-
Số nội dung
6.278 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
75
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Thiên Đồng
-
< Maori là những người dân bản địa ở New Zealand, được nhìn nhận là những nhà thám hiểm tài năng, can đảm. Họ di cư từ các đảo Đông Polynesia đến New Zealand từ thế kỷ 13. Chukchi là những người Bắc Cực cổ đại sinh sống chủ yếu ở bán đảo Chukotka. Người Chukchi chia ra 2 nền văn hóa khác biệt, gồm những người du mục chăn nuôi tuần lộc (Chauchu) sống sâu trong bán đảo Chukotka và những người săn bắn động vật biển (Ankalyn) sống dọc theo bờ biển Bắc Băng Dương. Himba là một bộ lạc cổ xưa của những người chăn nuôi bán du mục. Từ thế kỷ 16, họ sống trong các khu định cư rải rác khắp khu vực sông Kunene ở phía tây bắc Namibia và tây nam Angola. Mặc dù bị tác động bởi cuộc sống hiện đại và dự án thủy điện trong khu vực, nhưng người Himba vẫn duy trì lối sống truyền thống từ đời này sang đời khác. < Người Ladakh sống trong những thung lũng núi cao nằm giữa 2 dãy núi Himalaya và Karakoram ở phía bắc Ấn Độ. Người Ladakh tôn thờ tôn giáo là Phật giáo Tây Tạng trong hơn 1.000 năm qua. Bộ lạc bán du mục Maasai tại Đông Phi sinh sống ở phía nam Kenya và phía bắc Tanzania, dọc theo những vùng đất khô cằn của thung lũng Great Rift. Cuộc sống của họ dựa chủ yếu vào các cơn mưa đổ xuống khu vực để tìm thức ăn, nước và nuôi gia súc. Thực phẩm của người Maasai đều đến từ gia súc. Họ ăn thịt, uống sữa và thỉnh thoảng uống máu gia súc. Bộ lạc Ni-Vanuatu gồm những người Melanesian sinh sống ở Cộng hòa Vanuatu, quốc đảo ở Tây Nam Thái Bình Dương.Nhiều bằng chứng cho thấy người Melanesian bắt nguồn từ New Zealand. Hiện nay, người Melanesian ở mỗi hòn đảo tại Cộng hòa Vanuatu đều có ngôn ngữ, văn hóa riêng. Họ sinh sống chủ yếu dựa vào săn bắn, hái lượm và bắt cá. Bộ lạc Drokpa hiện có khoảng 2.500 thành viên sống trong 3 ngôi làng nhỏ tại thung lũng Ladakh, nằm ở Jammu và Kashmir, một khu vực tranh chấp giữa Ấn Độ và Pakistan. Họ là con cháu đích thực của người Aryan còn lại ở Ấn Độ. Người Huaorani tự nhận là bộ lạc dũng cảm nhất vùng Amazon, Nam Mỹ. Dân số của bộ lạc này là khoảng 2.000 người, nhưng đang bị đe dọa do việc khai thác dầu và nạn chặt phá gỗ trái phép. Theo Tri Thức http://www.baodoi.co...-trai-dat-62306
-
Locum, hãng quản lý tài sản của Thụy Điển, đã có một logo với chữ O cách điệu theo hình trái tim, nhưng nó lại khiến tên của nó trở thành "Tôi yêu Cum" (một từ khá bậy trong tiếng Anh). Hãng thời trang CatWear cũng gặp vấn đề với những chữ cái được thiết kế phá cách. Cụ thể là chữ A hình con mèo đủ khiến những người yêu loài động vật này nhất cũng phải che mặt. Trên hình, logo của một nhà hàng Trung Quốc làm người ta khó mà nhịn nổi cười. Đó là khi mặt trời màu đỏ kết hợp cùng chiếc mái nhà cong trông như hình cái mông. Khá giống với trường hợp của A-Style, chữ K trong logo của hãng dược phẩm Kudawara Pharmacy là rất dễ gây hiểu lầm. Ai đó đang vẽ tranh khỏa thân ở đây ư? Không phải, đó là logo của lớp học nhảy cổ điển Junior Jazz. Năm ngoái, Olympic London cũng không tránh khỏi rắc rối liên quan đến logo. Nhiều người nói trong biểu tượng của thế vận hội giống như một người phụ nữ đang quỳ gối thỏa mãn người đàn ông đứng cạnh vậy. Theo BoredPanda/Tri Thứ
-
Những thiết kế logo tai hại nhất thế giới Không hiểu do vô tình hay hữu ý mà những logo này có thể khiến người ta ngượng chín mặt khi quan sát chúng. Trước khi bán sản phẩm của mình tại Anh, Ý và Nga, A-style đã tung ra một logo khiến rất nhiều người hiếu kỳ bởi trông nó thực sự nhạy cảm. Sau đó, hãng đã chào bán mặt hàng quần áo của mình với sự đón nhận rộng rãi. Văn phòng thương mại của chính phủ Mỹ OGC đã gặp một "tai nạn" logo không thể tệ hơn, đó là khi người ta xoay biểu tượng này lại theo chiều dọc. Cố gắng trông giống một chảo thu vệ tinh đã khiến logo của Mont-Sat trở thành một "thảm họa". Một khách hàng đã phát biểu rằng khi nhìn vào logo của Pepsi (được cho là tốn rất nhiều công sức thiết kế), anh ta chỉ thấy nó trông như một gã béo ú ục ịch. Tương tự là với Pepsi Max, gấp hai lần caffeine so với nước cola thông thường sẽ chỉ khiến nó trở nên thảm hại hơn. Với logo của trung tâm nha khoa Clinica Dental, người ta rất dễ liên tưởng đến mối quan hệ nhạy cảm giữa bác sĩ và bệnh nhân.
-
ĐÌNH LÀNG – GƯƠNG MẶT KIẾN TRÚC CỔ VIỆT NAM Mỗi làng quê Việt Nam đều có một ngôi đình. Như là một ngôi nhà công cộng của làng quê thời xưa, đình được dùng làm nơi thờ Thành Hoàng làng (vị thần bảo trợ của làng) và họp việc làng. Đó là một ngôi nhà to, rộng được dựng bằng những cột lim tròn, to, thẳng tắp đặt trên những hòn đá tảng lớn. Vì, kèo, xà ngang, xà dọc của đình cũng làm toàn bằng gỗ lim. Tường đình xây bằng gạch. Mái đình lợp ngói mũi hài, bốn góc có bốn đầu đao cong. Vào mỗi dịp lễ, Tết, đình trở thành trung tâm văn hóa của làng mà ở đó, tất cả kho tàng văn hóa tích lũy từ đời này qua đời khác được thể hiện đầy đủ nhất. Đình Đồng Kỵ ( Bắc Ninh) Về mặt tạo hình, các nhà nghiên cứu đều thống nhất rằng, đình làng là gương mặt của nền kiến trúc Việt cổ. Nó không chỉ là công trình oai nghiêm và đồ sộ nhất trong khung cảnh làng quê Việt Nam nghèo nàn thời quân chủ, mà còn là nơi bảo tồn khá trọn vẹn những đặc điểm của nền kiến trúc dân tộc bởi ít phải chịu ảnh hưởng của kiến trúc ngoại sinh. Đặc biệt, qua một thời gian dài nghiên cứu, chắt lọc, người ta còn phát hiện từ đình làng một kho tàng những tác phẩm điêu khắc gỗ dân gian Việt Nam mà sự khéo léo, tài tình của những người thợ được thể hiện trên từng nét vẽ, chạm khắc. Xét trên mặt bằng tổng thể, trước đình làng luôn là ao đình (tròn hoặc bán nguyệt), tiếp đến là sân đình với nhiều hàng cây cổ thụ. Đây là hai yếu tố quan trọng trước tiên tạo nên diện mạo đình làng mà các kiến trúc gia nước ngoài thường gọi là “nền kiến trúc họa cảnh”. Tòa đình chính (đại đình) thường là một căn nhà lớn lợp ngói mũi kiểu bốn mái xòe rộng ra ôm lấy đất. Thế nhưng, bốn tàu mái cao rộng đó không trở nên nặng nề nhờ bốn góc có bốn tầu đao cong vút như nâng các tàu mái bay bổng. Kiểu mái này chính là đặc điểm nổi bật của kiến trúc truyền thống Việt Nam, khác hẳn với kiểu tàu hộp hay giả tàu của nền kiến trúc Trung Hoa mà ta thường thấy trên hầu hết các mái nhà ở cố đô Huế. Đình làng Vị Thượng (Phủ Lý - Hà Nam) Trước đình thường có một hồ nước trồng sen, hương thơm ngào ngạt. Đình làng còn là nơi trai thanh nữ tú trong làng đến để hẹn hò tình yêu. Ngôi đình làng Việt Nam cổ kính, trang nghiêm, ẩn mình sau lũy tre xanh mướt là một tác phẩm nghệ thuật của con người hòa nhập trong làng quê. Kiến trúc đại đình có nét chung của nền kiến trúc gỗ phương Đông, dựa trên sự liên kết của các bộ vì. Sức nặng của tòa nhà do cột trong vì đảm nhiệm nên khi ấy, tường nhà không phải là cơ sở chịu lực mà chỉ làm nhiệm vụ ngăn che nắng mưa, gió bão. Tuy nhiên, khác với các dân tộc khác, kiến trúc đình làng Việt cổ là một không gian mở, mỗi khi làng có việc, cửa bích bàn bốn mặt đình được dùng làm bàn tiệc, khiến bốn mặt đình càng trở nên thông thoáng. Một góc đình Đại Bái (Bắc Ninh) Khác với những kiến trúc tôn giáo khác, ngay ở những vị trí tôn nghiêm của đình làng, ta cũng có thể gặp hình tượng những đôi trai gái đùa ghẹo nhau hay đang tình tự... Từ thế kỷ XIX, điêu khắc đình làng hầu như không còn những cảnh sinh hoạt dân gian. Từ đây chỉ còn những hình trang trí hoa lá và phổ biến là hình tứ linh (long, ly, quy, phượng). Trong các đình thế kỷ XIX, thường có những bức cửa võng trước điện thờ được chạm trổ khá công phu. Cột trong nền kiến trúc cổ Việt Nam đều được làm bằng gỗ nguyên cây, không có cột nối, không sơn vẽ và được liên kết với nhau bằng các kiểu khác nhau: kèo lẻ, con rường hoặc kết hợp của hai loại liên kết trên (thượng rường - hạ kẻ). Kiến trúc đình Việt Nam trước thời Nguyễn thường chỉ sử dụng hai kiểu liên kết: kèo lẻ và trên rường - dưới kẻ. Tuy nhiên, kiểu liên kết cổ nhất là kèo lẻ - một kiểu liên kết ta không thấy trong nền kiến trúc Trung Hoa. Đình làng Khinh Giao (An Dương - Hải Phòng) Ở đình làng, chúng ta rất dễ nhận ra hầu hết các thành phần kiến trúc đều được chạm khắc trang trí. Ngoài các hình rồng, phượng, hoa lá, ta thường gặp trong nghệ thuật điêu khắc trang trí đình làng hình ảnh những ngày hội làng, những khung cảnh lao động nhọc nhằn hay bức vẽ thể hiện tình yêu mẹ con, chồng vợ và cả những lời lên án chế độ quân chủ hà khắc thời phong kiến. Tất cả những điều ấy là dấu ấn tuyệt vời cho các thế hệ mai sau hiểu và cảm được không khí sinh hoạt của cộng đồng làng xã thời xưa, đồng thời là bản sắc của nền kiến trúc cổ Việt Nam – một bản sắc văn hóa và lịch sử sâu sắc nhất. Vào những ngày lễ, tết, dân làng đến đình thắp hương tế lễ nhộn nhịp, cầu mong Thành Hoàng và Trời Đất giúp cho mưa thuận gió hòa, cày cấy, làm ăn thuận tiện và có nhiều phúc lành. Mùa xuân đến, sân đình trở thành sân khấu hát chèo, hoặc để đấu vật, chọi gà, múa hát giao duyên. Xung quanh đình, thường có những câ đa cổ thụ vẫy gọi chim về làm tổ, ríu rít âm thanh, có giếng nước rộng trong vắt để làm nước ăn, nước uống và để các cô gái làng xinh đẹp đến soi gương làm duyên. Cuộc Sống Việt
-
Đình Ngọc Canh Cách đình Hương Canh chừng 200m, được khởi dựng thời Hậu Lê (thế kỷ XVII), đình Ngọc Canh có kiểu thức kiến trúc tương tự đình Hương Canh, rất đồ sộ, cột lớn kết cấu vững chãi. Hiện đình còn nguyên 3 toà kiến trúc bố cục như hình chữ “vương”, tiền tế 5 gian dài 20m, rộng 7,10m; đại đình 5 gian 2 dĩ dài 24m, rộng 15,50m; hậu cung 5 gian dài 10m, rộng 7,30m. Về nghệ thuật chạm khắc, đình Ngọc Canh cũng có những bức chạm giống đình Hương Canh như: “đấu vật”, “bơi chải”, “đi săn về” hay những hình rồng phượng, con giống... Tuy nhiên nội dung và nghệ thuật chạm trổ ở đây có những điểm khác với đình Hương Canh. Nếu như ở đình Hương Canh tả nhiều về ngày hội làng, những trò chơi đông người tạo nên không khí vui nhộn thì ở đình Ngọc Canh lại thiên về tả cảnh lao động, những thú vui hàng ngày trong nông thôn. Nếu chạm trổ ở đình Hương Canh đẹp trong không khí nhộn nhịp vui tươi thì chạm trổ ở đình Ngọc Canh đẹp trong không gian trầm lắng, suy tư liên tưởng trước thực tế cuộc sống của nhân dân ta nửa cuối thế kỷ 17, như các bức chạm: “dựng cột buồm”, “uống rượu”, “chơi cờ”, “đến hát nhà quan”. Với lối bố cục chặt chẽ, hài hoà, đường nét phóng khoáng tự do, chú ý khắc hoạ từng chi tiết thể hiện rõ tình cảm, cá tính của từng nhân vật trong bức chạm để rồi có một tác phẩm hoàn hảo, mang nội dung tư tưởng sâu sắc, thể hiện cao độ đề tài định trước. Đó là những thành công nổi bật trong chạm gỗ ở đình Ngọc Canh. Đình Ngọc Canh, cũng như Hương Canh, Tiên Canh, mỗi đình thuộc một làng, cùng thờ chung 6 vị thành hoàng: Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập - con trai cả của Ngô Quyền, Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn - con thứ của Ngô Quyền, Linh Quang Thái Hậu Dương Thị Như Ngọc - vợ Ngô Quyền, A Lữ nương nương Dương Phương Lan - vợ thứ Ngô Quyền, Thị Tùng phu nhân Phạm Thị Uy Duyên - vợ Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, Đông Ngạc đại thần Đỗ Cảnh Thạc - tướng và là cháu ngoại Ngô Quyền. "Cửa võng" thế kỷ XIX Đình Ngọc Canh và các di tích thuộc thị trấn Hương Canh đã và đang được Nhà nước quan tâm lập dự án trùng tu tôn tạo nhằm bảo quản, gìn giữ kiến trúc cổ truyền và các tác phẩm điêu khắc dân gian cũng như việc khôi phục những sinh hoạt hội hè, phát huy giá trị vật thể và phi vật thể của di tích trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước hiện nay V.H http://www.vhttdlvin...ichlsvanhoa&p=2
-
Lược ý nghi thức Cổ Phật khất thực trong Giới đàn Phật giáo Bắc truyền Khất thực là một trong những nghi thức tu tập tối quan trọng của Tăng Già Phật Giáo Ấn Độ do Đức Phật chế ra, Phật dạy đã là một vị Tăng sĩ điều trước tiên phải hành pháp Khất thực, vì vậy khi Phật Giáo truyền vào Đông độ Tăng Già vẫn như cổ lệ trì bình khất thực giáo hóa nhân gian Lược ý nghi thức Cổ Phật khất thực trong Giới đàn Phật giáo Bắc truyền Đại Giới đàn Phật Giáo Bắc truyền, nơi truyền trì mạch đạo, chốn hiển lý Đại Thừa, là nơi mà tất cả những truyền thống của Phật Giáo Bắc Truyền liên quan với cội nguồn Ấn Độ (Tây Trúc) đều được bảo lưu duy trì, những lời phật dạy trong Giới kinh và nghi thức truyền thống Phật Giáo thời Phật tại thế, hầu như đều được lưu giữ trọn vẹn trong những nghi thức Giới Đàn, trong đó có Nghi Thức Cổ Phật Khất Thực. Phật Giáo vào khoảng cuối thế kỷ thứ I đầu thế kỷ thứ II sau công nguyên được truyền vào Đông Độ (Trung Quốc), với tinh thần từ bi cứu độ không phân biệt giàu nghèo sang hèn, và chân lý " Hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh và đề có khả năng thành Phật như nhau" cho nên giáo lý của Phật Đà được sự đón nhận cũng như đồng tình của tầng lớp quí tộc và trí thức Nho gia cũng như Đạo gia của Đông Độ và sự thành tâm tín ngưỡng của quần chúng trong xã hội, vì vậy Phật Giáo rất nhanh truyền bá rộng rãi trong cung đình cũng như dân gian. Khất thực là một trong những nghi thức tu tập tối quan trọng của Tăng Già Phật Giáo Ấn Độ do Đức Phật chế ra, Phật dạy đã là một vị Tăng sĩ điều trước tiên phải hành pháp Khất thực, vì vậy khi Phật Giáo truyền vào Đông độ Tăng Già vẫn như cổ lệ trì bình khất thực giáo hóa nhân gian. Tăng già ở Ấn Độ trì bát khất thực là một trong những pháp môn tu tập tối thắng để diệt trừ tham tâm và ngã mạn, người dân Ấn Độ cho rằng người xuất gia cần phải hành trì pháp khất thực để làm duyên lành cho chúng sanh gieo trồng phước đức, chúng sanh nếu muốn tu tạo phước đức thì phải cúng dường cho chúng Tăng. Khác với Ấn Độ truyền thống văn hóa, tập quán, phong tục của người Đông độ quan niệm về khất thực khác hẳn với Ấn Độ, người Đông Độ cho rằng khất thực là một trong những hành vi của người nghèo khổ, không có địa vị trong xã hội, không phải là tầng lớp trí thức cao quý, cho nên lúc đầu chư Tăng cũng đi trì bình khất thực, nhưng do có sự dị nghị cũng như hiểu lầm về giá trị của Tăng già trong xã hội, nhất là buổi ban đầu đa số chư Tăng đều là thầy của vua quan và quý tộc có địa vị rất cao trong xã hội. Triều đình cũng như vua chúa các vị đại thí chủ phát tâm cúng dường y phục vật thực thay vì chư Tăng phải đi trì bình khất thực thì chỉ ở trong trú xứ chuyên tâm lo việc hoằng giáo tu trì. Ví dụ Vua Huệ Đế thời Tây Tấn lập chùa Hưng Thánh để cúng dường chư Tăng. Đời Bắc Ngụy có chế độ "Tăng Kỳ Hộ" quy định trong dân gian mỗi năm đóng 60 đấu gạo vào trong Tăng Tào để cúng dường cho Tăng... . Tăng đoàn Phật Giáo Bắc Truyền đến đời vua Lương Võ Đế, nhà vua vì muốn thể hiện tinh thần từ bi của Đạo Phật không ăn thịt chúng sanh, nên hết lòng xiển dương ăn chay, ra sắc lệnh cấm Tăng sĩ không được ăn mặn. Khất thực theo luật Phật chế khi đi bát thường là Phật tử cúng thức ăn gì, thì chư Tăng thọ dụng thức ăn đó, bất cứ là thực phẩm là chay hay mặn, việc cấm ăn mặn làm cho pháp trì bình khất thực gặp phải chướng ngại, chỉ còn cách trong chùa chư Tăng phải tự nấu thức ăn chay, cho nên dần dần truyền thống chư Tăng đi khất thực không còn được thực hiện trong Phật Giáo Bắc Truyền. Đời Đông Tấn, để phù hợp với văn hóa tập tục truyền thống xã hội nông nghiệp của Đông độ, Ngài Đạo An Đại Sư lại đề xướng chư Tăng cần phải làm ruộng để tự nuôi sống mình, trong Cao Tăng Truyện Đông Tấn Cao Tăng Đạo An chép: "đem kinh vào trong ruộng, nghỉ việc chỉ lo đọc sách". Chư Tăng cũng cần phải làm ruộng để tự nuôi sống mình, chứ không phải chỉ biết đọc Kinh. Đến đời nhà Đường, Thiền Tông hưng thạnh, Ngài Bách Trượng xiển dương "Nhất nhựt bất tác, nhứt nhựt bất thực", một ngày không làm thì ngày đó không ăn, thiết lập chế độ "Nông Thiền" trong Phật Giáo Bắc Truyền, chấm dứt truyền thống khất thực của Tăng Già trong Phật Giáo Bắc Truyền ở Đông độ, chính vì những nguyên nhân này mà truyền thống trì bình khất thực của Tăng Già chỉ còn là nghi thức trong "Truyền Y Phú Bát" trong Giới Đàn Phật Giáo Bắc Truyền. Nghi Thức Cổ Phật Khất Thực là một trong những nghi thức quan trọng Giới đàn Phật Giáo Bắc Truyền, nghi thức này được hầu hết các vị Tổ sư Trung Hoa cũng như Việt Nam khi khai đàn truyền giới đều có tổ chức hành nghi "Cổ Phật Khất Thực". Theo sách Hải Ngoại Ký Sự của Ngài Thạch Liêm Thiền Sư, khi khai đàn truyền giới tại Thuận Hóa cũng đều có hành nghi cổ Phật khất thực, sách chép: "... ngày thứ 3 cùng với Quốc sư dẫn lưỡng tự đại chúng tân giới tử đi vào hoàng cung hành nghi cổ Phật khất thực... nhà vua đắp tử y hai bên có hai vị Tăng trì tích cầm tọa cụ đứng đợi nơi cổng thành phía tây, hơn 1400 tân giới tử, đắp y trì bát trang nghiêm...". Vì sao đi khất thực lại được xưng là nghi thức "Cổ Phật Khất Thực"? Trong sách Ngũ Đăng Hội Nguyên có đoạn chép: "Một hôm Đức Phật dạy ngài A Nan: "Đã sắp đến giờ ngọ, ông nên trì bát vào thành để khất thực", Ngài A Nan đáp: "Bạch vâng". Đức Thế Tôn lại dạy: "Khi ông trì bát đi khất thực, nên nhớ phải y theo nghi thức của Thất Phật thời quá khứ", Ngài A Nan liền hỏi: "Nghi thức khất thực của Thất Phật thời quá khứ là như thế nào?". Phật gọi Ngài A Nan, Ngài A Nan đáp "Dạ" Phật lại dạy "trì bát đi khất thực đi". Nghi thức Khất Thực vì sao lại liên quan đến Thất Phật. Trong sách Ngũ Bách La Hán nói về vị Tổ thứ 7 là Ngài Thất Phật Nan Đề Tôn Giả, có đoạn chép liên quan đến Thất Phật khất thực: "Thất Phật là bảy vị Phật Tổ thời quá khứ, vì độ chúng sanh mà nhẫn nại đi khất thực, không kể đông hè nóng lạnh, đi hóa độ khắp tất cả mọi nơi, cứu độ chúng sanh, siêu thăng Phật Độ...". Trong sách Chỉ Quán Bổ Hành Chuyên Hoằng quyển thứ 4 phần 3 chép: "Đây gọi là Khất thực, đầy đủ Đầu đà năm pháp khất thực....Thất Phật cùng Bồ Tát Phương Đẳng đều là hành giả khất thực..." . Vì vậy Nghi Thức Khất Thực được Phật Giáo Bắc Truyền xưng là "Nghi Cổ Phật Khất Thực". Vì sao Thất Phật quá khứ được xưng là Cổ Phật. Trong sách Ngũ Đăng Hội Nguyên quyển 1 chép: "Thất Phật là bảy vị Cổ Phật từ vô lượng kiếp xa xưa không thể tính đếm ước lượng được, ứng thân hiện thế, tính từ hiện tại hiền kiếp 1000 vị Phật. Thất Phật là bảy vị Phật trước Đức Phật Thích Ca...". Giới Đàn nơi nối truyền Chánh pháp, tục Phật huệ mạng, Khất thực lại là một pháp quan trọng của Tăng do Phật Đà chế định. Tăng chúng trì bình khất thực có hai ý nghĩa chính, thứ nhất là nuôi dưỡng sắc thân, thứ hai là tạo nhân duyên lành để chúng sanh gieo trồng phước điền. Vì vậy khi giới tử đăng đàn thọ Đại Giới để chính thức trở thành một vị Tăng pháp căn bản để trở thành một vị Tăng chân chính là khất thực, cho nên không thể không biết. Trong Kinh Kim Cang Lược Sớ có chép : "Từ cổ thất Phật quá khứ cho đến nay, chư Phật đều đắp y trì bát đi khất thực, đây là nghi thức thường nhật của chư Phật vậy. Chư Phật lấy khất thực làm chánh mạng thực, thức ăn không phải do tín chúng cúng dường là không phải thức ăn của Tỳ Kheo vậy. Cho nên Phật chế là Tỳ Kheo phải đi khất thực để tự nuôi sống chánh mạng của mình...". Khất thực là pháp môn tu hành thành tựu chánh mạng thanh tịnh của chư Phật, Thánh chúng. Trong Luật Thiện Kiến chép: "các bậc Thánh nhân trong Tam thừa đều trì bình bát đi khất thực để nuôi dưỡng tự thân". Khất thực là pháp căn bổn để duy trì mạng sống Tăng đoàn Phật Giáo, Tăng hành khất thực là bên trong khất thực để nuôi dưỡng thân huệ mạng, bên ngoài khất thực để thuyết pháp độ chúng sanh, vì vậy từ quá khứ chư Phật Bồ Tát cho đến chúng Tăng đều phải thọ trì. Trong sách Đầu Đà Kinh có chép: "...Thất Phật quá khứ cho đến các vị Bồ tát phương đẳng đều là những hành giả khất thực...". Những ý nghĩa vi diệu của nghi thức Cổ Phật Khất Thực được nêu ra sau đây là một trong những bài pháp tối quan trọng cho những người sơ tâm học Phật, là ý chỉ tâm tông để cho những ai muốn phát tâm nhập vào hàng Thánh, cho nên nghi thức Cổ Phật Khất Thực luôn được chư vị Tổ sư tổ chức hành trì trong các Giới Đàn Phật Giáo Bắc Truyền, để cho giới tử càng thêm phát tâm hành trì tu tập và để truyền thống của Tăng Già không bị mai một, quan trong hơn nữa là để viên mãn thành tựu một người đệ tử chân chánh của Đức Như Lai. Đức Phật dạy các đệ tử xuất gia cần phải trì bình khất thực, đây là một pháp tu tối thắng, người tu hành cần gìn giữ thân mạng chân chánh của chính mình, nên dùng phương pháp tu hành chân chánh để nuôi dưỡng tự thân, phương pháp chân chánh nhất theo Đức Phật đó là trì bình khất thực, vì trì bình khất thực là pháp môn thể hiện sự chân thật của người tu sĩ, trước mặt mọi người thọ của cúng dường và có đầy đủ đức hạnh để tín chủ phát tâm cúng dường, thanh tịnh thọ cúng và an tâm thí cúng, chân thật tu hành, không cần phải dụng tâm bất chánh, "giả trang thiền tướng, cầu bỉ cung kính" khiến cho người cúng dường thối tâm bồ đề, đồng thời cũng tránh việc tích chứa của tín thí cúng dường làm của riêng tư, chướng ngăn Thánh đạo. Phật dạy người xuất gia cần phải tu hành pháp trì bình khất thực, đây là phương pháp để tu luyện đức tính thiểu dục tri túc, người xuất gia từ bỏ tài sản gia nghiệp thế gian, bán buôn, sự nghiệp đều không còn nữa để an tâm tu hành, pháp môn trì bình khất thực là pháp môn tối thắng để người xuất gia tập hạnh khiêm tốn và cuộc sống giản đơn, là Sa môn Phật dạy chỉ cần ba y một bát, chổ ở là tùng lâm tinh xá, mỗi ngày khất thực nuôi thân để tu hành nếu thực hành được như vậy thì người ấy đã thành tựu được pháp viễn ly tham dục