-
Số nội dung
6.278 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
75
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Thiên Đồng
-
Những lời tiên tri chính xác 99,99% của các thiền sư Việt Thông qua những câu sấm truyền, nhiều thiền sư Việt Nam đã tiên đoán chính xác những sự kiện diễn ra sau hàng thế kỷ. Thiền sư Định Không giải đoán hậu vận đất nước Thiền sư Định Không (?-808) xuất thân từ một dòng tộc quyền quý họ Nguyễn, ở hương Cổ Pháp, Bắc Ninh. Sử sách ghi lại rằng ông là người am hiểu thế số, hành động đúng pháp tắc biết đoán định tương lai. Lời sấm truyền linh ứng sau 200 năm của ông về sự ra đời của nhà Lý vẫn còn được lưu lại đến nay, nội dung như sau: Pháp khí xuất hiện Thập khẩu đồng chung Tính Lý hưng long Tam phẩm thành công Dịch ra tiếng Việt: Hiện ra pháp khí Mười khẩu chuông đồng Họ Lý hưng long Ba phẩm thành công Trước khi qua đời, sư truyền lời tiên tri về hậu vận đất nước cho học trò như sau: “Ta muốn mở rộng làng xóm, nhưng e nửa chừng gặp tai họa, chắc có kẻ lạ đến phá hoại đất nước ta. Sau khi ta mất, con khéo giữ pháp này, gặp người họ Đinh thì truyền, nguyện ta đã mãn”. Hơn 60 năm sau, lời của ông đã linh ứng. Nhà Đường cử Tiết Độ Sứ Cao Biền sang cai trị, bóc lột nhân dân ta. Thâm độc hơn, chúng còn đến nhiều vùng đất, thế núi linh thiêng, nơi sẽ sinh người tài giỏi, trấn yểm triệt phá long mạch, trong đó có đất Cổ Pháp của sư Định Không. Một thế kỷ sau đó Đinh Tiên Hoàng (924 – 979) chấm dứt tình cảnh loạn lạc, sáng lập ra nhà Đinh và nước Đại Cồ Việt, mở đầu cho thời đại độc lập, tự chủ của người Việt. Sau này, sự chấm dứt của triều Đinh (968 – 980) cũng ứng với một lời sấm không rõ tác giả, xuất hiện vào năm 974: Đỗ Thích giết hai Đinh Nhà Lê sinh thánh minh 6 năm sau, trong bữa tiệc tối, nhân lúc vua quan say rượu, hoạn quan Đỗ Thích đã giết vua và người con cả Đinh Liễn. Sau đó Lê Hoàn nắm quyền kiểm soát triều đình và trở thành hoàng đế, mở ra thời Tiền Lê. Dưới thời của ông đất nước được thịnh trị và giành chiến thắng vẻ vang trước cuộc xâm lược của nước Tống. Thiền sư La Quý tiên đoán sự ra đời của Nhà Lý Thiền sư La Quý (852 – 936) là người họ Đinh, cũng được lịch sử ghi nhận với khả năng tiên tri của mình. Tương truyền, trước khi qua đời ông đã trồng cây gạo ở chùa Minh Châu, làng Diên Uẩn và để lại những bài kệ: Đại sơn long đầu khỉ Cù vĩ ẩn châu minh Thập bát tử định thiền Miên thọ hiện long hình Thổ kê thử nguyệt nội Định kiên nhật xuất thanh Dịch là: Đại sơn đầu rồng ngửng Đuôi cù ẩn Châu minh Thập bát tử định thành Bông gạo hiện long hình Thỏ gà trong tháng chuột Nhất định thấy trời lên Do những từ “thập bát tử” ở câu số 3 là chiết tự của chữ Lý, nghĩa là họ Lý, nên bài thơ được diễn giải như sau: Đầu rồng hiện ở núi lớn / đuôi rồng giấu sự thịnh vượng / Họ Lý nhất định thành/khi cây gạo hiện hình rồng/ chỉ trong mấy tháng thỏ, gà, chuột / chắc chắn sẽ thấy mặt trời (vua) anh minh". Điều này ứng với sự ra đời của nhà Lý vào tháng 11 (tháng chuột) năm Kỷ Dậu (năm gà) 1009. Tài tiên tri của thiền sư Vạn Hạnh Thiền sư Vạn Hạnh (938 – 1025) là người họ Nguyễn, quê ở châu Cổ Pháp (Từ Sơn, Bắc Ninh ngày nay). Ông là vị thiền sư có nhiều đóng góp trong việc mở ra nhà Lý đồng thời cũng là một nhà tiên tri. Câu chuyện nổi tiếng nhất về khả năng tiên tri của thiền sư Vạn Hạnh gắn liền với cây gạo do thiền sư La Quý trồng ở làng Diên Uẩn. Theo Đại Việt Sử Ký, vào năm 1009, cây gạo này đã bị sét đánh và hiện lên những dòng chữ như sau: Thọ căn diễu diễu Mộc biểu thanh thanh Hoa đào mộc lạc Thập bát tử thành Đông a nhập địa Dị mộc tái sanh Chấn cung kiến nhật Đoài cung ẩn tinh Lục thất niên gian Thiên hạ thái bình Dịch là: Gốc cây thăm thẳm Ngọn cây xanh xanh Cây hoa đào rụng Mười tám hạt thành Cành đông xuống đất Cành khác lại sanh Đông mặt trời mọc Tây sao ẩn hình Sáu bảy năm nữa Thiên hạ thái bình Sư Vạn Hạnh đã giải đoán rằng, trong câu “Thọ căn diễu diễu” chữ “căn” là gốc, gốc là vua, chữ “diễu” đồng âm với chữ yểu, nghĩa là nhà vua (Lê Long Đĩnh) sẽ chết yểu. Trong câu “Mộc biểu thanh thanh” chữ “biểu” là ngọn, ngọn là bầy tôi, chữ “thanh” đồng âm với chữ thịnh, nghĩa là một người trong số quần thần sẽ lên nắm chính quyền. Ở câu 3, chữ “hoa đào” ghép lại thành chữ “lê”, tức là nhà Lê sẽ sụp đổ. Ở câu 4, ba chữ “thập bát tử” ghép lại là chữ Lý, tức là nhà Lý sẽ lên ngôi. Trong câu “Đông a nhập địa”, chữ “đông” và chữ “a” ghép thành chữ Trần, nói về sự kế tiếp của nhà Trần sau nhà Lý. Câu “Dị mộc tái sanh” nghĩa là một họ Lê khác (Lê Lợi và nhà Hậu Lê) sẽ lại nổi lên… Qua lời sấm này, thiền sư Vạn Hạnh đã tiên đoán chính xác những diễn biến lịch sử của dân tộc trong khoảng 5 thế kỷ, từ thời Tiền Lê đến thời Hậu Lê. Việc cây gạo bị sét đánh và hiện ra lời sấm cũng đã được thiền sư La Quý tiên đoán trước đó với câu "Miên thọ hiện long hình" (Bông gạo hiện long hình), câu thứ 4 trong bài kệ năm 936 của ông. Theo Kiến thức
-
Chuyện huyền bí về 2 pho tượng khổng lồ Ông Đỏ, Ông Đen (Dân trí) – Chùa Nhạn Sơn (xã Nhơn Hậu, thị xã An Nhơn, Bình Định) đang thờ 2 pho tượng khổng lồ một ông sơn đen, một ông sơn đỏ. Xoay quanh hai pho tượng là câu chuyện rất huyền bí. Chùa Nhạn Sơn, nay thuộc thôn Nam Nhạn Tháp, xã Nhơn Hậu, thị xã An Nhơn, nằm dưới chân đồi Lông Cốt hay Gò Ba Tháp. Bên trong chính điện đang thờ hai pho tượng đá cao khoảng 2,7m, một vị sơn đen, một vị sơn đỏ. Vì thế, nhân dân địa phương thường gọi là chùa Ông Đen Ông Đỏ hay chùa Ông Đá. Hai pho tượng một ông sơn đỏ, một ông sơn đen đang được thờ tại chính điện chù Nhạn Sơn Người dân trong vùng quan niệm, hai pho tượng linh thiêng cầu đảo là ứng nghiệm nên thường đến cúng bái cầu nguyện. Nhất là con cái ốm đau, bệnh tật, trẻ hay khóc đêm đem về bán gửi phật và hai ngài là hết khóc ngay... Đến nay, không có tài liệu chính xác nào cho biết về thời điểm lập chùa. Tất cả chỉ là truyền thuyết. Theo đó, lúc mới dựng lên, chùa có tên là Thạch Công tự – sung nghĩa tự. Nhạn Sơn Linh Tự và Nhạn Sơn tự (chùa Ông Đá). Tuy nhiên, điều mà nhiều nhà nghiên cứu đặt ra là giữa hai pho tượng đá này và ngôi chùa có mối quan hệ như thế nào với nhau. Ông sơn đỏ tay trái vốn cầm quả chùy bầu dục nhưng người Việt chắp thêm một đoạn lên phía trên quả chùy biến nó thành cây thiết trượng Ông sơn đen tay phải cầm thiết trượng Tương truyền, đây là tượng của đôi bạn chí thân Huỳnh Tấn Công và Lý Xuân Điền, một người ở Hóa Châu (Huế) còn người kia quê ở Ninh Bình. Vị đỏ là con một nhà nho nghèo trên đường ra kinh đô Hà Nội đi thi. Ra đến Quảng Bình thì bị bệnh ngất xỉu dọc đường rồi được thân sinh của vị sơn đen là một đại điền chủ đem về chữa trị. Sau này, cả 2 vị cùng đi thi, vị sơn đỏ đậu quan Văn, vị sơn đen đậu quan Võ. Cả hai đều là những bậc anh tài được vua Trần trọng dụng. Giữa lúc loạn lạc, giặc Tàu đe dọa phương Bắc, quân Chiêm Thành uy hiếp phía Nam, vua Trần cử mỗi người cầm quân đi đánh dẹp một phương. Huỳnh Tấn Công được cử đi đánh Champa, nhưng chẳng may bị bắt làm tù binh rồi trở thành gia nô cho một viên đại thần trong triều đình Champa. Tuy nhiên, nhờ có tài xem mạch, bốc thuốc, có lần Huỳnh Tấn Công đã chữa cho vị quan nọ khỏi một căn bệnh hiểm nghèo. Từ đó, ông được sủng ái hết mực. Sau khi dẹp xong giặc Bắc quay trở về, biết Huỳnh Tấn Công đang lưu lạc nơi đất Chiêm, Lý Xuân Điền quyết chí vào Nam tìm bạn. Cuối cùng họ đã tìm được nhau. Cảm phục trước tình bạn thủy chung, vị đại thần Champa đã đồng ý cho họ Huỳnh cùng bạn trở về quê hương. Hai người ra về được ít lâu, vì thương nhớ, vị quan người Chiêm đã sai thợ tạc tượng hai ông để hàng ngày được ngắm nhìn cho thỏa cũng là để tỏa lòng cảm mến, biết ơn và lưu niệm hậu thế. Trải qua bao thăng trầm lịch sử, chiến tranh, tháp sập đổ, 2 pho tượng đá bị vùi lấp. Sau này, người Việt khai hoang cày cuốc phát hiện nên lập chùa thờ phụng. Dân làng kể rằng, từ mấy trăm năm về trước dưới đất bỗng trồi lên hai pho tượng. Những người tò mò đến rờ mó nghịch ngợm thì về nhà mắc chứng nhức đầu. Sợ quá họ lập đền thờ, lúc đầu lợp tranh sau mới xây gạch. Họa tiết hoa văn ngang thắt lưng 2 pho tượng đến nay vẫn giữ nguyên bản không được tô sơn Truyền rằng, ban đầu khi mới lập chùa 2 pho tượng có một nước sơn. Sau này, người ta sơn một ông màu đỏ, ông màu đen rồi thêm râu, đội mũ và mặc áo bào cho giống với người Việt. Theo đó, pho tượng sơn màu đỏ, tay phải đưa ra vừa tầm ngang với ngực rất tự nhiên, tay trái vốn cầm một quả chùy bầu dục. Nhưng người Việt đã chắp thêm một đoạn lên phía trên quả chùy biến nó thành cây thiết trượng. Hai cổ tay đều đeo vòng tràng hạt. Hai cổ chân cũng đeo vòng tròn nhưng khác nhau, vòng tròn chân phải là hình một con rắn, vòng tròn chân trái phía trước chạm nổi lá đề. Pho tượng sơn màu đen, tay cầm thiết trượng, cổ tay đeo tràng hạt, hai cổ chân chống hai con rắn, bệ tượng tròn chạy xung quanh là những vòng tràng hạt. Tuy nhiên, tay phải đã bị gãy hiện được đắp bằng xi măng. Về trang phục, cả hai tượng đều mặc sampot, dải buông ra phía trước, đuôi vểnh chéo thành năm nếp vắt lên đùi trái, người ở trần, đeo chéo một con rắn đầu ló ra trước ngực, tóc búi cao xung quanh là những sợi dây buộc chéo, trâm cài phía sau, đầu đội mũ có rìu xéo. Cả hai pho tượng đều có miệng lớn, mũi bành rộng lưng gãy, ngực hơi ưỡn ra phía trước. Tuy nhiên, bây giờ đây y phục của hai pho tượng đều đã được Việt hóa, thay bằng áo đại bào, đầu đội mũ đằng cho giống với các tượng thần trong chùa Việt. Vị sơn đen, hai cổ chân trống 2 con rắn rất độc đáo Đến nay, câu chuyện xoay quanh hai pho tượng này vẫn còn rất mơ hồ, có những chi tiết phi lịch sử nhưng thật cảm động vì tình bạn thủy chung. Điều này, phần nào phản ánh trí tưởng tượng của dân gian, giải thích mối quan hệ Việt – Chiêm trong lịch sử, lý giải hiện tượng trong chùa Việt có tượng Champa. Ngày nay, nhân dân trong vùng cũng như du khách thập phương cứ rằm mùng một các dịp lễ tết lại tìm đến chùa đi lễ chùa để cầu xin đức Phật được mọi sự tốt lành, con cái đỗ đạt. Năm 1977, các nhà nghiên cứu lịch sử, nhà khảo cổ Hà Nội vào nghiên cứu hoa văn ở thắt lưng hai pho tượng và như các sử liệu khác xác định hai pho tượng có vào thế kỷ XIII. Đến thế kỷ XVI mới lập chùa và được “sắc tự” thời Tự Đức thứ 17 và Bảo Đại thứ 18 với tên gọi là Nhạn Sơn Linh Tự. Năm 2011, chùa Nhạn Sơn được Bộ Văn hóa thể thao xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật; nơi lưu giữ hai tượng môn thần – tác phẩm điêu khắc Chăm thế kỉ XIII. Doãn Công
-
"cái rốn của trái đất" trên đảo Phục Sinh Đảo Phục Sinh không chỉ hấp dẫn ở những bức tượng bán thân nổi tiếng, mà còn có một cột mốc khó hiểu được các nhà khoa học gọi là “cái rốn của trái đất”. Pito te o Te Henua trong ngôn ngữ Rapa Nui có nghĩa là “cái rốn của trái đất”. Cái tên này đề cập đến một hòn đá thú vị nằm ở đảo Phục Sinh của Chile. Hòn đá này không chỉ có vòng tròn hoàn hảo mà còn phát ra từ rất tính mạnh. Thoạt nhìn vào hòn đá, mà những nhà khoa học gọi là “cái rốn của trái đất” dường như không có gì ấn tượng với kích thước của nó, ngoại trừ hình dáng tròn nhẵn và phát ra từ tính mạnh được đặt giữa những khối đá thô xung quanh. Tuy nhiên, hòn đá kì lạ này được còn cho là vị vua đầu tiên của đảo Phục Sinh, Hotu Matua mang đến một cách đặc biệt. Truyền thuyết kể về cuộc hành trình của vua Hotu Matua từ vùng đất Hiva đi du lịch đến đảo Phục Sinh, ông đã mang theo hai hòn đá đến để cân bằng móc chèo chiếc xuồng của mình. Khi đến đảo, vị vua này còn dùng hai hòn đá với mục đích là đánh dấu lãnh thổ, bằng cách đặt chúng tại mỗi rìa của hòn đảo. block !important;"> Hòn đá ngày nay không chỉ nổi tiếng với hình tròn hoàn hảo mà còn phát ra năng lượng đặc biệt. Điều này là do yếu tố từ tính bên trong đá. Khi người ta đặt một chiếc la bàn bên trên đá, ngay lập tức đá sẽ hút la bàn làm nó bị mất phương hướng. Trước đây, khi người ta chưa tìm ra nguyên nhân của hiện tượng này nên có những lời giải thích trái chiều, chịu ảnh hưởng của những yếu tố tâm linh, thần thánh hóa. Hiện tại có bốn hòn đá được đặt xung quanh tảng đá từ tính này tượng trưng cho bốn mặt của la bàn, nằm trên một góc của đảo Phục Sinh. Đây cũng là một địa điểm được du khách viếng thăm nhiều. Tuệ Tâm Theo Tri Thức
-
Hình ảnh đại long đao uy vũ của vua Đại Việt (Phunutoday) - Dân tộc ta luôn giữ thế oai hùng và tinh thần thượng võ suốt chiều dài lịch sử. Cây đại đao của Mạc Đăng Dung, hiện đang thờ tại đền thờ ông tại Kiến Thụy, Hải Phòng là minh chứng cho tinh thần đó. Toàn cảnh khu chính điện đền thờ Mạc Đăng Dung, khu đền này mới được xây dựng và công nhận là di tích lịch sử quốc gia, cũng là công trình để kỷ niệm 1000 năm Thăng Long Hà Nội. Ban thờ chính của Mạc Đăng Dung. Có thể nói ông là một con người bị nhiều ý kiến bị lên án trong lịch sử, những cống hiến của ông và vương triều Mạc trong lịch sử để đảm bảo chủ quyền dân tộc vẫn còn nhiều tranh cãi. Mạc Đăng Dung xuất thân là võ quan, vì thế ông có sức khỏe và võ nghệ hơn người, đặc biệt với cây đại đao của mình, Mạc Đăng Dung đã đánh Nam dẹp Bắc. Ngày nay, cây đao ấy vẫn được thờ dưới tượng của ông trong gian hậu điện tại Kiến Thụy, Hải Phòng. Thanh long đao của Mạc Thái Tổ (còn được gọi là Định nam đao) được nhiều nhà nghiên cứu lịch sử và khảo cổ ở Việt Nam khẳng định là binh khí duy nhất của một danh tướng cũng như một vị vua dưới thời phong kiến Việt Nam vẫn còn lưu lại đến ngày nay. Trải qua hơn 500 năm tuổi và 90 năm bị ăn mòn do chôn giấu dưới lòng đất nhưng cơ bản thanh long đao vẫn giữ được hình dạng và kích thước không khác mấy lúc ban đầu dù bị sứt mẻ và gỉ sét ở nhiều chỗ. Thanh long đao của Mạc Thái Tổ dài 2,55m, cân nặng hiện tại 25,6kg, ước tính ban đầu, thanh đao này phải nặng hơn 35kg. Cán đao bằng sắt rỗng dài 1,60m. Lưỡi đao dài 0,95m. Một hình đầu rồng bằng đồng thau che kín phần cuối lưỡi đao tiếp vào cán đao thay thế cho khâu đao (trông như thể đầu rồng đang há miệng nuốt lấy lưỡi đao).
