Thiên Đồng

Hội viên
  • Số nội dung

    6.278
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    75

Everything posted by Thiên Đồng

  1. Gửi thythy, Bạn nên đưa lên đây: -ảnh chụp trước nhà (toàn cảnh xung quanh) -Toàn cảnh nội thất tầng trệt. -Sơ đồ (vẽ tay cũng được) có ghi rỏ kích thước mặt bằng tầng trệt. - Hướng nhà chính xác. Các anh chị em trên đây sẽ dùng Phong Thủy Lạc Việt giúp cho. Hiện tại bếp tọa đông nam hướng Tây Bắc, mạng chủ nhà là Ly (bác nhà sinh 1957) thì đã phạm Tuyệt Mạng (Theo Phong Thủy Lạc Việt). Tôi đoán rằng đối diện với bếp nhà bạn sẽ còn có tủ lạnh hoặc bồn nước. Mến chào.
  2. Đức năng thắng số Chủ Nhật, 10/05/2009, 05:45 (GMT+7) TT - Lời tòa soạn: Tác giả chuyện đời tự kể này đã 97 tuổi, có lẽ là người cao tuổi nhất viết cho chuyên mục này từ trước đến nay. Ông cho biết sức khỏe rất tốt, đang sống hạnh phúc với cụ bà (83 tuổi). Hai ông bà tự ví mình là “đôi bồ câu già sống cuộc đời thơ mộng”. Xin giới thiệu bài viết khá lý thú của ông. Tôi sinh ngày mồng 2 tháng 5 năm Quý Sửu (1913) giờ hợi. Thầy số đoán: “Mệnh vô chính diệu, đắc nhất không, phi bần tắc yểu, 30 tuổi là mãn”. Thầy phán số chết non nhưng tôi lại thọ, chỉ bị bảy phen chết hụt thôi. Người lớn kể rằng: năm Ất Mão (1915) lụt lớn. Nhà bên ngoại tôi ở phố Hàng Song, tỉnh Nam Định nước ngập đến gối. Tôi lên ba, con đầu, cháu sớm, được ba cậu: cậu Định, cậu Hiếu, cậu Ân bồng bế, tung hứng thế nào mà lọt tõm ngay cháu xuống nước. Có lẽ vì ca chết đuối hụt ở tuổi ấu niên đó khiến tôi suốt đời nhát nước và xui nên thêm ba phen chết đuối hụt nữa mới kỳ chứ! Hồi lên 5, tôi qua chơi nhà chú, ra miệng cống lộ thiên, nơi góc sân để đi tiểu. Tôi đứng sát miệng hố, trên hòn gạch vừa trơn vừa nghiêng xoai xoải. Hòn gạch long ra, tụt xuống hố kéo theo cả tôi.Nước đen ngòm, khai, thối đầy bọ quăng nhưng tôi may không chết đuối vì được cứu kịp thời. Năm 1932, tôi dạy học tại trường tư thục Servir của cha Vacquier, bên hông nhà thờ lớn tỉnh Nam Định. Chủ nhật, tôi dẫn học trò đi đá bóng. Đá thế nào mà trái banh bay xuống ao. Đành phải xắn quần lội ra vớt banh. Bước đầu nước đến gối, bước thứ hai nước đến mông. Cố vớt chỉ còn cách trái banh khoảng gang tay. Bước thêm bước nữa thì “ụp”, hẫng chân, chìm nghỉm. Trong lúc tôi hốt hoảng vùng vẫy loạn xạ ở dưới đáy ao thì được một bàn tay đẩy mạnh vô bờ. Thì ra cái ao đó sâu trên hai con sào. Một cầu thủ người địa phương đã kịp thời cứu tôi khỏi chết. Hè năm 1935, ra Đồ Sơn nghỉ mát. Buồn buồn, một mình tôi đạp xe ra khu du lịch coi thiên hạ vui chơi. Xe đổ dốc tới một cua ngoặt trái. Đang căng mắt theo dõi đường nhựa loang loáng thì thấy xe sắp lao xéo vô một dải lờ mờ trăng trắng. Đó là bờ kè đá trắng cao khoảng 25cm, bên ngoài là biển sâu. Linh tính khiến tôi vội bẻ ngoặt ghiđông sang tay mặt cho má bánh trước va mạnh vô bờ kè. Tức thì cả xe lẫn người tôi đổ ập sang trái là lề đường. Chỉ chậm một tích tắc là cả xe lẫn người tôi đã băng qua kè đá, lăn xuống biển sâu mà chết. Năm 1945 tôi làm quản lý cho cơ sở ngũ cốc tại Kỳ Lừa (Lạng Sơn). Qua cầu nổi làm tạm thay cho cầu sắt bị bom phá, khi đến giữa cầu thì gặp đội quân Tưởng Giới Thạch từ Kỳ Lừa sang (mượn danh nghĩa để giải giáp quân Nhật). Hai bên cứ âm thầm tiến bước. Bỗng dưng người lính Trung Hoa giơ cao báng súng nhằm vào đầu tôi định bổ xuống... Có lẽ nhờ “thần hộ mạng” can thiệp kịp thời khiến người lính đó dừng tay đúng lúc. Không thế thì báng súng đó đã kết liễu đời tôi, xác tôi cứ thế lăn xuống sông như kẻ tự trầm chứ còn sống đâu đến giờ mà ngồi viết chuyện đời tự kể. Sau đây là một vụ tôi thoát chết cháy: Năm 1935 tôi làm thư ký Sở hỏa xa Vân Nam tại Vân Nam, Trung Hoa. Sau kỳ nghỉ phép, tôi đáp xe hỏa Hà Nội - Vân Nam về sở làm. Nửa đêm, khi đoàn tàu gần tới ga Kai Uyên thì bị tuột dốc. Nhân viên trên tàu ra sức hãm thắng tay, tàu mới ngưng trôi. “Sếp” xuống đánh diêm coi tàu có an toàn trên đường sắt không thì lửa bùng cháy lớn. Cả toa xăng bốc cháy phừng phừng, thiêu rụi thêm nhiều toa khác. Tôi ngồi toa hạng III ở cuối đoàn tàu nên may được vô sự. Tôi nhận là may vì theo quy tắc, toa xăng phải được mắc nơi cuối đoàn tàu kế toa hạng III tôi ngồi. Nay vì chở ồ ạt, nhân viên hỏa xa mắc ẩu ngay sau đầu máy. Toa xăng cháy đó mà được mắc đúng phép thì tôi đã chết thiêu rồi còn gì! Ở trên là sáu nạn lớn do “thủy hỏa đạo tặc”, dưới đây mới là một ca tôi thoát chết hi hữu. 11g30 tan học, tôi cưỡi xe đạp từ Trường Servir về nhà. Trời bắt đầu mưa nặng hạt, tôi đang đạp miết theo lề đường bên trái để tránh cái xe bò cỡ trung đậu nghịch chiều bên phải thì đúng lúc đó anh chủ xe bò quay ngoắt xe sang lề trái. Tôi tránh không kịp, cả người lẫn xe bay phốc lên rồi “đáp” xuống, đứng sững giữa cái xe bò. Cũng may, nếu không tôi đã ngã lộn cổ, chẳng chết cũng tàn tật. Sự kiện quá ly kỳ. Mãi giờ đây, trên 76 năm qua ngẫm lại vẫn chịu, không lý giải được bằng cách nào mà tôi được bốc một cách an toàn lên cái xe bò đó. Để kết thúc câu chuyện: “Không nên tin thầy số mà phải tin: đức năng thắng số”. TRẦN ĐỨC QUÝ (TP.HCM) tuoitre.com.vn
  3. http://www.youtube.com/watch?v=83Pgxbl664s...feature=channel
  4. Gửi Mẹ Mít Nếu sinh đứa 2011 Tân Mão thì quá xấu. Khắc mẹ gần như hoàn toàn. Không nên sinh. Tốt nhất là sinh đứa Nhâm Thìn 2013. Rất hợp và gia đình sẽ khá. Thiên Đồng
  5. Vẻ đẹp bí ẩn của ngôi nhà xương :P Ngôi nhà Casa Batllo có tên địa phương là Casa dels ossos (Ngôi nhà xương) và dĩ nhiên nó có hình dạng như một bộ xương có đầu lâu. Ngôi nhà do kiến trúc sư Josep Maria Jujol và Antoni Gaudi thiết kế, được xây dựng từ năm 1905–1907 tại thành phố Barcelona của Tây Ban Nha. Ban đầu nó được thiết kế cho một gia đình trung lưu và nằm tại một quận phát triển của thành phố. Ngôi nhà có vẻ ngoài trông rất ấn tượng. Tầng trệt là nơi gây ngạc nhiên nhất với họa tiết hình mảng, các cửa sổ hình oval khác thường và các tác phẩm điêu khắc bằng đá độc đáo. Tác giả tránh tối đa việc sử dụng các đường thẳng. Hầu hết mặt tiền được trang trí bằng mosaic làm từ gạch gốm vỡ màu cam và xanh hơi lục. Mái nhà được thiết kế theo hình vòm và được ví với lưng của một con rồng hay khủng long. Một truyền thuyết phổ biến về tòa nhà đó là những điểm đặc trưng hình tròn về phía bên trái của trung tâm, kết thúc ở đỉnh của một tháp nhỏ và hình chữ thập đại diện cho thanh gươm của thánh George - người đã đâm vào lưng con rồng. Thao CAD - Thể Thao Văn Hóa
  6. Phong Thủy qua tận trời Tây. Tây cũng tin quá trời!. :P http://video.about.com/fengshui/How-to-Define-Your-Bagua.htm Cười Fengshui :P
  7. Trụ đồng Mã Viện - Một nghi án phong thủy! Hằng năm cứ vào ngày 6/2 âm lịch lễ kỷ niệm hai bà Trưng được cử hành tại nhiều nơi có người Việt sinh sống. Ðây là một sinh hoạt có tính lịch sử truyền thống. Vào năm 40 sau công nguyên (SCN), Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị quê ở Mê Linh đã dựng cờ khởi nghĩa, trước là trả thù cho chồng sau là đánh đuổi quân xâm lược, Hai Bà đã lấy được 65 thành trì và sau đó là xưng vương họ Trưng. Năm 42 SCN Mã Viện theo đường biển xua quân đánh trở lại. Trước thế giặc mạnh, quân hai bà chống cự không nổi, rút lui về Cẩm Khê và tan hàng từ đó. Sau khi xâm chiếm đất Giao Chỉ Mã Viện cho thực hiện hai công trình là: Dựng trụ đồng Mã Viện tại động Cổ Sâm, châu Khâm và xây thành Kiển Giang hình tổ kén ở Phong Khê. Trang lịch sử này đã gây nhiều tranh cãi về nhiều vấn đề như là: - Nguyên do khởi nghĩa của Hai Bà vì thù chồng hay vì nợ nước? - Hai Bà lập nên chế độ mẫu hệ đầu tiên ở Việt Nam chăng? - Ngày lễ kỷ niệm của Hai Bà cũng có sự khác biệt? Ngày 6/2 hay 6/3 Âm lịch? - Nguyên do cái chết của Hai Bà là nhảy sông tự tử hay bị chém đem đầu về Trung Quốc? Cho dù có đặt nghi vấn như thế nào chăng nữa chúng ta cũng phải thừa nhận một điều là Bà Trưng là vị nữ vua đầu tiên tại Việt Nam, một vị vua thành tựu do công sức và tài trí trực tiếp đánh quân xâm lược. Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa do lòng yêu nước chân chính của mình, xuất thân từ giai cấp quí tộc, chứ không phải từ quan niệm đấu tranh giai cấp như nhà sử học xã hội chủ nghĩa lý giải. Hai bà Trưng đã tạo dựng nên truyền thống vẻ vang nữ anh hùng dân tộc trong lịch sử Việt Nam. Ðền thờ Hai Bà Trưng tại xã Hát Môn, Sơn Tây đang trong giai đoạn trùng tu Một câu hỏi đặt ra là: tại sao trong suốt gần 2.000 năm kế tiếp dân tộc ta vẫn không xuất hiện được một vị nữ anh hùng thứ hai có tầm cỡ Bà Trưng cho dù lịch sử Việt Nam là lịch sử của chiến tranh chống ngoại xâm từ đó cho đến nay? Phải chăng người phụ nữ Việt Nam yếu hèn? Hay là có sự cản trở bởi một huyền lực nào đó xuất phát từ thời gian sau khi Hai Bà Trưng thua trận, đất nước rơi vào sự đô hộ của người Hán, mà lịch sử chưa làm sáng tỏ chăng? Thật vậy nghi vấn đó phát xuất từ hai hành vi cụ thể đầy bí ẩn của Mã Viện sau khi xâm chiếm đất nước ta chưa được lý giải rõ ràng. Theo Khâm Ðịnh Việt Sử Thương Giám Cương Mục (KDVSTGCM), trang 24-25 ghi: “Trưng vương cùng em gái là Nhị cự chiến với quân Hán, quân vỡ, thế cô, đều bị thất trận chết. Mã Viện đuổi đánh quân đội của hai bà là bọn Ðô Dương đến huyện Cư Phong thì hàng phục được họ. Mã Viện lập cột đồng để ghi địa giới tận cùng của Nhà Hán…”. Sách Thủy Kinh Chú của Lịch Ðạo Nguyên chép rằng: Mã Văn Uyên (tức Mã Viện) dựng cái mốc đồng để làm giới hạn cuối cùng của đất phía nam Trung Quốc... Sách Nhất Thống Chí nhà Ðại Thanh có chép: Tương truyền cột đồng ở về động Cổ Sâm châu Khâm, Mã viện có thề rằng: “Ðồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt”, nghĩa là “Cột đồng ấy gãy thì Giao Chỉ bị diệt”, nên người Việt đi qua dưới chân cột đồng ấy cứ lấy đá bồi đắp lên mãi thành gò đống cao. Ðó vì sợ cột đồng ấy bị đổ gãy. Tướng Mã Viện nhà Hán đắp thành Kiển Giang. Vì thấy huyện Tây Vu có đến ba vạn ba nghìn hộ, Mã Viện xin chia ra làm hai huyện Phong Khê và Vọng Hải. Vua Hán y cho Mã Viện lại lập hành quách, đặt tỉnh ấp (xóm làng), đắp thành Kiển Giang ở Phong Khê. Thành này hình tròn như cái Tổ kén. Nên gọi là thành Kiển giang. Ba năm sau Mã Viện về nước. A- Trụ Ðồng Mã Viện Trải qua một thời gian dài bị đô hộ dưới thời Hán thuộc, trụ đồng Mã Viện đã hoàn toàn mất hết dấu tích nhưng vẫn còn để lại nhiều nghi vấn lịch sử như sau: I - Sự thật của trụ đồng Trụ đồng Mã Viện là một câu chuyện có thật, đã được ghi vào sử liệu của cả hai nước Trung Hoa và Việt Nam. Ðây không phải là một huyền thoại hay là hư cấu. Vào đời vua Trần Thánh Tôn, Ngài đã cho người đi tìm lại dấu tích cột đồng nhưng không thấy. “Tháng 4 mùa hạ (1272,) sai viên ngoại lang là Lê Kính Phu sang hội với người nhà Nguyên biện luận việc cương giới. Nhà Nguyên sai Ngột Lương sang hỏi giới mốc đồng trụ ngày trước, nhà vua phái Lê Kính Phu đi hội đồng khám xét. Kính Phu nói với Nhà Nguyên rằng: “Chỗ cột đồng do Mã Viện dựng lên lâu ngày bị chìm lấp, nay không thể biết ở chỗ nào được”. Việc đó sau cũng thôi... ( KDVSTGCM, Quyển VII tr. 219) “Tháng 8 mùa thu (1345) Sai sứ sang nhà Nguyên. Nhà Nguyên sai Vương Sĩ Hành sang hỏi địa giới cột đồng ngày trước. Nhà vua sai Phạm Sư Mạnh sang Nguyên biện bạch sự việc này” (KDVSTGCM, Quyển IX Tr.279). II - Vị trí của trụ đồng Ða số sử liệu đã thống nhất vị trí của trụ đồng như sau: - Sách Nhất Thống Chí nhà Ðại Thanh chép: Cột đồng ở về động Cổ Sâm, châu Khâm. - Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư Ngoại Ký của Lê Văn Hưu Quyển III Tr. 22 ghi: Mã Viện bèn dựng cột đồng làm giới hạn cuối cùng của nhà Hán. Cột đồng tương truyền ở trên động cổ Lâu, châu Khâm. Tóm lại theo sử liệu trên có thể kết luận là trụ đồng nằm ở vùng Châu Khâm tại động Cổ Sâm hay Cổ Lâu thuộc vùng biên giới cực bắc Giao Chỉ cũng là cực nam nhà Hán. Một vấn đề cần được sáng tỏ nữa là: châu Khâm là huyện biên giới giữa Giao Chỉ và Nam Hán hiện nay nằm ở đâu? Theo tài liệu nghiên cứu mới nhất của bác sỹ Trần Ðại Sỹ, Giám đốc Trung Quốc sự vụ, viện Pháp Á “Thử tìm lại biên giới cổ của Việt Nam bằng cổ sử, bằng triết học, bằng di tích và hệ thống DNA”, thì: Sau khi dẫn chứng lịch sử thời hai bà Trưng, di tích, cổ vật, cùng kết quả thử nghiệm DNA đã kết luận rằng: Biên giới cổ của nước Việt Nam với các triều đại Hồng Bàng, Âu Lạc, Lĩnh Nam phía Bắc quả tới hồ Ðộng đình, phía Tây giáp Tứ Xuyên. Sự phát hiện này có thể xác quyết một điều là vị trí trụ đồng nằm ở biên giới phía Bắc Việt Nam qua thời gian đô hộ đã bị Trung Quốc lấn chiếm và vùng đất động Cổ Sâm (Cổ Lâu) hiện nằm sâu trong lãnh địa Trung Quốc hiện nay. III - Ý nghĩa câu “Trụ đồng chiết, Giao Chỉ diệt” Trong hầu hết cổ sử Trung Quốc và sử Việt ghi chép