khổ não và luôn được thanh tịnh an lạc. Khất thực là việc làm mỗi ngày của các bật xuất gia, đây là duyên lành để người xuất gia thọ đủ tứ sự cúng dường và hiểu thể nào là đời sống tri túc, không còn phiền não vì phải tích góp vật thực, sanh tâm tham luyến, tất cả vật dụng nhu yếu cho cuộc sống đều do sự cúng dường của thí chủ, tự thân mình không có tài sản riêng tư nên diệt được tâm ỷ có tài vật mà kiêu mạng, khất thực thọ chúng cúng dường còn tu tập hạnh tùy duyên, có thể ở trong chùa để thọ cúng, có thể đến nhà thí chủ để thọ cúng và có thể ra đường khất thực đều không có chướng ngại chỉ tùy theo duyên của chúng sanh để hóa độ. Thực hành pháp khất thực là để diệt trừ tâm kiêu mạng, người xuất gia thế phát ly gia là thể hiện ý chí từ bỏ thân tướng tốt đẹp của thế gian, mặc áo Ca Sa xả bỏ hết thảy trang sức của thế gian, tay ôm bình bát đi khất thực thể hiện đức khiêm nhường và sự xả bỏ kiêu mạn, mỗi bước chân trên đường đi khất thực là mỗi bước đến gần với quả vị Phật, mỗi bước mỗi đến gần để hóa duyên và phổ độ chúng sanh. Mỗi ngày mỗi bát cơm khất của tín thí, bình đẳng thọ nhận sự cúng dường của hết thảy chúng sanh, thực hành tâm bình đẳng không còn phân biệt, đối với giàu sang, nghèo khó, ngon dở, tốt xấu, chỉ còn duy nhất một tâm niệm, trên đền bốn ơn nặng dưới cứu khổ ba loài. Chư Tăng trì bình khất thực là tự mình đang tu tập hạnh diệt trừ tham sân si, nuôi dưỡng tâm đại từ, người cúng dường hoan hỷ vì có thể theo tâm nguyện và khả năng của mình để dâng cúng. Chư Tăng trì bình đi khất thực là một trong những pháp kết duyên với chúng sanh tối thắng nhất, vì tín chúng có thể tùy theo phương tiện của mình mà hỷ cúng, và có thể tùy lúc tùy nơi để thân cận Tam Bảo, tùy thời có thể kết duyên cúng dường Tam Bảo. Chư tăng trì bình đi khất thực làm cho hình bóng của Tam Bảo thường trụ trong cuộc đời, hình bóng Tăng già hiện ở cuộc đời luôn nhắc nhở cho tín chúng cũng như xã hội luôn có ý thức sự trường tồn cũng như giá trì hằng còn của thế gian trụ trì Tam Bảo, đồng thời cũng là một trong những lời nhắc nhở về từ bi, đạo đức sống về tình thương, về trí tuệ sống động nhất trên cuộc đời. Giới Đàn là nơi giới tử cầu Giới chỉ vì một niệm siêu thoát sanh tử, Tăng Ni đắc giới chỉ có tâm đầu "tục Phật huệ mạng, hoằng pháp lợi sanh", Tăng đoàn trì Giới tức Phật Pháp hưng long, Chánh pháp cửu trụ, vì vậy Giới Đàn là nơi cụ túc viên mãn hết thảy các công hạnh trên, nơi thành tựu hết thảy chư Phật công đức, nơi lưu giữ và truyền thừa Phật Pháp tâm tông, truyền thống Tăng đoàn từ đây được xiển dương và phát triển. Tăng già Phật Giáo Bắc Truyền vì những nhân duyên trên nên pháp môn trì bình khất thực của chư Phật không còn được duy trì, nhưng không vì lý do đó mà việc hành trì khất thực bị mai một, khất thực từ một việc làm thường nhật của chư Tăng được thăng hoa thành một nghi thức truyền thống trang nghiêm long trọng trong Giới Đàn, từ những việc làm thường nhật thành một nét văn hóa truyền thống mang tính biểu trưng của Phật Giáo, cổ lệ của chư Phật, cội nguồn của chúng Tăng, nghi thức "Cổ Phật Khất Thực" trong Giới Đàn Phật Giáo Bắc Truyền, nét đẹp trang nghiêm giải thoát của người con Phật luôn được gìn giữ và ngày một thăng hoa trong tâm niệm "Truyền Đăng Tục Diệm.". Với chí hướng "Thượng cầu Phật đạo hạ hóa chúng sanh". Phật dạy "Tùy duyên bất biến". Phật Giáo Bắc Truyền tùy duyên hóa độ chúng sanh Đông độ nên trong sinh hoạt của Tăng đoàn có những sự thay đổi để phù hợp và thích nghi với quốc độ, xã hội và tập tục văn hóa đông phương, hình thức tuy có thay đổi nhưng hành trì và nội dung của các pháp thì không có sự thay đổi, nghi thức Cổ Phật Khất Thực cũng như vậy suốt hơn 2500 năm qua dù chư Tăng Phật Giáo Bắc Truyền không còn như truyền thống ngày xưa đi khất thực nữa, nhưng hành trì Quá Đường thọ thực trong thường nhật vẫn như cổ lệ xưa dùng bình bát để thọ thực, nghi thức truyền thống đi khất thực vẫn được tái hiện khi các Đại Giới đàn khai mở và nghi thức truyền thống này sẽ mãi mãi còn lại trên thế gian như hình bóng thường trụ của Tăng Già. Tác giả bài viết: HT. Thích Tâm Mãn Nguồn tin: www.giaohoiphatgiaovietnam.vn
-
Thước đo xưa của người Việt Đối với mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, hệ thống thước đo là sự biểu hiện một cách trực tiếp và cụ thể phương thức tư duy, cách tính toán và cả đặc trưng văn hóa của họ. Tuy nhiên, đã từ hàng thế kỷ nay, với ảnh hưởng mạnh mẽ của văn minh phương Tây, hệ thước mét có nguồn gốc từ châu Âu đã dần dần “thôn tính” toàn cầu, khiến ít quốc gia, dân tộc còn giữ được hệ thước đo truyền thống của mình. Việt Nam chúng ta không phải là một ngoại lệ. Trong bài viết dưới đây, chúng tôi xin nêu lên một số kết quả trong việc tìm hiểu về hệ thống thước đo được sử dụng trong thời Nguyễn (1802-1945), thời kỳ tồn tại của chế độ quân chủ cuối cùng tại Việt Nam; cũng là thời kỳ chuyển tiếp của lịch sử dân tộc từ Trung đại sang Cận đại và Hiện đại. Thực ra, hệ đo lường trước đây của người Việt khá phong phú và có đặc điểm riêng, muốn tìm hiểu nguồn gốc và cách sử dụng thực không phải đơn giản. Để hiểu một cách chính xác và đầy đủ về hệ thống thước đo truyền thống của dân tộc chúng ta phải có một cái nhìn toàn diện về loại hình, công năng cũng như lịch sử tồn tại của hệ thống thước đo này. Hệ thước đo xưa của người Việt, về cơ bản gồm 3 loại chính là hệ thước đo vải - hay thước may (tên chữ Hán là Phùng xích hay Quan Phùng xích), hệ thước đo ruộng đất - hay thước ruộng (tên chữ Hán là Điền xích hay Độ Điền xích) và hệ thước mộc - hay thước ta (tên chữ Hán là Quan mộc xích hay Mộc xích). Hệ thước đo vải - hay thước may Chưa rõ hệ thước này có nguồn gốc xuất phát từ đâu, chỉ biết độ dài của nó luôn khác với hệ thước khác. Một số nghệ nhân nghề dệt truyền thống thì cho rằng, chiếc thước này được hình thành và bị “ràng buộc” với khuôn khổ của chiếc khung cửi cổ truyền. Sự hạn chế của phương pháp thủ công khiến kích thước khổ vải dệt ngày xưa ít thay đổi qua thời gian. Bởi vậy, dù kích thước của các cây thước mộc, thước ruộng từng thay đổi rất nhiều qua các triều đại, nhưng đối với cây thước may thì sự điều chỉnh trên hầu như không đáng kể. Hiện nay, tại Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế vẫn còn lưu giữ được một cây thước rất đẹp, tương truyền là thước của Bộ Công triều Nguyễn. Toàn bộ cây thước này dài đúng 1 mét Tây (100cm); 3 mặt khắc giá trị của 3 loại thước khác nhau, gồm Kinh xích, Chu Nguyên xích và Phùng xích. Tại mặt khắc giá trị của Phùng xích, tức thước đo vải- thước may, giá trị của 01 thước đo được là 59,80cm, tức xấp xỉ 0,6m. Tuy nhiên, theo các thợ may lão thành vùng Huế, thì giá trị của cây thước may cũng có thể dao động trong khoảng từ 0,6m - 0,65m. Những cây thước cổ thường có giá trị lớn hơn, trong khoảng 0,64 - 0,65m, còn những cây thước muộn thường có giá trị xấp xỉ 0,6m. Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn Ngữ học, không rõ căn cứ vào đâu, nhưng cũng cho rằng, giá trị cây thước may là 0,645m. Như vậy, bước đầu có thể nhận định rằng, dưới thời Nguyễn, giá trị thực của cây Phùng xích hay thước may nằm trong khoảng 0,6m - 0,65m. Hệ thước đo ruộng đất - hay thước ruộng Căn cứ vào sử sách, có thể khẳng định rằng, hệ thước đo ruộng đất được áp dụng dưới thời Nguyễn là có nguồn gốc từ thời Lê. Tuy nhiên, việc áp dụng hệ thước đo này cũng có diễn biến rất phức tạp. Nguyên từ thời chúa Nguyễn, các chúa đã cho đo ruộng đất toàn bộ Đàng Trong để lập địa bạ từ năm 1669. Nhưng không rõ giá trị của cây Điền xích lúc ấy là bao nhiêu và có phải nó đúng là cây thước vốn được sử dụng từ triều Lê hay không? Nhưng đến đầu triều Nguyễn, vào năm Gia Long thứ 5 (1806), để thống nhất đơn vị đo ruộng đất trong toàn quốc, nhà vua đã sai chế ra cây thước Trung Bình (Trung Bình xích): Cây thước này được áp dụng đến năm 1810, sau khi một người dân ở xã Cổ Linh, huyện Gia Lâm trình lên cây Điền xích của nhà Lê và vua Nguyễn cho áp dụng nó làm cây thước chuẩn để đo đạc lại ruộng đất trong toàn quốc thì mới chấm dứt vai trò. Sách Đại Nam thực lục của Quốc Sử Quán triều Nguyễn có ghi rõ: “Tháng 8 (Năm Canh Ngọ, Gia Long thứ 9 (1810)) ban thước kinh đo ruộng cho trong ngoài. Thước kinh do triều Lê cũ chế ra ban hành đã lâu, dân gian vẫn thường dùng. Năm Gia Long thứ 5 (1806) mới dùng thước trung bình, chế hơi dài hơn, bởi thế đo ruộng mẫu số sai nhau nhiều. Vua sai hỏi tìm được thước kinh cũ. Lấy được ở dân xã Cổ Linh huyện Gia Lâm, bèn theo cách thức ấy lấy đồng (nặng 1 cân 12 lạng) mà làm ban cho các thành dinh trấn. Những ruộng đất công tư từ trước đã dùng thước trung bình mà khám đạc, thì làm sổ để đó mà theo. Từ nay nếu có việc tranh địa giới hay tố cáo ẩn lậu và báo xin khai khẩn thì dùng thước kinh để đo”. Như vậy, từ năm 1810 trở về sau, cây thước đo ruộng của triều Nguyễn chính là cây Điền xích của triều Lê; giá trị của nó được xác định bằng 47cm (lúc này, 1 mẫu ta ruộng đất được tính bằng một diện tích hình vuông, mỗi cạnh là 150 thước, tức bằng 4.970m2). Việc áp dụng cây thước này trên toàn quốc kéo dài đến năm 1867 thì giới hạn lại trong khu vực Bắc Kỳ và Trung Kỳ vì Nam Kỳ đã bị thực dân Pháp chiếm đóng và áp dụng theo hệ thước đo của người Pháp, tức hệ thước mét. Đến năm 1898, cây thước trên chỉ còn áp dụng tại khu vực Trung Kỳ do tại Bắc Kỳ đã áp dụng một hệ thước có giá trị nhỏ hơn. Sở dĩ chúng ta biết được điều này vì trong Sử cũng ghi rõ, vào ngày 2 tháng 6 năm 1897, Toàn quyền Pháp Paul Doumer đã ra một nghị định quy định: “Kể từ ngày 1/1/1898, ở Bắc Kỳ, 1 thước ta có độ dài bằng 0,4 mét (tức sụt hơn trước 0,07 mét)”. Theo tác giả cuốn “Việt Nam những sự kiện lịch sử” thì đây thực chất là một thủ đoạn nham hiểm của thực dân Pháp nhằm tăng diện tích ruộng đất lên một cách giả tạo, mục đích là để tăng ngân sách từ việc đánh thuế vào người nông dân. Bởi từ thời điểm này trở đi, 1 mẫu ta áp dụng ở Bắc Kỳ chỉ còn bằng 3.600 m2. Còn ở Trung Kỳ, cây thước Điền xích vẫn giữ nguyên giá trị độ dài là 47cm đến khi nhà Nguyễn cáo chung, thậm chí đến tận ngày nay một số người vẫn quen “tư duy” bằng cây thước này. Có một trường hợp rất thú vị có thể dẫn ra ở đây là tại đình làng Văn Xá, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế, để “cố định hóa” cây Điền xích và để không ai có thể thay đổi được, dân làng Văn Xá đã đem khắc nguyên giá trị của cây Điền xích lên cột đình làng. Qua bao nhiêu lần sửa sang tu bổ, cây thước này vẫn không hề suy suyễn, giá trị của nó vẫn là 47cm! Hệ thước mộc - hay thước ta: Đây là loại thước khá phức tạp bởi bao gồm nhiều hệ khác nhau, cụ thể gồm 3 hệ chính: +Hệ thước đo độ dài. +Hệ thước kỹ thuật hay thước nghề +Hệ thước tín ngưỡng hay thước Lỗ Ban, thước Chu Nguyên. Thước đo độ dài tức cây thước đo chiều dài của cột, kèo, gian, chái, đo chiều dài đường đi hay khoảng cách giữa các khu vực. Đây là cây thước phổ biến nhất nên được gọi là thước Kinh. Thước Kinh dưới thời Nguyễn trong giai đoạn đầu có giá trị trong khoảng 42,4cm - 42,5cm. Tuy nhiên, kể từ ngày 1/1/1898, theo Nghị định của Toàn quyền Paul Doumer, cây thước này đã bị “hợp nhất” với cây thước đo ruộng và đều gọi chung là Thước ta, với giá trị là 40cm. Cây thước hiện lưu trữ tại Bảo tàng Mỹ thuật được làm sau thời điểm này nên một Kinh Xích (thước Kinh) của nó có giá trị là 40cm. Hệ thước kỹ thuật hay thước nghề thì có nhiều loại: thước Đinh, thước Sàm, thước Vuông, thước Nách... Nhìn chung đây đều là những loại thước phục vụ cho người thợ mộc trong quá trình thao tác kỹ thuật. Các loại Thước nghề thường khắc kèm giá trị của cây thước Kinh để tiện dụng cho người thợ. Hệ thước tín ngưỡng hay thước Lỗ Ban, thước Chu Nguyên thì hết sức phức tạp bởi có rất nhiều loại với quan niệm và cách sử dụng khác nhau. Lỗ Ban là tên một người thợ mộc lừng danh của Trung Hoa cổ đại, tương truyền là người phát minh ra cưa, đục và các dụng cụ của nghề mộc. Ông được tôn làm Tổ của ngành mộc Trung Quốc. Thước Lỗ Ban tương truyền là do ông sáng chế, nó còn có các tên gọi khác như Môn xích, Bát tự xích. Đây là loại thước người thợ mộc thời xưa dùng để đo kích thước nhà cửa, phòng ốc, đình viện, giường phòng và các loại khí cụ. Theo sách Trung Quốc cổ đại kiến trúc từ điển của Sở Nghiên cứu văn vật Bắc Kinh, hiện nay tại Bảo tàng Cố cung Bắc Kinh vẫn còn 1 cây Môn Xích, được xem là cây thước chân truyền của đời xưa. Thước dài 46cm, rộng 5,5cm, dày 1,36cm. Hai mặt lớn của thước đều chia làm 8 trực. Một mặt, giữa các trực khắc các chữ “Tài Đại Tinh, Bệnh Thổ Tinh, Li Thổ Tinh, Nghĩa Thủy Tinh, Quan Kim Tinh, Chấp Hỏa Tinh, Hại Hỏa Tinh, Cát Kim Tinh”, 2 bên lại khắc các câu về điều tốt xấu (cát, hung). Mặt kia, giữa 8 trực khắc các chữ: “Quý Nhân Tinh, Thiên Hội Tinh, Tể Tướng Tinh. v.v... Mỗi trực lớn, ở hai bên lại chia khắc 5 trực nhỏ, phân ra khắc các chữ “Quý Nhân”, “Phát Tài”, hoặc Tà Yêu, Hội Hại.v.v... (6) Nhìn chung trong thời cổ, ở Trung Quốc và các nước ảnh hưởng văn hóa Hán, thước Lỗ Ban được sử dụng rất phổ biến và có nhiều biến dạng. Hiện nay có 2 loại thước Lỗ Ban chính, lưu truyền không chỉ ở nước ta mà còn ở cả Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông là: thước trực 8 (Bát môn xích) và thước trực 10 (Thập môn xích) với giá trị rất khác nhau. Chúng ta có thể dễ dàng tìm thấy cả 2 loại thước này cùng in trên cây thước sắt cuốn do Đài Loan sản xuất (thường in kèm trong thước sắt 7,5m), bán khá phổ biến tại trên thị trường. Tuy nhiên trên thực tế tại nước ta, thước Lỗ Ban có nhiều biến thể rất phong phú. Cùng là loại Bát môn xích nhưng có cây thước giá trị là 43,9cm, có cây dài đến 56cm (thước Chu Nguyên xích tại Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế), cũng có cây chỉ dài 28,4cm... nên thật khó có kết luận chung về loại thước này! Trên đây chỉ là một số ý kiến mang tính chất “đặt vấn đề” về hệ thước đo truyền thống của dân tộc. Chúng tôi rất mong vấn đề này sẽ được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và thảo luận kỹ càng. http://khoahocphotho...nguoi-viet.html
-
3 câu chuyện tình ầm ỹ của sao "Tây Du Ký" Họ đã "thắng lớn" khi vừa có vai diễn để đời vừa tìm được một nửa của mình. Tôn Ngộ Không – Lục Tiểu Linh Đồng lấy công chúa Thiên Trúc Có lẽ Lục Tiểu Linh Đồng là người “thắng lợi nhất” trong êkíp làm phim Tây Du Ký 1986. Bên cạnh sự thành công xuất sắc trong vai diễn kinh điển Tôn Ngộ Không, diễn viên nổi tiếng này còn tìm được “ý trung nhân” - người vợ rất xinh đẹp của mình. Lục Tiểu Linh Đồng và vợ Vợ của Lục Tiểu Linh Đồng chính là Vu Hồng, thư ký trường quay kiêm diễn viên phụ trong hai tập phim Quét tháp biện kỳ oan và Thiên Trúc thu Ngọc thử. Trong các tập phim này, Vu Hồng lần lượt đảm nhiệm vai diễn Sứ giả nước ngoài và Hoàng hậu Thiên Trúc. Chuyện tình của Tôn Ngộ Không và cô nàng công chúa Thiên Trúc một thời gian dài khiến dư luận hâm mộ. Cả hai kết hôn khi Lục Tiểu Linh Đồng mới 24 tuổi. Họ cũng là cặp đôi nghệ sỹ hạnh phúc bền chặt trong làng giải trí hiện nay. Quốc vương Nữ Quốc và Đường Tăng Từ Thiếu Hoa: Mối duyên dang dở 20 năm Trên rất nhiều các diễn đàn mạng, khi nói về Đường Tăng và Nữ vương Tây Lương nữ quốc (Từ Thiếu Hoa và Chu Lâm ngoài đời) ai cũng đều xót xa cho một chuyện tình chưa bắt đầu đã kịp kết thúc. Đường Tăng và Chu Lâm trong phim Chu Lâm “cảm nắng” Đường Tăng ngay khi cô gặp anh trên trường quay. Cảnh phim của cặp đôi này trong phim được cho là quá thuyết phục do diễn tả đúng cảm xúc thật của cả hai. Sau khi Tây Du Ký kết thúc, Chu Lâm đã bước qua tuổi 50. Và ai cũng biết, bao nhiêu năm qua, dù có nhiều người đeo đuổi, nhưng Chu Lâm vẫn sống một mình. Cô thừa nhận từng có tình cảm với Từ Thiếu Hoa. Nhưng rất tiếc, khi đó Từ Thiếu Hoa đã có vợ nên duyên tình của hai người chỉ là duyên gặp gỡ mà thôi. Cách đây không lâu, khi đoàn làm phim Tây Du Ký tổ chức gặp gỡ sau 20 năm, câu đầu tiên khi Chu Lâm trả lời phỏng vấn đó là: "Hôm nay gặp lại đoàn làm phim, ánh mắt tôi chỉ muốn tìm lại một người. Cách biệt 20 năm, không biết Ngự đệ ca ca có khỏe hay không?”. Một số nguồn tin còn cho hay, do quá nhập vai trong tác phẩm kinh điển và nhớ tới Chu Lâm, Từ Thiếu Hoa sau đó còn ăn chay và quy y cửa Phật. Trì Trọng Thoại "lấy được vợ xấu" nhờ Tây Du Ký Nổi tiếng nhờ vào vai Đường Tăng (khi Từ Thiếu hoa đột ngột bỏ vai diễn), Trì Trọng Thoại đã lọt vào mắt xanh của một trong những người phụ nữ giàu nhất Trung Quốc – Trần Lệ Hoa. Trì Trọng Thoại kết hôn với Trần Lệ Hoa trong sự tiếc nuối của nhiều người. Có người chê rằng anh tham vàng tham của nên đã lấy cả người phụ nữ già xấu. Có người thì bài xích cặp đôi lệch khó lâu dài. Trì Trọng Thoại và người vợ không phải là mỹ nhân Thế nhưng, thực tế sau hơn 21 năm, cả hai vẫn sống rất hạnh phúc. Cặp đôi giờ đã có một cháu trai và hai cháu gái. Khi nói về ông xã của mình, bà Trần Lệ Hoa thường tươi cười: “Nhờ Tây Du Ký tôi mới gặp và yêu Trì Trọng Thoại. Và đó là người đàn ông tuyệt vời của đời tôi”. nguồn:http://xahoi.com.vn/giai-tri/
-
Đám cưới thú vị của 'Tôn Ngộ Không' Lễ cưới chỉ có mình cô dâu, đôi vợ chồng mới cưới gọi điện thoại quốc tế cho nhau trong đêm tân hôn. Phim truyền hình Tây Du Ký 1986 không chỉ giúp Lục Tiểu Linh Đồng xây dựng được vai diễn kinh điển để đời mà còn giúp "Tôn Ngộ Không" tìm được người bạn đời xinh đẹp nết na, trở thành người "được hời" nhất đoàn phim. Vợ của Lục Tiểu Linh Đồng từng là thư ký trường quay Tây Du Ký - Vu Hồng, hơn nữa còn từng đóng 2 vai nhỏ trong phim là quan sử tiết ngoại quốc ở tập Quét sạch bảo tháp - Giải luôn oan nghiệt và vai hoàng hậu trong tập Thu phục thỏ ngọc ở Thiên Trúc. Lục Tiểu Linh Đồng và Vu Hồng trên phim trường Tây Du Ký, tập Thu phục thỏ ngọc ở Thiên Trúc. Mới đầu, Lục Tiểu Linh Đồng không "lọt vào mắt xanh" của Vu Hồng, sau do tiếp xúc nhiều trong công việc, "Tôn Ngộ Không" lại thường xuyên chủ động tìm cô thư ký trường quay trò chuyện tán gẫu nên mối quan hệ giữa hai người dần trở nên thân thiết. Đáng tiếc, đoàn phim lại có lệnh cấm yêu đương, Lục Tiểu Linh Đồng đành phải "hoạt động bí mật", khi ấy nam diễn viên đã 23 - 24 tuổi, quay phim mất 6 năm trời, nếu mãi không yêu được ai thì cũng gay go, thế là Lục Tiểu Linh Đồng mới quyết phá quy định của đoàn phim. Hè năm 1985, khi đang quay một cảnh trong Phong quan Bật mã ôn, "Tôn Ngộ Không" bị tai nạn rơi từ trên cao xuống, bị thương nặng phải nằm viện 3 tháng. Vu Hồng trong lòng lo lắng, không ngại chuyện tình cảm bị lộ mà thường xuyên đến thăm nom, chăm sóc tận tình. Cũng may, đạo diễn Dương Khiết khi biết chuyện chẳng những không trách mắng mà còn ủng hộ đôi tình nhân. Vu Hồng là người Bắc Kinh, sinh ra trong một gia đình quân nhân, hiện là phó đạo diễn Trung tâm sản xuất phim truyền hình Trung Quốc. Đám cưới của Lục Tiểu Linh Đồng và Vu Hồng diễn ra vào ngày 12/6/1988, cũng là ngày diễn ra lễ trao giải phim truyền hình Kim Ưng lần thứ 6, Lục Tiểu Linh Đồng vinh dự nhận được giải Nam chính xuất sắc nhất. Thế nhưng, dịp này lại là lúc Lục Tiểu Linh Đồng cùng đoàn phim phải đến Singapore chạy show, thế nên nam diễn viên vừa không thể đến nhận giải, vừa không thể về Bắc Kinh tổ chức hôn lễ. Cuối cùng, đôi vợ chồng sắp cưới quyết định ngày thành hôn vẫn giữ nguyên không đổi. Ngày hôm ấy, trên sân khấu Singapore, "Sa Tăng" Diêm Hoài Lễ đã công bố tin vui của "đại sư huynh" khiến khán giả kinh ngạc, tin "Tôn Ngộ Không" lấy vợ cũng đồng thời được thông báo trong lễ trao giải Kim Ưng. Hôn lễ đầy bất ngờ và kỳ lạ của Lục Tiểu Linh Đồng nhận được nhiều lời chúc mừng của bạn bè và khán giả. Điều đáng tiếc là đêm tân hôn của hai người cũng có phòng cưới nhưng lại kết nối với nhau bởi cuộc gọi đường dài quốc tế. Lục Tiểu Linh Đồng cho biết: "Vì chúng tôi còn chưa làm đám cưới nên tôi vẫn thấy mình nợ cô ấy, có lẽ đợi đến khi nào kỉ niệm đám cưới vàng thì tổ chức bù vậy". Tháng 11/1990, Lục Tiểu Linh Đồng đón con gái đầu lòng có đôi mắt linh lợi như "Tôn Ngộ Không" và ngũ quan đoan chính giống mẹ. Cuộc sống gia đình hạnh phúc của "Tôn Ngộ Không". Lục Tiểu Linh Đồng và vợ ở bên nhau sắp tròn 25 năm mà vẫn lãng mạn như thuở nào. Lễ tình nhân năm 2004, Vu Hồng đã cố chịu đựng cơn đau đột ngột ở thắt lưng để đi mua tặng ông xã một chú khỉ vàng mà trước đó Lục Tiểu Linh Đồng nhắm trúng nhưng không nỡ mua. Chung sống hơn 20 năm, Lục Tiểu Linh Đồng tổng kết cuộc sống hôn nhân của hai người rằng: "Nếu tôi là một con diều thì cô ấy chính là người thả diều. Có lúc cô ấy thả tay một chút cho tôi bay lên cao, có lúc cô ấy lại thu dây lại. Tôi nghĩ chính điều đó mới có thể giúp tình cảm của hai người mãi mãi buộc chặt với nhau". Tôn Ngộ Không trên màn ảnh có 72 phép thần thông biến hóa, nhưng ngoài đời Lục Tiểu Linh Đồng lại tự nhận mình là "kẻ ngốc", mua quần không biết số đo, gặp tình huống khẩn cấp không biết gọi số nào, ngay cả bữa cơm cũng không nấu được cho vợ, tất cả việc nhà đều dựa vào Vu Hồng chống đỡ. Tuy vậy, Lục Tiểu Linh Đồng rất nỗ lực phấn đấu cho sự nghiệp để xây dựng cuộc sống mơ ước là cùng vợ đi du lịch vòng quanh thế giới. Duy Tại, Ảnh: baidu http://ione.vnexpress.net/tin-tuc/showbiz/star/dam-cuoi-thu-vi-cua-ton-ngo-khong-2804190.html
-
Xin gửi lời chia buồn cùng gia đình thành viên Jeta1080 Nam mô Tiếp dẫn Đạo sư Ai Đà Phật, Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát, Nam mô Quán Thấ Âm Bồ Tát Ma Ha Tát Cầu xin cho linh hồn Jeta1080 Lê Thị Thanh Huyền sớm siêu thoát.
