hưởng của Vũ Trụ giáo trong Ấn giáo rất sâu đậm (ví dụ như thờ nọc nòng, nõ nường, linga-yoni). Ở đây Thần Ganesha tay cầm bốn biểu tượng của Tứ Tượng mang nghĩa sinh tạo của Vũ Trụ giáo mà ngày nay trong Ấn giáo hiểu sinh tạo theo nghĩa duy tục là may mắn, Thần Ganesha được cho là vị thần may mắn (sinh tạo, sinh sản, sản xuất nhiều là may mắn, Việt ngữ mắn là đẻ nhiều như mắn con, ngày xưa đẻ nhiều là may, là hên, qua từ ghép may mắn ta có may = mắn). .Chữ viết nòng nọc móc câu trong xã hội ngày nay Ngày nay hình móc câu cũng biểu tượng cho sóng (nước chuyển động, nước dương). Sóng diễn tả bằng hình móc câu. b. Đọc theo duy dương Phần nọc thẳng đọc trước: ta có nọc-nòng lửa-nước hay chớp-mưa tức sấm. Chữ viết nòng nọc móc câu có một nghĩa liên hệ với sấm và thấy trong các biểu tượng của sấm. Thường thường Thần Mưa và Thần Sấm là một. Điều này thấy rõ là Lạc Long Quân là Thần Biển cũng có một khuôn mặt là Thần Mưa, Thần Sấm Mưa, ứng với quẻ Chấn. Chấn có một khuôn mặt là sấm. Áp dụng qui luật từ ghép vào từ ghép chấn động ta có chấn = động (động là sấm). Lạc Long Quân sấm mưa có hậu thân là ông Sấm Dông Phù Đổng thiên vương. Lạc Long Quân Thần Biển có khuôn mặt Mưa, Sấm Mưa, ban ngày nước biển bốc hơi, ban đêm hơi nước gặp lạnh tụ lại thành mây. Mây bay về núi tạo thành mưa. “Nước đi ra biển lại bay về nguồn” (Tản Đà). Lửa chớp trong mưa tạo thành sấm. Một số nhà làm văn hóa Việt “bi quan” cho rằng thân phận người Việt Nam có định mạng là chia ly, phân tán, dân Việt chia rẽ vì Cha Tổ Lạc Long Quân và Mẹ Tổ Âu Cơ đã chia tay nhau, đã ly thân, ly dị nhau, mỗi người đi một ngả, Mẹ lên núi, Cha xuống biển. Những tác giả “yếm thế” này đều “tán phét”. Làm gì có chuyện phân ly, chia rẽ (người Việt thuần túy, chính chuyên con Rồng Lạc Long Quân cháu Tiên Âu Cơ không chia rẽ ngoại trừ Việt gian). Đêm đêm Cha Biển Lạc Long Quân biến thành mây bay về nhà ở đầu non “mây mưa”, ân ái với Âu Cơ. Vì thế mà truyền thuyết mới nói là Thần Sấm có nhà ở đầu non. Làm gì có chuyện Cha Mẹ Tổ của chúng ta ly thân, ly dị.Thần Mưa Chac của Maya cũng như Lạc Long Quân có một khuôn mặt sấm mưa. Theo duy dương mũi móc câu của Thần Mưa Chac liên hệ với sấm mưa. Theo biến âm kiểu chắc chắn, ta có Chac = Chấn (sấm). Vậy Thần Mưa Chac có một khuôn mặt liên hệ với sấm mưa vì vậy mà mặt mày mới dữ chằng như ông thiên lôi. Vì thế mà chữ viết nòng nọc móc câu cũng thấy trong nhiều biểu tượng của sấm, ví dụ như biểu tượng sấm của thổ dân Mỹ châu ở trên và Thổ dân Mỹ châu cũng có con chim biểu nổi tiếng là chim sấm sét hay lôi điểu (thunderbird). Chim sấm sét lôi điểu của thổ dân Mỹ châu. Sau cổ chim có hình móc câu có nghĩa là nước chuyển động, mưa. Mỗi cánh có ba nọc que (III) là quẻ Càn, lửa vũ trụ hay chớp. Mưa-chớp là sấm. Thân chim cũng có hình móc câu mưa, đuôi có ba nọc que (III) Càn, lửa vũ trụ hay chớp, gộp lại mưa-chớp cũng là sấm. Con chim sấm sét này có những chữ viết nòng nọc diễn tả sấm mưa. Tóm lại đọc theo hai chữ nòng và nọc riêng rẽ chữ viết nòng nọc móc câu có nghĩa là nước dương, nước chuyển động như mưa, sóng, biển, liên hệ với sấm mưa… 2. Đọc theo một chữ duy nhất nòng-nọc Đọc theo cách này, âm dương còn ở dạng nhất thể (âm dương còn quyện vào nhau chưa tách ra làm hai cực âm và dương riêng rẽ), có một nghĩa là sinh tạo, tạo hóa. .Mũi Phật nhất thể hình móc câu. Mặt Phật trên tháp Bouddanath, Kathmandu, Nepal có mũi hình móc câu. Theo Phật giáo Nepal mũi Phật hình móc câu có nghĩa là chúng sinh, vạn vật đều ở dưới dạng nhất thể. Mặt Phật có mũi hình móc câu trên tháp Bouddanath, Kathmandu, Nepal (ảnh của tác giả). Quan niệm nhất thể này Phật giáo lấy từ Vũ Trụ giáo, từ Dịch lý. Theo Dịch, mọi thứ ở cõi đời này và ở vũ trụ này đều do âm dương sinh ra cả. Ta thấy rất rõ mũi Phật hình móc câu mang nghĩa nhất thể qua sợi dây chuyền cổ (kỷ vật bà xã tác giả mua ở Nepal). Sợi dây chuyền cổ của Nepal. Mũi Phật hình móc câu nhất thể tương đương với đĩa thái cực của Trung Hoa hay Trứng Vũ Trụ, với con mắt thứ ba ở giữa trán của Phật có hình vòng tròn có chấm. Đây cũng là linh tự Ra của Ai Cập cổ. Ra là Thần Mặt Trời Tạo Hóa (Sun as Creator) của Ai Cập cổ. Vị thần này lưỡng tính phái, bán nam bán nữ (nhất thể). Ông khạc nhổ ra con gái và thủ dâm ra con trai. Vòng tròn có chấm là một chữ viết nòng nọc có một nghĩa là nhất thể. Vòng tròn là nòng âm và chấm là nọc dương (dưới dạng nguyên thể, sinh tạo). Chữ vòng tròn có chấm thấy rất nhiều trên trống đồng nòng nọc, âm dương. Ngoài ra mũi Phật hình móc câu chính là con số 1 gọi là ek của Nepal. Ek có gốc từ Phạn ngữ eka là 1. Ek ruột thịt với Việt ngữ ít hàm nghĩa là một như thấy qua từ ghép ít một hay một ít, nghĩa là theo quy tắc từ ghép ta có ít = một (Tiếng Việt Huyền Diệu). Ek, eka, ít ruột thịt với Anh ngữ each, mỗi một. Hiển nhiên một là nhất thể. Ta cũng thấy Hán Việt vũ trụ có nghĩa là nhất thể. Vũ biến âm với võ với vỏ là cái bao, cái bọc, cái nang tương ứng với nòng, với bầukhông gian và trụ là nọc biểu tượng cho mặt trời. Vũ trụ là nòng nọc, âm dương, không gian-mặt trời dưới dạng nhất thể. Điều này cũng đúng với Anh ngữ universe. Uni- là một và -verse là quay về. Lúc khai thiên lập địa mọi thứ đều ở dưới dạng hỗn mang (chaos) sau đó mới quay về một mối, dưới dạng nhất thể gọi là universe. Cuối cùng phần chính của sợi dây chuyền cổ có hình bầu nậm mang một nghĩa là âm dương nhất thể. Như thế chữ viết nòng nọc móc câu đọc theo một chữ có âm có dương có nghĩa là nhất thể tương đương với đĩa thái cực của Trung Hoa, với Trứng Vũ Trụ, với linh tự Ra của Ai Cập cổ, với chữ viết nòng nọc vòng tròn có chấm, với số 1 của Nepal...