-
tiếp theo Chỗ hình đầu rồng có "cá" chốt chặt lưỡi đao vào cán đao, phải nói, đây là một vũ khí phi thường không phải bất cứ người học võ nào cũng có thể sử dụng được. Thanh đại đao này cũng được xem là một trong hai thanh long đao của một vị quân vương ở châu Á còn tồn tại đến nay và được lưu thờ là vật thái bảo. Thanh long đao còn lại là của Tống Thái Tổ (Triệu Khuông Dẫn), vua sáng lập ra nhà Bắc Tống Cũng có nhiều đánh giá khẳng định thanh Định nam đao của Mạc Thái Tổ (Mạc Đăng Dung) nặng hơn hai thanh long đao của Triệu Khuông Dẫn. Cân nặng Định Nam Đao của Mạc Thái Tổ cũng không kém mấy so với thanh long đao Yển nguyệt của Quan Vũ thời Tam Quốc (theo tác giả La Quán Trung trong tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa thì long đao yển nguyệt của Quan Vũ cân nặng 82 cân thời Hán tức là khoảng 37kg thời nay). Ngoài điện thờ còn rất nhiều những đồ thờ nhắc lại quá khứ huy hoàng của một võ tướng, một đấng quân vương xuất thân từ loạn lạc như trống trận, chiêng trận, kiệu rồng… Ngắm đệ nhất binh khí thời phong kiến mới càng thấy khâm phục sức mạnh tinh thần thượng võ của dân tộc Việt Nam. (Thực hiện: Minh Tú)
-
Tôn Tử không phải người Trung Quốc? Một giáo sư đại học Ewha - Hàn tuyên bố: "Tôn Vũ -tác giả của Binh pháp Tôn Tử là người Hàn Quốc". Cư dân mạng của nhiều nước trên thế giới đang xôn xao khi một giáo sư đại học Ewha - Hàn tuyên bố: "Tôn Vũ -tác giả của Binh pháp Tôn Tử là người Hàn Quốc". Tuyệt tác binh thư Một cảnh trong phim "Tôn Tử đại truyện" dựng lại cuộc đời của Tôn Vũ. Binh pháp Tôn Tử được biết đến như là pho lý luận quân sự vĩ đại nhất thời cổ đại, cũng là một trong những pho sách cổ của Trung Quốc có ảnh hưởng và rộng nhất trên thế giới. Người ta đã từng tôn xưng: "Đây là Tuyệt tác binh thư hàng đầu của thế giới cổ đại". Tư tưởng thao lược và tư tưởng triết học của pho sách này được vận dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực, từ quân sự cho đến chính trị, kinh tế... Và tác giả của nó - Tôn Vũ cũng được coi là nhà quân sự lớn, đồng thời được tôn xưng là "Thánh binh", "Thánh võ" trong lịch sử Trung Quốc. Không chỉ được tôn sùng tại Trung Quốc, Binh pháp Tôn Tử của Tôn Vũ còn được sùng bái tại một số quốc gia châu á có nền văn hoá tương đồng như Việt Nam, Nhật Bản và Hàn Quốc. Tại Nhật Bản, vào năm 734 sau công nguyên, lịch sử đã ghi có một học sinh nước này đã sang Trung Quốc du học và được giác ngộ với Binh pháp Tôn Tử. Sau đó người này đã đi sâu tìm hiểu và nghiên cứu những lý luận quân sự vĩ đại trong binh pháp và đã truyền đạt lại tư tưởng của binh pháp về Nhật Bản. Từ đó tại đất nước mặt trời mọc, người ta đã tôn sùng tư tưởng này như một trong những cẩm nang gối đầu của các nhà kinh tế và chính trị. Ngay đến cả Konosuke Matsushita - người được mệnh danh là ông tổ của các phương thức kinh doanh kiểu Nhật cũng đã tôn sùng Binh pháp Tôn tử như một báu vật quý giá. Ngoài sự sùng bái của Nhật Bản, người Hàn Quốc cũng coi Binh pháp Tôn Tử là một hệ thống lý luận quân sự hoàn chỉnh đầu tiên trong lịch sử nhân loại. Tuy nhiên, sau khi một số giáo sư tại Hàn Quốc nhận Tôn Vũ là người Hàn Quốc thì không chỉ ở quê hương ông là Trung Quốc mà ngay cả những người hâm mộ Tôn Vũ ở Nhật Bản cũng lên tiếng phản đối nhận định trên. Khắp nơi tranh giành Không chỉ tại Trung Quốc - quê hương của Binh pháp Tôn Tử, trên khá nhiều diễn đàn tại Nhật, đa phần tầng lớp nhân dân nước này đã phản bác lại tuyên bố của các giáo sư Hàn Quốc. Trên trang Oha có viết: "Người Hàn Quốc tuy có rất nhiều nghiên cứu và ứng dụng sâu rộng tư tưởng của Binh pháp Tôn Tử vào đời sống, tuy nhiên nói Tôn Vũ là người Hàn Quốc quả là quá khoa trương". Trên các mạng khác cũng có rất nhiều ý kiến phản đối: "Có thể các vị giáo sư này đã đạt được những thành tựu khi nghiên cứu về Binh pháp Tôn Tử, tuy nhiên đừng bao giờ huyễn hoặc rằng Tôn Vũ là người Hàn Quốc”. Không chỉ dừng lại ở đó, giới sử học Hàn Quốc trong những năm gần đây đã liên tục đưa ra những tuyên bố đáng giật mình: Tào Tháo, Chu Nguyên Chương, Lý Bạch... đều là hậu duệ của những người Cao Ly (tức Triều Tiên cũ). Không những thế, một số giáo sư tại nước này sau khi nghiên cứu và đưa ra kết luận trên đã yêu cầu phía Trung Quốc phải sửa lại lịch sử. Tuy nhiên, các nhà sử học Trung Quốc đã lên tiếng phản bác những ý kiến trên. Cuối năm 2009, khi giới thông tấn Hàn Quốc đăng tải thông tin Tào Tháo là người Cao Ly, Tân Hoa Xã của Trung Quốc đã đăng bài lên tiếng phản bác và cho rằng đây là một trò đùa lố bịch. "Tào Tháo là người Hán, sự thực đó không phải bàn cãi và người viết cũng không muốn tốn thì giờ dây vào những vụ tranh cãi vô bổ như thế. Còn nhiều vấn đề đáng phải quan tâm hơn" - một giáo sư sử học tại Đại học Thanh Hoa (Trung Quốc) đã nói như vậy khi được nghe thông tin trên. (Theo Đời sống và Pháp luật)
-
Phần dưới khung tranh của một bức chân dung vua Khải Định (1916 - 1925) Đồ hình âm dương Việt được chạm trổ tinh tế uyển làm bảo châu cho song long. Thiên Đồng
-
Bài 36: SÔNG DỤNG Huyện Nam Đường ( nay là Nam Đàn) có sông Dụng là sông lớn ở Châu Hoan. Nguồn phát ra từ Trầm Châu, đi qua Đại Đồng, Đồng Luân, lướt trên trại Sa Nam, bến Phù Thạch mà chảy ra bể. Thường có song lớn mênh mông, chỗ nào cũng có vực sâu, nhất là vào khoảng những làng Đại Đồng, Đồng Luân càng nhiều lắm. Bên cạnh vực có những làng xóm cư dân đông đúc. Người ta thường thấy có mây bọn người đàn bà con gái đến chợ buôn bán, y phục, ngôn ngữ ra lối tỉnh thành. Có người dò theo, thấy bọn người ấy đi đến sông thì mất. Một hôm có một người dân xuống bến Đồng Luân rửa tay, rồi hóng mát, đứng khuất vào khoảng lau sậy, thấy trên bãi cát có 2 người cỡi ngựa chạy quanh 3 vòng rồi cùng song cương mà đi xuống nước cả. Người ấy nín thở đứng lặng xem ra thế nào. Một lúc, thấy mấy tòa lâu đài nổi lên ở giữa dòng sông, nhỏ như quyển sách, chỉ trong chớp mắt đã cao lên đồ sộ. Quan lại, kẻ hầu, người hạ nhộn nhịp đi lại khá đông. Mục lúc lâu, người ấy ngứa cổ không thể nhịn được, dằng hắng 1 tiếng, lập tức những lâu đài trước mắt, chìm mất hết, rồi có hai con cá lớn, cụt đầu nổi ở bến sông, nước sông đỏ lòm Đinh quân, người làng Đại Đồng làm đến Tri – phủ, một lần qua bến đò lại Xá ở Hải Dương, thấy trong quán có một bà già, chừng 63,64 tuổi hỏi mình rằng: - Ông có phải người làng Đại Đồng không? Sao tiếng nói giống thế? Đình quân nói: -Làng ấy cách ngàn dặm, làm sao bà lại biết? Bà già cười: - Đại Đồng là nơi tôi vẫn chơi khi xưa, có ông không biết đấy thôi Hỏi kĩ thì bà nói: - Tôi người ở đây, thuở nhỏ ra tắm sông, bị thần sông là Giang Đông Hầu bắt lấy. Ở sông này được 3 năm thì hầu cải bổ vào làm việc ở trấn Đồng Luân, coi vực Đại Đồng? Ngoài những lúc hầu hạ chăn màn, tôi thường lên chợ chơi thành quen, không phải một ngày. À cha con Thiếu Vệ Mỗ, cha con Lý Trưởng Mỗ, nay hãy còn cả chứ? Đó là những người hào trưởng trong làng. Thiếu vệ có người con gái chết đuối phải không? - Phải. Thì chính một người lính hầu ở dưới trướng của Hầu tôi là con rể d8a61y! Long Cung hay lấy vợ trên trần, đều cho bọn lính tráng đi bắt, cũng một đi khi là Quan Phủ đi bắt lấy nhưng mà ít thấy. Ở trấn được 5 năm, một lần có cái bè ở mạn ngược xuống, chở kèm theo 4 cây gỗ chò. Hầu thích những cây gỗ ấy, tung nước lên cho bè đắm. Mấy tên thủy thủ chết oan, họ kiện đến quan Trấn, quan Trấn xử Hầu và đuổi về chỗ cũ. Về đến đây, Hầu thả tôi lên, tôi theo song chìm nổi bềnh bồng, hoảng hốt như trong mộng. Người nhà vớt tôi, mấy ngày tôi mới tỉnh lại. Làng mây, cung nước đến nay trước mắt còn như thấy rành rành Đầm Đông Liệt ở huyện ấy ( Nam Đàn) cách sông khá xa, thuyền bè không đi thông vào được. Tục truyền có con thuồng luồng ngắn vuốt, linh thiêng Một người lái buôn nước mắm ở huyện Hưng Nguyên, bữa kia từ Hoan Châu ra kinh đô, đỗ thuyền ở bến sông Nhị. Bấy giờ đương mùa hạ, nước to, người lái bán hàng xong, nhưng chưa going buồm về được. Một hôm người ấy thấy 3,4 người công sai, đem rượu thịt đến cùng mình đánh chén. Tiệc rượu gần vãn, họ lấy ra một phong thư ghé tai bảo lái buôn rằng: - Tôi là quân hầu của thần thuồng luồng đầm Đ6ng Liệt. Thần đi đánh núi Tản Viên, dọc đường bỏ mình, nhờ bác đưa giúp thơ này đến vực Đồng Luân hộ Người lái vâng lời, nhổ thuyền xuôi nam, thuyền đi như tên, chốc lát hơn nghìn dặm, tối hôm ấy đã đến Đồng Luân. Người lái buôn gõ thuyền gọi, thấy dưới nước có tiếng thưa rồi nhận lấy thư, dặn người lái hãy chờ đấy. Lúc lâu nghe văng vẳng có tiếng khóc thê thảm. Đêm khuya, có hai người lính đội lên cái hộp giầu, trong đó có đựng 20 lượng vàng đưa để tạ ơn, người lái đó chối: Đã được buồm xuôi nươc thuận là đã được ban ơn rồi, tôi đâu dám nhận số vàng ấy. Người lái chỉ xin nhận cái hộp mà trả lại vàng. Từ đó, xuôi ngược giang hồ, một đời không gặp sự kinh hãi nào cả Bài 37: NÚI ĐÔNG LIỆT Núi Đông Liệt, đứng trên bờ đầm, trên đỉnh có một chỗ thủng lớn, tương truyền là vết cũ sao sa, rộng đến hơn chục mẫu, nước khi đầy khi cạn. Trong núi có bàn cờ đá, cạnh bàn có một lốt bàn chân, to hơn chân người bình thường. Có một người con gái giẫm chân vào đó, bụng thấy cảm động rồi có mang sinh ra một đứa con gái. Đứa con ấy lọt long ra đã biết nói, biết việc quá khứ và tương lai. Tiếng đồng đến Triều đình, được vời vào Kinh, hỏi việc quỉ thần, hỏi đâu trả lời ngay dược đấy. Thấy là quái dị, Triều đình lại cho về. Được 3 tuổi thì đứa bé chết. Người ta cho là Tiên, lập miếu thờ, nay miếu đó hãy còn dưới núi Bài 38: NÚI RẾT Ngọc sơn, thuộc về một cái ấp, ở giữa hai châu Hoan – Ái. Ấp đấy có một ngọn núi, gọi là núi Rết. Có miếu thờ làm ngay ở giữa hang núi. Hàng năm phải lấy người làm vật cúng tế, người trong ấp cắt lượt nhau gánh chịu; họ đem vàng bạc mua chuộc những người lang thang 4 phương thành ột thói thường. Có một anh nghèo kiết kia đến lượt, phải làm vật tế thần, không biết làm thế nào. Tới kì, anh tắm rửa sạch sẽ, để đi làm vật hy sinh nhưng trong mình giấu sẳn một con dao sắc. Canh tư, anh ta hăng hái ra đi. Làng tế xong, khóa trái cửa lại, rồi về. Mỗ cầm dao chặn cửa hang đợi chừng một trống canh thấy một mùi tanh nồng nặc tỏa ra 4 phía, rồi một con rết cực kì lớn như cái mộc ( lá chắn) rầm rầm từ trong hang bò ra. Anh giơ dao đâm ngay, chẳng mấy chốc thì con rết chết. Từ đấy không thấy còn cái quái nữa. Núi nay thành một nơi danh thắng cùng với núi Phục Dực nổi tiếng như nhau Bài 39: NỘI ĐẠO TRÀNG Triều Lê khi mới trung hung, việc binh đao vừa tạm yên, thì giống ma quỉ ở rừng núi và yêu quái nổi lên rất nhiều, dân gian thật là khổ sở. Tại làng An Đông, huyện Quảng Xương có người tên là Trần Lộc, vốn làm nghề phù thủy. Một hôm đi qua núi Na, nhân đương ngày hè nắng dữ, ngồi nghỉ ở khoảng rừng cây tươi tốt. Bỗng ở trên đỉnh núi có một ông già đầu bạc phơ phơ, dựa vào đỉnh núi ngó xuống lấy nón mà vẩy, Trần Lộc xắn áo đi lên, quá (xế) trưa thì lên đến đỉnh, phục xuống làm lễ bái yết. Ông già vỗ về rằng: - Nhà người là người thành thật, đôn hậu, Thượng đế đã có ý lựa chọn ngươi, sai ta trao cho những bí quyết, ghé vào tai mà bảo: - Đó là những phép Phật thượng không, nhà ngươi nên siêng năng làm việc tế độ, toàn sen sẽ chẳng xa gì - Nói xong thì không thấy đâu nữa. Trần Lộc trông lên trên không mà bái tạ. Rồi trở về đem những phép ấy ra thử dùng thì đều linh nghiệm, được nổi tiếng về bùa phép. Người ta gọi Trần Lộc là Phật Tổ Như Lai: hai con là Tả-Hữu, Tôn Thánh; người đồ đệ giỏi nhất là Tiền quan Tôn Thánh; còn ngoài ra là Bồ Tát, Kim Cương, Minh sư, Thượng trung, Hạ thặng v.v Mỗi hàng một danh hiệu mỗi khác. Nghe nói núi Mỏ Diền có một con yêu, thường