-
Số nội dung
6.278 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
75
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Thiên Đồng
-
Chuyện khóc cười chỉ có ở Việt Nam thời bao cấp Tại sao một số người sống qua thời bao cấp vẫn có cảm giác hạnh phúc khi nhắc lại thời kỳ này, dù họ thừa hiểu những thiếu thốn của nó? Có lẽ, vào thời kỳ đó, con người sống hồn nhiên, yêu thương nhau, nên họ dễ dàng vượt qua những khốn khó... Xếp hàng mua thịt... suýt lạc mất con Nhớ lại chuyện thời bao cấp, trên trang Yume, thành viên AnhVan_1959 chia sẻ: Hôm nay nghỉ ở nhà, nấu cơm ăn xong ngồi chuyện trò vui vẻ cùng các con, chả mấy khi nhà đông vui thế này. Các con bận đi làm cả tuần, thế nên bình thường bữa cơm chỉ có 2 ông bà ngồi với nhau. Ngồi nhìn thằng con trai đã trưởng thành, đẹp trai, trắng trẻo mà nhớ cách đây 25 năm. Khi ấy nó mới 4 tuổi được mẹ đón từ mẫu giáo Bình Minh về, tiện thể mẹ dắt con ra chợ Bưởi xếp hàng mua mấy lạng thịt theo tiêu chuẩn tem phiếu. Tem phiếu thời bao cấp Lúc mới xếp hàng, mẹ vẫn cầm tay con, hai mẹ con chuyện trò ríu rít. Đến khi sắp đến lượt, mẹ buông tay con ra và bảo đứng chỗ gốc cây cạnh đó đợi mẹ. Chen chúc nhau mua được mấy lạng thịt, chui ra khỏi đám người đông đúc, nhớ đến thằng con, vội chạy ra thì nó đi đâu mất rồi! Thế là gọi con khản cổ mà không thấy con đâu. Tôi ngồi thụp xuống, nước mắt chứa chan. Lạc mất thằng bé rồi, thế này về biết nói sao với gia đình nhà chồng, với chồng đây? Bĩnh tĩnh lại nào! tôi tự nhủ và phóng xe một mạch về nhà. Trên đường về chịu khó nhìn hai bên đường xem có thằng bé không? Về đến nhà thì đã thấy con đang đứng ở sân khóc thút thít và xung quanh là ông bà nội và các cô em chồng. Tôi ôm chầm lấy thằng bé như sợ ai cướp mất nó lần nữa, hai mẹ con cứ khóc như mưa. Một lúc sau hỏi nó: - Ai đưa con về? Nó nói: - con tự về, con cứ đi dọc đường tàu điện, con nhớ đường mà. Tôi lại hỏi: - Ai dắt con sang đường? Nó nói: - Lúc con chuẩn bị sang thì có một bà già gần nhà mình nhận ra con, bà ấy dắt con sang đường và đưa con về nhà. Đúng là phúc nhà tôi to lắm, nếu cháu nó làm sao thì chắc tôi không sống nổi. Xếp hàng mua thực phẩm thời bao cấpCũng chuyện xếp hàng mua đồ thời bao cấp, thành viên MeCao (webtretho) hồi tưởng: Sáng chủ nhật, mẹ và các chị bận rộn đi xếp hàng mua đủ thứ: dầu hoả, gạo, thịt, rau; tớ còn bé tẹo nên mẹ hay nhốt trong nhà. Một lần, để được theo mẹ, tớ khóc vỡ làng nước, nên mẹ xách theo đi xếp hàng mậu dịch. Đến chỗ bán thịt, mẹ thấy hàng xếp rất dài nên dí tớ vào hàng và bảo "con đứng đây xếp hàng cho mẹ, đứng ngay sau cô áo trắng này và trước cô áo xanh này nhé. Mẹ tranh thủ sang xếp hàng bên kia mua gạo đã". Con bé xếp hàng nghiêm túc ghê lắm, bám sát cô áo trắng. Nhưng vấn đề nghiêm trọng xảy ra: đến lượt rồi mà không thấy mẹ đâu, con bé khóc làng khóc nước, bị tụt lại sau 1 người, rồi người nữa, người nữa... mãi vẫn không thấy mẹ. Đến trưa, cửa hàng gạo đóng cửa vẫn không thấy mẹ, mà chẳng dám bảo cô mậu dịch viên đưa hộ về nhà. Hoá ra mẹ mua gạo nhanh quá, thấy hàng thịt xếp còn lâu mới đến lượt nên tranh thủ đạp xe về nhà cất bao gạo, tự nhủ quay lại đến lượt là vừa. Rồi mẹ về nhà, có bác bưu tá gửi thư của dì, mẹ đọc xong, nhìn đồng hồ đến giờ thổi cơm... Khi "ghế" xong nồi cơm thì chị cả mua dầu hoả về, mẹ mới tá hoả... quên tớ đang đứng xếp hàng mua thịt. Mẹ hớt hải phi ra thì ra con bé đói quá, lại buồn ngủ, nên ngồi bên bậc thềm hàng gạo ngủ gật. Và bây giờ, mẹ tớ hay khoái kể chuyện này lại cho mọi người nghe. "Lần ăn" từng bữa Thành viên Tookies chia sẻ trên diễn đàn quansuvn: Ấn tượng của em về thời ấy chỉ còn chút xíu - rất mờ nhạt vì em sinh 1980. Đến 1986 là bắt đầu đổi mới rồi - lúc đấy, nhà em (thực ra có 2 mẹ con, bố đóng quân xa nhà - một năm về được một hai tuần) mới hết đói. Nhưng em nhớ năm 86 - cũng là năm miền Bắc mất mùa - đói - có cả người chết vì đói tuy không nhiều. Học sinh cấp III ở trường mẹ em dạy có mấy anh chị đói lả - ngất trên lớp học. Lúc đó, em mới 6 tuổi - nhớ lần dậy sớm mang sổ đi ra lương thực đong gạo thay mẹ ốm nằm nhà - được có mấy ký gạo. Về lại bắc bếp lũn cũn nấu cho mẹ. Em vẫn không thể quên cái cảnh vo gạo: cho vào nước, gạo đỏ quạch, nổi lềnh bềnh. Nếu đãi ra hết chắc chẳng còn gì để 2 mẹ con ăn. Cơm nấu lên đỏ lòm, thêm mùi gạo ẩm mốc. Rồi những bữa ăn sắn thay cơm, trường chỗ mẹ em dạy đi xin được ở mấy cái HTX chia cho mỗi nhà được vài chục ký, thế là nhà nhà ngồi bóc, sát để nghiền ra lấy bột, xắt nhỏ để phơi khô - dự trữ ăn dần... Năm 1986 là cái Tết đầu tiên em thấy dù chỉ có 2 mẹ con ăn nhưng bắt đầu có thịt heo: thịt nạc thì làm ruốc, thịt mỡ thì rán lên dự trữ ăn dần. Bố em không được về phép nhưng có bác đồng đội làm cùng mang tiêu chuẩn tăng gia về cho hôm 29 Tết. Rồi sau Tết, bố về phép, em bắt đầu nghe thấy từ "đổi mới", rồi đời sống dần khá lên. Giờ trưởng thành mới nghĩ, hồi đó mình khổ một thì bố mẹ khổ mười, chắt chiu từng đồng nuôi con ăn học, vượt bao nhiêu là khó khăn. Vậy mà giờ nhiều khi mình vẫn vô tâm, để bố mẹ trăn trở... Thú vui nhảy tàu Hòa chung dòng suy nghĩ ngược về quá khứ, thành viên Simon (quansuvn) viết: Nhà em ở trên phố, 4 giờ sáng, đã nghe thấy tiếng tàu leng keng, nên không phải để chuông báo thức. Lúc đó, em và các anh cũng phải dậy để còn đi tàu vào Cầu Giấy học. Mấy anh em ngày nào cũng dẫn nhau đi ra bờ hồ Hoàn Kiếm để đợi tàu điện, có hôm vừa ra đến đầu phố Hàng Đào thì đã nhìn thấy tàu chạy về phía Hàng Gai. Vì sợ muộn học, anh trai em đã bế em nhảy tàu và dặn "không được về mách Ba đâu nhé!". Nhưng vì ba mẹ dặn không được nói dối, nên em vẫn "hớt lẻo". Thú vui nhảy tàu thời bao cấpTàu chạy dọc theo Hàng Bông, Cửa Nam, Nguyễn Thái Học, Kim Mã, Voi Phục, rồi bến cuối cùng là Trường Đại học Giao thông. Mấy anh lớn nhà em học ở Yên Hoà, còn em và 2 anh gần kề học ở Dịch Vọng. Dù em chưa nhảy tàu bao giờ nhưng vì các ông anh nhảy tàu nhiều quá nên cũng biết. Cái món nhảy tàu "sành điệu" nhất thời bấy giờ gọi là "nhẩy bổ" (nhảy xuống đấy); còn nhẩy lên thì có một kiểu duy nhất hay sao ấy... Nghĩ lại mà cười chảy ra nước mắt... Đúng là trẻ con thời đó khổ thật, không có gì chơi, vì vậy nhẩy tàu chắc là thú vui của tụi con trai thời bấy giờ. Trong khi đó, thành viên Saovang kể: Nhân cái chuyện tàu điện, ngày xưa em ở phố Phùng Hưng, đi học trường Thăng Long, cũng toàn nhảy tàu thôi. Phố Phùng Hưng là đoạn thẳng rất dài nên tàu chạy nhanh lắm, nên một lần, em suýt gãy chân vì cái kiểu nhảy "bổ" ấy đấy, may mà tàu dừng lại kịp vì vừa đến ga (chỗ ngã tư Phùng Hưng và Trần Phú). (Theo Đất Việt) http://vietnamnet.vn...oi-bao-cap.html
-
Đồ hình này chụp ở Tây Tạng. Lưu ý: 12 chi trên phù điêu không có con thỏ mà vẫn là con Mèo như Lạc Việt. sông Cần Thơ năm 1968, tác giả William Ruzin (tác giả Life along the Mekong circa 1968. Photo by William Ruzin) Cửa đền hay lâu đài Hwa Seong Haeng Gung tại miền Nam Hàn Quốc Cửa đền hay lâu đài Hwa Seong Haeng Gung tại miền Nam Hàn Quốc Đây là nhũng hình ảnh mà anh Cường thu thập, mong rằng sẽ có nhiều hơn những tư liệu quý như vậy. Một lần nữa xin cảm ơn anh Cường. Thiên Đồng
-
ÂM DƯƠNG LẠC VIỆT LƯU DẤU TRÊN THẾ GIỚI Một người bạn của Thiên Đồng, anh Cường, cũng là thành viên thân thiết của diễn đàn, kể từ khi biết đến Lý học Đông phương, tự hào và trân quý vốn văn hóa Việt, lại có cơ hội đi du lịch đó đây, tỉ mĩ ghi lại những tư liệu liên quan đến văn hóa Việt có bất cứ đâu mà anh tìm thấy, từ internet đến hình ảnh chụp được ở những chuyến đi, anh Cường đã gửi cho tôi vài hình ảnh về đồ hình Âm Dương Lạc Việt. Xin đăng lên đây để mọi người cùng tham khảo và cũng là những hình ảnh tư liệu quý giá bỏ sung cho kho tài liệu nghiên cứu học thuật của Lyhocdongphuong. Xin cảm ơn anh Cường. Ban thờ trong Đình Ngọc Canh - Tỉnh Vĩnh Phúc Gốm Biên Hòa có tuổi khoảng cách đây trên 30 năm. Gốm Biên Hòa cách đây trên 30 năm bình gốm Chu Đậu (không rõ niên đại) Biểu tượng âm dương trong bánh xe luân hồi được treo trước cửa nhà của người Tây Tạng (có cả ở Nepal và Mông Cổ) Biểu tượng âm dương trong bánh xe luân hồi được treo trước cửa nhà của người Tây Tạng (có cả ở Nepal và Mông Cổ) Chụp tại sân vườn Thực vật (Botanical Garden) - Tiểu bang Missouri - USA (This photo was taken on June 9, 2012 in MO Botanical Garden, St. Louis, MO, US)
-
Tài liệu tham khảo: Giai thoại Tả Ao TẢ AO ÔNG TỔ PHONG THỦY TẢ AO người Việt Nam học được khoa địa lý chính thống ở Trung Quốc vào thế kỷ 16 (có nhiều tư liệu viết về điều này đều không nhất quán, có sách nói là vào thế kỷ 17 hay 18). Còn tên thật của ông là Nguyễn Đức Huyên, người làng Tả Ao, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tỉnh. Và Tả Ao sinh vào năm nào không ai rõ, chỉ được biết ông sinh vào thời vua Lê chúa Trịnh (1545 – 1788), qua các câu chuyện truyền khẩu.Nhà Tả Ao nghèo, cha mất sớm còn mẹ bị bệnh lòa mắt, vì thế nên ông đến giúp việc cho một ông thầy thuốc người Tầu ở trong huyện, trước lấy tiền trị mắt cho mẹ sau học thêm được nghề bốc thuốc chữa bệnh. Chính vì thế mà ông chữa được bệnh mắt lòa cho mẹ.Ông thầy Tầu thấy Tả Ao có chí lớn, nên khi về lại bên Trung Hoa đã dẫn ông theo để dạy thêm nghề thuốc. Trên đất khách, gần nhà ông thầy thuốc, có một thầy địa lý rất giỏi, cũng đang bị bệnh về mắt, Tả Ao liền được thầy phái sang chữa trị thay ông ta. Thầy địa lý nói rằng, nếu Tả Ao chữa khỏi bệnh mắt cho mình thì ông sẽ thưởng 50 lượng vàng. Tả Ao nhờ kinh nghiệm chữa khỏi bệnh mắt cho mẹ, nên đã chữa khỏi bệnh cho thầy địa lý, nhưng ông không nhận vàng mà chỉ xin ông ta truyền cho nghề xem phong thủy.Vì ơn nghĩa, nên thầy địa lý bằng lòng, truyền dạy hết tinh hoa địa lý phong thủy cho Tả Ao, đến khi thành tài học và hành viên mãn, ông xin cả 2 ông thầy cho về nước. Trước khi cho Tả Ao về Việt Nam, ông thầy địa lý muốn thử lần cuối sự hiểu biết của Tả Ao, ông ta làm ra 100 mô hình đất kết trên bãi cát, dưới mỏi huyệt có yểm một đồng tiền, rồi đưa Tả Ao 100 cây kim ra đấy tìm huyệt để điểm.Tả Ao điểm đúng 99 lổ của đồng tiền, còn một cây điểm ở mép, mà huyệt này lại là huyệt thứ 100. Đây là huyệt ảo, vì mô hình tạo dáng rất huyền bí ẩn hiện dưới những mô đất nhấp nhô, những thầy địa lý giỏi cũng khó phát hiện ra đúng huyệt đạo. Cho nên thầy địa lý biết rằng người Việt Nam đã học hết bí kíp phong thủy của người Trung Hoa.Khi Tả Ao về đến quê hương, ông chỉ lo hành nghề bốc thuốc, ít khi sử dụng đến khoa địa lý, chỉ khi nào cần thiết ông mới ra tay xem thế đất dùm mọi người, tuy vậy danh tiếng xem địa lý, phong thủy của Tả Ao lại nổi hơn nghề thầy thuốc. Cũng chính vì ông không hành nghề xem phong thủy cho ai, nên không có hậu bối. Khi Tả Ao mất người nhà chỉ tìm thấy 2 bộ sách viết về địa lý phong thủy, là Địa đạo diễn ca và Dã đàm Tả Ao. Nhưng trong dân chúng có nhiều sách được in ra nói là sách do chính Tả Ao viết. Còn các nhà địa lý phong thủy, khi đọc xong 2 quyển sách trên, đều cho đây là sách quý. NHỮNG TRUYỀN THUYẾT VỀ TẢ AO Tuy Tả Ao không hành nghề xem phong thủy, ông chỉ chuyên chữa bệnh cho người nghèo, nhưng trong dân gian có những truyền thuyết truyền khẩu nói về nghề xem phong thủy của ông.Có lẽ vì điều này mà ông được người đời xưng tụng “vua địa lý” của nước Việt chăng ?!Sau đây là một vài truyền thuyết về tài xem địa lý phong thủy của Tả Ao : CỨU VUA NHỜ MỘ KẾT PHÁT Một ngày nọ Tả Ao đi ngao du sơn thủy, tuổi tuy đã già nhưng dáng người vẫn quắc thước khoẻ mạnh, khi ông đi đến một làng quê nọ, trời nắng nóng nên ghé vào ngồi nghỉ mát dưới gốc cây đa bên làng, ông nhìn thấy một anh nông dân đang miệt mài cày ruộng, đến khi mặt trời đứng bóng mới chịu tháo cày cũng vào gốc đa ngồi mở cơm nắm ra ăn. Thấy một ông lão cùng ngồi ở đó nhưng không ăn uống gì cả, anh ta mới lên tiếng hỏi :- Xế trưa rồi ông không dùng cơm sao, hay là ông không sẵn mang theo, thôi cùng nắm cơm này ăn với cháu cho vui.Anh nông dân vừa giở cơm, vừa mau mắn mời ông lão : - Cháu mời ông dùng cơm…Thấy thái độ anh nông dân dễ mến, Tả Ao không khách khí, bèn vui vẻ ngồi lại cùng ăn. Bốn năm ngày như vậy, anh nông dân vẫn một lòng kính trọng Tả Ao, mời cơm và ông cũng không lần nào từ chối. Đến bữa cuối cùng, bỗng ông nói với anh nông dân : - Chắc anh vẫn không biết ta là ai? Ta chẳng giấu gì anh, ta chính là thầy địa lý Tả Ao đây ! Anh nông dân nghe danh Tả Ao đã lâu, nay có dịp diện kiến nên vừa mừng vừa hốt hoảng, liền quì lạy xin ông tha lỗi. Tả Ao đỡ anh nông dân đứng dậy nói tiếp : - Ta xem anh là người có đức nên có ý giúp anh đặt một ngôi mộ sau này sẽ phát phúc, phát tài, cho anh nở mặt với thiên hạ… - Ông dạy quá lời, nhà cháu mấy đời nay đều là nông dân chân lấm tay bùn, bần hàn, đi cày thuê cuốc mướn kiếm cơm qua ngày, mong gì nở mày nở mặt với ai ? - Anh cứ yên tâm. Ta nói sẽ giúp anh được giàu sang phú quí trong vòng 100 ngày thôi. Nào anh hãy dẫn ta ra nơi mộ của cha mẹ của anh đi, ta xem thế nào sẽ sửa cho.Anh nông dân mừng rỡ bèn nghe theo lời Tả Ao, dẫn ông đi ra mộ của cha anh ta. Tả Ao xem xong mới truyền : - Mộ đặt nơi thế đất không tốt, suốt đời sẽ bần hàn cơ cực. Phải đào lên cải táng, di dời qua nơi đất khác mà thôi.Nói rồi bảo anh nông dân đào mộ lên, xếp xương cốt vào một chiếc hủ đất đem đi chôn ở một huyệt đất mà Tả Ao đã chọn sẵn. Xong đâu đấy, Tả Ao căn dặn : - Anh nhớ không cho ai biết chuyện này ! Một trăm ngày nữa, vào ngày mùi tháng ngọ, đúng giờ tý anh phải có mặt ở kinh đô, đứng ở hướng Đông. Hễ gặp một người đàn ông mặc áo trắng, đi hài xanh, từ trong thành chạy ra với bộ mặt hốt hoảng, thì anh cứ chạy lại bảo: “Con xin cứu ngài!”, rồi cõng thẳng về giấu trong nhà, ngày ngày lo cơm nước cho tử tế. Anh cứ thế mà làm, đừng suy nghĩ gì hết !Nói xong, Tả Ao từ biệt anh nông dân mà đi thẳng, về sau anh ta có đi tìm nhưng chẳng biết ông đi về đâu. Đúng như lời dặn của Tả Ao, đúng ngày giờ anh nông dân ra kinh đô đứng đợi ở cửa Đông. Bỗng nghe có náo động từ trong thành vọng ra nào tiếng chiêng, tiếng trống, tiếng quân reo hò, tiếng người gào thét, rồi lửa bốc cháy đỏ rực một góc trời. Và quả nhiên, một người đàn ông dáng thư sinh mặc áo trắng, đi hài xanh, hớt hải một mình chạy qua gần chỗ anh nông dân đang đứng. Anh ta chỉ đợi có thế bèn chạy đến bên nói to: - Thưa ngài, con xin cứu ngài!Nói đoạn ghé vai cõng người ấy chạy một mạch về giấu trong nhà. Người ấy dáng chừng sợ hãi, suốt ngày im lặng nghe ngóng động tĩnh. Anh nông dân cũng chẳng hỏi thân thế của người đàn ông ấy đang lo sợ đến quên ăn mất ngũ. Vài ngày sau bỗng có loa truyền rằng, ai đang giữ vua ở đâu thì báo cho quan quân kịp đưa vua về kinh. Lúc ấy ông khách mới nói cho anh nông dân biết mình chính là vua, mấy ngày trước đây bị bọn gian thần định soán ngôi. Rồi nhà vua sai anh ta đi báo cho quan quân biết nơi vua đang ở ẩn. Khi quan quân đến rước vua, vua cho phép cả anh nông dân cùng đi theo mình về kinh thành. Tại kinh đô vua thiết triều, trấn an trăm họ và phong cho vị ân nhân là anh nông dân được làm quan đến chức nhị phẩm, cùng vàng bạc lụa là nhiều vô số kể.Thì ra ngôi mộ mà Tả Ao đặt cho người cha anh nông dân, kết phát y như lời ông nói khi trước, chỉ trong vòng 100 ngày. KHI TẢ AO THƯƠNG VÀ GIẬN Khi thương… Quanh năm Tả Ao thường đi đây đó khắp trong nước để tìm những ngôi đất quí. Một lần đi qua tỉnh nọ thấy có một ngôi đất rất đẹp, bèn buột miệng khen: - Kiểu đất này mà đặt mộ thì chắc chỉ sáu tháng là phát làm quan ! Nhà ai có phúc thì được hưởng thôi ? Sau đó ông đi về hướng làng, gặp một người đàn ông trung niên đi tới. Nhìn thấy nét mặt ông ta tuy phúc đức nhưng tướng lại khắc khổ quá. Tả Ao mới hỏi: - Ông có muốn ra làm quan không ? Người đàn ông đáp : - Lạy ông, nhà tôi bất hạnh ba đời, học hành chỉ đủ đọc sách, muốn làm quan không xong, thi cử đợt nào cũng thi rớt, nên nay vẫn sống kham khổ làm ruộng kiếm sống thôi. Được làm quan thì phúc ba đời để lại. Tả Ao nghĩ bụng ông ta không nói sai. Rồi ngắm nhìn ông ta một lúc bèn nói: - Thôi được, tôi sẽ giúp ông̣ đặt lại ngôi mộ tổ. Ông về lo sẵn 300 quan tiền. Người đàn ông mừng lắm vội mời Tả Ao theo mình về nhà, gọi người thân ra đào ngôi mộ tổ, bốc xương cốt cho vào cái tiểu sành đem đến chôn sâu xuống huyệt đất do Tả Ao vừa thấy ban sáng mà táng lại. Xong việc, ông ta giữ lời, trao cho Tả Ao đủ 300 quan tiền, nhưng Tả Ao chỉ lấy có ba quan, còn lại bảo đem phát hết cho người nghèo khó trong làng. Gần sáu tháng sau, vào một đêm không trăng, cả nhà ông ta đang quây quần dưới ngọn đèn bỗng có tiếng người gõ cửa. Người nhà ông ta ra mở cửa, thấy trước mặt là một ông tướng uy nghi lẫm liệt nhưng có vẻ đang thất cơ lỡ vận. Khách thật thà nói mình đang lỡ độ đường, xin gia đình cho ăn uống. Ông ta vốn hiếu khách vội sai người nhà nấu cơm đãi khách rất mực nồng hậu. Cơm nước vừa xong, ông khách mới nói: - Thưa ông̣, tôi là tội phạm đang bị nhà Chúa lùng bắt. Đằng nào tôi cũng không thoát khỏi. Xin ông̣ mang dây thừng trói tôi lại rồi đem nộp cho chúa Trịnh mà lĩnh thưởng. Như vậy dù tôi có bị hại, tôi cũng giúp ích được cho gia đình ông̣, còn hơn là uổng thân vô ích. Cả nhà kinh ngạc sững sờ trước những lời nói của người khách lạ. Không ai nỡ hành động, nhưng ông khách cứ giục mãi, bất đắc dĩ họ phải làm theo.Chúa Trịnh được ông ta giao nộp viên tướng thất thế, hết sức khen ngợi, bèn phong cho làm chức Tri huyện để trọng thưởng. Vị khách đó chính là Mạc Kính Đô, tướng nhà Mạc đang bị thất thế. Vì cảm tấm lòng tốt của ông lão mà Kính Đô đáp lại ông bằng một hành động lạ lùng có một không hai trong thiên hạ.Đúng như lời tiên đoán của Tả Ao không sai. Chỉ trong sáu tháng là được làm quan.… và giận ! Một hôm Tả Ao đang đi đến vùng đất nọ. Thấy ngôi đình làng ở đây đặt hướng bị thất cách, ông đứng ngắm mãi rồi đến gần để xem cho rõ.Giữa lúc trong đình đang làm lễ kỳ yên. Các vị chức sắc trong làng đang chuẩn bị bữa tiệc chiều. Một người biết mặt Tả Ao liền chạy ra khẩn khoản mời ông vào trong đình. Các vị chức sắc được gặp thầy địa lý trứ danh nên mừng lắm, ông tiên chỉ trong làng nói : - Hôm nay là ngày tế kỳ yên trong làng, may được gặp thầy thật là phúc cho cả làng này lắm. Nhân thể nay mai làng cho sửa lại ngôi đình, xin cụ coi cho cái hướng nào tốt, làm sao cho làng chúng tôi phát khoa bảng rầm rầm, nhằm đè đầu cưỡi cổ thiên hạ một phen cho họ biết tay ! Lâu nay cả làng chưa ai thi đậu cả! Một ông hăng hái nói thêm : - Cụ tiên chỉ nói phải đấy thưa cụ ! Các làng bên, không làng nào không có tiến sĩ, cử nhân, xoàng thì cũng phó bảng, chót chét cũng tú tài. Riêng làng này chắc các cụ trước đặt hướng đình có nhầm nhỡ gì đây,nên bao nhiêu năm trời vẫn suôn cành, không hưởng được trái lộc nào. Cụ đã đến đây xin ra tay giúp chúng tôi được đè đầu cưỡi cổ thiên hạ một phen cho hả ! Tả Ao chỉ cười nói : - Tưởng gì chứ nếu các cụ chỉ ước có vậy thì tôi xin ra tay, không dám nề hà gì ! Nhưng chỉ xin 3000 quan tiền để lấy công thôi.Các vị chức sắc nghe nói đến tiền công đến 3000 quan, thì lắc đầu le lưỡi, có người than thở : - Làng này vì không đỗ đạt, nên không “tơ hào” được gì nên còn nghèo túng, chỉ mong sau này đè đầu cưỡi cổ được thiên hạ, nói gì 3000 đến 5000 quan chúng tôi cũng lo cho cụ được, mong cụ xem lại mà bớt cho. Tả Ao nghĩ thầm trong bụng, ta lấy tiền giúp người nghèo chứ có phải dùng riêng đâu. Bọn chúng mi thích đè đầu cưỡi cổ thiên hạ để kiếm tiền hưởng thụ, thì ta sẽ chiều ý thôi. Nghĩ thế nên giận, Tả Ao lên tiếng : - Nghe các vị nói như vậy, ta cũng cảm động lắm, thôi thì các vị có bao nhiêu để trả công, xin cứ nói thấy được ta giúp cho. Vị tiên chỉ nghe Tả Ao nói thế, liền đáp : - Trong đình chỉ còn vỏn vẹn 500 quan tiền, mong cụ lấy giúp.Tả Ao lại giận trong lòng, đình làng nghèo mà cúng kỳ yên đến hai bò năm trâu mười lợn như thế này thì thánh thần nào chứng. Nhưng để làm gương cho đám chức sắc, ông cũng hài hả đáp : - Thôi được, mấy vị đã nói thế ta cũng giúp cho làng, sau này ai cũng đè đầu cưỡi cổ thiên hạ đều được cả.Ngay sau đó, Tả Ao ra trước sân đình đặt tróc long định hướng, rồi cắm hướng mới cho ngôi đình. Xong ông cáo biệt đi thẳng. Mấy tháng sau khi đình đã được xoay ngôi đổi hướng, các vị chức sắc kỳ mục không nói cho dân làng nghe chuyện, mà chỉ dặn con cháu ra công đèn sách nay mai ứng thí.Nhưng quái lạ, tất cả đám con trai, từ lớn đến bé hễ cầm quyển sách định học, nhưng học mãi mà chữ nghĩa chẳng vào đầu ! Các thầy đồ được mời đến dạy cũng thở dài ngao ngán. Rồi thay vì sách vở bút nghiên, càng ngày càng có nhiều anh con trai con các chức sắc kỳ mục rủ nhau đi sắm hòm đồ nghề thợ cạo, xách đi khắp nơi hớt tóc dạo ! Trong lúc hành nghề, họ tha hồ mà “đè đầu đè cổ” thiên hạ để… cắt tóc, cạo mặt, ngoáy tai…Các cụ chức sắc lúc ấy mới ngã ngửa hiểu ra cái thâm ý của thầy Tả Ao trước đây ! Nhưng cũng hiểu rõ, tại họ quá tham lam, chỉ biết tư lợi cá nhân, nên mới bị Tả Ao chơi trác. http://thantienvietn...am-taoist-.html