-
Áo dài xưa và nay - Những ngộ nhận Cập nhật lúc 15-05-2013 23:29:39 (GMT+1) Năm 2006, sau khi đọc trong Thế Kỷ 21 (số 201 & 202) loạt bài khẳng định ông Cát Tường – Lemur (1911- 46) là “cha đẻ ra chiếc áo dài hiện nay”, “chính ông là người đầu tiên đã biến chiếc áo tứ thân thành áo hai vạt” và “trước đó phụ nữ Việt Nam đều mặc áo tứ thân”… tôi sững sờ. Họa sĩ Cát Tường có phải là cha đẻ ra chiếc áo dài hiện đại? Năm 2006, sau khi đọc trong Thế Kỷ 21 (số 201 & 202) loạt bài khẳng định ông Cát Tường – Lemur (1911- 46) là “cha đẻ ra chiếc áo dài hiện nay”, “chính ông là người đầu tiên đã biến chiếc áo tứ thân thành áo hai vạt” và “trước đó phụ nữ Việt Nam đều mặc áo tứ thân”… tôi sững sờ. Rõ ràng mẹ tôi (sinh năm 1900) và bà ngoại, bà nội tôi đều chưa bao giờ xỏ tay vào chiếc áo tứ thân, toàn mặc áo hai vạt, mà mãi đến 1934 ông Cát Tường mới đưa ra “bản tuyên ngôn” về vấn đề cải cách y phục, nói rõ quan niệm căn bản của ông trong báo Phong Hóa. Ngoài ra, trong tay tôi ngay lúc ấy còn có mấy bằng chứng cho thấy áo dài hai vạt đã xuất hiện từ trước năm 1934: - Ảnh năm 1922 của Busy, đen trắng, chụp một thiếu nữ đóng vai quân cờ người ở vùng phụ cận Hà Nội (tôi đã cho in lại trong bài “Tết Nguyên Đán và Lễ Nghênh Xuân” , “Lối Xưa Xe Ngựa…”, tập II, 2002). Thiếu nữ mặc áo dài hai vạt không nối sống, cổ áo không gài khuy, quần đen; - Ảnh khoảng 1915-20, chụp bẩy thiếu nữ cũng đóng vai quân cờ người tại vùng ngoại ô Hà Nội, mặc áo hai vạt mầu hồng, cổ áo không gài khuy, vấn khăn xanh lam hoặc xanh nõn chuối, quần đen. Đấy là những chiếc ảnh mầu đầu tiên trên thế giới, của A. Kahn; - Tranh của bà de Bassilan vẽ một phụ nữ miền Nam mặc áo hai vạt trông rõ cả đường khâu nối hai thân ở chính giữa vạt trước, in kèm bài “ Des habitants de la Cochinchine” viết ngày 8/1/1859, không đề tên tác giả, được in lại trong L’Indochine, Illustration. Như vậy đủ chứng tỏ trước ông Cát Tường phụ nữ Việt Nam không phải ai cũng mặc áo tứ thân và người biến cái áo tứ thân ra áo hai vạt không phải là ông Cát Tường. Vậy ông Cát Tường đã đem lại những gì cho chiếc áo dài để được hầu hết những người tôn vinh áo dài khẳng định ông chính là “ cha đẻ” ra chiếc áo dài hiện đại? Trước hết chúng ta cần tìm hiểu y phục phụ nữ Việt Nam thời xưa qua sử sách. I. Sơ lược các kiểu y phục trước áo Lemur Không ai biết áo dài xuất hiện từ bao giờ và những chiếc áo dài đầu tiên hình dáng ra sao. Có truyền thuyết nói “Khi hai Bà Trưng ra trận đã cưỡi voi, mặc áo hai tà giáp vàng, che lọng vàng, trang sức thật lộng lẫy…” Nhưng trong Việt Sử Tiêu Án, Ngô Thì Sĩ chỉ viết “Khi Bà Trắc ra quân, chưa hết tang chồng, mặc quần áo đẹp, các tướng thắc mắc, bà trả lời: ‘Việc binh phải tòng quyền, nếu giữ lễ khiến dung nhan xấu xí là tự làm giảm nhuệ khí nên ta mặc đẹp để làm cho thế quân hùng tráng, lũ kia thấy thế tâm động, nhụt bớt chí khí tranh đấu thì ta dễ có phần thắng.’” Không có câu nào nhắc tới áo vàng, lọng vàng. Có lẽ người đời sau nghĩ là vua tất phải mặc áo vàng. Song trong Lịch Triều Hiến Chương – Quan Chức Chí (tr 103) Phan Huy Chú lại viết: “Từ đời Lý, Trần về trước, mũ áo của vua thế nào không thể khảo cứu được. Còn như sắc áo thì hình như trước không có quy chế nhất định. Lê Đại Hành (980-1005) dùng thứ vóc đỏ, đến Lý Cao Tông (1176-1210) mới cấm nhân dân trong nước không được mặc áo sắc vàng, thế thì hoàng bào trước kia chưa phải là đồ dùng riêng của vua chúa.” Huống chi, nếu tôi nhớ không lầm, thì ở Trung quốc mãi đến đời Tùy, thế kỷ VI, mới ấn định mầu vàng dành riêng cho vua dùng mà Hai Bà đã mẩt từ thế kỷ I. Lại có người cho áo tứ thân có từ đời nhà Lý, nhưng không đưa ra bằng chứng. Đến mũ áo vua chúa đời Lý mà Phan Huy Chú còn không tra cứu nổi thì làm thế nào biết dược y phục của dân đen? Đời xưa viết sử chỉ chú trọng đến vua chúa, các danh nhân và những biến cố quan trọng, không mấy ai lưu tâm đến y phục nhân dân. Thế kỷ 17 – những chi tiết ghi chép trong sách sử xưa nhất tìm được về y phục thường dân là từ thế kỷ 17 * Áo mớ ba, mớ bẩy.Thuở nhỏ tôi từng nghe nhắc đến áo mớ ba, mớ bẩy song chỉ được thấy mẹ tôi mặc áo mớ đôi hoặc mớ ba, chưa bao giờ trông thấy áo mớ bẩy. Đó là những chiếc áo dài mặc lồng vào nhau, áo ngoài thường mầu sẫm như nâu, đen, có thể là hàng trơn hay dệt hoa bóng trên nền mờ hoặc ngược lại, những chiếc áo mặc trong toàn mầu tươi vui như hồ thủy, hồng phấn, hoàng yến… Phong tục muốn dân chúng phải tỏ ra khiêm tốn trong cách ăn mặc, áo ngoài phải dùng những mầu nhã nhặn, không được khoe khoang, lộ liễu, áo mầu lòe loẹt thì phải giấu bên trong. Sau này, tình cờ tôi đọc Relation de la nouvelle mission des Pères de la Compagnie de Jésus au Royaume de la Cochinchine (1631) của Giáo sĩ C. Borri mô tả y phục phụ nữ miền Nam gồm nhiều áo khác mầu lồng vào nhau nên đoán có lẽ chính là loại áo mớ ba, mớ bẩy. Tuy vậy, có những chi tiết khiến tôi ngờ ngợ không chắc là áo dài, không rõ vì tác giả thiếu minh bạch hay người dịch sang tiếng Pháp không hiểu rõ tiếng Ý nên đã dịch sai bậy: “Y phục phụ nữ có lẽ nhã nhặn, kín đáo nhất so với (y phục) toàn thể Ấn độ vì nó không để hở một chỗ nào trên thân thể, ngay cả những khi trời nóng bức nhất. Họ mặc có đến năm, sáu lớp áo chồng lên nhau, mỗi cái một mầu. Cái ngoài cùng dài chấm đất, kéo lê đi một cách trang trọng, quý phái, không ai có thể trông thấy ngón chân họ. Lớp áo thứ nhì nằm dưới, ngắn hơn lớp trước chừng 4 hay 5 ngón tay (“ngón tay” đo theo chiều ngang), lớp thứ ba lại ngắn hơn lớp thứ nhì, cứ đều đặn như thế… khiến cho tất cả các mầu áo dều được trông thấy. Đây là phần dưới từ bụng trở xuống. Nửa trên là những chiếc áo ngắn ôm thân người, gồm các ô trắng và mầu xen kẽ nhau như bàn cờ, mỗi lớp một mầu khác (1), bên ngoài phủ một thứ hàng mịn và thưa khiến ta có thể dễ dàng trông suốt qua được. Tất cả những mầu sắc hỗn độn ấy tiêu biểu cho mùa xuân tươi thắm, duyên dáng, đồng thời lại cũng rất trang trọng và nhũn nhặn. Nam giới cũng mặc năm, sáu lớp áo dài và rộng bằng lụa mịn đủ các mầu, ống tay dài và rộng (…). Từ thắt lưng trở xuống xung quanh cắt lôi thôi (2) thành thử khi ra đường gập cơn gió nhẹ, tất cả các mầu sắc tung bay, quyện vào nhau trông chẳng khác gì những con công xòe đuôi khoe bộ lông sặc sỡ.” Ngày nay ta còn thấy vết tích kiểu áo này ở những bộ áo tế của nam giới, áo ngoài bằng sa mỏng mầu lam hay đen trông suốt qua thấy rõ chiếc áo lót bằng vải trắng bên trong, và chiếc áo kép (đã có từ trước 1776, theo Lê Quý Đôn), mặt ngoài vẫn mầu đen hay nâu…, áo trong biến thành cái lót (doublure) vẫn dùng những mầu sặc sỡ. * Lê Triều Chiếu Lịnh Thiện Chính chép là năm 1665 có sắc lệnh: “Áo đàn ông thì có thắt lưng và quần có ống chân, áo đàn bà con gái thì không có thắt lưng, quần không có hai ống, từ xưa đến nay vốn đã có cổ tục như thế. Bọn hát xướng ở hý trường thì không theo cấm lệnh này. Ai trái lệnh (…) bắt được quả tang sẽ phạt năm quan cổ tiền, nộp vào công khố.” Tavernier trong Relation nouvelle et singulière du Royaume de Tunquin (1681) tả y phục phụ nữ miền Bắc là “trang trọng và nhã nhặn. Nam nữ mặc tựa như nhau. Áo dài chấm gót, giữa có buộc thắt lưng bằng lụa, xen lẫn kim tuyến và ngân tuyến, mặt trái mặt phải đều đẹp như nhau (…) Họ sản xuất rất nhiều tơ tầm, dân chúng giầu cũng như nghèo đều mặc tơ lụa.” Ông còn vẽ cả tranh minh họa. Tavernier đã đi du lịch nhiều nơi nhưng chưa đặt chân đến Bắc kỳ, những chi tiết viết trong sách dựa vào sự hiểu biết của người em ông đã nhiều phen đến Đàng Ngoài, và những lần ông nói chuyện với người Bắc mà ông gập ở Batavia. Thế kỷ 18 – cũng vì thế nên S. Baron, sinh trưởng ở Kẻ Chợ (Thăng Long), trong Description du Royaume de Tonquin, dịch sang tiếng Pháp năm 1751, tuy công nhận dân Việt thời ấy, giầu hay nghèo, đều mặc tơ lụa vì giá rất rẻ, nhưng chỉ trích Tavernier là viết sai sự thật. Theo Baron thì y phục người Việt là những chiếc áo dài, tựa như áo Trung quốc, hoàn toàn khác với áo Nhật bản. Tranh của Tavernier vẽ cho thấy người Việt có dùng thắt lưng, đó là điều hoàn toàn xa lạ đối với họ. Baron là con lai, mẹ người Việt, tất hiểu rõ phong tục Việt Nam hơn. * Một số người viết về lịch sử áo dài đại khái như sau: “Chúa Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1739-65) được coi là người có công khai sáng và định hình chiếc áo dài Việt Nam… Cho đến thế kỷ 18 người Việt thường hay bắt chước lối ăn mặc của người phương Bắc (Trung quốc)… Để gìn giữ bản sắc văn hóa riêng, Vũ Vương ban hành sắc dụ về ăn mặc, lấy thể chế áo mũ trong Tam Tài Đồ Hội làm kiểu mà tạo ra chiếc áo dài, cho toàn thể dân chúng xứ Đàng Trong theo đó thi hành.” Đại Nam Thực Lục Tiền Biên có chép sắc dụ này: “Thường phục thì đàn ông đàn bà dùng áo cổ đứng, ngắn tay, cửa ống tay rộng hay hẹp tùy tiện. Áo thì hai nách trở xuống phải khâu kín liền, không được xẻ mở. Duy đàn ông không muốn mặc áo cổ tròn, ống tay hẹp cho tiện khi làm việc thì được phép.” Và còn thêm là Lê Quý Đôn, trong Phủ Biên Tạp Lục, chép rằng Chúa Nguyễn Phúc Khoát đã viết những trang sử đầu cho chiếc áo dài như vậy. Do đó có thể khẳng định chiếc áo dài với hình thức cổ truyền, cố định đã ra đời.” Tôi thấy không ổn ở chỗ Chúa Nguyễn muốn giữ “bản sắc văn hóa riêng”, bắt dân cải sửa lối ăn mặc cho khác người Trung quốc mà lại lấy mẫu quần áo từ Tam Tài Đồ Hội của Trung quốc thì không hợp lý. Tôi không còn hai bộ Đại Nam Thực Lục Tiền Biên và Phủ Biên Tạp Lục trong tay nên có nhờ người tìm hộ trong Đại Nam Thực Lục Tiền Biên đoạn nói về sắc dụ của Chúa Nguyễn nhưng không tìm ra. Tôi đến hiệu sách đọc bản dịch khác nhưng cũng không tìm thấy nên chỉ mua Phủ Biên Tạp Lục. Tuy nhiên, tôi lại thấy trong Lịch Sử: Xứ Đàng Trong của Phan Khoang những chi tiết khác hẳn: tr 616-17: Hoàng Ngũ Phúc, năm 1776, sau khi chiếm Thuận Hóa, đã ra lệnh: “Y phục bản quốc vốn có chế độ, địa phương này từ trước cũng tuân theo quốc tục. Nay dẹp yên biên phương, chính trị và phong tục phải được tề nhất. Nếu còn có người mặc quần áo kiểu người Khách thì nên đổi theo thể chế của nước nhà. May y phục thì theo tục nước mà thông dụng vải, lụa, duy có quan chức mới cho dùng xen the, là, trừu, đoạn còn gấm vóc và các thứ hoa rồng phượng đều không được theo thói cũ tiếm dùng. Thường phục thì đàn ông đàn bà dùng áo cổ đứng, ngắn tay, cửa ống tay hẹp hay rộng tùy ý. Áo thì từ hai bên nách trở xuông phải may kín, không cho xẻ hở. Duy đàn ông muốn mặc áo cổ tròn và hẹp tay cho tiện làm việc cũng cho, Lễ phục thì dùng áo cổ đứng tay dài, vải xanh lạt hay vải đen vải trắng tùy nghi. Còn viền cổ hay kết lót thì đều theo như hiểu dụ năm trước mà chế dùng.” tr 615: tương truyền Đào Duy Từ (1572-1634) bầy mưu chống đối họ Trịnh, khuyên chúa Hy Tông bắt dân thay đổi tập tục cho khác dân Bắc như bỏ áo bốn thân, phô bầy yếm, mà mặc áo năm thân gài khuy, bỏ váy mặc quần v.v… Và tác giả cũng cho biết là chép theo Vũ Biên Tạp Lục (Vũ hay Phủ cùng có nghĩa là “ vỗ về” (yên dân). Tôi tìm trong Phủ Biên Tạp Lục, lại thấy có sự bất ngờ khác: tr 241: “Năm Giáp Tý niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 5 (1744), Hiểu Quốc Công Nguyễn Phúc Khoát xưng vương hiệu. Áo mão chế theo sách Tam Tài Đồ Hội (…)” bắt con trai con gái hai xứ Thuận Hóa, Quảng Nam phải đổi cách ăn mặc, dùng áo quần như người Trung quốc, cốt tỏ cho thấy sự thay đổi hẳn lề lối ăn mặc của người xưa. Đàn bà con gái hai xứ phải mặc áo ngắn, chật ống tay như áo của đàn ông (…). Chỉ trong khoảng hơn 30 năm thành thói quen, quên cả phong tục cũ” (tức phong tục miền Bắc). tr 242: “Năm Bính Thân (1776) (3), lập Nha môn Trấn Phủ, quan Hiệp trấn (Lê Quý Đôn) hiểu thị cho dân:”Y phục nước nhà xưa nay vốn đã có chế độ. Địa phương này trước kia đã tuân theo quốc tục (…) chính trị, phong tục phải thống nhất. Những ai hiện nay còn mặc y phục theo người Khách thì phải thay đổi theo quốc tục (…) Áo quần may bằng vải lụa thông thường. Quan chức mới được mặc xen sa, trừu, đoạn (…) Thường phục thì đàn ông đàn bà chỉ mặc áo ngắn tay, cổ đứng, cửa ống tay rộng hay hẹp tùy tiện. Áo thì hai bên nách trở xuống phải khâu liền vào cho kín, không được hở hang. Đàn ông muốn mặc áo cổ tròn và cửa ống tay hẹp để tiện làm việc cũng được phép. Lễ phục phải dùng áo cổ đứng và ống tay dài hoặc dùng thứ may bằng vải mầu xanh chàm, mầu đen hay trắng tùy nghi. Những ai được dùng áo viền cổ và áo kép đều phải tuân theo hiểu thị từ năm trước mà chế dùng.” Sở dĩ Lê Quý Đôn, Trấn thủ Thuận Hóa năm 1776, phải ra hiểu thị này vì dân chúng Thuận Hóa giầu có, bắt chước nhau ăn mặc xa xỉ, dùng các mầu tươi đẹp. tr 13- Trong bài Tựa Phủ Biên Tạp Lục. Lê Quý Đôn cho biết thêm những điều ông đã thực hành khi cai trị Thuận Hóa, đặc biệt về y phục: “Chuyển đổi cách ăn mặc dị dạng cũ để theo phong hóa chung của quốc triều (…) Khoan thứ cho một thời hạn trước khi bắt buộc ai nấy cùng phải thay đổi hẳn kiểu ăn mặc cũ.” Tôi tin Lê Quý Đôn hơn vì không những ông là người đương thời, người trong cuộc, mà các chi tiết đưa ra có đầu có cuối: vì Chúa Nguyễn bắt dân ăn mặc theo Trung quốc (1744) nên hơn 30 năm sau (1776) khi Lê Quý Đôn vào trấn thủ Thuận hóa mới cải sửa bắt dân trở lại quốc phục. Hoàng Ngũ Phúc là võ tướng chỉ đánh dẹp, việc cai trị là phận sự của quan văn. * Louis-Gabriel MULLET DES ESSARTS tả trong Voyages en Cochinchine 1787-1789: “Áo của phụ nữ xẻ đằng trước từ trên xuống dưới, bắt tréo trước ngực và để lộ chiếc quần lụa. Tôi không dám chắc là họ không có giầy nhưng tất cả những người tôi gập đều đi chân đất, đàn ông cũng như đàn bà.” Thế kỷ 19 * 1828 Vua Minh Mệnh xuống chiếu bắt phụ nữ bỏ váy mặc quần, đã làm đề tài cho bốn câu thỏ giễu cợt ai cũng biết: Tháng tám có chiếu vua ra: Cấm quần không đáy, người ta hãi hùng. Không đi thì chợ không đông, Đi thì bóc lột quần chồng sao đang? Rành rành “chiếu vua” như thế mà cũng còn có người dậy học trò là lệnh này do thực dân Pháp ban hành! * Michel Đức Chaigneau là con lai, mẹ người Việt, cha là một trong hai người Pháp làm quan với nhà Nguyễn thời Gia Long, Minh Mệnh [Philippe Vanier tên tiếng Việt là Nguyễn Văn Chấn (1762-1842), được Vua Gia Long trao quyền chỉ huy tàu chiến Đồng Nai, Bồng Thước, Phi Phụng. Ông Vanier sau đó được thăng chức Khâm sai Chưởng cơ, tước Chấn Oai hầu [quan võ, Tòng nhị phẩm], và trở về Pháp vào năm 1824. (Nguyễn Công Tánh, Việt sử Tân khảo, trang 953. 2003). Philippe Vanier tên tiếng Việt là Nguyễn Văn Chấn (1762-1842), được Vua Gia Long trao quyền chỉ huy tàu chiến Đồng Nai, Bồng Thước, Phi Phụng. Ông Vanier sau đó được thăng chức Khâm sai Chưởng cơ, tước Chấn Oai hầu [quan võ, Tòng nhị phẩm], và trở về Pháp vào năm 1824. (Nguyễn Công Tánh, Việt sử Tân khảo, trang 953. 