lại, giải thích câu này chỉ là một lời thề. Ðiểm này có nhiều nghịch lý. 1. Ðây không thể là một lời thề. Thật vậy, Mã Viện là người đi chinh phục và vui mừng thắng trận, nên không có động cơ nào để tạo ra một lời thề ghi trên trụ đồng. Vì vậy sách sử gọi đây là lời thề là không đúng sự thật. 2. Ý nghĩa câu chữ “Trụ đồng chiết, Giao Chỉ diệt” ngầm ý hăm dọa cũng như gây hận thù với dân tộc Giao Chỉ rất là phi chính trị. Theo sử sách cho biết Mã Viện là một danh tướng văn võ song toàn giỏi quân sự lẫn chính trị, có thể nào ngây ngô đưa ra một lời thề phi chính trị như trên hay không? Tất nhiên là không, vì thế Mã Viện cố tình ghi khắc câu này tất phải có mưu đồ sâu độc nào đó đối với đất nước Giao Chỉ vậy. 3. Ða số sách sử Trung Hoa cũng như Việt Nam đều giải thích câu: “Ðồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” là trụ đồng gãy thì dân Giao chỉ bị giết. Chữ Chiết mà dịch là gãy đúng với ngôn ngữ, thế nhưng trong trường hợp này có điều không ổn. Vì rằng một cột trụ đồng kim loại, đặc ruột dựng giữa thiên nhiên thì làm sao có thể gãy được? nếu so với một cây cau, một cây dừa thân mộc, cao, tán cây rộng lung lay trước gió bão còn có thể đứng vững. Thì đây là một nghịch lý. Do vậy, sự dịch thuật câu chữ này hoàn toàn sai lầm một cách cố tình nhằm che dấu một bí mật lịch sử sẽ được phân tích rõ ở dưới đây. IV- Công dụng của trụ đồng Hiện nay vẫn còn nhiều tranh cãi và cũng chưa có lời đáp thích hợp. 1) Theo sử gia Phạm Văn Sơn chuyện cột đồng Mã Viện thiết tưởng không đáng tin lắm chỉ nên coi là một giai thoại không hơn không kém... Nếu coi cột đồng Mã Viện là một mỹ đàm thì chép vào sử để làm một câu chuyện kể chơi cho có thú vị thiết tưởng không hại gì. (Việt sử Tân Biên, tr.199). Ðây chỉ là lối nói huề vốn khi không lý giải được những nghịch lý của câu chuyện trụ đồng, do vậy không đáng tin cậy. Viết lịch sử của một dân tộc cần sự nghiêm túc chứ không phải là chuyện mỹ đàm, kể chơi cho vui. 2) Theo tác giả Trương Thái Du trong bài “Một cách tiếp cận những vấn đề cổ sử Việt Nam (Talawas - lịch sử). Cột đồng Mã Viện dựng năm 43 ở quận Giao Chỉ và Tây Ðồ Di cũng chính là đài quan trắc thiên văn... Trong công tác thiên văn thời Mã Viện, để xác định những vùng đất mới, cần phải tiến hành quan trắc các chỉ số năm này qua năm khác. Cột thiên văn chuẩn phải vừa tránh được thời tiết xâm hại, vừa bền vững nên chất liệu đồng đã được chọn. Muốn đo đầy đủ thì phải cử người ở lại làm việc, ít nhất là hằng năm tập hợp số liệu đem về kinh đô. Chuyện dân gian Việt Nam kể rằng Mã Viện từng dựng cột đồng ở Bắc Việt lại càng khẳng định đây là cột thiên văn chứ không phải mốc giới. Chẳng ai đem mốc giới để giữa nơi đô hội, để mỗi người đi qua ném một hòn đá vào đấy mong cột đừng đổ. Câu “Ðồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” của Mã Viện ngầm bảo phải coi sóc “đài thiên văn” bỏ túi kia cẩn thận. Cơ sự là thế! Con toán thiên văn nhỏ của tôi ở tiểu mục 1 là minh họa suốt bài viết này. Giả thiết này khó thuyết phục bởi những nghịch lý sau: Một cột đồng đặc ruột thuần túy trồng giữa trời mưa nắng không thể gọi là một đài (?) thiên văn được. Theo người viết hiểu ý của tác giả là trụ đồng Mã Viện được sử dụng như là một cái cột chuẩn để đo lường sự di chuyển của bóng mặt trời, mặt trăng... Nếu chỉ với công dụng như vậy thì chẳng cần phải dùng cột đồng làm gì cho năng nhọc, thực hiện khó khăn (từ việc gom đồng, đúc cột, điêu khắc, di chuyển, dựng cột...), rất tốn kém tiền bạc, công sức và thời gian. Ngoài ra còn viện lý do khỏi bị thời tiết xâm hại lại không chuẩn. Vì rằng cột đồng to và cao đủ để đo bóng mặt trời thì rất nặng hàng tấn tạo sức ép trên một tiết diện nhỏ thì với thời tiết mưa lụt khí hậu ẩm thấp, đất ướt, mềm nở ra rất dễ bị lún, hay đổ ngã nguy hiểm. Với độ lún hằng năm của trụ đồng, thì độ đo đạc lại càng thiếu chính xác, sẽ làm giảm mất giá trị công dụng nói ở trên. Với trụ gỗ tốt vừa nhẹ, bền, dễ kiếm, dễ bảo quản, dễ thay thế, lại đạt yêu cầu trên có lẽ hợp lý hơn cột đồng. Với uy danh của một tướng lãnh thống trị đương thời chắc chắn có rất nhiều cách để bảo quản trụ đồng cần gì phải ngầm bảo dân bị trị phải coi sóc “đài thiên văn” bỏ túi kia cẩn thận bằng câu “Ðồng trụ chiết, Giao chỉ diệt” vừa vô chính trị đối với một vị tướng văn võ toàn tài, vừa mất tư cách đạo đức của một kẻ đi thống trị. Với toán công tác thường trực ghi số liệu báo cáo hằng năm không đủ sức bảo quản trụ khí tượng hay sao, mà cần phải ngầm bảo dân bị trị coi sóc? 3) Theo cổ sử, cột đồng chỉ là cột mốc biên giới mà thôi. Lối giải thích này cũng không thỏa đáng. Nếu là cột mốc biên giới tại sao không ghi những thông tin cần có của vùng biên giới mà lại ghi câu: “Trụ đồng chiết , Giao Chỉ diệt” trên cột đồng? Thứ nữa là cột mốc biên giới tại sao không đặt tại những con đường đi giữa ranh giới của hai nước, mà lại đặt tại một hang động trong vùng hẻo lánh? B - KIỂN THÀNH Là công trình cụ thể thứ hai của Mã Viện đã hoàn thành trước khi về nước. Theo sách sử giải thích thành Kiển Giang có hình tổ kén của con tằm, như vậy nó có hình tròn và dài túm hai đầu, chứ không đơn giản là hình tròn ghi trong sử liệu, đã đem lại nhiều ngộ nhận cho người đọc sử. Hình dáng của Kiển Thành cũng đem là nhiều nghi vấn. Thật vậy đây là loại thành quách quân sự rất hiếm thấy trong sử sách, là loại hình dài và gầy hẹp có rất nhiều nhược điểm như sau: - Dễ bị tàn phá bởi thời tiết gió bão, thật vậy một trường thành dài và ốm sẽ hứng chịu nhiều sức tàn phá của gió bão hơn là một bức thành ngắn, tròn hay vuông và rộng. - Mục đích xây thành cho dân ở vì dân số đông mà lại xây thành hình ốm và đài là không kinh tế và khó có thể thỏa mãn đầy đủ nhu cầu phát triển cư dân về lâu dài. - Về mặt quân sự một trường thành dài rất khó trấn thủ vì tốn kém nhiều nhân lực canh gác, và khó tiếp ứng từ đầu này đến đầu khác. Vì thế câu hỏi đặt ra là tại sao không xây thành hình vuông, đa giác lồi hay hình tròn bình thường như những thành quách khác mà lại xây thành hình cái kén? Ẩn ý của kiến trúc này là gì vẫn chưa được giải đáp trong sử sách. Tóm lại, những nghịch lý trên của lịch sử đã trải qua gần 2.000 năm vẫn chưa được lý giải minh bạch dưới nhãn quang của các nhà sử học hay nhà khảo cổ. Thế nhưng, nếu nhìn sự việc trên đây bằng nhãn quang của một nhà phong thủy thì tất cả mọi nghi vấn trên đều được giải đáp thỏa đáng. Thật vậy đây là một trận đồ phong thủy mà Mã Viện bày ra nhằm hãm hại đất nước Giao Chỉ. Hai Bà Trưng đối với Việt Nam là những anh hùng dân tộc, thế nhưng theo quan niệm của triều đình Hán hai bà Trưng chỉ là "kẻ giặc". Theo An Nam Chí Lược (trang 40) do tác giả Lê Tắc là người Việt Nam, chạy qua sống ở Trung Hoa và viết sử theo quan niệm của Trung Hoa như sau: Năm Kiến Võ thứ 16 của Hán Quang Vũ Ðế (sau công nguyên 40), người đàn bà Giao Chỉ là Trưng Trắc làm phản, quận Cửu Chân và quận Nhật Nam đều hưởng ứng theo. đành các quận ấp, cướp được 60 thành, rồi tự lập làm vua... Ðến năm Kiến Võ thứ 19 Mã Viện chém yêu tặc là Trưng Nhị (Nhị là em gái của Trưng Trắc) và đánh luôn dư đảng, bọn Ðô Lương, đến huyện Cư Phong, bọn này chịu đầu hàng... Vào thời đại nhà Hán, thuật phong thủy, địa lý rất thịnh hành, tất cả những công trình xây dựng mồ mả, lâu đài đều tuân hành nghiêm túc quy luật địa lý phong thủy. Ảnh hưởng bởi quan niệm này, Mã Viện sau khi trừ diệt được hai Bà Trưng (?) đã bày một trận đồ phong thủy để diệt tận gốc yêu quái, trừ hậu hoạn, nhằm hãm hại đất nước ta không còn vua nữ giới nữa bằng những hành động như sau: 1- Mã Viện cho dựng một trụ đồng tại động Cổ Sâm hay Cổ Lâu, nghi vấn đặt ra là tại sao không đặt nơi đồng bằng trống trải dễ thấy hay tại những con đường đi lại giữa hai nước như là cột mốc bình thường mà lại đặt tại một hang động? Chỉ có thể trả lời là động Cổ Sâm chính là huyệt hàm rồng kết phát làm vua của đất Giao Chỉ nên Mã Viện muốn phá hủy để đất nước không còn vua nữa, dễ bề cai trị. Nếu tự nhiên Mã Viện cho đào sâu xuống để chôn hoàn toàn một trụ đồng mà không có lý do chính đáng thì mọi người sẽ nghi ngờ, và gặp nhiều khó khăn trong thực hiện, vả lại cũng kém hiệu quả về mặt phong thủy. Vì thế mà Mã Viện đã thâm độc, cho dựng đứng trụ đồng không cần phải chôn sâu và ghi khắc câu chữ “Trụ Ðồng chiết, Giao Chỉ diệt” bề ngoài như là hăm dọa, nhưng thực chất là khiêu khích lòng tự ái dân tộc của dân Giao Chỉ, sau đó ngầm hỗ trợ cho người dân mỗi ngày ném gạch đá vào trụ đồng để chôn lấp. Sự việc này có hai tác dụng thứ nhất là giữ cho trụ đồng không bị nghiêng ngả với thời gian, thứ hai trụ đồng nặng hàng tấn tạo một sức ép mạnh trên một tiết diện nhỏ thì dễ dàng từ từ lún sâu vào lòng đất mỗi khi thời tiết mưa ẩm, đất nở và mềm ra. Có như vậy mới che dấu được quỷ kế thâm độc của mình và tác dụng phong thủy lại càng tăng cao. 2- Ý nghĩa thật sự của câu: “Ðồng trụ chiết... Giao Chỉ Diệt”, Ðây là một câu thần phù còn ẩn dấu một hai chữ để che đậy âm mưu phá huyệt phong thủy. Thật vậy chữ Chiết ở đây không có nghĩa là gãy mà có nghĩa là tách làm hai, ví dụ như chiết cành chẳng hạn. Do đó câu trên nên giải thích là “trụ đồng tách huyệt (đế vương) ra làm hai, vua Giao Chỉ bị giết”. Chứ không thể dịch là trụ đồng bị gãy, dân Giao Chỉ bị giết hoàn toàn phi lý. Như vậy câu trên có hai chữ bi ẩn dấu là chữ huyệt và chữ vương. 3- Kiển Thành hình cái kén, nếu chúng ta tách rời hai sự kiện này ra thì sẽ không thấy âm mưu sâu độc của Mã Viện, vì thế người viết, kết hợp cả hai sự kiện này bằng một hình vẽ tượng hình, bạn đọc sẽ thấy rõ ràng hơn: Hình dáng Kiển Thành, tổ con tằm, (Âm: Thủy) tượng hình của người đàn bà, kết hợp với hình dáng trụ đồng Mã Viện, (Dương: Hỏa) tượng hình của người đàn ông. Theo Kinh Dịch lý thuyết Vũ trụ: Thái Cực - Lưỡng Nghi - Tứ Tượng - Bát Quái. Theo thuật phong thủy, nói về nhà cửa thường sử dụng bùa bát quái để trấn yểm hướng xấu. Trong phạm vi rộng lớn của một đất nước, bùa bát quái không có hiệu lực, vì thế Mã Viện đã sử dụng một loại bùa rất hiếm hoi đề cập trong sách vở đó là loại bùa Lưỡng Nghi tức là bùa Âm Dương có hiệu lực cao hơn bùa bát quái hai bậc theo Kinh Dịch. Loại bùa này được thực hiện bởi hai công trình: Kiển Thành (Âm thủy) và trụ Ðồng Mã Viện (Dương Hỏa).Ngoài ra, nói theo kiểu dung tục thì Mã Viện đã chơi một trò rất thô bỉ là “Ðóng cọc người đàn bà Giao Chỉ” nhằm triệt tiêu con đường kết phát vương quyền cho nữ giới Việt Nam sau này. Với chứng cứ đê tiện này cũng có thể chứng minh truyền thuyết quân Mã Viện lúc giao chiến với đội quân nữ giới của Hai Bà đã chơi trò đồng loạt “Cởi truồng” làm hổ thẹn nữ binh không phải là không có lý. Tóm lại câu chuyện trên có thể kết luận như sau: - Cột đồng Mã Viện là một dụng cụ phong thủy chôn tại động Cổ Sâm nhằm mục đích phá vỡ huyệt kết phát vương quyền của đất Giao Chỉ. - Câu “Ðồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” là một câu thần phù hay nói đúng lời là một lời nguyền có hiệu lực cho đến khi được giải mã (?). - Hình dáng Kiển Thành kết hợp với trụ đồng Mã Viện tạo nên một đạo bùa Lưỡng Nghi nhằm trấn yểm không cho người đàn bà Giao Chỉ (mà thời nhà Hán gọi là yêu nữ) tiếp nối truyền thống anh hùng dân tộc. Sở dĩ loại bùa chú này có hiệu lực lâu dài bởi hội đủ những điều kiện sau đây: - Ðặt đúng huyệt vị. - Ðiều quan trọng nhất không ai có thể hại mình bằng chính mình hại mình. Dựa vào nguyên tắc này Mã Viện đã thâm hiểm khích tướng để cho dân Giao Chỉ ném đá vào trụ đồng để giữ vững cho chôn trụ đồng có thời gian tự lún sâu vào huyệt đạo tạo thêm hiệu lực cho bùa trấn yểm. - Thời gian hiệu lực của bùa chú càng lâu dài nếu bí mật của nó chưa được tiết lậu, các sử gia Trung Quốc vì quyền lợi Trung Quốc đã che đậy sự việc này và dối trá cho đây chỉ là cột mốc biên giới đơn thuần mà không có giải thích toàn bộ sự kiện. Và theo truyền thuyết bùa ngải, phong thủy, nếu một người mà dùng bùa chú hại người khác nếu được cao nhân cứu giải thì loại bùa chú đó sẽ trở lại tác động với chủ nhân của nó. Vì thế người Trung Quốc rất sợ phản đòn và rất kín miệng về sự việc này. Ngoài ra để cho đất Giao Chỉ không còn huyệt phát vua chúa nữa, Hán tộc đã âm thầm cướp trắng một phần đất của Giao Chi, trong đó có vùng châu Khâm động Cổ Sâm và xóa tan dấu tích để người dân Việt không còn phương cách truy cứu. Và sự việc này cũng không được ghi chép vào sử sách của Việt Nam dạy cho học sinh sau này!!! Sưu Tầm. forum.wru.edu.vn/forums/t/15690.aspx
  8. Gửi Chip1978, Nên sinh đứa út là Canh Dần. Theo tuổi Canh Dần này, tuy không phải là tốt nhất nhưng cũng thuộc loại trung bình khá, cơ bản.