-
Thưa Sư Phụ, bài và hình là đệ tử sao y, trích từ nguyên gốc của trang nguồn. Thiên Đồng
-
Tư liệu tham khảo: Vài Truyện Giai Thoại 1. ...." Có một thầy Phong thủy, người ở làng Tả ao, Trấn Nghệ an, đương đêm ngồi ngó lên Trời, trông thấy các vì Sao hội tụ về phương Nam, sáng tỏ rời rợi, vỗ tay cười ầm lên. Người ngồi bên cạnh không hiểu như thế nào hỏi: - Ngài có điều gì thích chí mà cười lắm thế. Thầy Phong thủy nói: Kỳ qúa, ta vừa trông lên Trời, thấy các vì sao hiện về phân dã nước ta, bóng sáng vằng vặc. Kìa như ngôi sao sáng nhất chình là một Đế tinh, còn những vì sao xung quanh toàn là Tá tinh cả. Sau 20 năm, Rồng- Mây gặp hội, cá nước phải duyên, làm nên một hội, thịnh trị. Chỉ vì thấy một vị về bên tả ngôi Đế tòa, trông ra không phải hình tượng Văn tinh mà chủ trương về việc Văn, và tài ứng đối lanh lợi, vì thế nên thích mà cười. Chỉ trong một hai năm, các vị ấy giáng sinh xuống Trần đầu thai mà thôi. Phen này ta quyết đi chu du thiên hạ, thử xem giáng sinh về phương nào. Từ đó ông ấy đeo La bàn đi chơi, nay đây , mai đó, không đâu mà không đến.Một hôm , đi qua Sơn Nam thượng Trấn, đến làng Mạnh Chư, tục gọi là làng Dừa, Huyện Bình lục, Tỉnh Hà nam ninh bây giờ thì thấy vượng Khí trong làng phất lên đùn đùn, biết ở đó có một ngôi đất hay. Lần vào xem, quà nhiên thấy một Huyệt: Sơn cùng, Thủy triều, Long bàn Hổ phục, đôi bên Thần đồng phụ nhĩ, xung quanh cờ biển ứng vào, trước mắt đột lên một con Hỏa, trông như một con dao bầu, suốt từ phương Mão đến phương Tốn, thực là Huyệt kỳ dị. Bụng bảo dạ rằng:" Ngôi đất này chính là ngôi đất ứng sinh ra tá tinh đấy hẳn, thế mà chưa có nhà nào táng được là làm sao? Âu là ta vào trong làng xem ngôi đất này Trời để cho nhà nào thời ta làm ơn làm giúp, thay quyền Tạo hóa xem sao. Nghĩ rồi đi, vai đeo túi, tay chống gậy, làm ra dáng lù khù đi vào. Khi bấy giờ Trời đã tối, đi đến đâu cũng không ai cho trọ. Tự nhiên gặp một người say rượu gật gù bảo rằng:Thưa cụ, cụ đi đấu mà tối thế? Không ai dám chứa cụ thời xin cụ về nhà cháu. Nhà chau dù nghèo thực, nhưng cũng dư thết cụ được dăm ba ngày. Xin cụ đừng ngại. Cụ thấy nói tử tế lắm. Đi theo về nhà. Vào đến nơi, ông ấy bắt người nhà dọn chỗ nghỉ, rồi làm rượu mời cụ xơi, bắt vợ con ra chào hỏi trọng hậu.Cụ nhác trông người vợ có phúc tướng, mừng lắm hỏi:Ông bà đây làm nghề gì? Ông ấy đáp: Thưa cụ, nhà cháu nghèo lắm. Ở đây gần chợ nhà cháu thường làm nghề hàng thịt kiếm ăn. Cụ mừng thầm rằng: Ai ngờ nhà hàng thịt mà có người Phúc hậu như vậy. Hoặc giả vượng Khí ở đây chung tú vào nhà này chăng. Hay ta cứ ở đây xem. Sáng mai, thức dậy, cụ đã thấy một mâm tiết canh lòng cật sẵn đó mời cụ xơi. Từ đấy trở đi, cụ đến ở ba bốn tháng, sớm đi tối về, vợ chồng hầu hạ cơm nước, bữa nào cũng như bữa nào, không hề một lời tiếng nặng tiếng nhẹ, cứ một niềm chiêu đãi như vậy. Hoặc có khi cụ ốm, chồng thời chạy thuốc, vợ thời quét bẩn , giặt dơ, dẫu thế nào cũng không quản ngại chi cả. Cụ thấy thành tâm lắm mới bảo thực rằng: Nguyên tôi là một ông thày Địa lý đi qua đến đây, gặp ông bà thết đãi quá hậu, không biết lấy gì mà trả ơn được. Nhân tìm được một ngôi Âm phần, thôi thì để lão làm một cái lễ tạ. " Vợ chồng thấy nói mừng lắm, thụp xuống lạy, xin đem hài cốt ông Thân phụ để cụ táng. Táng xong cụ dặn lại rằng: Ngôi đất này mạch cực kỳ quý, sau này tất sinh Trạng. Cậu bất tất phải học mà tài trí hơn người, đối ứng cực giỏi. Trong thời Vua yêu, Chúa dùng, Ra ngoài thời tùy cơ ứng đối. Sự nghiệp cực kỳ ngộ. Chỉ hiềm ông chưa được trông thấy. Nói rồi từ đi.Vợ chồng ông ấy cố nèo như thế nào cũng không chịu ở nữa.Từ đấy, chân mây dấu Hạc, đi tróc Long- Tầm Hổ về phương nào không biết.Từ khi cụ Tả ao táng mả cho, vợ chồng hàng thịt buôn bán phát đạt vô cùng. (còn sinh Trạng nào không thấy nói rõ (có lẽ là trạng Lợn), ai biết thì nói giùm nhe!) (sưu tầm từ bản tiếng Việt do Kim Mã- Vũ Hoàng dịch từ bản chữ Nôm- Cuốn Trạng Lợn- Hội Văn học nghệ thuật Hà nam Ninh- 1987). 2. CHẮC NHƯ ĐÓNG ĐINH (Truyện Ông Tả Ao của Đồ Nam) Một làng nọ thuộc tỉnh... ở trung châu Bắc bộ, là một làng rộng lớn và giàu có, nhưng phải cái xấu là trai làng, anh nào cũng “vắt cổ chầy ra nước”, chơi với ai cũng muốn nắm phần lợi về mình, không chịu bỏ ra một xu nhỏ. Còn gái làng thì tinh nghịch, cô nào cũng chua ngoa, đanh đá, lại có tính lẳng lơ. Vậy cho nên ca dao có câu: Làng kia có biển xà cừ, Bao nhiêu con gái theo sư mất rồi... Một hôm, ông Tả Ao đi chơi qua làng đó, ngắm thấy kiểu đất quý: trước miếu Bà, có cái thế đất hình nhân đàn bà nằm nghiêng, giữa huyệt có một cái giếng, nên con gái làng này rất đẹp. Chẳng những thế, ông lại còn thấy mấy kiểu đất trông như cái biển, cái chiên, chỉ hiềm vì miếu Bà lệch hướng nên trong làng không có mấy người làm nên to tát. Thấy làng có nhiều đất đẹp như vậy, ông liền dừng chân vào nghỉ tại một quán hàng, vừa uống nước, ăn bánh, vừa ngắm địa thế. Bỗng, có một bọn gái làng đi chợ về, cũng vào quán nghỉ chân uống nước, ăn trầu, cô nào cũng trắng trẻo, xinh xắn, nói năng cười cợt chẳng cần giữ ý tứ gì. Thấy ông Tả Ao ngồi đó, họ cũng chen vào ngồi, đùa cười như nắc nẻ, chẳng biết kính trọng người già cả là gì. Hôm đó là ngày phiên chợ, nên quán nước luôn luôn tấp nập kẻ ra người vào: thôi thì hết bọn gái này, đến bọn gái khác ghé vào nghỉ chân, ăn trầu, uống nước hoặc hút thuốc. Ông Tả Ao ngồi suốt buổi trưa, ngắm hết bọn này đến bọn khác. Ông xét thấy: gái thì lẳng lơ, vô lễ, trai thì kiêu ngạo, keo bẩn. Tất cả trai gái làng này đều có những cử chỉ lố lăng, ăn nói vô ý vô tứ. Chừng đã xế chiều, quán nước thưa người, ông mới lần theo đường nhỏ vào làng. Hết ngắm hướng đình rồi đến hướng chùa, lang thang nhìn xem phong cảnh, ông dừng lại trước miếu Bà, lẩm bẩm: -Gía họ biết điều, mình quay hộ hướng kia, ắt là trong làng được làm quan to, tha hồ mà giàu sang vinh hiển. Chợt một dân làng đi qua đó nghe thấy, đoán chắc đây là thầy địa lý không sai, bèn chạy về phi báo cho các ông kỳ mục trong làng ra đón mời ông. Thoạt đầu, ông chối từ; về sau thấy họ cố nằn nì, ông phải theo về đình làng. Thôi thì họ kêu nài đủ thứ, nào là xin ông làm phúc giúp cho một hai kiểu đất để làng làm ăn khá giả, nào là xin ông cho làng được nhiều người đỗ đạt, làm quan để làng nhờ cậy, dân làng sẽ ghi ơn ông muôn đời... Ông Tả Ao chỉ gật gù, bảo: -Để tôi còn phải ngắm các kiểu đất xem sao đã. Thực ra, chính ông muốn thử bụng các bô lão trong làng xem cách ăn ở, đối xử với ông ra sao. Cơm nước chín mười hôm, ngày nào ông cũng xách tay nải đi quanh quẩn trong làng từ sáng đến chiều, nhưng hôm nào về ông cũng bảo với các ông kỳ mục rằng chưa tìm được hướng, phải đợi lâu lâu mới được. Kỳ thực, trong ngần ấy hôm, các ông kỳ mục đối đãi nói năng những lời gì ông đều dò la rõ cả. Ông biết bọn họ không tốt, chỉ hời hợt ngoài mặt, mong sao cho công việc chóng xong để rồi tống tiền ông đi, chứ trong tâm không thành thực, niềm nở tiếp đãi ông. Một hôm, cơm nước vừa xong, ông vờ say rượu, nôn ọe, ngủ thiếp đi ra vẻ mê mệt lắm. Thấy ông như vậy, các ông huynh thứ thì thầm bảo nhau: -Không biết đó đúng là Tả Ao không? Hay chúng ta bị thằng này đến lừa làng mình, rượu chè no say ít lâu rồi chuồn thẳng, thì thật là bẽ với dân làng. Một cụ khác nói: -Tôi cũng nghi lắm, trông lão này không có vẻ gì tài giỏi. Đời thuở gì mà gần nửa tháng nay rồi cũng chưa đả động gì đến việc Địa lý... -Ta phải thúc dục hắn mới được, không thể để tuỳ hắn như trước nữa. Nếu hắn cứ chùng chình, khất lần khất lừa thì đuổi ngay đi cho xong chuyện, chẳng cần kết phát gì cả. Làng ta như vậy cũng đã danh gía chán rồi. Ông Tả Ao nằm gần đó, ai nói câu gì ông đều nghe rõ cả. Sáng sớm hôm sau, tỉnh dậy, ông vờ đi xem đất một lúc, rồi lại trở về đình. Vừa thấy bóng ông, mấy ông kỳ mục đã vội nói: -Thế nào, xin ông giúp ngay cho, kẻo lâu ngày quá rồi. Để mọi người nói xong, ông đáp: -Tôi cũng định về nói chuyện với các ông rằng hôm nay tốt ngày lắm, xin cho phân kim, làm lễ ở miếu Bà, xoay hướng miếu lại đôi chút là xong. Đoạn, ông lấy tróc long và la bàn trong tay nải ra, nói với các ông kỳ mục cho mõ rao mời dân làng ra miếu Bà xem cắm hướng, rồi làm lễ một thể. Nghe ông Tả Ao nói xong, các ông kỳ mục mừng rỡ, đánh ngay ba hồi trống triệu tập dân làng ra miếu xem cắm hướng. Cắm hướng xong, có mấy cụ nhà nho trong làng, ý chừng cũng biết tý chút về khoa Địa lý, kháo nhau khen mãi là giỏi, hết lời khâm phục Tả Ao. Một ông huynh thứ trong làng hỏi: -Ông cắm thế này thì làng chúng tôi phát đến gì? Ông Tả Ao trả lời: -Phát đến nhất phẩm triều đình, làm quan tứ trụ không sai. Đây này, các ông trông xem, có phải chỗ kia trông như sơn, như hải cả không, hai bên toàn là “trống cái”, “chiêng đồng”, và biển xà cừ chầu cả về miếu Bà này. Lại còn cái giếng kia là chính huyệt, đàn bà, con gái làng này tha hồ mà trắng trẻo, xinh đẹp, sẽ có người phát đến cung phi, hoàng hậu... -Thế cụ có chắc như vậy không? -Chắc, chứ sao lại không! Một, anh đứng gần đấy, ra vẻ giễu cợt, nói: -Chắc hơn cua gạch hay chắc hơn gắn sơn? -Hơn cả cua gạch và hơn cả gắn sơn. Chắc như đinh đóng cột vậy. Kiểu đất này muôn đời cũng không thay đổi. Công việc xong, ông Tả Ao thu xếp tai nải, đi ngay. Mấy ông kỳ mục lấy ra năm chục quan tiền tạ ông. Ông không lấy mà bảo đem phát cho kẻ khó. Xoay hướng miếu xong, làng nghe ngóng mãi mà cũng không thấy phát, chẳng có ai đỗ đạt, giàu có sang trọng gì. Mãi vài năm sau, chỉ thấy gái làng cứ không chồng mà chửa, trước còn ít, sau càng ngày càng nhiều, tiếng đồn lan ra khắp huyện. Trai làng thì cũng đổi nghề, trước kia cày cấy, buôn bán, nay lại xoay ra học nghề chạm, nghề sơn. Thấy vậy, các cụ trong làng lo quýnh, biết là ông Tả Ao phản, liền đi tìm các thầy địa lý giỏi để xem lại hướng. Hơn chục danh sư danh sư được mời về đều trả lời: “Kiểu đất này rất đẹp, nhưng đã bị xoay lại cả rồi, cái chiêng đồng, cái biển xà cừ đã hoá thành cái chậu sơn, hai cái gò đống kia đã hóa thành cái chàng, cái đục; còn cái trống kia đã biến thành cái họa cho gái làng, vì cái giếng trước miếu Bà bị cắm một cái cọc, nên gái chưa chồng hay bị chửa hoang...Những gò đống, hồ ao thì không thể xoay lại được, chỉ còn một cách sai người lội xuống giếng, nhổ cái cọc tre đi để cứu vãn cho gái làng khỏi bị chửa hoang mà thôi. Mười năm sau, khắp làng này trở thành thợ chạm, thợ sơn; gái làng thì thỉnh thoảng lại bị một thời kỳ chửa hoang vô kể. Về sau khám phá ra thì là vì mỗi các trai làng lân cận sang hỏi gái làng này không được, hay vì gái làng này có tính chua ngoa, cãi cọ với gái làng bên, đã bị trả thù. Kẻ thù đã ngầm sai người chờ lúc vắng vẻ lội xuống giếng, cắm cọc để gieo họa cho gái làng này. Về sau, các cụ bô lão trong làng phải cử người canh gác cẩn mật và cứ ít lâu, lại phải xuống giếng mò cọc một lần, để tránh cho gái làng khỏi cái nạn “hoảng chưa”. http://www.5giay.vn/...a-ly-ta-ao.html
-
Tư liệu tham khảo: NÓNG TỚI GẦN BỤNG. Tại một làng kia , có hai chị em mồ côi cha mẹ từ thuở nhỏ. Cảnh nhà rất túng quẫn, người chị gái thì góa chồng , lại thêm đứa con dại , ngày ngày buôn bán lần hồi , kiếm tiền nuôi gia đình. Những ngày mưa gió, không đi chợ được , người chị lại phải vào rừng kiếm củi về bán lấy tiền sống cho qua ngày. Người em, nổi tiếng là láu lỉnh nhất làng , nhưng thông minh , chăm học, văn hay chữ tốt. Thế mà số phận hẩm hiu , thi đã 3 khóa đều trượt cả. Thi mãi chẳng đậu , anh trách thân oán phận, đêm ngày buồn tủi trăm chiều, mong sao học hành đỗ đạt để đền ơn chị. Một hôm nghe tiếng ông Tả Ao đang qua làng, anh đánh liều đến van lạy ông, xin ông ra tay giáng phúc cho. Anh kể rõ tình cảnh : mồ côi cha mẹ từ sớm, ở với chị nuôi cho ăn học , gia đình thật là quẫn bách , xin ông giúp cho được công thành danh toại. Thấy anh có vẻ nhanh nhẹn , ăn nói hoạt bát, thông minh , ông Tả Ao liền nhận lời giúp anh , rồi bảo anh dẫn về nhà. Về tới nhà, anh kể rõ mọi sự với chị, xin chị dọn cơm rượu để thiết đãi ông Tả Ao. Không để em nói hết lời , người chị ra vái chào ông Tả Ao rồi xuống bếp làm cơm rượu thết đãi ông. Một lát sau, người chị bưng cơm rượu lên, anh quỳ xuống đất lạy ông Tả Ao hai lạy, gọi là chút lòng thành , mời ông chiếu cố cho. Người chị cũng chắp tay lạy ông nói:- Thật là thân gái góa chồng, mới được một con hãy còn thơ ấu, em trai thì số vất vả thi hết khoa này đến khoa khác đều chẳng đậu. Rồi người chị rưng rưng nước mắt, tiếp: - Cha mẹ chúng cháu mất sớm, nên hai chị em cố gắng đùm bọc nuôi nhau. Nay may mắn được cụ thương tình cứu giúp cho em trai cháu…. Ông Tả Ao thấy chị em ăn ở với nhau tốt như vậy nên cũng động lòng , vừa uống rượu, vừa hỏi mộ cha mẹ anh đâu. Hai chị em liền thưa: - Thưa cụ, cha mẹ chúng cháu đều mất từ khi chúng cháu còn nhỏ. Gia đình chẳng còn ai, nên không biết rõ mộ cha mẹ ở chỗ nào. Ông Tả Ao hỏi đến mộ tổ nhưng hai chị em cũng đều không biết nốt. Thấy ông ra vẻ suy nghĩ, người chị rất đỗi lo âu, cố nằn nì, van lạy ông tìm cách giúp cho. Muốn để hai chị em yên tâm, ông Tả Ao khuyên người không việc gì phải lo ngại, dù là không biết mồ mả gia tiên ở đâu, ông cũng tìm cách giúp cho được toại nguyện. Vừa uống rượu, ông Tả Ao vừa nghĩ ngợi. Chợt ông thấy ngoài sân có một luồng khí trắng bốc lên, trước còn lờ mờ như sợi chỉ, về sau mỗi lúc càng to dần như đám khói trắng ở dưới đất đùn lên. Ông liền nghĩ ra cách dùng lối táng sống, gọi hai chị em bảo đào một cái hố ở giữa sân, sâu hơn một thước. Vâng lời, hai chị em liền vội vàng lấy mai cuốc, kẻ đào người bới, chẳng mấy lúc đã đào xong cái hố, đứng xuống sâu tới bụng. Thấy hố đã đào xong, ông liền bảo người chị tạm lánh xuống bếp rồi bảo người em ra sân đứng xuống hố, và dặn hễ thấy nóng đến đâu thì phải bảo ngay cho ông biết. Tuân lời, anh ra đứng vào trong hố,ở trong nhà , ông Tả Ao dận long mạch, lấy hậu khí phát ngay cho người học trò lận đận… Long mạch vừa dận có một chút , anh đã thấy nóng ở chân, rồi dần dần đến đầu gối, đến đùi. Cả người anh bức bối khó chịu, toát mồ hôi, nhưng anh cố chịu nóng , đứng yên. Vì từ trước anh vẫn được nghe về lối táng sống này , càng nóng lên bao nhiêu thì càng phát bấy nhiêu. Cho nên , mỗi lần ông Tả Ao hỏi anh , anh đều nói dối , đã nóng tới đùi mà anh chỉ bảo tới bắp chân, nóng đến bụng mà anh nói mới tới đùi, đến khi gần tới vai , anh mới nói gần tới bụng. Dận long mạch đã lâu, mà mới gần tới bụng, ông Tả Ao lấy làm lạ, chạy ra sờ vào người anh thì đã thấy nóng tới vai , ông gắt ầm lên, bảo sao lại nói dối. Ông vội vàng lôi anh lên, nói: - Anh dối trá thế này , sau này tuy anh làm quan to, nhưng sẽ bất đắc kỳ tử, tôi bảo trước cho anh biết. Nói xong , ông vào trong nhà lấy tay nải , cắp ô đi ngay, không nói thêm một lời. Vừa đi , ông vừa nhủ thầm :“ May mà mình đứng dậy xem ngay, chứ để nó mà nóng tới đầu thì làm vương đứt đuôi đi , mình sẽ mang tội với trời”. Và tự hối hận vì đã quá nhẹ dạ thương người , định cho nó đỗ thấp, làm quan nhỏ thôi, để đền đáp công ơn người chị. Ai ngờ , nó láu lỉnh , đã để cho khí nóng tới vai, thì sau này chắc chắn nó sẽ làm tới thượng thư là ít. Quả nhiên như vậy, từ ngày sau đó, anh đã thông minh lại càng thông minh hơn, học một biết mười; đến khoa thi , anh chiếm bảng vàng, sau được bổ làm quan đến chức thượng thư trong triều. Nhưng về sau trong nước có loạn, vua sai cầm quân đi giệt giặc, anh bị thua, chết liền tại trận. Con cháu về sau cũng được nối nghiệp làm quan, nhưng đến đời cháu chắt thì chỉ đủ ăn đủ mặc. Sưu tầm blog ================== Tương truyền cụ Tả Ao để lại 2 bộ sách về địa lý: 1/-Địa Lý Tả Ao (Địa Đạo Diễn Ca) 120 câu 2/-Dã Đàm Tả Ao Tầm Long Gia Truyền Sau này có nhiều dị bản chép lại và có nhiều tên khác: -ÐỊA LÝ TẢ AO DI THÝ CHÂN CHÍNH PHÁP. -TẢ AO CHÂN TRUYỀN DI THÝ. -TẢ AO CHÂN TRUYỀN TẬP. -TẢ AO TIÊN SINH BÍ TRUYỀN GIA BẢO TÀNG. -TẢ AO TIÊN SINH ÐỊA LÝ. -TẢ AO TIÊN SINH THÝ TRUYỀN BÍ MẬT CÁCH CỤC. -BẢN QUỐC TẢ AO TIÊN SINH ÐỊA LÝ LẬP THÀNH CA.