Ở đây ta cũng thấy rõ có tác giả cho là đĩa thái cực cũng biểu tượng cho sấm (C.A.S Williams, Encyclopedia of Chinese Symbolism and Art Motives, The Julian Press, NY, 1960). Vì sấm có biểu tượng là chữ viết nòng nọc móc câu nhất thể, sinh tạo và đĩa thái cực cũng là nhất thể sinh tạo. Hình chữ S phân chia âm dương trong đĩa thái cực ruột thịt với hình móc câu. Ta cũng thấy rất rõ tại sao sấm mang một nghĩa sinh tạo, tạo hóa (tiếng nổ big bang thuở khai thiên lập địa cũng là một thứ tiếng sấm). Lạc Long Quân với khuôn mặt Chấn Sấm có một khuôn mặt Sinh Tạo, Tạo Hóa ở Cõi Tạo Hóa, tương đương với Đế Minh (Việt Dịch Bầu Cua Cá Cọc). Trống là biểu tượng của sấm do đó trống nói chung và nhất là trống đồng nòng nọc, âm dương mang ý nghĩa sinh tạo, tạo hóa, trống đồng nòng nọc, âm dương diễn tả Vũ Trụ tạo sinh và là trống biểu tượng của Vũ Trụ giáo. Tóm lại Chữ móc câu là một chữ nòng nọc có nghĩa là: -đọc theo hai chữ riêng rẽ nòng và nọc: nước dương, Mặt Trời Nước, nước chuyển động, mưa, sóng, biển, sấm... -đọc theo một chữ duy nhất nòng-nọc có nghĩa là nhất thể, thái cực, trứng vũ trụ, vũ trụ, universe... Hiểu rõ như thế rồi, ta nhận diện ra hình người thể điệu hóa thành chim hình móc câu và các “vật hình trâm” hình thoi trên trống Nam Ngãi II dễ như trở bàn tay. Người chim hình móc câu là người thuộc đại tộc Mặt Trời Nước. Bằng chứng cụ thể nhất là trên mặt trống có những hình thuyền. Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, tộc này thuộc Âu-Lạc Mặt Trời Êm Dịu An Dương Vương dòng Mặt Trời Nước Lạc Long Quân. Còn dưới bốn đỉnh của vật hình thoi có bốn chữ viết nòng nọc móc câu là bốn nước, bốn mưa và bốn đỉnh nhọn hình thoi là bốn chữ nọc nhọn mũi mác hay răng sói, răng cưa ( >), có một nghĩa là lửa. Bốn đỉnh hình thoi là bốn lửa-nước, bốn chớp-mưa có nghĩa là sấm bốn phương trời. Ở tâm hình thoi có chữ viết nòng nọc vòng tròn có chấm mang nghĩa là vũ trụ, nhất thể, sinh tạo, sấm. Vậy hình thoi biểu tượng cho sấm rền vang bốn phương trời chính là lưỡi tầm sét (sky iron), búa thiên lôi hay dóng sấm (thunderbolt). Dóng sấm hình thoi là dạng thể điệu hóa của dóng sấm kép. Trống Nam Ngãi II là trống muộn nên dóng sấm đã thể diệu hóa tối đa phát gốc từ hình dóng sấm kép (double thunderbolt), ngày nay còn thấy nhiều trong Phật giáo Nepal, Tây Tạng. Không còn gì để nói nữa, trống Nam Ngãi II có người dòng Mặt Trời Nước, có dóng sấm, búa thiên lôi là trống Sấm Mưa dòng Người Mặt Trời Nước, đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt thuộc liên bang Âu-Lạc An Dương Vương dòng mặt trời Nước, Thần Sấm Mưa Lạc Long Quân. Nếu quí vị nào con nghi ngờ chưa tin thì trống này còn nhiều chi tiết khác nữa để khẳng định trống là trống sấm mưa, vững tin nhất là trống cũng có bốn tượng cóc... Kính thưa quí vị, Có một vị nào đó thắc mắc sẽ nêu lên câu hỏi là tại sao trống Cổ Loa II là sấm mưa mà trống Nam Ngãi II này cũng là sấm mưa, vậy thì giữa hai trống có gì khác biệt? Xin thưa như đã thấy là có sự khác biệt giữa hai chữ viết nòng nọc hai vòng tròn đồng tâm có dấu nòng vòng tròn rỗng tí hon trên trống Cổ Loa II có nghĩa là nòng âm nước, phía ngoại mang tính chủ, trong khi chữ viết nòng nọc móc câu trên trống Nam Ngãi II có yếu tố nọc dương có nghĩa là nòng âm nước mang dương tính, phía nội mang tính chủ. Ngoài ra trên trống Nam Ngãi II còn có bốn vành hai vòng tròn đồng tâm có chấm tí hon ở giữa đối nghịch với chữ hai vòng tròn đồng tâm có dấu nòng vòng tròn rỗng tí hon ở giữa trên trống Cổ Loa II. Chấm vòng tròn tí hon đặc là dấu nọc, dương (đặc là đực như tre đặc là tre đực) ngược với dấu nòng vòng tròn rỗng tí hon là dấu nòng âm. Trống Cổ Loa II là trống sấm mưa phía ngoại và trống Nam Ngãi II là trống sấm mưa phía nội của dòng mặt trời Nước. Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, Trống Cổ Loa II là trống sấm mưa phía ngoại của liên bang Âu-Lạc An Dương Vương và trống Nam Ngãi II là trống sấm mưa phía nội của liên bang Âu Lạc An Dương Vương dòng mặt trời Nước Lạc Long Quân. Ở đây ta thấy dấu chỉ âm dương trong chữ viết nòng nọc rất quan trọng. Ta cũng thấy người chim hình móc câu là người thuộc phía nội của đại tộc Mặt Trời Nước vì hình móc câu quay về phía tay phải tức chiều dương, những người này di động theo chiều ngược kim đồng hồ tức chiều dương trong khi mũi móc câu của Thần mưa Chac quay về phía tay trái tức chiều âm ăn khớp với chữ viết nòng nọc hai vòng tròn đồng tâm có dấu nòng o tí hon mang âm tính chủ. Như thế qua hai chữ viết nòng nọc vừa giải đọc xong ta thấy chữ viết nòng nọc là cái chìa khóa để mở ra kho tàng trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn. Đọc được chữ viết nòng nọc là giải đọc được trống. Tất cả những cái gọi là “hoa văn” trên trống đồng đều là những chữ viết nòng nọc, âm dương. Tôi chưa thấy ở một nơi nào, trong bất kỳ một nền văn hóa nào mà có một sự qui tụ nhiều chữ viết nòng nọc như ở trên trống đồng nòng nọc. Trống đồng là quyển Từ Điển chữ viết Nòng Nọc. Chữ viết nòng nọc trên trống đồng nòng nọc được viết với một ngữ pháp tuyệt hảo, rất “có học” trong khi ở những nơi khác viết sai ngữ pháp, rất “i tờ rít”, rất “bình dân học vụ”. Người Đông Sơn là những bậc thầy, bậc sư về chữ viết nòng nọc và Dịch nòng nọc. Trống đồng nòng nọc, âmdương là bộ sách về Ngữ Pháp Chữ Viết Nòng Nọc chuyên chính, chính thống, tuyệt hảo, có thể làm mẫu mực giúp giải đọc một cách chính xác tất cả các nền văn hóa cổ của nhân loại mà hiện nay đang được giải thích sai lạc. Ta biết rõ nòng nọc là nền tảng của Dịch. Trống đồng là bộ Dịch Nòng Nọc bằng đồng, tuy nhiên, đây là bộ Dịch diễn tả bằng hình ảnh duy nhất của nhân loại. Muốn học Dịch một cách dễ hiểu, dễ nhớ, một cách chính thống không bị “mắc Dịch” hãy học Dịch bằng hình ảnh trên trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn. Dịch Đông Sơn bằng hình ảnh đã ghi khắc rành rành