làm tai nạn cho những khách qua đường, liền sửa soạn hành trang đi đến để trị. Con yêu vận lối cung trang giữ trên đầu núi, cùng Tổ sư chống cự 3 ngày không phân thua được. Tổ sư tức lắm, phóng một cái quyết lật đổ núi. Yêu hóa làm con quạ bay vút lên trời, Tổ sư lại phóng mấy cái quyết trúng vào mình nó, nó phải sa xuống đất mà chết Mười hai cửa bể ở miền Tây Nam, mỗi cửa đều có một vị thần, thường làm cho nước bốc cao lên như núi, chốc lát lại đổ xuống tan đi, thuyền bè nào gặp phải không thể sống sót được. Xảy có việc phải đi trông nom ở Sùng sơn, nên không trừ nốt được Bấy giờ vua Thần Tôn mắc một bệnh lạ, có người bảo là cái nhân quả kiếp sau của vua Lý Thần Tôn ( Xem ở Lĩnh Nam trích quái) trong triều ngoài nội đều lo ngại. Đại Nguyên súy Thanh Vương tính kế, xin vua nhường ngôi cho thái tử rồi xứng Thái Thượng Hoàng, ở cung riêng để chữa bệnh. Dùng qua bùa thuốc trong mấy năm không thấy hiệu nghiệm gì cả. Nghe tiếng Tổ sư, triều đình sai Trung sứ đến đón mời. Tổ sư nghĩ vì cái yêu khí ở vùng Tây nam mới yên, chưa dám đi ngay, liền cử đồ đệ là Pháp Bộ kim Cang đi thay, đấm vào ngực mà niệm chú. Hơn một tháng, Thượng Hoàng khỏi bệnh, trở lại ngôi rồng, truyền xuống dựng riêng trường Nội Đạo đê được vẻ vang. Kim Cương trở về, đường qua làng Bố Vệ, giữa khi người làng đang làm lễ tế thần, Kim Cương đứng đái ở trước đình, bị mấy người trẻ tuổi ở trong làng tức giận trói lại. Kim Cương nói mãi mới được tha về, bằng bắt một cái quyết trói rồi đi. Lập tức trong đình, già trẻ ai nấy hai tay chặp vào nhau mà ngồi dựa cột, chỗ năm người, chỗ ba người, muốn giằng gỡ cũng không thể được, cả làng kinh ngạc. Có người nói, vừa nãy có một thuật sĩ vô lễ, người làng trói rồi thả ra, hay là hắn chăng. Cho người đi tìm thì chẳng thấy đâu cả. Việc đến tai triều đình, vua nói: - Đó là Pháp Bộ Kim Cang đó Hỏi đến Tổ sư, Tổ sư sợ, trách mắng Kim Cang, rồi xét lại bao nhiêu bài quyết đã trao rồi rút lại hết, chỉ còn lại những bài quyết thỉnh Phật và trừ tà lưu hành ở đời. Ở vùng Bắc Giang, có một phái gọi là Nộ Đạo Tràng, lấy trượng (gậy) trị bệnh, đó không phải là phái này Bài 40: BÀ VỢ THỨ ÔNG NGUYỄN KIỀU Bà vợ thứ ông Hạo Hiên Nguyễn Kiều là bà Đoàn Thị Điểm, người đất Giang Bắc, nguyên là em gái ông Tinh Nguyên Đoàn Luân. Bà nổi tiếng văn học, cùng anh vui việc bút nghiên, vẫn thường kình địch nhau về văn thơ. Một buổi tối, bà ngồi trước đài trang tô điểm, ông Đoàn thì rửa tay ở trên cầu ao, ông Đoàn đọc rằng: Chiếu kính họa mi, nhất điểm phiên thành lưỡng điểm (Trước kính vẽ mày, một nét thành ra hai nét) Bà liền đối lại ngay: Lâm trì ngoạn nguyệt, chích luân chuyển tác song luân (Bên ao ngắm nguyệt, một vòng hóa ra hai vòng) Ông Thái học sinh Đặng Trần Côn mến tiếng, đưa bài thơ để được vào thăm. Bà cười mà rằng: - Cậu học trò mới học ấy, bõ gì nói chuyện. Ông Đặng tức giận trở về, cố chí mài giũa kinh sử. sau trở nên một bậc Danh sĩ Bà kén chồng khe khắt lắm, bao nhiêu người muốn lấy mà bà không vừa ý. Đến khi đã quá tuổi cập kê, về làm vợ ông Hạo Hiên. Trong chốn khuê môn, vợ chồng kính trọng nhau như khách, đương thời cho là một chuyện đẹp Ông hạo Hiên mất, những học trò theo học ông trước nay lại theo đuổi bà, thành danh được đến mấy chục người Trong tập Tục truyền kí, có ba chuyện đền thiêng Cửa Bể: Hải khẩu linh từ, Vân Cát thần nữ, An ấp liệt nữ, của bà làm còn lưu hành ở đời Người cháu là Mỗ, con gái ông Tinh Nguyên, bà vốn yêu dấu, lấy ông Nguyễn Xuân Huy, Đốc Trấn Sơn Nam. Khi ông Xuân Huy cùng người con giai mất bà có câu đối (làm thay) rằng: Tuyền hạ thừa hoan, ưng tri quân hữu tử Mộng trung đối thoại; thùy vị thiếp vô phu Nghĩa là: Dưới suối hầu vui, con, đành rằng chàng có Trong mơ trò chuyện, chồng, ai bảo thiếp không Câu này ý nói chồng và người con giai đã chết, nay bố con sẽ được gặp nhau, cùng vui ở nơi chin suối thì rõ là chàng có con, vợ ở lại nơi dương thế, vẫn được gặp chồng, cùng nhau trò chuyện trong giấc mộng thì ai nở bảo là không có chồng Năm 78 tuổi, bà còn đi lại chốn kinh kì, mở trường dạy học trò. http://hocthuatphuon...ic=4275.35;wap2
-
Cầu ngói: Thượng gia hạ kiều, tức "trên nhà dưới cầu" là một trong những công trình kiến trúc độc đáo của người dân Việt, ghi dấu ấn kiến trúc, thủ công mỹ nghệ tài hoa của người nông dân lúa nước Việt Nam. Về thăm cầu ngói Thanh Toàn AT - Nằm cách trung tâm thành phố Huế chừng 8km về hướng Đông, cầu ngói Thanh Toàn (thuộc xã Thủy Thanh, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên - Huế) được xếp vào loại hiếm và có giá trị nghệ thuật cao trong các loại cầu cổ ở Việt Nam. Cầu không chỉ là một di tích kiến trúc có giá trị về mặt lịch sử, văn hóa mà nó còn là một thắng cảnh. Sự tích về cây cầu Theo người dân kể lại, vào khoảng năm 1776 có một người cháu gái thuộc thế hệ thứ 6 của họ Trần đã cúng tiền cho làng xây dựng chiếc cầu gỗ để nhân dân trong vùng tiện bề qua lại. Vừa khỏi phải dùng đò ngang vừa có chỗ nghỉ ngơi, hóng mát trong những buổi trưa hè hay những đêm trăng sáng. Cầu còn là nơi cho lữ khách cùng người tha phương cầu thực có chỗ tạm dừng chân khi lỡ bước giữa đường. Bà là Trần Thị Đạo, vợ thứ ba của một vị quan lớn dưới triều vua Lê Hiến Tông nhưng không có con. Vì vậy, bà muốn dùng tiền của mình để làm phúc cho dân làng và chiếc cầu là “đứa con tinh thần” mà bà để lại cho người đời. Biết được nghĩa cử này, năm 1776 vua Lê Hiến Tông đã ban sắc khen ngợi bà và miễn cho dân làng nhiều thứ sưu dịch. Đến năm 1925, trong một sắc phong khác, vua Khải Định đã truy tặng cho bà tước vị Dực Bảo Trung Linh Hưng phò; hạ lệnh cho dân lập bàn thờ ngay trên cầu để thờ cúng bà và mong bà phò hộ cho dân chúng. Từ đấy, bà được dân làng tôn sùng, thờ phụng. Cầu ngói Thanh Toàn được xây dựng theo lối “thượng gia, hạ kiều” (trên nhà, dưới cầu). Cầu làm bằng gỗ với dáng cong nhẹ nhàng, chiều dài 17m, chiều rộng 4m, được chia làm 7 gian, hai bên thân cầu có hai dãy bục gỗ và lan can để ngồi tựa lưng. Trên cầu có mái che lợp ngói lưu ly. Đây là loại ngói ngày xưa người ta rất quý, có tráng men và được sản xuất từ Trung Hoa, thường người ta chỉ sử dụng trong các công trình kiến trúc dành cho vua quan. Chốn đồng quê mộc mạc, yên bình Con đường về cầu ngói Thanh Toàn được xem là một trong những con đường làng đẹp nhất ở Huế. Hai bên đường là những cánh đồng lúa xanh biếc, những vườn cây trĩu quả... Màu xanh của những cánh đồng lúa mơn mởn sẽ làm dịu đi cái nắng hè gay gắt. Đạp xe trên con đường làng ấy bạn sẽ quên đi cái nắng gắt, mệt nhọc bởi mùi thơm của lúa non, mùi khói rơm đốt đồng lẫn trong mùi đất hay mùi thơm từ trái cây chín... Không khí thật trong lành, mát mẻ. Phong cảnh làng quê càng mộc mạc bao nhiêu thì con người nơi đây cũng chân tình và giản dị bấy nhiêu. Dường như chính con người nơi đây đã tạo ra vẻ đẹp thơ mộng ấy. Những hình ảnh đã không còn xuất hiện ở nhiều làng quê Việt Nam thì con người nơi đây lại gìn giữ như một báu vật. đó là những sinh hoạt ngày mùa như xay lúa, đạp nước, nghe hò đối đáp, hò giã gạo... Từ trên cầu phóng tầm mắt ra xa, bạn sẽ được chiêm ngưỡng cây đa cổ thụ trước sân đình, bến nước và cả những con đò. Cạnh cầu ngói là một khu chợ quê tuy không tấp nập nhưng mang lại cho du khách cảm nhận về một làng quê Việt Nam xanh mướt và bình dị. Bên trong chợ là những phụ nữ đang mải miết chằm nón lá. Tại phiên chợ quê ấy, du khách sẽ được thưởng thức những món ăn dân dã, đậm đà hương vị Huế do chính người dân địa phương chế biến như bánh khoai cá kình, bún hến Vĩ Dạ, bánh canh Thủy Dương... Ngoài ra, những chai rượu làng Chuồn, rượu Thanh Vinh nổi tiếng cũng được bày bán tại phiên chợ quê này. Cách cầu chừng 20m là Nhà trưng bày của xã Thủy Thanh. Tại đây trưng bày hàng trăm hiện vật gồm các dụng cụ nhà nông và hoạt động của văn minh lúa nước như cày, bừa, liềm, cuốc, cối xay lúa... Ngoài ra còn có các dụng cụ thường ngày để bắt cá đồng như lưới, nơm, oi cùng các đồ lưu niệm bằng tre, mây. Chính nơi đây đã góp phần tô thêm vẻ đẹp trong quần thể di tích cầu ngói Thanh Toàn. Cầu ngói gắn liền với tổng thể không gian làng Thủy Thanh trong đó bao gồm cả hệ thống nhà thờ họ, đình chùa, nhà vườn có kiểu kiến trúc và bài trí khá đặc sắc. Cách cầu ngói khoảng 5km còn có đình làng Vân Thê, nhà thờ Tôn Thất Thuyết - một di tích lịch sử cách mạng. Cầu ngói Thanh Toàn trở thành một điểm đến tuyệt vời cho du khách trong và ngoài nước. Ở đây du khách sẽ có dịp thưởng thức vẻ đẹp kiến trúc truyền thống đặc biệt của cây cầu và ngưỡng mộ lòng vị tha của một đấng nữ lưu. đồng thời du khách được trải nghiệm cảm giác thú vị về một sinh hoạt cộng đồng mang đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc và cảm nhận được sức hút của vùng đất đã đi vào ca dao: Ai về cầu ngói Thanh Toàn Cho em về với một đoàn cho vui. THANH TÂM(Hà Tĩnh) http://ketoan.org/ai...-toan_4580.html
-
Độc đáo Cầu Ngói và Nhà thờ đá Phát Diệm Dân Việt - Tuy không nhiều điểm di tích lịch sử, nhưng Kim Sơn đã được nhiều người biết đến bởi hai công trình kiến trúc độc đáo: Cầu Ngói Phát Diệm và Nhà thờ đá Phát Diệm. Kim Sơn – miền đất bồi tụ của hai cửa sông lớn là sông Càn và sông Đáy ra đời từ công cuộc khẩn hoang vùng bãi biển đầy lau sậy và sú vẹt năm Kỷ Tỵ - 1809, gắn với công lao của Doanh điền sứ Nguyễn Công Trứ. Huyện Kim Sơn (tỉnh Ninh Bình) có mặt trên bản đồ Việt Nam từ năm1829. Tuy không nhiều điểm di tích lịch sử, nhưng Kim Sơn được nhiều người biết đến bởi hai công trình kiến trúc độc đáo: Cầu Ngói Phát Diệm và Nhà thờ đá Phát Diệm. Cây cầu “3 nhịp-12 gian” Ảnh của Vão An Ninh Cầu Ngói Phát Diệm bắc qua sông Ân ở thị trấn Phát Diệm là cây cầu dạng cầu vồng độc đáo, một công trình kiến trúc dân gian đặc sắc ở vùng công giáo Kim Sơn. Cầu có 3 nhịp, mỗi nhịp có 4 gian. Chiều dài cầu 36 m và chiều rộng 3 m. Hai bên thân cầu có hai dãy lan can và cột đều bằng gỗ lim. Trên cầu là mái che cầu phong li tô, lợp ngói đỏ cổ truyền của vùng đồng bằng Bắc Bộ. Lối đi hai đầu cầu có các bậc tam cấp. Vừa có chức năng giao thông, lại vừa là điểm dừng chân tránh mưa nắng, nơi hò hẹn lứa đôi… Cầu Ngói Phát Diệm bao đời nay có một vai trò đặc biệt trong đời sống văn hóa cư dân vùng đất mở Kim Sơn. Ở Việt Nam hiện chỉ có 3 cầu ở dạng này được nhiều du khách biết đến. Đó là: Cầu Ngói Phát Diệm (Ninh Bình), Chùa Cầu ở sông Hoài-Hội An (Quảng Nam) và Cầu Ngói Thanh Toàn ở Hương Thủy (Thừa Thiên Huế). Công trình Công giáo kiểu Á Đông Nhà thờ Phát Diệm Kim Sơn mang đặc trưng của một xứ Đạo với rất nhiều nhà thờ công giáo. Nhà thờ đá Phát Diệm là một tổ hợp các nhà thờ với lối kiến trúc độc đáo, hấp dẫn đã được xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa năm 1998 và là một điểm đến quan trọng trong các tour du lịch Ninh Bình hiện nay. Nhà thờ đá Phát Diệm có sự kết hợp hài hoà hai nền nghệ thuật Âu Châu và Á Đông. Nét độc đáo ở đây là, các công trình của Công giáo đã được “Việt hóa” theo lối kiến trúc đình chùa truyền thống của nước ta. Quần thể kiến trúc này được sáng tạo bởi Linh mục Phêrô Trần Lục (1825-1899). Khu Nhà thờ được xây dựng chủ yếu bằng đá kết hợp với gỗ trong một thời gian dài, từ năm 1875 đến 1899 (24 năm). Diện tích toàn khu rộng gần 30.000 m² với 11 hạng mục công trình được xây cất, bố trí hợp lý, tạo nên cảnh quan trang nghiêm và đẹp mắt. Các hạng mục bao gồm: Ao hồ, Phương đình, Nhà thờ lớn, 4 nhà thờ nhỏ, Nhà thờ đá và 3 hang đá nhân tạo. Điểm nhấn trong quần thể chính là nhà thờ Trái tim Đức Mẹ, quen gọi Nhà thờ đá, được xây dựng hoàn toàn bằng đá, từ nền, tường, chấn song, cột, xà, đến các bức phù điêu… Chính lối kiến