-
Vì sao Tả Ao không truyền "nghề" cho hậu duệ? GiadinhNet - Tả Ao được tôn là "Thánh địa lý", từng theo khoa Địa lý chính tông ở Trung Quốc và là thầy địa lý giỏi nhất Việt Nam theo dân gian. Đền thờ của ông được lập ở nhiều nơi, có cả bên Trung Quốc; sách của ông được nhiều thế hệ thầy địa lý sau này "ăn theo"... Thế nhưng tại sao Tả Ao lại không truyền "nghề" cho hậu duệ? Tả Ao chỉ là tên địa danh? Ông là thủy tổ khai sinh môn địa lý phong thủy ở Việt Nam. Các sách vở cũng như truyền thuyết đều gọi ông là Thánh Địa lý Tả Ao, Trạng Tả Ao; là đệ nhất chính tông về địa lý, giỏi như Cao Biền bên Trung Quốc. Trong dân gian lưu truyền nhiều giai thoại về hành trạng pháp thuật của ông ở nhiều làng quê. Thực ra, Tả Ao không phải là tên mà là địa danh nơi ông sinh sống, cũng như Nguyễn Tiên Điền là Nguyễn Du người xã Tiên Điền (Nghi Xuân, Hà Tĩnh). Theo sách vở và cả truyền miệng thì Tả Ao có những tên sau: Vũ Đức Huyền hiệu Địa Tiên, Nguyễn Đức Huyền hiệu Phủ Hưng, Hoàng Chiêm, Hoàng Chỉ. Ông sinh vào thời Lê sơ (1428-1527), có sách nói thời Lê – Mạc (1533-1592), thời Lê – Trịnh – Nguyễn (1592-1789), có người khẳng định ông sinh năm Nhâm Tuất (1442) có sách còn nói Tả Ao và Cao Biền thi thố tài năng (tức là đời nhà Đường ở thế kỷ IX). Tuy nhiên, qua những chuyện kể có liên quan đến Mạc Kinh Độ nên hiện nay người ta dễ chấp nhận ông sinh vào thời Lê sơ. Quê quán, có sách nói ông sinh ở làng Tả Ao (Hà Tĩnh). Có sách lại nói gốc ở Sơn Nam (vùng Hải Dương, Hưng Yên), sau đó gia đình phiêu bạt và định cư ở làng Tả Ao. Do các sách đều ghi Vũ Đức Huyền (hợp với ngoài Bắc còn miền Trung trở vào là họ Võ). Từ suy đoán này có thế chấp nhận ông sinh ở vùng Sơn Nam (Hải Dương, Hưng Yên) phiêu bạt và định cư về xã Ao Cầu (sau này tách thành 2 xã Tả Ao và Tiên Cầu), phủ Đức Quang, trấn Nghệ An, nay là xã Xuân Giang, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ở đây có đền thờ Tả Ao, giếng Tả Ao. Ở thôn Nam Trì, xã Đặng Lễ, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên có đền thờ 3 thượng đẳng phúc thần: Tể tướng Lữ Gia (Bảo Công), tướng Nguyễn Danh Lang (Lang Công) và Cao Biền (Cao Vương) và Bản cảnh thành hoàng Tả Ao. Bởi nơi đây Tả Ao đã chọn đất lập làng để làng thịnh vượng và phát triển. Tại sao ngài lại giỏi địa lý như vậy? Có 2 nguồn truyền miệng về việc Tả Ao tầm sư học đạo nên nggười. Một truyền thuyết kể rằng, Tả Ao cứu một thầy địa lý người Trung Quốc chết đuối ở sông Phù Thạch xứ Nghệ. Ông ta đem vàng bạc trả ơn, ngài không lấy. Thấy ngài tướng mạo khôi ngô và tính tình hiền hòa, ông ta đưa về Tàu truyền nghề địa lý để trả ơn. Do thông minh nên ngài thu thập được những tinh hoa trong thuật phong thủy địa lý của người thầy, về nước rồi hành trạng pháp thuật. Một giả thuyết thứ hai nói rằng, do mẹ của ngài mù lòa, nhà lại nghèo, để có thuốc chữa mắt cho mẹ, ngài đã ở không công cho người khách ngồi bốc thuốc ở Phù Thạch. Thấy ngài là người con hiếu thảo, lại ăn ở chu đáo, hiền lành, nên khi về nước, ông ta xin cho ngài đi theo. Ở đây ngài học lỏm được nghề cắt thuốc chữa mắt. Có lần ngài đã chữa khỏi mắt cho một thầy địa lý lành nghề, thấy tướng mạo tuấn tú, tính cách nhanh nhẹn hợp với nghề của thầy và cũng để trả ơn, ông xin phép thầy lang đưa ngài về nhà để truyền thuật địa lý. Do bản tính thông minh ngài đã thâu tóm được phép thuật đó về nước. Giả thuyết này về sau được người đời tin là thật hơn vì cách lí giải trọn vẹn tình hiếu thảo với mẹ (sách nào viết về ngài cũng nói có người mẹ mù lòa), hợp với hoàn cảnh nhà nghèo, nhưng lại là người thông minh, có chí học hỏi nên thành tài. Cái tài của thầy địa lý Tả Ao có bao câu chuyện hấp dẫn có trong sách vở cũng như truyền miệng dân gian, ta có thể tìm đọc hay nghe kể với các biệt tài: Xem thế đất để chọn hướng nhà thỏa mãn yêu cầu của thân chủ như sống thọ, phát tài phát lộc, phát quan, chọn nghề, sinh lắm con nhiều cháu; Chọn hướng táng mồ mả sao cho người sống được mạnh khỏe, giàu có, thành đạt; Chọn nơi đào giếng có nước lành, trong ngon, không cạn, không chạm long mạch; Chọn hướng đình để làng yên ấm trong ngoài, dân cư phát triển... Câu chuyện khẳng định cái tài địa lý của Tả Ao nhưng cũng lắm kết cục khôi hài (chứ không làm hại ai) nếu thân chủ, các chức sắc trong làng xã có những ý tưởng ngông cuồng... Nhưng sao không truyền cho hậu duệ? Tả Ao nổi tiếng bậc thầy về địa lý phong thủy, nhưng con cháu của ngài về sau thì không ai kế nghiệp được. Xung quanh câu chuyện này cũng có nhiều “dị bản” lí giải khác nhau. Có chuyện kể rằng, Tả Ao bị thầy địa lý (người dạy ngài) sang yểm huyệt táng cha của ngài nên không thể truyền nghề cho hậu duệ. Có truyện chép là một đêm nằm mộng, ngài được báo rằng “đất tốt là của quý, là bí mật của tạo hóa, nếu tiết lộ hết thì “âm” sẽ oán, nên phải tự dấu kín phép thuật”. Cũng có ý kiến cho rằng, Tả Ao có con nhưng các con bất hạnh, làm ông nản. Sau này thi thoảng mới xem phong thủy địa lý cho người khác (cũng ở mức bình thường), ông dành thời gian để chữa mắt cho dân. Tuy vậy, với 2 tập sách mỏng Tả Ao đã để lại cho đời như: Địa đạo diễn ca (chỉ 120 câu), Dã đàm (trong mấy trang văn xuôi) đã được người đời sau phát triển thành lý luận, thành gia bảo chân truyền. Trừ 2 cuốn nói trên, còn những sách khác hiểu lấp lửng là do ngài viết như: Địa đạo diễn ca (Tả Ao hiệu Địa Tiên); Dã Đàm (Tả Ao hiệu Địa Tiên) còn gọi Tả Ao tầm long gia truyền bảo đàm; Tả Ao chân truyền di thư; Tả Ao chân truyền địa lý (Hoàng Chiêm – 5 tập); Hoàng Chiêm địa lý luận; Hoàng Chiêm truyền cơ mật giáo; Tả Ao tiên sư bí truyền gia bảo trân tàng; Tả Ao địa lý luận; Tả Ao chân truyền tập (nhiều tập); Tả Ao tiên sinh bí truyền gia bảo trân tàng (nhiều tập); Tả Ao tiên sinh địa lý (nhiều tập)... Trừ 2 cuốn đầu là của Tả Ao, còn các cuốn sau là của các thầy địa lý khác phát triển về thuật địa lý Tả Ao. Với ngài, ngài không tự xưng là tiên sư, tiên sinh. Hay chân truyền, bí truyền, gia bảo vì không hợp với phong cách và hoàn cảnh của ngài. Với hiệu trong đền thờ Tả Ao là Địa Tiên (còn hiệu của Nguyễn Đức Huyền là Phủ Hưng). Hầu như các sách đều viết : “Tả Ao tên là Vũ Đức Huyền hiệu Địa Tiên, có nơi còn gọi là Nguyễn Đức Huyền...”. Trong cuốn Nghi Xuân địa chí do Đông Hồ – Lê Văn Diễn soạn năm 1842 cũng viết vậy. Cuốn Từ điển Hà Tĩnh ngoài mục Tả Ao cũng ghi như vậy, còn có mục Vũ Đức Huyền, nhưng không có mục Nguyễn Đức Huyền. Vậy ta dễ chấp nhận Thánh sư địa lý Tả Ao xưa còn gọi là Mỗ (một cách gọi dân dã), tên là Vũ Đức Huyền hiệu Địa Tiên. Sinh vào thời Lê sơ (1428 - 1527). Gốc người Sơn Nam (vùng Hải Dương, Hưng Yên), gia đình phiêu bạt và định cư ở làng Tả Ao nay thuộc xã Xuân Giang huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Có đền thờ Tả Ao, giếng Tả Ao nằm trong khuôn viên của cụm đền huyện Nghi Xuân. Võ Giáp http://www.baomoi.co...152/5781127.epi
-
Tài liệu tham khảo: Giai Thoại về Cụ Tả Ao Phần 1 : Tả ao Phong thủy nhất trên đời Họa phúc cầm cân định chẳng sai. Mắt Thánh trồng xuyên ba thước đất, Tay Thần xoay chuyển bốn phương Trời. Chân đi Long Hổ luồn qua gót, Miệng gọi Trâu Dê ứng trả lời. Ai muốn cầu sao cho được vậy Ấy ai Địa lý được như ngài. Nhà Phong Thủy nổi tiếng của Việt nam Tả Ao tên thật là NGUYỄN ĐỨC HUYỀN, người làng Tả Ao thuộc tỉnh Hà tĩnh. Cụ sống vào đời Chúa Trịnh , gia đình quá nghèo, cha lại mất sớm, mẹ bị mù nên phải tìm đủ mọi việc để giúp đỡ mẹ già. Lúc bấy giờ có một ông thầy thuốc người Tầu nổi tiếng về khoa chữa mắt, nên cụ tìm đến xin được hầu hạ thầy để thầy ra tay tế độ chữa mắt cho mẹ mình. Ông thày Tầu thấy cụ siêng năng, chăm chỉ lại thông minh nên đã truyền cho cụ một số phương cách chữa mắt. Nhờ vậy mà cụ chữa được mắt cho mẹ. Khi nghe tin ông thày Tầu sắp về nước, cụ vội vã đến xin phép thầy đi theo hầu hạ và học hỏi thêm về khoa chữa mắt. Ông Thầy bằng lòng. Thế là cụ bôn ba theo thầy Tàu và được truyền dạy tất cả những gì mà ông thày Tầu có được về nghề chữa mắt, nhất là khi ông thày Tầu đã quá già.Từ đó cụ tự chữa cho nhiều người lành bệnh mắt, danh cụ vang khắp vùng.Có một thày Địa lý nổi danh trong vùng bị đau mắt, nghe danh cụ , liền cho người dẫn đến gặp cụ. Chỉ trong một thời gian ngắn ,cụ đã chữa khỏi bệnh mắt cho ông thầy Địa lý. Thầy Địa lý mừng quá, đem vàng hậu tạ, nhưng cụ không nhận mà chỉ xin được làm đệ tử môn Địa lý Phong thủy mà thôi. Thấy người có tài đức lại có chí ham học hỏi, nên thầy Địa lý không ngần ngại đồng ý truyền hết những gì về Phong thủy mà mình có được. Chẳng bao lâu, cụ đã thành thạo tất cả những gì mà vị thày Địa lý đã truyền cho mình. Tương truyền khi học xong nghề thầy, ân sư người Tầu thử tài môn đệ trước khi "tốt nghiệp" : ông thầy chôn 100 đồng tiền xuống mô hình bãi cát rồi bắt cụ Tả Ao cắm kim vào đúng lỗ mỗi đồng. Cụ Tả Ao châm đúng giữa 99 đồng, chỉ có hơi lệch 1 đồng. Thầy Tầu than: "Thôi nghề của ta từ nay truyền sang nước Nam rồi!", ông thầy Địa lý công nhận cụ là người sáng trí, tài cao, đức trọng, nên không tiếc rẻ công sức mình truyền dạy cho. Khi dời nước Tầu về nước, cụ đã chữa mắt cho rất nhiều người, ngoài ra cụ còn đi tìm những vùng đất tốt và nghiên cứu các Long mạch, các Địa linh ở quanh vùng. Cụ không vì tiền bạc, danh vọng mà đi tìm các cuộc đất tốt cho những kẻ không xứng đáng được hưởng. Dù cụ giới hạn về khoa địa lý, nhưng nhiều người đã tìm đến cụ để nhờ cụ giúp tìm đất tốt cho nhà cửa, mồ mả, phương hướng thuận lợi cho họ. Dân chúng thời bấy giờ đã gọi cụ là cụ Tả ao ( Làng Tả ao ), danh tiếng của cụ vang đi khắp nơi và người đương thời truyền tụng cho nhau nhiều giai thoại của cụ Tả ao ngay còn lúc cụ còn sống. Một trong những giai thoại nổi tiếng nhất của cụ Tả Ao là chữa thế đất cho làng Hành Thiện ở Nam Định: cụ đi tới làng Hành Thiện thấy đất làng hình con cá chép bơi ra biển, phù sa mỗi ngày một bồi thêm đất làm làng hưng phát, chỉ hiềm con cá chép không có mắt nên không phát khoa danh. Dân làng nghe cụ nói bèn hậu đãi trà rượu và khẩn khoản xin cụ đặt lại hướng làng. Cụ Tả Ao thấy dân làng tử tế liền chỉ cho làng đào một cái giếng lớn làm mắt cho con cá chép, từ đấy dân làng bắt đầu phát khoa danh, nhất là họ Đặng. Cụ Tả Ao đi xem đất suốt từ Nghệ Tĩnh ra các làng mạc ở khắp miền Bắc và trong gia phả của nhiều gia đình còn ghi lại những công trình địa lý phong thủy của cụ. Nhiều chuyện khôi hài do quần chúng thêm thắt như chuyện cụ Tả Ao thấy dân làng kia rất xấu tính mà lại xin cụ để kiểu đất nào có thể "đè đầu thiên hạ", cụ liền tìm cho làng một kiểu đất khiến dân làng dần dần theo nghề "húi tóc" có thể "đè đầu vít thiên hạ" đúng như ý nguyện! Tương truyền cụ đang đi chơi ngoài bãi biển thấy sóng gió nổi lên ầm ầm biết là hàm rồng 500 năm mới há mồm một lần ở biển Đông, liền chạy về nhà mang cốt mẹ ra định ném xuống hàm rồng, nhưng vì thương tiếc chần chờ nên hàm rồng đóng lại, biển khép êm sóng lặng như trước! Lúc sắp chết, cụ dặn con cháu khiêng mình ra miếng đất đã định trước là đất địa tiên "nhất khuyển trục quần dương" (một con chó đuổi đàn dê), nhưng không kịp đành dừng lại nửa đường phân kim lựa cho chính mình một miếng đất phúc thần đời đời ăn hương hoa mà thôi. Tương truyền ông để lại 2 bộ sách về địa lý: Địa Lý Tả Ao (Địa Đạo Diễn Ca) 120 câu Dã Đàm Tả Ao Tầm Long Gia Truyền Sau này có nhiều dị bản chép lại và có nhiều tên khác: Địa lý Tả Ao di thý chân chính pháp Tả Ao chân truyền di thý Tả Ao chân truyền tập Tả Ao tiên sinh bí truyền gia bảo tàng Tả Ao tiên sinh địa lý Tả Ao tiên sinh thý truyền bí mật cách cục Bản quốc Tả Ao tiên sinh địa lý lập thành ca - Phần 2 Truyền thuyết về Tả Ao thành Phúc Thần như sau: Sau nhiều năm bôn ba tầm long, Tả Ao đã chọn cho mình chỗ an táng khi về già theo thế ĐỊA TIÊN"nhất khuyển trục quần dương" ( Con chó đuổi đàn dê) ở xứ Đồng Khoai . Nếu táng được ở đây thì chỉ ba ngày sau là thành Địa Tiên. Tả Ao có 1 đệ tử tin cậy và khi ông mất người trò sẽ theo lời dặn dò để an táng Thầy vào đó, nhưng khi Thầy trò từ Trung Quốc về thì trên đường không may người trò bị ốm dịch mất. Tả Ao có hai người con trai nhưng do chu du thiên hạ, không màng dang vọng, bổng lộc nên gia cảnh, con cái thì bần hàn. Lúc sáu lăm tuổi, biết mình sắp về chầu tiên tổ nên bảo hai con khiêng đến chỗ ấy, rồi nằm dưới mộ và tự phân kim lấy, dặn con cứ thế mà chôn. Mới được nửa đường, biết là sẽ chết trước khi đến nơi , không thể kịp được nên Tả Ao bèn chỉ một gò bên đường có thế "huyết thực" mà dặn con rằng: "Chỗ kia là ngôi huyết thực, bất đắc dĩ thì cứ táng ở đó, sẽ được người ta cúng tế". Hai con bèn táng luôn ở đó, sau Ngài thành Phúc Thần một làng (Nam Trì). Trong đình Nam Trì có câu đối của Tả Ao nói về địa lý, phong thuỷ Nam Trì: "Tây lộ khê lưu kim tại hậu - Đông giang thuỷ tụ mộc cư tiền" nghĩa là phía tây của đường làng có dòng nước chảy, phía sau của làng là hướng Tây Bắc (hướng tây bắc hành kim) – phía đông làng có sông nước tụ làng nhìn về hướng nam (hướng nam hành hoả). Sau này dân làng Thờ Tả Ao như Thành Hoàng làng . Phần 3Đây là giai thoại cụ Tả Ao theo cuốn Nam Hải Dị Nhân của Phan Kế Bính, nay xin đăng lên đây để mọi người tham khảo thêm. TẢ AO. Người làng Tả Ao, huyện Nghi Xuân, tỉnh Nghệ An, tên là Nguyễn Đức Huyên (có bản nói là Hoàng Chỉ). Nhân tên làng, cho nên tục gọi là Tả Ao. Lúc còn trẻ nhà nghèo lắm, mẹ phải bệnh lòa mắt, Tả Ao mới theo người khách buôn ở phố Phù Thạch về Tàu, để lấy thuốc chữa mắt cho mẹ. Thầy thuốc khen là người có hiếu, mới dạy cho phép làm thuốc. Học thành nghề mới trở về, xảy có một thầy địa lý chính tông đau mắt, sai người mời thầy thuốc đến chữa, thầy thuốc già yếu không đi được, mới sai Tả Ao đi chữa thay. Thầy địa lý khỏi đau mắt, thấy Tả Ao có ý tứ khôn dễ dạy, và cảm cái ơn chữa khỏi cho mình, mới truyền cho Tả Ao phép làm địa lý, Tả Ao học hơn một năm đã giỏi. Thầy địa lý muốn thử xem sức học làm sao, đổ cát làm ra hình sông núi, rồi yểm 100 đồng tiền xuống dưới cát, và cho Tả Ao 100 cái kim sai tìm huyệt mà cắm kim vào lỗ đồng tiền. Tả Ao ngắm xem các huyệt, cắm trúng 99 cái kim vào 99 lỗ đồng tiền, chỉ sai mất một cái cắm ra ngoài. Thầy địa lý nói rằng: - Nghề ta sang phương Nam mất rồi! Mới cho Tả Ao một cái tróc long và các câu thần chú hô thần để cho về nước Nam. Tả Ao vâng lời từ về; về đến nhà thì mẹ vẫn còn mạnh, mới chữa thuốc cho mẹ khỏi lòa. Một khi, đi qua núi Hồng Lĩnh, trông lên xem, thấy có kiểu đất “cửu long tranh châu”, mừng mà nói rằng: - Huyệt đế vương ở đây rồi! Lập tức nhổ ngôi mộ của cha, cất vào huyệt trên núi. Không bao lâu sinh được một đứa con trai. Người Tàu xem thiên văn, thấy các vì sao chầu cả về phương Nam, biết là người nước Nam được đất. Chính phủ Tàu truyền cho các nhà địa lý, ai để đất cho người An Nam, hoặc là dạy người An Nam, thì phải sang nước Nam dùng thuật mà phá đi, nếu không thì tru di cả ba họ. Thầy địa lý trước, biết chắc là ông Tả Ao được đất mới sai con sang tìm đến nhà Tả Ao, lập mưu mà triệt đi. Người ấy tìm đến nơi, vào chơi nhà mà bảo rằng: - Từ khi đại huynh ở Tàu về, đã cất được ngôi tiên phần nào chưa? Tả Ao nói thực cả chuyện trước. Con thầy Tàu mới dùng mẹo đào lấy ngôi mộ ấy, mà bắt đứa con của Tả Ao đem về Tàu. Được ít lâu mẹ Tả Ao mất. Tả Ao tìm một ngôi đất ở ngoài bãi bể, kén ngày kén giờ để hạ huyệt. Đến giờ, sóng gió ầm ầm, người anh Tả Ao giữ áo quan của mẹ, không cho hạ xuống, một lát sóng gió yên thì ở đấy nổi lên thành bãi rồi. Tả Ao than rằng: - Đây là hàm rồng đây, cứ 500 năm mới há miệng ra một lần, mà há chỉ trong một lát mà thôi. Bây giờ đã ngậm lại rồi, còn táng làm sao được nữa. Trời không cho thì chỉ uổng mất công ta mà thôi. Từ bấy giờ Tả Ao không chịu làm ăn gì cả, chỉ lang thanh đi làm đất cho người ta. Một bữa đi xem đất đến làng Bùi Sơn, huyện Hoằng Hóa, thấy có một huyệt đất hay, bèn bảo người ta rằng: “Có ngôi đất, táng giờ Dần đến giờ Mão thì phát, nếu ai táng ngôi ấy tất được của, hễ ai chịu nhường cho ta một phần chia mười, thì ta cho ngôi đất ấy”. Có một người xin táng, Tả Ao dặn đến sáng sớm mai thì cất. Táng xong mặt trời mới mọc. Người ấy vác cuốc ra rửa chân ngoài sông, thấy một người chết trôi, nhân thể có cuốc, mới vớt lên chôn cho xác ấy, thấy trong bọc người chết có hai túi bạc, mở ra đếm thì được 50 nén, mới biết Tả Ao là tài, biếu Tả Ao 5 nén, rồi Tả Ao đi. Khi đến huyện Thanh Liêm lại tìm được một ngôi, bảo người ta rằng: “Đây có ngôi đất, chỉ táng trong một tháng thì phát quận công, nếu ai cho ta 100 quan tiền, thì ta táng cho”. Có một ông nhà giàu xin táng. Bấy giờ chúa Trịnh đang đánh nhau với nhà Mạc. Tướng nhà Mạc là Mạc Kinh Độ thua trận ở huyện Kim Bảng chạy trốn. Chúa Trịnh rao ai bắt được thì thưởng cho làm quận công một đời. Ông nhà giàu ấy táng được 20 ngày rồi. Bỗng một hôm thấy có một người vào nhà bảo rằng: “Ta là Mạc Kinh Độ đây, cho ta đánh một bữa chén, ta sẽ làm ơn mà cho đem nộp lấy thưởng”. Ông nhà giàu mừng rỡ, làm cơm thết đãi. Mạc Kinh Độ ăn uống xong, cho trói mình lại mà đem đến đồn Cầu Châu nộp cho chúa Trịnh. Chúa Trịnh lập tức thưởng cho làm quận công. Người ấy được thưởng tạ Tả Ao 100 quan tiền. Tả Ao chỉ lấy 3 quan để ăn đường, rồi đi chỗ khác. Tự bấy giờ danh tiếng đồn khắp thiên hạ. Tả Ao đi chu du bốn phương, phàm 20 năm trời. Đi qua các huyện Gia Bình, Từ Liêm, Đông Ngạn, Siêu Loại, Gia Lâm, táng cho nhà nào cũng được, lớn thì làm đến Tiến sĩ, Thượng thư; nhỏ cũng làm nên giàu hùng trưởng. Kể ra nhiều lắm, không sao cho xiết. Khi đi qua làng Thiên Mỗ, thấy có một ngôi đất to, muốn táng hộ cho nhà họ Trần. Vừa đặt tróc long xuống đất, tróc long đổ ba lượt. Tả Ao niệm phù chú gọi Thổ thần lên hỏi, thì Thổ thần nói rằng: “Đất này phát ba đời quốc sư đại vương, con cháu công hầu không bao giờ hết. Trời đã để đành cho nhà Nguyễn Qui Đức; còn nhà họ Trần kia ít hồng phúc, không kham nổi được đất này; nếu ông làm cưỡng của trời thì tất có vạ. Vả lại ông đi khắp thiên hạ, làm phúc cho người ta đã nhiều, mà không được ngôi nào để táng cho cha mẹ, ông nên nghĩ thế thì biết”. Vì thế, Tả Ao từ bấy giờ không dám khinh thường để mả cho ai nữa. Tả Ao sinh được hai con trai, nhà thì nghèo mà làm đất không lấy tiền của ai, cho nên con cái thường không đủ bữa mà ăn. Khi đã già, tìm sẵn một ngôi đất sinh phần cho mình, ở xứ Đồng Khoai, gọi là cách “Nhất khuyển trục quần dương” (nghĩa là một con chó đuổi đàn dê). Nếu táng được ngôi ấy, thì chỉ ba ngày thành địa tiên. Đến lúc phải bệnh, sai hai con khiêng mình ra đấy, toan phân kim lấy rồi nằm xuống cho chôn; nhưng đến nửa đường thì đã gần chết, không kịp đến được chỗ kia, mới trỏ một cái gò bên cạnh đường, dặn con rằng: “Chỗ kia là ngôi huyết thực (nghĩa là được hưởng người ta cúng tế), bất đắc dĩ táng ngay ở đấy cũng xong”. Nói xong thì mất, bấy giờ mới 65 tuổi. Hai con đem táng vào gò ấy, quả nhiên về sau làm phúc thần một làng. Địa lý xưa nay ở nước Nam, không ai giỏi bằng ông Tả Ao, thế mà chỉ làm phúc cho người, đến mình thì không sao làm được, mà con cái vẫn nghèo khổ, thế mới biết rằng câu tục ngữ nói: “Tiên tích phúc nhi hậu tầm long”. Dịch : Tích phúc (đức) trước, tìm long (tìm long mạch; tróc long) sau. nguồn: http://hatvan.vn/for...read.php?t=4029
-
Trích lại bài của Sư Phụ Thiên Sứ =================
-