trên trống đồng không có vấn đề “san định” lại, thêm bớt, nói xàng qua xàng lại, lang ba vi bộ, đi chân chữ bát hay bẻ vụn ra (triết lý ra). Kính thưa quí vị, Tôi đã phải mất hơn 10 năm mới đọc được hết chữ viết nòng nọc trên trống đồng nòng nọc, âm dương. Có những nhóm chữ viết nòng nọc như cái gọi là“họa tiết lông công” trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I chẳng hạn, tôi đã phải mất hơn ba năm mới giải đọc được. Kính thưa quí vị, Câu hỏi được đặt ra là sự hiện diện của chữ viết nòng nọc trên trống đồng của đại tộc Đông Sơn đã đủ để kết luận là trống đồng là trống đồng nòng nọc, âm dương chưa? Chắc chắn có vị cho là chưa đủ. Tôi cũng đồng ý như thế. Ta còn cần phải biết thêm bản thể của trống đồng từ hình thức tới nội dung có mang ý nghĩa nòng nọc hay không? Vậy bây giờ chúng ta hãy xem bản thể của trống đồng ra sao? (còn tiếp). geovisit();
-
TRỐNG ĐỒNG ĐẠI TỘC ĐÔNG SƠN LÀ TRỐNG NÒNG NỌC (ÂM DƯƠNG). (Bài nói chuyện trong buổi ra mắt sách Giải Đọc Trống Đồng Nòng Nọc, Âm Dương Đông Nam Á ngày 13 tháng 7 năm 2008 tại Little Saigon, Orange County, California, Hoa Kỳ). Nguyễn Xuân Quang Kỳ I NGỮ VỰNG Đại tộc Đông Sơn Trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn chỉ chung tất cả các trống đồng nòng nọc ở Đông Nam Á, tôi thêm hai từ đại tộc vào để phân biệt với cụm từ trống đồng Đông Sơn của các nhà khảo cổ học Việt Nam gọi riêng loại trống Heger I tức trống Nguyễn Xuân Quang VI vì loại này tìm thấy nhiều nhất ở Việt Nam. Cũng có khi tôi dùng các từ trống đồng nòng nọc liên bang Đông Sơn, liên bang Văn Lang hay trống vũ trụ Đông Sơn thay cho trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn. Kính thưa quí vị, Hôm nay, quí vị tới đây chia xẻ với tôi một niềm vui mà tôi cho là một trong những hạnh phúc lớn trong đời tôi, đây là một ước mơ tôi đã ấp ủ gần 30 năm giờ đã thành sự thật, đó là hai tập sách ra mắt quí vị hôm nay viết về trống đồng nòng nọc Đông Nam Á. Ngày rời quê hương, lưu lạc xứ người, tôi bỗng thấy mình là một kẻ lạc loài, trơ vơ giữa một xã hội xa lạ mà mỗi tộc đều có cái bản sắc riêng của họ và có cái căn cước riêng của họ, riêng mình thú thật tôi thấy mình sống dật giờ, trôi dạt vì chẳng biết cái căn cước đích thực của mình là gì? Việt là gì? nguồn cội Việt là gì? bản sắc Việt là gì? Những cái gọi là văn hóa Việt hiện nay không đủ giúp tôi tìm ra cái căn cước Việt đích thực của mình. Đây là động lực chính khiến tôi đi tìm nguồn gốc Việt, bản sắc Việt và căn cước Việt. Tôi đã đi tìm các tài liệu trong sách vở và viết ra quyển Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt, tôi gọi là Sử Sách. Tôi đã đi tìm các tài liệu trong văn chương truyền khẩu viết ra quyển thứ hai là Ca Dao Tục Ngữ Tinh Hoa Dân Việt, tôi gọi là Sử Miệng. Qua hai bộ sử này, chúng ta đã thấy cốt lõi của văn hóa Việt, bản sắc, căn cước đích thực thuần Việt là Vũ Trụ Tạo Sinh, Vũ Trụ Giáo, Mặt Trời Giáo, là Dịch Nòng Nọc dựa trên nguyên lý lưỡng hợp nòng nọc, âm dương. Tác phẩm ra mắt hôm nay dựa trên khảo cổ vật trống đồng Đông Sơn là quyển Sử Đồng. Bộ sử đồng Đông Sơn này sẽ bổ túc và khẳng định là cốt lõi của văn hóa Việt, bản sắc, căn cước đích thực thuần Việt đúng như đã nói ở trên. Bộ sử đồng Đông Sơn này chính thống, đáng tin và thuyết phục nhất vì cốt lõi văn hóa Việt từ hơn hai ngàn năm trước đã khắc ghi lại trên đồng vẫn còn tinh ròng, nguyên si không bị những thiên tai và nhân tai làm biến đổi, sai lạc đi. Kính thưa quí vị, trong công cuộc nghiên cứu trống đồng nòng nọc, âm dương Đông Sơn, một giây phút thiêng liêng nọ, trong một đêm thanh vắng kia, ngồi chong đèn trước những tấm hình trống đồng, trong lúc mơ màng, nửa tỉnh nửa mơ, khí thiêng sông núi Việt, hồn Việt, anh linh cổ Việt đã khiến tôi thấy những chiếc trống đồng rung chuyển, tôi bỗng nghe thấy tiếng trống đồng âm vang từ ngàn xưa vọng về. Tiếng trống trầm bổng vang dội trong trời đất. Những tiếng trong, tiếng đục nhịp nhàng mang âm hưởng của hai tiếng “nòng nọc”, “nòng nọc”, “nòng nọc”. Người cổ Việt Đông Sơn đã nói cho tôi câu thần chú để mở ra kho tàng vô giá trống đồng Đông Sơn. Đó là những tiếng “Nòng Nọc”, “Nòng Nọc”, “Nòng Nọc” . Quí vị có mặt trong buổi ra mắt sách hôm nay, quí vị quả là những người đầy tâm huyết với nền văn hóa trống đồng siêu đẳng, huy hoàng của đại tộc Đông Sơn, với cội nguồn Việt, với văn hóa Việt. Qua tác phẩm này, tôi xin trao lại câu thần chú, cái Chìa Khóa mở kho tàng vô giá trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn cho quí vị và cho cả những quí vị không có mặt hôm nay nhưng cũng có cùng một tấm lòng như thế. Xin hãy phát huy di sản trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn vô giá này cho con cháu chúng ta và khơi sống dậy tiếng trống đồng của đại tộc Đông Sơn cho vang dội khắp năm châu bốn biển trở lại. Cái mấu chốt là “Trống Đồng đại tộc Đông Sơn là Trống Nòng Nọc”. Cái chìa khóa để mở ra kho tàng trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn là Chữ Viết Nòng Nọc. Kính thưa quí vị, Trước hết xin nói qua thuật ngữ “nòng nọc” do tôi đặt ra. Nòng nọc có nghĩa tổng quát tương đương với hai từ Hán Việt âm dương. Tôi dùng từ nòng nọc vì nhìều lý do: .Trống đồng hở đáy là trống nòng nọc. .Trên trống đồng nòng nọc, âm dương, những đường nét, hình vẽ thường gọi là “hoa văn” là một thứ chữ viết nòng nọc và các biểu tượng đều được diễn tả theo ngữ pháp (văn phạm) của chữ viết nòng nọc và theo Việt Dịch nòng nọc. .Nòng nọc là hai từ nôm, thuần Việt trong khi âm dương là từ Hán Việt. .Nòng nọc là hình nòng vòng tròn và hình nọc que là dạng nguyên thủy vì phát gốc từ hình dáng của bộ phận sinh dục đàn bà và đàn ông như còn thấy qua hình ảnh ở các hình vẽ trên đá thời tiền sử và qua hình tượng thờ tự linga-yoni của