  9. gửi Liarnguyen, Nên sinh đứa Canh Dần, vợ chồng sẽ vững và khá trở lại. Thiên Đồng
  10. BA LÀNG VIỆT TỘC TRONG NỘI ĐỊA BIÊN THUỲ TRUNG QUỐC Ba làng người "Trung Hoa gốc Việt tộc" đang sinh sống phát triển trong nội địa nước Tầu hiện nay không phải là một điều bí mật hay rất ít người biết nữa như trước đây. Trái lại, nó được chính thức kể như một trong số hơn 50 sắc dân thiểu số tại Trung Hoa, chiếm cứ khoảng 6.6% toàn thể của dân số của quốc gia này là 1.3 tỉ nhân khẩu. Riêng về Việt tộc - còn gọi chính thức là Kinh tộc (the Jings) - có con số nhân khẩu khiêm tốn gồm khoảng hơn 15,000 người, tụ cư sinh sống trong ba hòn đảo nhỏ là Vạn Vĩ (Wanwei), Ô Ðầu (Wutou) và Sơn Tâm (Shanxin) trong vùng tỉnh Quảng Tây. Hình ảnh cô gái Việt hay Kinh tộc xinh đẹp với cái nón lá hình chóp đã được tài liệu hay bích chương du lịch của Trung Hoa trưng lớn lên như mời mọc du khách quốc tế. Tôi tự hỏi tại sao người Việt mình ngày nay sẵn sàng đi du lịch Trung Quốc một cách dễ dàng lại không tạo dịp đi thăm ba làng Việt tộc nói trên. Trước hết là tỏ một mối tình thâm trầm man mác đối với những người vốn là đồng bào đồng tộc với chúng ta nhưng vì hoàn cảnh lịch sử xa xưa lại không còn ở chung một địa bàn địa lý với chúng ta; sau là chúng ta có dịp sưu tầm lại những di sản quí báu về tinh thần mà những người Việt tộc này vẫn còn lưu giữ sau gần 500 năm xa lìa quê hương gốc như 30 điệu hát đúm vào ngày hội Tết đầu xuân và những tài liệu viết bằng chữ Nôm của họ. Mục tiêu vấn đề du lịch thăm ba làng Việt tộc ở Trung Quốc là như thế nhưng muốn thực hiện chúng ta cần phải thu thập những yếu tố dữ kiện nào trên thực tế. Sau đây là những điều cụ thể mà tôi đã tra cứu cẩn thận nên trình bày ra để chia xẻ cho những ai đồng chí hướng thích sự ngao du thích thú sưu tầm: Tài liệu về lịch sử và sự phát triển, sinh hoạt của những người Kinh hay Việt tộc (mà tôi tạm dùng chữ Kinh Việt viết tắt là KV trong bài này) được mô tả rất đầy đủ trong những sách của Trung Hoa như Dân Tộc Tri Thức Thủ Sách (Dân tộc Xuất bản xã năm 1982) viết bằng Hoa ngữ - China's Minority Nationalities (Foreign Language Press năm 1989) bằng Anh ngữ. Qua hai tài liệu trên, chúng ta được đọc về Kinh Việt tộc như sau: Nguồn gốc Kinh Việt tộc Kinh tộc - ngày xưa xưng là Việt tộc - là một trong những dân thiểu số của Trung Hoa. Kinh Việt tộc chủ yếu nằm rải ra ở các địa khu của những dân tộc tự trị ở vùng duyên hải thuộc khu Phòng Thành của tỉnh Quảng Tây. Theo thống kê 1982, Kinh Việt tộc có 11,995 nhân khẩu. Hồi trước Kinh Việt tộc là một bộ phận của nòi Lạc Việt thời xa xưa, nhưng vào đầu thế kỷ thứ 16, họ đã từ vùng Ðồ Sơn của Việt Nam hiện giờ lục tục di cư đến địa điểm bây giờ, tụ cư trên ba hòn đảo nhỏ gọi là ba làng là Vạn vĩ, Vu đầu và Sơn Tâm thuộc huyện Giang Bình nên người ta quen gọi là "Kinh tộc tam đảo." Tiếng nói và Văn tự của người Kinh Việt thế nào? "Dân Kinh Việt tộc tam đảo vốn nói tiếng Kinh hay Việt và có một văn tự gốc gọi là "chữ Nôm, nhưng từ lâu họ cũng nói tiếng địa phương Quảng Châu và xử dụng Hán tự." Tiếng nói Kinh Việt "Nguồn gốc Kinh ngữ (hay Việt ngữ) theo Dân tộc Từ điển của Thượng hải (1987) có thể thuộc vào hai giả thuyết trên ngữ hệ: thứ nhất là thuộc Hán Tạng ngữ hệ, thứ hai là thuộc Nam Á ngữ hệ. Theo sự phân tách của sách này, Kinh (hay Việt) ngữ rất gần tiếng các dân tộc Choang (Tráng) và Ðồng được phân bố tại các huyện tự trị lân cận. Kinh Việt ngữ có 28 thanh mẫu, 106 vận âm. Nguyên âm KV chia thành nguyên âm dài và nguyên âm ngắn. Phụ âm vận ở cuối từ có 6 vận là: (-k), (-m),(-n),(-ng), (-p), (-t), ví dụ như cac(k), nam, man, mang, map, mat. Thanh điệu có năm bực là: trung bình, đê giáng, khúc triết, cao thăng, đê bình, tức là năm dấu giọng. Về ngữ pháp, dân KV không nói ngược như dân Hán như họ gọi Ông Thôn để chỉ chức trưởng thôn xã, Ông Kiểm để chỉ chức kiểm soát an ninh trật tự. Chữ Nôm Kinh Việt "Viết về chữ Nôm của ba làng KV này, tài liệu Anh ngữ China’s Minority Nationalities (CMN) nói thật rõ như sau: "Người Kinh có một thứ văn tự ghi chép riêng của họ gọi là chữ Nôm (chữ Hoa ghi là Tự Nam, chữ Anh phiên âm là Zinan). Ðược cấu tạo dựa trên căn bản của Hán tự vào cuối thế kỷ 13, chữ Nôm nay được lưu truyền trong những sách thi ca cũ và những bộ kinh tôn giáo." Chúng ta chưa thấy tự dạng và cấu trúc của nó ra sao, nhưng chắc chắn nó phải là chữ Nôm của Việt Nam vào cuối đời Hậu Lê chắc chắn nó phải cổ và chính thống hơn chữ Nôm của ta từ nhà Nguyễn về sau. Nếu ta sưu tầm được chữ Nôm Kinh Việt này, chúng ta có thể hiểu nhiều tiếng Việt thời cổ hơn. Diễn biến quá trình định cư của dân Kinh Việt "Tổ tiên người Kinh di cư từ Việt Nam sang Trung Quốc vào khoảng đầu thế kỷ 16. Thuở ban đầu thì họ định cư trên ba hòn đảo không người ở vì các vùng lân cận đã có người Hán và người Choang (Trang tộc) chiếm cứ sinh sống rồi. Tuy sống chen vai thích cánh với người Hán và người Choang, người Kinh đã tạo dựng nên một khu lãnh giới riêng cho mình nhưng qua nhiều thế kỷ, họ đã hàn chặt nhiều mối liên lạc mật thiết với dân tộc láng giềng. Theo tài liệu bằng chữ Nôm mà người Kinh còn lưu giữ trong một ngôi đình của họ, tổ tiên của Việt tộc tam đảo đã từ bãi Ðồ Sơn (tỉnh Hải Phòng Việt Nam) đến vùng đất này vào năm Hồng Thuận. Theo Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim, Hồng Thuận vào cuối đời Hậu Lê tức là đời vua Lê Tương Dực (1510 - 1516), như vậy dân Kinh hay Việt tộc đã sinh sống lập nghiệp trên đất Trung Hoa gần như tròm trèm 500 năm. Hiện nay, chúng ta chưa rõ tại sao dân Kinh Việt lại di cư qua Trung hoa? Vì vùng đất của họ nằm gần như sát biên thùy Việt Hoa tức là huyện Móng Cái tỉnh Quảng Ninh của Việt Nam ngó qua Ðông Hưng của Trung Hoa, nên chúng ta có thể phóng đoán rằng ngày xưa giữa Trung Hoa và Việt Nam không có con đường phân định rõ ràng về biên giới có tọa độ rõ ràng. Do đó, đám người Kinh Việt cứ thấy vùng nào không có ai ở thì tới cắm dùi lập nghiệp sinh sống, chẳng chính quyền nào kiểm soát. Lằn biên giới Hoa Việt mới chính thức vạch ra sau Hiệp ước Fournier-Lý Hồng Chương, chạy dọc theo kinh tuyến 108 độ 3 phút 13 giây, vùng nào về phía tây của kinh tuyến thuộc về Việt nam (thời ấy do Pháp đô hộ), còn vùng nào ở phía đông kinh tuyến thì thuộc về lãnh thổ Trung Hoa. Do đó, vùng đất mà dân Kinh Việt chiếm cứ định cư trong bao nhiêu thế kỷ bỗng nằm lọt vào lãnh thổ Trung Quốc. Rồi trải bao nhiêu thời gian, dân Kinh Việt cứ yên thắm sống trong vùng mà nhà nước Trung Hoa gọi là "Tự trị khu" chung với những sắc dân thiểu số như Choang, Dao trong tỉnh Quảng Tây. Cho đến cuối 1952 - sau năm 1949 khi chính quyền Trung Cộng chiếm toàn lục địa Trung Hoa thì mới bắt đầu thành lập ba thôn làng là Vạn Vĩ, Vu Ðầu và Sơn Tâm để rồi 1958 thì ba làng Kinh Việt này hợp cùng các làng khác của dân Choang và Dao để làm thành huyện tự trị Ðông Hưng. Vào cuối năm 1979 thì các huyện tự trị này họp thành trấn Phòng Thành tự trị cho đến nay. Phong tục tập quán của dân Kinh Việt "Ta thử xem 500 năm qua xa xứ người Kinh Việt còn giữ dấu tích gì của quê hương mẹ không? Họ mặc áo quần ra sao? "Y phục của người Kinh rất đơn giản và thực tế. Phụ nữ ăn mặc theo cổ truyền với những chiếc áo ngắn, không cổ, chẽn bó vào thân mình, cài nút phía trước, trên đầu đội quấn một cái khăn rằn, dưới mặc những tấm quần rộng nhuộm đen hay nâu. Khi ra ngoài, phụ nữ thường mặc thêm áo dài tay chật nhuộm màu sắc nhạt hơn. Họ đeo bông tai. Tóc phụ nữ phần lớn rẽ ngôi ở giữa và tóc xỏa hai bên, phía sau lại dùng vải đen hay khăn đen buộc lại. Dân quê còn đi chân đất. Còn đàn ông thì thường mặc áo cộc để làm việc, cổ quấn khăn, nhưng khi có hội hè thì họ mặc những áo dài chùng tới gối, hai vạt trước sau đối nhau và có giải quấn ở eo lưng. Bây giờ người Kinh ăn mặc giống như người Hán láng giềng, mặc dù còn một số ít bà cụ già còn giữ lối ăn mặc theo cổ tục và một thiểu số phụ nữ trẻ còn búi tó và nhuộm răng đen vì vẫn còn tục ăn trầu, còn đàn ông thì đương nhiên ăn mặc thực tế theo hiện đại như những dân lân cận khác. Một điểm về mầu sắc là phụ nữ Kinh Việt khoái mầu vàng và mầu nâu non, vì hàng năm vào ngày quốc khánh của Trung Quốc thì có đội nữ dân quân Giang Bình "chít khăn vàng, mặc áo nâu non, quần đen, vai đeo súng, lưng thắt băng đạn đi diễu binh trước khán đài" (Làng Việt biên thùy - báo Sài Gòn Giải Phóng ngày 20 tháng Tám năm 1995). Họ ăn uống thế nào? "Về ẩm thực, dân Kinh Việt ăn cơm là chính, ngoài ra còn ăn khoai sắn, khoai sọ, thích ăn cá tôm cua. Ngày Tết, họ thích ăn xôi chè (hỉ hoan cật nhu mễ phạn hòa nhu mễ đường chúc). Họ làm nước mắm cá để chấm và nêm thức ăn. Một điểm lý thú là dân Kinh Việt thích ăn hai món sau, ăn hoài không ngán: Ðó là "bánh đa" bằng bột gạo có rắc mè nướng trên than hồng mà sách Tầu gọi là Phong xuy hỉ - bánh phồng do gió thổi! - và "bún riêu, bún ốc" mà sách Hán tự ghi là Hỉ ty tức là sợi bún nấu với canh cua và ốc. Phong tục, tín ngưỡng và văn hóa Kinh Việt ra sao? "Nhà cửa của dân Kinh Việt thì thấp, làm bằng gỗ hay tre đan thành phên. Phong tục hôn nhân thì một vợ, một chồng, thuở trước thì thường do cha mẹ hai bên xếp đặt bao biện. Trai gái cùng họ và anh em cô cậu cấm lấy nhau. Về tang ma thì chôn dưới đất. Trừ một thiểu số theo đạo Thiên chúa, phần lớn dân Kinh Việt theo Phật giáo, cúng vái đủ thứ thần thánh và sùng bái tổ tiên. Sinh hoạt văn hóa và văn nghệ Kinh tộc ra sao? Dân tộc Kinh rất ưa thích lối hát đối đáp giao tình (antiphonal songs) nghe du dương và trữ tình, kiểu như hát Quan họ hay hát đúm quen thuộc ngoài Bắc ta bây giờ. (Tài liệu Anh ngữ CMN của Trung hoa về Kinh tộc đã dùng chữ rất đúng để dịch chữ hát đối hay hát đúm vì "Antiphon" là lối hát chia thành nhiều phần đối đáp và xen kẽ luân phiên - Antiphon is a hymn, psalm etc... chanted or sung in responsive and alternating parts - Webster's New World Dictionary). Lối hát đúm hát đối này thường được dân Kinh long trọng diễn vào ngày Tết của họ mà họ gọi là "Hát Tết." Hát đúm, hát đối là do những cô gái gọi là "Hát muội" (Muội là em gái). Tài liệu Hoa ngữ DTTT về Kinh tộc trang 91 đã đặc biệt khen