trúc có một không hai trên thế giới này mà từ trước đến nay, người ta lấy tên Nhà thờ đá để gọi chung cho cả khu nhà thờ xứ Phát Diệm. Nguyễn Bình Di Sản Văn Hóa Cầu Ngói Phát Diệm Một công trình kiến trúc độc đáo nguoicodo - Không được phổ biển như cầu gỗ, cầu sắt, hay cầu đá, cầu ngói là một dạng kiến trúc độc đáo và hiếm thấy nhất ở Việt Nam. Hiện nay trên toàn quốc chỉ có khoảng chục cây cầu lớn nhỏ nhưng nổi tiếng nhất thì chỉ có 3 cầu. Một là cây cầu Ngói qua sông Ân ở trung tâm thị trấn Phát Diệm (Ninh Bình) thứ hai là chùa Cầu qua sông Hoài ở Hội An và thứ ba là cầu Ngói làng Thanh Toàn ở Hương Thủy - Thừa Thiên Huế. Huyện Kim Sơn được ghi vào bản đồ Việt Nam từ năm 1829 từ một vùng đất sình lầy ven biển, đỏ nặng phù sa. Cùng với việc lập làng, Nguyễn Công Trứ cho tiến hành xây dựng các công trình thuỷ lợi. Trước hết là việc đào con sông Ân nối sông Vạc với sông Càn để lấy nước ngọt. Việc đào kênh mương được tiến hành song song với việc làm đường, quật thổ, bồi cư, phân chia địa giới. Công trình cầu Ngói cũng ra đời trong hoàn cảnh đó. Kim Sơn mang đặc trưng của một xứ Đạo với rất nhiều nhà thờ công giáo. Những thánh giá màu trắng bạc nổi lên khắp cả bầu trời, trông cao vút. Đoạn quốc lộ 10 bên sông Ân dài khoảng 8km chia đôi các xã buổi đầu thành lập, nay là khu vực phía Bắc huyện. Đây là con sông nhân tạo nước chảy hai chiều theo mùa. Phía dưới là thuyền bè qua lại tấp lập. Rất nhiều cây cầu bắc qua sông này với khoảng cách là 500m. Cây cầu bên trên lợp mái ngói, nằm giữa trung tâm huyện là cây cầu cổ nhất, có tuổi đời gần bằng lịch sử huyện này. Từ năm 1876, cầu Ngói được xây dựng với toàn bằng gỗ và ngói. Sàn cầu lúc ấy là những tấm gỗ ván dài đến 10m được đóng vào dàn khung dầm cầu bằng những cây đinh đóng thuyền; cột chân cầu bằng gỗ, những cây gỗ lớn cỡ hai vòng tay người ôm mới xuể, nó lien tục được gia cường tu bổ để phục vụ nhu cầu đi lại, đây cũng là con đường chính để người dân tiến ra lấn biển... Trải qua thời gian, rêu xanh bám quanh cột cầu rất trơn, những lớp rêu phù du đã chứng kiến bao nhiêu biến thiên thăng trầm của xứ Đạo Phát Diệm; không biết đã bao lần nước xuống - nước lên đỏ nặng phù sa. Sự phá hủy của chiến tranh đã tàn phá nặng nề nét cổ kính rêu phong của câu cầu nhưng nó không thể nguôi ngoai tình cảm trong lòng người dân vùng đất mở. Từ năm 1984 những tấm gỗ sàn cầu không đủ sức chịu được tải trọng nên nó được thay bằng sàn bê tông. Cầu có hai nhịp, hai bên thành là lan can, hai bên đầu cầu có bậc tam cấp nối xuống đường và bước xuống dòng sông. Sở dĩ cầu Ngói có tam cấp ở hai đầu là vì nó được nối bởi 2 đầu là ngã ba đường và mỗi đầu đều nằm ở dốc cầu. Một bên là quốc lộ 10, một bên là đường nối 2 chợ Nam Dân và Lưu Phương chỉ cách đó 500m rất đông người qua lại. Nhưng theo kiến trúc sư Nguyễn Trực Luyện thì người Việt thiết kế tam cấp 2 đầu cầu với ngụ ý hạn chế mọi phương tiện đi trên cầu, hoặc phải dắt bộ. Cách bố trí như vậy khiến con người có cảm giác đang bước vào một căn nhà, rất thân thiện và gần gũi. Qua đặc điểm kiến trúc cũng có thể thấy được cầu ngói được xây dựng với ý đồ là điểm dừng chân, tránh mưa, tránh nắng của người dân và khách đi đường. Cầu ngói Phát Diệm là công trình kiến trúc dân gian đặc sắc ở vùng công giáo Kim Sơn. Cầu ngói là chiếc cầu vồng bằng gỗ 3 nhịp, mỗi nhịp có 4 gian. Tổng chiều dài cầu 36 m, chiều rộng 3 m, hai bên thân cầu có hai dãy lan can và cột đều bằng gỗ lim. Trên cầu có mái che cầu phong li tô, lợp ngói đỏ cổ truyền. Cầu này là loại hiếm và có giá trị nghệ thuật cao nhất trong các loại cầu cổ ở Việt Nam. Nếu như chùa Cầu ở Hội An mang phong cách Nhật Bản gợi cho ta cảm giác khá nặng nề trước những khối xây gạch bịt ở hai đầu, cầu Ngói Thanh Toàn dù cũng được xây chủ yếu bằng gỗ nhưng chưa toát nên được dáng vẻ nhàng thanh thoát đồng thời lại thiếu phần cổ kính và dấu ấn kiến trúc Việt Nam thì riêng cầu ngói Kim Sơn là công trình kiến trúc cổ, rất có giá trị về mặt lịch sử văn hóa, nghệ thuật và thể hiện tài năng sáng tạo đặc biệt của người dân công giáo. Cầu ngói Kim Sơn vừa là một cây cầu với chức năng giao thông vừa là một mái đình làng cổ kính thuộc sở hữu cộng đồng. Cầu Ngói Phát Diệm bắt qua sông Ân nằm ở trung tâm thị trấn Phát Diệm, cách trung tâm thành phố Ninh Bình khoảng 30 km. Có thể đến Cầu Ngói từ 2 hướng quốc lộ 10: - Từ phía miền Trung và Nam đến nút giao với quốc lộ 1 tại thị trấn Tào Xuyên (Thanh Hóa) rẽ qua Nga Sơn để đến Cầu Ngói. - Từ miền Bắc đến nút giao với quốc lộ 1 tại cầu Lim, thành phố Ninh Bình qua huyện Yên Khánh để đến cầu Ngói. Cầu Ngói có vai trò khá đặc biệt trong đời sống văn hóa cư dân vùng đất mở Kim Sơn. Cầu Ngói Phát Diệm vẫn mãi là biểu tượng tình cảm thiêng liêng của người Kim Sơn, dù người dân đất này rất năng động, họ đã có mặt ở mọi miền tổ quốc; nhắc tới cầu Ngói luôn gợi nhớ cho ai đã đến đây những cảm xúc chào dâng. Mặc dù con sông và hai bên đường đã được bê tông hóa khá kiên cố nhưng cầu vẫn giữ được nét cổ kính, trầm mặc vốn có. Bên cầu là hàng cây phượng vĩ nở hoa đỏ rực vào những ngày hè. Hàng năm cứ đến đêm rằm tháng 8 trung thu, người dân Kim Sơn lại tổ chức thả hoa đăng xung quanh cầu, một không gian huyền ảo như thực như mơ. Dòng người từ 6 ngả đường 2 bên cầu đổ dồn về tấp lập. Cũng trong đêm trăng huyền ảo, tâm hồn thanh thoát thư thái, người dân Phát Diệm – Lưu Phương còn tổ chức đêm thơ bên cầu Ngói. Tại đây du khách được nghe những bài thơ ca ngợi vẻ đẹp quê hương Kim Sơn – Ninh Bình, tình làng nghĩa xóm hoặc ca ngợi khí tiết anh hùng của các bậc tiền nhân Nguyễn Công Trứ, Đinh Tiên Hoàng. Những người già, tao nhân và tất cả nhưng ai ham thích cờ tướng thường làm thêm các chòi tranh để ngồi đánh cờ, có phục vụ trà nước, hội thi đánh cờ … Đồ lưu niệm cho khách ở đây có gắn lôgô, biểu tượng về Cầu Ngói. Nhiều mặt hang thủ công mỹ nghệ như đồ đan lát, áo phông, cắt hình nghệ thuật làm các lưu niệm mang hình tượng cầu Ngói. Ngoài ra các dịch vụ khác như chụp ảnh, bán các đặc sản khác của địa phương như: Rượu Kim Sơn, gỏi nhệch, gạo thơm, hải sản cũng được đóng gói với bao bì đẹp gắn liền với thương hiệu Cầu Ngói. Các đồ lưu niệm này vừa tăng thêm doanh thu vừa có tác dụng quảng bá hình ảnh Cầu Ngói khắp nơi, đồng thời thỏa mãn được tâm lý tiêu dùng của khách du lịch.
-
QUÁN CÀ PHÊ TỨ TRỤ Thiên Đồng lập thêm quán này cho những ai theo học lớp Tứ Trụ của VuLong. Những câu hỏi thắc mắc về lý thuyết và thực hành nghiệm quẻ, những bài tập thực hành sẽ được trao đổi giảng giải trong đây. Mong rằng sẽ thêm nhiều người tiếp thu được một trong nhiều môn ứng dụng của Lý học đông phương. Thiên Đồng
-
Thế giới đồng loạt đưa tin tướng Giáp qua đời Có người Mỹ thắc mắc sao đăng về tướng Việt dài và nhiều vậy. Cả đất nước đang tiếc thương người anh hùng dân tộc. Không gì diễn tả hết được sự tiếc thương và kính trọng với vị tướng vĩ đại. Ở ngoài nước, thế giới cũng quan tâm sâu sắc tới việc Đại tướng qua đời. "Tướng Võ Nguyên Giáp, tổng tư lệnh quân đội Việt Nam và là anh hùng dân tộc nước này, người đã tổ chức quân đội để đánh bại Pháp và Mỹ, đã qua đời ngày 4/10", tờ báo Mỹ danh tiếng Washington Post dưa tin nóng. "Tướng Võ Nguyên Giáp, thiên tài quân sự tự học, người đưa Việt Nam thoát khỏi ách đô hộ của Pháp và sau đó chống Mỹ, đã qua đời. Ông là cận vệ già cuối cùng của thế hệ cách mạng đầu tiên", báo Mỹ AP đưa tin. Cả 2 tờ báo Mỹ này sau đó đều đưa lại tiểu sử của Đại tướng qua từng năm tháng cùng một số câu phát biểu của ông lúc sinh thời. Tờ AFP của Pháp đưa tin: "Thiên tài quân sự Võ Nguyên Giáp, người được ngay cả phương Tây nể trọng, chiến lược gia vĩ đại nhất và là kiến trúc sư cho các chiến thắng trước Pháp và Mỹ, đã qua đời". Tờ báo này cho rằng ông là một trong những thiên tài quân sự lớn nhất lịch sử thế giới. Nhưng ông khác những thiên tài khác ở chỗ, họ được đào tạo còn ông chủ yếu là tài năng thiên bẩm. "Tướng Giáp, người chiến thắng trước cả Pháp và Mỹ, đã qua đời", tờ IANSIANS giật tựa. Tất cả các báo đều nhắc tới chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 và đại thắng mùa xuân 1975, những sự kiện gắn liền với tướng Giáp. Các báo cũng đề cập tới một thực tế là hầu hết người Việt Nam đều yêu mến và kính trọng vị tướng già. Cộng đồng thế giới cũng lên tiếng khi biết sự kiện này. "Từ bên này chiến tuyến, đối lập với ông, tôi xin bày tỏ lòng kính trọng với ông", một người tên Luana, Mỹ, ghi lời comment trên Yahoo News. Một người Mỹ khác có tên Marcellas Wallace cũng viết tại đây: "Không nói chuyện chính trị bên này bên kia. Chỉ nói một điều là bạn phải kính trọng con người đã hết lòng phụng sự tổ quốc mình như ông Giáp. Lịch sử đã chứng minh nhiều lần rằng lòng yêu nước luôn mạnh hơn bom đạn và tên lửa tối tân. Nga thắng Đức ở Thế Chiến 2 nhờ vậy. Việt Nam thắng Pháp và Mỹ cũng thế". Một số độc giả trẻ phàn nàn vì sao các tờ báo Mỹ như AP lại viết bài rất dài về vị tướng của Việt Nam hơn là các vị tướng khác của Mỹ trước đây, khi họ qua đời. Nhật Vy (Theo Báo Đất Việt)
-
Báo chí nước ngoài "náo loạn" vì tin Bác Giáp qua đời Thông thường, mỗi khi có sự kiện lớn nào diễn ra trong nước, tôi thường đảo nhanh qua một số trang báo lớn của nước ngoài để xem, họ đang nói gì về ta! Hôm nay là Reuters, AP, BBC, New York Times, Bloomberg... Quả thực là "mở mày mở mặt". Ấy là tôi nói trên quan điểm cá nhân, nhưng ắt hẳn, rất rất nhiều người cũng sẽ cảm thấy như vậy. Buồn, đau, xót xa cho một huyền thoại của dân tộc là nỗi đau chân thật và vô hạn không bao giờ có thể nguôi. Nhưng trong cái sự tang thương ấy là tự hào, là kiêu hãnh. Dân tộc tôi không bé nhỏ, dân tộc tôi có những con người có thể khiến cả thế giới phải khóc thương, phải tự hào. Là Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp... Chúng tôi gọi họ là Bác, là Người, là Cha. Hôm nay, sự "náo loạn" của BBC hay Reuters lại càng khắc vào lòng dân tộc niềm tự hào sâu sắc. Một bức hình khá hiếm trong kho tư liệu của AP, chụp tướng Giáp thảo luận kế hoạch hành quân cùng Hồ Chí Minh năm 1950. Nguyễn Giang, BBC Tiếng Việt: "Trong ngày thứ Sáu giờ London, tin Đại tướng Võ Nguyên Giáp qua đời khiến Newsroom của toàn BBC bàn tán sôi nổi và nhiều người đã ập đến BBC Tiếng Việt để hỏi thêm các chi tiết bài vở liên quan. Các ban tiếng Trung và Nga cũng xin tin tức, hình ảnh từ BBC tiếng Việt. Khi sau khi trả lời phỏng vấn của phóng viên Lucy Hockings về Tướng Giáp có ảnh hưởng đến người Việt Nam ra sao trrên truyền hình BBC World TV, tôi còn phải dừng lại nhiều chỗ trong phòng tin để trả lời riêng các phóng viên tiếng Anh về Tướng Giáp. Nhiều người nói họ lớn lên ở Anh, Úc, New Zealand và chỉ nghe đến hai người, Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp là hai huyền thoại về cuộc chiến Việt Nam. Biên tập viên Joanna Mills còn nói với tôi: 'Võ Nguyên Giáp chính là Mandela của Việt Nam các bạn đấy"'. Hãng tin AP: "Là một anh hùng dân tộc, ông Giáp để lại một di sản chỉ đứng sau duy nhất người thầy của mình, chủ tịch sáng lập và nhà lãnh đạo giành độc lập cho đất nước, Hồ Chí Minh". Reuters: "Đầu hàng" không có trong vốn từ vựng của tôi, ông từng nói như vậy. Trong từ điển của tướng Giáp, bất cứ quân đội chiến đấu vì tự do nào cũng “có sức mạnh sáng tạo để đạt được những điều mà địch không bao giờ có thể đoán trước và hình dung ra được”. Sự thất bại nhục nhã của quân đội Pháp trước quân đội Việt Nam tại chiến trường Điện Biên Phủ năm 1954 không chỉ tồi tệ với đế chế thực dân lớn thứ 2 thế giới mà còn góp phần kết thúc chế độ thực dân trên toàn cầu. Hai thập kỷ sau đó, tướng Giáp