2003) – DCVOnline]. Sinh trưởng ở Phú Xuân, Chaigneau Đức viết trong Souvenirs de Huê khá tỉ mỉ về y phục phụ nữ Miche Đức Vanier. Nguồn: Jacques-Philippe Potteau chụp năm 1863 nhân dịp Đoàn sứ giả Việt Nam sang Paris. “Vợ những người buôn bán hay công chức nhỏ thì mặc một áo vải ngắn, mầu đen hay chocolat, quần lụa đen hay vải trắng. Dân chúng, thợ thuyền giới hạ lưu, đàn ông như đàn bà, ăn mặc rât tồi tệ. Đàn ông chỉ đánh một cái quần vải trắng hay mầu cháo lòng, dài tới đầu gối, buộc ngang lưng bằng một cái giải rút dài, buông thõng hai đầu ở trước bụng… Có người mặc áo vải ngắn mầu trắng hay nâu, thường là rách rưới, vá víu, dài chưa tới đầu gối, để lộ ống chân rám nắng. Phụ nữ ăn mặc cũng tựa như thế, chỉ khác áo dài hơn, ống tay áo rộng, quần và nón rộng hơn. Từng lớp trưởng giả sang trọng thì mặc áo mớ đôi bằng tơ lụa trông suốt qua được, quần lụa đến bụng chân.” * Thái Đình Lan (1801-1859), người Đài Loan, năm 1835 đi thi Hương rồi về bằng đường thủy, gập bão tố, trôi dạt tới Quảng Ngãi, năm sau mới theo đường bộ trờ về. Đi từ mùa thu năm trước đến mùa hè năm sau mới về đến Phúc Kiến, qua 14 tỉnh nước An Nam như Phú Xuân, Nghệ An, Thanh Hóa, Thường Tín, Lạng Sơn, Thái Bình… qua Trung quốc rồi mới về được quê nhà. Ông viết quyển Hải Nam Tạp Trứ, ghi chép những điều mắt thấy tai nghe ở nước Nam. Về y phục ông cho biết: tr 171: “Có hai quan chức đến áp mạn thuyền chúng tôi (để kiểm tra). Họ đều chít khăn lụa đen, mặc áo tay hẹp, quần lụa điều, đi chân trần (các quan Việt Nam đi đâu đều đi chân đất), áo mặc không phân biệt nóng lạnh, ngay giữa mùa đông cũng mặc áo quần lụa mỏng. Người quyền quý phần nhiều dùng hai mầu xanh lam và đen; khăn chít đầu cũng thế, quần thì đều mặc quần lụa điều.” tr 243: “Đàn bà ra ngoài buôn bán, để búi tó, chân đất, dùng vải đũi vấn quanh đầu, đội nón bằng đấu, mặc áo lụa đỏ thẫm, ống tay áo hẹp, áo dài chấm đất, không mặc váy, không thoa son phấn, tay đeo chuỗi ngọc, hạt mã não hoặc vòng đồng.” * Áo giao lĩnh – Chưa rõ xuất hiện từ bao giờ, tôi tạm xếp vào thế kỷ 19 vì được coi là “xưa nhất”, đã ra đời trước áo tứ thân, tuy không ai đưa ra bằng chứng cụ thể. Áo giao lĩnh giống áo tứ thân, chỉ khác hai vạt đằng trước buông thõng, giao nhau chứ không buộc vào nhau ở trước bụng. Có lẽ người ta thấy áo giao lĩnh “lụng thụng”, bất tiện cho người làm việc lao động nên đoán sau đó mới chế ra kiểu áo tứ thân gọn ghẽ hơn. Một phụ nữ miền Bắc trong áo tứ thân, thời kỳ 1919 – 1926. Nguồn: OntheNet. * Áo tứ thân – Là kiểu áo có bốn thân, hai thân của vạt sau nối sống theo chiều dọc, hai thân đằng trước buộc vào nhau ở trước bụng, để hở cho thấy yếm bên trong. Thắt lưng các mầu tươi thắm như hồng đào, hồ thủy, hoàng yến, xanh nõn chuối, lá mạ… luồn dưới vạt sau, buộc múi trước bụng rồi thả xuống. Cái thắt lưng này có thể là cái “ ruột tượng” hay “ hầu bao” hình cái ống dài, ngoài tác dung trang trí và giữ áo cho khỏi lòe xòe còn dùng để đựng tiền, bằng cách thắt một nút rồi đút tiền vào, lại thắt một nút khác để giữ cho tiền khỏi tuột ra, buộc vào lưng thì không sợ tiền rơi hay bị kẻ cắp. Có người giảng “tứ thân” tượng trưng cho phụ mẫu đôi bên, hai thân trước buộc vào nhau tượng trưng cho tình nghĩa vợ chồng thắm thiết, quấn quýt lấy nhau… Thú thật bây giờ tôi mới được biết những lời giảng giải uyên bác này. Thoạt nghe cũng thấy hữu lý nhưng tôi ngờ là do người đời sau bịa đặt thêm vào cho văn vẻ chứ không chắc người sáng chế ra áo đã nghĩ thế, trừ phi là bắt chước Trung quốc. Nếu hai thân trước buộc vào nhau tiêu biểu cho tình nghĩa vợ chồng thắm thiết thế thì khi hai vạt áo (giao lĩnh) buông thõng, rời nhau ra, chắc hẳn tượng trưng cho hai vợ chồng đã ly thân? Thế thì áo giao lĩnh phải xuất hiện sau áo tứ thân, không ai ly dị trước khi yêu nhau thắm thiết! * Áo đổi vai – Gần giống áo tứ thân, khác ở chỗ vạt sau không phải chỉ giản dị nối hai thân, mà mỗi thân lại gồm hai mảnh: phía trên vai mỗi thân có chắp một mảnh vải dài độ vài gang tay, nhưng đôi bên so le cái dài, cái ngắn chứ hai mảnh vai trái và vai phải không đều nhau, và thường là vải mầu đậm hơn thân áo, thí dụ áo mầu nâu non thì mảnh trên vai mầu nâu sẫm hay đen. Thời tôi, cũng như áo tứ thân, áo đổi vai đều bằng vải, do người miền quê mặc chứ không phải người thành thị. * Áo ngũ thân – Hai vạt trước và sau đều do hai thân nối sống, dưới vạt cả đằng trước còn một vạt con nhỏ hẹp, dài bằng vạt cả. Ổ lưng chừng vạt con khoảng ngang đầu gối, có đính một cái giải để buộc vào vạt cả, chỗ đường nối sống. Thuở nhỏ tôi đã từng mặc áo “ ngũ thân” mà không biết, chỉ biết gọi là “ áo dài”, mầu áo thế nào cũng không nhớ nhưng nhớ như in là phải “ vất vả” buộc giải vạt con vào vạt cả mỗi khi mặc áo. Có người đoán áo ngũ thân xuất hiện từ thời Gia Long vì mặc nó thì phải mặc với quần chứ không mặc với váy. Nhưng theo Phan Khoang thì loại áo ngũ thân gài khuy mặc vói quần đã do Đào Duy Từ (1572-1634) khuyên Chúa Nguyễn nên bắt dân mặc để khác với tập tục miền Bắc của Chúa Trịnh. Ý nghĩa của áo ngũ thân: bốn thân tượng trưng cho đôi bên phụ mẫu, vạt con tượng trưng cho người mặc áo, năm cái khuy tượng trưng cho ngũ thường của đạo Nho (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín). Sinh cha mẹ (tứ thân) rồi mới sinh con là hợp lý. Có điều chiếc vạt con này về sau bị cắt ngắn đến thắt lưng, rồi bây giờ biến mất chỉ giữ lại cái mép đủ chỗ để đính khuy thì phải giảng ý nghĩa thế nào cho hợp lý? Tôi đề nghị là tại người mặc áo đã ngả theo đạo Phật nên “có cũng như không” mà “không cũng là có”, “sắc sắc không không”. "Các nhà đạo đức thường nói quần áo chỉ là những vật dùng để che mưa nắng, nóng lạnh, ta chẳng nên để ý dến cái sang cái đẹp của nó làm gì (...). Theo ý tôi, quần áo tuy dùng để che thân thể song nó có thể là tấm gương phản chiếu ra ngoài cái trình độ trí thức của một nước. Muốn biết nước nào có tiến bộ, có mỹ thuật hay không, cứ xem y phục của người nước họ cũng đủ hiểu. Y phục của người các nước Âu Mỹ không những rất gọn gàng, hợp với khí hậu xứ họ mà kiểu mẫu lại rất nhiều và rất đẹp. Như thế đủ tỏ rằng họ có một cái trình độ trí thức rất cao, một nền văn minh rất rõ rệt và luôn luôn tiến bộ. Y phục của các bạn gái, tôi xem thấy có nhiều điều bất tiện mà lại không có vẻ chi là mỹ thuật. Tuy rằng vài năm gần đây cũng có một vài phần sửa đổi (...) chẳng qua chỉ ở mấy cái mầu sắc sặc sỡ, mấy thứ hàng lạ nước ngoài (...) còn thì vẫn kiểu áo lòe xòe ấy, vẫn cái quần lụng thụng đen ngòm ấy. Hoặc giả cũng có người ưa mặc quần trắng song tiếc rằng số đó vẫn rất ít (...). Cần sửa đổi dần :Trước hết phải hợp với khí hậu xứ ta, với thời tiết các mùa, với công việc, với khuôn khổ, mực thước của thân hình mỗi bạn. Sau nữa phải gọn gàng, giản dị, mạnh mẽ và có vẻ mỹ thuật và lịch sự (...) cũng phải có tính cách riêng của nước nhà". Đó là phần thuyết lý. Xin sơ lược sau đây những đặc điểm cụ thể của áo dài Lemur : 1- Cổ áo : Cổ bẻ ra theo kiểu tây phương, góc nhọn thì gọi là "cổ lưỡi dao", tròn gọi là "cổ bánh bẻ", cổ khoét hình quả tim, buộc giây..., đều mở ở giữa ngực, duy cổ lọ vai bồng mở ở vai bên phải, gài khuy từ cổ tới vai. Hồi nhỏ, khoảng đầu thập niên '40, tôi đã từng mặc áo cổ lọ vai bồng bằng len đỏ, khuy nhựa của Tây, hình vuông cùng mầu đỏ như áo . 2- Khuy áo bằng nhựa của Tây, hình vuông, tròn, bầu dục... và có hoa nổi hay chìm, đủ các mầu để chọn tùy theo mầu áo. Loại khuy bằng vải tết lại như Trung quốc không dùng nữa nhưng tôi đã từng mặc áo loại khuy này, gài hay tháo rất khó vì vải rít chặt chứ không trơn như khuy nhựa. Khuy nhựa sau bị thay thế khoảng thập niên '50 bằng khuy giả ngọc trai do bà Lê thị Lựu vẽ kiểu. 3- Tay áo - Ông Cát Tường nhận xét là tay áo cổ truyền chật hẹp rất bất tiện mỗi khi co tay, và không hợp với khí hậu nóng bức...Tuy nhiên ông có vẽ một kiểu áo dạ hội tay cắt ngắn ở khoảng giữa cánh tay rồi đeo bao tay (gants) dài đến tận giữa cánh tay. Có người khen là trông "rất sang trọng". Với tư cách là người mặc áo dài tôi cảm thấy thay thế cái tay áo dài bằng cặp gants dài còn nóng bức và bất tiện hơn. 4- Thân áo - Ông Cát Tường cho áo cổ truyền lụng thụng quá, cần phải ôm sát thân người mặc áo thì mới đẹp. Song quần áo không phải chỉ có mục đích che mưa nắng, nóng lạnh và có mỹ thuật như ông nói. Thời xưa, nó còn để che thân, người phụ nữ không được để thân thể lộ liễu cho người ngoài nhìn thấy. Chị cả tôi còn phải nịt ngực, lấy vải quấn quanh ngực mấy vòng, ép xuống cho ngực phẳng lì. Bà Bùi thị Xuân, khi bị Gia Long giam trong ngục trước khi đem hành hình, đã nhờ người mua lụa trắng quấn hết chân tay để khi bị tử hình (voi tung) thân thể có mỗi nơi một mảnh cũng khg bị bộc lộ ( Lemonnier de la Bissachère). Trên thực tế, áo Lemur chỉ ôm hờ thân người mặc chứ không ôm sát, cứ xem ảnh cưới của chính ông Lemur (1936) cũng thấy rõ cả cô dâu lẫn các cô phù dâu đều mặc áo Lemur nhg nó không ôm sát thực sự như áo dài ngày nay, mà chỉ bớt lụng thụng nhờ cắt lượn theo thân hình chứ xếp nếp (plis) không sâu, có khi không có cả plis nữa. Năm 1952, tôi và các bạn vẫn còn mặc áo không chiết plis. Có thể vì ông Cát Tường chỉ vẽ kiểu yếm chứ chưa nghĩ đến vẽ soutien (có người dịch là "nịt ngực" e không đúng vì "nịt" có nghĩa là nén ép xuống trong khi soutien nâng ngực cho cao lên). Từ áo Lemur đến áo dài hiện đại có một khoảng xa cách không kém gì từ áo dài lụng thụng tới áo Lemur. 5- Viền tà - Tà áo cổ truyền phải mất 3 đường khâu và một cái nẹp dài để viền tà cho cứng cát, vạt áo sẽ đứng chứ không cong queo. Ông Cát Tường tung ra lối viền tròn như con giun bằng một thứ hàng và mầu khác hẳn mầu áo, giống kiểu viền quần áo ngủ pyjamas, đỡ tốn công hơn và lạ mắt. Mầu viền tà cũng như mầu khuy giống nhau. Tôi cũng có một chiếc áo mầu vàng chanh, hàng Bombay mỏng và mịn, khuy nhựa hình bầu dục và viền tà cùng mầu xanh lá cây. Áo dài Lemur rất được hoan nghênh, thậm chí có cô (?) Phan thị Nga ở Hội An ca tụng không tiếc lời :" Kiểu quần áo Cát Tường đã làm cho chị em thêm diễm lệ ở nét mặt..." (Ngày Nay, số 13, 1935) tôi bội phục trí tưởng tượng của cô. Chắc là khi "thoa son dồi phấn" kiểu Cát Tường cô sẽ thấy thân hình chị em nở nang, "có những đường cong tuyệt mỹ" hơn ? *Áo Lê Phổ- Áo Lemur tuy được hoan nghênh nhưng cũng bị chê là "lai căng". Theo Wikipedia thì ông Lê Phổ, cũng năm 1934, "đã sửa bớt những nét lai căng, đưa thêm các yếu tố dân tộc từ áo tứ thân, ngũ thân vào, tạo ra một kiểu áo vạt dài cổ kính, ôm sát thân người, trong khi hai vạt dưới được tự do bay lượn, dung hợp hài hòa. Áo dài đã tìm được hình hài chuẩn mực của nó". Như vậy có nghĩa là hai vạt dưới của áo Lemur không được tự do bay lượn ? Nếu không phải thế thì khác ở chỗ nào ? Tôi thấy ảnh cưới ông Cát Tường, rõ ràng hai tà áo phụ nữ đều "tự do bay lượn". Theo Hoàng Huy Giang thì Lê Phổ "bỏ đi những nét Tây phương như không tay, tay phồng, cổ hở, không viền tròn vạt dài v.v... Nhưng đến đầu thập niên '40, chính tôi còn mặc áo cổ lọ vai bồng và tà áo viền tròn. Tóm lại, tôi vẫn chưa rõ sự khác biệt giữa áo Lemur và áo Lê Phổ, chỉ biết gọi theo mọi người là "áo tân thời". Mốt năm 1952, khi tôi sang Pháp, là áo rộng và ngắn đến đầu gối nhưng ngực vẫn xẹp. Mãi khoảng giữa thập niên '50, mới có cô ca sĩ từ Saigon sang Pháp, lên sân khấu mặc áo dài thực sự ôm sát người, ngực nở nhờ có đeo soutien nâng cao lên và áo chiết plis sâu nên bụng thon. Chúng tôi đều suýt soa là đẹp và... bạo ! III - TỪ ÁO LEMUR ĐẾN ÁO DÀI HIỆN ĐẠI (Sau đây phần lớn tôi chép theo người khác vì sống ở Pháp). * Áo dài có thắt lưng.Khi tôi sang Paris được xem bà Anh Trần (sau này làm điêu khắc) mới chế ra kiểu áo dài có thắt lưng sau khi học một lớp dậy cắt quần áo Tây phương. Kiểu áo này không mấy người biết có thể vì không gập cơ hội thuận tiện. * Áo dài kiểu bà Nhu tức bà Trần Lệ Xuân, vợ ông Ngô Đình Nhu. Năm 1958 bà Nhu xuất hiện trước công chúng với chiếc áo dài cổ hình thuyền (bateau) và tay ngắn. Đấy cũng là một cải cách quan trọng đáng kể vì trời nóng bức mặc áo cổ đứng rất khó chịu. * Áo tay giác lăng (raglan) Khoảng thập niên '60, hiệu may Dung Dakao ở Saigon tung ra kiểu áo dài tay giác lăng, ráp tay xéo vai khiến cho chỗ nách không còn những đường nhăn nhúm như trước... hàng may áo dầy nhưng tay với ngực lại bằng hàng mỏng hoặc thân áo và hai tay là hai mầu, nút cài từ cổ xéo xuống ôm sát thân hình người mặc từ nách đến eo. Sau đó còn kiểu mini va maxi raglan nữa. * Áo ba tà. Một số nhà may ở Saigon tung ra vào thập niên '70 kiểu áo ba tà gồm một vạt sau và hai vạt trước với nút gài từ cổ xuống eo mặc với quần ống voi. * 2010 . Việt Nam hiện nay cũng có những nhà thiết kế vẽ các kiểu áo dài "mới" như áo không cổ hoặc mình một thứ hàng, hai tay dùng hàng mỏng trông suốt qua được. Phần nhiều mặc áo trơn hay thêu chứ không dùng áo vẽ, và thêu gần kín ngực không còn chỗ để đeo nữ trang. Cũng có kiểu áo dài chui đầu, không khuy...Quần đồng mầu với áo hay mầu khác hẳn như đỏ, vàng, xanh... KẾT LUẬN Ông Cát Tường - Lemur có nhiều sáng kiến và tài năng, song những cải tiến mà ông đã thực hiện chưa hẳn theo sát "bản tuyên ngôn" năm 1934 của ông và trừ ý kiến áo dài phải ôm sát thân người thì những cải tiến khác của ông không để lại dấu vết gì nữa. Áo hai vạt, quần trắng, áo mầu đều đã xuất hiện từ trước 1934, ông không phải là người đầu tiên đã "biến cái áo từ thân ra áo hai vạt" hiện nay. Cái áo hiện nay có vẻ đẹp riêng của nó nhưng ta cũng không nên quá tôn vinh nó, các nước khác cũng có áo đẹp và nhiều áo đẹp. Áo dài dẹp nhưng chỉ khi đi tha thướt, ung dung chứ đem nó lên sân khấu nhẩy múa, giơ chân lên cao hay chạy nhanh, chân một nơi, áo một nẻo thì không đẹp chút nào. Người ngoại quốc khen áo dài vì thực sự thích nó cũng có và cũng có khi vì họ rất lịch sự, hễ gập là khen bất cứ áo gì mình mặc chứ không chê bao giờ. Ông Cát Tường nói "quần áo là tấm gương phản chiếu trình độ trí thức của một nước. Nước nào có tiến bộ, có mỹ thuật hay không, cứ xem y phục của nước họ cũng đủ hiểu...". Tôi không hoàn toàn đồng ý với ông. Người mặc áo đẹp chưa hẳn đã là người có văn hóa. Tôi nghĩ là ông sống ở thời người Việt đang chán văn minh "cũ rích" cổ truyền và đang ngưỡng mộ văn minh mới lạ của Tây phương nên ông chịu ảnh hưởng của thời đại và đôi khi quá thán phục nên đi quá đà. Cái "mề đay" nào cũng có mặt phải mặt trái. Nếu ông sống khoảng thập niên '80 ở Pháp ông sẽ thấy giới trẻ đua nhau mặc jean nhưng mua quần mới về lại đem mài, cắt cho rách bươm và giặt đủ mọi cách cho cũ bạc đi mới đem ra mặc. Áo thì lục tìm trên gác xép những áo cũ của cha ông để lại, những cái sơ mi đàn ông vừa dài vừa rộng thùng thình, làm gì có eo có ngực, có những "đường cong tuyệt mỹ" ? Chẳng lẽ nó cũng phản ánh sự tiến bộ, văn minh của Pháp ? Còn "mỹ thuật" ? Ông Cát Tường chê áo Việt Nam lòe xòe, lụng thụng, không "mỹ thuật", nhưng tôi lại thấy áo tứ thân, áo giao lĩnh cũng như áo dài đều đẹp cả, mỗi cái một vẻ. "Nhân tâm tùy thích", khó mà tranh cãi. Tóm lại, ông Cát Tường không phải là người đã biến cái áo tứ thân thành áo hai vạt, ông thực sự có công đóng góp cho áo dài hiện đại song ông chỉ là một mắt xich trong chuỗi dài những người không để lại tên tuổi nhưng cũng góp phần cải sửa, giúp cho cái áo dài mang hình dáng hiện nay. Chúng ta "tri ân" ông nhưng chúng ta cũng không quên những người "vô danh" ấy. CHÚ THÍCH 1- Nguyên văn câu tiếng Pháp :"Pour le corps elles le couvrent de certains corps de côte, fait en échiquier, tous diversifier en couleur...". Câu này không minh bạch, tôi tạm dịch nhưng không ưng ý. 2- Tiếng Pháp :"Ces habits de la ceinture en bas tout autour tailladez et déchiquetez à belles mouchetures. Si bien qu'allant par la ville ils font parades de toutes ces couleurs mêlées ensemble : que si quelque doux ventelet vient...". Câu này rất tối nghĩa nên tôi bỏ không dịch. 3- Phủ Biên Tạp Lục chép là năm Bính Dần (1746), dịch giả đoán là bản sao chép sai nên đã sửa thành năm Bính Thân (1776) hợp lý hơn vì 1776 Lê Quý Đôn mới làm Hiệp trấn Thuận Hóa và nhận xét :"Trong khoảng hơn 30 năm phong tục đã thay đổi..." trỏ thời gian từ khi Chúa Nguyễn Phúc Khoát bắt dân mặc kiểu Trung quốc (1744) đến khi Lê Quý Đôn ra huấn lệnh cải sửa lại,theo quốc phục. Nguồn: Nguyễn Thị Chân Quỳnh/CVCN
-
Ảnh độc về những "cu ly" kéo xe ở VN đầu thế kỷ 19 Thứ Năm, 21/03/2013 16:03 Vào năm 1884, một nhà thầu Pháp cho chế tạo khoảng 50 chiếc xe kéo cho cả miền Bắc. Từ đó chiếc xe kéo đã từ từ trở thành một bộ mặt quen thuộc tại Hà Nội. Người ta thường cho rằng xe kéo đã ra mắt chào đời vào đầu kỷ nguyên Minh Trị của Nhật Bản, năm 1868. Khi những người lớn tuổi được người làm kéo đi như thế trong lúc cần di chuyển. Từ đó, dưới cái tên Rickshaw hay Rickish, nó trở thành một phương tiện lưu thông mà người thực dân Anh ở Hồng Kông rất thích và nó từ từ lan tràn khắp Đông Nam Á tới tận Ấn Độ và vùng biển Ấn Độ Dương. Ở Đông Dương, vài chiếc xe kéo được xuất hiện lần đầu tiên tại Hà Nội năm 1883 do Ông Toàn Quyền Đệ Nhất Bonnal đã cho phép đem từ bên Nhật qua. Gần 15 năm sau Sài Gòn mới biết tới loại xe kéo này, ở đây phương tiện di chuyển duy nhất là chiếc xe ngựa kéo mà người Pháp gọi là Malabar hay Boîte d’allumettes. Vào năm 1884, một nhà thầu Pháp cho chế tạo khoảng 50 chiếc xe kéo cho cả miền Bắc. Từ đó chiếc xe kéo đã từ từ trở thành một bộ mặt quen thuộc trong thành phố Hà Nội. Nó xuất hiện một năm sau chiếc xe hơi Âu Châu đầu tiên và một năm trước xe tramway kéo bằng ngựa. Liền sau đó, một nhân viên thuế vụ từ miền Nam tới đã nghĩ ra thành lập một hãng cho thuê xe kéo. Theo trí nhớ của các người xưa thì chuyện đó là một thành công rực rở, dù mướn giờ hay mướn ngày, cũng phải giữ chổ trước một ngày nếu muốn được chở đi. Ngay cả sau Đệ Nhất Thế Chiến cũng chỉ có khoảng 30 chiếc xe kéo công cộng trong cả thành phố Hà Nội. Chỉ có vài nhân viên Pháp và quan lớn của Hà Nội mới có đủ phương tiện mua riêng một chiếc xe kéo. Đa số người Hà Nội chỉ biết đi bộ, nghĩa là đi chân không, là phương tiện di chuyển tiện nhất. Lúc đó chiếc xe kéo được kéo bởi một người “cu-li” và đôi khi được thêm hai người khác đẩy. Nếu là quan lớn thì thường có người trẻ đi kế bên người phu kéo, tay cầm ống thuốc lào hoặc một khay trầu nếu người ngồi trên xe là phụ nữ. Chiếc xe kéo đầu tiên có bánh xe bằng sắt, cho nên chạy không được yên lắm. Dù vậy phương tiện này biểu hiệu cho sự giàu có và uy quyền của chủ xe. Lúc nào cảnh người phu kéo ông chủ ngồi trên xe đi qua cũng gây ra sự hiếu kỳ cho đám đông. Vào thời đó, tất cả những gì do Tây đem tới đều được dân chúng cho là văn minh. Những cô thiếu nữ Hà Nội không dám ngồi trên xe kéo vì sợ miệng đời chê là Me Tây, có nghĩa là lấy chồng Tây. Với sự tiến bộ, sau đó bánh xe bằng sắt được thay thế bằng bánh xe cao su đặc, tiện nghi hơn cho người ngồi trên xe. Chỉ lúc bấy giờ những cô thiếu nữ Hà Nội mới dám xài xe kéo với bánh xe bằng sắt, còn loại tân tiến với bánh xe bằng cao su thì dành riêng cho người Việt lấy Tây. Và những xe kéo lỗi thời với bánh xe sắt đã từ từ bị đẩy ra vùng ngoại ô Hà Nội.