rằng: "Người Kinh trên phương diện sinh hoạt phấn đấu trường kỳ đã sáng tạo một nền văn hóa rực rỡ muôn màu, nội dung của nền văn học truyền khẩu thật phong phú, ca khúc và khúc điệu đạt đến 30 loại. Ðàn bầu là một nhạc khí chỉ riêng Kinh tộc có mà thôi. Phê bình về âm nhạc và dân ca của Kinh tộc, sách Hoa ngữ nói rằng: "Lời ca thuần phác, khúc điệu bình dị ít biến hóa." "Về phương diện nghệ thuật, tài liệu Anh ngữ CMN nói thêm thật rõ về Kinh tộc như sau: "Nhạc cụ cổ truyền của người Kinh gồm có đàn nhị (two-stringed fiddle), sáo trúc, trống, cồng và cây độc huyền cầm (single-stringed fiddle) là cây đàn đặc thù của họ. Những truyện dân gian và cổ tích của họ rất nhiều. Những điệu múa ưa chuộng của người Kinh là múa đèn, múa gậy sặc sỡ nhiều màu, múa rồng và múa y phục thêu thùa. Theo sách Dân Tự Trị Thủ Sách của Trung hoa, câu chuyện cổ tích mà dân Kinh hay kể là Truyện chàng Thạch sanh (mà cái tên Lý Thông phản phúc trong truyện được gọi và cải lại là Nguyễn Thông). Ðàn kêu tích tịch tình tang, Ai đem công chúa trên hang mà về! Cái đàn "tích tịch tình tang" gẩy bằng que tre chính là cây đàn bầu nói trên. Kinh tế của ba làng Kinh Việt Dân Kinh Việt sống trong một vùng bán nhiệt đới, có mưa nhiều và lắm tài nguyên khoáng sản. Vịnh Bắc Bộ ở phía nam là một nơi lý tưởng cho ngư nghiệp. Trong 700 loại cá đánh ở đây thì hơn 200 loại có giá trị kinh tế cao và thu hoạch nhiều. Ngọc trai, cá ngựa và sea otters sinh sản lắm ở đây và thường quí về phương diện dược liệu. Nước biển của vịnh Bắc Bộ tốt cho sự làm muối. Mùa màng chính ở đây là gạo, khoai lang, đậu phọng, khoai sọ, và kê. Những loại trái cây bán nhiệt đới như đu đủ, chuối, nhãn thì rất nhiều. Những khoáng sản dưới đất gồm sắt, monazite, titanium, magnetite và silica. Những giải rộng của rừng tràm mọc trên vùng nước lợ là một nguồn lợi phong phú về chất tannin dùng làm nguyên liệu tất yếu cho kỹ nghệ thuộc da. Dân Kinh Việt sinh nhai chính bằng ngư nghiệp, còn nông nghiệp là thứ yếu, ví dụ ở làng Sơn Tâm thì 70% lợi tức của làng do ngư nghiệp, 27% do nông nghiệp còn lại 3% do các hoạt động khác. Trước đây, ngư nghiệp không phát đạt vì trang bị của ngư dân còn nghèo, phương pháp còn vụng về chậm tiến và nhất là không thể đánh cá ở biển sâu. Nông nghiệp cũng kém, mỗi mẫu tây chỉ thâu hoạch 750 kg thóc, chỉ đủ dự trữ ăn trong ba, bốn tháng. Do đó, dân Kinh Việt phải sống chật vật, đổi cá lấy gạo và các thứ nhật dụng hoặc làm thêm thủ công nghệ như đan đát tre hay nghề mộc. Hiện nay, tình trạng thay đổi nhiều trên ba làng dân Kinh Việt. Dự án ý nghĩa nhất để chuyên trị những cù lao đất bồi nghèo nàn là xây đắp 11 con đê để lấn đất ra biển và nối các hòn cù lao với đất liền. Một diện tích khoảng 400 mẫu đất được tạo dựng tương đương với bốn lần diện tích đất canh tác cụ China's Minority Nationalities đã khoe. Về ngư nghiệp, những ghe thuyền gắn động cơ và nhiều dụng cụ đánh cá mới trang bị làm tăng gia sự có thể đánh cá ở biển sâu. Ngành nuôi ngọc trai đã thành một kỹ nghệ phát triển từ năm 1958 khi những trại nuôi trai sản xuất ngọc được thiết lập vào những vũng biển nước sâu lý tưởng cho loài trai tăng trưởng. Cũng từ năm 1958, cây cối được trồng trên một diện tích 433 mẫu đã tạo thành một bờ đai hàng rào chắn gió và cát di chuyển. Qua nhiều năm, trái cây như chuối, đu đủ, dừa, nhãn di thực từ vùng khác đã mọc sum xuê trên các vùng hải đảo. Làm sao thực hiện một chuyến du lịch vào vùng Kinh Việt Tam đảo? Trước đây, Trung Quốc đã có chánh sách đóng kín bức màn tre nên chuyện du lịch Trung Hoa là một vấn đề khó khăn thiên nan vạn nan với bao thủ tục và gần như mạo hiểm như chúng ta có thể phối kiểm những bài viết du khảo về Trung Quốc của nguyệt san tạp chí National Geographic. Nhưng cho đến cuối tháng Giêng năm 1986, thì 244 đô thị của Trung Quốc được mở ra để du khách ngoại quốc có thể thăm với thông hành có chiếu khán và giấy phép hợp lệ. Kể từ đó, cơ quan Dịch Vụ Du Lịch Quốc Tế của Trung hoa - China International Travel Service - cùng nhiều công ty khác đã phối hợp chặt chẽ với công ty China Focus Inc. hay Ritz Tours... tổ chức thường xuyên nhiều chuyến tuần du Trung Quốc với giá cả tương đối rẻ bao gồm bao nhiêu thứ nào là vé phi cơ, vé xe lửa, vé xe buýt, vé thăm thắng cảnh, vé coi show cùng với những bữa ăn. Ðiều này chứng tỏ chính quyền Trung Quốc rất hoan nghênh sự thăm viếng của du khách để thâu ngoại tệ. Riêng về du lịch vùng Tam Ðảo ở tỉnh Quảng Tây thì tôi chưa thấy phổ biến rộng rãi mặc dù trên nhiều tài liệu và bích chương du lịch của Trung Hoa thường in hình cô gái Kinh Việt đội nón lá rất tươi với dáng vẻ mời mọc. Tôi nghĩ họ đang cần quảng cáo cho nhiều đô thị hay thắng cảnh nổi danh trước đã, để thu vào nhiều lợi từ khách quốc tế mà họ gọi là nguồn lợi big spenders. Tuy nhiên, theo sự dọ hỏi của tôi với vài hướng dẫn viên du lịch địa phương ở Trung Hoa thì công ty của họ sẵn lòng phối hợp với China Focus tổ chức những chuyến du lịch nhỏ kiếm ăn kiểu cò con phụ thêm (extension trip) vào những tours chính mà chỉ cần trả phụ trội một phí tổn tương ứng. Ví dụ chúng tôi vừa đi một chuyến 15 ngày du lịch trả khoảng 1,550 mỹ kim để đi một vòng qua các nơi như Bắc Kinh, Tây An, Quế Lâm, Nam Kinh, Hàng, Tô Châu, Thượng Hải, nhưng lại muốn đi thăm hai ngày ở Hàng Châu (gần Thượng Hải) nên chỉ trả thêm mỗi người 350 mỹ kim thôi. Tính ra mỗi ngày chỉ trả 150 mỹ kim. Vùng Kinh Việt Tam Ðảo thuộc tỉnh Quảng Tây nên tôi nghĩ có thể dàn xếp với công ty du lịch cho chúng ta thăm phụ thêm khi cái tour chính của chúng ta đi qua gần đấy như thăm Quế Lâm, Quảng Châu hay Hồng Kông miễn là chúng ta có ít nhất là 10 người cùng đi. Nếu chúng ta cố tình muốn thăm ba làng Việt tộc, thì vấn đề không khó mà có thể tổ chức một chuyến thuận lợi nếu có nhiều người cùng thích đi. Lê Văn Lân Viet Mercury, 1/12/00/ blog.360.yahoo.com/blog-5SslRgUmdLS_UeuUyGoI7xcRyuWtu2tD?p=789
  11. 10 Kiến Trúc Nhà Thờ Độc Nhất Vô Nhị Nhà thờ Harajuku, nhà thờ đá, nhà thờ đẹp nhất Iceland,... Hãy thỏa sức chiêm ngưỡng 10 kỳ quan kiến trúc độc đáo nhất thế giới. (theo Odd) Nhà thờ Harajuku ở Nhật Bản - Nhà thờ của tương lai Nhà thờ có kiểu dáng vô cùng đặc biệt này nằm ở Tokyo, Nhật Bản. Đây là sản phẩm của hãng thiết kế Ciel Rouge Creation vào năm 2005. Nhà thờ được tính toán thiết kế để mọi tiếng động đều vọng lại trong khoảng 2 giây. Điều này giúp tạo một cảm giác đặc biệt cho các tín đồ cũng như khách tham quan khi tới đây. Nhà thờ lớn của Thánh Basil Nhà thờ lớn của Saint Basil nằm tại Quảng Trường Đỏ của Nga. Đây là một nhà thờ chính thống của Nga. Nhà thờ có kiểu kiến trúc truyền thống, với những mái củ hành thon dần về cuối. Người ta coi nó như một phần của điện Kremlin nổi tiếng. Nhà thờ được xây dựng theo lệnh của Ivan bạo chúa nhằm tưởng nhớ cuộc xâm chiếm thành công của ông ta với nước Kanzan (đất nước cổ đại của người Tatar). Tên của nhà thờ được đặt theo tên một vị thánh. Nhà thờ có kiến trúc đáng kinh ngạc nhất của Iceland Hallgrímskirkja - nhà thờ có kiến trúc đáng kinh ngạc của Iceland. Đây là nhà thờ của những tín đồ theo đạo tin lành. Nằm tại Reykjavík, Hallgrímskirkja là một trong 4 nhà thờ cao nhất Iceland. Nhà thờ được đặt tên theo tên một nhà thơ đồng thời là một tu sĩ Iceland Hallgrímur Pétursson. Người ta phải mất tới 38 năm để hoàn thành nhà thờ đặc biệt này. Nhà thờ bằng đá Có tên gốc là Temppeliaukio Kirkko, nhà thờ bằng đá nằm tại Helsinki, thủ đô Phần Lan. Đây là một nhà thờ dưới lòng đất và được mạ đồng. Nhà thờ được thiết kế bởi hai anh em kỹ sư Timo và Tuomo Suomalainen và là một trong những điểm thu hút khách du lịch nhất thành phố. Hầu như lúc nào cũng đông kín khách du lịch tới thăm. Nhà thờ ở Brazil Nhà thờ Metropolitana Nossa Senhora Aparecida ở Brazil là một tác phẩm của kiến trúc sư Oscar Niemeyer. Được hoàn thành năm 1970, nhà thờ đã ngay lập tức gây được chú ý. Với thiết kế gồm 16 chiếc cột bê tô uốn cong, nặng 90 tấn, chụm vào nhau tạo thành hình Hyperboloid, biểu tượng cho con đường hướng lên thiên đàng. Bên trong là những tấm kính màu tuyệt đẹp cùng những bức tượng của các thiên thần. Nhà thờ Borgund Đây là nhà thờ được lưu giữ tốt nhất trong số 28 nhà thờ bậc thang hiện còn ở Na Uy. Nhà thờ này có lẽ được xây dựng vào cuối thế kỷ thứ 12 và cho tới nay hầu như không có gì thay đổi. Đối với những ai đã chơi game Đế Chế thì có lẽ không còn lạ lẫm gì bởi đây chính là biểu tượng của nền văn minh Viking. Nhà thờ Las Lajas Nhà thờ trông giống như một tòa lâu đài trong các câu chuyện cổ tích. Được xây dựng năm 1916 tại một vách núi thuộc sông Guaitara, Colombia, nhà thờ này gắn liền với truyền thuyết về người phụ nữ có tên María Mueses de Quiñones. Người phụ nữ này đã mang đứa con câm điếc của mình trên lưng và đi qua Las Lajas. Khi bà dừng chân ngồi xuống nghỉ thì bỗng nhiên đứa con cất tiếng nói. Sau này người ta phát hiện có một bức tranh đức mẹ Mary đang bế một đứa trẻ trên tay trên vách đá. Những nghiên cứu chỉ ra rằng đây không phải là bức tranh được tô vẽ mà màu của bức tranh là tự thấm ra từ những vách đá. Dù truyền thuyết kia có là thật hay giả thì nó cũng chỉ góp phần làm cho Nhà thờ Las Lajas thêm nổi tiếng. Nhà thờ thánh Joseph Đây là một nhà thờ nằm ở Chicago, được xây dựng năm 1956. Nó được người ta biết đến với phong cách hiện đại. 13 mái vòm của nhà thờ tượng trưng cho chúa và 12 môn đồ của người. Nhà thờ còn được trang trí với nhiều tranh vẽ các vị thánh trên tường. Nhà thờ Ruzica Nằm trên pháo đài Kalemegdan, Belgrade, Serbia. Ruzica là một nhà thờ nhỏ được trang trí bằng…vũ khí. Tại đây đèn được làm bằng bỏ đạn. Nhà thờ được treo kiếm, giáo mác và các bộ phận của thần công. Chỗ này đã từng được dùng làm kho chứa thuốc súng trước khi người ta xây dựng lại nó vào năm 1920. Những cây đèn làm bằng vỏ đạn chính là tác phẩm của những người lính khi đóng quân tại đây Nhà thờ thánh Gildas Nhà thờ được xây trên một vách đá, thuộc một nhánh của sông Canal du Blavet, Pháp. Tên nhà thờ được đặt theo tên của Gildas, người đã đi một quãng đường dài qua Corwall, Wales, Ireland và Scotland để gặp gỡ những người Xen tơ.