đã buộc cỗ máy quân sự còn lớn rất nhiều của Mỹ phải rút lui khỏi miền Nam Việt Nam, mở đầu cho 38 năm chủ nghĩa Cộng Sản nắm quyền tại đất nước này và vẫn còn vững chắc cho tới tận ngày hôm nay. Cố Tổng tống Venezuela, Hugo Chavez, đã từng đến thăm tướng Giáp tại nhà riêng hồi 1/8/2006 và tặng ông một thanh kiếm, giống với thanh kiếm mà người anh hùng Simon Bolivar từng đeo, làm quà tặng kỷ niệm. Phó giáo sư lịch sử Shawn McHale từ Washington: "Tướng Giáp là một người phi thường. Không ai tranh cãi về chuyện ông là một vị tướng xuất chúng, và ông được kẻ thù kính trọng. Nhưng ông cũng phi thường ở chỗ đã đi qua được những cấp độ cao nhất trong chính trị ở nước Việt Nam Dân chủ, rồi Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Ông đã không chiến thắng ở những cuộc chiến chính trị lớn, như trong cuộc đấu tranh trong Đảng Cộng Sản hồi 1967, hay trong chiến dịch Tết Mậu thân 1968, nhưng lịch sử đã chứng minh được tầm nhìn của ông đối với những người đối lập. Không giống như nhiều người khác cùng thế hệ cách mạng hồi thập niên 1930, uy tín của ông Giáp đã tăng lên trong vài thập niên qua. Nói một cách vắn tắt, thì Tướng Giáp chắc chắn đã để lại một di sản to lớn cho Việt Nam". Fredrik Logevall, Giáo sư Nghiên cứu Quốc tế từ Đại học Cornell University, New York: "Chỉ có Hồ Chí Minh là quan trọng hơn Võ Nguyên Giáp trong chiến thắng cuối cùng của cuộc cách mạng Việt Nam. Là một vị tướng, ông hầu như tự học hỏi và đã có những sai lầm trên chiến trường. Nhưng không ai có thể phủ nhận được thành tựu cuối cùng: ông đã chiến thắng người Pháp và rồi chống lại sức mạnh quân sự khủng khiếp của Hoa Kỳ. Ông đặc biệt lão luyện trong việc sử dụng những phương tiện thường rất hạn chế". Ông Clas Thor, từ Sweden, bình luận trên Facebook: "Trong số những người tích cực ủng hộ Mặt trận giải phóng dân tộc trong suốt cuộc kháng chiến chống lại đế quốc Mỹ ở Châu Âu, tướng Giáp là người nổi tiếng nhất, và ông sẽ mãi là một vị anh hùng được lưu danh trong các cuốn sách về cách mạng. Cầu chúc cho ông yên nghỉ và sự nghiệp vì nhân loại của ông là một trong những tấm gương xuất sắc". .... Sẽ không bao giờ có câu kết cho bài viết này/sự kiện này. Tôi kính cẩn nghiêng mình trước một huyền thoại. http://www.hoclamgiau.vn
-
(tiếp theo) Thái tử nước Ô Kê. Đường Tăng (Trì Trọng Thụy) và Ngộ Không bày mưu giúp thái tử vạch mặt quốc vương giả. Ảnh: Đường Kế Toàn. Gia đình quốc vương đoàn tụ cùng tiễn biệt thầy trò Đường Tăng. ........................ Theo hn.24h.com.vn
-
(tiếp theo) Quay phim Vương Sùng Thu (phải), phó quay Đường Kế Toàn (giữa) đang quay phân cảnh của Hướng Mai. Trên phim trường, Hướng Mai thể hiện là một nữ diễn viên hết sức tinh tế và biết lắng nghe. Diễn xuất của bà cũng đầy tình cảm, cộng với việc thể hiện lời thoại vừa trôi trảy và thuần thục. Hướng Mai khiến những thành viên của đoàn có mặt tại hiện trường đều cảm thấy khâm phục. Đặc biệt khi khởi quay cảnh đầu, tại hiện trường ngoài những diễn viên phải nhẩm lời thoại, mọi người trong đoàn đều giữ trật tự và chú ý theo dõi diễn xuất của Hướng Mai. Có một cảnh khá dài: thái tử (Uông Hải Ninh đóng) hay tin vị quốc vương đang trị vì ngai vàng chính là yêu đạo hóa thân (Đổng Hồng Lâm đóng) còn quốc vương thật - cha đẻ của thái tử đã bị yêu đạo sát hại. Khi thái tử tìm cách lọt vào hậu cung, báo tin trên cho mẫu hậu, hai mẹ con ôm trầm, mừng mừng tủi tủi khóc sau bao ngày được hội ngộ, vừa đau đớn biết chồng - cha họ đã bị yêu đạo hãm hại. Đúng lúc đó, quốc vương giả bất ngờ xuất hiện. Nhe thấy bước chân của yêu đạo đang đến gần, thái tử vội núp sau bức mành nơi buồng ngủ của mẫu hậu. Quốc vương giả tay cầm kiếm dí lên cổ hoàng hậu hỏi cung thái tử ở đâu. Hoàng hậu mặc dù kinh hãi và lo sợ nhưng vẫn thản nhiên như không hay biết chuyện gì, trả lời rành mạch từng câu hỏi của yêu đạo. Phân cảnh hai mẹ con hoàng hậu và thái tử gặp lại nhau mừng mừng tủi tủi. Ảnh: Đường Kế Toàn. Trường cảnh ba nhân vật cùng xuất hiện với nhiều tình tiết, diễn biến kịch phức tạp. Cảnh quay hoàng hậu và thái tử gặp nhau với bao cảm xúc và diễn biến kịch phức tạp. Tình tiết diễn biến kịch của cảnh quay trên khá phức tạp, khi cao trào khi cân não. Nhân viên của đoàn có mặt đều bị cuốn hút bởi lối diễn có thần của các diễn viên. Chuyên gia ánh sáng Lưu Kiên túc trực với đèn đóm khi đó đứng cạnh monitor quan sát, đợi cho cảnh quay hoàn tất ông mới dám thốt lên: "Mẹ ơi, con cảm động phát sốt lên được!". Nghệ sĩ Hướng Mai (tên thật Võ Tướng Mai, sinh năm 1937) là nữ diễn viên truyền hình hạng A của Trung Quốc. Từ nhỏ bà đã yêu thích nghệ thuật và những năm học cấp ba đã tham gia đóng kịch với tư cách diễn viên nghiệp dư cho một đoàn kịch nói. Sau khi tốt nghiệp, Hướng Mai theo học Khoa Kiến trúc đại ĐH Thiên Tân (1957). Nghệ sĩ Hướng Mai ngày còn trẻ. Đạo diễn Dương Khiết (giữa) chụp ảnh lưu niệm cùng hai nghệ sĩ Hướng Mai và Lôi Minh. Ảnh chụp Mã Đức Hoa (thủ vai Trư Bát Giới) và nghệ sỹ Hướng Mai năm 2012 Khi còn là sinh viên, Hướng Mai tình cờ nhận được cơ hội tham gia đóng bộ phim Đội bóng rổ nữ số 5, đánh dấu bước ngoặt đầu tiên trong sự nghiệp điện ảnh của bà. Diễn xuất của Hướng Mai vừa tự nhiên, gần gũi lại có bản sắc riêng. Tên tuổi của bà luôn được khán giả yêu mến và dành nhiều lời ngợi khen. Cũng trong năm 1957, Hướng Mai được nhận làm diễn viên Xưởng phim Thiên Mã Thượng Hải. Từ năm 1957 - 1964, Hướng Mai tham gia nhiều bộ phim truyền hình như Đội nữ hồng quân, Bắc quốc giang nam, Thuyền đêm... Trong đó đáng chú ý là vai Hồng Liên phim Đội nữ hồng quân của bà để lại nhiều ấn tượng trong lòng người hâm mộ. Đến nay, nghệ sĩ Hướng Mai vẫn tham gia làng điện ảnh. Bà không đóng phim nhiều nhưng vẫn thường xuyên tham gia các dự án phim truyền hình. Bộ phim gần đây nhất mà bà tham gia làChuyện người già (2006) trong vai Hàn Mỹ Lệ. Một vài hình ảnh của đoàn phim Tây Du Ký trong tập 13: Đường Tăng của Uông Việt và thái tử Uông Hải Ninh quay năm 1982. Quốc vương nước Ô Kê của Lôi Minh (giữa) và tổng thái giám do Lý Kiến Thành (phải) thể hiện. Đường Tăng (Uông Việt) cùng quốc vương Ô Kê trở lại vương quốc.
-
Tây Du Ký: Kỷ niệm hoàng hậu nước Ô Kê Tập 13 phim "Tây Du Ký" là những chuyện kể về thầy trò Đường Tăng tại nước Ô Kê với nhiều kỷ niệm đáng nhớ về diễn viên thể hiện vai hoàng hậu. Chỉ riêng tại Trung Quốc, dù đã lên sóng hơn 2.000 lần nhưng "Tây du ký" phiên bản 1986 vẫn là bộ phim được yêu thích, cứ mỗi dịp năm mới lại có đài truyền hình chiếu lại, vẫn đạt rating rất cao. Thế nhưng, để có một tập phim được yêu thích như thế, đoàn làm phim đã trải qua rất nhiều khó khăn mà hiếm người biết được. Chuyên đề Tây Du Ký - Chuyện giờ mới kể sẽ mang đến cho độc giả cái nhìn chân thật về quá trình thực hiện tác phẩm kinh điển nổi tiếng này.Hoàn thành cảnh quay ở Thiệu Hưng, đoàn Tây Du Ký tiếp tục đến Tô Châu. Mọi người được trú lại khu nhà khách từng nghỉ ngơi trong lần đến Tô Châu chọn bối cảnh. Vẫn nơi ở cũ, ai nấy đều có cảm giác thân thuộc, dễ chịu. Vừa tới nơi, các thành viên trong đoàn đều tất bật bắt tay vào công việc. Nơi đoàn phim khởi quay là hoa viên Võng Sư viên - một trong hoa viên nhỏ nhất ở Tô Châu với kiến trúc hài hòa, tinh tế. Đây là bối cảnh quay cho phần lớn nội dung tập 13 - Trừ yêu Ô Kê quốc (hay Trừ yêu ở nước Ô Kệ như cách dịch của đài truyền hình Việt Nam trước đây). Tập này từng được đoàn chọn để quay thử vào năm 1982. Bìa phim và diễn viên tập quay thử năm 1982. Bìa chính thức tập 13 khi được quay lại năm 1987. Vì Võng Sư viên là một danh thắng du lịch, lại đang trong mùa cao điểm nên du khách trong và ngoài nước đến thăm quan rất đông. Để tránh ảnh hưởng đến tiến độ của đoàn, đội đạo diễn đã quyết định rời lịch quay vào buổi chiều tối. Do đó, thời gian làm việc của đoàn rất gấp rút, thậm chí có ngày phải quay đến tận đêm khuya mới hoàn thành. Những hạn chế của tập quay thử Sau khi tập 13 hoàn thành và phát sóng, đoàn Tây Du Ký đã nhận được rất nhiều ý kiến đóng góp của khán giả và các nhà chuyên môn trong nước. Trải qua một vài năm, đoàn phim đã không ngừng thay đổi và hoàn thiện, từ phục trang, hóa trang, đạo cụ. Bên cạnh đó, diễn xuất của diễn viên cho đến thủ pháp quay đều đạt được những tiến bộ vượt bậc. Nhìn lại những thước phim của tập quay thử mới nhận thấy, từ hóa trang tạo hình đều đã khác xa so với những tập phim quay sau này. Hình ảnh được chụp trong tập quay thử năm 1982, thái tử nước Ô Kê do Uông Hải Ninh đóng, trong khi hoàng hậu sau này được thay bằng nghệ sĩ Hướng Mai. Ba diễn viên chính (từ trái qua): Hướng Mai (hoàng hậu), Lôi Minh (quốc vương Ô Kê) và Uông Hải Ninh (thái tử) trong tập 13 quay lại năm 1987 tại Võng Sư viên, Tô Châu. Đạo diễn Dương Khiết khi quay thử tập 13 từng khá thất vọng về diễn xuất của bốn diễn viên chính, đặc biệt là kỹ năng diễn còn non của Ngộ Không. Lục Tiểu Linh Đồng chưa thực sự lột tả được thần thái của một con khỉ, thêm vào đó là tạo hình quá xấu xí. Những cảnh quay lại sau này cũng tập trung quay lại những phân cảnh quay cận cảnh nhân vật Ngộ Không. Tạo hình nhân vật Tôn Ngộ Không và Đường Tăng (Uông Việt) và Trư Bát Giới (Mã Đức Hoa) về sau đều được thay đổi lại. Tuy nhiên, tạo hình của nhân vật Trư Bát Giới khiến nhiều khán giả thấy tiếc khi thay đổi vì không còn những cọng lông gắn ở tai và mặt - trông gần gũi với loài lợn hơn. Lần đầu quay tập phim thử, đoàn chủ yếu lấy ngoại cảnh ở Dương Châu. Khi làm lại, đa phần ngoại cảnh sẽ được thay thế bối cảnh ở Tô Châu. Thay đổi diễn viên Diễn viên trong tập 13 cũng bị thay đổi không ít. Trừ vai quốc vương nước Ô Kê do nghệ sĩ Lôi Minh đảm nhiệm, những nhân vật từ hoàng hậu, yêu đạo, quan tổng thái giám... đều được thay thế. Tập 13 được quay lại chủ yếu là những cảnh có sự xuất hiện của nhân vật mới là Đường Tăng (trước đó vốn do diễn viên Uông Việt thể hiện) của Trì Trọng Thụy. Nghệ sĩ Lôi Minh là người tiếp tục đảm nhiệm vai quốc vương nước Ô Kê khi tập phim được quay lại. Ảnh: Đường Kế Toàn. Vì không phải quay lại toàn bộ cảnh phim nên khi theo dõi, khán giả tinh mắt sẽ thấy sự xuất hiện của cả hai Đường Tăng cũ và mới. Nhân vật Ngộ Không khi mặc áo vàng khoác da hổ (tập quay thử, cảnh quay xa), lúc mặc áo đỏ (quay cận cảnh). Ngoài ra, vai hoàng hậu nước Ô Kê được giao cho một nữ diễn viên khác tên là Hướng Mai. Bà là gương mặt nghệ sĩ đã quá quen thuộc với khán giả, đồng thời được hâm mộ nhất trong giới điện ảnh những năm 80. Ngoài ra, Hướng Mai khi đó còn đảm nhiệm vị trí đoàn trưởng Đoàn diễn viên kịch của Xưởng phim Thượng Hải. Khi nhận lời tham gia đóng phim Tây Du Ký, Hướng Mai vừa đi du học trở về. Bà vội vàng đến ngay Tô Châu để tập trung cùng đoàn phim và nhận kịch bản. Hướng Mai là một nữ diễn viên dễ tính, gần gụi và không hề mắc "bệnh ngôi sao", lời ăn tiếng nói nhỏ nhẹ, ngọt ngào khiến đoàn phim ai nấy đều nể phục và yêu mến. Tạo hình hoàng hậu nước Ô Kê của nghệ sĩ Hướng Mai. http://citinews.net/...c-o-ke-5CCAMHQ/
-