Bài 30: HÓA HỔ Sơn Vi có tên Mỗ, là người để sai khiến trong ấp, vào rừng lạc đường, gặp một ông cụ già cởi áo mặc cho và dặn đi sau. Mỗ ngứa ngáy, một lúc sau đã thấy mình hóa thành con hổ, các hổ khác kéo đến cùng mình thân cận, cùng ăn cùng ở, được thịt thì chia cho mình ăn. Một hôm về nhà, nghe thấy vợ đương khóc, Mỗ thương xót gầm lên, muốn chết, vợ sợ hãi khua thanh la để hăm dọa, Mỗ sợ phải đi. Mỏi mệt nằm trên một tảng đá, lại thấy ông già đến bảo rằng: - Xin trả lại cái áo mượn của ta ngày trước. Nói rồi, cưỡi lên bụng hổ lấy gươm rạch rồi lột da, đau đớn tưởng chết được. Ông già chợt đi đằng nào mất, nhìn lại mình đã trờ thành người ngày xưa, đi tập tễnh về nhà thì sắp đến kì giỗ đầu. Vạch lung ra, thấy hãy còn những vết long Chao ôi! Mỗ là hổ mà lại là người, người đấy mà lại là hổ. Thật lạ lung hết chỗ nói Bài 31: ĐỨA CON ĐEN Người con gái ở phố Lai Trào, thuộc trấn Hoa Dương, lấy người lái buôn nước tây đen. Sau người lái buôn về nước, nàng hỏi kì tái ngộ thì hắn nói: -Hễ 3 năm kg thấy sang, thì cứ việc đi lấy chồng Qua kì hạn ấy, nàng cải giá, làm bạn với một người là Mỗ sinh được một người con trai, da thịt đen hệt như người chồng cũ. Mỗ muốn vứt bỏ đi, bởi có người biết bảo: - Đó là dư khí hãy còn sót lại, cho nên rợ Hồ có cái tục rửa ruột. Không sao (không việc gì) đâu. Khi người lái buôn đến tìm vợ, thấy đứa con bèn kiện để đòi. Quan xử đứa con về người lái buôn, còn người vợ vẫn thuộc về Mỗ Sau nàng sinh mấy đứa con nữa, thì đều không khác thường ( không đen nữa) Bài 32: HANG NÚI Trong hồi đánh vào Miên Nam, mấy người lính đi xuyên qua rừng, thấy một cái hang. Vào xem, ban đầu thấy tối đen, nhưng sau sáng rạng dần. Có thể trông rõ được hết, một lúc nhìn trong đó có dân cư, tiếng nói ríu rít không thể hiểu. Bọn lính vì đói, phải cướp lấy cái ăn, bọn người kia phải tan chạy như chim. Một lúc họ lại tụ tập kéo đến rất đông. Bọn lính sợ phải ra, dung những tên nhọn vừa đi vừa bắn lại. Về thuật với mọi người, lại kéo vào xem thì chẳng thấy gì cả Bài 33: ANH KẺ TRỘM LÀNG LÂM HỘ Người lý – tưởng Mỗ làng Lâm Hộ, huyện Kim Hoa vốn xưa là một anh ăn trộm. Hồ thân phụ tôi Tri huyện ở huyện ấy. Mỗ nhân có việc đến huyện, kể lại hết những chuyện thiếu thời, không thiếu chuyện gì. Mỗ nói: Mỗ thường cùng tên Ất sang ăn trộm ở làng bên cạnh, đêm đi qua rừng bỗng thấy động tâm. Đến làng bên, chia nhau rình ở cổng làng. Ước chừng nửa trống canh, Mỗ nghe thấy tiếng đổ ngã huỳnh huỵch rất lớn, vội chạy lại xem. Một con hổ đương ôm Ất mà ngồi chồm hổm; Mỗ nhìn chăm chăm rồi hăng hái xông đến đánh trúng trán hổ. Hổ gầm lên mà chạy, Ất thì ngã vật ra đất, Mỗ đến gần nâng đỡ, thấy Ất hơi thở rất yếu, hai má bị cào toạc đến một tấc thịt. Mỗ hỏi, lúc lâu Ất mới nói: -Khát lắm Mỗ rón rén đi tìm thấy dưới một mái nhà có rãnh nước nông, không đủ vốc tay bèn lấy áo thấm đem lại vắt cho Ất uống. Tỉnh rồi cõng về. Đi đươc nửa đường đã rạng đông. Ất khỏi, Mỗ thôi làm nghề ăn trộm Ôi! Cứu bạn trong khi nguy cấp mà chẳng tiếc mình, đó là việc làm của những bậc liệt – sĩ đời xưa, nay lại thấy trong đám kẻ trộm, thật cũng là lạ lắm Bài 34: Ông ĐỖ UÔNG Đời Mạc, có ông Đỗ Uông, người làng Đoàn Tùng. Khi chưa đỗ, từ kinh đô về đến huyện tôi, trời đã tối, đường đi vắng tanh, không có ai qua lại. Chợt ở trong đền Thời – Cử có mấy chục quân kị kéo ra, đuổi theo sau ông. Ông đi nhanh gấp đường, qua làng Hoạch – Trạch gọi lớn: “ Bác Hoạch Trạch cứu tôi với”. Trong đền im lặng. Đến đền làng Minh Luân cũng lại gọi như vậy, thần đến đáp rằng: -“Em đới với bác Thời – Cử là tình cùng huyện, không tiện ra giúp ông anh được. Vậy ông anh nên cầu cứu với bác La Xá” Ông theo lời, đến La Xá quả có mấy tram quân giáp trụ theo ngay lời gọi mà kéo ra, quân địch sở phải chạy lui. Về đến làng Đoàn Tùng, ông đốt hương làm lễ ở sân, viết một đạo sớ đem việc ấy tâu lên thượng đế. Sớ đốt chưa xong, đã thấy giời nổi cơn sấm sét dữ dội, mưa xuống như dốc chĩnh nước. Đến sáng, nghe người ta đồn, đền Thời Cử đã bị sét đánh tan tành rồi. Ông mừng thầm. Tự tin cậy, sau ông thi đỗ bảnh nhỡn, sang đời Lê, làm quan đến Thượng Thư, sắc phong Phúc Thần Bài 35: TƯỚNG QUÂN ĐOÀN THƯỢNG Làng Hồng Thị, huyện Trường – Tàn có Tướng – Quân Đoàn – Thượng, đời Lí Huệ Tôn, cùng em con bà vú tuân lệnh đi dẹp giặc và trấn ở Hồng Châu. Nhà Lý mất, Đoàn chiếm cứ riêng một châu ấy tự giữ. Quan Thái Sư nhà Trần là Thủ Độ, bề ngoài gải vờ giảng hòa, nhưng ngấm ngầm truyền lệnh cho Hoài Đạo Hiến, Võ Vương Nguyễn Nộn đem trọng binh đánh úp. Hai bên đương đánh nhau kịch liệt, quân Trần lại từ miền Văn Giang đến đánh phía trước. Tướng quân liền bỏ Nộn, quay về chống cự phía Tây, bị nhát thương ở cổ, chỉ còn như sợi chỉ chưa đứt, phải cởi đai lung buộc lấy, tức giận hầm hầm chạy về phía Đông. Đến làng An Nhân, có một ông già đội mũ thắt đai chắp tay đứng bên đường mà nói: - Tướng quân là bậc người trung liệt, Thượng đế đã cất dụng đấy, lại chỉ một cái gò làng bên mà nói: - Đấy là nơi Ngài được hưởng sự thờ cúng xin đừng bỏ qua Tướng quân vâng nhời, đến chỗ ấy xuống ngựa, gối giáo mà nằm, liền có mối đùn lên lấp đất. Dân cư tạc tượng thờ. Đến sau sông Nhị vỡ, nước ngập tràn lan miếu đổ. Khi nước xuống, tượng giạt xuống làng An Nhân, làng An Nhân bèn dựng miếu mới để thờ, miếu ở bên bờ sông An Nhân, trước mặt trông ra hai đường cái chính hai tỉnh Đông, Bắc, uy linh hiển hách, người buôn bán qua lại khó khan, chỉ đưa mắt với nhau. Một hôm, người coi miếu bỗng ngã lăn ra đất lúc lâu rồi vùng dậy ngồi lên ghế cao, gọi những người kì cựu trong làng ra bảo rằng: - Ngày mai phải quét dọn sạch sẽ vì có Đức Vua đến thăm cảnh. Người nào mặc áo đen và đi chân không là đúng đấy. Phải chào đón Mọi người đều vâng lời. Hôm sau ai nấy mũ áo chững chạc đứng đợi dưới bến. Trời đã về chiều, mỏi mệt đã toan giải tán. Chợt bờ bên sông, có một vị sư, mình mặc áo lục thù, đằng sau có một tên tiểu đồng theo hầu, đi ngang qua cầu, đến trước cửa đền ngồi nghỉ. Mọi người đốt hương sụp lạy, nhà sư lấy làm lạ hỏi, ai nấy đem lời thần tâu lại. Nguyên bấy giờ, vua Trần Nhân Tông đã nhường ngôi cho con, tự xưng là Điều Ngự Đại Sĩ, xuất gia, tu ở chùa núi Yên Tử, bên mình mang một cái lọ, một cái bát thường đi lại trong các xóm làng, dần dần người thường chả ai biết nữa. Tối hôm đó, dừng bước ở làng An Nhân, nghe câu chuyện thần nhân báo trước, Ngài lấy làm thích, bèn ngủ trọ ở đấy một đêm, Ngài giảng bảo về lễ nhân quả, khuyên nên thể theo đức hiếu sinh của giời. Sớm hôm sau, Ngài dậy sớm và trở về Kinh sư. Đến tối, bỗng một cơn mưa to gió lớn nổi lên, rồi thần tọa quay mặt về Đông; từ đấy những người đi qua đường không còn bị tai nạn gì nữa. Lịch Triều phong tặng là là Thượng đẳng thần (Lũy cũ Trường Tân đến nay vẫn còn) http://hocthuatphuon...ic=4275.30;wap2
-
LÀNG - LẠ KỲ VIỆT NAM 1. Từ bao năm qua, làng Chánh Trạch (Phù Mỹ, Bình Định) là nguyên quán của một sản vật kỳ lạ: những quả bí đao khổng lồ. Hầu hết vườn nhà nào ở làng cũng có trồng vài giàn bí với những quả to lủng lẳng. Mỗi quả bí đao bình thường ở nhiều vùng quê khác chỉ nặng chừng 7 - 10 kg, vậy mà bí đao Chánh Trạch đều nặng từ 40 - 50 kg, thậm chí có nhiều quả dài cả mét, đường kính 0,6 mét, nặng gần 1 tạ. Chưa có ai lý giải được vì sao ở làng quê Chánh Trạch lại trồng được những giàn bí đao "khủng" như vậy. 2. Cách trung tâm Hà Nội khoảng 40km, làng Đa Chất (Đại Xuyên, Phú Xuyên) như một vùng đất lạ vì dân làng sử dụng một thứ ngôn ngữ riêng để trao đổi, nếu không phải là người dân sở tại, muốn nghe được thì phải có người… phiên dịch. Theo các bậc cao niên, làng Đa Chất vốn có nghề truyền thống là làm cối xay, để giữ bí mật nghề nghiệp, thủ thuật, những người thợ đã tạo ra một thứ tiếng riêng của mình, được truyền qua nhiều thế hệ cho đến ngày nay. 3. Theo tường thuật của báo chí, các bản làng thuộc xã Chiềng Châu, huyện Mai Châu, Hòa Bình là nơi đã xảy ra hàng chục câu chuyện “đầu thai” trong những thập niên gần đây. Đó là trường hợp những đứa trẻ sinh ra hoàn toàn bình thường, đến khi 3 – 4 tuổi lại nhận mình là …. con của những gia đình khác cách xa đến cả chục cây số, dù trước đó hai bên gia đình không có bất kỳ mối quan hệ nào. 4. Từ bao đời nay thôn Đình Tràng (xã Lam Hạ, Phủ Lý, Hà Nam) được gọi là "làng khổng lồ”. Vì vóc dáng cao lớn lạ thường của các cư dân ở nơi đây. Theo ước lượng của các cán bộ trong thôn, chiều cao trung bình của nữ giới nơi đây là 1,70m, còn nam giới là 1,80m. Hai anh em tuyển thủ bóng chuyền xuất sắc của đội tuyển Việt Nam là Ngô Văn Công (1,92m) và Ngô Văn Kiều (1,96m) đều là người của thôn Đình Tràng. 5. Ngay từ khi thành lập, làng Hành Thiện (huyện Xuân Trường, Nam Định) đã được quy hoạch không gian sống một cách độc đáo theo hình cá chép. Hình dạng này được tạo thành từ hai nhánh của một con sông nhỏ rộng khoảng 7m, được gọi là sông Con. Đây cũng là một trong những ngôi làng cổ nổi tiếng có truyền thống văn hóa được ghi nhận trong lịch sử tại Việt Nam. 6. Với hàng chục cặp sinh đôi, cặp cao nhất đã ngoài 60, cặp nhỏ nhất mới 2-3 tuổi, ấp Hưng Hiệp Nằm, xã Hưng Lộc, huyện Thống Nhất (Đồng Nai) là làng nắm giữ kỷ lục có nhiều cặp sinh đôi nhất cả nước. Vào năm 2007, cả xã Hưng Lộc có hơn 60 cặp sinh đôi thì ấp Hưng Hiệp có tới 40 cặp. Từ đó, người ta gọi ấp Hưng Hiệp với cái tên “làng sinh đôi”. Đến nay, xã có gần 100 cặp song sinh thì Hưng Hiệp đã chiếm 70 cặp. 7. Xóm Chùa ở thôn Phú Gia, xã Lộc Tiến, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên - Huế có số người mắc các chứng bệnh thần kinh cao đến mức đáng kinh ngạc, chiếm đến hơn 10% trong tỉ lệ dân số. Hàng chục đoàn nghiên cứu đã đến làng nhưng vẫn chưa tìm ra nguyên nhân của hiện tượng này. Đã từng có đề xuất dời làng đi nơi khác để tránh “mảnh đất kỳ quái” nhưng người dân không chịu… 8. Làng Tân Lập, xã Tân Trào, huyện Sơn Dương, Tuyên Quang là ngôi làng duy nhất ở Việt Nam không có liệt sĩ. Qua nhiều năm chiến tranh, từ làng Tân Lập, đã có 104 thanh niên lần lượt lên đường ra trận, nhưng chỉ có 2 thương binh và 2 bệnh binh. Người già ở đây tin rằng, họ được các vị thần linh thiêng trong ngôi đình Tân Trào phù hộ nên tất thảy chiến sĩ ra trận đều đã lành lặn trở về. Làng Tân Lập ngày nay là di tích lịch sử nằm trong quần thể Khu Di tích Lịch sử Quốc gia đặc biệt. 9. Làng Thổ Hà (huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang) vốn có nghề gốm cho nên từ nhiều đời nay, người dân tận dụng những chiếc tiểu sành (đựng hài cốt) vỡ, hỏng không bán được để xây tường. Chính bởi những tiểu sành này rỗng bên trong, lại có những lỗ nhỏ bên ngoài nên được loài ong “tận dụng” làm thành tổ của mình. Vì thế, mỗi bức tường nhà của người dân Thổ Hà có đến vài ba chục đàn ong sinh sống. 10. Ấp Xóm Mũi ở Cà Mau là nơi có hơn 80% nhà không cửa. Điều kỳ lạ là ngôi làng thân thiện này chưa từng bị… trộm "thăm viếng" bao giờ. Theo lý giải của người dân địa phương, đó là do tính cách người dân khu vực này chất phác, không tham lam, ấp lại nằm ở nơi hẻo lánh, chỉ có một con đường độc đạo dẫn vào nên kẻ trộm không dám bén mảng tới. sưu tầm
-
Tài liệu tham khảo, không phải là quan điểm chính thức của TTNC Lý học Đông phương. ===================================== 都天寶照經 黃妙應著 Đô Thiên Bảo Chiếu Kinh Hoàng Diệu Ứng trứ 上篇 楊公妙應不多言,實實作家傳,(1) 人生禍福由天定,賢達能安命,(2) 貧賤安墳富貴興,全憑龍穴真。(3) 龍在山中不出山,掛在大山間,(4) 若是沙曲星辰正,收得陽神定,(5) 斷然一葬便興隆,父發子傳榮。(6) 好龍脫劫出平洋,百十里來長;(7) 離祖離宗星辰出,此是真龍骨;(8) 前途節節出兒孫,文武脈中分;(9) 直見大溪方住手,諸山皆不走;(10) 個個回頭向穴前,城郭要周完;(11) 水口亂石堆水中,此地出豪雄。(12) 若得遠來龍脫劫,發福無休歇;(13) 穴見陽神三摺朝,此地出官僚;(14) 不問三男並五子,富貴房房起。(15) 津湖溪澗同此看,衣祿榮華斷。(16) 大水大河齊到處,千里來龍住;(17) 水口羅星鎖住門,似大將屯軍;(18) 落頭定有一星形,非火土即金。(19) 正脈落平三五裏,見水方能止.(20) 二水相交不用砂,只要石如麻;(21) 更看磷石高山鎖,密密來包裹;(22) 此是軍州大地形,細說與君聽。(23) 天下軍州總住空,何曾撐著後頭龍,(24) 祗向水神朝處取,莫說後無主,(25) 立穴動靜中間求,須看龍到頭。(26) Thượng Thiên Dương Công diệu ứng bất đa ngôn, thực thực tác gia truyền, (1) Nhân sanh họa phúc do thiên định, hiền đạt năng an mệnh, (2) Bần tiện an phần phú quý hưng, toàn bằng long huyệt chân. (3) Long tại sơn trung bất xuất sơn, quải tại đại sơn gian, (4) Nhược thị sa khúc tinh thần chánh, thu đắc dương thần định, (5) Đoán nhiên nhất táng tiện hưng long, phụ phát tử truyền vinh. (6) Hảo long thoát kiếp xuất bình dương, bách thập lí lai trường; (7) Li tổ li tông tinh thần xuất, thử thị chân long cốt; (8) Tiền đồ tiết tiết xuất nhi tôn, văn vũ mạch trung phân; (9) Trực kiến đại khê phương trụ thủ, chư sơn giai bất tẩu; (10) Cá cá hồi đầu hướng huyệt tiền, thành quách yếu chu hoàn; (11) Thủy khẩu loạn thạch đôi thủy trung, thử địa xuất hào hùng. (12) Nhược đắc viễn lai long thoát kiếp, phát phúc vô hưu hiết; (13) Huyệt kiến dương thần tam triệp triều, thử địa xuất quan liêu; (14) Bất vấn tam nam tịnh ngũ tử, phú quý phòng phòng khởi. (15) Tân hồ khê giản đồng thử khán, y lộc vinh hoa đoán. (16) Đại thủy đại hà tề đáo xử, thiên lí lai long trụ; (17) Thủy khẩu la tinh tỏa trụ môn, tự đại tướng truân quân; (18) Lạc đầu định hữu nhất tinh hình, phi hỏa thổ tức kim. (19) Chánh mạch lạc bình tam ngũ lí, kiến thủy phương năng chỉ. (20) Nhị thủy tương giao bất dụng sa, chỉ yếu thạch như ma; (21) Canh khán lân thạch cao sơn tỏa, mật mật lai bao khỏa; (22) Thử thị quân châu đại địa hình, tế thuyết dự quân thính. (23) Thiên hạ quân châu tổng trụ không, hà tằng xanh trứ hậu đầu long, (24) Chi hướng thủy thần triều xử thủ, mạc thuyết hậu vô chủ, (25) Lập huyệt động tĩnh trung gian cầu, tu khán long đáo đầu. (26) 楊公妙訣無多說,(27) 因見黃公心性拙,(28) 全憑掌上起星辰,(29) 類聚裝成為妙訣。(30) 大山喚作破軍星,(31) 五星所聚脈難分,(32) 但看出身一路脈,(33) 到頭要分水土金;(34) 又從分水脈脊處,(35) 便把羅經照出路,(36) 節節同行過峽真,(37) 前去必定有好處。(38) 子字出脈子字尋,(39) 莫教差錯醜與壬,(40) 若是陽差與陰錯,(41) 勸君不必費心尋。(42) 子癸午丁天元宮,(43) 卯乙兌辛一路同,(44) 若有山水一同到,(45) 半穴乾坤艮巽宮,(46) 取得輔星成五吉,(47) 山中有此是真龍。(48) 辰戌醜未地元龍,(49) 乾坤艮巽夫婦宗,(50) 甲庚壬丙為正向,(51) 脈取貪狼護正龍。(52) 寅申巳亥人元來,(53) 乙辛丁癸水來催,(54) 更取貪狼成五吉,(55) 寅坤申艮禦門開,(56) 巳丙宜向天門上,(57) 亥壬向得巽風吹。(58) 貪狼原是發來遲,(59) 坐向穴中人未知,(60) 立宅安墳過兩紀,(61) 方生貴子好男兒。(62) 立宅安墳要合龍,(63) 不須擬對好奇峰,(64) 主人有禮客尊重,(65) 客在西兮主在東。(66) Dương Công diệu quyết vô đa thuyết, (27) Nhân kiến Hoàng Công tâm tính chuyết, (28) Toàn bằng chưởng thượng khởi tinh thần, (29) Loại tụ trang thành vi diệu quyết. (30) Đại sơn hoán tác Phá Quân tinh, (31) Ngũ tinh sở tụ mạch nan phân, (32) Đãn khán xuất thân nhất lộ mạch, (33) Đáo đầu yếu phân thủy thổ kim; (34) Hựu tòng phân thủy mạch tích xử, (35) Tiện bả la kinh chiếu xuất lộ, (36) Tiết tiết đồng hành quá hạp chân, (37) Tiền khứ tất định hữu hảo xử. (38) Tý tự xuất mạch Tý tự tầm, (39) Mạc giáo soa thác Sửu dự Nhâm, (40) Nhược thị dương soa dự âm thác, (41) Khuyến quân bất tất phí tâm tầm. (42) Tý Quý Ngọ Đinh Thiên Nguyên cung, (43) Mão Ất Đoài Tân nhất lộ đồng, (44) Nhược hữu sơn thủy nhất đồng đáo, (45) Bán huyệt Kiền Khôn Cấn Tốn cung, (46) Thủ đắc phụ tinh thành ngũ cát, (47) Sơn trung hữu thử thị chân long. (48) Thìn Tuất Sửu Mùi Địa Nguyên long, (49) Kiền Khôn Cấn Tốn phu phụ tông, (50) Giáp Canh Nhâm Bính vi chánh hướng, (51) Mạch thủ Tham Lang hộ chánh long. (52) Dần Thân Tị Hợi Nhân Nguyên lai, (53) Ất Tân Đinh Quý thủy lai thôi, (54) Canh thủ Tham Lang thành ngũ cát, (55) Dần Khôn Thân Cấn ngữ môn khai, (56) Tị Bính nghi hướng thiên môn thượng, (57) Hợi Nhâm hướng đắc Tốn phong xuy. (58) Tham Lang nguyên thị phát lai trì, (59) Tọa hướng huyệt trung nhân vị tri, (60) Lập trạch an phần quá lưỡng kỉ, (61) Phương sanh quý tử hảo nam nhi. (62) Lập trạch an phần yếu hợp long, (63) Bất tu nghĩ đối hảo kì phong, (64) Chủ nhân hữu lễ khách tôn trọng, (65) Khách tại Tây hề chủ tại Đông. (66) Trảlời của cụ tritri Câu 7, bách thập lí (là dặm) trên điền dưới thổ, chử hán sai. 18, Ðại tướng, không dùng tương, ý nói như đại tướng đóng quân 19, thổ, không phải sỉ, chử hán sai, 22, khỏa không phải lí, chử hán sai 34, thổ, không phải sỉ, chử hán sai . thành viên Hieuky sửa lại Câu 7, 好龍脫劫出平洋,百十裏來長;(7) sai 好龍脫劫出平洋,百十里來長;(7) sửa Câu 19, 落頭定有一星形,非火士即金。(19) sai 落頭定有一星形,非火土即金。(19) sửa Câu 22, 更看磷石高山鎖,密密來包裏;(22) sai 更看磷石高山鎖,密密來包裹;(22) sửa Câu 34, 到頭要分水士金;(34) sai 到頭要分水土金;(34) sửa Đây là tài liệu tham khảo bằng cổ văn, quý vị thành viên hay đọc giả nào giỏi cổ tự xin dịch giùm thì thật quý vô cùng. http://www.vietnambu...p?TID=2980&PN=1
-
Lĩnh Nam chích quái Trần Thế Pháp Truyện Man nương Vào khoảng đầu thế kỷ thứ nhất, bên bờ tây sông Thiên Đức có ngôi chùa Phúc Thắng. Trụ trì trong chùa là nhà sư Đà La, chẳng những tài cao đức rộng mà còn có nhiều thuật phép lạ, nên được dân chúng khắp nơi kính phục, tìm đến theo học rất đông. Thuở ấy, trong vùng có một người con gái tên gọi Man Nương, cha mẹ mất sớm, lại nhà rất nghèo, cũng tìm đến chùa để theo học. Man Nương tính tình thật thà, chất phát, lại siêng năng chăm chỉ, nhưng vì có tật nói lắp không tụng kinh được, nên sư Đà La giao cho việc nấu nướng để tiếp đãi các tăng ni đến chùa. Một đêm vào giữa tháng năm, trời khi ấy đã khuya, Man Nương nấu chín nồi cháo đã lâu mà nhà sư và các tăng ni vẫn còn mải mê tụng kinh niệm Phật. Ngồi tựa ở cửa bếp để chờ, vô tình Man Nương ngủ thiếp đi từ lúc nào không biết. Khi tụng kinh xong không thấy Man Nương bưng cháo lên như mọi lần, sư Đà La bèn xuống bếp để xem sự thể thế nào. Thấy Man Nương đã ngủ say, không tiện đánh thức dậy, nhà sư liền né người bước qua để vào lấy cháo. Không ngờ chỉ như vậy thôi, mà Man Nương đã mang thai. Có thai được ba tháng thì Man Nương cảm thấy xấu hổ quá, bèn bỏ chùa ra về. Sư Đà La, sau đó cũng rời đi nơi khác. Mấy tháng sau Man Nương sinh hạ được một mủn con gái, bèn tìm đến nơi nhà sư đang tu hành để trả con lại. Sư Đà La ôm đứa trẻ, cùng Man Nương đi tới cây phù dung ở một ngã ba đường. Đó là một cây cổ thụ, cành lá sum xuê xanh tốt, lại có cái hốc rất to ở phía gần gốc. Đặt đứa trẻ vào trong hốc cây, nhà sư nói: "Này cây, ta gửi con Phật. Ngươi hãy giữ lấy, sau này sẽ được thành Phật". Nhà sư nói xong, thấy miệng hốc cây tự nhiên khép kín ngay lại. Trước khi từ giã Man Nương, sư Đà La bảo nàng hãy tiếp tục đi tu, rồi giao cho một cây trượng mà bảo: "Ta cho nàng vật này. Khi nào trời hạn, đem cắm xuống đất, tự nhiên sẽ có mưa lớn". Man Nương cung kính nhận lời. Từ đó, mỗi khi trời làm hạn hán, Man Nương lại cắm trượng xuống đất, thế là trời lại đổ mưa to. Dân chúng trong vùng thấy vậy, đều rất đỗi vui mừng và cảm phục. Một năm, trời đổ mưa to lại thêm bão lớn, làm cho cây phù dung có đứa bé ở trong, bị đổ. Cây trôi đến bến sông mà phía trên có ngôi chùa sư cụ Man Nương đang trụ trì thì dừng lại, dập dềnh ở bên mép nước. Dân trong làng thấy vậy, bèn cùng nhau mang thừng chão ra buộc vào để kéo cây lên. Nhưng lạ thay, mấy chục người, rồi sau đó mấy trăm người, cùng xúm vào, mà cây vẫn không nhúc nhích. Giữa lúc ấy, sư cụ Man Nương chống gậy từ trong chùa bước ra bến rửa tay. Thấy sự lạ, sư cụ bèn cầm vào một đầu dây kéo thử. Nhưng thật chẳng ngờ, khi sư cụ vừa khẽ chạm tay vào thì cây cũng lập tức chuyển động. Mọi người vui mừng, nhờ sư cụ kéo hẳn cây lên bờ, trong lòng ai ấy cũng đều thấy vừa ngạc nhiên vừa vô cùng cảm phục. Cho rằng cây phù dung này linh thiêng nên dân làng bàn nhau sẽ cưa ra, để tạc thành tượng thờ.Nhưng khi những người thợ mang dao, cưa đến để phát cành xẻ gỗ, thì dao và cưa đều bị quằn, mẻ, không thể làm gì được. Dân làng lại phải nhờ đến sư cụ Man Nương. Chỉ sau khi sư cụ thắp hương đặt lễ vật, khấn vái, rồi đứng ở đấy chứng kiến, thì tốp thợ mới phát cành và xẻ cây được. Họ cưa thân cây làm bốn khúc, dự định sẽ tạc bốn pho tượng thờ. Nhưng đến đoạn gốc nơi có cái hốc đặt đứa trẻ ngày trước, thì tự nhiên một tảng đá lăn ra. Vì thấy tảng đá làm cho các mũi cưa bị gãy, nên tốp thợ tức quá, hè nhau lấy gáy rìu đập lấy đập để vào, cho hả giận. Lạ thật, tảng đá vẫn trơ ra, còn các gáy rìu, tất cả đều bị quăn queo, méo mó. Biết không thể làm gì được, nhưng vẫn tức, tốp thợ lạ hò nhau bê tảng đá ném xuống sông. Nhưng thật bất ngờ, chỉ vừa chạm mặt nước, thì tảng đá lóe sáng, rồi vừa phát sáng vừa chìm xuống dưới đáy, làm cho cả một khúc sông sáng bừng lên, cùng với những quầng sáng rộng. Tất cả tốp thợ kinh hoàng, thế rồi tự nhiên, không ai bảo ai, cùng lảo đảo, loạng choạng, rồi nhất loạt ngã vật ra đất, bất tỉnh nhân sự. Tình thế thật vô cùng khẩn cấp. Những người được chứng kiến vội vã đi tìm lễ vật, hương đăng, rồi mời sư cụ Man Nương xuống tận nơi khấn vái. Lại thuê cả thợ lặn đến để vớt tảng đá lên. Chỉ đến khi các việc thật xong xuôi, mới thấy tốp thợ dần dần hồi tỉnh lại. Bốn khúc gỗ cắt ở cây phù dung ra, sau đó được tạc thành bốn pho tượng thờ. Lúc ấy nhà sư Đà La hay tin, cũng trở về chứng kiến. Ngài đặt pháp hiệu cho bốn pho tượng là Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện, ý là để cầu mong cho dân làng yên vui và quanh năm mưa gió thuận hòa, không bị mưa, bão, sấm, sét làm cho thiệt hại. Ngài lại bảo đem tảng đá vào đặt bên cạnh các pho tượng đã tạc. Thế rồi,mọi người nhìn thấy, các pho tượng tự nhiên đều sáng bừng lên, hệt như đã được dát bên ngoài bằng vàng, bằng bạc. Sau đó, theo lời dạy của nhà sư Đà La, bốn pho tượng được đưa về bốn ngôi chùa lớn trong vùng, và các ngôi chùa này,từ đấy được mang tên như của bốn pho tượng đã tạc. Riêng tảng đá, được đặt ở chính ngôi chùa có sư cụ Man Nương đang trụ trì, tức là ngôi chùa có bến sông đã vớt được cây phù dung dạo trước. Sư cụ Man Nương còn trụ trì tại ngôi chùa này mấy chục năm nữa rồi mới viên tịch, lúc ở tuổi gần một trăm. Ngày viên tịch là ngày mồng bốn tháng tư (âm lịch), đúng bốn ngày trước lễ Phật đản. Dân chúng trong vùng vừa thương tiếc nhưng cũng vừa kính cẩn, tôn xưng sư cụ là Phật mẫu Man Nương. Danh hiệu "Phật mẫu" này để chỉ, khi sinh thời cụ đã sinh ra đứa trẻ (tảng đá), sau trrở thành tiền thân của bốn ngôi chùa Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện trong vùng. Lại nói về bốn ngôi chùa này, từ khi có bốn pho tượng thờ mới, thì càng ngày càng trở nên linh ứng đặc biệt. Những năm lụt lội hay hạn hán kéo dài, dân chúng đến đây cầu đảo, đều thấy luôn luôn ứng nghiệm. Từ đấy, thiện nam tín nữ tìm về ngày mỗi thêm đông. Để tưởng nhớ Phật mẫu Man Nương, nên dân chúng trong vùng lấy ngày mồng bốn tháng tư , ngày sư cụ viên tịch, làm ngày lễ hội của cả bốn ngôi chùa. Hàng năm, cứ đến ngày này, ở các nơi dân chúng lại nô nức tìm về trảy hội, và dùng nước sạch để tắm rửa cho các pho tượng Phật trong chùa. Lâu dần, trở thành phong tục, gọi là hội tắm Phật. sưu tầm
-