  12. Trích Từ Báo Kiến Trúc Nhà Đẹp (nhưng không tốt/Thiên Đồng :D )
  13. Gửi kathy, Tôi cũng thử "nhìn mặt mà bắt hình dong" xem sao. Khuôn mặt cân đối, mi thanh, lưỡng quyền đại, đôi mắt trong, môi mộng, tai không thùy, trán rộng, tóc dầy. Hiềm một nỗi răng trắng, đều nhưng hơi lộ, mũi nhỏ nhưng sống mũi hơi thấp. Bạn thuộc típ người năng hoạt hướng nội. Người luôn hướng tới cái mới, cái đột phá bất ngờ. Bạn luôn biết tạo ra cái mới, những điều mới lạ hấp dẫn cho chính bạn và cho mọi người. Bạn có tính phiêu lưu, phiêu lưu ngay cả trong tư tưởng. Bạn ngại sự nhàn chán và bạn lấy sự phiêu lưu để đi đến đỉnh của ý tưởng. Vì những điều này thể hiện những mâu thuẩn ngay trong nội tại của chính mình. Nội tâm luôn hùng biện, và tính cách bạn thể hiện ra cũng luôn hùng biện. Bạn hiểu điều bạn nói và bạn nói điều bạn đắn đo. Nếu bạn là luật sư, lời nói là đinh thép. Nếu bạn là nghệ sĩ, lời nói cảm phục trái tim. Nếu bạn là người bình thường, lời nói cũng đủ nặng lòng người nghe. Nói như vậy bạn là con người rắn quá chăng? Ngược lại, đằng sau đó là che lấp một thế giới nội tâm phong phú rất phức tạp, nhưng cũng rất...đơn giản. Cái đẹp nội tâm đối với bạn là ưu tiên. Biết sống chan hòa và thấm đậm là ý thức của bạn. Đôi khi điều đó nó ngự trị trong bạn đối nỗi biến thành sự vòi vĩnh, ý muốn hoàn hảo trong tình cảm đối với người thân, đối với người thương. Tình cảm như một chất liệu để bạn hoàn thiện bức tranh ý chí trong cuộc sống của bạn. Một bức tranh với gam màu nóng sống động. Bạn luôn hướng đến sự đột phá, sự thông thoáng, sự tự do nhưng bạn còn vướn mắc sự e ngại, một tí tự ti. Chấp nhận những cái mới, cái phá cách nhưng đừng lầm, bạn luôn đặt ra những quy định cho riêng mình và cho người đối điện, những quy định chỉ có thể phá vỡ bằng lý trí sắc bén và tình cảm thâm trầm. Và một lời khuyên sau cùng rằng khi bạn gặp những trắc trở, những bế tắt trong cuộc đời thì tôi khuyên bạn nên tìm đến những lời khuyên của những bậc tinh thần của tôn giáo mà bạn tin. Chúc bạn may mắn, thành công và vui vẽ. :o :rolleyes:
  14. Bức xúc chuyện trùng tu di tích (VOV) - Gìn giữ các giá trị văn hóa lịch sử là gìn giữ tâm hồn của cộng đồng chứ không phải là đổ tiền vào các dự án xây dựng để rồi mất thời gian bàn cãi. Ngày 18/4/2009, vovnews.vn Gửi mẹ cái Mùa. Tôi đã nhận được hồi âm của mẹ nó về mấy “dự án” làm giàu. Đọc thư, tôi cũng hình dung ra nụ cười hiền hậu của mẹ nó: “Bố cái Mùa lại nhớ quê rồi, đâm mơ mộng”. Thì đúng là vậy, chỉ mẹ nó là người hiểu tôi. Cái sự nhớ quê của tôi không phải bỗng dưng mà đến. Dạo này, bác giáo Bình có mấy mối khách quen thường kêu chở đi lễ lạt. Mỗi lần đi về, bác ấy lại thở dài thườn thượt, kể chuyện những đền, những chùa được sửa chữa trùng tu mà chẳng còn giữ được chút hồn cốt nào. Bác ấy bảo: “Trùng tu như thế chẳng bằng phá hoại!” - Đất khách quê người, anh em tôi thân thiết quá người nhà, thấy tâm trạng của bác ấy như thế, tôi cũng muốn chia sẻ. Song, về cái lĩnh vực văn hóa này, kiến thức của tôi một khiếu cũng chẳng thông, biết phải nói gì? Hôm qua, bác giáo Bình mang về mấy tờ báo viết chuyện người ta phá đền thờ bà Lý Chiêu Hoàng để xây mới. Chờ tôi đọc xong, bác ấy than: “Mượn việc trùng tu để kiếm ăn, nhẫn tâm phá nát cả một di tích có lịch sử gần ngàn năm. Quá thể!” - Tôi biết, không chỉ riêng bác giáo Bình, bất cứ ai có lòng trân trọng lịch sử cũng sẽ đau xót vì việc này. Song, hình như giống như bác giáo Bình, các nhà văn hóa đang lên tiếng bày tỏ sự bức xúc xung quanh chuyện trùng tu đều mới chỉ quan tâm tới phần ngọn của vấn đề. Đó là phương pháp, là quan điểm trùng tu di tích. Tôi chỉ là một anh nông dân, đương nhiên không đủ lý luận để bàn về việc đó. Tôi chỉ bằng quan sát thực tế của mình mà hiểu rằng hình hài vốn dĩ không phải điều quan trọng nhất tạo nên sức sống, sự trường tồn của một di tích văn hóa lịch sử. Cái đình làng mình ấy, trải qua mấy trăm năm mà vẫn còn nguyên vẹn là bởi được người dân giữ gìn. Một tấm bằng chứng nhận di tích cũng không có, nhưng có cần đâu. Chẳng tấm giấy chứng nhận nào bằng được tâm ý muốn gìn giữ di sản của cha ông của người dân. Ngôi đình làng mình cũng chưa bao giờ nhận được một đồng tiền ngân sách trùng tu. Nhưng bao đời nay, mỗi khi có việc, dân làng mình vẫn kẻ góp công, người góp của để tu tạo ngôi đình bởi họ tự hào về truyền thống lịch sử của làng, tự hào về vẻ đẹp của ngôi đền. Làng mình nghèo, làm gì có trăm tỷ, chục tỷ để trùng tu, thế mà từ mảnh tường vá lại đến viên gạch lối đi mưa gió xói mòn vẫn khiến tôi mỗi khi bước tới lại xao xuyến trong lòng. Nghe tôi nói về ngôi đình làng mình, bác giáo Bình trầm ngâm: “Có lẽ chú nói đúng, chẳng có một dự án trùng tu di tích văn hóa nào thành công nếu như không gìn giữ được tình yêu trong trái tim của người dân về truyền thống văn hóa của cha ông. Gìn giữ các giá trị văn hóa lịch sử là gìn giữ tâm hồn của cộng đồng chứ không phải là đổ tiền vào các dự án xây dựng để rồi mất thời gian bàn cãi. Ngẫm cho cùng, chẳng có nhà văn hóa nào hiểu rõ một công trình bằng chính những người dân mà các thế hệ cha ông họ đã gia công gìn giữ công trình đó qua mọi biến cố của thời gian!” - Tôi ngồi nghe, thầm phục bác giáo Bình vì đã nói lên được cái suy nghĩ của tôi một cách minh bạch như thế. Song, sau chuyện này, trong mắt bác giáo Bình, cái tầm văn hóa của Cả Chiêm tôi chắc cũng không đơn giản. Mẹ cái Mùa có công nhận là tôi cũng đáng nể không?./. Cả Chiêm www.thanhnien.com.vn Đập phá và... trùng tu 13/04/2009 0:28 Về vụ “đập phá để xây mới” đền thờ Lý Chiêu Hoàng ở Đình Bảng (Bắc Ninh) mà Báo Thanh Niên đã đưa tin và bài viết rất kỹ, thì điều đầu tiên khiến tôi ngạc nhiên là: hồi tháng giêng 2009, ngôi đền có lịch sử hơn 700 năm này mới được công nhận là “di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh” - một sự công nhận quá muộn màng và không xứng đáng với lịch sử ngôi đền, với nhân vật được thờ tự trong ngôi đền là “vua bà Lý Chiêu Hoàng”. Một người biết đặt quyền lợi quốc gia lên trên quyền lợi dòng tộc, một người yêu nước có tầm vóc lớn lao mà tới bây giờ ta vẫn chưa hiểu hết những quyết định, những hành động của bà. Lý Chiêu Hoàng là một nhân vật lớn và độc đáo trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt. Chính sự độc đáo và không dễ hiểu của bà đã khiến bà được thờ tự riêng tại đền Rồng chứ không phải ở đền Đô. Lâu nay, những chuyện gọi là "trùng tu di tích" theo kiểu "đập phá để xây lại" hoặc "biến cổ thành tân" rồi "tân cổ giao… vô duyên" xảy ra ở khắp nơi chứ không riêng ở đất Kinh Bắc. Nhưng tới mức như vụ đền thờ Lý Chiêu Hoàng, người ta đang tâm đập phá tháo dỡ để "làm lại" thì kinh hoàng quá! Vì sao người ta dám làm những điều mà "xưa nay chưa ai dám" như thế? Thực ra, lý do rất đơn giản: người ta coi di tích như những "dự án", mà đã là dự án thì trùng tu lớn chừng nào, làm mới tới chừng nào thì tập trung được kinh phí cao chừng ấy. Người ta coi những di tích lịch sử, dù được xếp hạng ở cấp nào, cũng chỉ như những "công trình bị xuống cấp" cần tu bổ, tiến tới trùng tu, và tiến tới cùng là đập bỏ để xây mới. Vì thế mới xuất hiện những di tích sau khi trùng tu và nhất là xây mới xong thì không ai hiểu di tích này thuộc thời đại nào, thậm chí những bức tượng hay hoành phi trong di tích là thuộc văn hóa nước nào. Nhiều nhà nghiên cứu văn hóa đã kêu trời về thực trạng trùng tu di tích theo kiểu "chém to kho mặn" này, có những chuyên gia đã đề nghị cách tốt nhất để bảo quản di tích là cứ để nó… yên vị như cũ, đừng động "dao thớt" vào! Điều đó không hẳn đúng, vì có những di tích sẽ bị hư hại phần lớn hay hoàn toàn nếu không được trùng tu, như những tháp Chăm chẳng hạn. Nhưng vấn đề là trùng tu thế nào, trùng tu vì mục đích gì? Vì muốn bảo vệ di tích, hay vì muốn có dự án, tăng thu nhập? Bởi bây giờ người ta hay nói: "Có làm mới có ăn", mà "làm" kiểu nào và "ăn" kiểu gì thì ai cũng đã biết! Hành động đập phá như ở đền thờ Lý Chiêu Hoàng rõ ràng là phạm pháp, nhưng nếu không có sự thống nhất và chấn chỉnh từ gốc thì việc "trùng tu", thậm chí "tu bổ" cũng sẽ làm biến dạng, hư hoại di tích từ những phần quý giá đáng bảo tồn nhất của nó. Mà những hoạt động "trùng tu theo kiểu… phá" như thế đã và đang xảy ra khắp nơi. Vấn đề là cần một đội ngũ những nhà trùng tu di tích có chuyên môn cao, có kiến thức rộng. Đội ngũ ấy không phải tự nhiên mà có, nhưng đã có rải rác trong cả nước. Nhưng họ chưa được tập hợp lại, chưa được dùng đúng với khả năng của họ. Và, tại sao không, chúng ta phải cử những sinh viên xuất sắc chuyên ngành hoặc cận chuyên ngành đi đào tạo ở nước ngoài, đặc biệt là ở những nước có những trường dạy chuyên ngành cao về trùng tu di tích. Chỉ có một chiến lược đúng đắn, cộng với sự cẩn trọng và đầy trách nhiệm, đầy lương tâm với đất nước và dân tộc thì mới ngăn chặn được nạn "trùng tu… đểu" các di tích và xây dựng một đội ngũ những nhà chuyên môn trùng tu thực sự các di tích. Điều cuối cùng là ai đứng ra bảo quản các di tích? Không thể giao những báu vật của tiền nhân cho những người thiếu hiểu biết, nhất là khi sự thiếu hiểu biết lại cộng với "nhiệt tình" phá hoại. http://clip.vn/watch/W7e8 Thanh Thảo
  15. Mừng chúc diễn đàn LyHocDongPhuong tròn một năm tuổi phát triển và vững mạnh. Kính chúc Sư Phụ Thiên Sứ cùng toàn thể thành viên bình an và hạnh phúc. :D Thiên Đồng :blink:
  16. Ủa vậy là phật gì? phật nào ta? bí hiểm quá! hic :D
  17. Cái này giống như Sư Phụ đóng phim hành động Hollywood quá. Máy bay, xe pố-lít, lựu đạn...hoàng tráng, gây cấn dữ ghê! Hic :D
  18. Chen vai đi xem tượng Phật ngọc (Dân trí) - Sau khi dừng chân tại Đà Nẵng, tượng Phật ngọc “hoà bình thế giới” cao 3m, nặng hơn 4,6 tấn đã đến TPHCM. Hiện pho tượng được đặt tại chùa Phổ Quang, quận Bình Thạnh để cho người dân, Phật tử đến chiêm bái, thắp hương cầu an lạc. >> Trình làng tượng Phật ngọc lớn nhất thế giới Mặc dù phải đến 16h ngày 29/3, Pho tượng Phật ngọc “hoà bình thế giới” mới chính thức được giới thiệu cho người dân và Phật tử TPHCM đến chiêm ngưỡng. Nhưng hàng ngàn người ngay từ ngày 28/3 đã đến chỉ để chiêm ngưỡng bóng dáng tượng sau bức vải che. Bức tượng được che phủ cho đến 16h chiều 29/3 và khi được khai mở Không gian bên ngoài cổng chùa Phổ Quang, hàng chục người đã bày bán các bức ảnh về tượng ngọc cho người dân đi hành lễ mang về. Giá của mỗi bức từ 2.500 đồng đến 20.000 đồng (không có khung ảnh), nếu có khung thì giá từ 30.000 đồng đến 50.000 đồng/tấm...Theo ông Minh, Đội trưởng đội Dân phòng cho biết: “Từ hôm qua, mặc dù tượng Phật chưa được đưa ra công chúng nhưng đã có hơn 1 ngàn người dân đến đây để hành lễ. Còn sáng nay lượng người đổ về đây gấp 2-3 lần, chắc từ 16 giờ trở đi lượng người phải đến hàng chục ngàn người”. Để đảm bảo an ninh trật tự, đội dân phòng và công an khu vực đã làm hết sức mình. Hiện, việc buôn bán và người ăn xin không được phép tràn vào khuôn viên chùa. Ảnh tượng Phật ngọc được bán trước cổng chùa (Ảnh: Đức Tri) Anh Hoàng Minh Thiên, quận 3 cho biết: “Đây là hoạt động tín ngưỡng lớn của Phật giáo, với Phật tử hễ đâu có hình bóng của ngài thì đều đến để hành lễ. Dù chưa được chiêm ngưỡng hình tượng nhưng chúng tôi vẫn cảm nhận được sự yên ổn nơi bức tượng phát ra. Chính vì lý do này nên tôi và gia đình vấn đến đây để hành lễ, chiều nay gia đình tôi cũng sẽ tiếp tục đến để hành lễ”. Chen vai chiêm ngưỡng tượng Phật ngọc (Ảnh: Vũ Việt Vinh) Xuất phát từ Bangkok (Thái Lan), tượng Phật ngọc lớn nhất thế giới đã đến Đà Nẵng. Tại TPHCM, tượng được trưng bày trong chùa Phổ Quang từ 29/3 đến 5/4 và chùa Hoằng Pháp, huyện Hóc Môn (từ ngày 9/4 đến 24/4). Tượng Phật cao 3,2m, nặng 4,6 tấn, làm bằng ngọc thạch Nephrite nguyên khối nặng 18 tấn, được tìm thấy vào năm 2000 ở miền Bắc Canada. Hơn 30 nghệ nhân, chuyên gia điêu khắc và Phật học đến từ Thái Lan, Nepal, Úc... đã tạo nên tác phẩm. Chuyến đi này của tượng Phật ngọc nhằm mục đích nguyện cầu cho hoà bình, chúng sinh an lạc. Pho tượng Phật ngọc lớn nhất thế giới được bày trang trọng tại chùa Phổ Quang. Xá lợi Phật được trưng bày ngay phía dưới. Ngoài pho tượng Phật ngọc lớn, vợ chồng ông Ian Green - người có công đưa tôn tượng Phật ngọc lớn nhất đến Việt Nam - cũng mang qua pho tượng ngọc nhỏ để mọi người chiêm bái. Pho tượng ngọc nhỏ, quà lưu niệm của đạo hữu Ian Green và xá lợi của Phật trên bàn thờ. Hàng ngàn tu sĩ và Phật tử thành kính chiêm ngưỡng Pho tượng Phật ngọc lớn nhất thế giới. Ba tầng lầu của ngôi nhà Tổ bên cạnh bàn thờ pho tượng Phật ngọc đông nghẹt người. Cung nghinh chư tôn đức trước giờ làm lễ. Nghi thức thỉnh xá lợi Phật tại chùa Phổ Quang trước giờ khai mở Pho tượng Phật ngọc. Các chư tôn dâng hương lên bàn thờ Phật. Đạo hữu Ian Green cầu nguyện cho hoà bình thế giới. Chị Trần Thị Thu Thuỷ, quận Tân Bình vui mừng khi lấy được lộc từ bàn thờ Phật ngọc. Đức Tri dantri.com.vn