-
Ngay cả những xe kéo với bánh cao su cũng chia ra làm hai loại, loại bình thường và loại của nhà hành OMIC. Loại này có chỗ ngồi bằng aluminium trắng bóng và có nệm lò xo cũng được bọc vải trắng, dĩ nhiên đi xe loại này thì mắc tiền hơn là đi xe loại thường. Hình ảnh về các quan lại, binh lính, chức dịch… thời đại phong kiến dưới triều đại phong kiến qua góc nhìn của các nhiếp ảnh gia người Pháp khi họ đến Đông Dương trong đó có Việt Nam cho thấy một cái nhìn đầy đủ cho thế hệ chúng ta về một thời kỳ đã kéo dài ở Việt Nam hàng nghìn năm. (Theo Phạm Trọng Lễ). Họ chính là những "người ngựa, ngựa người" như trong một tác phẩm của cố nhà văn Nguyễn Công Hoan từng đau xót ghi lại về thân phận những người phu xe nhọc nhằn. Những chiếc xe kéo ở Hải Phòng. Những người phụ nữ ở Đồ Sơn, Hải Phòng với việc đi phu chở thuê cho các bà đầm, me tây vợ người Pháp. Họ dùng các thanh đòn bằng tre để khiêng như khiêng kiệu. Phục vụ các ông tây bà đầm ngắm cảnh ở Đồ Sơn, Hải Phòng. Những người phụ nữ với nghề phu kiệu ở Đồ Sơn, Hải Phòng. Giây phút nghỉ ngơi của các nữ phu kiệu. Theo Giáo dục Việt Nam
-
KHẢO NGHIỆM TRẦM CHÂM Hôm nọ, đi phong thủy tại Huế, khảo địa lý tại một tư gia, khảo địa trầm châm, tôi chưa thể khẳng định ngay là âm suy hay âm khí giới nhập, nhưng vẫn cảm thấy có cảm giác là lạ. Kỷ niệm Thiên Đồng ở kinh thành Huế Thiên Đồng đang tác nghiệp tại một ngôi nhà ở Huế Tư vấn xong, chuyện vãn với gia chủ, nói về đất đai, gia chủ mới kể rằng: xưa kia khi vào ở dựng mái lợp nhà không để ý chuyện chi. Đến khi xây nhà lần hai, gặp thầy X, thấy ở tại nhà của thầy mà phán chỉ tại đất có 9 vong, 9 cốt còn dưới đất. Gia chủ hốt hoảng vời thầy tới thực địa. Thầy chỉ 9 chỗ, đào lên y như rằng, hài cốt nguyên vẹn. Gia chủ vội vàng cải táng hết ở nghĩa địa, lập am hương hỏa. Tôi nghe mà cũng ...ớn ớn. Vậy là nghiệm thực "trầm châm". Tuy vậy, trầm châm có khi cũng không không hẳn là có vong, đôi khi địa từ trường mạnh, do có kim khí, đá to lâu năm, mạch nước chảy ngầm, nhiễm xạ...Muốn biết sự thể thế nào, cần phải có phương tiện khác hổ trợ hoặc có khả năng khác thẩm định, vd như khả năng thấu thị, mở thiên nhãn... Thiên Đồng Sài Gòn 12/10/2013
-
Bởi là trà… đạo Việt Thưởng trà là một nghệ thuật đòi hỏi sự tinh tế, cầu kỳ và công phu trong từng chi tiết. Đạo của trà Việt nằm ở cái tâm, cái thế của người pha cũng như người thưởng thức… Với mong muốn phục hồi lại nét văn hóa đó, cha con nghệ nhân trà Trường Xuân giới thiệu cùng ẩm khách những nghi lễ uống trà theo truyền thống của người Việt xưa. Người lưu giữ trà đạo Việt Ở Việt Nam, có lẽ người làm trà thì nhiều nhưng nghệ nhân có niềm đam mê, tâm huyết và vốn am hiểu về văn hóa trà như nghệ nhân Trường Xuân thì hiếm thấy. Sinh ra ở làng Ngũ Xã (Ba Đình, Hà Nội), nghệ nhân trà Trường Xuân tên khai sinh là Đỗ Xuân Trường, năm nay đã bước vào cái tuổi bát thập, được biết đến như một nghệ nhân nổi bật, lịch lãm về trà Việt. Ông là đời thứ 5, tiếp nối truyền thống từ trưởng trà đời thứ nhất sống vào đầu thế kỷ XIX, buôn bán và mở tiệm trà tại Hà Thành. Khi tôi đến thăm, ông vừa trải qua trận ốm “thập tử nhất sinh”, mặc dù sức khỏe yếu nhưng ông vẫn nhiệt tình đón tiếp. Ông muốn truyền đạt lại những kinh nghiệm chế biến trà của mình cho con cháu mai sau. Kể từ lúc còn niên thiếu cho tới nay, ông Trường Xuân đã dành gần trọn cuộc đời mình để nghiên cứu về cây trà và nghệ thuật trà Việt Nam. Dấu chân ông đã in trên khắp những vùng trà cả nước, không chỉ thu thập những kinh nghiệm quý báu về cách sao ướp trà, mà còn tìm hiểu tập quán uống trà của từng vùng đất để dựng lên một bức tranh chân thực và đầy đủ về nghệ thuật thưởng thức trà Việt. Nói về trà đạo Việt, ông Trường Xuân cho biết, chỉ một buổi làm sao phân tích cho cùng, mà phải cả cuốn sách, cả hàng chục buổi thuyết trình. Nào là “nhất thủy, nhì trà, tam pha, tứ ấm”, nào là những trà cụ, quy trình nấu nước, chọn trà… Người Việt mình muốn thưởng trà cầu kỳ thì bày đặt nhiều chặng, nhiều nhịp mà chặng nào cũng đạt đến cái chân nghệ thuật, cần bình dị và giản dị đến vô cùng. Có khi, chỉ một bát chè tươi là cái cớ giao duyên với nhau. Người xưa bảo, khi nồi chè đang đun sôi, hãy múc lấy một gáo nước mưa trong lành đổ vào, đó là bí quyết hãm chè, giúp cho nước chè xanh lâu, nhấp vào sẽ ngọt lành và thanh tao. Bí quyết rất dân dã mà hàm chứa một nghệ thuật làm mê say đầu lưỡi, vòm họng, làm mê say lòng người. Ông Trường Xuân nói: “Đừng nghĩ trà đạo Việt là cái gì quá cao siêu, mà đó là đạo tu thân dưỡng tính và khao khát một sự giao hòa. Có “độc ẩm” với tách trà làm người bạn, có “đối ẩm” và “quần ẩm” nhiều người chung quanh thưởng trà, ở đấy trà Việt mang đậm một tâm thức đại đồng”. Con trai nghệ nhân Trường Xuân biểu diễn cách thức pha trà Theo nghệ nhân Trường Xuân: Cuộc đời vốn nhiều dâu bể, cái chính là tâm phải bình an. Thưởng trà là một cách để tĩnh tâm, để thiền (Thiền trà). Mỗi một dân tộc có phong cách thưởng trà riêng. Văn hóa trà Việt là nét văn hóa ẩm thủy độc đáo, sâu sắc được tạo ra từ cách ứng xử của con người Việt có mầm mống triết học, văn học, nghệ thuật thông quan hành động như thực hiện một buổi uống trà có nghi thức phải dựa vào nghi lễ của cha ông. Thưởng thức một chén trà mang phong cách trà Việt là việc mang nhiều ý nghĩa. Màu nước vàng sánh trong xanh, hương trà, hương hoa tự nhiên là hình ảnh Việt Nam với rừng vàng, biển bạc, tài nguyên phong phú. Vị đắng chát gợi lên nỗi vất vả, cần lao của những người làm trà truyền thống bao đời nay. Hậu vị ngọt mát của trà chính là tâm hồn người Việt giàu tình, giàu nghĩa, có thủy chung. Vì vậy mà chén trà cho con người gần điều thiện, xa lánh điều ác, đoàn kết hơn, chia sẻ hơn. Nghệ thuật trà Trường Xuân Đến với quán trà Trường Xuân ở phố Ngô Tất Tố, Hà Nội, ẩm khách sẽ được thưởng thức những chén trà dậy hương do chính tay cha con nghệ nhân Trường Xuân sao tẩm… dưới cái gọi là “hiên trà”. Đó là nơi nhà được xây cất theo lối người Việt xưa, tạo ra một không gian cởi mở, một sự giao thoa thú vị về độ sáng tối, về âm dương, giữa trên – dưới, bên trong – bên ngoài. Vào hiên trà Trường Xuân sẽ nhìn thấy cử chỉ rót nước của cô gái Việt trong quán trà, đưa dòng nước từ miệng ấm lên cao xuống thấp, vừa đẹp vừa để cho trà được lan tỏa hương vị đều khắp trong tách gọi là “cao sơn trường thủy”, rồi bàn tay thon thả nâng mời khách uống theo đúng cách “tam long giá ngọc”, ba ngón tay chụm lại duyên dáng. Nghệ nhân Trường Xuân pha trà Điều làm nên nét đặc sắc của Hiên trà chính là bởi sự đa dạng của hơn 40 loại trà được chia thành ba nhóm chính: Nhóm trà mộc là trà xanh nguyên thủy của các vùng: Tân Cương, Giang Tiên, Khuôn Gà, Phìn Hồ, Đồng Văn, Suối Giàng, Mộc Châu, Thượng Sơn, Lũng Phì, Tà Sùa… được chọn kỹ lưỡng, đánh hương lại theo kinh nghiệm gia truyền; Nhóm trà bổ dưỡng là sự kết hợp giữa trà với những vị thuốc bắc, long nhãn, hạt sen, mật ong, hoa cúc… vừa thơm ngon, vừa bổ. Độc đáo nhất cũng là yếu tố chính làm nên thương hiệu trà Trường Xuân là nhóm trà ướp hương hoa tự nhiên với mùi thơm dịu mát của hoa Bưởi, ngọt ngào của Ngọc Lan, nồng nàn của hoa Nhài, thanh khiết của hoa Sói, hoa Mộc, hoa Sen… Trong Hiên trà, trà Sen được coi là loại sang trọng nhất, nó không chỉ là thứ đồ uống giải khát, mà còn có tác dụng chống ung thư, chống nhiễm phóng xạ, béo phì, tiểu đường… và làm đẹp da. Dòng trà ướp hoa sen Hồ Tây được mọi người ví như là “báu vật” của Hà Nội bởi sự cầu kỳ trong các công đoạn. Trà để ướp hoa Sen được hái từ những cây chè Tuyết Shan cổ thụ vùng núi Hà Giang, cây cao 4-6 m, búp to và dài 6 – 8cm. Ông Trường cho biết: “Búp chè chuẩn một tôm, hai lá” được hái về, cho vào chõ đồ lên như đồ xôi ở nhiệt độ 170 độ C để hủy độ chát của trà, đến khi dẻo thì mang ra vò. Vò xong, rũ tơi cho bay hơi nước, để nguội rồi cho vào máy sấy và sao khô. Sau đó, đổ vào chum đất, ủ trong 3-5 năm cho trà phong hóa bớt chất chát, búp trà tơi xốp sẽ thấm đượm nhiều hương thơm”. Ướp và sấy trà là cả một quy trình nghệ thuật. Trước mùa Sen vài tháng, gia đình nghệ nhân Trường Xuân đã đi tìm mua các đầm sen ở Hồ Tây bởi chất bùn ở đây màu mỡ nên hoa Sen nở rất to và tỏa nhiều hương. Ướp một cân trà phải dùng từ 1.000- 1.200 bông hoa Sen. Trung bình 100 bông Sen Hồ Tây cho khoảng 100g gạo. Gạo Sen được tách ra khỏi những bông hoa hàm tiếu (chớm nở). Nghệ nhân Trường Xuân dùng cái đấu gỗ, ở dưới trải một lớp giấy bản thấm ẩm tốt. Ông rắc một lớp trà mỏng, một lớp gạo sen mỏng cho đến khi hết trà và hết gạo Sen. Thùng gỗ ướp trà tốt nhất sử dụng quả ăn hỏi, được ủ kín tùy theo tiết trời từng hôm, cứ 4- 6 tiếng mở nắp đảo qua một lần cho nhiệt độ giảm đi để gạo Sen không bị ủng. Trà được ủ từ 24 tiếng rồi mang ra sàng bỏ gạo Sen và sấy. Người sấy trà phải làm sao cho nước bay đi nhưng hương Sen còn đọng lại. Quy trình ướp trà lần 2, 3, 4 cho đến khi trà thơm theo yêu cầu thì dừng lại. Với các loại trà khác như trà Nhài, quy trình ướp đơn giản hơn trà Sen. Anh Hoàng Anh Sướng, con trai nghệ nhân Trường Xuân cho hay: “Chúng tôi đang cung cấp cho khách hàng không chỉ những ấm trà, gói trà sản phẩm, mà quan trọng hơn là một phong cách, một văn hóa riêng gọi là Trà đạo Việt. Cha con tôi nguyện đem hết tâm sức, góp phần làm dậy hương trà Việt”. Không cầu kỳ như đạo trà của Nhật, cũng chẳng phô trương như nghệ thuật trà của người Tàu, hay thực dụng như trà phương Tây, đạo trà Việt ở đây vừa giản dị, đơn sơ như chính những người uống trà để gần gũi hơn với thiên nhiên, với những giây phút linh thiêng của cha ông và tìm lại con người thật của mình./. Theo Hà Nội ngàn năm
-
HOÀNG ĐẾ NỘI KINH TỐ VẤN TOÀN TẬP THƯỜNG HỶ LÊ NIÊN Biên soạn *** Song ngữ ( Việt – Hán) *** 黄帝内经素问 *** MỤC LỤC Thiên 01: THƯỢNG CỔ THIÊN CHÂN LUẬN Thiên 02: TỨ KHÍ ĐIỀU THẦN LUẬN Thiên 03: SINH KHÍ THÔNG THIÊN LUẬN Thiên 04: KIM QUĨ CHÂN NGÔN LUẬN Thiên 05: ÂM DƯƠNG ỨNG TƯỢNG ĐẠI LUẬN Thiên 06: ÂM DƯƠNG LY HỢP LUẬN Thiên 07: ÂM DƯƠNG BIỆT LUẬN Thiên 08: LINH LAN BÍ ĐIỂN LUẬN Thiên 09: LỤC TIẾT TẠNG TƯỢNG LUẬN Thiên 10: NGŨ TẠNG SINH THÀNH Thiên 11: NGŨ TẠNG BIỆT LUẬN Thiên 12: DỊ PHÁP, PHƯƠNG NGHI LUẬN Thiên 13: DI TINH BIẾN KHÍ LUẬN Thiên 14: THANG DỊCH GIAO LỄ LUẬN Thiên 15: NGỌC BẢN LUẬN YẾU Thiên 16: CHẨN YẾU KINH CHUNG LUẬN Thiên 17: MẠCH YẾU TINH VI LUẬN Thiên 18: BÌNH NHÂN KHI TƯỢNG LUẬN Thiên 19: NGỌC CƠ CHÂN TÀNG LUẬN Thiên 20: TAM BỘ CỬU HẬU LUẬN Thiên 21: KINH MẠCH BIỆT LUẬN Thiên 22: TÀNG KHI PHÁP THỜI LUẬN Thiên 23: TUYÊN MINH NGŨ KHI Thiên 24: HUYẾT KHI HÌNH CHÍ Thiên 25: BẢO MỆNH TOÀN HÌNH LUẬN Thiên 26: BÁT CHÍNH THẦN MINH LUẬN Thiên 27: LY HỢP CHÂN TÀ LUẬN Thiên 28: THÔNG BÌNH HƯ THỰC LUẬN Thiên 29: THÁI ÂM DƯƠNG MINH Thiên 30: DƯƠNG MINH MẠCH GIẢI Thiên 31: NHIỆT BỆNH Thiên 32: THÍCH NHIỆT Thiên 33: BÌNH NHIỆT BỆNH LUẬN Thiên 34: NGHỊCH ĐIỀU LUẬN Thiên 35: NGƯỢC LUẬN Thiên 36: THÍCH NGƯỢC Thiên 37: KHÍ QUYẾT LUẬN Thiên 38: KHÁI LUẬN Thiên 39: CỬ THỐNG LUẬN Thiên 40: PHÚC TRUNG LUẬN Thiên 41: THÍCH YÊU THỐNG Thiên 42: PHONG LUẬN Thiên 43: TÝ LUẬN Thiên 44: NUY LUẬN Thiên 45: QUYẾT LUẬN Thiên 46: BỆNH NĂNG LUẬN Thiên 47: KỲ BỆNH LUẬN Thiên 48: ĐẠI KỲ LUẬN Thiên 49: MẠCH GIẢI Thiên 50: THÍCH YÊU LUẬN Thiên 51: THÍCH TỄ Thiên 52: THÍCH CẤM LUẬN Thiên 53 : THÍCH CHÍ LUẬN Thiên 54: CHÂM GIẢI Thiên 55: TRƯỜNG THÍCH TIẾT LUẬN Thiên 56: BÌ BỘ LUẬN Thiên 57: KINH LẠC LUẬN Thiên 58: KHI HUYẾT LUẬN Thiên 59: KHI PHỦ LUẬN Thiên 60: CỐT KHÔNG LUẬN Thiên 61: Thủy nhiệt huyệt luận Thiên 62: ĐIỀU KINH LUẬN Thiên 63: MẬU THÍCH LUẬN Thiên 64: TỨ THỜI THÍCH NGHỊCH TÙNG LUẬN Thiên 65: TIÊU BẢN LUẬN Thiên 66: THIÊN NGUYÊN KỶ ĐẠI LUẬN Thiên 67: NGŨ VẬN HÀNH ĐẠI LUẬN Thiên 68: LỤC VI CHỈ ĐẠI LUẬN Thiên 69: KHI GIAO BIẾN LUẬN Thiên 70-71: NGŨ THƯỜNG CHÍNH ĐẠI LUẬN Thiên 72-73: LỤC NGUYÊN CHÍNH KỶ ĐẠI LUẬN Thiên 74: CHÍ CHÂN YẾU ĐẠI LUẬN Thiên 75: TRỨ KHÍ GIÁO LUẬN Thiên 76: THỊ THUNG DUNG LUẬN Thiên 77: SƠ NGŨ QUÁ LUẬN Thiên 78: CHƯNG TỨ THẤT LUẬN Thiên 79: ÂM DƯƠNG LOẠN LUẬN Thiên 80: PHƯƠNG THỊNH SUY LUẬN Thiên 81: GIẢI TINH VI LUẬN *** 目 录 上古天真論篇第一 四氣調神大論篇第二 生氣通天論篇第三 金匱真言論篇第四 陰陽應象大論篇第五 陰陽離合篇第六 陰陽別論篇第七 靈蘭秘典論篇第八 六節藏象論篇第九 五藏生成篇第十 五藏別論篇第十一 異法方宜論篇第十二 移精變氣論篇第十三 湯液醪醴論篇第十四 玉版論要篇第十五 診要經終論篇第十六 脈要精微論篇第十七 平人氣象論篇第十八 玉機真藏論篇第十九 三部九候論篇第二十 經脈別論篇第二十一 藏氣法時論篇第二十二 宣明五氣篇第二十三 血氣形志篇第二十四 寶命全形論篇第二十五 八正神明論篇第二十六 離合真邪論篇第二十七 通評虛實論篇第二十八 太陰陽明論篇第二十九 陽明脈解篇第三十 熱論篇第三十一 刺熱論篇第三十二 評熱病論篇第三十三 逆調論篇第三十四 瘧論篇第三十五 刺瘧篇第三十六 氣厥論篇第三十七 欬論篇第三十八 舉痛論篇第三十九 腹中論篇第四十 刺腰痛論篇第四十一 風論篇第四十二 痺論篇第四十三 痿論篇第四十四 厥論篇第四十五 病能論篇第四十六 奇病論篇第四十七 大奇論篇第四十八 脈解篇第四十九 刺要論篇第五十 刺齊論篇第五十一 刺禁論篇第五十二 刺志論篇第五十三 鍼解篇第五十四 長刺節論篇第五十五 皮部論篇第五十六 經絡論篇第五十七 氣穴論篇第五十八 氣府論篇第五十九 骨空論篇第六十 水熱穴論篇第六十一 調經論篇第六十二 繆刺論篇第六十三 四時刺逆從論篇第六十四 標本病傳論篇第六十五 天元紀大論篇第六十六 五運行大論篇第六十七 六微旨大論篇第六十八 氣交變大論篇第六十九 五常致大論篇第七十 ,七十一 六元正紀大論篇第七十 二 ,七十三 至真要大論篇第七十四 著至教論篇第七十五 示從容論第七十六 疏五過論篇第七十七 徵四失論篇第七十八 陰陽類論篇第七十九 方盛衰論篇第八十 解精微論篇第八十一 *** nguồn:thuonghylenien
-
Có lẽ đoạn này trong "Hoàng đế nội kinh tố vấn" ghi lại dấu tích của Hậu thiên Lạc Việt. ========================= Hoàng Đế hỏi rằng: Nên bắt chước ở Âm Dương như thế nào? -Kỳ Bá thưa rằng: Dương thắng thì mình nóng, tấu lý vít lấp, thở mạnh và khó cúi hoặc ngửa, mồ hôi không ra mà nhiệt, răng se; do đó thành phiền oán (bực dọc, nóng nảy), bụng đầy, thuộc chứng chết, chỉ qua được mùa đông, không qua được mùa Hạ . Âm thắng thì mình lạnh, mồ hôi ra, mình thường mát, thường run và rét. Rét thì quyết, quyết thì bụng đầy, thuộc chứng chết, chỉ qua được mùa Hạ không qua được mùa Đông. Đó là sự biến của Âm Dương ‘thiên thắng’, và là chứng trạng phát hiện vậy . Hoàng Đế hỏi rằng: Muốn điều dưỡng hai khí âm dương, phải làm sao?. Kỳ Bá thưa rằng: Nếu biết được cái lẽ ‘thất tổn, bát ích’, thì hai khí ấy có thể điều hòa. Nếu không biết, sẽ là cái cơ tảo suy vậy. Con người, năm bốn mươi tuổi, Âm khí đã tới phân nửa, sự khởi cư đã suy rồi .Tới năm năm mươi tuổi, thân thể nặng nề, tai mắt không còn sáng tỏ nữa. Tới năm sáu mươi tuổi, thì Âm suy, khí đã rất suy, chín khiếu không thông lợi, dưới hư trên thực, nước mũi nước mắt thường chảy ra .Cho nên nói: biết thì khỏe mạnh, không biết thì chóng già .Thần khí, vốn ‘cùng ‘ sinh ra ở Âm tinh, mà về sau cái danh nó ‘khác’ đấy thôi. Người trí xét rõ tự chỗ ‘đồng’ (cùng), còn kẻ ngu trí biết xét ở chỗ ‘dị’ (khác), kẻ ngu thường bất túc người trí thường hữu dư .Vì hữu dư nên tai mắt sáng tỏ, thân thể khỏe mạnh, đến tuổi lão mà vẫn được như trai tráng; đã trai tráng mà lại càng đầy đủ thêm.Vì thế nên bực thánh nhân làm cái việc ‘vô vi’ vui cái yên ‘điềm đạm’, thuận dục khoái chí ở trong cái phạm vi ‘hư vô’ . Cho nên thọ mệnh vô cùng, sống chung trời đất...Đó là phương pháp trị thân của bậc thánh nhân vậy . - Trời ‘bất túc’ về phương tây bắc, Tây bắc thuộc Âm, do đó, con người tai mắt bên hữu không sáng bằng bên tả. Đất ‘bất mãn’ về phương đông nam, Đông nam thuộc dương, do đó, con người tay chân tả không mạnh bằng bên hữu .