Bài 25: DẬT SỰ CỦA CỤ THÁI TỂ Cụ Thái Tể Trung Thuần Công nhà tôi xưa đi công cán về , người Mạc bắt giữ lại bấy giờ xa giá về Thanh Hoa, tin tức của Triều đình đoạn tuyệt. Thượng Thư nhà Mạc là ông Trần Lịch Chiêu, người làng Hoa Thiều cùng huyện, thấy cụ là người có nghĩa khí, muốn tha cho, đêm đến ông đi qua sở giam nói phong long là giời sắp sang. Cụ hiểu ý bèn lẩn đi ra. Đến làng An Thường thì quân đuổi theo cấp bách, cụ phải trốn vào nhà người, đào hang mà ẩn, đổi lốt thành người làm mướn, gánh một gánh rau đi. Qua sông Bái, gặp một viên tướng du kích nhà Mạc là Mỗ, hắn nhìn kỹ rồi mời về nhà, làm rượu khoản đãi. Ông bỡ ngỡ không hiểu. Chợt tên ấy đưa vợ con ra lạy mà rằng: - “Năm Ngọ, Ngài ở Đài Sảnh, có người bị kiện, Ngài xử rõ được nỗi oan cho người ấy. Ngài đã quên rồi ư”. Thưa chính là tôi Bấy giờ cụ nhớ ra, cụ ở chơi đấy một đêm rồi viên ấy cũng theo cụ vào Nam Bài 26: Ông ĐÀM THẬN HUY Ông Đàm Thận Huy người làng Ông Mặc (Bắc Ninh), bà mẹ là Mỗ phu nhân sinh ra được ông và ông thứ tên là Thận Giản. Trong làng bấy giờ có một ông già người làng Tả Ao, đất Hoan Châu ( Nghệ An) đến làng làm địa lý có nhiều sự ứng nghiệm. Phu nhân nghe tiếng đến xin để hộ ngôi mả chồng. Ông già nhận lời để đất cho, nhưng cố ý trùng trình mãi. Mỗi khi đi đâu, tối đến vẫn về ở nhà họ Đàm. Một khi gặp mưa, ông già bắt phu nhân cõng mình, hai ông (con) xin thay thì ông gạt đuổi đi. Phu nhân vui vẻ cõng. Đến đêm, ông giả lén vào buổng thì phu nhân chống cự một cách nghiêm nghị. Ông già than rằng: - Đó thật là một người đàn bà tiết tháo, ta phải đền bồi mới được. Rồi ông già chọn chỗ đất tốt để mộ cho. Sau hai ông nối nhau thi đỗ. Gặp khi nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê, ông cả (con trưởng) nhân đang làm Thượng Thư Bộ Lại đem quân đánh kẻ nghịch, bị thua mà chết. Triều Lê, khi Trung Hưng, tặng tước vương và lập đền Tiết nghĩa để thờ Bài 27: Ông LÊ TUẤN MẬU Triều trước, ông Lê Tuấn Mậu, người làng Xuân Lôi, huyện Yên Phong làm quan đến chức Đô Ngự Sử. Bấy giờ Mạc Đăng Dung, do sự đánh vật mà được làm nên quan to. Ông nhiếc hắn rằng: - Anh đừng cậy sức, ta rất có thể như thế được, nhưng không them làm đấy thôi Đặng Dung tức, xin với vua cùng ông thử sức, ông hang hái nhận lời, bôi mỡ vào mình, cài kim vào tóc và khố, vật cho Đặng Dung ngã suýt chết Khi Đăng Dung cướp ngôi, ông thác bệnh không ra. Y cố mời mãi, ông bảo người đỡ vực vào triều, rồi nhổ vào mặt hắn mà chết Bài 28: Ông DƯƠNG BANG BẢN Ông Dương Bang Bản người huyện Thanh Liêm, sau được nhà vua ban tên đổi họ là Lê Trung. Tuổi già sinh được một con trai, nhờ vợ người phường chài nuôi hộ. Lớn lên về nhà nhưng không thiết học hành, chỉ cứ đi theo phường chài. Ông nghĩ vì tính nết đã quen nên không lấy làm lạ. Gặp ngày Tiên Húy, ông bị vời về Kinh, ông chiêm bao về nhà thấy những con ma tóc đỏ ngồi chễm chệ ở giường thờ, còn ông cha của ông đai mũ tề chỉnh, nhưng đều đứng giãn ra ngoài cả. Tỉnh dậy, nghĩ ra, ông cho tìm khắp chốn nhưng thuyền trôi bè nổi, lênh đênh chẳng biết là về đâu. Nhà phường chài đem công tử đi, nhập tịch ở huyện Giao Thủy, lớn lên công tử đỗ Tiến Sĩ. Khi vinh qui người làng bảo nhau rằng: - Anh chàng ở đâu, sao lại đến ở làng chúng ta Công tử nghe nói, dò hỏi những người than cố mới biết được gốc rễ Bài 29: ÔNG UÔNG SĨ ĐOAN Ông Uông Sĩ Đoan khi chưa đỗ, ở rể tại một nhà giàu kia trong làng tôi, sinh được một con giai. Người vợ dữ tợn, hễ thấy bè bạn chồng đến chơi, đều đuổi quầy quậy và nói: - Cái đồ dài lưng tốn vải ăn no lại nằm, làm gì mà ỏm tỏi, bắng nhắng thế - Gặp khoa, ông sắm sửa đi thi, người vợ keo kiệt không chịu cấp hành lí lệ phí. Ông giận dỗi vùng vằng ra đi, người ấy đuổi theo lột hết quần áo, ông phải lội xuống ao ẩn nấp. Một cô gái làng bên cạnh, cùng bà mang vải đi chợ bán, thấy thế bảo bà hỏi xem đầu đuôi ra sao, rồi xé vải tặng để ông đóng khố. Khoa ấy ông thi đỗ, bèn cưới người con gái ấy làm vợ ông. Ông làm quan trong Triều hơn 60 năm, thọ 99 tuổi Người con gái ấy được phong Chính phu nhân. Quan Bồi tụng Sĩ Lang, quan Huyện Cẩm Giàng Sĩ Thiến, quan Lại Bộ lang Sĩ Trạch đều do phu nhân sinh ra cả. http://hocthuatphuon...ic=4275.25;wap2
-
Bài 20: Ông BÙI THẾ VINH Cụ ngoại bảy đời của tôi là ông Bùi Thế Vinh, đỗ tiến sĩ trong năm Diên Thành ( 1566-1577), quan hàm Tự Khanh. Khi nhà Mục mất ngôi, ông lui về quê nhà, rồi cùng ông Đỗ Uông ở làng Đoàn Tùng, ông Nhữ Công Tông ở làng Nhữ Xá đều bị mời ra làm quan nữa, nhưng riêng ông Bùi Thế Vinh lấy dao con rạch đầu gối cáo bệnh không chịu ra. Nhân lúc ấy có bà Thường Quốc phu nhân tự thắt cổ tuẫn tiết. Hai người đều được người ta khen ngợi, nhân có lời ngạn: “ Con dao Đông luân; dây thừng phu nhân” Phụ lục: Ca dao bằng quốc âm: Loài chi mày Thượng thông, Thượng nhữ(1) Những dơ tuồng tặc tử gian thần Nào dao lá trúc Đông Luân (2) Nào thừng tiết nghĩa phu nhân kia là Chú thích: Thượng thông trỏ ông Đỗ Uông, Thượng Nhữ trỏ ông Như Công Công Tông (2) Đông Luân là tên làng ông Bùi Thế VInh Bài 21: Ông NGUYỄN CÔNG HOÀN Ông Nguyễn Công Hoàn người làng Cổ Đô huyện Tiền Phong ( thuôc tỉnh Sơn Tây) là than phụ ông Thượng Thư Bá Lân. Ông có tiếng hay chữ, lừng lẫy một thời, đối với ai ông cũng nhã nhặn, nhưng về chữ nghĩa, thì ông không nhượng ai bao giờ, đó là đặc tính của ông Ông Lê Anh Tuấn, người cùng huyện, trẻ hơn ông cùng với ông làm bạn không kể tuổi. Gặp kỳ khảo ở huyện, ông Lê trúng giải nhất, ông trúng giải hai. Ông đem văn ra so sánh, nhất định không chịu kém. Ông Lê đỗ rồi làm quan, ông không them chơi với nữa. Con ông là Thượng Thư Bá Lân, sớm hiểu thấu về văn cử nghiệp ( lối văn đi thi) sức học của ông và cha xấp xỉ ngang nhau. Ông nhiều phen bắt so tài, Bá Lân cố tránh thì bị ông trách mắng. Một lần hai cha con bới thuyền trên sông để làm văn thi, hẹn rằng ai kém thì phải ném xuống sông. Khi làm xong, ông nhận thấy văn ông hơi kém, liền nhảy xuống sông tự trầm thật; ông Bá Lân khóc lóc rồi vớt lên Một lần đến thăm quan Tể tướng Nguyễn Công Hãng, đến cổng ông đã gọi ngay tên. Người canh cổng vào báo, ông Hãng lật đật chạy ra đón rước. Xin ông làm thơ vịnh Lưu-Nguyễn vào Thiên Thai, trong tiệc rượu ông làm ngay 6 bài, đến nay vẫn còn truyền tụng Khi xuống chơi Kinh, ông làm bạn với Chân nhân Phạm Viên, ông hỏi về sự cùng đạt, chân nhân nói: Số ông không làm “ đuôi đàn cháy” ( ý nói không thi đỗ làm nên to được) nhưng con ông thì làm to Ông liền bỏ việc đời, theo chân nhân xin học tiên thuật. Vào núi Mỹ Lương, nhưng dọc đường hết lương ăn, ông đến một xóm nọ. Trong xóm có ông già đón khách vào, nhà làm thức ăn kỳ lạ đưa lên, nấu hấp một đứa trẻ lên ba tuổi để thết đãi ông, ông không dám động đũa. Chân nhân cười, gọi đem món sơn hào thết đãi. Đi không được bao lâu đến chỗ ở riêng của chân nhân, tên hầu nhỏ dọn lên món thịt chuột thối nát để uống rượu, mùi hôi bẩn xông lên gớm chết, ông lấy vạt áo che mặt không dám trông. Chân nhân nói: - Ông tục duyên còn nhiều, chưa thể tu được, liền đưa ông về Ông Bá Lân thi đỗ Hội Nguyên, cha mẹ đều còn. Các bạn đỗ đồng khoa đến họp cả ở làng Cổ Đô để mừng. Ông Hoan mặc bộ quần áo quê mùa ra tiếp khách, cười mà nói rằng: - Thằng Bá Lân nhà tôi mà đỗ đầu thì ra thiên hạ không còn ai nữa Khi ông Lê Tuấn Anh làm Tể tướng, ông Bá Lân vì việc công bị lỗi, nghĩ không nhờ cha đi nói hộ, thì không thể nào gỡ được, liền nói với cha. Nhưng ông Hoan mặc kệ không nói gì. Họp cả họ lại khóc lóc van nài, ông mới khẽ gật đầu. Rồi ông đi chân không đến dinh quan Tể Tướng, lội qua cầu hồ mà vào để chân bê bết những bùn vào ngồi chỗ công sảnh, hỏi Tướng công có nhà không. Lê Công áo dài chững chạc ra đón mời. Ông nói: - Vì chuyện thằng con, tôi phải đến quấy phiền cố nhân, một lời giúp đỡ, giá trọng nghìn vàng. Tôi không nói Tướng Công cũng lượng rõ Ông Lê vâng nhời, ông liền đứng dậy ra về. Ông Lê cố mời ở lại không được Tuổi ông càng cao, sức học càng rộng. Ông nghe ở Thanh Trì có người học trò tập văn trường Giám lần nào cũng trúng giải nhất, bèn ìm đến tận nơi. Đêm khuya vào làng, đường quanh co, phải lội qua ao, đến gõ cổng nhà người học trò mà nói: - Ta là Nguyễn Công Hoàn đây, anh ra đấy làm thi với ta nào Người học trò lật đật đi ra khiêm tốn từ chối. Ông không nghe, người ấy xin khất đến kỳ văn trường Giám, ông mới chịu về. Sau ông làm văn thi tại trường Giám, luôn mấy kỳ đều chiếm giải nhất, ông mới về Sơn Tấy Tuổi già, một lần ông đến thăm nơi thờ Thiền Sư Huyền Quang, chiêm bao thấy Thiền Sư bảo rằng: - Ông đã tìm ra được việc Bích Cơ (1), nên nghe đâu Thượng Đế tăng tuổi cho ông 1 kỷ đấy Sau quả ông được sống lâu Chú thích (1) Bích cơ là tên một người đàn bà, từng đã cáo giam là quyến rũ được Huyền Quang ( Việt Nam Phật giáo Sử lược của Thích Mật Thể, tr.172) Bài 22: Ông LÊ HỮU KIỀU Khi còn ít tuổi, ông Lê Hữu Kiều là người lãng mạn, không chịu bó buộc theo lễ phép. Ông học ông Thám Hoa Vũ Thành được ông Thám coi trọng và giao du với chân nhân Phạm Viên. Một lần ông Thám ra cho bài tập, đầu bài là: “ Về Sở, người Sở không tin. Về Hán, người Hán sợ hãi, vậy túc hạ định về đâu?”. Chân nhân đùa làm thử, nhờ ông đưa cho ông Thám chấm cho. Ông Thám giật mình nói: - Người làm văn này phải là bậc thần tiên Sai người đón mời nhưng chân nhân không đến Ông Kiều đi theo mấy tháng, chân nhân khuyên trở về. Sau thi đỗ làm quan giữ nết rất ngay thẳng, không a dua luồn lọt, nhất là ghét đạo Phật lắm. Hồi đi sứ qua Tàu, qua một căn chùa, thấy ở mái hồi lang có một pho tượng có chữ vàng là “ Bồ Tát lê Hữu Kiều”, ông bừng tỉnh. Từ đấy để tâm nghiên cứu kinh điển nhà Phật. Khi thôi làm quan, mở ra một sở tuyên giảng đạo Phật, người đến nghe giảng lúc nào cũng hàng mấy tram, phần nhiều là những người có tiếng trong rừng Thiền cả. Chúa Trịnh Minh Vương ( Trịnh Doanh) và Tĩnh Vương ( Trịnh Sâm) có ban cho nhiều vị sư được lên chức Hòa Thượng . Những vị này cũng đều là học trò của ông Bài 23: Ông NGUYỄN TRỌNG THƯỜNG Ông Nguyễn Trọng Thường người làng Trung Cần, huyện Thanh Chương ( Nghệ An). Thuở nhỏ nhờ ông ngoại nuôi nấng dạy bảo, tuổi trẻ đã biết làm văn, khi lớn lên học ở ngoài. Một đêm ông chiêm bao thấy một mỹ nhân đem trà, quả đến tặng biếu, cùng ông trò chuyện nói cười than mật. Từ đấy, thường đêm như vậy. Nhưng trải mấy năm giời, giữa hai người không có việc xằng bậy nhảm nhí. Rồi một đêm mỹ nhân từ biệt để về, ông cầm tay hỏi ngày tái ngộ thì nói: - Chúng ta sẽ gặp nhau ở trạm Phù Dung, tại hồ Động Đình Năm mười sáu tuổi đã đổ khoa Hương, sắp sửa tới Kinh thi Hội. Một hôm ông ngoại ra bài cho học trò tập, thấy trong đám đông có một chàng thiếu niên chưa đến giờ ngọ đà vào nộp quyển rồi đi ra. Ông ngoại xem nói: - Có lẽ là chân nhân Phạm Viên đùa ghẹo ta đây Rồi ông liền đặt bút đi theo. Ra đến ngoài đồng thì kịp, bèn theo chân nhân đi chơi núi Long Hổ, đến cửa ải Chấn Nam, ông quì gối thỉnh giáo. Chân nân nói: - Đây không phải là việc của ngươi. Tiền trình rộng lớn, đừng nên theo đuổi việc thừa, vô ích Liền trao cho tập số Thái Ất, hẹn sẽ trả lại ở hồ Động Đình Ông Thường thi đỗ làm quan trong ngoài niều nơi, nhưng rất ơ hờ, không lấy sự làm quan vui thú. Khi đi sứ Tàu, đem việc nhà dặn bảo con cái, rồi đem nhiều tiền của đi theo. Qua trạm Phù Dung ở hồ Động Đình, thấy ở hai bên cạnh đường có hai cái miếu, một cái đã gần đổ nát. Hỏi dân ở đấy nói: “ Cái miếu sắp đổ, thần húy là Nguyễn Trọng Thường hương tàn khói lạnh đã mấy chụn năm rồi còn cái miếu kia là thờ bà Phu Nhân” Ông giật mình bừng tỉnh ngộ, liền bỏ tiền ra nhờ người dân ở đấy tu bổ lại. Khi đi sứ trở về, thuyền qua hồ Động Đình, ông giở cái hộp đựng số Thái Ất ném xuống, cái hồ theo nước cuồn cuộn mà chìm. Đêm ngủ ở trạm Phù Quang, lại thấy mỹ nhân đến. Sáng ôm sau ông mất ở thuyền, sứ bộ đem thi hài về nước Bài 24: BÀI KÝ CHƠI NÚI PHẬT TÍCH( Chùa Thầy) Năm Bính Thìn, ngày mười hai tháng ba, tôi cùng ông Nguyễn Nghiêu Minh, ông Trần Vấn Chi, ông Nguyễn Quế Nham, ông Hoàng Hy Đỗ đi chơi núi Phật Tích. Bảy giờ sang từ cửa đô đi ra, đến trưa thì đi qua làng Kim Thi ( Làng Thìa ở huyện Kim Phượng) lên lầu chuông ở cạnh đường nhìn phía tây, trông núi Phật Tích, thấy sắc xanh xanh. Quan bến đò Đắc Sở ( Đô Giá) đến làng Thụy Khuê, ở ngụ tại đền Nguyễn phu nhân ở phủ Quốc Oai. Phu nhân là em gái bà Thái phi, vợ chúa Minh Vương Trịnh Doanh xuất giá rồi tu sửa các chùa ở làng Thiên Phúc, người dân ở đây lập đền lên thờ. Đền dựa vào núi, núi này giáp giới hai làng Thiên Phúc – Thụy Khuê sử gọi là núi Thạch Thất, tục gọi là Sài Sơn ( núi Thầy) đó là nơi chứng đạo của Từ Đạo Hạnh đời Lý. Phía tả núi là ngọn Hàm Long, hình thế cao ngất, có ao Long trì bao bọc chung quanh một cái gò dựa vào núi là chính điện chùa Thiên Phúc. Điện kề nước, do Thiền Sư họ Từ dựng nên, một gian hai chai, lối kiến trúc rất cổ. Giữa thờ Phật, bên tả là chân than của Thiền Sư, bên hữu là ngự dung vua Lý Thần Tôn. Trước ngự dung, có những tượng chim Hạc và lực sĩ Chiêm Thành, mỗi thứ đều hai, khoảng năm Vĩnh Hựu ( 1735-1740) sắc truyền chế tạo, tương truyền vua Thần Tôn triều Lê là hậu thân của vua Thần Tôn triều Lý. Hai bên cạnh chùa bắt hai cái càu qua ao: bên tả là cầu Nhật tiên thông suốt vào đền Tam phủ ở cái đảo trong ao, bên hữu là cầu Nguyệt tiên bắt dựa vào cánh tay hữu trái núi Giờ dậu lên chùa Thiên phúc, nhà sư trụ trì là Tịch Khiết mời ngồi lại nói chuyện. Tịch Khiết người làng Thiên Phúc, ăn nói nhã nhặn, bặt thiệp. Giờ tuất trở về đền phu nhân. Sáng hôm sau cùng Chân Túy Ông lên ngọn Hàm Long. Ông là con giai thứ ba của Nguyễn phu Nhân, đỗ Hương tiến nay nhập tịch làng Thụy Khuê Phía tả ngọn Hàm Long độ nửa dặm có mả và miếu thờ Lã Nam Đế, dân đấy nói là di tích của Lã Gia. Sách Thiên Nam quốc ngữ nói: “ Mả Lã Gia ở vường trúc” chưa rõ đằng nào phải. Xét trong sử ký thì Nam Đế là hiệu của của hai vua Lý Tiền, Hậu, Lã Gia chỉ là thừa tướng của Triệu Ai Vương, lời dân ấy nói hình như không đúng ( chưa chắc tin được) vậy cứ ghi vào đây để đợi bậc biết rộng ( thức giả) Ở sau lưng núi có hai cái hang: một là Bò cốc ( hang Bò) nước có cá, và một cái gọi là Thần cốc ( Hang Thần) Tiền triều đến ngự đây chơi, sai nội thần vào xem, thấy con rắn lớn lại phải quay ra Giờ Tỵ qua cầu Nguyệt Tiên, lần bậc lên núi. Trên lung núi có bia, khắc bài thơ ngự chế của Chúa Định Vương ( Trịnh Căn) lên mấy bận nữa đến chùa Thiên Phúc, riêng là nơi để Thiền Sư đốt hương tụng niệm khi trước. Trụ trì chùa này nguyên là một Nội thần của tiền triều, thấy khách đến mời đón ân cần bằng những món ăn trong núi. Trước chùa đi xuống ba bậc là vườn trúc, nay không còn trúc, trong vườn dựng bốn cây tháp. Động Phật Tích ở sau chùa, động ngoài không tối lắm, có thờ Sơn thần phía bên tả. Một cái suối từ khe trên núi chảy xuống, miệng suối có cái đầu rồng ( tức là vòi nước) từ miệng suối trỗi lên, mùa hạ thi đầy, mùa đông thì cạn. Những tấm bia, mài đá tạc thành lớn nhỏ rất nhiều, nét chữ mập mờ, đều từ thời Trung hung trở về sau cả. Khoảng giữa động, vách đá đứng sững. Xếp đá trèo lên độ một trượng đến cửa động trong, đi vào phải bò gọi là hang Cắc cớ. động trong ngang dọc ước độ 1 trượng, Thiền Sư trút xác ở đó, vết đầu trên vách đá, vết chân trên mặt đá đến nay vẫn còn, người ta thường lấy son rập in. Cạnh đấy là 1 pho tựng của Thiền Sư. Tôi có lưu đề ở động ngoài 11 chữ “ bính thin quí xuân Tùng niên phủ huề hữu đăng thử” nghĩa là tháng quí xuân năm Bính Thìn, Tùng niên Phú dắt bạn lên đấy chơi Đúng trưa lên chỏm chợ giời, mây quang trời tạnh, gió mát nhẹ đưa. Đá núi lởm chởm, cái thành hình bàn cái thành hình ghế hình lò rượu, hình chén rượu, vị trí thiên nhiên, xinh đẹp tuyệt vời. Trên đỉnh có một tảng đá phẳng. Đứng trên ngọn này nhìn ra chung quanh, các núi Phượng Hoàng, Qui Lân, Mã yên, Long Đẩu, Hoa Phát đều quanh quất chầu cả lại. Ông Hoàng Hy Đỗ đốt hơn tram cái pháo hoa, những người kiếm củi và trẻ chăm trâu ngơ ngác. Trở về động ngoài Phật tích, Chân Túy Ông và Trần Vấn Chi cùng nhau uống rượu. Vượn núi ba bốn con thập thò qua lại ở nóc điện và cành cây. Hy Đỗ, Quế Nhâm vỗ tay cười, hang núi nổi lên những tiếng vang đáp lại, Giờ mùi, xuống thăm Phúc Lâm, ở phía bắc núi, đề vài dòng chữ lên vách : “ Đang Sơn du lãm, bất giác thi hứng mãn sơn, bất năng thu thập”. Nghĩa là: lên núi chơi, xem, bất giác hứng thơ dãy núi, không thể thu nhặt lại được. Lạc khoản đề là “ Song Thanh” bác Chân Ngô đề đùa chơi nối vào rằng : “ Ngã diệc bất ước nhi hợp” . Nghĩa là ta cũng không hẹn mà hợp đúng cùng một ý Rồi lên chùa Bối Am ở chỏm núi Bối Am. Chùa, nhân cái động mà làm thành, nửa gỗ nửa đá. Theo bia ở trên vách đá thì đó là một bà Tôn Nữ họ Mạc về đời Hồng Ninh ( 1588-1590) xuất của nhà mà dựng nên. Trụ trì ở đó có nhiều sư nữ. Trên vách có nhiều thơ vịnh đề, xem qua một lượt rồi đi trở xuống. Dưới núi có hang Dũng Phật, thờ mấy toàn tượng cổ Giờ Thân, kéo Chân Túy ông, Trần Vấn Chỉ cùng đến ngồi uống rượu ở cầu Nhật Tiên. Sen trong ao mới mọc tốt tươi, biếc biếc xanh xanh, phơi phới trên mặt nước. Các ông Nghiêu Minh, Quế Nham, Hy Đỗ không biết uống rượu, ngồi bên bàn rượu uống nước trà. Đêm khuya mới trở về chỗ ngủ Ngày 14, sang sớm khởi hành lên núi Hoa Phát, ở phái tả núi Phật Tích. Trên lung chừng núi có cái gác chuông. Phật điện là chùa Hoa Phát, sư nữ Trụ trì nguyên là vợ người họ Phan, tuổi già xuất gia đầu Phật, pha trà thết khách, có cái phong vị lịch thiệp của người thành thị. Đằng sau chùa đi xuống một bực có cái tháp đá sừng sững. Từ phía tả chùa men đá đi lên đỉnh núi, thấy có một khối đá lớn bằng cái nhà, chênh vênh như cực đổ. Canh khối đá ấy có cái chùa nữa mái, gần đây do người Ô Châu ( Thuận Hóa) quyên tiền dựng nên, chùa này hiu quạnh vắng bóng người Giờ Tỵ từ núi Hoa Phát lên núi Phượng Hoàng. Núi này trông như một con chim lớn nghiêng cánh liệng chực sà xuống. Giữa mở ra một cái động đá, trong thờ Phật, hơi sương nặng chĩu ướt cả áo khan người. Trong dộng có ba cái hang, hai cái nhỏ mà nông, còn một cái lớn sâu thẳm không có đáy, tục truyền là có đường xuống thẳng địa phủ. Cửa động cây cối lòa xòa, nhân đốt lửa sưới ngồi nghỉ một chút Giờ Mùi, giã cảnh trở về phía đông. Đến làng Vân Canh ( vào ngủ nhờ nhà người anh họ của tôi là ông huyện thừa họ Phan) đêm nói chuyện về chùa Phật Tích, ông nói: - Cụ ngoa6i bốn đời của tôi là cụ Bảng Nhỡn, có bà con gái ( tức là bà cô tổ ngoại) thuở nhỏ mộ đạo Phật, chỉ đòi đi tu. Cụ Bảng tôi ép lấy chồng, Bà tự đốt hai ngón tay để tỏ chí. Hồ bà xuất gia tu ở chùa Tiên Lữ, thường sang chơi núi Phật Tích, vào hang Thần Cốc. Hang này tối đen mù mịt, ngày cũng như đêm. Đốt đuốc đi vào hai ba ngày hãy còn nghe tiếng gà, tiếng chó kêu trên mặt đất. Đi vào càng sâu càng thấy cảnh khác lạ. Ở một chỗ thấp lõm, có những xương người chồng chất, nhũ đá rủ xuống thành ra vô số hình hiểm quái: người đi, thú chạy, giường ghế giá áo ngổn ngang không biết bao nhiêu mà kể cho xiết được. Bên cạnh đường có một dòng nước sắc xanh như lam, một ông lái cầm thuyền đợi khách. Bờ bên kia trời lờ mờ sang, chợ búa, người vật không khác gì ở nhân gian. Hỏi thăm thì ông lái đò bảo chợ Âm phủ. Do con đường đá đi lên phía trước, gặp một ông già khuyên nhà sư trở về. Nhà sư không nghe. Chợt có con rắn to bằng cái vựa nằm chắn ngang đường, bấy giờ nhà Sư mới chịu quanh về. ra khỏi hang tính từ ngày đi đã được một tháng hai ngày. Sư là người tu hành có trì giới rất cao chắc không nói nhảm. Vậy cũng chép câu chuyện ấy vào đây Trên đây là kể đại lược cảnh núi còn những chuyện khác tai mắt không được tiếp xúc thì không dám nói đến Ngày 15, giờ Ngọ, Đông dã điền, Tùng Niên phủ chép Chú thích: (1) Phủ là tiếng trang nhã dung để xưng tên của người đàn ông http://hocthuatphuon...ic=4275.20;wap2
-