  19. Những điều chưa biết về tượng Phật Ngọc 01/04/2009 0:37 Phật tử cầu nguyện trước tượng Phật Ngọc - Ảnh: G.H Từ 29.3 đến nay, hàng chục ngàn người đã đến chiêm ngưỡng và lễ bái tượng Phật Ngọc đang tôn trí tại chùa Phổ Quang (TP.HCM). Nhiều câu hỏi liên quan tới nghệ thuật điêu khắc tượng đã được đặt ra dưới tòa sen bằng ngọc. Trước hết, người ta muốn biết bằng cách nào để cưa xẻ tảng ngọc Polar Jade cứng chắc và nặng nhất thế giới (18 tấn), để dùng tạc pho tượng Phật Ngọc cao 3,5m, nặng đến hơn 4 tấn như thế? Ông Ian Green đến từ Úc, Chủ tịch Đại tháp Từ Bi ở Bendigo - người đưa Phật Ngọc vòng quanh thế giới - cho biết, việc xẻ ngọc trước khi tạc tượng phải thực hiện công phu, kiên nhẫn, chầm chậm từng chút một bằng lưỡi cưa kim cương trong ngót hơn 20 ngày. Mỗi chi tiết mỹ thuật cần thể hiện sức diệu dụng và thần sắc của Phật (phần lộ ra bên ngoài) sao cho đúng với mô tả về 32 tướng tuyệt hảo trong kinh Đại Bát Nhã Ba-la-mật-đa. Nghĩa là từ tóc (vòng xoắn ốc) tới tai, mũi, cổ, và nhất là đôi mắt, miệng, hai vai, đỉnh đầu, vốn là những nơi Phật bất ngờ phóng hào quang để xoa dịu những bất hạnh của chúng sanh trên cõi đời và soi sáng những góc tối buồn thương nhất dưới địa ngục A-tỳ. Cứ thế, qua 18 tháng ròng rã, tượng hoàn tất toát lên màu ngọc xanh và bóng sáng từ bi hiếm thấy: "Toàn thân đức Phật ngồi trên tòa sen trong tư thế Padmasana nghĩa là Liên hoa tọa, như các bạn thấy đó" - ông Ian Green nói. Riêng hai bàn tay tượng Phật Ngọc được tạo hình mỹ thuật, với bàn tay phải (thòng xuống chấm đất), các ngón tay sít sao úp vào phía trong, gần đầu gối bên phải, còn bàn tay trái (ngửa ra với các ngón hơi cong lên) đặt giữa hai đùi. Thủ ấn này gọi là Xúc địa ấn - theo nghĩa đen là "thủ ấn chạm mặt đất", tiếng Sanskrit: Bhumisparsa Mudra - ông Ian Green giải thích nhanh. Nhưng Xúc địa ấn vẫn rất lạ đối với nhiều người, vì họ thường quen chiêm ngưỡng các tượng Phật trong tư thế Ấn đại định (hai bàn tay đặt lên nhau và hai ngón cái chạm nhau, đặt giữa hai đùi), hoặc Ấn thiền định (tay trái chồng lên tay mặt, mười ngón đều duỗi thẳng). Ấn đại định, thiền định như trên thường thấy thể hiện qua nghệ thuật tạo hình ở các tượng Phật đang thờ trong nhiều ngôi chùa lớn của TP.HCM, biểu thị sức tự tại vô lượng của chư Phật, còn gọi: "tướng Định pháp giới". Còn ấn Xúc địa của tượng Phật Ngọc biểu thị điều gì? Để tìm câu trả lời, chúng tôi tiếp xúc với hòa thượng Thích Quảng Hiển, Hiệu trưởng trường Cao trung Phật học kiêm Trưởng ban kiến thiết Đại Tùng Lâm Bà Rịa - Vũng Tàu - nơi vừa tôn trí tượng Phật Ngọc trong suốt tuần qua (21 - 26.3) trước khi cung nghinh về TP.HCM, và được biết: Tượng Phật Ngọc điêu khắc theo mẫu tượng Phật đặt trong Bảo tháp Đại Bồ Đề (Mahabodhi Stupa) ở Bồ Đề Đạo Tràng tại Ấn Độ. Sở dĩ chọn mẫu tượng này vì đây là hình ảnh quen thuộc với phật tử khắp nơi trên thế giới và là tượng Phật nổi tiếng nhất vì hai điều: Thứ nhất, nơi đặt tượng (Bồ Đề Đạo Tràng - Bodh Gaya) là Phật tích quan trọng hàng đầu của Phật giáo - nơi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thành tựu đạo quả. Điều thứ hai, khi Đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo, thiên ma kéo đến quấy nhiễu, Phật đã dùng Xúc địa ấn để ấn lên mặt đất, khiến vị Địa thần dưới lòng đất vọt lên. Ác ma và quỷ thần trông thấy liền sợ hãi, tan biến, nên Xúc địa ấn còn có nghĩa là Ấn hàng ma phục quỷ. Ấn này biểu thị công năng khuất phục, làm cho các thế lực độc ác ma quái phải đầu hàng. Với ấn hàng ma ấy, tượng Phật Ngọc cho hòa bình thế giới (tên do Lạt-ma Zopa Rinpoche đặt) sẽ được chuyển đến khắp các quốc gia với mong muốn hàng phục ma chướng, ngăn chặn chiến tranh và những cuộc hủy hoại tàn phá chưa lường trước được. Hai vòng còn lại màu vàng bằng chất liệu khác. Đến nơi đâu thấy bối cảnh thích hợp với màu hào quang nào sẽ đính hào quang màu ấy. Vì thế trong hình chụp khi màu vàng, lúc màu xanh khác nhau. Nhưng kỳ thực đều quy vào một mục đích giống nhau là tôn vẻ trang nghiêm của Phật Ngọc tùy theo quang cảnh và màu sắc chung quanh nơi đặt tượng". Một tạo hình mỹ thuật quan trọng khác, cũng được tách ra, là phần đỉnh đầu của tượng Phật Ngọc, gọi là phần thể hiện tướng Nhục kế. Tướng này lộ ra phần thịt (nhục) nổi cao lên như búi tóc (kế), được kinh Đại Bát Nhã Ba-la-mật-đa mô tả "cao và rộng như vòm trời", còn theo kinh Quán Vô Lượng Thọ thì: "Nhục kế trên đỉnh đầu của Phật đẹp như hoa, trên đỉnh ấy có một bình báu chứa các loại ánh sáng màu xanh trắng đỏ vàng mềm mại, nhu nhuyến và có diệu dụng thấm đến trái tim của mọi sinh linh, kể cả cỏ cây và đất đá vô tình". Để tạo hình nhục kế, các nhà điêu khắc hàng đầu đã lấy một khối ngọc nhỏ hơn nắm tay, cẩn trọng miệt mài thực hiện kỹ thuật điêu khắc tinh tế nhất, cho thành một khối riêng ngoài tượng. Khối này được trân trọng đặt lên đỉnh đầu tượng Phật Ngọc trước giờ chiêm bái. Theo chương trình, sau chùa Phổ Quang, tượng Phật Ngọc với các biểu tượng nêu trên, sẽ được cung nghinh đến chùa Hoằng Pháp (Hóc Môn) vào ngày 9.4 tới đây. Ảnh: Giao Hưởng Chiều 29.3.2009, tại chùa Phổ Quang (TP.HCM), Trung tâm Sách kỷ lục Việt Nam - VIETKINGS đã trao giấy xác lập và cúp lưu niệm kỷ lục "Người tổ chức đưa tôn tượng Phật Ngọc lớn nhất đến và triển lãm tại Việt Nam" cho ông bà Ian Green. Trong ảnh: Ông Ian Green với khối ngọc Nhục kế sắp trân trọng đặt lên đỉnh tượng Phật Ngọc. Có người còn nói theo hình ảnh trên mạng và trên các tài liệu đang phổ biến hiện nay, thì hào quang của Phật Ngọc khi màu xanh biếc, khi màu vàng là sao? Chúng tôi đã gặp thượng tọa Thích Nhuận Trí, Chánh thư ký - kiêm Trưởng ban Phật giáo quốc tế của Giáo hội PGVN tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và nghe giải thích: "Cùng với tượng là 3 vòng hào quang được thiết kế mỹ thuật kèm theo và rời ra. Một vòng màu xanh bằng ngọc thạch Nephrite. Giao Hưởng thanhnien.com.vn
  20. Dạy sai có thể khiến cả một dân tộc sai lầm23/02/2009 08:34 (GMT + 7) (TuanVietNam.net)- “Hiện nay từ đào tạo mẫu giáo đến đào tạo tiến sĩ phương pháp dạy đều giống nhau. Cách làm này sẽ thủ tiêu sức sống cá nhân. Cứ học dồn, cứ nghĩ rằng làm trước là xong mà không thấy chất lượng cuộc sống của mỗi giai đoạn một khác... Bản thân tôi cả một đời dạy học. Với tôi, “trẻ em là cứu tinh của dân tộc”. Giáo sư Hồ Ngọc Đại trăn trở. Trẻ con luôn luôn đúng? Giáo sư Hồ Ngọc Đại (trái) và Nhà báo Nguyễn Quang Thiều. Ảnh Phạm Hải Nhà báo Nguyễn Quang Thiều: Thưa quý vị độc giả, câu hỏi muôn thuở của xã hội về một thứ sản phẩm, và đây cũng là sản phẩm quan trọng nhất, hệ trọng nhất làm nên đời sống, xã hội. Đó là sản phẩm người. Nhưng chúng ta cũng bắt đầu thấy lo lắng về sản phẩm này. Dường như có điều bất ổn, khiếm khuyết, sai lầm, ở đâu đó trong hệ thống giáo dục. Cũng chính vì điều đó, VietNamNet đã mời Giáo sư Hồ Ngọc Đại- một người dành tâm huyết cả đời mình cho nền giáo dục, cùng bàn luận về một trong những vấn đề cấp bách của giáo dục nước nhà: đào tạo dạy dỗ học sinh tiểu học. GS. Hồ Ngọc Đại: Cuộc sống hiện nay đã khác trước rất nhiều. Có căn cứ nào để chúng ta nói về sự đúng - sai. Theo tôi, có hai căn cứ để xác định một vấn đề là sai hay đúng trong giáo dục. Căn cứ quan trọng nhất là cuộc sống thật, cuộc sống ta đang sống, mà triết học gọi là khách quan. Gọi là cuộc sống thật, vì nó phải sống thật, không thể giả dối được. Cuộc sống ấy phải là cơ sở để xử lý tất cả mọi vấn đề (văn hóa, khoa học, chính trị, thơ văn...). Và cuộc sống thật của ta so với cuộc sống thật của nền giáo dục hiện nay như thế nào? Căn cứ thứ hai là trẻ em hiện đại. Giáo dục trẻ em, dạy trẻ con, cần phải biết nó là cái gì? Từ cuối thế kỷ 20, khi ở châu Âu, tôi đã nhận thức được một điều là cuộc sống biến đổi ghê gớm. Tôi đã chứng kiến sự nổi loạn của sinh viên. Tôi cũng đã từng có một cuộc phiêu lưu lớn trong giáo dục. Nhưng cuộc phiêu lưu ấy thất bại. Vì sao có cuộc nổi loạn của sinh viên năm 1968 và tại sao lại có sự nổi loạn của giáo dục thế giới hồi năm 1960? Là vì họ không chấp nhận được cái nền giáo dục hiện tại của họ. Không thể chấp nhận được vì cuộc sống hiện đại đã hoàn toàn thay đổi. Sự biến đổi của tuổi trẻ thế kỷ này đã khác rất nhiều so với thế kỷ trước. Những đứa trẻ lên 5 lên 6 tuổi sống ở thế kỷ 20 đã có thể đi làm nuôi em. Nhưng giờ đây, lứa tuổi 18, 20 vẫn còn bé bỏng, vẫn cần cha mẹ chu cấp. Do vậy, tôi kết luận: cuộc sống thực luôn luôn đúng. Cuộc sống thực không thể sai. Cuộc sống là như thế, vì nó buộc phải như thế. Cho nên, tôi gọi triết lý gốc của con người là từ đó: Muốn gì thì gì, phải sống đã. Và rồi mới tính đến chuyện sống tốt hơn. Trong cuộc sống thực ấy, chúng ta cứ giả định trẻ em luôn sống đúng. Điều đó có thể khiến các thầy giáo sẽ khó chấp nhận. Vậy trong tình huống này phải xử lý thế nào? Khi mà cuộc sống diễn ra hiển nhiên như thế và dĩ nhiên ta phải sống. Do vậy có khi anh phải chấp nhận chịu thua cuộc sống, đơn giản vì anh không thể thắng nổi. Đối với trẻ em, vì đã xác định chúng luôn đúng, cho nên ta phải bằng lòng với hiện thực này. Nguyên lý một nhà giáo dục là phải biết chịu thua trẻ em, để rồi sau đó tìm cách thắng lại, mà phải làm sao để thắng được cái lý của chúng, chứ không phải thắng cái lý của mình. Nếu độc giả chấp nhận hai mệnh đề tôi vừa đề xuất là cuộc sống thực luôn luôn đúng và trẻ em luôn luôn đúng thì cứ căn cứ vào đó chúng ta sẽ xử lý được mọi vấn đề. Do vậy, trong một nền giáo dục mà được trẻ em chấp nhận, thì mới hi vọng nền giáo dục đó đúng. Còn với một nền giáo dục mà trẻ em không chấp nhận, chúng cảm thấy bất hạnh, thì dứt khoát đó là một nền giáo dục sai, một nền giáo dục thất bại. Nhà trường sai, người lớn sai? Nhà báo Nguyễn Quang Thiều: Tôi đồng ý với GS rằng cuộc sống thực luôn luôn đúng. Nhưng khi nói trẻ em luôn luôn đúng thì hơi khó thuyết phục. Phải chăng chúng đang sai, chúng đang trốn chạy nhà trường? Hoặc là nhà trường sai? GS. Hồ Ngọc Đại: Nhà trường sai. Thầy giáo sai. Người lớn sai. Nhà báo Nguyễn Quang Thiều: GS có thể chỉ ra vài điều cơ bản nhất để minh chứng rằng trẻ con đúng và nhà trường đang sai. Do đó, hiện thực đang đòi hỏi phải có sự quan tâm cẩn trọng hơn nữa, đặc biệt hơn nữa đối với cấp tiểu học? GS. Hồ Ngọc Đại: Tôi có một cách tiếp cận khác với khái niệm trẻ con. Cách đây 30 năm, chúng ta phải đồng ý với quan điểm rằng coi trẻ em là của trời đất, cha mẹ, văn hoá, truyền thống, tự nhiên. Phải coi các em như thực thể sống trong đời, hít thở không khí, chịu ánh sáng tự nhiên, đói thì ăn, khát thì uống. Nhưng hiểu lầm lớn nhất xưa nay là cứ bắt trẻ con phải làm theo mình, nếu trẻ con mà làm trái ý là coi như sai. Đáng lẽ khi trẻ con hiểu sai ý mình, thì mình phải tìm hiểu cái lý của nó là gì? Trẻ con không có âm mưu, chỉ suy nghĩ trên cơ sở chính nó, vì lợi ích cơ bản của nó, vì sự sống của nó chứ nó không tính về phía anh. Nhưng người lớn thì cái gì cũng tính về mình. Hai cách tính khác nhau, nên vênh. Trẻ con phải hồn nhiên, vui tươi, không có gì đau khổ, vì ở vào lứa tuổi đó, chúng không đáng phải đau khổ. Chỉ có người lớn chúng ta mới đau khổ. Trẻ con khi đã không thích là không thích, nhiều khi bố mẹ còn cảm thấy ngượng với khách vì con, những khi mà không thích thì chúng thản nhiên bỏ đi, mặc kệ khách khứa. Nhưng chúng ta vẫn phải tôn trọng nó như một thực thể tự nhiên, bọn trẻ vốn sống hồn nhiên. Chúng có sai là sai theo ý mình, chúng cư xử trên cái lý của chúng. Nhà báo Nguyễn Quang Thiều: Một trong những bức thư của các em học sinh gửi đến cho chúng tôi, bức thư của em Thảo Ly ở Hưng Yên. Bức thư này là một thông điệp, một lời cảnh báo, một tiếng kêu cứu của một đứa trẻ đối với nền giáo dục mà em đang sống trong đó, đang phải gánh chịu nó, đang phải cố gắng để vượt qua và thực hiện những tham vọng của người lớn. Bức thư viết : Cháu đang học lớp 3, cháu cảm thấy mệt mỏi vì chương trình học quá tải, chúng cháu học cả ngày, tối về lại ôn bài, làm bài, chuẩn bị cho ngày hôm sau. Cuối tuần, chúng cháu có rất nhiều phiếu ôn tập nhà trường giao cho, chúng cháu mong Bộ Giáo dục chỉ bắt chúng cháu học nửa ngày thôi, để buổi chiều chúng cháu có thể ôn bài, có thể chuẩn bị bài, có thể vui chơi, có thể chia sẻ, buổi tối chúng cháu có thể xem những chương trình tivi dành cho chúng cháu, được chọn trò chơi, được đọc truyện.. GS. Hồ Ngọc Đại: Em ấy nói đúng, cuộc sống không chỉ có chữ, cuộc sống nó còn nhiều thứ khác. Một trong những sai lầm từ ngàn năm nay của giáo dục là gì? Đến trường để kiếm dăm ba chữ, và ai hơn mình nửa chữ thôi cũng tôn làm thầy. Điều này ở một khía cạnh nào đó có nghĩa nhưng ở khía cạnh khác lại là vô nghĩa, chữ không phải là tất cả. Tôi đã phê phán khẩu hiệu "vì tương lai con em chúng ta". Sao lại đi hứa hão với bọn trẻ rằng cứ chịu khổ đi, chịu khó đi rồi nay mai sẽ hạnh phúc. Và thế là bọn trẻ bị đầy đọa từng ngày. Đáng lý ra khẩu hiểu đó phải là: “Ngày hôm nay các em hạnh phúc, ngày mai các em còn hạnh phúc hơn”. Tại sao lại không vì hạnh phúc ngay hôm nay, hạnh phúc ngay bây giờ của con em chúng ta. Hãy nói với chúng rằng, ngày hôm nay em đến trường vui, ngày mai em đến trường vui hơn. Nhà báo Nguyễn Quang Thiều: Phụ huynh Nguyễn Văn Trường ở Hà Nam viết về thời gian biểu của con mình mà lại ngập tràn đau xót : “Cháu không còn một chút thời gian nào để nghỉ ngơi và chơi, lúc nào cũng trong tình trạng như hoảng loạn. Nhiều khi buổi tối cháu học mệt quá ngủ gục trên bàn, tôi bế cháu lên giường ngủ thì cháu choàng tỉnh dậy vội cầm bút ngơ ngác học tiếp”. Tôi thấy thời gian biểu của một học sinh không mang lại cho em một cảm hứng nào mà lại như là một án phạt đối với em. Những đứa trẻ đến trường với một nỗi sợ hãi như thế thì nền giáo dục ấy mang lại gì cho những công dân tương lai của một dân tộc ? GS. Hồ Ngọc Đại: Tôi cũng đau khổ lắm, như tất cả các vị. Bởi vì người lớn có thể chịu đựng mọi nỗi đau khổ, nhưng trẻ con không đáng phải chịu đựng như thế. Trẻ con cần hưởng hạnh phúc, trẻ con cần được vui chơi và chưa đến lúc phải chịu nỗi khổ của người lớn. Cái đúng là sự hồn nhiên, thanh thản, được làm theo ý mình. Ta cứ nghĩ trẻ làm theo ý mình là hư – nhưng cuộc sống thực của nó bảo nó phải làm như thế, chứ nó không tự ý. Xã hội đã ngàn đời coi trọng bằng cấp, đè nén con người khủng khiếp. Chính nỗi đau đó cũng là nỗi đau của các thầy giáo. "Hãy nói với chúng rằng, ngày hôm nay em đến trường vui, ngày mai em đến trường vui hơn". Ảnh: antdonline Nhà báo Nguyễn Quang Thiều: Có một bạn đọc phản ánh, trước kia con chúng tôi phải vác 1 cặp sách, thì nay, sau cải cách, con chúng tôi phải vác đến 3 chiếc cặp sách đến trường? GS. Hồ Ngọc Đại: Một bước tiến của nền giáo dục trong nền văn minh hiện đại là phải có tư tưởng mới và cách làm đúng. Để có những bước phát triển mới thì phải có tư tưởng và cách làm mới. Cách làm xưa nay là thầy giảng, trò ghi nhớ. Cách làm của tôi là thầy không giảng giải, trò tự làm tất cả. Cách làm cũ là trò phải cố gắng, còn cách làm của tôi là trò không phải cố gắng, hãy cứ tự nhiên. Nhà báo Nguyễn Quang Thiều: Mọi người đều quan tâm đến một sáng tạo của giáo sư đối với nền giáo dục Việt Nam đó là trường Thực Nghiệm? GS. Hồ Ngọc Đại: Đó là một sáng tạo của thế kỷ 20 của những nhà tâm lý học Liên Xô. Trường Thực nghiệm vừa là trường, vừa không phải là trường. Ở đây những tư tưởng, ý tưởng phải được làm thật, trên những con người thật. Anh đã dám làm khoa học trên những con người thật, thì khoa học của anh phải thật và anh cũng phải thật. Và trẻ cảm nhận mỗi ngày đi học đúng là một ngày vui. Thay vì bắt trẻ làm theo ý mình, ở đây chúng tôi nói với chúng: "Thưa các em, thầy nghĩ như thế, thầy làm như thế, các em xem có đúng không, các em có chấp nhận hay không?". Nhà báo Nguyễn Quang Thiều: Nó ưu việt như vậy, nhưng vì sao mô hình trường Thực nghiệm hay những phần ưu việt của mô hình này vẫn chưa được phổ cập trong đời sống giáo dục của nước ta? Phải chăng các nhà quản lý giáo dục không nhận ra điều ấy ? Hay họ nhận ra nhưng không làm ? Chúng ta đang vì những học sinh hay chỉ vì lợi ích và lòng tự ái của chúng ta ? GS. Hồ Ngọc Đại: Tôi đã từng đề xuất “Học sinh là nhân vật trung tâm, thầy giáo đóng vai trò quyết định” và “Đưa công nghệ giáo dục mới vào nhà trường”. Nhưng khi đưa vào Nghị quyết thì lại thành: “Học sinh là nhân vật trung tâm” và “Đưa công nghệ mới vào giáo dục nhà trường”. Tôi đem thắc mắc này đi hỏi và được giải thích: “Xưa nay ta vẫn quen đề cao giáo viên, nay phải nhấn mạnh vai trò của học trò thì nên đặt dấu chấm ở đấy cho gọn. Còn câu thứ hai, nếu đưa nguyên xi vào thì hóa ra ngả hẳn về phía cậu à?”