Hậu trường thú vị chưa từng được kể của phim “Tây du ký” (Dân trí) - Sau hơn 20 năm làm đạo diễn bộ phim truyền hình “Tây Du Ký” (1986), nữ đạo diễn Dương Khiết quyết định thực hiện cuốn hồi ký “Ôn giấc mộng xưa”, nhớ lại quá trình làm phim Tây Du Ký. Trong đó có những chuyện hậu trường thú vị chưa từng được kể. Cuốn sách đã được xuất bản cuối năm 2012, ghi lại chi tiết những kỷ niệm hậu trường mà đạo diễn Dương Khiết đã trải qua cùng đoàn làm phim, những vui - buồn, yêu thương - giận dỗi xảy ra trong đoàn. Có lúc tất cả mọi người cùng mệt mỏi, chán nản nhưng sau đó lòng yêu nghề đã giúp họ có đủ động lực để tiếp tục tiến bước, làm nên một bộ phim huyền thoại của dòng phim truyền hình Trung Quốc, đi vào lòng khán giả suốt hơn 20 năm qua. Nói tới “Tây du ký”, những người trong nghề, những bậc lão thành trong giới làm phim Trung Quốc thường nhắc ngay tới tinh thần lao động siêng năng, sức sáng tạo không mệt mỏi cùng sự vô tư cống hiến của những con người đã làm nên bộ phim thần kỳ “Tây Du Ký”. Cát-xê bèo bọt của đoàn làm phim “Tây du ký” 25 tập phim “Tây du ký” (1986) quay suốt 6 năm trời, không chỉ ghi hình tại Trung Quốc mà còn sang cả những nước lân cận để quay ngoại cảnh, vậy mà tổng chi phí sản xuất chưa tới 6 triệu tệ (tương đương 20,4 tỉ VND). Để đạt được điều này, cả đoàn phim đã phải thắt lưng buộc bụng để tiết kiệm tối đa mọi chi phí. Hàng ngày, mỗi nhân viên và diễn viên chỉ được phát 5 hào để chi dùng lặt vặt trong ngày. Về cát-xê, “khủng” nhất là vai diễn của Lục Tiểu Linh Đồng, ông được trả 100 tệ một tập (tương đương 340.000 VND). Tuy vậy, dù thù lao thấp, điều kiện sinh hoạt thiếu thốn nhưng Tây du ký (1986) vẫn thu hút rất đông nghệ sĩ tham gia, trong đó có không ít những tên tuổi lớn của điện ảnh Trung Quốc bấy giờ. Tất cả họ đều tham gia với tinh thần yêu nghệ thuật, không hề quan tâm tới tiền bạc. Cả đoàn từng phải ăn bánh bao mốc đựng trong túi chứa phân Địa điểm quay ngoại cảnh cho tập phim về Hồng Hài Nhi được đặt ở khu rừng nguyên sinh thuộc vùng núi Trường Bạch của tỉnh Cát Lâm. Cả đoàn quyết định ở lại một lâm trường đặt trong rừng và nhờ nhà bếp lâm trường chuẩn bị bữa ăn cho cả đoàn. Tuy vậy, sang đến ngày thứ hai, có người trong đoàn phát hiện ra bánh bao mang tới cho đoàn ăn được đựng trong bao tải chứa phân hóa học. Nhiều chiếc còn xuất hiện đốm xanh vì nấm mốc, mọc lông tua tủa. Đoàn liền góp ý với nhà bếp nhưng qua mấy ngày sau, tình hình vẫn không được cải thiện. Tìm hiểu kỹ thì ngay các nhân viên trong lâm trường cũng ăn như vậy. Chẳng còn cách nào khác, ở đây điều kiện sống của họ thiếu thốn. Mọi người đành cố ăn và loại đi những chiếc bánh bao mốc. Ai bị đau bụng thì tự uống thuốc. Cả đoàn gấp rút quay phim để sớm thoát khỏi những bữa bánh bao nghẹn ứ vì kinh hãi. Hồng Hài Nhi xấu hổ, không chịu ở truồng Nam diễn viên nhí đóng vai Hồng Hài Nhi là do thư ký trường quay Vu Hồng (cũng chính là vợ của nam diễn viên chính Lục Tiểu Linh Đồng) tìm ra. Tuy vậy, vì sợ để bố mẹ cậu bé đi theo đoàn sẽ xót con mà không cho cậu bé đóng phim nữa nên đoàn đã khéo léo thuyết phục để bố mẹ cậu bé Triệu Hâm Bồi đồng ý giao con trai cho đoàn làm phim. Tập phim có sự xuất hiện của Hồng Hài Nhi được quay trong rừng, đến sát ngày quay, Hâm Bồi mới biết nhân vật Hồng Hài Nhi chỉ mặc độc một mảnh yếm và không mặc quần, cậu kiên quyết không chịu. Cuối cùng, đoàn làm phim đành phải thỏa hiệp bằng cách yêu cầu các nữ diễn viên và nữ nhân viên lánh đi hết, chỉ có đạo diễn nữ Dương Khiết và các anh em nam diễn viên được ở lại đóng cùng Hồng Hài Nhi. Chính vì không được mặc quần áo dài nên Hồng Hài Nhi là diễn viên phải chịu khổ nhất trong tập này, em bị côn trùng cắn mẩn đỏ khắp người. Sau mỗi cảnh quay, cả đoàn lại xúm vào bôi thuốc cho cậu bé nhưng tuyệt nhiên Hâm Bồi không than thở nửa tiếng. Ngược lại, em rất thích được đóng phim và luôn vui vẻ, phấn khích khi được đi diễn cùng đoàn. Đoàn làm phim bị nghi chứa chấp tù nhân vượt ngục Khi quay tập “Ngọa khởi Quan Âm viện” ở Phúc Châu, vì thiếu diễn viên quần chúng vào vai hòa thượng, tất cả nhân viên phục vụ trong đoàn đều được huy động tham gia, ai nấy đều phải cạo trọc đầu. Ngày đó, chỉ những thành phần bất hảo mới để đầu trọc. Vì vậy, chuyện phải cạo trọc đầu là một sự hy sinh đáng quý của các thành viên. Sau khi quay xong tập phim, cả đoàn được phát mũ lưỡi trai để che đầu trọc và tiếp tục lên đường tới Hải Nam. Ở Hải Khẩu, xe bị cảnh sát biên phòng chặn lại. Họ lăm lăm tay súng, mặt mũi nghiêm trọng ra hiệu dừng xe. Một tốp cảnh sát lên xe yêu cầu mọi người bỏ mũ thì phát hoảng khi thấy cả xe đều đầu trắng hếu, chủ nhiệm sản xuất lúc này mới nhẹ nhàng giải thích khiến các nhân viên cảnh sát vô cùng hứng thú. Sau khi lần lượt xem mặt bốn thầy trò Đường Tăng, xe được cho đi tiếp. Hóa ra trước đó ở khu vực này vừa có tù nhân vượt ngục, lúc xe đang chạy, có một thành viên trong đoàn thò đầu qua cửa sổ xe để lộ đầu trọc khiến cảnh sát nghi là phạm nhân. Khỉ con ở Hoa Quả Sơn trở thành cậu bé vàng của thể thao Trung Quốc Vai bầy khỉ con ở Hoa Quả Sơn được giao cho đám trẻ ở đội thể thao chuyên nghiệp của tỉnh Hồ Nam. Được đóng phim, lũ trẻ hiếu động nghịch ngợm vô cùng, đúng như một bầy khỉ. Cảnh quay khi đó được thực hiện tại khu hang động. Mỗi khi quay xong, lũ trẻ lại chạy tán loạn, nô đùa ầm ĩ cả động. Trong số này có một cậu bé, tuy nhỏ con nhất nhưng lại nghịch ngợm nhất, chỉ vì nhảy quá cao mà có lần đầu cậu va vào nhũ đá mọc rủ từ trên trần hang xuống, rách cả đầu, máu chảy ồ ạt. Cả đoàn làm phim hốt hoảng, gấp rút đưa cậu bé đi bệnh viện và phải khâu liền 20 mũi. Cậu bé này là Hùng Nghê, về sau đã trở thành quán quân thế giới môn nhảy cầu tại 3 kỳ Thế vận hội Olympic 1988, 1996 và 2000. Pi Uy Tổng hợp
-
Kết thúc buồn của Bạch Long Mã trong Tây Du Ký Thời gian nhanh chóng trôi qua, sau 5 năm đoàn phim đã hoàn thành các tập phim theo đúng kế hoạch và yêu cầu. Lúc này, ê kíp đã đến lúc phải nói lời tạm biệt với chú ngựa bạch dũng cảm và đáng yêu. Khi ngựa được đưa đi, Dương Khiết không được biết lãnh đạo đài đã đưa nó đi đâu. Chỉ sau này bà mới được nghe nói, cả ngựa lẫn những đạo cụ được sử dụng trong Tây du ký hết thảy đều được đưa tới Vô Tích. Còn có tin chú ngựa được mang ra làm cảnh, bên cạnh còn có tấm biển đề Bạch Long Mã trong phim Tây du ký. Du khách muốn cưỡi và chụp ảnh cùng sẽ phải bỏ ra ngần này tiền là được phép chụp ảnh cùng, bỏ ra bao nhiêu tiền sẽ được cỡi lên lưng và chụp ảnh với ngựa, thêm bao nhiêu tiền có thể cỡi ngựa đi một vòng… Đạo diễn Dương Khiết nghe vậy thực sự thấy sốc, giờ đây chú ngựa bạch mà bà yêu quý lại được mang ra để kiếm tiền mua vui cho thiên hạ. Có thể trong đoàn Tây du ký, chú ngựa này không khác nào một “công thần”, trải bao khổ ải cùng các thành viên trong đoàn, chịu mưa gió, rét mướt, trèo đèo lội suối, vào sinh ra tử không biết bao lần. Nữ đạo diễn Dương cho rằng, đó không nên là một kết thúc xứng đánh dành cho chú ngựa này, thế nhưng bản thân bà cũng không thể làm gì được hơn, bà đâu có quyền hay năng lực gì để đòi lại công bằng cho ngựa. Bạch mã đã vào sinh ra tử, băng đèo lội suối vượt biết bao gian nan cùng Tây du ký. Tái ngộ và xót xa Sau bấy nhiêu năm, đến năm 1995, khi Dương Khiết khởi quay bộ phim Tư Mã Thiên, có lần bà đến Vô Tích tìm cảnh quay. Nhân dịp này bà tranh thủ tìm đến chú ngựa bạch năm xưa từng gắn bó với đoàn phim Tây du ký. Theo giới thiệu của người phụ trách ở đây cho biết, chú ngựa này vẫn còn sống và nó được đặc biệt hưởng chế độ hưu trí như một cán bộ về hưu, có chuồng riêng, được cung cấp mức ăn hạng “tiểu táo” (tiêu chuẩn ăn tập thể cao nhất, phân biệt với trung táo và đại táo). Nghe nói vậy, nữ đạo diễn tức tốc phải đi tìm gặp ngay chú ngựa này để xem cuối cùng nó có được hưởng chế độ hưu trí hay không. Dương Khiết và một vài người trong đoàn men theo bức tường có con đường đồi nhỏ, đồng thời phát hiện cạnh đó có một gian phòng trông gần giống như một chiếc hang động, thực chất là một vách núi nhô ra và tạ thành một hõm đá, bên trong hơi tối và chật hẹp). Ngoài cạnh cửa thì có vẻ sáng hơn chút, bên trong là một chú ngựa già gầy còm, đơn độc đang uể oải gặm cỏ. Đứng từ xa cũng đã ngửi thấy mùi đặc trưng của loài ngựa. Đến gần mới thấy chú ngựa gần như không được tắm rửa gì, gầy gò và bẩn thỉu, không nhận ra là ngựa bạch hay ngựa đỏ nữa. Chẳng lẽ đây là chú Bạch Long Mã của đoàn Tây du ký năm xưa đây sao? Dương Khiết đến trước mặt chú ngựa, nó quay đầu ra nhìn bà. Đạo diễn Dương khẽ giật mình khi nhận ra đây đúng là con ngựa quen thuộc từng gắn bó với đoàn phim của bà năm xưa, chỉ có điều nó đã không còn là một chú ngựa to khỏe, đầy khí thế của con Bạch Long Mã ngày nào. Thời gian quay tập 16 – Thỉnh kinh Nữ Nhi quốc. Đạo diễn Dương khẽ nói với chú ngựa: “Con còn nhận ra ta nữa không anh bạn cũ?”. Chú ngựa đứng im nhìn bà không chớp, ánh mắt cũng không hề có biểu hiện gì. Bà lại nói thầm với ngựa: “Bấy lâu nay, con sống có tốt không? Sao lại gầy gò thế này? Họ có cho con ăn no không?”. Hình như ngựa vẫn lắng nghe bà nói, nó không hề động đậy khiến Dương Khiết không biết liệu trong đầu nó giờ có nhớ những năm tháng gắn bó với bà và đoàn Tây du ký nữa hay không. “Chúng ta đến thăm con đây, con có còn nhớ Tây du ký không? Có nhớ hay không? Có nhớ bọn ta không?”. Lúc đó chắc sẽ có người nghĩ bà thần kinh liền nhắc bà: “Nó nghe hiểu làm sao được, nhanh đi thôi”. Dương Khiết vừa đi vừa ngoái đầu lại nhìn chú ngựa, ngựa cũng ngoảnh đầu ra dõi theo dáng nữ đạo diễn dần khuất xa. Dương Khiết cho rằng, chú ngựa đã nhận ra bà. Bà liền đứng lại, vì nếu đi thêm bước nữa thì chú ngựa sẽ không còn được nhìn thấy bà nữa. Lúc này, đạo diễn Dương hết sức ngạc nhiên khi chú ngựa thở dài một cái, cảm giác như mất mát và quay đầu đi. Dương Khiết bèn đến gặp người phụ trách của nơi này và đề xuất và hy vọng, mọi người ở đây vì bà mà chăm sóc tốt hơn cho chú ngựa. Lãnh đạo ở đây đồng ý nhưng nói thêm một cầu: “Bây giờ thế là tốt hơn nhiều rồi đấy, ngựa sống chẳng được bao lâu, như vậy coi như là tốt lắm”. Câu nói này khiến Dương Khiết hụt hẫng, cách suy nghĩ này làm sao có thể chăm sóc tốt hơn cho chú ngựa vốn già nua và đơn độc kia được. Lần thứ hai gặp lại cũng là lần cuối Năm 1996, Dương Khiết trở lại Vô Tích quay bộ phim Tây Thi và bà lại tiếp tục đến thăm lại chú ngựa bạch. Thế nhưng lần này có vẻ khó khăn hơn, bởi giờ đây đã không còn ai quan tâm gì đến con “Bạch Long Mã” nữa rồi. Nhiều người hiện giờ không biết chú ngựa được nuôi nhốt ở đâu. Mãi sau bà mới nghe nói, chú ngựa được thả nuôi cùng với một đàn ngựa khác, nhốt chung một chuồng. Bạch mã từng được coi là một “công thần” có công lao lớn với đoàn Tây du ký. Dương Khiết nghe vậy bèn cùng một vài thành viên trong đoàn đến chuồng ngựa nọ để tìm gặp lại chú ngựa bạch. Thế nhưng tìm khắp cũng không thấy đâu, đâu đâu cũng toàn ngựa đỏ, con nào con nấy đều cao to, lực lưỡng chứ không hề thấy bóng dáng một con ngựa bạch nào. Khi bà hỏi người trông coi ngựa ở đây thì được biết, chú ngựa bạch bà tìm đang lẫn trong số ngựa ở đây. Để ý kỹ bà mới phát hiện ra chú “Bạch Long Mã” đứng lép vế hẳn so với bầy ngựa lộc ngộc, cao lớn ở đây. Dương Khiết thực sự bất ngờ, trông chú ngựa này giờ đây nhỏ thó, gầy gò và ốm yếu đi trông thấy. Nó đứng lẫn trong đám ngựa ở đây, vì quá nhỏ bé, gầy gò nên bị che khuất nên bà không nhìn ra. Giờ đây nhìn lại, không ai còn tin nó từng là con Bạch Long Mã ngày nào. Lúc đó cũng là giờ ăn của ngựa, vì quá thấp bé nên tầm mặt của chú ngựa bạch không sánh ngang với máng cỏ, nó phải nghển cổ lên mới với được cỏ trong máng. Trong khi những con ngựa to khỏe khác thì chen đẩy và xô chú ngựa già tội nghiệp sang một bên. Cuối cùng, con ngựa trắng già đáng thương chỉ biết co rúm người lại, nếu không sẽ lại bị xô đẩy bẹp rúm bởi đám ngựa cao lớn. Hình ảnh uy phong lẫm liệt của chú ngựa bạch một thời. Đứng bên ngoài quan sát, Dương Khiết thấy thực sự đau lòng và thương tâm. Ngay đến một miếng ăn mà chú ngựa cũng đành chịu. Một con ngựa vừa già vừa yếu ớt, nếu không bị bon chen đến chết thì cũng chết vì đói, thật là một bi kịch đối với chú ngựa này. Đạo diễn Dương thầm nghĩ, cứ để như vậy thì chẳng bao lâu chú ngựa bạch này cũng không tồn tại được là bao. Có thể đây sẽ là lần cuối cùng bà được nhìn thấy chú ngựa bạch từng gắn bó như một cố nhân tri kỷ. Dương Khiết yêu cầu người giữ ngựa dắt chú ngựa bạch ra để bà được chụp ảnh với nó để còn có cái làm kỷ niệm. Trong lòng Dương Khiết chua xót và thương cảm, bà vẫn hỏi thầm với nó có còn nhớ đến bà hay không: “Con còn nhớ ta không? Thế là chúng ta đều đã già cả cả rồi”. Thế nhưng bà không còn cảm nhận thấy chú ngựa có phản ứng nào. Đúng là chú ngựa đã già thật sự, nó không còn bất kỳ phản ứng nào với thế giới bên ngoài. Đầu ngựa cúi gập, dường như không còn đủ sức để ngóc nổi đầu lên được nữa. Cả người và ngựa đều không thể tiếp xúc qua ánh mắt được nữa, chú ngựa giờ đây không khác gì con người ở vào độ tuổi xế chiều, tắt nắng. Nếu không có ai quan tâm, chăm sóc, chẳng mấy chốc chú ngựa này sẽ sớm lìa đời. Bà đau xót nghẹn ngào, nếu không có người đứng bên cạnh, chắc hẳn bà đã òa lên khóc vì xót xa. Dương Khiết giận giữ khi hỏi người trông ngựa ở đây: “Các anh có biết nó là con Bạch Long Mã của đoàn Tây Du Ký năm xưa hay không? Làm ơn có thể cải thiện tình trạng cho nó được không? Chẳng nhẽ không ai để ý thấy những con ngựa to khỏe khác lúc nào cũng xô đẩy, chen lấn và tranh giành miếng ăn với nó hay sao? Các anh có thể cho nó một chỗ ăn riêng có được không?”