Bài 15: Ông ĐỖ THẾ GIAI – Ông HOÀNG NGŨ PHÚC Hai ông Đỗ Thế Giai và ông Hoàng Ngũ Phúc khi chưa gặp thời, làm bạn với một viên hoạn quan. Uy Vương ( Trịnh Giang) ốm, bọn tiểu nhân làm nát chính sự, bốn phương trộm giặc nổi lên như ong. Viên hoạn quan hăm hở nói: - Tôi xem qua vận giời và việc người, họ Trịnh sắp mất. Sao ta chẳng phù một vị Hoàng Tử vào trong rừng núi, nổi nghĩa binh như đức Cao Hoàng Hai ông nói: Không phải, nhà Trịnh có công lớn, ấy là mệnh Trời. Có lẽ lại phục hưng cũng nên. Hãy nên để thử xem, nếu không sẽ liệu cũng chưa muộn Hoạn quan sầm mặt đứng dậy, phủi áo đi. Một lúc ông Đỗ đi ra, qua phủ Lượng Quốc ( Phủ Chúa) thấy người em thứ tư ( cùng mẹ) của Uy Vương, đương ở cửa Phủ, cùng bọn nội giám ngồi ở đất chơi chọi gà, ông trông thấy kinh ngạc, về nói với ông Hoàng rằng: “ Người ấy thật là vị Chúa của ta” Bèn đem trầu rượu đến nói với người coi cổng để được vào yết kiến. Vương đệ rất trọng hai ông là người có tài năng và khí phách. Chẳng bao lâu, Uy Vương thoái vị, Vương đệ được lập, hiêu là Minh Vương. Vì hai ông đã theo từ khi vị ngộ ( Chúa chưa lên ngôi) nên Chúa hết lòng tin dụng. Ông Đỗ trông coi việc trong, ông Hoàng việc ngoài, giặc cướp các nơi đều bị bắt trừ đến hết Viên hoạn quan cùng phủ Hoàng Tôn Di Chức, Duy Mật cùng đi đánh úp được vùng Trấn Ninh mà chiếm giữ lấy, phụng Hoàng Tôn lên làm vua, hoạn quan tự xưng là Minh Quận Công, đắp thành lũy, sửa giáp binh, hơn ba mưới năm, quân ngoài biên không được cởi giáp. Chúa Trịnh mỗi khi hỏi đến việc miền tây ( Trấn Ninh) hai ông thưa: - Mưu chủ của họ hãy còn, chưa thể mưu tính được Sau Duy Chức mất, Duy Mật lên thay, Minh Quân chết, ông Hoàng liền nói với triều đình: - Nay Minh Quận Công đã chết, thì đánh lấy Trấn Ninh dễ như chẻ tre vậy Chúa Trịnh khởi binh, sai Đốc Trấn Hoan Châu ( Nghệ An) là Bùi Thế Đạt thống xuất quan quân, ba đạo tiến đánh. Duy Mật tự thiêu chết. Việc Trấn Ninh được yên từ đó Bài 16: CHÙA TIÊN TÍCH Chùa Tiên Tích ở về phía nam Kinh Thành, được tu bổ lại trong thời Chúa Trịnh – Vương ( Trịnh Sâm). Người ở kinh thành, kẻ ngâm tre gỗ, người giúp xẻng cuốc, để xây đắp, đi lại ở ngoài đường, mấy năm công việc mới xong Chùa rộng lớn, nóc chồng, cửa kép. Sân bày tám miếng đá vuông, cao chừng hai thước, trên để những chậu hoan lan, gió mát nhẹ đưa, hương bay thơm phức. Phía sau chùa thong với đường cái, đằng trước trông xuống một con ngòi nước trong. Cây tháp ở giữa phía hữu, cao chin tầng, bốn góc đeo nhạc, trang hoàng những nét vàng xanh rực rỡ. Từ phía tây đi về phía nam, vào chùa đường xe quanh co đều lát đá cả. Con cừ uốn lượn vòng chảy ra một cái hồ. Hồ sâu, rộng nước trong xanh, mùa hè hoa sen nở nhiều, mùi hương bay xa hàng dặm. Chung quanh bờ hồ cây đá chen nhau. Trước chùa về phía tả, chỗ nước cừ chảy thong ra hồ có bắt cái cầu. Dưới cầu ghe thuyền đi lại, trên cầu lợp thành mái nhà, cột rồng cuốn trên những tấm ván khắc chạm vảy rồng. Bên cạnh cầu mấy chục bước, phía nam cừ và phía bắc là hồ dựng cái ly cung để làm chỗ vua chúa ngự chơi trông những cây leo và sấu, bảy cây muỗm, trắc, thong cành lá um sùm đến nỗi ánh mặt trời không hề soi lọt. Dưới đất bày trâu đá, hươu đá mỗi thứ hai con, sừng châu vào nhau, chế tạo rất inh tế linh động. Đó là vật cũ của nước Chiêm Thành, do ông Hoàng khi đi đánh miền Nam lấy được. Bên kia hồ là nhà Kiều-nhạc-Hầu Nguyễn Khản. Hầu là bạn áo vải của Chúa, được mắc áo thường ra vào trong cung. Mỗi khi Chúa đến chơi chùa, lại đến thăm nhà Hầu và một lần đích thần chúa viết bốn chữ: “ Tâm Phúc Hòa Trung” nghĩa là long dạ ôn hòa, ngay thẳng để ban cho Trụ Trì chùa ấy là con gái bà Thái Trưởng Quận Chúa ( em họ vè ngành ngoại của Chúa). Những khi Chúa nhàn rỗi, ngự giá chơi đùa, cùng các phi tần nội thị thả thuyền chơi trên hồ, hát khúc hái sen. Sông, cây lồng ánh sang trông rất ngoạn mục, chẳng kém gì những cuộc vui chơi trong VŨ Lăng (1) vậy. Năm Ất Tỵ (1785) lính canh của nhà chùa nghe tiếng y ỷ như tiếng khóc than cực kỳ ai oán, lắng tai nghe thì tiếng ây phát ra ở trên bờ hồ, lúc khóc lúc nín. Sáng hôm sau ra xem chỗ ấy, thấy nước mắt của hai con trâu đá còn ướt mà cỏ trên mặt đất đều bị xéo bừa bãi, hình như hai con trâu đá đã chọi húc nhau. Lính canh sợ hãi, báo cáo với triều, triều đình sai thợ đá đập phá cả trâu vất vào lò lửa. Chùa hiện nay bị phá hủy, chỉ còn cỏ rậm rạp phất phơ trong ngọn gió thu , muốn tìm lấy một vài hòn ngói vụn, viên gạch nát cũng không thể tìm được. Trò đời thịnh suy thay đổi, ngậm ngùi khôn xiết nên lời Chú thích: (1) Chuyện Ngư Phủ và Đào Nguyên Bài 17: LIỆT PHỤ ĐOÀN PHU NHÂN Bà Đoàn phu nhân là vợ thứ của ông Du Lĩnh Hầu Ngô Phúc Du, người làng Trảo Nha ( Hà Tĩnh). Hầu là con nhà tướng, trong năm Cảnh Hưng, quản đốc đội quân tiền phong. Tháng 6 năm Bính Ngọ (1786) bị chết tại trận. Bà vợ cả qui y cửa Phật, Đoàn thị đẹp mà không con, được Hầu coi như vợ chính. Hầu mắc nạn chết, Đoàn phu nhân vẫn cười và nói như thường; người nhà đều lấy làm lạ. Chưa bao lâu, phu nhân đem vệc nhà dặn dò người nhà Hầu, rồi đến lập một đàn chay ở chùa Kiến Sơ làng Phù Đổng, chỗ tu của bà vợ cả. Làm chay xong, phu nhân cùng bà vợ cả cùng lũ con của Hầu ra đặc bài vị ở bến Thúy Ái, nơi Hầu chết trận khi trước, ngoảnh về phía Nam chiêu hồn để tế, mọi người gần xa kéo tới xem đông lắm. Đoạn phu nhân ăn mặc chải chuốt, son phấn điểm trang, bơi một chiếc thuyền con ra giữa dòng, gieo mình xuống nước mà chết. Dân ở đấy lập miếu thờ Ông Huấn Đạo An Nhân Hà Sách Hiển có thơ vịnh rằng: Khả liên nhị bách dư niên quốc Thiên lý dân di nhất phụ nhân Dịch: Khá thương nước cũ hai trăm lẻ Giữ được di luân chỉ một bà Diễn nghĩa: Thương thay một nước dựng lên đã hơn hai tram năm ( nói triều Hậu Lê) mà đến lúc mất, chỉ có một người đàn bà giữ được lẽ giời và đạo làm người mà thôi Bài 18: NGƯỜI LÀM MƯỚN Ở KINH THÀNH Tại kinh thành có một người làm mướn đến làm cho Phạm chân nhân. Hắn kêu nghèo khổ, xin chân nhân cứu giúp. Chân nhân im lặng, bảo chìa bàn tay hữu ra, ngầm đọc chú và vẽ bùa vào, dặn sau này khi nào gặp lúc cùng quẩn, nên ngửa bàn tay ấy để xin tiền, có thể được 36 đồng. Anh phúc bạc, đừng nên lấy quá. Người kia theo lời, nhưng một hôm lại xin liền mấy lần được đến 5 quan mới thôi, nên lần sau thử không linh nghiệm nữa Bài 19: Ông LÊ TUẤN ANH Ông Lê Tuấn Anh khi cầm quyền chính trong nước, bà phu nhân từ làng Thanh Mai đến Kinh, đi qua làng Đắc Sở(1) ngủ trọ ở nhà cạnh đền quan Tướng quân Lý Phuc Man nằm mơ thấy tiếng quân hầu dẹp đường rồi có người nói là bà phu nhân của quan Tướng Quân họ Lý và thăm. Khi ngồi chơi, Lý phu nhân nói; - Phu nhân đối với tôi là chỗ quen biết, tôi muốn nói xin một điều, mong Qui phu nhân y cho. Bà xin vâng Lý phu nhân tiếp: - Nhờ phu nhân nói với Tướng Công hộ rằng: nhà cũ của chúng tôi đã nát, xin lưu ý cho Bà hỏi duyên cớ, Lý phu nhân nói: - Ông Lê Anh Vũ triều trước và ông Lê Anh Tuấn bây giờ đều là thân sau của tướng quân tôi. Quí phu nhân quên ư? Lê phu nhân vâng lời rồi tỉnh, đến Kinh nói với ông Lê. Ông tự bỏ tiền ra sửa chữa đền ấy. Nay đền hãy còn Chú thích: (1) Làng Đắc Sở: Tục gọi là làng Giá, thuộc huyện Đan Phượng tỉnh Hà Đông bây giờ http://hocthuatphuon...ic=4275.15;wap2
-
Gửi tác giả Viên Như, Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông phương, cũng như Sư Phụ Thiên Sứ rất hoan nghênh những nghiên cứu tìm về cội nguồn Việt sử gần 5000 năm văn hiến. Do vậy Trung tâm cũng như Sư Phụ rất trân trọng bài nghiên cứu của tác giả Viên Như. Thiên Đồng tôi cũng lấy làm thú vị khi đọc bài nghiên cứu của tác giả Viên Như, tuy nhiên có vài điểm còn chưa tường cho lắm. Cụ thể, nội dung chính của bài viết giải mã về mặt trống động có ẩn chứa độ số Hà Đồ. Nhưng khi đọc bài phần tích, tôi cũng chưa thấy giải thích chưa được rõ lắm. Vì vậy tôi cũng chia mặt trống đồng như gợi ý của bài viết để tìm xem có sự hợp lý nào giữa hình họa trên trống đồng với độ số Hà Đồ? Kết quả như sau: Tôi xin quay lại cho phù hợp với cách nhìn bản đồ địa lý hiện đại ngày nay. Nhận xét như sau: Trên: Có 6 hình người phù hợp độ số 6 của phương Bắc, theo Hà Đồ. Dưới: có 7 hình người phù hợp với độ số 7 của phương Nam theo Hà Đồ Trái: Có 8 hình người Phải: Có 9 hình người Như vậy vấn đề đặt ra là: Nếu là Hà đồ thì Trái là phương Tây phải là độ số 9. Phải là phương Đông phải là độ số 8. Vậy thì giữa cấu trúc số lược hình trên mặt trống đồng có sự sai biệt không khớp với cấu trúc Hà Đồ. Như thế vả chăng tác giả đã nhìn nhầm hoặc chưa giải thích rõ? Nếu tác giả Viên Như có theo dõi trang diễn đàn Lyhocdongphuong thì mong rằng tác giả giải thích thêm về bài viết trên cho tôi cùng các đọc giả rõ hơn. Trân trọng Thiên Đồng
-
Bài 10. Ông NGUYỄN CÔNG HÃNG Quan thượng thư Nguyễn Công Hãng là một văn tướng nổi danh đời Chúa An Vương ( tức Trịnh Cương), đỗ Tiến Sĩ năm 21 tuổi, làm đến Đốc Trấn An Bang ( nay là tỉnh Quảng Yên). Trấn này lưng dựa vào núi, mặt trông ra bể. Vua Hồng Thuận khi trước đã có câu thơ khắc vào đá như sau: Cự tẩm uông đương triều bách xuyên Dịch: Trăm ngọn sống châu về bể rộng mênh mông Ông chép đưa các bạn đồng niên xem, nhưng lầm chữ CỰ ( lớn) ra chữ TÁP ( vòng quanh) nên bị chế giễu. Ông từ quan lui về khảo cứu, học lại các điển cố, luật lệnh sổ sách của Triều đình. Vài năm học xong, hiểu biết rộng hơn lại ra làm quan. Phàm gặp việc gì ngang trái ở trong Triều ông đều can ngăn, lời nói tha thiết, thẳng thắn khiến chúa giận nhưng cũng phải nguôi như cơn mưa tạnh Trong một bài Khải, tạ từ khi đi sứ, ông đã có câu: “Xoa dịu vẩy rồng, làm tan được mấy cơn sấm sét” Ấy là việc có thực Năm thứ 57 đời Nhà Thanh, niên hiệu Khang Hy, ông làm Binh Bộ Tả thị Lang gặp ký tuế cống, được sang làm chức Chánh Sứ. Khi xưa Đức Thái Tổ Hoàng Đế giao chiến với quân nhà Minh ở núi Mã Yên(1) có chém chết viên tướng nhà Minh là An Viên Hầu Liễu Thăng, người nhà Minh buộc phải bồi thường nộp cống bằng vàng để đền mạng Khi nhà Mạc cướp ngôi, nhà Minh sai Cửu Loan và Mao Bá Ôn sang đánh. Mạc sợ lại xin dâng cống người bằng vàng để cầu hòa. Đầu năm Trung Hưng, nhà Minh lại viện cớ đã giết công thần của họ là Mạc Mậu Hiệp, bắt ta phải đúc người bằng vàng dâng cống để tạ lỗi rồi dần dần thành lệ. Nay ông xin bãi bỏ lệ cống hiến đó Sau các Bộ, Viện bên Trung Quốc lại đem các việc cống đó ra hỏi, ông nói: -“ Quốc Vương tôi ngày nay theo giữ nghiệp cũ, vẫn không trễ nãi việc chức cống, còn các việc thâu thành nạp khoản thì kẻ sứ thần này không dám biết đến” Sau họ lại hạch đến chuyện Liễu Thăng bị giết, ông nói: -“ Liễu Thăng là một viên tướng nhà Minh, nay Hoàng Triều nhà Thanh bao gồm có hàng muôn nước, can chi phải nhắc đến chuyện cũ, yêu sách mọi điều, để trả thù một người. Sao đủ để khuyên răn người theo qui thuận.” Lại còn bắt cống hũ nước rửa ngọc trai lấy ở giếng Loa Thành ( theo sự tích Trọng Thủy-Mỵ Châu) ông cũng bỏ đi, mà lấy nước giếng ở Ba Sơn đem cống, họ thử không thấy hiệu nghiệm liền trách, ông nói: -“Đó là vì khí mạch của Trời-Đất, lâu ngày ắt phải đổi” Từ đó, hai thứ cống hiến ở trên được miển là bắt đầu từ ông vậy Khi đi Sứ về, ông cùng ông Thanh Mai, Lê Anh Tuấn cùng làm Tể Tướng khảng khái coi việc thiên hạ như việc mình, nghiên cứu kỹ lưỡng trong mọi phát minh sáng tạo, bao nhiêu qui mô trong chốn Đài Các ( trỏ các cơ quan tổ chức hành chính) kể có hơn trăm nay đều do ông sửa định Xét ra từ thời Trung Hưng, những thể thức về mũ áo các quan chửa được chánh đáng, ông liền nhân khi đi sứ, tìm hiểu về các phẩm phục của nhà Minh để về sửa đối cho phù hợp. Phàm các mũ-áo đại triều như mũ phốc đầu, áo bổ phục (2), nền đỏ là trên hết, thứ đến xanh huyền. Những y phục ngày thường: Quan văn chít khăn lương câu, quan võ chít khăn yến vĩ, áo thanh cát ( hai vạt trước vén lên buộc vào sau lưng), các quan dưới chít khăn chữ đinh, quân phục thì nón chớp kiểu thầy chùa, áo chẽn tay. Những lối y phục đó nay hãy còn dùng Ông lại hay khích lệ tiết tháo của các sĩ phu, những học sinh trường Giám được phép ngồi ngang hàng nói chuyện với các quan. Ông muốn bắt chước lối Chế Nghệ của Bắc Triều, thay đổi các thể văn để luyện thi học trò nhưng việc chưa thành Thấy kinh phí nhà nước không đủ, ông đề nghị giảm bớt số ruộng quân cấp cho các Công Thần, việc này ông bị số đông Công thần oán trách Khi đó, Chúa Trịnh lại muốn mở Phủ như đầu đời Trung Hưng ( việc cũ của ông Nguyễn Duy Thời) nhưng ông can đi, mới thôi Trong hồi ấy, Uy Vương ( tức Trịnh Giang) làm Thế Tử, An Vương cử ông làm chức Thái Phó ( thầy dạy) ông liền làm tờ Khải (3) mật tâu Chúa rằng: “ Thế Tử là người nhu nhược, không kham nỗi việc lớn” An Vương ( tức Trịnh Cương) nói: -“ Không phải ta không biết như thế, nhưng từ ngày Thế Tử được tạm cầm quyền bính, chưa hề phạm lỗi lầm lốn, nên ta không nỡ” Ông cúi đầu tâu: -“ Biết con không ai bằng cha, kính xin Chúa Thượng vì xã tắc mà lo tính” Chúa Trịnh liền cất tở Khải của ông vào hộp. Một hôm nhân kỳ đại lễ, Thế Tử là lể sai lầm, Chúa giận, cho vời các quan họp bàn, định truất ngôi Thế Tử. Việc chưa thành thì Chúa mất ở dọc đường trong khi sang chơi Cổ Bi. Lúc đó ông ở Kỳ Viên, phi giấu không phát tang. Khi về Kinh, mới báo tin dữ, ông liền họp các quan ở Đô Đường mà rằng: -“ Thế Tử có lỗi lớn, Tiên Vương đã có nói. Nay xin lập con lớn lên nối ngôi, các quan còn đang ngồi yên chưa tỏ ý kiến thì ông Nguyễn Hiệu, hiệu Lan Khê, thầy học của Thế Tử chống lại mà rằng: -“ Thế Tử có lỗi gì đâu. Tiên Vương nói đó là để cho Thế Tử gắn sức tốt hơn chớ nên khinh thị bàn đến việc đó” Thế tử lên nối ngôi, bắt được tờ Khải của ông, bãi chức và bắt ông đem ông đi an trí tại vùng Tuyên Quang, rồi lại sai Trung sứ đánh thuốc độc cho chết Hồi trước, Trịnh An Vương thấy kiểu đất nhà mình có câu “ Truyền ngôi được tám đời, thì sẽ thấy đại họa ( tai vạ lớn) nổi từ vách ra” nên mới bày ra cuộc xây dựng ở Cổ Bi để yểm trừ tai vạ. An Vương thường bảo ông rằng: -“ Cửu Long có kiểu đất quí, Tiên sinh nên đem phần mộ tổ tiên đến mà táng, đừng để người khác chiếm mất” Vì thế ông bị nhiều người ghen ghét gièm pha Khi ông đi sứ Tàu, qua thành Ứng Sơn có làm bài thơ viếng Trung Liệt Công (4) là Dương Thúy Am, trong có 2 câu rằng: Ám chúa hưu luân sùng ái thụ Hoàng thiên hà nhẫn độc trung thần Xin dịch nghĩa như sau” Viên Quan thị ( ái nam ái nữ) mà được Ám chúa thương yêu thì có đáng kể gì, chỉ trách: Hoàng Thiên sao nỡ hại kẻ trung thần Câu đó thật là ứng nghiệm vào cuộc đời của ông (nguyên trong bài sấm có ghi: Ông tổ 5 đời của Trung Liệt Công là người nước ta, theo quân Minh sang Tàu nối đời ở thành Ứng Sơn, thuộc tỉnh Hồ Bắc. Trung Liệt Công, tên là Liên đỗ tiến sĩ triều Minh, làm quan đến Tả Đô Ngự Sử rồi vì hặc Ngụy Trung Hiền mà bị hại. Sau được truy lập bàn thờ ở nguyên quán, đến nay hãy còn. Khi ông đi sứ, con cháu có đem những đạo sớ cũ còn sót lại cho ông xem) Đời còn truyền tụng rằng: Lúc sinh thơi có một thầy xem bói triết tự vào thăm, ông viết mấy chữ sau nhờ đoán: Thập nhị nguyệt hoa tàn (Tháng mười hai, hoa rụng) Ông thầy bói xem triết tự khuyên ông nên xử sự theo lối ( cấp lưu dũng thoái), ông im lặng chẳng nói gì, Chẳng được bao lâu thì xảy ra tai vạ Ông thầy này không ai rõ họ tên, chỉ thường hay đi lại các nơi tư thất của những bậc công khanh, quyết đoán nhiều câu rất ứng nghiệm Đến cuối đời Long Đức ( Lê Thánh Tôn) Vua Hiến Tôn là con nối nhưng không được lập làm Vua, đến ẩn trốn trên gác chuông chùa Phật Tích, cũng gặp ông thầy Triết tự này, nhờ xem hộ và viết một chữ Cảnh, ông thầy phục xuống lạy mà nói: “ Mặt trời rọi xuống kinh đố(6) là biểu hiện của bậc Thiên Tử rồi” Quả nhiên, sau vua Ý Tôn nhường ngôi, Hiến Tôn được lên ngôi vua, đặt niên hiệu là Cảnh Hưng Một thuyết nói: Khi ông làm Tể Tướng, có một ông quan trong Triều bị bệnh gần chết? Người nhà đến cầu đảo tại đền Tản Viên, rồi lại nằm mơ thấy có Thần bảo: “Việc sinh tử do Tòa nam Đẩu trông coi, không phải phần việc của ta” Người nhà cố cầu xin, Thần lại bảo” “ Tướng công Nguyễn Hãng là bậc dị nhân, sao không đến kêu với ông” Tỉnh dậy người nhà đến yết kiến ông, kể lại câu chuyện, ông liền bảo cho sống thêm 1 kỷ nữa(7). Sau quả như lời Chú thích: (1) Mã yên nay là tỉnh Lạng Sơn- Bắc phần (2) Phốc đầu, là mũ có cánh chuồn, Bổ phục là áo có miếng thêu ở đằng trước và đằng sau, để nhận định các cấp bậc của quan văn, quan võ (3) Tờ Khải là tờ sớ của các quan dâng lên Chúa Trịnh (4) Trung Liệt Công ( xin xem lời ghi trong bài sấm ở trên) (5) Cấp lư dưỡng thoái là dòng nước đương chảy xiết thì phải cấp bách ngừng lại, ý nói thôi làm quan nên cáo về (6) Chữ Cảnh, trên có Nhật là mặt trời, dưới có chữ Kinh là Kinh đô. Cả chữ trên dưới có nghĩa là mặt trời trên Kinh đô, nên ông thầy đoán là mặt trời rọi xuống Kinh đô, là điềm tốt, là lên ngôi Vua (7) Kỷ: 12 năm Bài 11. Ông NGUYỄN BÁ DƯƠNG Ông Nguyễn Bá Dương, người làng Nguyễn Xá, huyện Thần Khê, tính không tự giữ kềm chế, hay uống rượu. Nhà nghèo nhưng ông vẫn coi như không. Hồi ông lên học ở Kinh đô, ngoài tấm áo che than, không còn một vật gì đáng giá. Thường uống rượu chịu của một người đàn bà ở làng Kẻ Mơ ( tức là làng Hoàng Mai ngày nay gần Hà Nội). Ông nợ tiền rượu đến 900 đồng, bị người đàn bà đón đường đòi nợ. Có cô con gái người làng Kẻ Mơ cùng đi với người đàn bà đó, thấy thế vội vã đặt gánh xuống, can người đàn bà không được, liền lấy tiền lưng ra trả hộ, rồi vội quẩy gánh đi. Ông chạy theo tạ ơn, rồi hỏi họ tên, cô xua tay nói: -“ Tôi thấy cậu là người học trò vì rượu chè mà bị xấu hổ với một người đàn bà, nên không đành lòng mà trả hộ, chứ không mong sự đền báo” Nói rồi đi thẳng không ngoảnh lại. Ông trở lại hỏi người đàn bà đòi nợ để rồi ghi vào lòng. Sau lên học ở Sơn Tây, trọ nhà người hào trưởng. Thường ngâm nga rồi làm văn, nhiều khi không sẵn giấy, viết lên cả mặt án thư, son mực lẫn lộn, màu gỗ đen nhèm Đến kỳ thi Hương, ông từ biệt nhà trọ về quê đi thi. Qua các kỳ thi hạch ở Huyện và ở Trấn, ông đã nức tiếng là người hay chữ. Khoa ấy ông thi đỗ Hương tiến, năm sau lại đỗ Tiến Sĩ, cùng khoa với ông Ngô Thời Sĩ. Các bạn thi đậu, ai nấy đã xe ngựa, tôi đòi rộn rịp nhưng ông vẫn nằm khoèo ở nhà trọ. Có bà phu nhân người cùng một quận với ông ( làm bảo mẫu cho Quận Chúa) nghe tin ông đỗ, sai người đem kiệu đến đón, hứa gả con gái cho, bà đưa mấy chục con cháu, đứa nào cũng tha thước gấm là cho tùy ông kén chọn. Nhưng ông chỉ một mực đòi lấy cô gái Làng Mơ , Quận phu nhấn nói: “ Cũng được” Bèn sai đem xe ngựa, vàng lụa đi đó cô gái Làng Mơ về làm vợ chính, còn người cháu gái Quận phu nhân làm vợ thứ. Người ở Kinh đô đều nức nở khen Làm quan tại triều, ông được tiếng là thẳng tính. Khi giữ việc hình án ở Ải Châu ( Thanh Hóa) có viên Án trấn Mỗ cậy thế chính cung Đặng Phi làm càn. Ông bắt trói, bắt phải bồi hoàn, nếu không sẽ đánh trượng cho chết. Mỗ phải nộp số tiền đã ăn đút lót là 400 lạng vàng. Ông bỏ Mỗ vào ngục rồi cho xe về Kinh, đem vàng lễ ấy dâng nộp. Tờ khai trình đến Chúa Trịnh, Đặng Phi nghe tin việc Mỗ bị nhục, khóc kêu với Chúa, Chúa cười mà rằng: -“Số vàng hiện đủ đây, còn kêu oan gì nữa” Phi hổ thẹn không dám nói và lui. Mỗ đành phải chịu tội. Người châu Ái đến nay hãy còn khen và nhắc đến chuyện đó Có người kể chuyện rằng, khi chưa đỗ, ông du học ở Kinh đô, một hôm gặp Bình Trung Công, người ở Diên Hưng đang chống gậy đứng ở cửa tư đệ, thấy ông chợt hỏi, rồi trỏ bức bình phong có hình cây thông và đá đặp ở trên tường bảo ông đề một bài thơ, ông liền đề ngay bài tứ tuyệt như sau: Thạch thượng thanh tùng bách xích trường Phi hoa mãn động thủy sinh hương Đinh ninh tiều tử hưu khinh phạt Lưu thủ tha niên tác đổng lương ( Trên đá thông xanh trăm thước trường Hoa bay đầy động nước đưa hương Dặn dò tiều tử khoan tay chặt Dành để năm sau nối cột rường ( Bá Hồng Thiên dịch) Giải nghĩa: Mấy vần thơ trên tả cảnh thông, đá, hoa động nhưng ngụ ý nói một vị quan to, lương đống của triều đình Bình Trung Công xem thơ khen là người tài và ban thưởng rất hậy Mãi đến cuối niên hiệu Cảnh Hưng, bài thơ đó vẫn còn Bài 12. QUẬN MÃ ĐẶNG LÂN Quận mã Đặng Lân là em trai bà Tuyên Phi của Chúa Tĩnh Vương ( em cùng mẹ), thường hay làm điều phi pháp. Y true ghẹo một người đàn bà không được, liền cắt vú người ta. Người chồng đi kiện, bị bắt giam vào ngục Ngự Sử Đài, sau vì có Phi xin cho nên được tha. Tĩnh Vương đem nàng Quận chúa thứ hai gả cho Lân. Các đồ trang sức và của hồi môn, so với tiền Triều, xa sỉ gấp hơn mười lần. Biệt thự dựng ở phía tây nam Kinh thành Thăng Long, các thứ vật dụng như của một vị Vương giả. Lân đắc chí càng càn rỡ, nuôi trong nhà hơn trăm tiểu đồng, thường cho đội mũ đeo gươm, ra ngoài chợ chè rượu bê tha, làm hại mọi người, quan Kinh Doãn không kềm chế nổi. Mỗi khi Lân đi ra, đem theo mấy chục con chó săn con nào cũng đeo nhạc vàng, khoác áo thêu, chạy trước chạy sau, cản cả đường lối. Một hôm, nhân cơn tức giận, Lân giết chết nội giám là Sử Thọ Hầu, rồi cắm thanh gươm ở trước cửa, không ai dám vào bắt. Quan Thự Phủ, quận mã Hoàng Bỉnh Khiêm đến quát mắng, Lân mới sợ không dám động, bèn sai cùm lại bắt tống ngục. Đinh thần đủ mặt họp bàn không biết quyết định ra sao, sau cùng xin với Phi đày Lân ra An Quảng. Lân vâng mệnh cùng kẻ tùy tùng trước sau đi ra khỏi cửa kinh. Nhà chức trách sắm sẵn ghe thuyền để sẵn ở bền song Nhị Hà, để cho y ra nơi bị đày, nàng hầu vợ lẽ đi theo rất nhiều, tiếng đàn sáo véo von không dứt. Ra đến nơi, quan địa phương phải làm nhà cửa cho y ở Khi con của Phi là Cung Quốc Công ( Trịnh Cán) bị phế. Quan coi giữ, bắt Đặng lân giam vào ngục, rồi y nhịn ăn mà chết Bài 13. THÀNH ĐẠO TỬ Thành Đạo Tử người ở Sơn tây, tuổi trẻ thi đỗ Hương tiến, rồi chán nghề thi cử, ngao du sơn thủy. Sau gặp chân nhân Phạm Viên đi theo, núi cao song lớn, vết chân trải qua hầu khắp. Một hôm cùng với hai người đạo hữu đi theo chân nhân ra chơi biển cả. Giữa lúc sóng to gió lớn, bỗng thấy một con đường quanh co khúc khủy dẫn tới một trái núi, cây cỏ um tùm, lại có những quả đào to bằng cái đầu. Chân nhân ngồi tạm nghỉ và nghiêng bầu uống rượu, cho mỗi người mấy quả đào và bảo đừng ai giấu hạt đem về. Kẻ theo hầu đều vâng nghe. Rượu uống xong, chân nhân ra đi, Thành Đạo Tử đi sau, cho là Chân nhân không thể biết, liền giấu hạt đào trong người. Rồi lẩn quẩn nữa ngày không tìm được đường đi ra, nghĩ có lẽ vì hạt đào giấu trong người, bèn lấy vứt đi, mới đi ra được khỏi núi. Chân Nhân đang ngồi ở phía trước ngồi rót rượu uống, thấy Thành Đạo Tử đến cười mà bảo rằng: “ Sao đi chậm thế” Rồi Chân nhân lấy 1 quyển sách, bí mật trao cho, đoạn cùng với mấy người theo hầu phơi phới bay vụt đi mất Thành Đạo quay về, lang thang khắp nơi sơn thủy, một hôm cùng với đồ đệ đi chơi dọc đường vào gõ cửa một nhà, hỏi thăm chủ nhân. Người coi cửa mỉm cười nói: - Chủ nhân tôi mắc chứng đau tim, bùa dấu tốn kém nhiều chưa khỏi. Chẳng hay tiên sinh có chữa được không? - Thành Đạo đáp chữa được. Người coi cửa mừng rỡ vào báo với bà chủ. Bà chủ mừng rỡ mời vào làm rượu thết đãi và sai người sắm sửa đạo tràng. Thành Đạo ngăn đi mà rằng: - Không cần. Kìa, trên nóc nhà có một con mọt ma nó cầm giáo mà đâm vào tim người bệnh. Bây giờ bắt một con cóc treo lên dọa nó tự khắc nó phải lui Nhà chủ nghe lời làm theo, quả nhiên bệnh khỏi và đưa biếu rất hậu nhưng Thành Đạo nhất định không lấy Thành Đạo lên chơi núi Thu – Tinh, cầm đuốc vào soi trong hang, giữa đường đuốc tắt tối om không biết lối nào mà ra. Trong hang có những tảng đá nát nhũn như bùn, ăn vào rất thơm ngon và khỏi được đói. Sau thấy có một cái kiệu đi qua, ẻ theo hầu rộn rịp. Đến xem thì thấy người đi kiệu là một người bạn học cùng ở với mình khi trước đã chết. Người ấy giật mình hỏi: - Đây là nơi cửa ải của người và ma chia cách nhau. Sao bác lại đến được đây? Người bạn cởi áo mặc cho, Thành Đạo thấy trước mắt dần dần sang sủa lên, bèn theo lối đó mà đi ra khỏi hang. Về đến nhà thì người nhà tưởng là đã chết nên đã để tang và sắp đến ngày giỗ đầu Thành Đạo cùng với ông cụ họ Vũ làng tôi có quen, trong lúc uống rượu thường nhắc nhở đến nhau Bài 14: ÔNG LÊ THỜI HIẾN Thái Úy Lê Thời Hiến là người làng Phú Hào, huyện Lôi Dương, tính nết ngang tang, không nghề nghiệp và không hợp với ai. Ông ra chơi Kinh, quen với chàng Năm là học trò ở Chiêu Văn Quán. Chàng Năm là con nhà kép hát, không được thi cử, nhà rất nghèo nàn. Ông thường đi lấy trộm của người khác đem cho, chàng Năm hỏi ở đâu ra, ông chỉ cười không đáp. Một