Ấn giáo. Trong khi Hán Việt âm dương là hai từ bác học, dương là mặt trời, âm là mặt trời bị che mất hay không có mặt trời, trở thành tối tăm như âm u, cõi âm… âm dương phát gốc từ mặt trời là hai từ xuất hiện muộn. Văn hóa dựa trên âm dương của Trung Hoa là văn hóa muộn so với văn hóa Đông Sơn dựa trên nòng nọc nguyên thủy. .Con nòng nọc là con có thân hình vòng tròn và đuôi hình nọc. Chữ viết nòng nọc là một thứ chữ viết cổ nhất của nhân loại chỉ gồm có hai chữ cái là chữ Nòng vòng tròn O chỉ âm (theo biến âm n=v như níu = víu, ta có nòng = vòng) và chữ Nọc hình que chỉ dương. Kính thưa quí vị, Chữ viết nòng nọc là cái chìa khóa để mở kho tàng trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn. Đọc được chữ viết nòng nọc là giải đọc được trống đồng nòng nọc, âm dương. Vậy thì hôm nay, trong một khoảng thời gian hạn hẹp này, xin mời quí vị cùng tôi thử đọc một hai chữ viết nòng nọc đơn giản trên trống đồng đại tộc Đông Sơn của đại tộc Việt. A. Chữ ba vòng tròn Kính thưa quí vị, Đây là mảnh của một mặt trống đồng được đào tìm thấy ở huyện Đông Anh, xã Cổ Loa, thuộc vùng ngoại ô Hà Nội và được đặt tên là trống Cổ Loa II (vùng Cổ Loa đào được hai trống I và II). Trống Cổ Loa II. Trên mặt mảnh trống này có hình ba vòng tròn đồng tâm mà các nhà khảo cổ học gọi là “hoa văn ba vòng tròn đồng tâm”. Đây chính là một chữ nòng ba vòng tròn trong hệ thống chữ viết nòng nọc. Như thế hình ba vòng tròn trên trống đồng nòng nọc, âm dương Cổ Loa II có nghĩa gốc là nòng âm. Đây là một từ thuần nòng, thuần âm (không có nọc) nên ta chỉ lấy theo nghĩa của ngành nòng hoặc là nòng dương (thiếu âm, khí gió) hay nòng âm (thái âm, nước). Bây giờ xin mời quí vị cùng tôi giải đọc chữ ba vòng tròn đồng tâm này để xem có nghĩa là gì. Có hai cách đọc: -cách thứ nhất: coi vòng tròn nhỏ tí hon ở tâm là một vòng tròn tương đương với hai vòng còn lại tức là “ba vòng tròn đồng tâm”. -cách thứ hai: coi vòng tròn tí hon ở tâm là một cái dấu (marker, accent) giống như dấu nặng, huyền, hỏi, ngã trong chữ quốc ngữ hiện nay. Dấu này cho biết là nòng, âm hay nòng âm mang tính chủ yếu. Từ nòng này (“hoa văn” này) đích thực chỉ có hai chữ nòng O tức là hai vòng tròn đồng tâm và một cái dấu nòng. 1. Bây giờ xin giải đọc theo ba vòng tròn đồng tâm: Kính thưa quí vị, có nhiều người tò mò muốn biết tôi đọc chữ viết nòng nọc như thế nào? Để giúp quí vị nắm vững vấn đề hơn, xin nói qua cách đọc chữ viết nòng nọc như thế nào? Sau đây là một trong những cách tôi giải đọc chữ viết nòng nọc trên trống đồng âm dương. Muốn đọc một chữ viết nòng nọc trên trống đồng nòng nọc, ta phải mò tìm xem những hình giống chữ đó (hoa văn đó) hay tương tự như chữ đó thấy từ cổ chí kim có mang một ý nghĩa nào? Sau đó ta rút ra lấy một ý nghĩa thích ứng. Chúng ta phải đi tìm những hình giống chữ đó từ thuở con người còn chui hang chưa có chữ viết nhưng đã biết vạch trên mặt đá những hình vẽ (petroglyph), rồi tới thời con người đã có chữ viết nhưng chữ viết cũng hãy còn ở dưới dạng những hình vẽ gọi là hình ngữ (pictogram) như linh tự (hieroglyph) của Ai Cập cổ, giáp cốt văn (viết trên mai rùa và xương thú vật) thấy ở Trung Hoa cổ và cận đại hơn, là chữ viết của Aztec, Maya, tiếp đến là tìm những biểu tượng trong các tôn giáo lớn ngày nay vì phần lớn các tôn giáo này là di duệ, con cháu hay liên hệ với Vũ Trụ giáo dựa trên nguyên lý lưỡng hợp nòng nọc, âm dương, một tôn giáo cổ nhất của nhân loại và cuối cùng là những hình ảnh thấy trong thời hiện đại, thời chúng ta đang sống. Nào! Chúng ta hãy khởi sự tìm cách đọc chữ ba vòng tròn đồng tâm. Xin mời quí vị cùng tôi khởi đi từ thời tiền sử. Chúng ta hãy đi tìm trong các hang động, trên mặt đá những hình ba vòng tròn xem chúng mang một ý nghĩa gì? Xin mời tới Mường Hoa, ở thượng du Bắc Việt, ở đây có một hình người có ba vòng tròn ở giữa hai chân. Hình người có ba vòng tròn giữa hai chân ở Mường Hoa. Các nhà khảo cổ học Việt Nam hiện nay gọi hình người này là thần. Thần thường chỉ các bậc siêu phàm ở Cõi Trên, liên hệ với tạo hóa, vũ trụ, với không gian, mặt trời. Tại thung lũng Val Camonica thuộc vùng núi Alps của Ý cũng tìm thấy một hình người giữa hai chân có một vòng tròn trong có một chữ thập được cho là người mặt trời hay Thần Mặt Trời. Người mặt trời hay Thần mặt trời tại thung lũng Val Camonica, Italian Alps (Madanjeet Singh, f.81). W.T. Olcott trong Myths of the Sun trích dẫn lại rằng giáo sư Worsaal xác nhận vòng tròn có chữ thập bên trong là biểu tượng mặt trời thuộc thời đồ đá muộn (later stone age) của vùng Scandinavia và đây cũng là biểu tượng mặt trời Chaldean. Ta thấy rất rõ là vòng tròn biểu tượng cho mặt trời. Chữ thập bên trong là do hai que nọc (II) để chồng lên nhau. Hai que nọc là hai que dùng làm dùi để tạo ra lửa. Hai que nọc là hai dương, thái dương. Vòng tròn lửa, thái dương là mặt trời. Ngày nay chúng ta dùng hình chữ thập làm dấu cộng cũng có một nghĩa là dương như phản ứng cộng là phản ứng dương (phản ứng trừ là phản ứng âm). Đối chiếu người mặt trời lửa này với hình vị thần ở Mường Hoa, ta thấy các nhà khảo cổ học Việt Nam rất chí lý khi cho đây là một vị thần. Ba vòng tròn ở giữa hai chân người này mang một ý nghĩa tạo hóa, vũ trụ, mặt trời, không gian. Vị thần Mường Hoa có thể là người không gian hay người mặt trời âm, mặt trời nước hay ít ra cũng liên hệ với vũ trụ. Xin lưu ý là bộ phận sinh dục của vị thần Mường Hoa này không thấy rõ, như thế có thể ít nhất 50% vị thần này là phái nữ thuộc dòng nòng âm. Hình ba vòng tròn ít nhất 50% mang âm tính, mặt trời nòng, không gian. Trong khi đó, mặt trời chữ thập ta biết rõ trăm phần trăm là mặt trời lửa, mặt trời nọc, mặt trời dương vì nó dính vào bộ phận sinh dục nam và tay người này cầm cây lao, một thứ nọc (nhọn). Ở đây xin bước ra ngoài lề một chút. Ta thấy từ Việt có nghĩa là vật nhọn tức là NỌC : Việt biến âm với vớt là con dao dài, với vót là que (làm cho) nhọn, với viết là vật nhọn để vạch, vẽ và theo Hán Việt, Việt là rìu cũng là một thứ vật nhọn. Trong chữ Việt có bộ qua, một thứ khí giới cán dài họ hàng với cây lao (que nhọn). Qua biến âm với que. Cây lao, cây qua cầm ở tay người mặt trời nọc Val Camonica này mang hình bóng Việt. Nọc, vật nhọn là đực (heo nọc là heo đực), là dương, là mặt trời. Vật nhọn là biểu tượng của mặt trời vì thế mà người mặt trời này cầm cây lao. Như thế ta thấy rất rõ Việt là vật nhọn, Việt là mặt trời. Người Việt là người mặt trời nọc, dương thái dương. Hùng Vương có Hùng có một nghĩa là Đực như thư hùng là sống mái (một trận thư hùng là một trận sống mái). Hùng Vương là Vua Đực, Vua Nọc [nên mới có tên là Lang (là chàng, chàng cũng có thêm nghĩa nữa là đục chisel, một vật nhọn) và bọc trứng vũ trụ nở ra toàn con trai], là vua mặt trời Nọc, là vua mặt trời thái dương. Hình ảnh Thần mặt trời Val Camonica này có thể tương đương với “tên” cổ sơ diễn tả bằng hình vẽ trên đá của vua tổ Việt chúng ta thời tiền sử mà sau này các nhà nho “chuyển ngữ” qua chữ thánh hiền thành tên Hùng Vương. Xin bước trở vào lại con đường đang đi của chúng ta. Tại một hang động ở đảo Kei, Nam Dương có một hình khắc trên đá diễn tả mặt trời ba vòng tròn đồng tâm nằm trong bộ phận sinh dục nữ. Hình vạch trên đá tại hang động Dudumahan ở đảo Kei, Nam Dương (Madanjeet, The Sun, Symbol of Power and Life, f. 313). Các nhà nghiên cứu biết rõ hình ba vòng tròn đồng tâm trong bộ phận sinh dục nữ này là một hình mặt trời vì hình vẽ này vẽ trong các cảnh thờ phượng mặt trời cùng chung với những loại mặt trời khác. Hiển nhiên đây là hình mặt trời nữ. Có người trong chúng ta ngày nay cho đây là một cách diễn tả tục tĩu và không tin đây là mặt trời nữ. Nhưng nếu ta đối chiếu với hình mặt trời chữ thập dính vào bộ phận sinh dục nam ở thung lũng Camonica ở trên thì ta có thể tin đây là mặt trời nữ. Người tiền sử chưa có chữ viết, nên chưa có các qui tắc ngữ pháp về giống đực giống cái, nòng nọc nên khi chỉ một thứ gì thuộc về phía nọc, đực, đàn ông thì chỉ việc vẽ thêm vào đó hình bộ phận đàn ông và để chỉ một thứ gì thuộc về phía nòng, cái, đàn bà thì vẽ thêm vào bộ phận sinh dục đàn bà. Ở đây để chỉ mặt trời đàn bà họ chỉ cần vẽ mặt trời nằm trong bộ phân sinh dục đàn bà. Nhìn thấy bộ giống ai cũng biết ngay là cái đực, nòng nọc, âm dương khỏi phải viết “la, le” để phân biệt giống cái, giống đực thật là rắc rối như các ông Tây Bà Đầm ngày nay. Xuôi dòng thời gian bộ phận sinh dục đàn bà và đàn ông vẽ giản tiện lại thành hình cái lỗ vòng tròn Nòng và cây que Nọc. Thế là hai chữ nòng nọc khai sinh ra đời. Ngày nay còn thấy vòng tròn nhỏ và cây que nọc dùng làm dấu (marker, accent) để chỉ nòng nọc, cái đực, âm dương trên trống đồng nòng nọc, âm dương (xin mời đọc chương Chữ Nòng Nọc Trên Trống Đồng Âm Dương Đông Nam Á trong tác phẩm này). Tiếp đến, bây giờ chúng ta hãy bước vào thời con người có chữ viết nhưng chữ viết hãy còn là những hình ảnh gọi là hình ngữ. Trong các hình ngữ Ai Cập cổ có linh tự (hieroglyph) Nut có nghĩa là sky (bầu trời) được diễn tả bằng một hình khung trời hình vung úp xuống trên có để ba cái bình tròn. Hình ngữ Nut (sky). Ba chiếc bình là ba vật đựng biểu tượng cho nòng, âm, là ba nòng, ba âm. Ba bình tròn này là hình ảnh của ba nòng vòng tròn và là ba bình đựng nước. Tại sao tôi biết rõ đây là ba bình đựng nước? Trước hết xin thưa, ở trên trời chỉ có mây và nước mưa. Thứ đến là người Ai Cập cổ thờ mặt trời nhưng là mặt trời đĩa tròn không có tia sáng hình nọc nhọn bắn ra, nghĩa là mặt trời âm dòng nòng, dòng nước, không gian, Khôn (giống như mặt trời âm hình đĩa tròn trên lá cờ Nhật, con cháu của Thái Dương Thần Nữ Amaterasu). Thật vậy, người Ai Cập cổ quan niệm nguyên thủy vũ trụ là một cái biển gọi là Biển Vũ Trụ Nun, trên đó hàng ngày mặt trời đi từ Đông sang Tây bằng thuyền gọi là thuyền mặt trời (solar barque). Mặt trời Ai Cập cổ thuộc dòng nòng, nước nên đi đò. Trong khi đó người Trung Hoa cổ là dân võ biền, giỏi cưỡi ngựa nên thần mặt trời Trung Hoa là mặt trời nọc, dương, hàng ngày cưỡi xe ngựa đi từ Đông sang Tây. Vì là biển vũ trụ nên bầu vũ trụ là bầu vũ trụ nước, bầu trời là bầu trời nước. Nước mang âm tính. Như thế ba chiếc bình nước là ba âm thuộc dòng nước. Ba vòng tròn trong Ai Cập cổ có một nghĩa là nòng âm nước, không gian, vũ trụ nước tức là ba âm, một khuôn mặt của Khôn âm, nước. Bây giờ ta bước vào nền văn hóa Trung Hoa có chữ viết cũng là một thứ chữ có nhiều chữ cổ tượng hình, một thứ hình ngữ. Trong Hán tự có bộ thủy có nghĩa là bộ nước. Bộ thủy Chữ Hán nào viết với bộ thủy đều có gốc nghĩa là nước hay liên hệ với nước. Ta thấy rõ bộ thủy là thể biến dạng của ba giọt nước hình tròn. Tiếp đến là trong Dịch nòng nọc, hào âm còn viết dưới dạng là vòng tròn, quẻ Khôn là ba nòng OOO. Khôn dương là khí gió, Khôn âm là nước vũ trụ. Khôn âm là nước vũ trụ thấy rất rõ qua truyền thuyết và cổ sử Việt. Vua tổ của chúng ta ở cõi trời là Đế Minh tức Đế Ánh Sáng mặt trời, là cháu ba đời của Thần mặt trời Viêm Đế. Ánh sáng là lửa vũ trụ là Càn được biểu tượng bằng ba nọc que (III). Linh tự ánh sáng của Ai Cập cổ là hình ngữ vẽ hình mặt trời tròn có ba tia sáng nọc que (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt). Thần Mặt Trời Viêm Đế là mặt trời Nọc (I) và Đế Minh là cháu ba đời của Thần Mặt Trời Viêm Đế nên ba đời là ba nọc III, tức quẻ Càn, lửa vũ trụ. Đế Minh có vợ là Vụ Tiên. Tiên là người đẹp ở cõi trời. Vụ là con chim le le (tiên ở cõi trời nên được biểu tượng bằng chim) là một loài chim nước, vịt trời (Thương chồng nấu cháo le