. Yêu cầu của Dương Khiết được những người coi ngựa ở đây đáp ứng. Họ dắt chú ngựa đến một khu vực riêng, mặc dù họ vẫn cảm thấy làm lạ khi Dương Khiết và người trong đoàn vì sao lại quan tâm đến con ngựa này đến như vậy. Khi trở về, Dương Khiết không biết liệu chú ngựa bạch đáng thương kia có được chăm sóc tử tế, được ăn uống đầy đủ hay không. Qua một vài năm sau, Dương Khiết nghe tin chú ngựa đã qua đời và được chôn ở Vô Tích, một nơi không ai biết đấy là đâu. Theo Edaily.vn
-
(Bài này anh Cường nhắn tin cho Thiên Đồng) ======================== Nhà cổ An Thạnh (NTO) Với lịch sử hơn hai trăm năm lập làng, thôn An Thạnh thuộc xã An Hải (huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận) còn lưu giữ 7 ngôi nhà cổ khoảng 150 năm tuổi. Trong đó có các ngôi nhà cổ của các dòng họ Hồ Hữu, Nguyễn Nhược, Nguyễn Hữu còn khá nguyên vẹn. Các ngôi nhà cổ An Thạnh có kiến trúc mái ngói âm dương, tường xây ghè sành kết dính bằng vôi, các vĩ kèo được chạm khắc long lân quy phụng đường nét tinh xảo phản ảnh đỉnh cao của việc xây dựng nhà ở cư dân địa phương vào thế kỷ XIX. Trong nhà còn hoành phi, câu đối, liễn thờ chạm xà cừ, bàn ghế có tuổi đời trên trăm năm. Nhân dịp mùa xuân mới Quý Tỵ- 2013, Báo điện tử Ninh Thuận gởi đến quý độc giả một số hình ảnh về những ngôi nhà cổ ở làng An Thạnh: Cổng vào nhà ông Nguyễn Nhược Hồng lợp ngói âm dương được xây dựng cách nay khoảng 150 năm Câu đối có nội dung răn dạy đạo lý làm người của tộc họ Nguyễn Nhược được lưu giữ tại nhà ông Nguyễn Nhược Hồng là cháu bốn đời của bà Nguyễn Nhược Thị, tác giả Hạnh Thục Ca. Vĩ kèo chạm khắc hoa văn tinh xảo tại nhà cổ dòng họ Nguyễn Hữu làng An Thạnh do ông Nguyễn Hữu Huệ quản lý. Bàn thờ tổ tiên vào giữa thế kỷ XIX được lưu giữ tại nhà ông Nguyễn Hữu Huệ Chiếc bàn cổ trên 150 năm tuổi được ông Huệ lưu giữ. Các diềm gỗ trang trí trong ngôi nhà cổ của dòng họ Nguyễn Hữu được chạm khắc hình tượng “lưỡng long tranh châu” Vĩ kèo, đòn tay đỡ mái ngói âm dương của nhà cổ Hồ Hữu Ghè sành kết dính bằng vôi, vật liệu xây tường nhà cổ An Thạnh Ngôi nhà cổ dòng họ Hồ Hữu khoảng 150 tuổi cần được trùng tu bảo vệ.Sơn Ngọc
-
Hậu trường Tây Du Ký 1986 Đến bây giờ, bộ phim Tây Du Kí đã trải qua 27 năm sống trong lòng các thế hệ. Ít ai biết được hậu trường phim gặp nhiều trường hợp dở khóc dở cười. Các mỹ nhân Tây Du Kí 1986 Lái dép lào xỏ vào xe? Lái xe xỏ dép lào Có lần khi xe khách của đoàn đang bon bon trên đường từ Tuyền Châu đến Quảng Châu, thời gian đó xe cộ còn thưa thớt nên xe đi khá nhanh. Bất chợt từ một đường nhỏ ven đường, một chiếc xe tải quân dụng thẳng hướng lao về phía xe của đoàn phim, mọi người trên xe ai nấy đều mặt xanh như tàu lá chuối. Tài xế xe của đoàn là Lý Ngũ, một người cực chắc tay lái liền hướng xe về phía bên trái và rồi lao xuống cạnh bờ một chiếc ao ven đường rồi phanh kít. Thật quá nguy hiểm! Mọi người trên xe cũng lục tục xuống xe đến cạnh bờ ao rửa mặt mũi chân tay. Nhiều người đều tỏ ra tức tối chỉ muốn đến ngay chỗ chiếc xe quân đội kia nói chuyện phải trái. Chiếc xe kia nhìn bề ngoài có vẻ là một xe quân dụng chở hàng hóa nông nghiệp, tài xế là một thanh niên còn khá trẻ. Mọi người trong đoàn bu quanh anh tài xế trẻ nói chuyện phải trái, lý lẽ, trong khi anh này chỉ biết ngồi ngậm tăm im lặng càng khiến cho thành viên đoàn thêm tức tối và chửi mắng dữ hơn, nhiều người mồm năm miệng hai mươi la mắng cho bõ tức. Dương Khiết lúc này vẫn đang ngồi trên xe dù không nghe rõ mọi người chửi mắng điều gì, nhưng cũng đủ nghe thấy diễn viên Lý Liên Ngũ đằng đằng sát khí và nói rất to: “Cậu không được xỏ chân vào xe khi lái dép lào”, mọi người nghe vậy đều ngớ hết cả người trước câu nói này, họ Lý cũng phát hiện mình nói lộn liền nói chữa lại: “Cậu không được lái dép lào khi xỏ xe”. Ngớt lời, mọi người không ai bảo ai và đồng loạt cười ồ cả lên, ngay cả cậu tài xế trẻ lúc nãy còn cố tình ngồi chịu trận cũng không nhịn được bật lên cười. Lý Liên Nghĩa liền nói cuống nói cuồng cho xong: “Cậu, cậu, cậu không được đi dép lào khi lái xe”. Cuối cùng anh cũng nói tròn câu khiến cả đoàn được trận cười đau bụng. Trận cãi vã với tay tài xế trẻ lại biến thành tràng cười cho cả đoàn, cậu thanh niên kia cũng nhận lỗi với mọi người sau khi hứng đủ những tiếng chửi bới của đoàn phim Tây du ký. Sau khi lên xe Lý Liên Nghĩa vẫn còn tự lẩm nhẩm: “Lái dép lào xỏ vào xe? Lái xe xỏ dép lào… đâu có gì sai nhỉ?”. Kỉ niệm quay tập “Vương quốc nữ giới” Thời gian đoàn phim quay tập Thỉnh kinh nữ nhi quốc, nhân viên đoàn được chuyên chở bằng xe ô tô đến Tô Châu, trong khi Bạch Mã được chở riêng bằng xe tải. Khi đi qua vùng Tế Nam, tại đây đang diễn ra cuộc thi chạy ma-ra-tông nên bị chặn đường nghiêm ngặt, đặc biệt là với tài xế lái xe tải. Nhà sản xuất Tiêu Kiến Bình nhanh chí khi nịnh nọt nhân viên cảnh sát địa phương khi mời một bao thuốc lá lấy lòng mong họ cho xe qua, nhưng đến cảnh sát cũng không dám trái lệnh. Tiêu Kiến Bình hỏi viên cảnh sát thời gian cấm đường bao lâu thì được được biết phải mất 3 giờ đồng hồ, điều này càng khiến Tiêu thêm cuống: “3 tiếng mới được đi? Các anh có biết chúng tôi là đoàn phóng viên săn tin của đài Trung Ương không? Chậm giờ của chúng tôi, các anh hối cũng không xong”. Viên cảnh sát đứng cạnh bật lại: “Săn tin? Săn tin cái gì còn mang cả ngựa theo?”. Tiêu Kiến Bình nghĩ thế nào lại đáp lại: “Ừ đấy, phải có ngựa, không có ngựa làm sao có ma-ra-tông”. (Trong tiến Trung Quốc, ngựa là mã, còn chữ ma-ra-tông cũng có chữ mã bên trong). Viên cảnh sát nọ nghe vậy mới ngớ người liền quay sang hỏi đồng nghiệp bên cạnh: “Ma-ra-tông cần dùng đến ngựa hả?”. Người cảnh sát đứng cạnh cũng thộn ra không hiểu chuyện gì, anh Tiêu thấy cả hai đều có vẻ do dự thì lại giục tiếp: “Nhanh hộ cái nào, đừng có để mất thời gian”. Hai viên cảnh sát thấy vẻ mặt của Kiến Bình vừa vẻ nghiêm trọng và cấp bách nên cũng không biết là thật hay giả, lại cũng sợ nhỡ làm mất thời gian của việc quan trọng gì nên đành cho xe đi. (Theo giaitri.tinmoi.vn)
-
Được báo mộng kho báu, đào lên là xương người 26/09/2013 4:28 Chiều Theo giấc mộng của anh Cường, cả đám người hì hục đào bới giữa đêm tối. Đến khi đào được chiếc đầu lâu, tất cả đều hoảng sợ bỏ chạy. Theo anh Nguyễn Quốc Cường (33 tuổi, ngụ tại ấp Long Thành, thị trấn Phước Long, Bạc Liêu), từ thời điểm đầu năm 2005, hàng đêm anh thường xuyên gặp đi gặp lại một giấc mộng rất kỳ lạ. Trong giấc mơ, một người phụ nữ khoảng 30 tuổi, mặc bộ đồ bà ba, tóc xõa dài ngang lưng đến bên giường thầm thì với anh: “Dưới gốc cây mít trước nhà con có rất nhiều vàng thỏi, con về đào đi”. Anh Cường nói: “Tôi vốn là người cứng bóng vía nên cũng không hoảng hốt lắm. Thường khi giấc mơ đó đến, tôi chỉ giật mình tỉnh dậy rồi sau đó vài ngày là quên đi ngay”. Bẵng đi khoảng 3 năm, đến năm 2008, anh Cường lại thường gặp lại giấc mộng có nội dung tương tự như vậy nhiều đêm. Anh kể lại, đến lúc này anh bắt đầu ngờ ngợ và đi xem “địa thế” mà người phụ nữ trong mộng đã chỉ. Quả thật, cây mít trước nhà anh có những đặc điểm đúng như người đàn bà báo mộng đã chỉ: gốc cây có những vết sẹo nào, có bao nhiêu cành cây… Phần đất mà theo người phụ nữ trong mộng miêu tả là có kho báu ở dưới cũng có những đặc điểm về màu đất giống y như trong thực tế. Đến lúc này, anh mới bắt đầu tin. Tuy nhiên, muốn đào kho báu cũng không được, vì phần đất được báo mộng là có kho báu lại nằm trong diện tích đất giáp ranh với nhà bà Phan Nguyệt Ánh (cũng là nhà dì ruột của anh), và hai nhà đã tranh chấp diện tích đất này từ nhiều năm nay chưa đi đến hồi kết. Suy đi tính lại, anh nghĩ nếu bỏ không kho báu này thì uổng quá. Ngày qua ngày, anh càng quyết tâm: “Dù gì thì cũng phải đào một lần cho biết dưới đó có gì”. Anh Cường thuật lại chuyện nằm mộng thấy kho báu. Nhiều đêm trằn trọc, suy nghĩ đủ cách nhưng anh thấy không cách nào khả thi. Nếu có đào ban đêm thì cũng bị phát hiện, khi đó rất khó ăn nói với bên kia. Cuối cùng, anh Cường quyết định mang chuyện mình nằm mộng thấy kho báu nói với ông Võ Hữu Phước, là một người có uy tín trong ấp và nhờ ông này sang thương lượng với bà dì để đào kho báu. Tuy tiết lộ về chuyện kho báu nhưng anh Cường lại ém thông tin cụ thể, không cho biết chính xác địa điểm của kho báu mà anh đã được báo mộng. Theo anh, nếu nói địa điểm cụ thể ở đâu, lỡ bên kia người ta đào trộm mất thì mình lại công toi. Cuối cùng, ba bên: anh Cường, bà dì hàng xóm và ông Phước thỏa thuận cùng hợp tác đào kho báu, nếu có vàng thì sẽ chia làm 3 phần bằng nhau cho 3 bên. Ba bên thống nhất thời gian đào kho báu sẽ là giữa đêm để tránh bị mọi người để ý. Cũng phải đến trước khi cả đội “xuất kích”, anh Cường mới phổ biến “tọa độ” chính xác. Cả nhóm trên 10 người mang theo cuốc, giá, chĩa ba… khấp khởi mừng thầm trong bụng xuất hành đi tìm kho báu, chắc mẩm sau đêm nay mình sẽ giàu kếch xù. Tại nơi được báo mộng, Cường lấy sơn vẽ một hình chữ nhật có cạnh dài 2 x 1,5m ngay gốc cây mít giáp ranh phần đất hai nhà và bảo mọi người đào. Công việc đào bới được tiến hành rất bí mật, đèn chiếu sáng được che lại để chỉ vừa đủ ánh sáng cho người đào đất nhìn thấy. Hì hục đào khoảng hai tiếng đồng hồ, “soi” kỹ từng vốc đất được đưa lên nhưng mọi người vẫn chưa phát hiện được kho báu. Khi đào xuống độ sâu khoảng 1,8 m, lúc mọi người đã bắt đầu nản thì chiếc chĩa ba đâm thăm dò xuống chạm một vật cứng. Những người đi tìm kho báu khẽ bụm miệng ồ lên mừng rỡ vì đều nghĩ đã đào đến nắp của thùng vàng rồi. Nhiều người nhanh chóng nhảy xuống hố để “tiếp sức”. Người đào, người bới, mớ đất xà bần dưới đáy hố nhanh chóng được chuyền tay nhau đưa lên. Khi vật cứng được đưa lên mặt đất, mọi người xác định đó là một miếng gỗ khá dày. Ở dưới hố, những người đào bới mò mẫm tìm thấy dưới khu vực có tấm gỗ là những vật cứng khác mà theo họ thì “cứng và có hình dạng giống như những thỏi vàng”. Ở phía trên, một số người được phân công mang những vật nghi vấn là vàng thỏi này đi rửa sạch sẽ. Trong ánh tranh tối tranh sáng, người ta ngạc nhiên không hiểu đây là loại hợp chất gì vì nếu lấy tay bẻ, những thỏi này đều bị gãy từng khúc. Anh Cường kể lại: “Ma lực của kho báu quá lớn nên mọi người bỏ qua chuyện tranh cãi đây là chất gì, chỉ căng mắt nhìn xuống đáy hố