-
Tuệ Trung thượng sĩ Trần Tung: Thứ nhất là tu tại gia… Trần Tung chính là con trai cả của An Sinh Vương Trần Liễu. Sinh ra và lớn lên giữa những rối lẫn vô hồi của thời đại và dòng tộc, lại là một con người dĩnh ngộ và sâu sắc từ nhỏ, Trần Tung đã sớm ngộ ra được những lý lẽ vi diệu của Phật giáo, coi đấy như một diệu pháp tinh thần tuyệt vời để cân bằng lại cuộc sống của mình. "Tiêu đầu lạn ngạch bị kim bào, Ngũ thất niên gian thị xưởng tào. Túng dã siêu quần kiêm bạt tụy, Nhất hồi phóng hạ nhất hồi cao". (Tạm dịch: Vận kim bào nhưng cháy đầu nát trán, Bấy lâu nay vẫn cam go vất vả. Một khi đã hơn người tài trí, Thì lúc nào mà chẳng phải lao đao). Những câu thơ tự thán này mới đọc thì dễ cảm thấy hình như Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Tung than thân trách phận riêng mình. Nhưng ngẫm kỹ, lại thấy hiện lên một phong độ bình tâm đến lạ lùng của trí tuệ lớn đã biết rất rõ sứ mệnh của mình một khi đã sinh ra làm kiếp con người. Đời là bể khổ, nhưng chính trong bể khổ ấy mới có thể làm lấp lánh nên chân cốt của nhân cách phi thường. Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Tung đã là một nhân cách phi thường như thế. Nhà Trần có lẽ đã là một triều đại uy mãnh vào hàng bậc nhất lịch sử nước ta với những võ công hiển hách, ba lần đại thắng quân Nguyên. Nhưng đây cũng là một triều đại không chỉ chuộng sức mạnh mà còn rất chăm lo tới đời sống tâm linh và chữ nghĩa. Và đó cũng là một triều đại với những tập tục, nếp sống hồn nhiên đến mức đôi khi hoang sơ. Vua tôi sinh hoạt cũng còn gần gụi, giản dị. Cách hành xử của ngay cả những bậc quyền quý đôi khi cũng thô mộc. Việc Thái sư Trần Thủ Độ năm 1237 đã sắp bày cho công chúa Thuận Thiên họ Lý (đang có mang ở tháng thứ ba với Trần Liễu, con cả của Thượng hoàng Trần Thừa) trở thành hoàng hậu của vua Thái Tông Trần Cảnh (thay cho người em ruột của bà là hoàng hậu Thiên Thánh, lúc đó chưa sinh con) là một trong những ví dụ về điều đó. Sử cũ còn chép lại, trước sự kiện trên một năm (mùa hạ năm 1236), nước to, tràn vào cung Lệ Thiên. Hiển hoàng Trần Liễu, đi thuyền vào chầu, thấy người phi cũ của triều trước lập tức "mây mưa" ở ngay cung Lệ Thiên. Khi một số đình thần hặc tội Trần Liễu, cung Lệ Thiên được đổi tên thành cung Thưởng Xuân, còn Hiển hoàng thì bị giáng xuống làm Hoài Vương cho phải phép… Là anh ruột Trần Thái Tông, Trần Liễu về sau vẫn được triều Trần trân trọng phong tước An Sinh Vương… Trần Tung chính là con trai cả của An Sinh Vương Trần Liễu. Sinh ra và lớn lên giữa những rối lẫn vô hồi của thời đại và dòng tộc, lại là một con người dĩnh ngộ và sâu sắc từ nhỏ, Trần Tung đã sớm ngộ ra được những lý lẽ vi diệu của Phật giáo, coi đấy như một diệu pháp tinh thần tuyệt vời để cân bằng lại cuộc sống của mình. Và mặc dù không xuất gia một ngày nào nhưng trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, Tuệ Trung Thượng Sĩ vẫn có một vị trí nổi bật không chỉ về hành trạng xuất chúng mà cả về những suy tư, những răn dạy và những sáng tác thi ca thấm đẫm vị Thiền mà vẫn rất gần gụi với chúng sinh thường nhật. Tác phẩm "Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ lục" của ông mà đời sau đã tập hợp lại cho tới hôm nay vẫn là một đỉnh cao trong tư duy Phật giáo Việt Nam. Trần Tung sinh năm 1230. Ông là anh ruột của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và công chúa Thiên Cảm (về sau trở thành hoàng hậu Nguyên Thánh của Trần Thánh Tông, con trai Trần Thái Tông). Sau khi An Sinh Vương Trần Liễu qua đời năm 1251, Trần Tung được vua Trần Thái Tông nhận làm con nuôi, phong tước Hưng Ninh Vương và thừa kế đất thang mộc của cha là vùng Yên Phụ, Yên Dưỡng, Yên Sinh, Yên Hưng, Yên Bang (thuộc hai huyện Đông Triều và Yên Hưng, Quảng Ninh ngày nay). Và phải nói rằng, mọi việc chính sự triều Trần không hề xa lạ với Hưng Ninh Vương. Đã có lúc ông được cử trông coi quân dân ở đất Lộ Hồng và đã góp không ít công vào việc xây dựng vững chãi vùng phên giậu phía Đông này của kinh thành Thăng Long, điều hiển nhiên là rất có ích trong các cuộc kháng chiến đánh đuổi quân xâm lược hùng mạnh nhất thế giới hồi đó. Bản thân Hưng Ninh Vương cũng đã tham gia hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông, có lần cùng với Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đem hơn hai vạn quân kịch chiến với tướng giặc Lưu Thế Anh và đuổi Thoát Hoan chạy dài đến sông Như Nguyệt… Khi quân Nguyên Mông sang xâm lược nước ta lần thứ ba, Hưng Ninh Vương đã được người em họ là Trần Thánh Tông cử đích thân đến doanh trại giặc vờ ước hẹn trá hàng, làm cho quân giặc mất cảnh giác, sau đó cho quân đến đánh phá, buộc chúng phải rút quân về… Không có lòng dũng cảm vô song và trí tuệ khôn ngoan mẫn tiệp, đâu mấy ai dám làm và làm được những trọng sự như vậy! Và cũng như nhiều hoàng thân quốc thích nhà Trần khi đó, Hưng Ninh Vương đã không chối từ các chức tước cũng như các lạc thú trần gian. Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ ba, ông đã được phong chức Tiết Độ sứ ở vùng biển Thái Bình và đã làm tốt trọng trách đại thần này. Ông cũng có đủ đầy thê thiếp, cũng biết đánh giá đúng ngon đẹp ở đời. Ngay cả trong việc ăn uống hàng ngày, ông cũng không hề kiêng kị gì cả. Chuyện cũ kể lại: trong một bữa tiệc cung đình của hoàng thái hậu Nguyên Thánh (công chúa Thiên Cảm), trên bàn đầy đủ cả đồ ăn chay lẫn đồ ăn mặn. Trần Tung, lúc đó đã tu Thiền rồi, nhưng vẫn gắp ăn mọi thứ ngon lành, bất kể chay hay mặn. Hoàng Thái hậu lấy làm lạ: "Anh tu Thiền mà lại không kiêng cá thịt, làm sao thành Phật được?". Trần Tung mới cả cười: "Anh là anh, Phật là Phật. Anh không cần thành Phật, Phật cũng không cần thành anh. Cô chẳng nghe các bậc cổ đức nói "Văn thù là Văn thù, giải thoát là giải thoát" đó sao?"… Đặng Đình Nguyên HƯNG NINH VƯƠNG TUỆ TRUNG THƯỢNG SỸ TRẦN TUNG (1230-1291) VỚI TỊNH THẤT DƯỠNG CHÂN, XÃ CHÍNH MỸ, THUỶ NGUYÊN, HẢI PHÒNG (ĐTN): Sau những phát hiện của giới sử học, phật học nước nhà, ngày 21-1-2005, xã Chính Mỹ, huyện Thuỷ Nguyên long trọng tổ chức lễ đón nhận tượng đồng danh nhân Tuệ Trung Thượng Sỹ do Hội khoa học lịch sử Việt Nam và Tạp chí Xưa và nay vận động đúc và trao tặng. Tượng được đặt thờ trong một ngôi đền trên đỉnh núi Lim thuộc làng văn hoá Mỹ Cụ. Vương triều Trần (1225 - 1400), kế sau triều Lý được coi là thịnh trị của thời kỳ phong kiến độc lập tự chủ ở Việt Nam. Nói đến triều Trần, phải nói đến hơn 30 năm nước Đại Việt với cuộc kháng chiến chống giặc Mông - Nguyên, trong đó có 3 lần đại thắng vào các năm 1258, 1285, 1288 đập tan mộng xâm lăng của đế quốc hung hãn nhất trong lịch sử trung cổ ở Châu Á thế kỉ XIII. Nói đến nhà Trần, người ta còn nói đến các vị vua Trần Thái Tông, Trần ThánhTông, Trần Nhân Tông... những vương hầu, danh tướng kiệt xuất mà tiêu biểu là anh hùng dân tộc quốc công tiết chế Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Chỉ từ những năm 1990, nhờ những phát hiện của giới sử học, giới phật giáo Việt Nam, lớp bụi thời gian đã được xoá dần, làm sống lại một danh thần lỗi lạc, một ngôi sao thiền học đó là Hưng Ninh Vương Tuệ Trung Thượng sỹ. Tuệ Trung thượng sỹ tên huý là Trần Quốc Tung, là con đầu của An Sinh Vương Trần Liễu và Mẫu Quốc Trần Thị Nguyệt đồng thời là anh của Trần Quốc Tuấn và Trần Thị Thiều (sau là vợ của Trần Thánh Tông, được phong là Thiên Cảm Hoàng hậu). Xuất thân từ hoàng tộc, được giáo huấn đầy đủ, lại có bản tính thanh cao, thông minh, nhân hậu nên Trần Tung được mọi người mến mộ. Năm 1251, vua Trần Thánh Tông cảm nghĩa phong Trần Tung là Hưng Ninh Vương. Với tước hiệu này, Trần Tung đã có những đóng góp quan trọng vào cuộc chiến tranh chống Mông - Nguyên. Với pháp danh Tuệ Trung Thượng Sỹ, Trần Tung được coi là bậc thày về phật học, thiền học đương thời. Với 62 năm hưởng dương, ngoài các chức như trấn thủ lộ đông (Trấn Hải Dương), Tiết độ sứ vùng duyên Hải (Thái Bình Nam Định), Trần Tung còn là một nhà ngoại giao, nhà triết học, nhà thiền học với những cống hiến lớn lao cho nước nhà. Trong cuộc kháng chiến chông Mông Nguyên, Trần Tung đã từng là Phó tổng Tư lệnh cánh quân phía đông của Trần Hưng Đạo khi tiến về Thăng Long giải phóng kinh đô Đại Việt. Năm 1284 - 1285, đặc biệt với tài ngoại giao đàm phán, Trần Tung đã li gián quân địch trong trận rút chạy của đội quân thuỷ do Ô Mã Nhi cầm đầu có Trình Bằng Phi hộ tống, tạo điều kiện cho trận quyết chiến Bạch Đằng năm 1288, đốt cháy hơn bốn trăm chiến thuyền và gần chục ngàn tên giặc đập tan mộng xâm lăng của tên đế quốc hung hãn bậc nhất thời đó. Nói đến Trần Tung là nói đến sự nghiệp truyền bá học thuật của ông về thiền học. Có lẽ sự nghiệp ấy bắt đầu từ khi vuaThánh Tông ký thác thái tử Khâm (Sau là Trần Nhân Tông) cho vương dạy dỗ. Sau này với pháp danh Tuệ Trung Thượng Sỹ, ông đã mở tràng học trên núi Lim, tổng Dưỡng Chân (Chính Mỹ). Môn sinh các nơi về đây nghiên cứu thiền học. Tịnh thất Dưỡng Chân đã trở thành một thiền viện Trúc Lâm nay vẫn còn dấu tích. Với những tư tưởng của thiền phái Trúc Lâm yên Tử mang đậm màu sắc Việt, những học trò kiệt xuất của ông đã thành tam tổ đầu tiên của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử (Sơ tổ Trần Nhân Tông, nhị tổ Pháp Loa, tam tổ Huyền Quang) Về mặt lý luận, ông đã đúc kết, đưa ra những lý giải rõ ràng về những chủ đề lớn của phật giáo đại Việt như tương quan giữa sinh và tử, sắc và không, phàm phu với thánh hiền, mê muội với giác ngộ. Những vấn đề này theo ông đều do nhận thức của mỗi người. Theo ngài mỗi người đều có phật tính (Phật tại Tâm) nên mỗi người phải tự mình phá vỡ những nhận thức bản ngã để tìm sự khác biệt trong mối tương quan nói trên, xác định con đường giác ngộ.[/font] Những tư tưởng lớn ấy được Phật Hoàng Trần Nhân Tông thể hiện rất rõ trong quá trình sáng lập và phát triển thiền phái trúc lâm Yên Tử. Khác với hiền phái khác, thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử vẫn giữ tôn chỉ của Phật Thích Ca nhưng phương pháp hành đạo có nhiều sáng tạo, nó giải quyết tốt vấn đề lý luận: Đạo và đời “Phật tại tâm”, “Thiền nhập thế”.[/font] Tuệ Trung Thượng Sỹ, mất ngày 1 tháng 4 năm Tân Mão (1291) tại tịnh thất Dưỡng Chân. Sau khi Thượng sỹ qua đời, đích thân phật HoàngTrần Nhân Tông cho thu thập các bài thuyết pháp cùng các tác phẩm của Vương biên tập thành sách “Tuệ Trung Thượng Sỹ ngữ lục” cho khắc ván in và viết bài “Thượng sỹ hành trang” (Thân thế sự nghiệp Thượng Sỹ), lại sai danh sỹ Trần Khắc Chung viết lời cuối sách. CTV: Phạm Kiến Nguyên- tạp chí KHKT Hải Phòng Hội viên chi hội KHLS Thuỷ Nguyên http://antgct.cand.c...08/5/52234.cand
-
Đại thiền sư Tuệ Tĩnh - Một góc nhìn khác Đại y sư Tuệ Tĩnh, ngài cũng là ông Tổ của ngành y dược nước ta với khẩu hiệu nổi tiếng "Nam dược trị nam nhân" nghĩa là thuốc Nam trị bệnh cho người Nam (Việt Nam). Sở dĩ Thần y Tuệ tĩnh đưa ra khẩu hiệu ấy là thời bấy giờ do sự đô hộ nghìn năm của phương Bắc nên y học cổ truyền cũng chịu ảnh hưởng lớn của y học Trung Quốc (các loại thuốc Bắc). Đại y sư Tuệ tĩnh tên thật là Nguyễn Bá Tĩnh sinh năm 1330 ở tổng Văn Thái, huyện Cẩm Giàng, phủ Thượng Hồng (nay là tỉnh Hải Dương). Mồ côi cha mẹ từ nhỏ và được các nhà sư chùa Hải Triều và chùa Giao Thuỷ nuôi dạy. Dưới triều vua Trần Dụ Tông, thi đậu Thái học sinh (năm 22 tuổi) nhưng ông không ra làm quan mà xuất gia đi tu và làm nghề thuốc chữa bệnh cho dân. Ông nổi tiếng là thần y vì tài chữa bệnh và đặc biệt là tìm tòi, phát hiện nhiều vị thuốc Nam quý. Trong cuốn "Hồng nghĩa giác thư y" ông biên soạn khảng 500 vị thuốc Nam và để mọi người dễ học, dễ nhớ ông viết bằng thơ Nôm theo lối Đường luật. Trong cuốn "Phú thuốc Nam" cũng bằng chữ Nôm, và đặc biệt cuốn "Nam dược thần hiệu " của ông hiện vẫn đang được các nhà y dược học đánh giá cao và có giá trị lớn đối với y học ngày nay. Công lao đặc biệt của ông chính là đề xướng một nền y học tự chủ, tự cường, độc lập gần giống khẩu hiệu hiện nay "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam " . Không những viết sách, chữa bệnh ông còn tổ chức cho nhân dân biết cách vệ sinh, phòng chống bệnh, dạy cho nhiều đệ tử và biến các chùa thành nơi chữa bệnh (giống như trạm xá ngày nay). Đây là tư tưởng cực kỳ tiến bộ của ngành điều trị từ xa, điều trị chủ động và điều trị dự phòng, tận dụng thế mạnh tổng hợp trong nhân dân, trong thiên nhiên, tạo ra di sản quý báu cho các thế hệ sau . Do tài chữa bệnh như thần của ông nên nhà Minh đã đòi cống sang phương Bắc để chữa bệnh cho triều đình. Ông đã chữa khỏi bệnh cho Thái hậu và được vua Minh rất sủng ái nhưng một lòng ông lúc nào cũng hướng về Tổ quốc. Lúc ông mất tại đất khách quê người có cho khắc vào bia mộ mình "về sau có ai bên nước Nam sang, cho tôi xin về với" và sau gần 3 thế kỷ có tiến sỹ Nguyễn Danh Nho (người cùng quê) đi sứ sang Giang Nam đã dập được tấm bia mộ và mang về cho đục bia tưởng niệm và thờ tại Cẩm Giàng. Đại y sư Tuệ Tĩnh là một thiền sư và là một Bồ Tát có lòng từ bi quảng đại, tượng của Thiền sư cũng là đặc biệt nhất trong số các tượng sư Tổ. Thông thường trong các chùa có thờ tượng của các sư trụ trì cao tăng đắc đạo, tư thế tượng được tạc ngồi xếp bằng hoa sen, hai tay xếp trong trong lòng theo kiểu ấn tam muội (ấn thiền định), hoạc hai tay đặt trên đầu gối. Nhưng tượng của Đại y thiền sư Tuệ tĩnh lại được tạc theo tư thế ngồi trên ghế, lưng thẳng và hai tay xếp trước ngực theo kiểu ấn Chuẩn đề (Cundhe). Điều đó chứng tỏ người xưa đã đặt vị trí của Thiền sư là một Bồ Tát hoá thân của Chuẩn đề vương Bồ Tát. Quan điểm của ngài cũng là Đạo và Đời không tách riêng, Đạo phục vụ đời, Đời là nơi rèn luyện Đạo. Tư tưởng đại thừa Phật giáo ở Đại y sư Tuệ Tĩnh đã là niềm cảm hứng, sự phấn đấu noi theo của các lớp tăng ni Phật tử ngày nay theo tinh thần Từ bi hỷ xả của Đức Phật. Huệ Thông
-
Những người con ưu tú của Đại tướng Võ Nguyên Giáp (Edaily.vn) - 5 người con của danh tướng đều là những người tài giỏi. 4 người trong số họ đều làm việc và thành đạt trong lĩnh vực công nghệ thông tin Đại tướng là một người con vĩ đại của đất nước, là một vị danh tướng huyền thoại. Nhưng không phải vì bận trăm công nghìn việc mà ông quên đi trách nhiềm đối với gia đình. Ông đã cùng vợ nuôi dạy các con, cháu trưởng thành, những con người tử tế và đàng hoàng. Đại tướng Võ Nguyên Giáp kết hôn lần đầu với bà Nguyễn Thị Quang Thái vào năm 1933. Bà Thái là em gái nhà yêu nước Nguyễn Thị Minh Khai vợ của Lê Hồng Phong, Tổng bí thư ĐCS Việt nam (sau Trần Phú) năm 1943. Mối tình đầu đẹp đẽ đó đã ban tặng cho ông bà cô con gái Võ Hồng Anh vào năm 1939. Một năm sau, ông rời gia đình đi hoạt động cách mạng. Rồi bà Quang Thái bị Pháp bắt giam ở Hỏa Lò và hy sinh ở đó. Mẹ mất, bà Anh sống với ông bà nội, mãi đến năm 1946 mới gặp lại cha lần đầu. Sau đó, bà được chính phủ bố trí đưa sang học tại Quế Lâm và Khu học xá Nam Ninh, Trung Quốc. Năm 1954, bà được đưa sang Liên Xô theo học Trường Thiếu nhi Việt Nam Internat Moskva. Năm 1959, bà theo học ngành Vật lý lý thuyết lượng tử, Đại học Tổng hợp Quốc gia Lomonosov Moskva. Bà tốt nghiệp năm 1965 với bằng đỏ (hạng ưu). Về nước bà được phân công làm cán bộ nghiên cứu thuộc Ban Toán - Lý, Ủy ban Khoa học Kỹ thuật Nhà nước rồi sang Liên Xô bảo vệ luận án Phó Tiến sĩ Toán – Lý và được mời làm việc tại Viện Liên hợp Nghiên cứu hạt nhân Quốc tế Dubna và được phong học hàm Giáo sư. Năm 1987, bà về nước kinh qua nhiều vị trí tại các viện, trung tâm năng lượng, vật lý. Được tặng Giải thưởng Khoa học Quốc tế Kovalevskaia. Giáo sư Võ Hồng Anh qua đời vào năm 2009 vì suy tim. Đại tướng Võ Nguyên Giáp và người con gái đầu bà Võ Hồng Anh Năm 1946, đại tướng Võ Nguyên Giáp tái hôn với giáo sư Đặng Bích Hà, con gái của giáo sư Đặng Thai Mai. Ông bà có 4 người con, 2 gái và 2 trai, tất cả đều giỏi giang và thành đạt. Người con gái đầu là Võ Hòa Bình (SN1951) đã tốt nghiệp khoa vật lý, trường đại học tổng hợp Hà Nội. Ra trường, chị về công tác tại nhà máy chế tạo bán dẫn thuộc Tổng cục kĩ thuật. Sau đó chị là Phó giám đốc Công ty điện tử Sao Mai của Quân đội. Những năm trước khi nghỉ hưu chị công tác ở Cục quản lý khoa học công nghệ Bộ Quốc phòng. Hiện nay chị đang là ủy viên Hội đồng quản trị Tập đoàn HIPT, tập đoàn này chuyên cung cấp các giải pháp về công nghệ thông tin và truyền thông, đào tạo chuyển giao công nghệ, nghiên cứu,thiết kế, cung cấp các thiết bị viễn thông đầu cuối. Bà Võ Hòa Bình - người con gái đầu của Đại tướng với phu nhân Đặng Bích Hà Con gái thứ hai là Võ Hạnh Phúc (1952). Hạnh Phúc đã theo học ngành vật lý tại trường Đại học Tổng hợp Lomonoxop (Liên Xô cũ). Về nước chị công tác ở Viện vật lý thuộc Viện khoa học Việt Nam. Hiện chị cũng là Ủy viên Hội đồng quản trị Tập đoàn HIPT. Chuyên cung cấp các giải pháp công nghệ thông tin, cung cấp các thiêt bị tin học, tích hợp hệ thống, phát triển phần mềm, cung cấp dịch vụ CNTT và truyền thông, đào tạo và chuyển giao công nghệ, cung cấp dịch vụ bảo hành, bảo trì các sản phẩm CNTT, nghiên cứu, thiết kế, sản xuất và phân phối các thiết bị đầu cuối viễn thông. Chân dung bà Võ Hạnh Phúc Người con trai trưởng của đại tướng được ông đặt tên Võ Điện Biên (1954), hiện là Giám đốc Công ty CP Đông Sơn. Hoạt động trên lĩnh vực khoa học công nghệ. Chuyên cung cấp các thiết bị máy móc kĩ thuật đa ngành cho các cơ quan, doanh nghiệp. Võ Điện Biên vốn là một chàng trai thông minh. Từ khi tốt nghiệp phổ thông vào loại suất sắc, anh đã được gửi sang học ở Học viện Kĩ thuật Hàng không Giucopxki, liên bang Xô Viết. Học viện mang tên GS Giucopxki là trung tâm hàng đầu đào tạo cán bộ cho ngành khoa học hàng không và nghiên cứu hàng không vũ trụ. Ra trường, anh trở về phục vụ cho quân đội. Gần đây, ở cái tuổi ngưỡng cửa hưu trí, anh quyết định đem những kiến thức cùng kinh nghiệm của mình sang để phát triển một lĩnh vực rất cần cho phát triển đất nước, lĩnh vực khoa học công nghệ. Võ Điện Biên có 4 đứa con 3 trai, 1 gái. Các con anh đều rất ngoan ngoãn, học giỏi. Ông Võ Điện Biên trong lễ tang của cha - Đại tướng Võ Nguyên Giáp Con trai út là Võ Hồng Nam (1956), hiện là Giám đốc Công ty CP Máy tính Truyền thông Hồng Nam. Tốt nghiệp đại học Bách khoa chuyên ngành vật lý, từ năm 1979 Hồng Nam đã nuôi chí đi sâu nghiên cứ về công nghệ bán dẫn, anh vào làm trợ lý cho nhà máy sản xuất bán dẫn thuộc Tổng cục kỹ thuật. Năm 1984 Võ Hồng Nam sang Hunggari làm thực tập sinh kĩ sư công nghệ ở Liên hiệp vi điện tử MEV - Buddapest, rồi kĩ sư lập trình ở viện nghiên cứu máy tính và tự động hóa Buddapest. Về nước Hồng Nam vẫn làm việc trong lĩnh vực yêu thích của anh. Từ năm 2009 Hồng Nam trở thành giấm đốc công ty CP máy tính, truyền thông Hồng Nam, một doanh nghiệp làm ăn phát đạt. Ông Võ Hồng Nam - con trai út của Đại tướng Tất cả các con của Đại tướng đều được đào tạo và hoạt động trên lĩnh vực khoa học cơ bản, công nghệ thông tin - ngành nghề mà từ khi đang là Phó thủ tướng phụ trách khoa học kĩ thuật ông rất quan tâm, khuyến khích - và họ đều rất thành đạt. Thành đạt nhất trong lĩnh vực này phải kể đến người con rể Trương Gia Bình, chủ tịch hội đồng quản trị FPT, chồng chị Võ Hạnh Phúc (gần đây anh chị đã chia tay). Tướng Giáp luôn đặt tên con cháu theo ước vọng về đất nước. Người con trai Võ Điện Biên được lấy tên theo sự kiện lịch sử 1954. Hai con gái Võ Hòa Bình, Võ Hạnh Phúc thể hiện mơ ước về ngày hạnh phúc của đất nước. Người con út Võ Hồng Nam là niềm mong ước một miền Nam rực cờ hồng. Hai con của Võ Hồng Nam được đặt tên là Võ Hoài Nam - nhớ mong miền Nam và Võ Thành Trung như lời thề nguyền tận trung với nước. Hoài Nam và Thành Trung được cha dạy võ từ năm 3 tuổi theo truyền thống con nhà võ nên khi lớn lên đều trở thành những thanh niên cường tráng. Ảnh chụp gia đình Đại tướng Đại tướng Võ Nguyên Giáp còn là người nặng tình, nặng nghĩa. Trong nhà ông trưng bày rất nhiều kĩ vật về bà Quang Thái - người vợ đầu đã hi sinh - để nhắc nhở các thành viên gia đình không được quên bà. Ngày 27/7, giỗ, tết là dịp cả gia đình cùng tưởng nhớ bà Quang Thái. Khi vẫn còn đi lại được, tướng Giáp thường cùng người vợ sau là phó giáo sư Bích Hà lên nghĩa trang Mai Dịch, bất kể nắng mưa, để nhổ cỏ, lau mộ, thắp hương cho bà Thái.Cử chỉ ân nghĩa đó cùng với những đức tính bao dung đã ngấm sâu vào dòng máu thế hệ tiếp theo, các con ông.