hôm chàng năm bảo ông rằng: - Tôi nghe xứ Quảng Thuận(1) đất hiếm mà dân giàu, vị chúa ở đấy lại biết đãi người một cách khiêm nhượng, rõ cách xử sự của bậc bá vương. Nếu ta đến theo và đem theo mưu kế ra thuyết cho họ nghe, thì trên có thể làm được như Tề Hoàn, Tấn Văn, dưới cũng không mất được cái thế chân vạc. Ý bác nghĩ thế nào? Ông thủng thỉnh nói: - Chí tôi khác thế, nhưng tôi cũng không ngăn cản bác Ông hỏi định bao giờ đi, chàng Năm nói sang mai sẽ đợi để cùng từ biệt, ở trạm Hoàng Mai. Ông y hẹn. Khi đi qua hiệu bán vàng bạc ở Hoàng Đình, ông vào cuỗm lấy hai món đồ chạy đi rất nhanh, không ai đuổi kịp. Đến Hoàng mai đã thấy vợ chồng chàng Năm đã ở đấy, tiền lộ phí không có, chỉ có mấy cân gạo. Ông đưa tặng đồ vàng, chàng Năm cầm tay từ biệt nói: - Chuyến này tôi đi xa muôn dặm mà không chết, đều là nhờ ơn Bác, tôi há dám chẳng ghi long. Sau này gặp nhau ở biên cương, toi xin noi theo chí của bác, để đền báo lại Hơn một tuần sau chàng năm vượt qua bờ cõi của Châu Hoan đến bờ phía bắc của Linh Giang “ Sông Gianh” ( T.T.Kim Sử lược trang 304). Quân canh giữ bên sông xét hỏi nghiêm ngặt, thuyền không thể qua được. Chàng năm phải đẵn tre bám vào vượt ngược song bơi tràn đi mới qua được bờ bên Nam, lại bị quan coi giữ bờ Nam bắt được trói lại đem về nộp Chúa. Sau khi trò chuyện được Chúa rất hài long tha cho lại dung làm tướng. Chàng Năm bày mọi phương kế đánh giữ: đắp lũy ở Đông Hải dài hơn tram dặm cong như hình cầu vồng cắt ngang Nam – Bắc dựng vòm khói, đặt cửa sung, hễ có việc nguy cấp thì vừa bắn sung vừa đốt khói thong báo về quốc đô. Các cửa bể Minh Linh, Nhật lệ đều đóng cọc và khóa sắt để giữ cản tàu thuyền, tùy nghi xếp đặt, bố trí rang buộc rất kiên cố Đoạn đem quân qua sống tiến lên mạn Bắc, hạ thành giết tướng rất nhiều, làm cho triều đình phải quên ăn mất ngủ tìm mọi phương kế để chống giữ, tuy có làm giảm bớt được những trận đánh nhưng bờ cõi vẫn chưa thu phục lại được hết Hồi này, ông Lê Thời Hiếu, ứng mộ tong quân đã lập được nhiều công trạng, được thằng làm Đốc Trấn, điều khiển việc quân tại Châu Hoan. Chàng năm nghe tin nói: “ Nay bác lê đã làm tướng phương Bắc, ta nen tạm lánh”. Liền thu quân rút lui, lại đưa thư xin trả lại những vùng đất đã chiếm được, tự nhận là Nam phiên Ông Lê dâng thư về triều, xin cho Nam Bắc nghỉ binh. Nhân dân hai châu Hoan- Diễn được sống yên ổn Ông trọng nhậm ở Tar61n hơn 20 năm, trong địa hạt được vô sự, nên được tiếng phong là Thái Úy Hào Quốc Công. Khi mất được phong tước vương, dân châu Hoan nhớ ơn, lập miếu thờ đến nay vẫn còn Cháu họ của ông là Thời Điểu đỗ Đông Tạo Sĩ tức là tam giáp Tiến Sĩ võ làm chức Hữu- kiểm- điểm có quen với tôi, đã đem chuyện cũ của ông Lê Công kể lại cho tôi nghe Một thuyết nữa nói: Khi chàng Năm qua sông, phải đi ở chăn trâu cho người. Một hôm dắt trâu qua cửa Tướng Quốc, nghe thấy trong dinh có tiếng đọc sách, chàng Năm liền buộc trâu ở ngoài rồi đi vào. Quan Tướng Quốc bận áo nhà Nho ngồi, cùng các học trò đọc sách. Chàng Năm chắp tay đứng dưới thềm, ghé mắt trong một lúc lâu, quan Tướng Quốc làm lạ hỏi: - Có biết chữ không? Chàng Năm thưa: - Tôi vừa thấy Ngài giảng về Nho quân tử và Nho tiểu nhân, tôi rất thích nghe Tướng Quốc nói: - Thế nào là Nho quân tử và Nho tiểu nhân? - Thưa Ngài, về Nho tôi chưa được rõ. Tôi làm nghề chăn trâu. Xin nói về kẻ chăn trâu: Trong những kẻ chăn trâu, có người quân tử, có kẻ tiểu nhân. Thế nào là tiểu nhân: Đi kiếm cỏ ở ngoài ruộng, đều là hạng này cả. Quân tử thì không thế, là người có tài năng, có khí phách, buồn bực chưa có dịp thi thố ra, phải tạm trốn vào cái nghề đó. Ninh Thích gõ sừng, Bách Lý hề cho trâu ăn chính là những hạng chăn trâu quân tử Quan tướng Quốc nghe nói cho là lạ, liền xuống thềm đón lên, nhưng chàng Năm xua tay rồi đi Dò tìm biết chỗ chàng làm mướn. Tướng Quốc sai người đến gọi, chàng từ chối mà rằng: “ Ngày xưa vua tề Cảnh Công đi săn. Vời Ngu Nhân bằng cờ tinh, mà người ta không đến, là bởi không hợp lễ. Nay Quan Tướng Quốc đã không cho tôi là kẻ hèn hạ mà lại muốn làm nhục tôi bằng cách đòi hỏi không hợp lễ ư? Xin cam phận hèn hạ, tôi không muốn đến Người đi gọi trở về trình, quan Tướng Quốc liền tắm gội trai giới, sai sứ đem thư và lễ vật đến đón. Chàng Năm bấy giờ mới đứng dậy, mắc áo nâu ngắn, đầu để trần, đi chân không, sứ giả xin thay áo, chàng không nghe nói: -“ Tôi vốn dĩ là một kẻ làm mướn, sao nên thay đổi cái bản sắc của mình” Chàng đến nơi, quan Tướng Quốc ngảnh về phía đông, tôn thờ làm thầz, rồi tiến dẫn lên chúa. Chúa đắp đàn, phong cho làm tướng Hai thuyết trên chưa rõ thuyết nào đúng nên xin chép cả ra đây Chú thích: (1) Đất Nam là đất của Chúa NGuyễn (2) Chàng Năm trong chuyện này là Ông Đào Duy Từ http://hocthuatphuongdong.vn/index.php?PHPSESSID=i6ocmtemvbvs2ia8db48j8mua7&topic=4275.10;wap2
-
NSND Bạch Tuyết: 'Về sex, đạo Phật rất tự do' (?!) Là gạo cội trong làng cải lương và có lối sống "tâm linh", NSND Bạch Tuyết chia sẻ thẳng về sex và vụ "nude để thiền" gây xôn xao dư luận thời gian qua. - Hơn 60 tuổi và có vẻ bề ngoài luôn tươi trẻ, đâu là bí quyết của cô? Tôi sống chứ không chờ đợi bất cứ điều gì. Niềm vui hay nỗi buồn, đẹp đẽ hay không cũng ngang nhau, tôi cũng không bao giờ tiếc nuối quá khứ. Kinh Kim Cương của đạo Phật dạy cho tôi cách nghĩ là hiện tại mới quan trọng. Vì thế phải sống và làm việc hết lòng. Chính vì như vậy tôi không có buồn hay giận ai. Mỗi người trong đời gặp gỡ làm nhau hạnh phúc hay tổn thương đều thuộc về cơ duyên. - Nhưng có bao giờ cô lo lắng và tìm mọi cách để mình phải tươi trẻ như ngày xưa? Tôi không giữ vẻ đẹp ở ngoài vì con người có thanh, có tâm, có ý mới thành được. Mỗi ngày mình tắm không chỉ rửa cái thân thôi, phải tắm cái tâm và cái ý của mình cho tấm thân nó tồn tại song song và không mâu thuẫn. Nếu tập được như thế sẽ không tốn nhiều năng lượng giúp cho cơ thể khỏe mạnh. Trong đời sống mình nói, mình nghĩ và làm cùng 1 thứ thì năng lượng chỉ tốn một lần thôi. Chứ mình nói một đường, làm một nẻo thì không thông minh (cười). - Có vẻ cô là người rất am hiểu về Phật pháp? Từ nhỏ tôi luôn tự hỏi mình từ đâu tới, tới đây rồi đi đâu, tại sao không ai hỏi ý kiến là tôi có thích tới đây hay không. Mẹ mất khi tôi tròn 8 tuổi nên tôi hay quay quắt suy nghĩ và thấy không thoải mái. Một người mình mới thấy khi 7 giờ tối mà 11 giờ mình không thấy mãi mãi thì tôi không thích. Từ 8 đến 26 tuổi mới trả lời được cho mình câu hỏi này nhờ vào Triết học phật giáo, mới biết vì sao cuộc sống có vô thường, vì sao có nhân duyên, gặp người này thì vui, người kia thì không. - Hiện tại cô đang ăn chay? Người thiền thì không gọi là ăn chay mà gọi là đổi bụi, bụi nhẹ. Tức là bỏ thịt cá vào máy xay với rau, sau đó đổ vào cái li thì thịt cá nằm dưới, bụi rau nổi lên trên. Khi ăn tôi nghĩ thế thôi chứ không có ăn chay hay mặn. Thiền là cách để người ta có thể giải phóng mình. - Những người ăn chay thường ngủ chay, còn cô? Chính tôi không giải thích được chay mặn, đức Phật đâu bảo ai ăn chay, ai ăn mặn và không cấm cản gì ai. Ai có nghiên cứu đạo Phật sẽ thấy về sex đạo Phật rất tự do. Tự do ở chỗ khi mình hiểu được một sự việc thì mình hành động sự việc đó bỗng nhiên trở thành thiêng liêng vì chả có gì đẹp hơn tình yêu đâu. - Ý cô là tự do về sex cả nam lẫn nữ? Nghiên cứu đạo Phật bên Ấn Độ sẽ thấy trong tượng Phật ở phần chóp có hình nam và nữ đang làm tình. Vừa rồi trên mạng có bức tượng làm dư luận om sòm nhưng quan trọng đó là quan điểm sống mỗi người và cách tiếp cận sẽ hiểu ra sao. Mình tự do chỉ khi đừng làm gì tội lỗi. Hai vợ chồng sống với nhau phải yêu nhau bằng thể xác và hòa hợp với nhau về mặt tinh thần. Tất cả tôn giáo trên thế giới đều khuyến khích điều đó. Nếu có gia đình mà có lén lút hay có cách nào đó làm người sống cùng mình đau khổ thì không nên làm. - Theo cô thì người thuộc thế giới thứ 3 có thể thoát ra và thăng hoa như người thường được không? Tất cả đều có cảm xúc bình thường và thiêng liêng như nhau nếu như họ có cảm xúc. Ví dụ như đưa hột xoàn cho con nít và bảo giữ kẻo mất, nhưng mình đi là nó cũng đi vì não nó chưa hiểu cái này quý hiếm, cái kia không. Có người có hột xoàn nhưng không cảm nhận được mà "quăng" nó và xài như cục đá. - Thời gian qua cô có xem bộ hình “Nude để thiền” do một nhà sư và diễn viên trẻ chụp hay không? Tôi cũng là người muốn biết thứ này thứ kia nên cũng xem, con người càng biết nhiều thông tin thì càng hiền, thế thôi. - Vậy cô thấy những tấm hình đó ra sao? Tôi thấy mọi thứ như nó, tôi không thấy chuyện quấy, chuyện phải mà chỉ thấy rằng con người nên học để biết cách xử lý những sự việc trong đời và biết cách bảo vệ thân mình. Một người biết tự quý mình thì khỏi dạy họ vẫn biết có hiếu với cha mẹ vì cha mẹ đâu muốn con cái mất gì trong cơ thể. Những điều người ta đang bàn tán, giận dữ nói theo lý thuyết của ông bà mình là như 5 người mù xem voi. Người nắm chân voi thì tất nhiên nói y như cái cột, người nắm đuôi coi như chổi và thật ra ai cũng trúng. Thế giới mất công làm những việc như thế là vì họ rỗi. - Vậy theo cô dư luận "ném đá" vụ "nude để thiền" là rãnh rỗi? Ông đứng chỗ con voi thì thấy cây cột đúng rồi. Nhưng ông quên rằng phải rời xa cây cột để thấy tất cả hình hài con voi. Vì thế con người ta đừng nên tranh cãi với nhau những việc chưa đến cùng. Trước khi nói phải nghĩ, trước khi nghĩ phải thấy và trước khi thấy phải đụng. Nếu người ta chịu khó tĩnh tâm và suy nghĩ đầy đủ trước khi vào tranh luận thì tốt cho cả hai. Nhờ Triết học Phật giáo nên cái nhìn của tôi công bằng, tôi không nghĩ mình đúng hết cũng không nghĩ ai sai hoàn toàn. Chỉ là có người mới khởi hành, người tới giữa đường và người đã tới nơi. Ba người đó nói chuyện với nhau sẽ cãi lộn, nên cách tốt nhất là tự đi để khỏi cãi. Trích đăng theo Tiến Trần (Mốt & Cuộc sống - The Box.vn) * Phản ứng trên báo Tiền Phong: NSND Bạch Tuyết: Thế gian… rỗi việc Nói về vụ ồn ào Nude để thiền, “giọng ca vàng” của cải lương cho rằng: “Những điều người ta đang bàn tán, giận dữ nói theo lí thuyết của ông bà mình là như 5 người mù xem voi (…). Thế giới mất công làm những điều như thế là vì họ… rỗi”. Bạch Tuyết cũng đưa ra lời khẳng định: “Ai có nghiên cứu đạo Phật sẽ thấy về sex đạo Phật rất tự do”. Chẳng hiểu Bạch Tuyết ngấm đạo Phật kiểu gì mà lại giang tay với “nude để thiền” và giễu thiên hạ là “người mù xem voi”? http://chuaphuclam.v...-rat-tu-do.html ======================= Thuốc đắng dã tật, sự thật mất lòng. Chỉ phiền cho cô Bạch Tuyết bị một phen "ném đá". Thiên Đồng
-
Xin NSND Bạch Tuyết đừng khoác chiếc áo "nhờ triết học PG" nữa nhé để Phật tử đỡ "muối mặt"! Gần một tuần qua, kể từ khi tạp chí Mốt & Cuộc Sống đăng bài phỏng vấn của tác giả Tiến Trần với nữ Nghệ sĩ Nhân dân- Tiến sĩ Bạch Tuyết với nhan đề “NSND Bạch Tuyết: Về sex đạo Phật rất tự do”, đã gây ra hiệu ứng trong công luận không được tốt lành cho lắm. Gõ vào Google tựa đề bài báo trên sẽ đọc được rất nhiều phản ứng cùng lời lẽ chúng ta không dám lập lại. NSND - TS Bạch Tuyết Bài viết này cũng chỉ là những thắc mắc chung quanh phát ngôn của NSND-Tiến Sĩ Bạch Tuyết, vì so với sở học của mình những điểu đó còn quá cao xa, đang từng bước học đòi Phật pháp. Và cũng để đáp lại tấm thạnh tình của nhiều bạn hữu đã gởi thư từ, email, những cuộc đàm luận trực tiếp chung quanh sự kiện gây sốc này. Nhưng nhờ qua đây, những bài học vỡ lòng Phật pháp thuở ấu thơ của chúng tôi có dịp sống lại. Âu cũng là một cái duyên may hiếm có. Gần một tuần qua, kể từ khi tạp chí Mốt & Cuộc Sống đăng bài phỏng vấn của tác giả Tiến Trần với nữ Nghệ sĩ Nhân dân- Tiến sĩ Bạch Tuyết với nhan đề “NSND Bạch Tuyết: Về sex đạo Phật rất tự do”, đã gây ra hiệu ứng trong công luận không được tốt lành cho lắm. Gõ vào Google tựa đề bài báo trên sẽ đọc được rất nhiều phản ứng cùng lời lẽ chúng ta không dám lập lại. Chính những sự phản kháng ấy đã nói thay tâm tư của những người con Phật chân chính trước rất nhiều phát ngôn quá đà của vị nữ nghệ sĩ lừng danh một thời này. Thế nên thấy không cần thiết để phải khó khăn lập lại nội dung đó, để dành khoảng trống cần thiết nơi trang giấy này nêu lên một vài cảm tưởng, có pha lẫn đôi chút “sởn tóc gáy”. Hơn thế nữa, trong bài trả lời phỏng vấn ấy, NSND Bạch Tuyết đã không ít lần lập đi lập lại câu “nhờ triết học Phật giáo”, cho thấy những gì Nghệ sĩ nói đều hoàn toàn không sai thánh ý Phật pháp và khả năng thâm nhập Phật học sâu sắc của mình (?). Đây không phải là lần duy nhất NSND Bạch Tuyết trả lời báo chí luôn kéo theo vô vàn câu từ của Phật học, như để chứng minh khả năng tu học, và tạo hiệu ứng xác tín với công luận. Nhưng lần này, sự tự tin quá đà ấy đã vấp phài những câu hỏi thuộc dạng “khó nuốt” của phóng viên, làm tuột ra vô số nhân định kỳ quặc nhưng vẫn cố gắng cho đó là “nhờ triết học Phật giáo” hay “giáo lý nhà Phật” ! Từ trước đến nay, vị nữ nghệ sĩ cải lương chi bảo này cũng thường hay nói đến Thiền và Thiền ngữ; giờ đây, trong bài phỏng vấn này cô lại nói đến kinh Kim Cương; cho thấy sự hiểu biết Phật pháp đa dạng của nghệ sĩ luôn được phồ cập? Tất cả những sự việc đó dường như đã trở thành thủ pháp thường xuyên, đánh lừa được nhiều người. Không phải chỉ riêng phần báo giới mới có như thế mà trong những lần thu âm, hay nhữing lúc chờ đợi quay hình … đối với các anh em nghệ sĩ thuộc dạng học trò, NSND Bạch Tuyết thường được gọi bằng danh từ trìu mến “Cô Ba”, thì cơ hội nói về Thiền, về “công án” hay sự tu học v.v cũng được nghệ sĩ tận dụng triệt để. Giờ đây, tất cả hình như đã dần bộc lộ - nếu nói theo một cư dân mạng là “ngày trước 75 đóng rất nhập vai Thúy Kiều ở Lầu Xanh ... bi giờ thì tui mới biết là tại sao rồi” (diendanmautam-janosh). Sau khi đưa nhẹ nhàng vào vùng trời “Thiền”, “nhờ triết học Phật giáo”… tác giả phỏng vấn đưa ra ngay câu hỏi bất ngờ nhưng khá thú vị “Những người ăn chay thường ngủ chay, còn cô?”, NSND Bạch Tuyết không ngần ngại đáp ngay rằng “Chính tôi cũng không giài thích được chay mặn, đức Phật đâu bào ai ăn chay, ai ăn mặnvà cũng không cấm cản gì ai. Ai có nghiên cứu đạo phật sẽ thấy về sex đạo Phật rất tự do. Tự do ở chổ khi mình hiều được một sự việc thì mình hành động sự việc đó bổng nhiên trở thành thiêng liêng vì chả có gì đẹp hơn tình yêu đâu”! Một em Oanh Vũ Gia đình Phật tử ngay từ khi còn là cánh mềm cũng đều thuộc lòng lời nguyện rất dễ thương “ Em thương người và vật”. Và trong bài học vỡ lòng về hạnh Từ Bi, em sẽ đáp ngay: ăn chay là để thể hiện lòng Từ Bi, nuôi hạt giống Bồ-đề được luôn xanh tốt”. Những lời nguyện đơn sơ ấy ngày nay người lớn phải giật mình thấy ra nhiểu điều là ăn chay, ngoài thể hiện lòng Từ Bi, còn nuôi dưỡng cho sự sống muôn loài, cho mình, cho tất cả. Chả thế vừa rồi tổ chức bảo vệ quyền lợi động vật Châu Á PETA vừa trao tặng danh hiệu “Hồ Quỳnh Hương người ăn chay quyến rũ nhất Châu Á" đấy thôi Có thề, câu trả lời của NSND Bạch tuyết ở trên chỉ nhắm vào việc quan hệ xác thịt, nhưng cách trả lời như thế, chứng tỏ có một sự pha tạp giữa “Thiền-Triết học Phật giáo-kinh Kim Cương “ theo những gì cô biết chăng ? Đúng như vậy, tác giả bài báo không để những tư tưởng ấy lấn sâu bằng câu hỏi dứt khoát “Ý cô là tự do về sex cả nam lẫn nữ?” và đây là câu trả lời theo cách hiều của nghệ sĩ “Nghiên cứu đạo Phật bên ấn Ấn Độ sẽ thấy trong tượng Phật ở phần chóp đỉnh có hình nam và nữ đang làm tình…” Chẳng lẽ bên Ấn Độ còn có một đạo Phật như thế chăng? Và các tượng Phật có hình nam nữ làm tình ngay trên chóp đỉnh là tượng Phật nào- nếu có là để đệ tử Phật có quyền thay nhau bắt chước mà làm hay chăng? Có lẽ Nghệ sĩ lầm tưởng giữa hình tượng Kim Cương Thừa của Mật Tông Tây Tạng. Nhưng chuyện hình tượng ấy có được dùng để tôn thờ lại là một chuyện khác, hơn nữa những hình tượng ấy không phải để tín đồ “phá chấp” làm theo. Bộ ảnh “nude để thiền” của Huệ Phong với diễn viên-người mẫu Thái Nhã Vân đã bị dư luận lên án như thế nào và chính người mẫu ấy đã hối lỗi ra sao, nhưng với NSND Bạch Tuyết thì nói chung chung và dừng lại ở khẳng định những người quan tâm lên án bộ ảnh ấy là 5 người mù rờ voi, họ rỗi việc! Nếu NSND –Tiến sĩ Bạch Tuyết cũng hô hào “chả có gì đẹp hơn tình yêu đâu” trước hết phải phân tách đó là thứ tình yêu gì - nhưng chắc chắn ở đây đó là tình yêu nam nữ. Thế thì tại sao khi đã hiểu sự cảm nhận , ý thức được việc làm thì tất cả sẽ trở linh thiêng, thì thứ tình yêu này có`dành cho chư vị xuất gia không, và nếu không thì tại sao? Rất đơn giản; đó là sợi dây luyến ái luôn trói buộc con người vào cõi lục đạo, khi đã bị trói buộc thì làm sao giải thoát? Nên nhắc lại: một cách dễ hiểu, người cư sĩ tu là để chuyển nghiệp tái sanh theo phước báu; còn chư vị xuất gia là tu để tiến đến bờ giác giải thoát. Vậy thứ nào đẹp hơn, ý nghĩa hơn ? Mong sao những ai đã đọc được bài phỏng vấn quá sốc này, trước hết hãy nhìn lại sở học và kiến giải của mình trước vô vàn nhiểu nhương cuộc sống đa phức tạp ngày nay. Sở học Phật pháp thì không thể khoe khoang hay dùng làm bình phong để củng cố tên tưổi, địa vị của mình. Đây là con lộ mòn không lối thoát. Từ ngữ “SEX” được nhắc đến khá nhiều trong một bài viết đó không phải là một chuyện đứng đắn, nói chi chính từ cửa miệng chúng ta buông ra để khỏa lấp cho một sự việc mà mình cho rằng đúng theo cách của mình. Riêng bài này, người viết đành phải tạ lỗi với chư đạo hữu mười phương vậy. Nguyên Đại Thái Bằng Dương http://chuaphuclam.v...ao-nua-nhe.html ========================= Nhấn "Like" (thích) thiệt mạnh cho câu này nè "Cô Ba". Thiên Đồng
-
Những huyền thoại ít biết về vị thiền sư nổi tiếng nhất Việt Nam Ngày nay, người Việt vẫn gọi ông là Lý Quốc sư - vị Quốc sư họ Lý, tôn xưng ông là đức thánh Nguyễn, sánh ngang với đức thánh Trần nổi tiếng vì những cống hiến của ông trong thời đại mình. Thế nhưng, xoay quanh vị thiền sư nổi danh nhất Việt Nam này vẫn còn những câu chuyện đậm chất huyền thoại ít người biết tới… Tuổi thơ nghèo khó và chuyến viễn du “Tây Thiên” Lý Quốc sư thực tế không phải là tên gọi mà là một chức danh dành cho vị cao tăng có chức vị cao nhất trong triều đại nhà Lý. Sử sách chép rằng, Lý Quốc sư vốn tên thật là Nguyễn Chí Thành, pháp hiệu là Nguyễn Minh Không. Ông sinh vào 15/10/1065 tại làng Đàm Xá, phủ Tràng An (nay là Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình). Cha của Chí Thành là Nguyễn Sùng, quê ở Đàm Xá, Trang An còn mẹ ông là Dương Thị Mỹ, quê ở Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh ngày nay. Chuyện kể rằng, mặc dù gia cảnh ông Sùng rất nghèo nhưng hai vợ chồng ông bà luôn chăm lo làm việc thiện. Về sau, hai ông bà sinh hạ được một người con trai khôi ngô tuấn tú, mới đặt tên là Nguyễn Chí Thành. Cha mẹ mất từ khi Chí Thành còn rất nhỏ, lại thêm gia cảnh nhà rất nghèo nên cậu bé Chí Thành đã sớm phải mò cua, bắt cá sinh sống qua ngày. Thời ấy, Phật giáo đã được truyền vào Việt Nam và đang ở giai đoạn cực thịnh. Phật giáo được coi là quốc giáo và có ảnh hưởng rất lớn tới mọi mặt của đời sống. Chính vì vậy, rất nhiều người dân Đại Việt thời bấy giờ đều lập chí tu hành học đạo. Chí Thành cũng là một trong số ấy. Về việc học đạo của Chí Thành, có nhiều truyền thuyết khác nhau. Có người nói rằng, Minh Không và Từ Đạo Hạnh vốn là bạn thân từ nhỏ. Lớn lên, hai người cùng xuất gia đi tu rồi cùng một thiền sư khác tên là Giác Hải lên đường đi Tây Thiên tầm sư học đạo. Chuyện kể rằng, khi cả ba đi đến xứ răng vàng, thấy đường xá hiểm trở, khó đi, đang định quay về thì bỗng thấy một ông già chèo một chiếc thuyền còn, thảnh thơi đi dạo chơi trên sông, 3 người cùng đến hỏi: “Thưa cụ, từ đây sang Tây Thiên đường còn bao xa?” Cụ già đáp: “Đường núi hiểm trở, đi bộ không được đâu, tôi có chiếc thuyền này có thể chở giúp các ông sang được, lại có cây gậy cho các ông cầm, cứ chỉ thẳng về phía Tây Vực mà đi, thì sẽ đến ngay”. Nói xong cụ già đọc bài kệ. Đọc kệ xong chỉ trong khoảng giây lát thuyền đã ghé đến bến Tây Thiên. Ba người nhờ vậy đến được Tây Thiên học được phép linh dị. Sau khi đắc đạo, ba người kết nghĩa làm anh em rồi cùng trở về truyền bá Phật pháp. Nhiều người lại cho rằng, chuyện Minh Không làm bạn rồi cùng Từ Đạo Hạnh cùng đến Tây Thiên học đạo là một nhầm lẫn. Thực tế người cùng Từ Đạo Hạnh và Giác Hải đến Tây Thiên học đạo là sư Không Lộ, một thiền sư nổi tiếng khác vào thời Lý, còn Minh Không là học trò của Từ Đạo Hạnh. Năm 11 tuổi, Chí Thành gặp sư Từ Đạo Hạnh mới xin theo học. Từ Đạo Hạnh nhận Chí Thành làm đệ tử, mới ban pháp hiệu là Minh Không. Minh Không thông minh, dĩnh ngộ nên được Từ Đạo Hạnh rất khen ngợi, truyền cho tâm ấn. Chính vì vậy, trước khi viên tịch, Từ Đạo Hạnh mới dặn dò vị học trò giỏi nhất sau này giúp mình chữa căn bệnh “hóa hổ” của mình khi đã đầu thai chuyển kiếp vào vua Lý Thần Tông. Vị thiền sư tài năng và căn bệnh “hóa hổ” của vua Lý Việc chữa căn bệnh “hóa hổ” lạ lùng của vua Lý Thần Tông của sư Minh Không đến nay vẫn là câu chuyện mang đậm chất huyền thoại và gây ra nhiều tranh cãi. Một truyền thuyết nói rằng, khi Minh Không và Từ Đạo Hạnh học đạo từ Tây Thiên trở về, giữa đường, Đạo Hạnh muốn thử tài của Minh Không liền vượt trước, hóa thành một con hổ phục trong bụi, rồi chồm ra dọa Minh Không. Minh Không đã biết trước, cứ ung dung nói với con hổ: “Đạo huynh đấy à? Tưởng đạo huynh làm gì ích lợi cho đời, lại đi làm thú dữ hại người đấy ư? Đạo huynh muốn thế, kiếp sau sẽ được làm