xem có phát hiện gì mới không”. Bà Ánh thắp hương tại ngôi miếu. Đêm truy tìm kho báu chấm dứt khi một người ở dưới chuyền lên phía trên một vật tròn tròn to hơn cái sọ dừa, nặng trịch. Một thanh niên hí hửng lau chùi và lăn đùng ra đất giãy đành đạch sợ hãi: “Á, cái đầu lâu bay ơi”. Cả đám người thất kinh hồn vía, không ai hô một câu nào mà tự động bỏ chạy tán loạn trong đêm, người ở dưới hố nhảy lên chen đường người ở trên mặt đất tìm lối thoát thân, có người ngã dúi dụi mà hai tay chắp lạy như tế sao. Bà Ánh nhớ lại: “Khi phát hiện không phải kho báu mà là xương người, người ta bỏ chạy hết. Lúc đó, chỉ còn mình tôi cố trấn tĩnh trụ lại, gom góp tất cả lại bỏ vào một cái thau, để sáng mai tính tiếp”. Sáng hôm sau, một số người thu hết can đảm, tiếp tục xuống hố gom góp nắm xương tàn của người đã chết. Bà Ánh nói: “Người chết đã linh thiêng báo mộng nên mình phải làm cho tròn trách nhiệm”. Thông tin có bộ xương người trong khu đất giáp ranh nhà anh Cường và nhà bà Ánh loan nhanh như chớp. Ngay buổi chiều cùng ngày, nghi ngờ đây có thể là một vụ án mạng, chôn xác phi tang nên công an huyện Phước Long đã tiến hành xuống hiện trường lập biên bản, xác minh sự việc, triệu tập những người có liên quan đến lấy lời khai. Một điều tra viên nhớ lại: “Sau khi tiến hành xác minh và khám nghiệm tại hiện trường, chúng tôi xác định bộ hài cốt này đang trong quá trình phân hủy. Theo ước tính, người này đã chết cách đây khoảng trên 30 năm”. Bà Ánh đã cho chôn lại bộ hài cốt và lập miếu để thờ. Hiện tại ngôi miếu này nằm ngay ranh đất, gần chỗ đào vàng trước đây. Sau khi sự việc xảy ra, nhiều người mới “đoán già, đoán non” cho rằng, vì cầu Xã Tá đang thi công, móng cầu lại “trúng” ngay phần mộ của người đã khuất nên người này mới về báo mộng, để mọi người mang đi nơi khác an táng. Theo Xa Lộ Pháp Luật
-
Làng gốm Bát Tràng tặng cố đô Huế 12 lư hương dâng vua Nguyễn (Dân trí) – Sáng 27/4 tại Thế Miếu (Đại Nội Huế) đã diễn ra lễ tiếp nhận 12 lư hương theo kiểu lư hương triều Nguyễn làm từ gốm Bát Tràng do chính làng nghề nổi danh này dành tặng cho Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế nhân dịp Festival làng nghề Huế 2013. Lư hương có kích cỡ trung bình, được làm từ gốm nguyên chất phủ men xanh do nghệ nhân ưu tú của làng là ông Trần Độ làm. Trên mỗi miệng lư hương có 2 con kỳ lân đứng châu đầu vào nhau. Bên cạnh thân có khắc hình các cặp rồng chầu mặt trời. Và có 2 dòng chữ hán là “Quý Tỵ Niên Mạnh Xuân Giáp Nhật” (nghĩa là được làm trong mùa xuân năm Quý Tỵ 2013, vào ngày tốt); và “Bát Tràng Hà Nội” là niên hiệu của tên làng gốm. Lư hương vua Nguyễn mà làng Bát Tràng làm tặng Huế Theo TS. Phan Thanh Hải, GĐ Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế: “12 lư hương rất tinh xảo và đẹp được làm từ mẫu do Bảo tàng Lịch sử quốc gia cung cấp. Hiện các mẫu lư hương triều Nguyễn như thế này không còn ở Huế nữa, cho nên được đón nhận lư hương để dâng lên các tiên đế vua Nguyễn là việc làm hết sức quý của nghệ nhân Bát Tràng dành cho Huế. Trung tâm chúng tôi sẽ bàn bạc, tìm chỗ để đặt các lư hương đúng ý nghĩa của nó nhất”. Cụ Lê Văn Cảo, Chủ tịch Hội nghề gốm Bát Tràng cho biết: “Chúng tôi rất vinh dự khi được tham gia nhiều lần Festival làng nghề Huế và đã được ban tổ chức công nhận là 1 làng nghề tiêu biểu tại Việt Nam. Bát Tràng đã nổi danh từ xa xưa với gạch. Từ Hoàng thành Thăng Long cho đến các móng thành nhà Lý-Trần đều được làm từ gạch Bát Tràng, qua gần hàng nghìn năm vẫn còn tồn tại. Và ngay ở Kinh thành Huế, nơi Thế Miếu mà chúng ta đang đứng, gạch cũng từ Bát Tràng. Vua Tự Đức đã tặng làng chúng tôi 4 chữ “Hiếu Nghĩa Quốc Công” để ghi nhớ việc làng đã góp sức trong việc góp gạch xây Kinh thành Huế và các lăng vua. Tiếp đến là các sản phẩm gốm mà hiện nay ở Đại Nội vẫn còn rất nhiều. Thời gian tới, chúng tôi sẽ làm thêm nhiều sản phẩm, công trình để đóng góp thêm cho di tích Huế”. Đại diện các nghệ nhân làng Bát Tràng (bên phải) tặng lư hương cho đại diện cố đô Huế - TS. Phan Thanh Hải, GĐ TTBTDTCĐ Huế (mặc áo dài khăn đóng xanh) Các lư hương rất tinh xảo Dòng chữ trên tai lư hương "Quý Tỵ Niên Mạnh Xuân Giáp Nhật". Quai ở thân lư ghi "Bát Tràng Hà Nội" Rồng và lân trên miệng lư Nghệ nhân Trần Độ (trái - người chế tác 12 lư hương) và "già làng" Lê Văn Cảo (giữa) bên các lư hương dâng tặng vua Nguyễn Nền ở Thế Miếu (ảnh) cũng như nhiều nơi khác trong Kinh thành Huế và lăng vua Nguyễn hiện vẫn lưu dấu loại gạch Bát Tràng một thời được dùng để xây dựng cho vua, quan ở Huế Đại Dương http://dantri.com.vn...uyen-724453.htm
-
Tượng Phật 8 triệu USD "cúi đầu" sau siêu bão Usagi (Tinmoi.vn) Một chuyện hy hữu đã xảy ra tại tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc khi siêu bão Usagi càn quét qua đã khiến hai pho tượng Phật khổng lồ phải "cúi đầu". Hai bức tượng Phật khổng lồ đã "cúi đầu" sau khi siêu bão Usagi càn quét qua Lufeng, miền Nam tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Theo thông tin từ các quan chức địa phương, họ đã bỏ ra 50 triệu Nhân dân tệ (tương đương hơn 8 triệu USD) để dựng nên hai bức tượng Phật này. Dưới đây là hình ảnh hai bức tượng Phật "cúi đầu": Hai bức tượng Phật "cúi đầu" trước khung cảnh hoang tàn sau cơn bão mạnh. Theo Sina
-
Thưa Sư Phụ, đệ tử bổ sung thông tin liên quan nguồn: http://en.wikipedia.org/wiki/Hwaseong_Fortress Mặt Đông của thành, Ảnh: từ nguồn http://en.wikipedia.org/wiki/Hwaseong_Fortress Đồ hình âm dương nhìn gần trước cổng. Ảnh: anh Cường cung cấp. Thiên Đồng
-
5 phát hiện khảo cổ gây tranh cãi nhất từ trước đến nay (Dân trí) - Nhờ vào công nghệ hiện đại, có rất nhiều cuộc khai quật khảo cổ kỳ lạ đã được thực hiện. Trong số đó, có rất nhiều phát hiện mới gây bối rồi cho các nhà khảo cổ học. Dù mất rất nhiều thời gian để nghiên cứu và tìm hiểu, có không ít những phát hiện khảo cổ gây nên nhiều tranh cãi trong việc thừa nhận nó, và nhiều khi những phát hiện này bị gán ghép như một trò lừa bịp không đáng tin. 1. Các bức tượng Acámbaro Các bức tượng Acámbaro là một bộ sưu tập các bức tượng gốm nhỏ được tìm thấy ở Acámbaro, Guanajuato, Mexico. Chúng được tìm thấy bởi Waldemar Julsrud vào tháng 7/1944. Tổng cộng ông và các cộng sự địa phương đã tìm thấy hơn 32 nghìn bức tượng, bao gồm các hình từ khủng long tới các hình người trên khắp thế giới, như người Ai Cập, Sumerian hay những người Caucasian. Những bức tượng này được cho là khác thường bởi có nhiều bức mang hình của khủng long trong khi loài động vật cổ đại này không sống cùng thời đại với con người. Sau khám phá này, nhiều người đã cho rằng chúng là cổ vật thật và không phải một trò lừa bịp. Nếu các bức tượng này được xác nhận là thật, chúng sẽ trở thành những bằng chứng về việc con người đã cùng tồn tại với khủng long, và ảnh hưởnng rất nhiều đến thuyết tiến hóa. Nhiều nỗ lực đã được thực hiện để xác định tuổi thọ của các bức tượng, kết quả ước tính chúng có từ khoảng 2500 năm trước Công Nguyên. Tuy nhiên cho tới nay, không có nhà khảo cổ hay cổ sinh vật học nào chấp nhận rằng đây là một phát hiện thực, họ đều cho rằng đó chỉ là một trò lừa bịp. 2. Hộp sọ người có sừng Sayre là một thị trấn ở Hạt Bradford, Pennsylvania. Dù thời điểm chính xác không được biết rõ, nhưng vào những năm 1880, người ta đã phát hiện một lăng mộ rất lớn ở đây. Một nhóm người Mỹ đã đào được những bộ xương và hộp sọ người rất kì lạ. Những bộ xuơng này thuộc về những người có cơ thể bình thường, trừ việc họ có những đoạn xương mọc phía trên hốc mắt khoảng 5cm. Nhìn có vẻ như các hộp sọ này có sừng. Các bộ xương này được cho là của người khổng lồ, với chiều cao tới hơn 2m. Các nhà khoa học ước tính rằng họ được chôn cất vào khoảng năm 1200 sau CN. Đó không phải lần đầu tiên những hộp sọ người có sừng được tìm thấy. Vào thế kỉ 19, những hộp sọ tương tự cũng được tìm thấy ở những nơi khác trên đất Mỹ. Trong lịch sử, sừng người là biểu tượng của quyền lực, như việc Alexander đại đế được miêu tả với những chiếc sừng trên những đồng tiền thời đó. Theo các tài liệu lịch sử, những bộ xương ở Sayra đã được gửi tới Bảo tàng điều tra Mỹ ở Philadelphia. Tuy nhiên, chúng đã bị đánh cắp và không còn được tìm thấy. Dù có rất nhiều bức ảnh chụp những hộp sọ này còn tồn tại, nhưng hầu hết mọi người đều cho rằng đây chỉ là trò lừa đảo. 3. Bản đồ của người sáng tạo Vào năm 1999, giáo sư Alexander Chuvyrov ở Đại học Quốc gia Bashkir (Nga) đã có một phát hiện khảo cổ quan trọng. Ông được mời tới nhà của Vladimir Krainov, người đã tìm thấy một phiến đá lạ được chôn trong vườn nhà mình. Phiến đá này nặng tới nỗi phải mất một tuần mới lấy được nó khỏi mặt đất. Phát hiện này được đặt tên là Phiến đá Dashka và sau này có tên là Bản đồ của người sáng tạo. Phiến đá cao 1.5m, rộng 1.1m, dày 15cm và nặng khoảng 1 tấn. Nó được đưa ra nghiên cứu và được cho là một dạng bản đồ 3 chiều của khu vực Ural. Phiến đá Dashka chứa những hình ảnh về các công trình kiến trúc, hệ thống thủy lợi và những con đập lớn. Tới nay, nguồn gốc của công nghệ tạo nên bản đồ này vẫn còn là bí ẩn và cực kì tiên tiến. Tuổi thọ của phiến đá được xác định vào khoảng 100 triệu năm tuổi. Nếu nó là thực thì đây sẽ là bằng chứng về sự tồn tại của một nền văn minh cực kì phát triển. Các nhà nghiên cứu cho rằng tấm bản đồ này có thể được sử dụng vào việc định vị. Và những phát hiện mới đây cho biết rằng phiến đá này là một phần của một cổ vật lớn hơn nhiều. Nó vẫn đang được nghiên cứu và chưa được công bố trước công chúng. 4. Những người khổng lồ Bắc Mỹ Trong vài thế kỉ qua, nhiều phát hiện khảo cổ kì lạ đã xuất hiện ở Bắc Mỹ. Người ta đã đào được rất nhiều hài cốt người với kích thước lớn, nhiều tài liệu còn tồn tại cũng chứng minh cho các phát hiện này. Các hài cốt người khổng lồ bao gồm các bộ xương người có chiều cao từ 2m cho tới 4m. Một bộ xương người cao 4m được tìm thấy ở Lompock Rancho, California vào năm 1833. Bộ xương này có 2 hàng răng và được bao quanh bởi nhiều đồ tùy táng như rìu đá hay các vỏ sò chạm khắc. Năm 1895, một lăng mộ được tìm thấy ở Toledo, Ohio. Bên trong là 20 bộ xương ở tư thế ngồi và quay về hướng Tây. Những chiếc răng của họ được biết là "to gấp đôi những người hiện đại ngày nay". Ngoài ra, còn rất nhiều phát hiện nữa được ghi nhận ở khu vực Bắc Mỹ. Nhiều người cho rằng đây là một giống người khổng lồ cổ đại. Nguồn gốc của những bộ xương này tới nay vẫn còn là bí ẩn. 5. Chiếc nêm nhôm Aiud Chiếc nêm nhôm Aiud là một vật có hình dáng của một chiếc nêm, được tìm thấy phía Tây thành phố Aiud, Rumani, trên bờ sông Mures vào năm 1974. Nó nằm sâu 11m phía dưới lớp cát cùng 2 bộ xương voi răng mấu. Bề ngoài của nó giống một cái đầu búa. Sau khi được đưa tới Viện khảo cổ Cluj-Napoca để nghiên cứu, nó được xác nhận là được làm từ hợp kim nhôm, bao bọc vối một lớp ôxít rất mỏng. Hợp kim này được tạo thành từ 12 nguyên tố khác nhau. Phát hiện này kì lạ bởi lẽ mãi đến năm 1808 người ta mới biết đến kim loại nhôm và nó không được sản xuất với số lượng lớn cho tới năm 1885. Để luyện được nhôm, người ta cần nhiệt độ tới 1000 độ. Việc nó được tìm thấy trong cùng lớp đất với các bộ xương voi răng mấu chứng tỏ rằng món đồ này có tuổi thọ ít nhất 11 nghìn năm. Nhiều người tin rằng đây là bằng chứng về việc người ngoài hành tinh đã tới Trái đất. Các kĩ sư cho biết là cổ vật này có hình dáng của bộ càng hạ cánh, tương tự như công nghệ đang được sử dụng trên các tàu vũ trụ hiện nay. Cộng đồng khoa học tin rằng nó được chế tạo trên Trái đất với mục đích vẫn chưa rõ ràng và nguồn gốc của món đồ vẫn còn là điều bí ẩn. Phan Hạnh Theo Top Tenz