. Sau đó Bộ Giáo dục và Đào tạo quyết định cả nước dùng chung một bộ sách giáo khoa, chung một phương pháp, và đương nhiên tôi trở thành thiểu số... Nhà báo Nguyễn Quang Thiều: Tôi đã thăm một trường tiểu học ở Boston (Hoa Kỳ), được xem một vở kịch của các em lớp 1 diễn. Chúng tranh luận với nhau về việc ai làm đổ cái chuồng của chúng. Và một con lừa già xuất hiện nói: “Ta xin lỗi, chính ta đã làm đổ cái chuồng, nhưng lúc trước ta đã không dám thừa nhận, vì ta xấu hổ, ta sĩ diện, ta hão huyền, ta ngạo mạn…”.. Tôi đã rất “kinh hãi” và xúc động vì con lừa đó do ông hiệu trưởng đóng. Họ thật sự hoà đồng, chia sẻ, và lắng nghe. Xin tất cả hãy suy ngẫm thật kỹ về câu chuyện này. Những điều này sao không có trong các trường ở Việt Nam ? GS. Hồ Ngọc Đại: Ngày xưa, chúng ta giáo dục dựa trên nền tảng là vì lợi ích của người lớn, còn ngày nay là vì lợi ích của đứa trẻ. Đó là hai vấn đề khác nhau. Lâu nay người lớn chúng ta vẫn quan niệm trẻ con là trẻ con. Nhưng với tôi, trẻ con là dân tộc, là thiên nhiên, chúng sống thánh thiện và vô tư. Khi chúng không bằng lòng là không bằng lòng thật. Không giống người lớn, thất bại nhiều rồi nên nhiều khi phải giả vờ. Mà giả vờ chính là sự hèn mọn. Do không phải giả vờ nên bọn trẻ con chưa hèn, cuộc đời chưa làm cho chúng hèn đi. Vì vậy, bọn trẻ đáng được tôn trọng, và chúng ta phải tôn trọng thật, chứ không phải sự tôn trọng giả vờ. Còn đối với nhà giáo, trong một ý nghĩa nào đó phải coi học sinh là cấp trên. Nghĩ như vậy không phải là chúng ta hạ mình, mà đây chính là trách nhiệm, chính là lương tâm. Không thể cứ sai lầm mãi GS Hồ Ngọc Đại: "Trẻ em là cứu tinh của dân tộc. Ảnh: hocmai.vn Nhà báo Nguyễn Quang Thiều: Có một quan niệm sai lệch trong nền giáo dục của chúng ta là bậc đại học thì được quan tâm hơn tiểu học. Nhưng tiểu học lại là thời điểm con trẻ hay có thể nói chính xác hơn là thời điểm quan trọng nhất của một đời người để bắt đầu nhận thức thế giới xung quanh, với con người bên cạnh, với muông thú, cây cỏ, côn trùng, đất trời… nhằm đặt nền tảng cho tâm hồn và nhân cách con người thì càng cần những “người thầy vĩ đại” nhất, thấu hiểu chúng, biết lắng nghe chúng, chia sẻ với chúng, hướng dẫn chúng, gợi mở chúng. Thì GD Việt Nam lại làm ngược lại tất cả các nguyên lý cơ bản đó. Có ai nhận ra điều đó không? Tại sao vẫn để tồn tại? GS. Hồ Ngọc Đại: Muốn giải quyết nền giáo dục hiện nay thì phải tập trung vào giải quyết 2 bậc Tiểu học và Đại học. Và phải làm mới hoàn toàn. Thứ nhất, bậc tiểu học có 2 đặc điểm cơ bản, học sinh tiểu học còn nhỏ, còn bố mẹ, ông bà nội ngoại, còn họ hàng… có hàng chục người gắn vào học sinh lớp 1. Nếu học sinh lớp chúng hạnh phúc thì hàng chục người đó hạnh phúc. Nếu giáo dục nhà trường tốt thì gia đình dễ yên ấm, xã hội dễ yên lành. Thứ hai, với cấp tiểu học, đặc biệt nhóm lớp 1 nghiệp vụ phải tinh tế nhất, cao siêu nhất, chắc chắn nhất. Và cấp tiểu học cũng nên kéo dài 6 năm, Vì đây là khoảng thời gian chúng ta có thể chuyển tải tất cả những gì gọi là bản sắc văn hóa, truyền thống dân tộc, đạo lý dân tộc, quan hệ giữa người với người, hạnh phúc gia đình, hạnh phúc xã hội,... Nhà báo Nguyễn Quang Thiều: Thưa Giáo sư, với những đứa trẻ từ mầm non đến tiểu học chúng ta đào tạo để đưa chúng tiếp cận với những nền khoa học, những vấn đề chính trị thời đại hay là để chúng được trau dồi những nền tảng của mỹ học. Song nếu đưa chúng đến với nền tảng mỹ học, giàu tính nhân văn thì dường như phương pháp giáo dục của chúng ta và giáo trình của chúng đang sai? GS. Hồ Ngọc Đại: Sai! Bởi nếu đã học văn hoá, học sinh phải tiếp cận với nền văn hoá hiện đại, thành tựu khoa học hiện đại, cuộc sống học hành giải trí hiện đại, vậy hà cớ gì phải học những cái cũ, chữ nghĩa từ mấy thế kỉ trước. Dạy sai có thể khiến cả một dân tộc sai lầm Nhà báo Nguyễn Quang Thiều: Chứng kiến trong ngày quốc khánh Mỹ, tôi thấy những đứa trẻ Mỹ ở một trường tiểu học tự viết diễn văn, tự nói về dân tộc... Các thầy cô chỉ là những người quan sát, hỗ trợ và gợi ý. Và trong tâm hồn trong sáng, công bằng, không vụ lợi và đầy trí tưởng tượng về dân tộc của chúng, người lớn chúng ta sẽ có cơ hội nhìn thấy dân tộc họ trong một hình ảnh mới đầy sức sống và sáng tạo. Tôi tự đặt câu hỏi, nếu những điều đó là chân lý vậy tại sao chúng ta không làm? Trong khi đó, chúng ta đang biến những đứa trẻ trở thành những robot thực thi các “lệnh” của chúng ta ? GS. Hồ Ngọc Đại: Khi một điều gì đó ra vượt khỏi nhà trường và vào xã hội, đó là quyền lực hành chính. Khoa học thì không bao giờ có quyền lực, chỉ có lời khuyên thôi. Nhà báo Nguyễn Quang Thiều: Có một bạn đọc ở Xuân Trường (Hải Dương) hỏi: Thực tế cho thấy chất lượng sản phẩm giáo dục của chúng ta, rất thiếu sức khoẻ, thiếu kĩ năng sống, thiếu vốn kiến thức cơ bản để hoà nhập với đời sống xã hội và thiên nhiên. Thưa Giáo sư, thực trạng này là do chúng ta thiếu tiền hay thiếu chính những người thày có chất lượng? GS. Hồ Ngọc Đại: Có những người thầy khiến tôi rất kính trọng. Nhưng đúng là nhiều người thầy hiện nay vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của xã hội. Với những người làm thầy cần nhất là sự lương thiện. Đó là cách để làm ra sản phẩm thật cho xã hội. Khi mà 5% dân cư đi học, và thất bại cả 5% thì ko sao. Nhưng với một nền giáo dục mà tất cả trẻ em đều đến trường mà lại được dạy bảo sai thì điều đó sẽ khiến cho cả một thế hệ sai lầm, cả một cả dân tộc sai lầm. Dân tộc đó là dân tộc của một trăm năm nữa, chứ không phải dân tộc của ngày hôm nay. Đây là nỗi đau của cả dân tộc. Dạy trẻ con tự cảm nhận theo cách của mình Nhà báo Nguyễn Quang Thiều: Thực tế cho thấy ngày càng nhiều giáo viên dạy văn đã không còn cảm xúc. Dạy văn, mục đích cơ bản là để học sinh tiếp cận vẻ đẹp ngôn ngữ và vẻ đẹp tâm hồn cũng như lòng nhân ái chứa đựng trong ngôn ngữ đó. Nhưng những buổi học văn vô cảm sẽ không mang lại bất cứ điều gì cho học sinh. Theo Giáo sư, điều gì đã mang lại sự vô cảm trong những bài giảng hiện nay? Phải chăng đó là những giáo trình sơ cứng và những phương pháp dạy bị động không sáng tạo? GS. Hồ Ngọc Đại: Có 2 sai lầm. Nền giáo dục cũ hiện nay đề cao quá vào lí trí, chữ nghĩa, coi thường tình cảm, niềm tin, đạo đức. Mất niềm tin đạo đức sẽ trở thành người vô đạo đức. Lí trí hoá nền giáo dục, và lí trí hoá cuộc sống con người đi nhiều. Do vậy, phải tôn trọng tình cảm, mà tình cảm do nghệ thuật mang đến. Có thể áp đặt về lí trí, nhưng không thể áp đặt trong nghệ thuật và đạo đức. Tôi luôn chú ý cả 3 lĩnh vực: khoa học, nghệ thuật và lối sống. Lõi của lối sống là niềm tin đạo đức. Nghệ thuật không thể giảng được. Nhưng có thể gợi ý, định hướng và hướng dẫn. Các em hoà nhập vào tác phẩm để cảm nhận theo cách riêng của mình. Hãy để các em thoả sức tìm tòi. Không nên ràng buộc các em bằng những chuẩn hoá quá sớm. Ảnh: hoikunblog Nhà báo Nguyễn Quang Thiều: Ông sẽ dạy những gì cho những học sinh không học trong trường thực nghiệm. Và ông sẽ chia sẻ những gì với cha mẹ chúng? GS. Hồ Ngọc Đại: Việc này khó. Bởi họ đã quen nếp cũ, nếu thay đổi, phải thay đổi đồng bộ. Thay đổi giáo trình, phương pháp dạy với đứa trẻ. Thay đổi các mối quan hệ giữa đứa trẻ và thầy giáo, giữa thầy giáo và phụ huynh. Quan hệ giữa thầy giáo và phụ huynh hiện nay là quan hệ đối phó, chưa phải hợp tác.Hiện nay phụ huynh thường có tâm lý trăm sự nhờ thầy giáo, hoặc lấy lòng thầy giáo vì sợ thầy giáo không hài lòng thì con mình khổ. Đã không ai thấy rằng thành quả của các em là do gia đình và nhà trường cùng làm nên. Trong tương lai phụ huynh học sinh phải được đào tạo thành phụ huynh học sinh theo đúng nghĩa vụ, thầy giáo đúng trách nhiệm và nghĩa vụ, hai bên hợp tác nhau, không bên nào làm lẫn nhiệm vụ của bên nào, có vậy đứa trẻ mới thấy được hạnh phúc cả khi ở với gia đình lẫn ở trường. Với nền giáo dục hiện nay một số người đã không chịu nổi, và khi tất cả đều không chịu nổi thì sẽ khác. Nhà báo Nguyễn Quang Thiều: Nhiều bạn đọc của VietNamNet đã gửi thư bày tỏ băn khoăn, lo lắng về quy định chuẩn cho trẻ 5 tuổi. Giáo sư có ý kiến gì về vấn đề này? GS. Hồ Ngọc Đại: Những năm 70 ở Liên Xô có cuộc tranh luận. 1 phái nhận trẻ con 6 tuổi vào lớp 1 và phái kia nhận trẻ 7 tuổi (tôi là phái 7 tuổi). Tại sao phải trì hoãn tuổi đi học? Bởi trong cuộc đời không có giai đoạn nào đẹp hơn thời kì từ 0 đến 6 tuổi. Tuổi này mà được ở nhà, được vui chơi thoải mái là thích nhất. 6 tuổi là thời điểm tích luỹ kinh nghiệm một cách thiên nhiên, bản tính. Giai đoạn này trẻ thích mầy mò, khám phá. Nên hãy để các em thảo sức tìm tòi. Dĩ nhiên có thất bại, có thành công…. không nên ràng buộc các em bằng những chuẩn hoá quá sớm. Không dám nhìn vào sự thật Nhà báo Nguyễn Quang Thiều: GS có thể nói gì về cái quy chuẩn trẻ 5 tuổi? GS. Hồ Ngọc Đại: Tôi cho rằng không cần thiết. Việc các trường mẫu giáo dạy chữ trước khi trẻ vào lớp 1 là hi sinh một thứ rất lớn để đổi lấy thứ không cần thiết. Nhà báo Nguyễn Quang Thiều: Chúng ta đang mắc những sai lầm lớn trong giáo dục mầm non, tiểu học. Chúng ta phải từ bỏ ngay ý nghĩ những đứa trẻ phải nhất nhất nghe lời chúng ta. Chúng ta đã bỏ rơi chúng trong chính ngôi nhà của mình, nhà trường của mình và ngay cả trong xã hội của mình mà cứ lầm tưởng là chúng ta đang chăm sóc chúng. Thực tế, chúng ta đang chỉ chăm sóc phần xác của chúng mà thôi. Vậy theo Giáo sư, chúng ta làm gì để khắc phục những sai lầm đó, phải mất bao lâu thời gian để khắc phục? GS. Hồ Ngọc Đại: Tôi thấy đau xót vì không ai nhìn thẳng vào sự thật. Có thể nói thành lời, nhưng không ai cảm thấy rằng trẻ con là máu thịt của mình, không ai cảm thấy đứa con đau khổ chính là mình đau khổ. Và không thấy được sự tối ưu của mỗi giai đoạn khác nhau. Hiện nay từ lớp mẫu giáo cho đến các bậc tiến sĩ dạy đều có phương pháp dạy giống như nhau. Cách làm này sẽ thủ tiêu sức sống của cá nhân. Phương pháp cứ dồn góp, cứ nghĩ rằng làm trước là xong, mà không thấy được chất lượng cuộc sống mỗi giai đoạn một khác. Do vậy, phải có phương pháp giáo dục riêng cho từng cấp học, mầm non khác, tiểu học khác, tiến sĩ phải càng khác. Bản thân tôi cả một đời dạy học. Tôi luôn quan niệm trẻ em là cứu tinh của dân tộc. Nhà báo Nguyễn Quang Thiều: Cuộc trò chuyện chỉ vọn vẻn trong khoảng hơn 1 tiếng, nhưng chúng ta nhận ra quá nhiều điều bất ổn trong những đứa trẻ thời nay. Chúng ta không biết điều đó, và ngay cả những người biết nhưng đã chôn vùi những lỗi lo lớn ấy của xã hội vào giấc ngủ hưởng thụ và tự mãn của cá nhân mình. Chúng ta phải thừa nhận rằng: tất cả những lầm lẫn trong giáo dục hay những thất vọng về những đứa trẻ nào đấy đều do người lớn chúng ta gây ra. Có một lúc nào đó Giáo sư tuyệt vọng vì những lỗi lầm này? GS. Hồ Ngọc Đại: Tôi đã nói những điều này từ cách đây 30 năm nay rồi. Tôi không sợ ai giận cả. Tôi không tuyệt vọng. Tôi có chiến lược, chứ không phải làm ẩu. Khi tôi về nước, tôi hi vọng sau 20 năm sẽ có nền giáo dục mới. Tôi bỏ ra 10 năm đầu để làm mất nền giáo dục hiện nay đi, cùng lúc đó, tôi thiết kế một nền giáo dục khác. Khi không có những đứa trẻ thật, những cha mẹ thật, một nền giáo dục thật thì tất cả đều là viển vông. Dân tộc ở lại mãi mãi, trẻ em ở lại mãi mãi. Tôi chịu trách nhiệm với trẻ em. Qua trẻ em tôi chịu trách nhiệm với cha mẹ. Qua trẻ em và cha mẹ chúng tôi chịu trách nhiệm với dân tộc này. Nhà báo Nguyễn Quang Thiều: Nhiều người đều cảm nhận và không hài lòng với cách giáo dục hiện tại. Họ lo ngại điều đó sẽ mang lại tai hoạ cho đất nước. Đây cũng là nỗi lòng mà đông đảo các vị phụ huynh trên cả nước, những người có lương tâm giáo dục chia sẻ với Giáo sư và chúng tôi. Vẫn còn rất nhiều câu hỏi của bạn đọc, nhưng tạm thời xin được phép khép lại cuộc bàn tròn nhỏ với một vấn đề quá lớn và còn quá nhiều điều phải bàn. Nhưng không còn cách nào là chúng ta phải lên tiếng. Xin thay mặt bạn đọc VietnamNet, Tuần Việt Nam cám ơn Giáo sư. Mong rằng tất cả mọi người trong cộng đồng này cùng lên tiếng, lên tiếng mãi cho đến khi chúng ta đổi thay, kiên trì như Giáo sư Hồ Ngọc Đại để đến một ngày nào đó nền giáo dục mầm non nói riêng và nền giáo dục Việt Nam nói chung có sự đột phá khởi sắc.