mà…” Từ Đạo Hạnh biết mình còn kém Nguyễn Minh Không, hiện lại nguyên hình, lạy tạ và khẩn khoản nói: “Ngu đệ không tự biết mình, trót làm điều xúc phạm, xin đạo huynh tha thứ. Quả báo sau này có sa vào nghiệp chướng ấy, xin đạo huynh ra tay cứu giúp”. Quả báo mà Từ Đạo Hạnh nói đến sau này chính là việc ông phải đầu thai chuyển kiếp thành vua Lý Thần Tông và mắc phải căn bệnh “hóa hổ” kỳ lạ mà không danh ý nào có thể chữa được. Tuy nhiên, nhiều người cũng nói rằng, chính sự nhầm lẫn giữa sư Không Lộ và Minh Không đã dẫn đến câu chuyện nói trên. Người bị Đạo Hạnh hóa thành hổ dọa trên đường từ Thiên Trúc trở về chính là Giác Hải và Không Lộ. Chuyện kể rằng, khi ba người ngồi thuyền đến Thiên Trúc, Từ Đạo Hạnh ở lại giữ thuyền còn Giác Hải và Không Lộ lên bờ học phép. Sau khi học được phép thiêng, Giác Hải và Không Lộ đã bỏ về trước. Từ Đạo Hạnh ngồi giữ thuyền 3 ngày mà không thấy tin tức của 2 bạn đồng hành đâu, đúng lúc đó bỗng thấy một cụ già đi đến. Từ Đạo Hạnh vái chào rồi hỏi: “Cụ có thấy 2 người lên học đạo đó không? Cụ già nói: “Hai người đó đã học được phép thiêng của Ta và đã trở về nước rồi”. Từ Đạo Hạnh bèn vái lậy và kể rõ cho bạ cụ biết mọi chuyện, cụ già nghe nói bèn sai Từ Đạo Hạnh gánh 2 thùng nước về nhà rồi dạy cho mọi phép thiêng cùng phép rút đất chân truyền Đà-la-ni. Sau khi học xong phép thiêng, Từ Đạo Hạnh tự hiềm vì 2 người bạn đã thất ước, bèn đọc thần chú khiến 2 người bạn đang đi đường đau bụng quá phải ngồi nghỉ. Sau đó, Đạo Hạnh lại dùng phép rút đất vượt lên phía trước, rồi hóa thành một con hổ núp trong bụi rậm đợi Giác Hải và Không Lộ đi qua mới nhảy ra dọa. Sau đó, chính Đạo Hạnh đã nhờ Giác Hải và Không Lộ cứu mình tránh khỏi nghiệp chướng sau này. Không Lộ lúc ấy mới nói với Từ Đạo Hạnh rằng: “Chúng tôi bây giờ đã lớn tuổi, xin trông cậy cả vào Minh Không”. Chính vì vậy, về sau này, khi sắp viên tịch, biết mình sẽ hóa thân làm con hóa thân Lý Thần Tông sau này, Từ Đạo Hạnh mới cho gọi Minh Không đến mà dặn rằng: “Ta nay sắp xuất thế, ở cái địa vị làm thầy người ta, bệnh trái kiếp sau quyết là khó tránh nổi. Ta với người có duyên, nên cứu giúp nhau”. Nói xong, đưa cho Minh Không một gói thuốc đã được niệm chú dặn rằng: 20 năm sau, nếu nghe quốc vương bị bệnh thì lập tức đến chữa trị ngay. Dẫu Minh Không là bạn hay là học trò của Từ Đạo Hạnh, thì có một điều chắc chắn rằng, người chữa căn bệnh “hóa hổ” kỳ lạ của vua Lý Thần Tông chỉ có một mình Minh Không. Chuyện kể rằng, Từ Đạo Hạnh sau khi viên tịch đã đầu thai làm con của Sùng Hiền hầu, em ruột vua Lý Nhân Tông, được đặt tên là Dương Hoán. Khi Lý Nhân Tông qua đời, Dương Hoán được chọn làm con người kế vị, tức vua Lý Thần Tông. Lên ngôi không được bao lâu, tháng 3 năm 1136 vua Lý Thần Tông bệnh nặng, lông lá mọc khắp cơ thể, gầm thét như hổ suốt ngày. Các danh y tài giỏi từ khắp nơi trong cả nước được mời đến chữa bệnh nhưng bệnh của vua không thuyên giảm. Triều đình phái sứ giả đi khắp nơi tìm người có thể chữa bệnh cho đức vua. Khi sứ giả đến vùng núi Tử Trầm, nơi Minh Không trụ trì, thấy trẻ con hát câu đồng dao: “Tập tầm vông, có Nguyễn Minh Không chữa được mình rồng thiên tử…” Sứ giả thấy lạ liền hỏi thăm và tìm được Nguyễn Minh Không, mời ông vào triều chữa bệnh cho vua. Minh Không thấy sứ giả đến, trong thuyền có rất nhiều lính chèo thuyền, muốn dọn cơm chay cho ăn, bèn lấy một cái niêu nhỏ đem cho họ cùng ăn, bảo họ rằng: “Anh em đông quá sợ không đủ no bụng, tạm ăn vậy”. Thế mà bọn lính chèo thuyền hơn một trăm người cùng ăn cũng không sao hết được niêu cơm. Khi bọn lính ăn xong, Minh Không lại bảo: “Anh em hãy tạm ngủ say một lát nữa đợi nước triều lên ta hãy bắt đầu ra đi”. Bọn lính đồng ý, đều nằm ngủ say ở trên thuyền. Mới trong khoảnh khắc, thuyền đã trở về tới kinh đô, bọn lính bơi chèo tỉnh dậy đều lấy làm lạ, phục tài của thiền sư Minh Không. Khi sư Minh Không đến, thấy nhiều pháp sư khác cũng đang ở trên điện làm phép chữa bệnh cho vua. Họ thấy Minh Không ăn mặc quê mùa nên khinh thường không thèm chào hỏi. Sư Minh Không thấy vậy, lấy từ trong túi một chiếc đinh lớn, dài hơn 5 tấc rồi đóng sâu vào cột, sau đó lên tiếng hỏi: "Ai có thể nhổ cái đinh đó ra thì hãy nói chuyện chữa bệnh". Minh Không nói thế ba lần nhưng chẳng vị pháp sư nào dám làm. Thấy vậy, Minh Không ung dung bước lại gần, lấy hai ngón tay trái, cầm vào rồi nhẹ nhàng rút ra. Mọi người chứng kiến đều khiếp phục sức mạnh phi thường của Minh Không nên nhường ông vào chữa bệnh cho vua. Chuyện kể rằng, khi được đưa vào gặp vua Lý Thần Tông, Minh Không lớn tiếng hỏi: “Kẻ đại trượng phu được tôn lên ngôi thiên tử, giàu có khắp bốn bể, cớ sao còn phát bệnh cuồng loạn như vậy?” Vua nghe thấy vậy, rất run sợ, không dám kêu gầm nữa. Minh Không lại sai người lấy một vạc lớn đựng nước nấu sôi tới cả trăm lần. Minh Không dùng tay không quấy lên khoảng bốn lần, rồi tắm vua trong đó. Ngay sau đó, bệnh của vua đã bớt ngay. Ít lâu sau thì vua khỏi hẳn. Sau khi khỏi bệnh, cảm phục tài năng của Minh Không và cũng là để cảm tạ ơn cứu mạng của ông, vua Lý Thần Tông phong cho Minh Không là Quốc sư, được đổi từ họ Nguyễn sang họ Lý của vua, cấp cho nhà ở, ban lộc mấy trăm hộ và được miễn thuế má. Vì vậy, sau này người ta mới gọi sư Minh Không là Lý Quốc sư, ý chỉ vị Quốc sư họ Lý. Không chỉ nổi tiếng vì đã chữa bệnh cho vua, thiền sư Minh Không còn là người có công xây dựng rất nhiều ngôi chùa trên nước Đại Việt. Sử chép rằng, sau khi tu hành đắc đạo, sư Minh Không trở về quê nhà ở Ninh Bình, dựng chùa Viên Quang, sau đó lại lập nhiều chùa ở Phả Lại (Bắc Ninh), Giao Thủy (Nam Định), Vũ Thư (Thái Bình)... để tu hành. Trong suốt cuộc đời, Nguyễn Minh Không đã dựng tới 500 ngôi chùa trên đất Đại Việt. Ông qua đời vào năm 1141, niên hiệu Thái Bình thứ 22, thọ 76 tuổi. Theo An Nhiên - PNTD http://chuaphuclam.vn/index.php?/lich-su/nhng-huyn-thoi-it-bit-v-v-thin-s-ni-ting-nht-vit-nam.html
-
Đôi điều về bộ bài Tarot huyền bí trong bói toán phương Tây Bói bài Tarot đang dần trở nên phổ biến tại Việt Nam. Nhưng thực tế không phải ai cũng hiểu rõ về những cỗ bài này... Gần đây, bói bài Tarot đang dần trở nên phổ biến, ngay cả ở Việt Nam. Tuy nhiên, khác với những hình thức bói toán khác - sẽ dự đoán tương lai hay số mệnh của bạn, cỗ bài Tarot chỉ đơn thuần giúp bạn tìm ra hướng đi đúng cho tương lai. Trong bài viết này, chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu về lá bài Tarot, từ nguồn gốc đến ý nghĩa của mỗi lá bài. Bạn sẽ biết được bản chất của những lá bài, và rằng bạn không cần phải là một nhà tâm linh học để có thể là người bói bài Tarot. Lịch sử bài Tarot Theo nhà sử học Tarot Tom Tadfor Little, những lá bài xuất hiện đầu tiên có nguồn gốc từ đạo Hồi, những người châu Âu đã mang nó về vào năm 1375. Nhưng thực tế, cỗ bài đó không giống với bài Tarot hiện nay. Mãi đến năm 1440 thì bộ bài mới giống với bài Tarot hiện nay. Trong một bức thư của Duke of Milan, đã có rất nhiều yêu cầu làm các cỗ bài khác nhau để sử dụng trong các dịp trọng đại. Và, năm 1530, cỗ bài Tarot đầu tiên được tạo ra như một trò chơi. Cỗ bài gồm 4 chất với các lá bài đánh số từ một đến mười, và còn có các quân bài Hoàng gia như Queen, King, Knight và Page. Ngoài ra cỗ bài gồm thêm 22 quân bài biểu tượng không thuộc bất cứ chất nào. Cỗ bài này được gọi là triumph. Trong cỗ bài triumph, 21 trong số 22 lá bài đặc biệt là các quân bài chủ. Trò chơi này nhanh chóng lan truyền khắp mọi nơi trên châu Âu. Mọi người bắt đầu gọi nó với cái tên tarocchi, là tên tiếng Italian của từ tiếng Pháp tarot. Năm 1781, ở Pháp và Anh, những người theo trường phái huyền bí khám phá ra những lá bài Tarot. Họ thấy rằng những biểu tượng trên lá bài có nhiều ý nghĩa hơn việc chỉ là trò chơi thông thường. Và rồi họ bắt đầu sử dụng bài Tarot như một công cụ bói toán, rồi các tài liệu nói về Tarot ngày một nhiều. Sau đó, cỗ bài Tarot trở thành một phần của triết lý huyền bí. Ngoài ra, cũng có nhiều nguồn tin cho rằng cỗ bài Tarot có xuất xứ từ Ai Cập, rằng đây là một trong những cuốn sách duy nhất còn sót lại sau một vụ hoả hoạn đã đốt cháy toàn bộ thư viện cổ của Ai Cập. Với giả thiết này, những lá bài được coi như là những chiếc chìa khoá tượng hình của cuộc sống thời Ai Cập cổ. Bộ bài Tarot Hiện tồn tại rất nhiều loại bài Tarot, và không có tiêu chuẩn nào về số lượng hay hình thức bộ bài. Mặc dù các quân bài, chất và ý nghĩa là như nhau, nhưng hình minh hoạ thì lại rất khác nhau. Chủ đề của mỗi bộ bài cũng khác nhau, có thể là về thiên nhiên, động vật, rồng,... Cỗ bài Tarot phổ biến nhất tại Mỹ hiện nay là bộ Rider-Waite, được tạo ra vào năm 1909 bởi A.E.Waite, một nhân vật xuất chúng thuộc Hermetic Order of the Golden Dawn, và được sản xuất bởi công ty Rider & Company. Hoạ sĩ vẽ bài là Pamela Colman Smith. Cỗ bài 78 quân này là cỗ bài phổ biến và dễ mua nhất tại Mỹ. Dù sao thì, theo The Hermitage: A Tarot History Site thì không có bộ bài Tarot nào được coi là “tuyệt đối” cả. Một cỗ bài Tarot bao gồm Bộ Ẩn Phụ - Minor Arcana và Bộ Ẩn Chính - Major Arcana. Giống như những cỗ bài Tây khác, bộ ẩn phụ gồm 4 "chất", nhưng thay vì rô-cơ-bích-tép, thì 4 chất ở bộ ẩn phụ là: Wands, Swords, Cups và Circles (hay Pentacles). Mỗi chất đều có một ý nghĩa tương ứng với một khía cạnh nào đó của cuộc sống. Những quân bài chứa 4 chất này được đánh số từ 1 đến 10, và thêm các quân bài Hoàng gia: The King, Queen, Knight và Page. Bộ ẩn phụ cho biết những điều “phụ”, tức là những khía cạnh nhỏ và thường ngày trong cuộc sống. Bộ Ẩn Chính. Bộ ẩn chính không có chất. Chúng bao gồm những quân bài có hình riêng và thể hiện những nguyên tắc, quan niệm và lý tưởng. Chúng được đánh số từ 1 đến 21, và quân bài thứ 22 – The Fool – được đánh số 0. Bộ ẩn chính thể hiện năng lượng mạnh, lâu dài hay những sự kiện lớn trong cuộc sống. Tarot Spread Bước đầu tiên của bói Tarot, là người được bói sẽ bốc một số lượng bài nhất định từ bộ bài. Vài ý kiến cho rằng làm vậy để “truyền năng lượng” từ người đó cho bộ bài. Người được bói cần phải tập trung vào câu hỏi hoặc vấn đề mà họ cần lời khuyên trong lúc rút các lá bài. Theo truyền thống thì còn có nhiều bước phức tạp hơn nữa. Khi các lá bài được rút xong, thầy bói sẽ xếp những lá bài đó theo thứ tự thành một khuôn mẫu gọi là spread. Mỗi vị trí trên spread đều có ý nghĩa nhất định, và hiện tại có rất nhiều cách để xếp spread, từ một lá bài đơn lẻ trong bộ đến cách xếp toàn bộ 78 lá bài. Việc sử dụng spread nào phụ thuộc vào người đọc bài và kiểu câu hỏi hay vấn đề của người được bói. Một số spread tập trung nhiều hơn đến một vài loại thông tin nhất đinh. Ví dụ, một spread có thể chuyên để bói về chuyện tình cảm, spread khác lại tập trung vào mối quan hệ với người khác. Một trong số những spread phổ biến nhất là Celtic Cross. Thực tế tồn tại rất nhiều spread thường dùng, và đặc biệt người đọc bài còn có thể tự tạo spread của riêng mình. Ví dụ trong spread Celtic Cross, bạn có thể thấy có một trật tự nhất định trong spread này, và mỗi lá bài ở mỗi vị trí đều thể hiện một ý nghĩa nào đó. Và mỗi vị trí lại có nhiều ý nghĩa khác nhau, điều này phụ thuộc vào người hỏi. Và còn nữa, ý nghĩa mỗi lá bài còn có thể được kết hợp với các lá bài khác, chúng ảnh hưởng lẫn nhau và tạo ra sự thay đổi trong ý nghĩa mỗi lá bài. Phương pháp bói bài Tarot Hiện nay có hai phương pháp bói Tarot khác nhau: bói qua câu hỏi và bói mở. Với cách bói qua câu hỏi – question readings – bạn phải có một câu hỏi cụ thể nào đó. Tarot sẽ không đưa ra câu trả lời chính xác; nhưng qua những lá bài Tarot, bạn có thể định hướng và tự đưa ra quyết định cho chính bản thân mình. Quá trình bói Tarot qua câu hỏi phải làm đúng trình tự, điều này rất quan trọng. Bạn phải: - Sử dụng những câu hỏi “mở”: nếu câu hỏi của bạn là câu hỏi “đóng”, thì bộ bài Tarot sẽ không giúp thêm được gì cho bạn cả. Ví dụ với câu hỏi sau: “Làm thế nào để mẹ chồng tôi đồng ý với việc vợ chồng tôi sẽ chuyển ra ở riêng” – khác hẳn với việc hỏi “Làm thế nào để chung sống hoà bình với mẹ chồng”. Hãy bắt đầu từ nguồn gốc của vấn đề (chung sống hoà bình) chứ không phải là từ những lựa chọn (chuyển ra ở riêng) của bạn. - Tìm mức độ cụ thể phù hợp: Câu hỏi của bạn cần phải đủ để định hướng, nhưng không được quá cụ thể. Thay vì việc tìm hiểu về một mặt nào đó cụ thể, bạn cần tìm cách nhìn rộng hơn, bao quát hơn về vấn đề. Ví dụ, thay vì hỏi ‘làm thế nào để cuộc sống gia đình bớt lộn xộn hơn”, thì hãy hỏi rằng “làm thế nào để cân bằng thời gian biểu của con trẻ và thời gian biểu của người lớn”. Rõ ràng câu hỏi sau tập trung vào vấn đề “thời gian biểu”, và vậy là hợp lý. Nhưng đừng đặt câu hỏi theo kiểu “Làm thế nào để sắp xếp lịch chơi bóng rổ, bóng đá, cầu lông... mà vẫn có thời gian quan tâm tới gia đình” – câu hỏi này thì lại quá cụ thể về "lịch chơi thể thao" rồi. Thông tin trong câu hỏi phải ở một mức độ phù hợp, không chung chung quá nhưng cũng đừng cụ thể quá. - Tập trung vào bản thân bạn: nếu là bói cho bạn, hãy đảm bảo rằng câu hỏi này tập trung vào bạn nhiều hơn là tập trung vào những đối tượng khác, ngay cả khi đó là chủ thể của vấn đề. Ví dụ, câu hỏi “tại sao con trai bạn lại hút thuốc lá” là tập trung vào con bạn, chứ không phải là bạn. Hãy hỏi là "bạn có vai trò gì, bạn có làm gì khiến con bạn hút thuốc lá hay không" sẽ là câu hỏi chuẩn. - Trung lập: hãy đặt câu hỏi một cách trung lập, đừng quá thiên về một mặt hay một hướng giải quyết nào đó. Như vậy lá bài Tarot sẽ giúp bạn có được định hướng tốt. Ví dụ, “Tại sao tôi lại phải làm việc nhà nhiều hơn vợ tôi” không phải là câu hỏi trung lập, thay vì đó, hãy hỏi “Làm thế nào để vợ chồng tôi có thể chia sẻ việc nhà với nhau” mới là tốt. - Lạc quan: Đảm bảo rằng câu hỏi của bạn mang tính lạc quan, mong chờ điều gì đó. Thay vì hỏi tại sao may mắn không đến như mong đợi, hãy hỏi rằng làm thế nào để may mắn đến với bạn. Phương pháp thứ 2, bói mở - Open Readings – hướng đến các mặt rộng hơn của cuộc sống chứ không gói gọn trong các câu hỏi như question readings. Thường thì những vấn đề này đều có mốc của nó, ví dụ như khi bạn lập gia đình, khi bạn tốt nghiệp đại học,... Bạn có thể hướng đến một mảng nào đó, ví dụ như sức khoẻ, hay sự nghiệp... và kết quả của lần bói này cũng sẽ tương ứng với chúng. Để trở thành một người bói bài Tarot Để học được nghệ thuật bói bài Tarot, bạn có thể đọc sách, tham gia các khoá học và thậm chí có thể được cấp chứng chỉ. Các khoá học được dạy online bởi các giáo viên dạy Tarot hoặc các tổ chức Tarot. Có tất cả 7 mức độ chứng chỉ được cung cấp bởi Tarot Certification Board of America. Để được cấp các chứng chỉ này, bạn cần phải có kinh nghiệm bói Tarot cũng như vượt qua các bài kiểm tra tiêu chuẩn. Dưới đây là các loại chứng chỉ: Certified Apprentice Tarot Reader (CATR) Certified Tarot Reader (CTR) Certified Professional Tarot Reader (CPTR) Certified Tarot Consultant (CTC) Certified Tarot Master (CTM) Certified Tarot Instructor (CTI) Certified Tarot Grandmaster (CTGM) Ngoài ra còn có các chứng chỉ được cấp bởi American Board for Tarot Certification bao gồm 5 cấp độ: Tarot Associate (TA) Tarot Professional (TP) Tarot Masters ™ Tarot Education (TE) Tarot Sage (TS) Một vài quốc gia khác có hệ thống chứng chỉ Tarot riêng của mình. Tham khảo Howstuffworks http://genk.vn/kham-...22173428551.chn
-
Gothic Tarot: Cảm Nhận Bộ Bài Tối Hãy hình dung một thế giới phủ màn sương, bóng tối và những tia sáng le lói xuyên qua. Các nhân vật thanh lịch, nồng nàn và gợi cảm đi xuyên qua màn sương mù và bóng tối của thế giới này, tâm hồn họ đầy bóng tối và ánh sáng. Ma cà rồng, người sói, phù thủy, tượng đá, thiên thần, những bóng ma, được tìm thấy trong các lá bài và chúng bộc bộ ý nghĩa lá bài theo một cách đặc biệt. Bộ bài Gothic Tarot là một bộ bài phong cách tối tuyệt vời của tác giả tài năng Joseph Vargo. Tác giả: Joseph Vargo Phát hành: Monolith Graphics Deck: 78 lá Reviewer: Wolfy James & David Albert Dịch: Magic Knight (Saigon Mystic House) Tác phẩm của Joseph Vargo bộc lộ ý nghĩa nhiều hơn cả hình vẽ hay mô tả, nó tạo ra những cảm giác về sự u uất và sợ hãi khiến bộ bài của ông ảnh hưởng bởi cảm xúc, đưa người xem tiến sâu hơn vào thế giới tối tăm và nham hiểm. Trong những hình vẽ của ông về nghĩa địa, bạn gần như có thể cảm nhận được sự lạnh lẽo, ẩm ướt, và mốc meo khẽ lướt qua. Phải chăng đó là một cơn gió? Hay là một cái gì đó ít hữu hình hơn, một cái gì đó lẽ ra nên được để sâu trong tâm trí, nhưng bằng cách nào đó đã thoát khỏi bởi sự vô ý trong màn đêm. Gothic Tarot là một tập hợp nghệ thuật của Vargo được sắp xếp khéo léo trong một bộ bài Tarot. Theo cách nào đó, đây là một bộ bài Tarot truyền thống – kế thừa dòng Golden Dawn, mặc dù có một số thay đổi và cách giải nghĩa phù hợp để không xem bộ bài này là một bản sao của Rider Waite Smith. Mặt khác, các hình ảnh không hoàn toàn theo truyền thống của Rider Waite Smith và Marseilles, mà được biến đổi để theo một chủ đề riêng biệt. Những hình ảnh theo phong cách rất riêng của chính chúng, và được “chế biến” khéo léo theo cách phù hợp để ý nghĩa của chúng được nâng lên trong khuôn khổ Tarot. Bộ bài theo cách sắp xếp truyền thống của Marseilles đối với các lá Major Arcana, bốn suit và các lá court card. Hầu hết các lá bài của Vargo đều sử dụng tông màu xám xanh được bao quanh bởi một viền đen, cho thấy bức tường đá cổ và nghĩa địa bị lãng quên được chiếu sáng bởi ánh trăng trên nền trời đen đặc. Cũng có một số ngoại lệ, đặc biệt trong Major Arcana: The Fool là “Vương Quốc Bóng Tối” của Vargo, thể hiện một nhân vật ma quái trong một cổng tò vò bằng đá, đang phát ra ánh sáng xanh kỳ quái. Lá Emperor là Bá Tước Dracula, với chi tiết hình ảnh được phối màu đỏ của máu. Màu đỏ cũng nổi bật trong lá Death và Temparance, trong khi đó màu xanh lá chủ đạo trong lá Devil. Các lá bài Minor Arcana theo phong cách nghệ thuật tràn ngập ánh trăng với bốn suit wands, cups, swords và pentacles. Mặt sau lá bài không đảo ngươc được, và không phải là vấn đề đối với tôi, vì suy cho cùng một người đọc Tarot chỉ đọc mặt trước của lá bài. Sách hướng dẫn nhỏ kèm theo bộ bài cung cấp những giải nghĩa ngắn gọn cho các lá bài, đề xuất những sơ đồ trải bài với chúng. Sách này phù hợp với những ai sử dụng bài Tarot chủ yếu dựa theo cảm nhận. Một cuốn sách hữu ích hơn được bán riêng với tên “The Gothic Tarot Compendium” được viết bởi chính tác giả Joseph Vargo và Joseph Iorillo – một hướng dẫn toàn diện hơn cho các lá bài và cách giải nghĩa chúng. Việc cảm nhận hay dựa theo sách hướng dẫn là phụ thuộc vào mỗi người, theo kiến thức nền và kinh nghiệm của họ. Hơn nữa, việc đọc các lá bài Tarot theo từ khóa hoặc những gì tương tự cũng giống như là việc đọc “định mệnh trong những chiếc bánh có cùng khuôn”, và bỏ lỡ quan điểm toàn diện về “tiên đoán”. Một lá bài Tarot không có nghĩa như những gì mà bất kỳ cuốn sách hay chuyên gia hoặc thậm chí là chính tác giả của lá bài đó đưa ra ý nghĩa về nó. Nó có nghĩa về những gì nó đưa ra về tương lai rút trong khả năng cảm nhận của chính bạn. Kỹ năng đọc bài không có nghĩa là học thuộc lòng bất kỳ hệ thống hay bộ ý nghĩa nào, nhưng thay vào đó là học cách chìm sâu vào nhận thức của chính bạn về hình ảnh trên lá bài. Tarot không phải là về “cá nhân” bạn hay hoàn cảnh của chính bạn; nó là “những điều vô cùng rộng lớn, không hình dạng vốn sẽ thay đổi hoàn cảnh và qua lại” – các lực lượng vô hình, phi cá nhân của tinh thần và tự nhiên vốn định hình các sự kiện của quá khứ, hiện tại và tương lai. Cơn gió không phải là về bạn, sự dịch chuyển của mặt trời và các vì sao không phải về bạn, nhưng chúng có thể tác động đến bạn, và cách bạn tương tác có thể ảnh hưởng đến quá khứ, hiện tại và tương lai. Đó chính là những gì Tarot thể hiện: sự hiểu biết về những lực lượng này, cách những lực lượng này tác động đến bạn, và cách mà chính nhận thức của bạn tương tác với họ. Điều này đặc biệt đúng với bộ bài Gothic Tarot. Hình ảnh của bộ bài rất giàu tông cảm xúc và chiều sâu trí tưởng tượng, và cách những hình ảnh tác động đến bạn không thể được tiên đoán trước. Thử lấy một ví dụ, lá bài The Chariot. Trong hầu hết bộ bài, tôi nhận thấy lá bài này có vẻ mơ hồ và nông cạn. Nhưng trong Gothic Tarot, nó hoàn toàn khác. Hình ảnh về một cỗ xe đêm tối với người lái là một hồn ma, được kéo bởi hai chú ngựa có đôi mắt đỏ rực lửa, xuyên qua một rừng cây bao phủ sương mù. Trích từ sách: “Lá bài Chariot dạy cho chúng ta hãy cầm lấy dây cương và lèo lái cuộc đời của bạn theo hướng bạn thật sự muốn theo đuổi. Định mệnh – Một chuỗi vô tận những sự kiện đan lồng vào nhau, ảnh hưởng lẫn nhau”. Lá bài Chariot là một lá bài của các lực lượng về sự chuyển động, mà không hoàn toàn trong tầm kiểm soát của bạn, và đến lượt bạn, những hành động của bạn tiếp đó có thể ảnh hưởng những lực lượng kia. Tôi đề cập những vấn đề này ở đây, vì hơn bất kỳ bộ bài Tarot nào, những hình ảnh của Gothic Tarot có một độ phong phú cho khả năng hình dung để có thể tạo thành một phong cách riêng. Dĩ nhiên, bạn phải yêu thích những hình ảnh và chủ đề để có thể cùng làm việc với nó. Bạn cũng cần dành nhiều thời gian hơn với bộ bài này vì nó không mang ý nghĩa ở vẻ bề ngoài. Nếu hình ảnh tối cuốn hút bạn, thì bạn có lẽ sẽ thấy ở Gothic Tarot là bộ bài tốt nhất mà bạn sẽ từng sử dụng. http://mystichouse.vn/gothic-tarot-cam-nhan-bo-bai-toi/