le..., ca dao). Le có nghĩa là nước, qua từ láy lỏng le, ta có le = lỏng. Ta cũng nói chua le, chua lè, chua lét có nghĩa là chua chẩy ra nước. Nước gì ? Chua chẩy ra nước dãi và xin lỗi quí vị, chua vãi đái ra quần (tại sao chua lại vãi đái ra quần? xin thưa, ăn chua rùng mình khiến hơi trong bụng ép xuống bọng tiểu làm vãi nước ra quần). Le le nói theo âm cổ là ne ne (ngày nay ở Miền Bắc Việt Nam, một vài vùng vẫn nói là con ne ne). Hawaii có chim biểu tượng của tiểu bang (state bird) mình là con ngỗng trời ne ne. Vịt trời le le và ngỗng trời ne ne ruột thịt với nhau. Vịt trời Vụ Tiên Le Le bay ra tới tận vùng trời Hawaii. Như thế Vụ Tiên là Khôn âm (ba nòng OOO) có một khuôn mặt là nước vũ trụ. Chồng lửa vũ trụ Càn hôn phối với vợ nước vũ trụ Khôn. Cũng xin nói thêm một chút nữa ở đây là chỉ có Dịch còn viết bằng chữ viết nòng nọc với hào âm là nòng O thì quẻ Khôn âm mới có hình ba giọt nước OOO âm trong khi Dịch Trung Hoa Khôn được diễn tả bằng ba hào âm bằng hình ba que đứt đoạn. Que đứt đoạn không còn mang hình ảnh giọt nước âm hình tròn nòng và đã mang hình ảnh que nọc đứt đoạn tức đã dương hóa. Dịch Trung Hoa là Dịch dương hóa có vào thời phụ quyền cực đoan tức đã muộn. Xã hội con người khởi thủy từ mẫu quyền Nòng rồi mới chuyển qua phụ quyền Nọc. Dịch với chữ viết nòng nọc trên trống đồng của đại tộc Đông Sơn là Dịch nguyên thủy và cổ sơ hơn. Cuối cùng là ngày nay có hình ba vòng tròn đồng tâm diễn tả ba vòng tròn lan tỏa (nước, làn sóng âm thanh). Đây là hình ảnh khi ta lấy một hòn đá ném xuống mặt nước, ta sẽ có những vòng tròn lan tỏa. Tóm lại ta thấy rất rõ hình ba vòng tròn đồng tâm hay là chữ nòng ba vòng tròn đồng tâm trên trống Cổ Loa II liên hệ với Thần mặt trời dòng nòng âm, không gian ba vòng tròn ở Mường Hoa, với linh tự bầu trời nước Nut của Ai Cập cổ, với bộ thủy nước của Hán ngữ, với quẻ Khôn âm nước vũ trụ của Dịch nòng nọc, với ba vòng tròn lan tỏa có nghĩa gốc là ba vòng tròn lan tỏa trên mặt nước. Trống Cổ Loa II liên hệ với nước, nước vũ trụ, nước từ bầu trời (tức mưa), nòng Khôn. 2. Giải đọc theo hai vòng tròn đồng tâm và dấu âm vòng tròn tí hon: Bây giờ ta coi vòng tròn tí hon ở tâm chỉ là một cái dấu cho biết âm mang tính chủ, thuộc ngành ngoại, mẹ của phía nòng âm. Ta chỉ đọc theo hai vòng tròn OO. Hai vòng tròn là hai nòng, hai âm tức thái âm, cũng có một nghĩa là nước. Vắn tắt xin đưa ra một ví dụ điển hình là vị Thần Mưa Chac của Maya. Vị này có một cái mũi hết sức kỳ dị không giống ai, trên mũi có những chữ ba vòng tròn đồng tâm giống hệt như trên trống Cổ Loa II. Thần Mưa Chac của Maya. Hàng triệu người dân Maya, các nhà khảo cứu Maya đều công nhận Thần Chac là Thần Mưa của Maya, vậy thì hình ba vòng tròn đồng tâm trên mũi vị Thần Mưa Chac này bắt buộc phải có nghĩa liên hệ với mưa. Ý nghĩa này ăn khớp trăm phần trăm với ý nghĩa chúng ta vừa đọc theo ba vòng tròn đồng tâm. Hình ba vòng tròn đồng tâm trên mũi vị thần này cũng là một chữ nòng trong chữ viết nòng nọc. Trở lại với hình mặt trời nòng trong bộ phận sinh dục nữ ở đảo Kei, ta cũng có thể đọc theo hai vòng tròn đồng tâm và dấu nòng o. Hai vòng tròn là hai âm, thái âm có một nghĩa theo duy âm là nữ, nước. Dấu tí hon o cho biết âm mang tính chủ thì hiển nhiên hai vòng tròn này mang âm tính chủ có nghĩa là âm, nước và hiển nhiên đi với bộ phận sinh dục nữ thì trăm phần trăm phải mang âm tính chủ. Như thế đọc theo hai vòng tròn đồng tâm và dấu âm vòng tròn tí hon cũng cho thấy chữ nòng trên trống Cổ Loa II có nghĩa là nước, là mưa. Trống Cổ Loa II liên hệ với nước, nước vũ trụ, nước từ bầu trời (tức mưa), nòng Khôn. Trống Cổ Loa II là trống mưa, thuộc dòng Nước. Bây giờ tới giai đoạn kiểm chứng. Tôi nghiên cứu chữ viết nòng nọc cũng giống như làm một khảo cứu y học, đều phải kiểm chứng qua, kiểm chứng lại, kiểm chứng xuôi, kiểm chứng ngược, kiểm chứng ngửa, kiểm chứng sấp… Kiểm chứng với truyền thuyết và cổ sử Việt. Trống này đào được ở vùng Cổ Loa. Theo truyền thuyết Việt, An Dương Vương xây thành Cổ Loa, xây mãi mà không được. Về sau nhờ có Thần Rùa Vàng Kim Qui giúp mới xây được. An Dương Vương có An là Êm Dịu, Dương là mặt trời và Vương là Vua. An Dương Vương là Vua Mặt Trời Êm Dịu tức thuộc về dòng mặt trời mang âm tính, dòng nòng, âm, nước. Con Rùa Vàng là hình bóng của Lạc Long Quân vì thế mà khi giúp An Dương Vương xây thành xong, con Rùa Vàng trở về biển. Lạc Long Quân có một khuôn mặt là Thần Biển nên mới dắt năm mươi con xuống biển và có thủy phủ ở vịnh Hạ Long. An Dương Vương là Vua Mặt Trời Êm Dịu dòng Mặt Trời Nước Lạc Long Quân. Như thế truyền thuyết và cổ sử Việt cũng cho thấy trống Cổ Loa II thuộc ngành nòng Mặt Trời Êm Dịu An Dương Vương, dòng nước, Mặt Trời Nước Lạc Long Quân. Bây giờ có một vị nào đó cho rằng đây chỉ là truyền thuyết nếu có tin thì cũng chỉ tin chút ít thôi. Nếu vậy, tôi xin mời quí vị về thăm phế tích thành Cổ Loa ở ngoại ô Hà Nội. Phế tích Cổ Loa là một di tích lịch sử có thể nhìn thấy và sờ thấy được. Thành Cổ Loa (nguồn Wikipedia) Thành Cổ Loa có hai vòng thành hình tròn bao bọc bên ngoài. Rõ như dưới ánh sáng mặt trời hai vòng tròn là hai nòng, là thái âm, có một khuôn mặt âm là nước. Thành Cổ Loa là của dòng nòng thái âm, nước Mặt Trời Êm Dịu An Dương Vương, là kinh đô của Âu-Lạc. Vòng thành lớn ở ngoài cùng có đường kính là 8 km. Chúng ta không biết người thời An Dương Vương dùng đơn vị chiều dài là gì nhưng số 8 là số Khôn tầng 2, Khôn thế gian (Dịch có 64 quẻ chia ra làm tám chuỗi hay tám tầng, tức mỗi chuỗi, mỗi tầng có 8 quẻ. Các quẻ cách nhau tám quẻ đề cùng tên và theo Dịch có cùng trị số, chỉ khác ở các tầng ứng với các tầng của Vũ Trụ Tạo Sinh. Như thế ta có 0, 8, 16, 24, 32… đều là những què Khôn, đều có trị số như nhau: 0 = 