  21. Pho tượng Phật Thích Ca bằng ngọc thạch (Polar Pride - Niềm kiêu hãnh của Bắc Cực) cao 3,5m, nặng 4,650 kg được tạc từ khối ngọc thạnh nặng 18 tấn, được tìm thấy tại Canada vào năm 2000. Trước khi tìm thấy ngọc thạch, vị Lạt ma Tây Tạng Zopa Rinpoche nằm mơ thấy về hướng đất nước Canada có một khối sáng từ lòng đất vọt lên. Sau đấy không lâu, Canada công bố phát hiện một khối ngọc lớn nhất thế giới. Vị Lạt ma Zopa tức tốc tìm ngay đến ông Green, là người quy y đầu Phật, là một tỷ phú. Vị Lạt ma Zopa thuyết phục Phật tử Green mua lại khối và tạc thành tượng Phật. Ông Green hoan hỷ phát tâm cúng dường. Cuối năn 2006, khối ngọc Polar Pride được vận chuyển từ Vancouver đến Bangkok. Năm 2007, các vị Lạt ma Zapo Rinpoche, Jonathon Partridge và các nhà nghiên cứu đã phát thảo theo khuôn mẫu tượng Đức Phật Thích Ca được tôn thờ bên trong bảo tháp Đại Giác Ngộ ở Bồ Đề Đạo Tràng tại Ấn Độ. Đầu năm 2008, những nghệ nhân điêu khắc của công ty Jade Thongtavee (Thái Lan) bắc đầu tạc tượng. Tháng 6 năm 2008 công trình độc nhất vô nhị này được hoàn thành. Khâu đánh bóng tượng được hoàn tất sau đó vào tháng 7 cùng năm. Tháng 12 năm 2008, sau khi hoàn tất các nghi thức chú nguyện, pho tượng kỷ lục thế giới này được đặt tên là The Jade Buddha for universal peace (Phật Ngọc cho Hòa Bình Thế Giới). Việt Nam là nước đầu tiên trên thế giới triển lãm Phật Ngọc Hòa Bình. Sau khi triển lãm ở Việt Nam, Phật được trưng bày ở một số nước trên thế giới. Kết thúc vòng chu du đó, Phật Ngọc sẽ được an vị luôn tại một ngôi chùa lớn ở Canada.
  22. Giáo sư Hồ Ngọc Đại: Cần sự nổi dậy của tư duy giáo dục (Dân trí) - Loạn trường đại học, loạn giáo sư, loạn tiến sỹ… là thực trạng buồn của giáo dục Việt Nam. Thế nhưng, cái cần “nổi loạn” nhất là sự nổi loạn của tư duy thì lại trì trệ, lại không dám, chỉ biết cam chịu - GS. TSKH Hồ Ngọc Đại bày tỏ. >> Không có tư duy phản biện, không phải là trí thức!Niên học 2007-2008 kết thúc với khá nhiều ấn tượng đáng ghi nhận. Ngành giáo dục, sau nhiều năm bê trễ và luẩn quẩn có vẻ như đã tìm được hơi thở mới. Hàng loạt các phong trào “Hai không”, “Bốn không” đã thu được những thành quả nhất định. Các kỳ thi đã diễn ra nghiêm túc hơn, đặc biệt là kỳ thi đại học. Gần đây nhất, việc Bộ GD-ĐT cho in 3 cuốn đính chính sai sót trong SGK đã thể hiện tinh thần cầu thị, nhìn thẳng vào sự thật. Tuy nhiên, trên tinh thần khoa học, thẳng thắn và xây dựng, không ít nhà chuyên môn cho rằng cách làm giáo dục theo kiểu phong trào nối tiếp phong trào như hiện nay sẽ khó đem lại hiệu quả lâu dài như mong muốn bởi phong trào chỉ mang lại hiệu quả trong những thời điểm nhất định. Hình như giáo dục của ta vẫn đang loay hoay với một tư duy giáo dục quen cam chịu, không dám “nổi loạn”. Dân trí đã có cuộc trò chuyện với một nhà giáo dục nói dai, nói mãi, nói nhiều nhưng cũng là người nói đúng, nói trúng, nói quyết liệt và thẳng thắn đến mức nhiều khi “nghịch nhĩ” - GS. TSKH Hồ Ngọc Đại. Thiếu lý luận giáo dục Cách đây không lâu, khi trả lời phỏng vấn chúng tôi, TS Chu Hảo nói đại ý rằng, giáo dục của chúng ta lại đang đi vào bất cập như đã từng bất cập, rằng giáo dục chưa được bắt đúng "bệnh" và những thành công hiện nay là thành công của cách làm phong trào và không bền vững. Ông có đồng ý với nhận xét này? Tôi xin được thay 2 chữ: Bất cập = Thất bại. Có lẽ trong văn cảnh này thì bản chất của hai từ trên không khác nhau nhiều lắm. Nó cũng chỉ là cách nói "nhiều" với "không ít" thôi. Tuy nhiên, vì sao các ông lại có nhận xét bi quan thế? Tôi không bi quan, hiện tại nó đang như thế. Có lẽ câu cần hỏi là vì sao lại vẫn cứ để cho điều đó xảy ra? Vâng, cứ cho là như thế, theo ông thì nguyên nhân sâu xa của nó là gì? Đó là vì chúng ta làm giáo dục bằng kinh nghiệm, bằng thói quen, bằng mò mẫm, thậm chí không loại trừ bằng lợi ích của một nhóm người mà không xây dựng cho mình một nền tảng lý luận để phát triển giáo dục. Vì không có lý thuyết nên không có cách làm thực tiễn phù hợp với lý thuyết đó. Và do đó, không biết phải bắt đầu từ đâu, thực hiện điều đó như thế nào. Trẻ em đang cần một nền giáo dục khác Trước khi từ giã thế kỉ 20, chúng ta đã cố gắng hoàn thiện một nền tảng lý thuyết về giáo dục cho thế kỉ 21. Thế nhưng đã bước sang thế kỉ mới 8 năm rồi mà ông vẫn nói là vẫn chưa biết bắt đầu từ đâu? Khi chuẩn bị việc đó, chúng ta vẫn là con đẻ của thế kỉ 20 đi lo công việc của thế kỉ 21. Đó là một sai lầm. Phải coi thế kỉ 20 ra đi như một kẻ đột tử mà không thể "ăn bám" vào nó thêm nữa. Do đó, thế kỉ 21 phải tự lo liệu thân mình. Đây là hai thế kỉ hoàn toàn khác nhau về bản chất. Những đứa trẻ của thế kỉ 21 không phải là những đứa trẻ của thế kỉ 20. Chúng đi xe hiện đại, sử dụng điện thoại di động hiện đại, sử dung intenet siêu tốc và máy vi tính hiện đại. Ngay cả đồ chơi và trò chơi chúng cũng không còn chơi những đồ chơi và trò chơi của các thế kỉ trước. Do đó, chúng rất cần được hưởng nền giáo dục hiện đại, nội dung hiện đại, phương pháp hiện đại thì ngược lại, chúng đang bị "nhốt" trong cái lồng quá cũ và được "nhồi nhét" kiến thức theo phương cách cũ. Tóm lại, trẻ em hôm nay cần một nền giáo dục khác. "Nền giáo dục khác" là nền giáo dục như thế nào? Một nền giáo dục có lý thuyết, không mò mẫm, không đối phó, không lừa dối, dù lừa dối người khác hay tự lừa dối chính mình. Tiếc thay có nhiều điều tỉnh táo thì lại đang được thực hiện một cách ngông cuồng! Ngông cuồng. Đó là những điều gì vậy? Loạn trường đại học, loạn giáo sư, loạn tiến sỹ… Cái cần "nổi loạn" nhất là sự nổi loạn của tư duy thì lại trì trệ, lại không dám, chỉ biết cam chịu. Bằng đại học “cỏ đồng ta” Cái mà ông nói là "nổi loạn tư duy" cụ thể ở đây là cái gì vậy? Là thay đổi cách học và nội dung cần học, đặc biệt là ở tiểu học và đại học. Tại sao lại đặc biệt ở tiểu học và ở đại học? Đó là hai bậc học hoàn toàn khác nhau về mục đích. Nếu bậc học tiểu học là cơ hội cuối cùng để duy trì, gìn giữ bản sắc dân tộc thì ở bậc đại học lại là cơ hội đầu tiên để hòa nhập, hội nhập quốc tế. Một chương trình tiểu học không cần phải giống nước nào và cũng không cần nơi nào công nhận thì ngược lại, chương trình đại học phải là chương trình quốc tế và bằng cấp phải được thế giới thừa nhận. Một bằng tốt nghiệp đại học chỉ dùng ở "tiêu thụ nội địa" là một bằng đại học "trâu ta ăn cỏ đồng ta", chỉ có sức để kéo cày chìa vôi thôi. Vô trách nhiệm là tội ác Ông là người cả đời đi dạy tiểu học nên ông đặt vấn đề quá lớn về cấp tiểu học này chăng? Tôi xin nói lại, không phải cả đời mà tính đến nay, tôi mới có 54 năm làm nghề sư phạm thì 40 năm gắn bó với tiểu học và tôi rất hiểu bậc học này. Đây mới là bậc học liên quan đến từng gia đình, toàn xã hội nên đòi hỏi phải có nghiệp vụ sư phạm tinh tế nhất, hiệu quả nhất, chặt chẽ nhất. Ở đây, đúng là đúng mãi mãi mà sai là sai mãi mãi, không thể sửa chữa sai lầm. Thiếu trách nhiệm, "bôi bẩn" những trang đầu đời của trẻ em là tội ác. Theo ông, cần phải "bôi" cái gì lên trang giấy ấy? Hay nói cách khác, yêu cầu cụ thể ở từng lớp bậc tiểu học là gì? Ví dụ lớp một là đọc thông, viết thạo, nắm vững luật chính tả, không thể tái mù. Đối với lớp hai viết thành câu, lớp ba không bao giờ viết sai câu. Thật vô lý khi 5 - 6 tuổi đã nói rất sõi, rất tinh tế, nhưng đến hết đại học vẫn viết sai chính tả. Viết sai tiếng mẹ đẻ là một điều sỉ nhục. Sẽ sớm có sự thay đổi Vừa qua trên Diễn đàn Dân trí, rất nhiều giảng viên trẻ rời bỏ giảng đường để đi tìm một môi trường khác mà theo họ, không chỉ là đồng lương. Ông giải thích gì về hiện tượng này? Tôi có theo dõi diễn đàn này và thấy những người ra đi đều có lý của họ. Tôi trân trọng họ vì họ dám thể hiện quan điểm của mình. Một nền đại học là rao giảng, là bằng cấp, là đối phó… là vì những mục đích cá nhân đương nhiên là một môi trường bê trễ. Quả là từ nhiều năm nay, nền giáo dục chưa bao giờ làm yên lòng dư luận xã hội, thậm chí chưa bao giờ không được coi là vấn đề bức bách. Theo ông, tình trạng này liệu còn kéo dài? Không, không thể chịu được nữa rồi. Cuộc sống đã quá bí bách, không thể chịu được với thực trạng giáo dục, nên dứt khoát chỉ vài ba năm tới, sẽ có sự thay đổi lớn. Khi đó, những đòi hỏi chính đáng từ cuộc sống sẽ đủ sức mạnh vượt qua những lợi ích cục bộ, những lợi ích tạm thời của một nhóm người để giáo dục phát triển. Nếu vài ba năm tới, giáo dục có một cuộc cách mạng thực sự và đem lại thành công sẽ là điều rất vui nhưng giả sử không có điều đó? Thì sẽ là bi kịch lớn và giả sử có được thành công thì cũng vẫn là bi kịch, bởi đáng lẽ giáo dục, đào tạo phải lĩnh ấn tiên phong, đi trước, dự đoán trước những đòi hỏi của xã hội mà bây giờ mới làm chạy theo, đuổi theo, lẽo đẽo theo. Nói vậy thôi, muộn còn hơn không. Tôi chỉ là người cảm nhận được hơi thở thời đại Thưa giáo sư Hồ Ngọc Đại, cách đây tròn 30 năm (1978), khi đó Nghị quyết 14 của Bộ Chính trị về cải cách giáo dục vừa ra đời, Thủ tướng Phạm Văn Đồng có hỏi ông và khi đó, ông đã nói là sẽ thất bại. Giờ đây, ông lại nói về những bi kịch của giáo dục Việt Nam. Ông là người bi quan hay bởi cái tính thích nói khác người? Tôi luôn luôn dựa trên những luận cứ khoa học. Tôi không bi quan, không lạc quan mà cũng không bao giờ cho mình được phép nói khác những điều mình thu nhận được. Cũng xin nhắc lại rằng nhận định của tôi 30 năm trước đã hoàn toàn chính xác và trên thực tế, rất tiếc là công cuộc cải cách giáo dục đã thất bại. Còn những gì tôi nói hôm nay là thực tế đang diễn ra ở ngay ngày hôm nay ở mọi lớp học, cấp học, mọi trường, mọi lớp. Ông là người hay nói những điều "nghịch nhĩ", thậm chí có người còn cho là gàn. Phải chăng vì là con rể của cố Tổng bí thư Lê Duẩn nên ông tự cho mình cái quyền gàn đó? Ông Lê Duẩn đã mất cách đây 22 năm và 22 năm qua đầy biến động. Tôi là con đẻ của thời đại, cảm nhận được hơi thở của thời đại và cũng dám bỏ qua những lợi ích tầm thường để đi theo tiếng gọi của thời đại. Tiếc nỗi tôi đã 72 tuổi, cái quỹ thời gian không còn nhiều... Nếu như được yêu cầu góp ý cho giáo dục hiện nay, ông sẽ nói điều gì? Như anh Chu Hảo nói, không thể cải cách giáo dục bằng phong trào và làm phong trào nhiều như thế là đủ rồi. Nói "không" với cái xấu, cái ác là cần thiết nhưng quan trọng không phải là những cái "không" mà làm ra một cái "có"; trên cơ sở cái "có", hãy tập trung vào xây dựng một chiến lược phát triển giáo dục cho thế kỉ 21. Đừng chần chừ! Mất thời gian là mất tuyệt đối! Xin cám ơn giáo sư! Bùi Hoàng Tám (Thực hiện) dantri.com.vn
  23. Thường thì Ông Khiết được làm bằng bột đá, đá (nhiều chất liệu), đồng... Bạn Luckystar0804 mua loại nào cũng được. Chúc may mắn. Thiên Đồng
  24. Dạ, Đệ tử nghe rồi ạ. :)
  25. Gửi Chau, Canh Dần; nếu không, thì cũng có thể chọn đứa Quý Tị tốt hơn. Mến. Thiên Đồng