-
'Tây Du Ký 1986': Sự thật chuyện tình Đường Tăng, Nữ vương Chuyện tình đơn phương xót xa được tô vẽ, thêu dệt trong tưởng tượng của nhiều khán giả. Nhiều khán giả trung thành của Tây Du Ký 1986 sau khi xem tập Thỉnh kinh Nữ Nhi quốc cho đến giờ vẫn không quên chuyện tình đơn phương đẹp mà buồn giữa vị quốc vương Tây Lương nữ quốc và Đường Tăng. Đặc biệt là những tin đồn như nữ vương "chăn đơn gối chiếc" vì đợi Đường Tăng suốt 20 năm, hay "nữ vương" Chu Lâm ly dị chồng vì "Đường Tăng" Từ Thiếu Hoa được đồn thổi suốt từ bấy đến nay vẫn khiến nhiều khán giả tin vào chuyện tình ngoài màn ảnh đẫm lệ giữa cặp diễn viên đẹp này. Nữ vương lưu luyến dõi theo Đường Tăng cất bước ra đi. Hình ảnh nữ vương xinh đẹp mắt nhòa lệ dõi theo bóng dáng của "ngự đệ" Đường Tăng đang dần đi xa, hòa với tiếng ca Tương kiến nan, biệt diệc nan (Gặp nhau khó, từ biệt cũng khó) hát lên nỗi lòng thiếu nữ sầu bi đã đi sâu vào lòng khán giả. Có lẽ do ảnh hưởng quá lớn của bộ phim, sau đó đã có tin đồn rằng Chu Lâm (sinh năm 1952) khi vào vai trong Tây Du Ký đã trúng tiếng sét ái tình ngay lần gặp đầu tiên với Từ Thiếu Hoa (sinh năm 1958). Đáng tiếc rằng Từ Thiếu Hoa vừa mới kết hôn xong, Chu Lâm đành phải tự trách tình duyên muộn màng, lặng lẽ ôm ấp mối tình lãng mạn không kết quả, 22 năm không kết hôn đợi tình lang. Ánh mắt đắm đuối chứa chan tình cảm của Tây Lương nữ vương được lấy ra làm minh chứng cho câu chuyện "phim giả tình thật". Năm đó, đoàn phim Tây Du Ký làm khách chương trình Cuộc đời nghệ thuật, Chu Lâm vừa xuất hiện đã nói: "Từ khi bước vào, trong mắt tôi chỉ có một người, đó là ngự đệ ca ca của tôi". Thế là ngay lập tức có một tờ tạp chí "đuổi hình bắt bóng", biên tập thành một câu chuyện diễm tình hết sức, kể rằng Chu Lâm vì Từ Thiếu Hoa mà thủ thân suốt 20 năm, bài báo này sau đó còn được tặng giải thưởng vàng. Sau đó, một tờ báo gọi điện phỏng vấn Chu Lâm, câu chuyện được xào lại thành "Chu Lâm từng kết hôn nhưng đã vì Từ Thiếu Hoa mà ly hôn, đến giờ vẫn còn độc thân". Sự thật, Chu Lâm đúng là đã qua một lần đò, nhưng sau cuộc hôn nhân thất bại đó, nữ diễn viên đã một lần nữa lên xe hoa với một người không thuộc ngành giải trí năm 2005. Những tin đồn vô căn cứ khiến gia đình Chu Lâm nhiều lúc dở khóc dở cười, chỉ trách năm đó đóng Nữ Nhi quốc nhập vai quá sâu. Về câu nói: "Sau lần từ biệt Nữ Nhi quốc, 20 năm không gặp, ngự đệ ca ca có khỏe không?" từng gây xôn xao trên mạng, Chu Lâm giải thích đó chỉ là lời cảm khái trong nỗi xúc động như được trở lại tình cảnh nhiều năm trước, còn nếu giữa hai người thực sự có tình cảm gì khác thì sao dám tỏ bày này nọ trước mặt đám đông khán giả như vậy. Trong khi đó, nhân vật nam chính của scandal tình cảm này là Từ Thiếu Hoa thì đã kết hôn với một vị nữ đạo diễn từ trước khi gia nhập đoàn phim Tây Du Ký. Sau đó Từ Thiếu Hoa phải bỏ dở việc quay phim giữa chừng vì lo thi đại học. Đường Tăng năm nào hiện là phó chủ tịch hiệp hội các nhà làm phim tỉnh Sơn Đông, sống hạnh phúc cùng vợ và một cô con gái. Từ Thiếu Hoa cũng phủ nhận mọi tin đồn, ông cho rằng vì tập phim Thỉnh kinh Nữ Nhi quốc rất được yêu thích nên nhiều người đã tưởng tượng, tô vẽ cho nó những chuyện không có thật. Chuyện tình Đường Tăng - Nữ vương chỉ thành hiện thực trong giấc mơ của nữ vương trên phim mà thôi. Khi quay tập Thỉnh kinh Nữ Nhi quốc, có tin đồn rằng hai người đều cảm thấy bối rối, thậm chí diễn đến 8-9 lần mà không làm hài lòng đạo diễn. Còn phó quay phim Đường Kế Toàn, người đã viết rất nhiều về những câu chuyện hậu trường Tây Du Ký1986, thì chia sẻ rằng: "Khi ấy tôi cũng có mặt ở trường quay nhưng không hề cảm nhận được gì. Hai diễn viên đóng tay đôi với nhau thi thoảng lại bật cười, không có gì mờ ám như trên mạng viết. Thực ra, những người trẻ tuổi ở bên nhau lâu thì khó tránh nảy sinh hảo cảm, nhưng nói đến tình yêu thì có lẽ không có. Cư dân mạng muốn tạo nên một câu chuyện đẹp, các fan cũng muốn đem hai người họ lồng ghép vào nhau, như thể muốn làm phần tiếp theo cho cái kết đáng tiếc trên phim". Tú Thiên http://ione.vnexpress.net/tin-tuc/showbiz/cine-tv/tay-du-ky-1986-su-that-chuyen-tinh-duong-tang-nu-vuong-2820371.html
-
Khuôn mặt bí ẩn phản chiếu trên núi đá Một trong số những tác phẩm nổi tiếng của Andrey là bức ảnh có tên “Devil” được chụp tại dãy núi Rila và Pirin ở Bulgaria năm 2002. Anh đã phát hiện khuôn mặt “ma quỷ” khi xoay ngược 90 độ. Người nghệ sĩ 36 tuổi này cho biết, anh không hề chỉnh sửa ảnh bằng phần mềm mà chỉ đơn giản sử dụng chân máy để có được những góc ảnh đặc biệt. Bức ảnh "Devil" do Andrey Antov chụp tại Bulgaria năm 2002 Andrey chia sẻ: "Cái duyên của tôi với những bức ảnh này bắt đầu trong 1 chuyến đi thực địa. Tôi tình cờ chụp được khoảng khắc ‘Devil’ khi xoay ngược ảnh chụp mặt nước phản chiếu lên núi đá. Sau đó, tôi đã dành 10 năm để xây dựng bộ sưu tập của mình. Những khoảnh khắc tình cờ như thế rất ít khi xuất hiện. Tôi cố gắng phát hiện những khuôn mặt hoàn hảo nhất". Ảnh trái có khuôn mặt hao hao… lạc đà, còn ảnh phải khiến nhiều người liên tưởng đến… chim. Khuôn mặt bí ẩn phản chiếu trên núi đá Anh nói thêm: “Cách dễ nhất là khi tôi tới 1 cái hồ trong ngày lặng gió. Tôi đặt máy ảnh lên chân máy và hẹn giờ tự động chụp. Nó khá đơn giản, không liên quan đến Photoshop hay các kĩ thuật chỉnh sửa khác. Phản ứng của công chúng rất tuyệt, họ kinh ngạc khi biết đó là sự thật”. Theo TTVN
-
TANG THƯƠNG NGẪU LỤC (Trời đất là khuôn biến hóa, mây huyền vi mở đóng khôn lường.......) Tang thương ngẫu lục (chữ Hán: 桑滄偶錄, nghĩa là "ghi chép tình cờ trong cuộc bể dâu") là tập ký bằng chữ Hán do đôi bạn thân là Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án cùng hợp soạn vào khoảng Lê mạt-Nguyễn sơ, tức khoảng cuối thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19 tại Việt Nam. Lịch sử Bài Tựa in ở đầu tập Tang thương ngẫu lục cho biết bởi những cuộc tang thương, khiến người ta tất có cái cảm khái tang thương, ấy tập sách Tang thương này sỡ dĩ có là vì thế đó. Và theo Trúc Khê, cũng vì chép nhiều chuyện biến thiên của hồi ấy (cuối Lê), cho nên có cái tên sách là Tang thương ngẫu lục, nghĩa là những câu chuyện ghi chép tình cờ trong cuộc bể dâu. Ban đầu Tang thương ngẫu lục chỉ có bản viết tay trong một thời gian gần trăm năm. Đến năm Bính Thân (1896), niên hiệu Thành Thái thứ 8, Tiến sĩ Gia xuyên Đỗ Văn Tân đang là Tổng đốc Hải Dương quyên tiền khắc ván, từ đó mới có bản in. Năm 1943, nhà xuất bản Tân Dân cho in Tang thương ngẫu lục, bản tiếng Việt do nhà văn Trúc Khê Ngô Văn Triện dịch. [sửa]Ý nghĩa và nội dung Bàn về ý nghĩa tập ký, bài Tựa viết: Từ Lý, Trần, Lê, Trịnh đến nay, trên dưới mấy trăm năm có những điều quốc sử chưa ghi, dã sử chưa chép; hai ông đều thu cả vào trong cõi mắt tang thương. Nếu hai ông hết thẩy đều cho là việc tang thương mà quên đi, thì những chuyện ấy phỏng được mấy lâu mà mai một đi mất. May mà lấy ngòi bút tang thương biên chép, nên nó mới còn là cánh bè chở bến mê, ngọn đèn soi nhà tối; đặt tên là Tang thương ngẫu lục, ý nghĩa có thể nhận biết được vậy. Tang thương ngẫu lục là tập ký mang nặng tính chất truyền kỳ. Trừ một số ít truyện nói về các đời trước, còn đa phần đều viết về thời Lê mạt. Sách được chia làm 2 quyển: quyển Thượng có 40 bài, quyển Hạ có 49 bài (không kể bài Thơ đề sau của người khác). Có một số bài ghi mỗi tên tác giả. Căn cứ theo bản in năm 2000 do Nhà xuất bản Văn hóa-Thông tin in lại theo bản của nhà xuất bản Tân Dân (1943), thì: Ở quyển Thượng có 13 bài và ở quyển Hạ có 19 bài đề tên Kính Phủ, tức Nguyễn Án. Ở quyển Thượng có 10 bài và ở quyển Hạ có 23 bài đề tên Tùng Niên, tức Phạm Đình Hổ. Số bài còn lại không đề tên, nên không rõ của ai hay do hai ông cùng hợp soạn. Căn cứ nội dung từng truyện, Dương Quảng Hàm đã xếp chúng thành 5 mục sau: Tiểu truyển các danh nhân: Nguyễn Duy Thời, Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm, v.v… Thắng cảnh: Bài ký chơi núi Phật Tích (Chùa Thầy), núi Dục Thúy, v.v… Di tích: Bia núi Thành Nam, Tháp chùa Báo Thiên, Thành cũ Trào Khẩu, Miếu Thanh Cẩm, Cái miếu cổ ở cử Đông Hoa,v.v… Việc cuối đời Lê: Chuyện cũ trong phủ chúa, Thi Hội, v.v… Chuyện hay, chuyện lạ: Thần Tôn hoàng đế, Hiển Tôn hoàng đế, Chuyện Nguyễn Duy Thời, Hồ Gươm, Nguyễn Văn Giai, Người nông phu ở Như Kinh, Người nông phu ở An Mô, Ma Đồng Xuân, Ông Nguyễn Bá Dương, Thành Đạo Tử, Mẹ ranh càn sát, v.v.... Nhận xét Dương Quảng Hàm khen ngợi rằng: Tang thương ngẫu lục cùng với Vũ trung tùy bút đều là những tài liệu quí dùng để khảo cứu về lịch sử, địa lý, điển lễ, phong tục ở cuối đời Lê.. Nguyễn Phương Chi nêu ý kiến: Một số lớn truyện ghi chép những giai thoại về các nhân vật lịch sử với ý thức đề cao những người đã góp công trạng trong việc gìn giữ, xây đắp và tô điểm cho nước non, xứ sở (như Nguyễn Đăng Cảo, Nguyễn Công Hãng, Đặng Trần Côn, Bà vợ thứ ông Nguyễn Kiều…). Một số truyện miêu tả một vài cảnh sinh hoạt xa hoa trong phủ chúa, cảnh những con quan ngang ngược lộng hành ngay chốn kinh thành; đối lập với đấy, là cảnh sống của các tầng lớp nhân dân đang bị bần cùng, bị đẩy ra chiến trường vì quyền lợi ích kỷ của tập đoàn thống trị (như: Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh, Quận mã Đặng Lân…). Một số truyện khác, với nghệ thuật điêu luyện, hai tác giả đã khắc họa những danh lam, thắng cảnh, những di tích…với nhiều phong vị và màu sắc (Chùa Phật Tích, Hồ Gươm…). Cuối cùng, là một truyện ma quỷ, một số sự tích hoang đường, kỳ lạ. Đây chính là nét đặc sắc làm nên giá trị của sách. Bởi ở chỗ màu sắc hoang đường được vận dụng như thủ pháp nghệ để ghi lại những hình ảnh của thời đại đầy biến động. (Ma Đồng Xuân, Nội đạo tràng, Mẹ ranh càn sát…). Với lối văn kể chuyện giản lược, ngắn và súc tích. "Tang thương ngẫu lục" tuy chưa thể xếp ngang hàng với "Vũ trung tùy bút", song nó cũng là một tập truyện ký có giá trị văn học và sử học đáng kể.. Trích WIKIPEDIA http://vi.wikipedia....ABu_l%E1%BB%A5c Bài 1: VUA THẦN TÔN Triều Lê, Vua Kinh Tôn ( 1600-1619) tại vị đã lâu chưa có Hoàng Tử. Nhà Vua ngày đêm cầu khẩn trời đất cho chóng có con. Được ít lâu, Hoàng hậu họ Trịnh có mang, nhưng khi lên gường cữ, trở dạ mấy hôm mà chưa sinh được. Vua đương lo ngại, chợt mê ngủ, thấy có người đến tâu rằng “ Hoàng Tử hiện còn đang ở chợ Bảo Thiên (1), Hoàng Hậu đã sinh sao được”. Tỉnh dậy, Vua sai Nội Giám ( Trung Quí) ra chợ dò xem Lúc đó, trời tờ mờ sang hãy còn lác đác sao thưa, trong quán chợ chưa có người, chỉ thấy dưới quay bán thịt có lão ăn mày, tóc bạc phơ phơ, tuổi chừng 81, 82 nằm trên mặt đất, rên rỉ chờ chết. Nội Giám về tâu, Vua lại cho ra hỏi thì lão ấy đã tắt thở vào lúc trời vừa sang tỏ. Cũng đúng, giữa lúc ấy, Hoàng Tử ra đời. Sau lớn lên nói ngôi làm vua Thần Tôn Khi Vua Thần Tôn tại vị, đặt ngày sinh nhật làm tiết Thọ Dương. Mỗi năm hữu-ti cho dựng Hành-tại, ở chợ Bảo Thiên, các quan Bộ Lễ sắm sửa xe ngựa, cờ kiệu rước Vua ra đấy, rồi lấy trúc uốn thành 2 cây : Thiên Tuế và Vạn Tuế, để nghênh giá hồi cung. Khi về đến nơi, các quan trong tòa Kinh- Diên (2) rước 2 cây đó đi qua chỗ Vua ngự 3 lần và hô chúc “ Hoàng Đế Vạn Tuế”. Lễ xong Vua lên ngự tại điện Vạn Thọ chịu lễ chào mừng rồi ban yến cho các quan tại trước sân rồng. Các đời Vua sau noi theo và gọi lễ ấy là lễ Khánh Thọ Bảo Thần Vua Thần Tôn có 4 con: Chân Tôn, Huyền Tôn, Gia Tôn và Hy Tôn đều nối ngôi Vua. Từ đời Trung-hưng vua Hiển Tôn đứng vào bực nhất về Phúc và Thọ Vào khoảng niên hiệu Vĩnh-Hựu (1735-1740) Vua Ý Tôn sai lấy gỗ tạc hình con Hạc và hình người lực sĩ Chiêm Thành bày ở chùa Thiên Phúc, trên núi Phật Tích để thờ tượng vua Lý Thần Tôn, vì tương truyền chính vua Thần Tôn nhà Lý đã thác sinh ra vua Thần Tôn nhà Lê vậy Nhận xét về truyền thuyết luân hồi, than trước than sau (3) nêu ra do từ Đạo Phật, người Quân Tử ( Nhà Nho chân chánh) không nói đến hoặc ít nói đến Như chuyện Lý Thần Tôn, kiếp trước là vị Thiền Sư Từ Đạo Hạnh, kiếp sau là ông lão hành khất ở chợ Báo Thiên lại kiếp sau nữa là Vua Thần Tôn nhà Lê! Như thế thì một vị sư, một người ăn mày đã 2 kiếp tái sinh làm vua. Thật là khó hiểu Chú thích: (1) Chợ Bảo Thiên: Khi trước ở về phía Tây-Nam Hồ Gươm Hà Nội (2) Kinh-Diên là nơi các quan chuyên việc giảng sách để nhà Vua nghe (3) Luân hồi, tiền than, hậu than là kiếp trước, kiếp sau theo thuyết Nhà Phật Bài 2-VUA HIỂN TÔN Năm Ất Tỵ, niê hiệu Cảnh Hưng ( 1785) là năm Vua Hiển Tôn thưởng thọ (70) bảy mươi tuổi. Đình thần hồi ấy có ông Bùi Huy Bích và ông Hồ Sĩ Đống giúp việc trong chính phủ, bàn dân tôn hiệu là:”Uyên Ý Khâm cung Nhân Từ Đức Thọ Hoàng Đế” và làm lễ vào ngày Thánh Thọ(1) Trong thời ấy, lễ Thiết Triều bỏ đã lâu, nên sân chầu cũ ở núi Nùng Sơn đã bỏ và đổi làm điện Kính Thiên để thờ trời đất và phụ phối đức Thái Tổ Hoàng Đế. Những ngày Sóc, Vọng ( mùng 1 và rằm) thì thiết triều tại điện Cần Chánh. Trong điện này 2 nhà tả hữu đãi lậu (2) ở sau, đổ nát, sân thềm cỏ mọc um tùm, cao ngập đầu gối, phân ngựa bừa bãi. Nay sắp có việc, các quan Đề Đốc, Lĩnh Binh phải đốc xuất vệ sĩ quét tước sân Đan Trì và sửa sang viện Đãi lậu cho tề chỉnh Trước khi hành lễ một ngày, quan Doãn Phủ Phụng Thiên là Hoàng Vĩnh Chán đốc xuất các thuộc viên áo mũ chỉnh tề, ban đêm ở trong Tư Lễ giám trông coi sửa soạn các bài biểu Đến ngày lễ, Vua lên tọa ngự, 2 bên có 2 ban văn võ đứng xếp theo hành. Con thứ 4 của nhà Vua làm chức Đại Tư Đồ Sùng Nhượng Công đứng đầu ban võ, thứ nhì là Ông Hồ Sĩ Đống. Vị Quốc Lão Quận Công Nguễn Hãng đứng đầu bên Văn, thứ nhì là Ông Bùi Huy Bích. Còn toàn thể các quan huộc hàm Hồng Lô Tự thì đứng xếp hang theo thứ tự ở cửa phía trong và phía ngoài để giúp việc lễ. Ông Phan Huy ích quì ở giữa hữu ngự điện, tuyên đọc bài biểu, tiếng vang ra tận ngoài cửa Đoan Môn Khi làm lễ xong, viên Thái Giám mặc áo bào hồng, thắt đai văn tế, từ phía sau hữu ngự bước xuống tuyên chỉ ban yến ở hai bên nhà Đãi Lậu Bao nhiêu phụ lão đứng xem đều nói: “Từ niên hiệu Chính Hòa (1680-1705) đến nay đã 80 năm, chưa được xem một buổi nghi lễ long trọng thế này" .... Chú thích: (1) Thánh Thọ : Ngày sinh nhật của Nhà Vua (2) Đãi Lậu tức là hai ngôi nhà tả hữu ở trước điện nhà Vua Bài 3. CHUYỆN CŨ TRONG VƯƠNG PHỦ Sauk hi vua nhà Lê đổi ngôi, có một người đến làm thuê cho tôi ( Người này nguyên là một nội thị của thời Chúa Tĩnh Vương trước), biết những việc cũ trong Vương phủ rất rõ ràng, y thuật lại với tơi rằng: -“ Mỗi năm, trước tết trung thu độ vài tháng. Chúa truyền lấy gấm ở trong kho ra, giao cho các cung nữ làm lồng đèn, hang trăm nghìn chiếc rất tinh xảo, mỗi chiếc có thể đáng giá vài chục lạng bạc Đúng hôm rằm, Chúa ngự ra chơi Bắc cung. Cung này có cái ao gọi là Long-Trì rộng độ nửa dặm, trồng nhiều hoa sen hoa súng… Bên bờ ao đắp đất, chồng đá làm núi, chỗ cao chỗ thấp, đèn đặt mặt trước mặt sau trông đường nào cũng có thế đẹp. Bên phải để riêng một chỗ ngồi dành cho các việc đàn hát. Trên bờ ao có trồng mấy trăm gốc Phù dung, treo đèn ở trên, ánh sáng soi xuống nước lấp lánh như muôn vàn ngôi sao Các quan Nội Thị từ tam phẩm trở lên, chít khăn, mặc áo đàn bà ngồi bán hàng ở bên lề đường, đủ thứ hàng hóa Nam-Bắc cho đến cả hoa, quả, rượu chè cùng các món thực phẩm không thiếu thứ gì chồng chất cao như núi Các cung nữ đi lại mua bán, tha hồ tự do, vừa mua vừa tranh cướp bất cứ giá cả bao nhiêu. Lại bắt chước những tiếng thường dùng ở nơi chợ búa thôn quê, để thách thức trêu cợt nhau, tiếng nô đùa vang suốt cả ngày Đến nửa đêm, Chúa ngự kiệu xuống thuyền rồng, các quan hầu và các phi tần đều gõ ván thuyền, hát khúc đò đưa, thuyền chợt bơi qua bơi lại, trôi theo làn sóng, bỗng nhiên tiếng đàn, tiếng sáo, lời ca bỗng hòa nhau thanh âm lanh lảnh tựa như khúc nhạc trời trên cung Quảng Chúa ngắm cảnh, long vui vẻ, mãi khi có tiếng gà gáy mới trở về cung" Bài 4. ÔNG NGUYỄN DUY THỜI Quan thượng thư Nguyễn Duy Thời là một vị văn tướng nổi danh đời Trung Hưng. Tính ngay thẳng nên khuyên can chúa Trịnh điều gì chúa đều nghe Trong Vương phủ có 1 cỗ xe làm rất hoa mĩ. Một hôm ông đứng cạnh, bỗng trúng phong cấm khẩu ngã lăn vào xe. Chúa cho vực lên