8 = 16 = 24 = 32… S ố 8 = 0, là số không, là hư vô, không gian. Ta cũng thấy rất rõ là 0 = 32 đúng y như thấy trong nhiệt học 0 độ Celcius = 32 độ Farenheit). Vòng thành lớn với đường kính là số 8 cho thấy thành Cổ Loa là thành Khôn tầng 2, thế gian tức liên hệ với Vua nòng Khôn thế gian (tức lịch sử) An Dương Vương. Ở đây cũng cho thấy trống đồng nòng nọc, âm dương đào được ở Cổ Loa cũng có thể cho biết trống là tộc biểu của dân vùng đó và trống đồng nòng nọc là một chứng tích của truyền thuyết và cổ sử Việt. Điểm này cũng thấy đúng với trống Cổ Loa I là trống cũng đào được ở Cổ Loa, trống có mặt trời 14 nọc tia sáng tức trống Đoài tức Gió dương, Khôn dương. Trống Cổ Loa I có một vành chim bay có 16 con cò bay. Ta thấy rõ số 16 là số Khôn tầng 3. Như thế cả hai trống Cổ Loa I và II đều liên hệ với Nòng Khôn (xem Giải đọc trống Cổ Loa I). Điểm này cũng cho thấy trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn là trống của người bản địa, không phải từ Trung Hoa hay từ một nơi nào khác đến. Kiểm chứng với Maya: Ta hãy kiểm chứng thêm một lần nữa cho chắc ăn. Như đã thấy trên mũi vị Thần Mưa Chac của Maya có chữ nòng ba vòng tròn đồng tâm giống in hệt như chữ ở trên trống đồng nòng nọc, âm dương Cổ Loa II. Như thế giữa Maya và tộc An Dương Vương , Âu Lạc có liên hệ với nhau? Câu trả lời là có. Nếu tôi nhớ không lầm, giáo sư Kim Định cho rằng Maya là một thứ Bộc Việt. Bộc biến âm với bọc là bao, túi, nang, nòng. Maya là một tộc thuộc dòng Nòng Khôn giống như An Dương Vương. Nhà văn Bình Nguyên Lộc cho rằng tiếng Maya là tiếng Hùng Vương đợt II. Đúng hơn, phải nói là tiếng Maya là tiếng An Dương Vương, Âu Lạc. Hùng Vương đợt II là thời Hùng Vương suy tàn, có thể đã là thời khởi đầu của An Dương Vương. Tôi, Nguyễn Xuân Quang, trong Tiếng Việt Huyền Diệu, đã chứng minh là Đức Chúa Jesus Nói Tiếng Việt và một học giả nổi tiếng của Guatemala là ông Antonio Batres Jaurequi cũng đã chứng minh là Đức Chúa Jesus nói tiếng Maya. Rõ như hai năm là mười, Maya và Việt liên hệ với nhau. Tiếng Việt và Maya liên hệ với nhau và chẳng cần tìm kiếm ở đâu xa, sự liên hệ này thấy rất rõ qua tên Maya. Theo các nhà Maya học, Maya có nghĩa là “not many” (không có bao nhiêu). Ta thấy Maya = Việt ngữ Mấy (không có bao nhiêu như mấy hơi, mấy sức, sức mấy) và Maya có Ma-, tiếng Maya Ma có nghĩa là Mẹ, chính là Việt ngữ Mạ, Má. Hiển nhiên Maya là “Not Many”, là Không Có Bao Nhiêu, Không Có Gì, là Zero, là 0, là Không, là Khôn tức Nòng O. Maya thuộc dòng Nòng, Khôn. Nòng Khôn Maya liên hệ với Nòng Khôn Âu Lạc An Dương Vương là chuyện cũng dễ hiểu vì các thổ dân Mỹ châu từ đâu tới Tân Thế Giới? Họ đến từ vùng duyên hải Đông Nam Á, Á châu. Văn hóa Maya có nét đặc thù là hai vòng tròn đồng tâm tức hai nòng, hai âm, thái âm, Khôn âm. Các kiến trúc của Maya đều có hình hai vòng tròn đồng tâm. Ảnh chụp tại Chichen Itzá gần Cancun, Mexico cho thấy kiến trúc Maya có hai vòng tròn đồng tâm. Vật tổ chính của Maya là con rắn Kucucan cuộn lại thành vòng tròn mang hình ảnh hai vòng tròn đồng tâm. Vật tổ Kucucan của Maya. Trò chơi bóng của Maya dùng thân người hất quả bóng vào cái vòng có hình vật tổ Kucucan. Từ Kucucan chính là một từ Việt ngữ. Kucu- là chim cúc cu, là chim tu hú, loài chim biết hú biểu tượng cho gió như thấy qua bài đồng dao Bổ Nông là ông Bồ Cắt (Ca Dao Tục Ngữ Tinh Hoa Dân Việt). Còn -can đọc thêm hơi vào là Chăn tức con Trăn (người dân một vài nơi ở miền Bắc Việt Nam ngày nay vẫn nói là con Chăn). Kucucan là Trăn-Tu hú gồm hai tộc là tộc Gió Tu H ú (thiếu âm tức Khôn dương) và tộc Nước Trăn (thái âm tức Khôn âm). Rõ như ban ngày Maya thuộc dòng Khôn, Không, “ Not Many” , “Nothing”. Nếu nhìn dưới dạng nhất thể thì Kucucan là con Trăn-Chim Tu H ú, Trăn Gió (trong khi đó Aztec có vật tổ là con Rắn- Lông Chim Quetzal-Coatl). Rắn Nước, Trăn Gió liên hệ với Rồng Nước Lạc Long Quân. So sánh thành Cổ Loa có hai vòng thành tròn với các kiến trúc Maya có hai vòng tròn ta thấy Maya và Âu Lạc An Dương Vương liên hệ mật thiết với nhau. Và qua sự giống hệt nhau của chữ nòng ba vòng tròn đồng tâm trên trống Cổ Loa II và trên mũi Thần Mưa Chac cho thấy người cổ Loa và người Maya gần cận với nhau. Hiển nhiên, chữ nòng ba vòng tròn đồng tâm trên trống Cổ Loa II phải có một nghĩa là mưa cùng nghĩa với chữ nòng ba vòng tròn đồng tâm ở trên mũi Thần Mưa Chac. Tóm Lại ”Hoa văn“ ba vòng tròn đồng tâm trên trống Cổ Loa II là một chữ Nòng trong chữ viết nòng nọc, có nghĩa là: -đọc theo ba vòng tròn OOO: ba âm (siêu âm), nước nguyên tạo, tạo hóa, vũ trụ, quẻ Khôn. -đọc theo hai vòng tròn OO: hai âm (thái âm), nước, mưa dòng Nòng, âm. Trống Cổ Loa II là trống Mưa, trống Sấm Mưa thuộc dòng Nòng Khôn âm, mặt trời Nước, đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt thuộc ngành An Dương Vương dòng Lạc Long Quân. Dường như tôi thấy qua ánh mắt, có vị hãy còn chưa tin hết mình. Tôi xin chứng minh thêm. Quí vị thấy trên mặt trống Cổ Loa II này còn có thêm một tượng con cóc nữa. Con cóc biểu tượng gì? Con cóc gọi mưa, con cóc nghiến răng chuyển động bốn phương trời, con cóc là cậu ông trời, con cóc liên hệ với mưa, sấm mưa. Nếu quí vị còn chưa tin, xin hãy theo tôi hướng dẫn, chúng ta cùng đọc thêm một chữ nữa. Chữ này có chữ cái nọc que (I), dương. Đó là chữ hình móc câu. (còn tiếp).
-
Chị Tittynguyen yên chí, 4 tháng. Quyết vậy đi. :wacko: :wacko: Đông Thiền :wacko:
-
Gửi Chị Tittynguyen xem căn nhà này liệu có thể bán được không và khi nào thì có thể bán được? Kinh Xích Khẩu Sẽ bán được với giá cao, nhanh là 4 tuần, chậm là 4 tháng. Nhà này gần nơi náo nhiệt xầm uất, chợ búa gì chăng? :wacko: Đông Thiền :wacko:
-
Rin86 à, Thiên Đồng phong cho Rin86 là Tiến Sĩ thực thụ với cả sự nể phục. Tiến Sĩ của lòng tôi.
-
gửi Phoenix Ngày K.Dậu 7 tháng T.dậu năm M. tý giờ hợi bói 1. Phoenix có xin được giấy phép xây nhà sớm không? lập quẻ Đỗ Đại An Giấy phép sẽ cấp ra ngay Nhưng mà cũng phải chờ ngày duyệt phê 2. Việc xin giấy phép có gặp khó khăn, trục trặc hay tốn kém gì không? Cảnh Liu Niên Ngoải miệng hứa sẽ duyệt xong Nhớ! trước lúc đó phải...lồng bao thơ. (hic) 3. Việc xây nhà có suôn sẻ, trọn vẹn không? Tử Tốc Hỷ Phải cần tính lại hầu bao tiến hành công cuộc sẽ hao giữa chừng. nếu không cũng sẽ lừng khừng kéo dài tiến độ tự dưng buồn rầu (nói riêng: Có phải hướng Ly không hợp với Phụng Hoàng?) :wacko: Đông Thiền :wacko:
-
Ái chà tỷ tỷ La Vie về Một vòng thế giới chắc đã phê Phỷ chí tang bồng cho thỏa thích Phong độ tinh thần...hết chổ chê(?) Phong độ tinh thần ...hết chổ chê Lạc Việt Độn Toán lại khí thế Tỷ lại ra tay giúp muội đệ Tư vấn những chuyện thiệt nhiêu khê. Tư vấn những chuyện thiệt nhiêu khê Từ nay đã có tỷ tỷ về Lạc Việt tư vấn không lo nữa Muôi Đệ có giờ mà...cà kê. Phê! :wacko: Đông Thiền :wacko:
-
Gửi Bocu, ngay M.thân 6 tháng T.dậu năm M.Tý giờ hợi Thương Vô Vong - Hưu Lưu Niên Chưa thể được đâu bocu ơi. Chờ đợi thôi. :ph34r: Gửi Phoenix Pho luận quẻ trơn tru, hay quá. Hic. Dzậy mà dấu nghề hoài! hì hì :wacko: :wacko: Thiên Đồng :wacko:
-
Tâm động...thế giới động. :wacko: Đông Thiền :wacko:
-
ái chà, Lão gia Tuetvnb vì mấy vại bia mà chịu nhọc cái thân già vô luận số. Lại vì ngứa nghề và nghĩa khí,vì hong ai chịu xem số nên lại lò mò vào chốn Tử...Vi. Kể cũng nhọc thân già! Thôi, coi như tích một chút Phước cho con cháu đi cụ. Chúc cụ vui như con nít được kẹo, khỏe như ông Thọ bán sữa. :wacko: Thiên Đồng :wacko:
-
Gửi thoidaianhhung ngày Đ.mùi 5 tháng T.dậu năm M.Tý giờ thân Kinh Lưu Niên - Khai Tốc Hỷ (Trước đó Kinh Vô Vọng) Việc vay vốn này đang kéo bị kéo dài, gây nhiều lo âu lo lắng cho thoidaianhhung. Nguyên do có thể các điều kiện đặt ra cho người đi vay từ phía ngân hàng còn nhiều gút mắc mà người đi vay chưa đáp ứng đầy đủ. Phải đợi. Nhanh là tháng 11,12 chậm là đầu xuân năm sau mới được. Gửi Huyhoang, Hùn ba tụ là ba người chung góp vốn, trong đó mỗi người hùn hạp một phần của riêng mình vào. Vậy là 3 phần hùng của 3 người. Gửi Phoenix 1. Phoenix có thực hiện được việc kinh doanh này không? Khai Tốc Hỷ Phoenix đang rất nóng lòng cho việc này,nhưng dường như các trở lực đều ủng hộ hoàn cảnh. thực hiện việc này phải chịu nhiều khó khăn. 2. Thời gian có kết quả là bao lâu? Hưu Xích Khẩu Chưa chắc là bao lâu nhưng sẽ trong vòng từ 6 tháng đến một năm. 3. Sự việc có biến chuyển bất ngờ theo hướng thuận lợi không? Sinh Tiểu Cát Có, sẽ có chiều hướng thuận lợi cho công việc này. Các mối dây liên hệ công việc sẽ thông thoáng, các thủ tục bế tắc được tháo gỡ. Việc này sẽ bắt đầu từ mùa xuân năm sau. 4. Phoenix cần phải làm gì để xúc tiến được việc này? Thương Vô Vong Sẽ cứ lo lắng và chờ đợi đến khi có qưới nhơn giúp đỡ. Là một người nữ sấp sĩ tuổi Phoenix. 5. Nếu thực hiện được thì vấn đề gì cần phải cẩn trọng? Đỗ Đại An Những điều kiện, những lời mời, những hứa hẹn có vẻ ngon ăn từ các đối tác lớn. Sự trì trệ của nhân viên và sự hối thúc của đối tác. Cần phải...Thiền. :wacko: Đông Thiền :wacko:
-
Gửi HuyHoang Ngày b. ngọ 4 tháng T.dậu năm M.tý giờ Thân lập quẻ Tử Đại An Công cuộc kinh doanh này của Huyhoang đang gặp 3 cơ hội, tuy vậy, theo quẻ, cả 3 đều bất lợi. Nếu đầu tư, sẽ quá sức, bỏ vốn ra sẽ nhiều và chắc chắn là lổ nặng. Mặc dù vậy không đến nổi phá sản. Muốn tính chuyện lậu dài, để năm sau bàn tiếp. Theo quẻ: Cộng việc 1: Sẽ lổ vốn nặng hoặc sạch vốn. Công việc 2: Sẽ bị lừa đảo. Công việc 3: Sẽ bị đối tác làm chủ tình hình, lúc đầu có vẻ tốt, sau lại lổ lã. :wacko: Thiên Đồng :wacko:
-
Một ngày nọ, ông lão bán dầu đi ngay cổng dinh một vị tướng quân. Chợt ghé mắt, ông thấy vị tướng quân đang bắn cung vào hồng tâm. Ông dừng lại nhìn từ cổng vào. Vị tướng quân chợt cảm thấy có người quan sát, liền quay người lại, thấy ông lão nhìn. Vị tướng quân mỉm cười tự mãn, rồi quay lại giương cung bắn. Những mũi tên buông ra vun vút, phát nào cũng trúng hồng tâm. Được vài mươi phát, vị tướng quân quay lai hỏi ông lão: -Lão thấy sao? -Thì quen tay thôi mà. Ông lão từ tốn đáp. Vị tướng quân cảm thấy hơi nóng phát tiết ra mặt, nhưng cũng chưa phản ứng gì. Thấy ông bỏ gánh dầu xuống, từ từ lấy vá múc dầu, một chai để đựng dầu. Một tay ông cầm đồng tiền có lổ ở giữa, một tay cầm vá, múc dầu đổ vào. Dầu chảy qua lổ đồng tiền, qua miệng chai, nhưng tuyệt nhiên không có một giọt dầu nào rơi dính mép trong đồng tiền và miệng chai, mười lần như một. Vị tướng quân thấy vậy mới thôi biến sắc. Ông già bán dầu lại quẩy gánh bước đi. -Quen tay thôi mà! Ông lão bỏ lại sau lưng câu nói. Lời bàn của Thiên Đồng: Mỗi một người đều có một khả năng riêng mà ta gọi là tài. Người giỏi bắn cung cũng như người giỏi đổ dầu cũng đều rèn luyện tay quen mà có cả. Vị tướng quân có thể là thầy của ông lão về tài bắn cung, nhưng ngược lại, ông lão cũng có thể là thầy của vị thướng quân về tài đổ dầu. Ở đời, chớ vội chủ quan bảo người khác dở dỏm hay ngu dốt, chớ tự mãn dễ khinh. Mỗi người mỗi khả năng. Hạt lúa khi chưa đầy mộng sữa (lúa non, lúa lép) thường vươn cổ ngẩn cao đầu, vì bên trong nhẹ tênh trống rỗng, nhưng khi hạt lúa đã no sữa, đầy đặn, thường cúi đầu thấp xuống khiêm tốn, vì đã chứa tinh túy đất trời. :D Thiên Đồng :rolleyes:
-
LÚC ĐI TRẮNG, LÚC VỀ ĐEN Một hôm trời nắng, Dương Bố đi chơi. Khi ở nhà ra, thì mặc áo trắng; đi được nửa đường, gặp trời mưa, quần áo ướt hết, mới vào ẩn mưa ở nhà một người bà con. Người ấy thấy Dương Bố ướt cả nên cho mượn áo thâm. Một lúc trời tạnh, Dương Bố mặc áo thâm về nhà. Con chó trông thấy, vừa cắn vừa xua đuổi. Dương Bố giận, toan cầm gậy đánh. Anh là Dương Chu chạy ra bảo: - Đừng đánh nó làm gì! Nó đuổi như thế cũng phải. Giả sử con chó trắng nhà ta, lúc đi thì trắng, lúc về thì đen, phỏng em có không lấy làm lạ mà không ngờ được không? ---------------Liệt Tử --------------- GIẢI NGHĨA: Ẩn mưa: núp một chỗ để tránh mưa. Áo thâm: áo đen. Giả sử: ví bằng. Dương Chu: người đời Chiến Quốc xướng lên các học thuyết vị kỷ. Liệt Tử: Sách của Liệt Ngữ Khấu hay người truyền học thuyết của Liệt Ngữ Khấu soạn ra, có tám quyển, sau nhà Đường, nhà Tống đặt tên là Sung Hư Chân Kinh hay Sung Hư Chí Đức Chân Kinh. LỜI BÀN: Lúc đi mặt áo trắng, lúc về mặc áo thâm, chính mình không biết mình thay đổi, con chó thấy khác thì xua đuổi. Mình đánh nó chẳng hoá ra nhầm lắm ru! Lỗi tại mình thay đổi, không tại con chó cắn xằng. Vậy nên, ở đời khi mình làm điều gì khác thường mà người ta không rõ thì tất nhiên người ta bàn trái bàn phải. Nếu mình không tự xét mình thay đổi hay, hay dở, chỉ biết trách người nghị luận nọ kia thì chẳng khác nào như Dương Bố đánh chó trong truyện này. Thiên Đồng chua thêm: Nhưng ở đời, cũng đừng như con chó, chẳng hiểu lẽ trái phải, chẳng biết cái thay đổi kia là trong hay ngoài mà cứ bổ vào cắn càng, cắn bừa. Bị đập cho mấy gậy cũng là may, lỡ mà bị thành "cầy bảy món" thì tiêu cả mạng.