xe đưa về nhà, hôm sau ông vào chầu thưa rằng: “ Hôm qua tôi bị trúng cơn gió độc, nhờ ơn Chúa thượng tha lỗi cho. Nhưng xe này đã bị người ốm nằm vào, không đáng để Chúa thượng dùng nữa, nên tôi xin lựa những bảo vật trong xe đem nộp lại”. Chúa biết ông định can ngăn mình không xa sỉ nên không trách móc gì Một hôm ông xin cáo về ở Yên Lãng, khi ấy Chúa có 1 nàng Quí phi người làng Mông phụ, nàng Quí phi này được chúa rất sủng ái nên hay cậy thế cậy thần, ông thường nói xa xôi để khuyên can Khi ấy, Chúa nhận thấy ông cáo về làng vắng, Chúa liền đi thuyền rồng lên kinh lý tỉnh Sơn Tây để tiện đường vào chơi nhà bà Phi Khi thuyền Chúa đi qua Yên Lãng, ông ra bờ sống đón mà thưa rằng: “ Phía tây không có giặc dã, chỉ vì một người đàn bà mà Chúa thượng phải đem quân lính lên tuần tiễu tận đây, thì việc nước còn ra thể thống gì nữa” Nói xong, ông liền ra lịnh cho vệ sĩ không được chở thuyền đi nữa, Ai không theo sẽ bị xử tội theo quân pháp. Vì thế Chúa phải hồi loan Trong phủ ông ở, có một nhà riêng gọi là Tư Chính Đường. Mỗi khi ở trong triều về, ông nghỉ ở đó. Trong nhà chỉ có 2 thằng nhỏ, ngày đêm chực hầu mà thôi. Người ngoài tuyệt nhiên không ai dám đến cầu khẩn việc gì, ngay vợ con cũng không được đến Một hôm, có người mắc tội đáng chết, đã đi kêu van khắp nơi quyền quí không ai giúp được, ai ai cũng không cứu nổi. Vợ người bị tội liền tìm gặp 2 người hầu, khóc lóc nhờ nói xin lễ ông hai ngàn vàng. Hai người hầu từ chối xua tay bảo rằng: “ Tướng công tôi không phải là người mà vàng bạc làm chuyển long được. Nhưng tôi thấy chị lo lắng cũng thương hại không nỡ làm thinh. Vậy để tôi ướm xem” Nói xong bưng vàng vào nhà, bày ngay ở chỗ giường ông nằm. Đềm khuya ông ở trong triều về, lên giường nằm đụng phải vàng rơi loảng xoảng, ông ngạc nhiên hỏi: “ Làm sao có của này”. Người hầu quì lạu xin tha tội và kể đầu đuôi. Ông ngồi im một lúc rồi bảo: - Thôi, cho dứng dậy, ta không bắt tội mày. Án tử hình là việc lớn, nay vì mối lợi hai ngàn vàng, mà mày còn trẻ đã dám đương lấy cái chết, nhưng hoặc giả là ý trời chăng! Thế mụ ấy cho mày bao nhiêu? - Bẩm, sáu trăm lạng - Thôi, số bạc ấy cho mày, còn ta không nhận tí gì đâu, hãy đem trả ngay lại cho người ta” Nói xong, lập tức ông bảo đánh xe vào cung, gõ cửa xin hầu, Chúa giật mình trở dậy, mời vào hỏi có viêc gì mà khẩn cấp. Ông thưa: “ Lúc ban ngày tôi xét một việc án can hệ, kẻ phạm tội phải xử tử. Đem đến có người nói là nó bị oan không kêu vào đâu được. Vậy xin Chúa thượng xét lại” Chúa thượng cười mà bảo rằng: “ Tiên sinh khó nhọc quá, sao không để đến mai?” Ông thưa: “ Thần sợ để chậm một chút, lỡ có vẻ nghiêng thêm về ý riêng” Chúa ân cần khuyên nhủ, sau người tù ấy thoát khỏi tội chềt Bài 5. HỐ HOÀN KIẾM Mùa hạ năm Bính Ngọ, niên hiệu Cảnh Hưng ( 1786) đương nửa đêm, giữa hồ Hoàn Kiếm, bỗng có những vật đỏ ối hiện ra trên đảo, tia sang nhoáng tỏ ra bốn phía, bay về bờ phía nam rồi biến mất Sau đó sóng gió ầm ầm nổi lên. Sáng hôm sau thấy xác tôm cá nổi trên mặt nước không biết bao nhiêu mà tả. Có người nói, ở trên nóc nhà Trung Hòa Đường trong phủ Chúa cũng hiện ra những vật tương tự, ánh sang tỏa ra bốn phía rồi tự nhiên tắt ngấm Sau đó ít lâu, nhà Lê mất nước Bài6. ÔNG NGUYỄN VĂN GIAI Ông Nguyễn Văn Giai người làng Thiên Lộc ( Hà Tĩnh), khi giữ chức Chưởng Quản Lục Bộ ( Chức Thủ Tướng), các bậc thân quí của Chúa đều kiêng nể không dám làm chuyện phạm pháp Một hôm, viên Quận Mã ( con rể Chúa) đi đánh giặc thua bỏ chạy, ông cho bắt bỏ vào ngục rồi khép vào tử tội. Chúa muốn tha nhưng không biết nói cách nào, nhân đem những chỉ dụ ra để cãi lý, song rốt cuộc không cãi nổi ông Ông có nhiều vợ, vợ nhỏ 5,6 bà, bà thứ ba được ông yêu nhất. Quận chúa liền đem những đồ báu ngọc, nhờ người vú đưa vào xin yết kiến bà, và đem việc Mã Quận ra nói Bà Ba từ chối mà rằng, “Tướng Công là người thanh liêm, vả lại việc đó là việc can hệ trọng trong Triều, tôi đâu dám can dự vào” Quận chúa cố nài nỉ, bà Ba chầm chậm nói: “ Thế thì sang mai, bà sửa xôi nếp cái, lợn nhỏ luộc chin, để sẵn cả các thứ gia vị cùng dao vào mâm chờ lúc Tướng Công đi vắng mang cả mâm vào đây mà biếu”. Quận chúa mừng rỡ cảm ơn ra về Sáng hôm sau, khi sắp sửa vào Triều, ông bảo dọn cơm sang, bà Ba thưa: “ Trong Triều đã đầy đủ các quan, hay để lúc về hãy dùng cơm vậy” Ông nghe lời ra xe đi, khi tan Triều về đến nhà nhân đương đói, thấy mâm đồ ăn, mở ra lại thấy sẵn dao liền thái thịt lấy xôi ăn. Ăn xong, ông hỏi sao có thức ăn đó. Bà Ba mới thú thật, ông giận lắm, phàn nàn một lúc lâu rồi nói: “ Lỗi tại ta, Lỗi tại ta. Chỉ vì một bữa ăn no mà tha chết cho một mạng người, hay là ý trời đã định thế chăng” Vội đánh xe vào trong hầu Chúa để xin tha tội cho Quận Mã, Chúa mừng lắm y ngay. Lại một hôm vào Triều, đi qua chợ Cửa Đông thấy có người bán một con cá thời ngư, bề ngang bảy thước. Ông đứng lại xem và khen ngợi. Khi ông ở trong Triều về đã thấy người đem cá đến dâng biếu đứng đầy cổng mà toàn là những khúc cá Thời Ngư (1). Ông đùa bảo đem ráp tất cả những miếng cá lại xem, thì thấy đủ hình con cá duy thiếu mất khúc đuôi. Hỏi các hang cá mới biết bếp nhà Chúa mua để tiến rồi. Ông than rằng: “ Con cháu ta chắc không được hưởng lộc nữa” ( Vì cá mất đuôi, tức là không có hậu) Sau quả đúng như lời ông nói Người cùng huyện với ông được cử lên là ông Dương Chí Trạch, con rể của ông làm Á Tường, ông lo rằng sẽ chuyên quyền Nhân một hôm ăn tiệc, lại có lũ phường chèo dóng mũ áo ra múa hát, Dương Công đã nói kháy rằng: “ Nhà ngươi có tài năng gì làm lắm trò như vậy” Ống lặng làm thinh không chấp Về sau có vị Quốc Lão là Phạm Trứ cầm quyền chính. Một viên Tù trưởng phạm tội đáng chết, người vợ liền đút lót với người đầu bếp của ông, nhờ mang chim sẻ vào dâng nói: “ Cụ lớn ưa thích món này”. Người đầu bếp nướng món chả chim để ông xơi. Khi ăn xong ông hỏi, người đầu bếp mang vàng ra lạy xin tha tội. Ông liền móc cổ nôn ra hết và bảo: -“ Thôi, mày đem vàng ra ngay đi, ta không trách phạt gì” Đến khi người tù sắp bị xử tử, ông vào xin hầu Chúa xin tha tội chết cho hắn. Chúa nghe theo Hai việc nói trên kể cũng giống nhau. Hai ông đều là văn Tướng, nổi danh thời Trung Hưng, mà một ông ăn lễ thịt lợn luộc, một ông ăn chả chim sẻ mà nên chuyện. Vậy thì, há chẳng nên cẩn trọng sự ham thích đấy ru? Chú thích: Thời ngư là cá nước ngọt, hình đẹp mà dài, sắc trắng tinh, thịt thơm ngon Bài7: NGƯỜI NÔNG PHU LÀNG NHƯ KINH Năm kỷ dậu, trước (1789) loạn lạc vừa yên thì chứng dịch tả lại phát dữ dội. Ban ngày thường trông thấy ma. Đâu đâu cũng nghe thấy tiếng rên rỉ, khóc than. Bạn tôi là ông Ninh Quí Hoằng, quê ở Côi Trì kể chuyện với tôi rằng: -“ Làng Như Kinh có người nông phu ra đồng kiếm củi, gặp một toán quân rất đông kéo đến, vội vàng bỏ gánh củi đứng nép vào cạnh đường, liếc trông thấy 1 người lính cầm kiếm đi trước, đầu đội khắn đỏ ( hồ đó thường gọi là khăn mào gà). Nhìn kỹ thì là người bạn cũ của mình. Người lính trông thấy bác nông phu, mừng lắm chạy lại chào hỏi và vội tháo chiếc khăn đỏ quàng cho, rồi dắt vào quán mời uống rượu. Trong quán rượu thịt rất nhiều tùy ý lấy ăn, người chủ quán không hỏi gì cả. Lúc đó trời làm đói kém, bác nông phu đang không có ăn, nay được bạn mời liền ăn uống môt bữa no say. Khi ăn xong thấy xe ngựa kéo đến ầm ầm, cậu lính vội giật lấy chiếc khắn đỏ đi ra, bác nông phu ngồi trơ nhân mộc ở giữa quán. Mọi ngườ nhìn thấy ngờ là Thần Ôn Dịch bắt giữ lại. Bác nông phu cứ thực tình kể lại câu chuyện và dẫn củ quán ra xem chỗ đặt gán củi ở bên đường để tỏ rõ sự thực. Quả nhiên chủ quán thấy gánh củi còn nguyên mới tha cho về” Bài8. NGƯỜI NÔNG PHU ẤP YÊN MÔ Ông Ninh lai kể tiếp chuyện sau: - "Cũng nắm ấy, tại ấp Yên Mô ( một ấp nhỏ trong vùng) có một nông phu nghèo phải đi ăn mày ở bãi tha ma. Tối đến, cùng một bạn hành khất khác phải nằm ngủ trong một cái quan tài bỏ không bên cạnh bên đường cái. Đêm càng khuya bụng càng đói trằn trọc mãi không ngủ được. Trông ra chỉ thấy ánh trăng mập mờ trên đường, bỗng thấy xe ngựa kéo qua, đông như đàn cá nối đuôi, hai người nhìn nhau sợ quá chui xuống gầm sàn, đu mình lên sàn nín hơi không dám thở. Một lúc nữa thấy trống chiêng cờ quạt, rước một chiếc kiệu bát cống, đặt ở trước quán, rồi chiêng trống tạm yên, quân lính dừng lại - Trên kiệu có tiếng truyền gọi Xã lệnh ra hỏi, quân lính dạ rân như sấm. Một lúc lâu, thấy một người đội mũ phốc đầu, áo thụng ( kiểu mão tế thần) quì ở trước kiệu mà trình to rằng: - Thưa , tôi, Xã lệnh, xin yết kiến Bác nông phu ở gầm sân đưa mắt nhìn ra, nhận thấy người quì ấy giống hệt pho tượng Thành Hoàng vẫn thờ ở đình làng. Trên kiệu có tiếng hỏi: “Sổ lính làm xong chưa” Xã lệnh cuối đầu đáp: “ Ấp tôi vừa nhỏ lại vừa nghèo, lại mới gặp loạn lạc, dân cư bỏ chạy, chưa thấy mấy người trở về nên chưa bắt lính được” Trên kiệu lại có tiếng quát to: “Ta phụng mệnh đi điểm binh, có lệnh xuống đã lâu, nhà ngươi còn lựa lời quanh co nói khéo thực đánh trị tội theo quân pháp” Tức thì có mấy ông mặc Triều phục quì xuống xin hộ rằng: “ Vị thần này vốn tính tình mình mẫn, trung trực đã được Thượng Đế để ý lựa chọn, hãy nên rộng tha cho” Rồi lấy khuỷu tay huých vào viên Xã lệnh bảo phải dâng ngay sổ lính. Bất đắc dĩ Xã lệnh phải kể 2 người trong ấp. Một là bác nông phu đang ở dưới gầm sàn, còn một người nữa cũng là hạng nghèo đói ở trong làng không nơi nương tựa Sổ dâng lên, vị ngồi kiệu sai các viên chức kiểm nhận rồi nổi trống kéo đi. Lúc đó gà đã gáy sang Bác Nông phu sợ toát mồ hôi, cùng người bạn lúm khúm ở gầm sàn bò ra, nhưng cũng vui long vì đã nghe tin sắp thoát được bể khổ, liền đi đến những nhà trong ấp cầu xin một bữa ăn no say rồi chết. Người trong ấp cũng sẵn long cho. Quả nhiên cách mấy hôm, bác ta ốm chết và người cùng có tên trong sổ bắt lính hôm ấy cũng chết" Bài 9. CON MA ĐỒNG XUÂN Ông Trần Văn Vĩ người làng Từ Ô, khi ra Kinh Đô thi Hội, đến trọ tại một ngôi nhà cũ của quan Nội thị Thuyên quận ở phường Đồng Xuân ( ngoi nhà này trước kia ông ngoại tôi là cụ Thiêm Hiến hiệu Thanh Khê cũng đã ở) Trên gác nhà này có nhiều ma quái. Có khi thấy một vật đỏ ối to bằng cái đầu, sánh lòe ra tứ phía, vụt cái lại tắt, có khi nghe rõ tiếng kêu ở trên xà nhà, soi đèn xem thì không thấy gì Ông Vĩ không tin bảo kê giường lên gác nằm, và nói : “ Nếu có ma ta sẽ chống chọi lại với nó” Ngày đêm ông đọc sách mải miết không có lúc nghỉ, mỏi mệt vừa chợp mắt thấy có cô gái xinh đẹp đến gõ đầu giường ông nằm mà bảo rằng: “ Nay nhà Lê sụp đổ tới nơi rồi, mà bộ ông cũng chẳng đỗ đạt gì đâu, đừng gân cổ đọc sách dọa nạt tôi làm gì” Nói xong ngâm 1 câu thơ rằng: Sa trường ẩn ẩn kiến chi thôn Nghĩa là: Ngoài chốn sa trường, thấp thoáng thấy xóm thuyền chài Ông tỉnh dậy còn nhớ rành rành, và sợ quá vội dời nhà đi chỗ khác. Khoa ấy quả nhiên ông thi trượt và chẳng bao lâu nhà Lê mất nước http://hocthuatphuon...pic=4275.5;wap2
-
Bài 41. ÔNG CHU VĂN TRINH - (CHU VĂN AN) Đời nhà Trần có ông Chu Văn Trinh, tức là Văn An, tự là Linh Triệt, hiệu là Tiều Ấn Tiên sinh, người làng Quang Liệt, Huyện Thanh Trì, đỗ tiến sĩ, làm quan đến chức Tư nghiệp ở Quốc Tử Giám. Đời vua Dụ Tông dâng sớ xin chém 7 người, rồi treo mũ từ quan về ở ẩn ở núi Chí Linh, dạy học trò. Sĩ phu đều kính ngưỡng như núi Thái sơn, sao Bắc đẩu. Quan Tư Đồ Chương Túc Hầu Trần Nguyên Đán có tặng thơ rằng: Phiên âm: Phủ miện hòn khuê tâm dĩ hội Phong sương an cảm khốn hàn mai Bạch vân vạn điệp sơn phi yểm Tử mạch đa kì ngã mã đồi Huệ trường vật kính cô hạc oán Bồ luân bảo vị hạ dân hồi Hy triều xã tắc thiên phương tộ Khẳng sứ Tiên sinh lão bích ôi Dịch văn: Trâm hốt, cân đai đã nguội lòng Gió sương đâu dám phạm mai đông Muôn trùng mây bạc non che khuất Bao lối đường hoa, ngựa biếng going Màn huệ kinh gì lời hạc oán Xe bồ quay lại, bụng dân mong Đương triều xã tắc giời còn tựa Sao để Tiên sinh chốn thẳm cùng Giải nghĩa: Mũ, đai, tram, hốt (tức là việc công danh) thì lòng Tiên sinh đã nguội lạnh. Ngày nay, Tiên sinh đã như một cây mai giá lạnh rồi thì gió sương không dám phạm đến Mây trắng muôn đợt cài lấp cửa núi, che khuất chỗ Tiên sinh ẩn dật. Đường đời lắm lối, làm cho con ngựa của Tiên sinh đã mỏi chồn rồi, không muốn rong ruổi nữa Nằm trong màn huệ không giật mình vì tiếng hạc lẻ kêu đêm. Nhưng xe bồ của Tiên sinh cũng nên, vì lòng dân trông cậy mà quay lại Vả chăng, xã tắc của Hoàng Triều đương được lòng trời giúp đỡ, hì lẽ đâu lại để Tiên sinh ẩn náu ở chốn non xanh xa thẳm (Những câu thơ trên tỏ lòng ngưỡng qui biết chừng nào) Ấy ông được đời kính trọng như vậy Đời truyền rằng: khi ông dạy học ở thông Cung Hoàng, trong bọn học trò có hai người thiếu niên, dung mạo kì vĩ, không bao giờ ngồi cùng chiếu với các học trò khác. Có người trông thấy họ đi từ dưới nước lên. Ông biết là thủy thần, gặp năm nắng to, ông sai đi làm mưa. Hai người từ chối thưa: - Thượng đế phong tỏa cả sông hồ, không lấy đâu ra giọt nước nào mà làm mưa được - Ông bảo lấy nươc ở nghiên mực, Hai người nói: - Lời thầy dạy không dám trái, nhưng trái ý thượng đế sẽ bị nghiêm phạt Hai thiếu niên đi, một lúc mưa xuống như trút. Bỗng chốc thấy có hai con thuồng luồng bị cụt đầu rơi xuống, ông thu nhặt rồi đem chôn ở ngoài cánh đồng làng, tục gọi là mả thuồng luồng Sau khi ông mất, người làng dựng đền thờ ngay trên chỗ nền nhà học cũ , những bậc thân sĩ trong làng đều được phối hưởng. Trong năm Cảnh Hưng, ông Bùi Huy Bích cầm quyền, dò hỏi dòng họ còn được 16 người, thấy đã đổi sanh họ Nguyễn, và đều ngu độn không biết gì, ở vào hạng cùng dân cả. Ông truyền lấy lại họ cũ, và chọn một trẻ em dạy cho học, để sẽ tiến dẫn lên triều đình, xin phong ấm cho, như việc xưa bên Trung Hoa đối với nhà Nho đời Tống là ông Trình, ông Chu, nhưng chợt có biến nên việc ấy chưa làm được Bài 42: ÔNG LÊ TRÃI - (NGUYỄN TRÃI) Tiền triều có ông Lê Trãi, hiệu Ức Trai tiên sinh, nguyên họ Nguyễn. Cha là ông Phi Khanh (hàm Tự Khanh) người huyện Phượng Nhỡn. Tính ưa phong thủy, nhân dời mộ tổ đến tang ở làng Nhị Khê, huyện Thương Phúc, do vậy làm nhà ở làng ấy Ông đỗ Tiến sĩ đời nhà Hồ, làm quan tới chức Ngự Sử Đài Chánh Chưởng, Nhà Hồ mất, ông theo cụ Tự Khanh tránh loạn ở Côn Sơn, có câu thơ Dạ y ngưu đầu vọng trung nguyên Nghĩa là: Đêm lần trong sao đẩu, sao ngưu mà vời trông đất nước Đủ tỏ tấm lòng ưu thời mẫn thế của ông thường biểu lộ trong thi ca Hồi này, có người làng Hoắc Sa (Sơn tây) là Trần Nguyên Hãn làm nghề bán dầu, buổi tối qua làng Thụy Hương, vào ngủ ở đền Hy Khang Đại Vương Lý ông Trọng. Đêm khuya thấy vị thần ở làng bên cạnh đến rủ Vương cùng lên chầu đức Thượng Đế, Vương từ chối nói là nhà có vị Quốc Công ngủ trọ. Lúc gà gáy, vị thần ấy đi chầu về, Vương hỏi hôm nay Thiên đình bàn việc, có những hiệu lệnh gì? Vị thần nói: - Thượng Đế xét đến nước Nam chưa có chủ, nên có sai Lê Lợi làm vua, Lê Trãi làm tôi Trần tỉnh dậy, bèn đi dò tìm được ông Lê Trãi bảo cho biết. Ông (Lê Trãi) đến hỏi lại, thì nằm mơ thấy Vương bảo rằng: - Việc bí mật ở Thiên Đình không thể tiết lộ. Chị Tiên Dung biết rõ cả đấy. Và người đàn bà nói thì Thượng Đế không quở trách. Vậy nên đem một vạn vàng nan đến lễ, chị ấy sẽ kể cho mà nghe Ông theo lời: đến cầu bà chúa Tiên Dung, rồi mơ thấy bà gọi bảo rằng: - Này, Lê Trãi! “Lê Lợi làm vua, Lê Trãi làm tôi, nhà ngươi còn chưa biết ư?” Hỏi kĩ lại thì nói Lê Lợi người ở đất Lam Sơn, Thanh Hóa Ông liền cùng ông Trần tìm đến, thấy Lê Lợi đương mặc áo nâu ngắn, vác bừa, dắt bò từ ngoài đồng vào. Các ông xin vào ở lại một đêm, nhân khi gặp ngày Tiên húy, nhà Lê Lợi giết lợn làm cỗ. Ông xuống bếp đun nấu, thấy Lê Lợi cầm dao thái thịt, vừa cắt vừa ăn, liên bảo riêng với ông Trần rằng: - Bà Tiên Dung nói lừa ta đấy! Rồi đến đền để đòi vàng lại. Đêm ấy bà Tiên Dung lại bảo: - Lê Lợi làm vua, đã có mệnh lệnh, nhất định rồi; chỉ vì Thiên tinh chưa giáng đấy thôi, sao không đến mà đợi? Bấy giờ Lê Lợi đã được quyển Binh thư và thanh gươm thần, đêm nằm đóng cửa đọc sách. Ông nhòm trộm và cùng ông Trần đẩy cửa bước vào. Lê Lợi tuốt gươm xông ra, hai người đều phục xuống đất nói: “chúng tôi đường xa lặn lội tìm đến chỉ vì Minh Công có thể làm chủ thiên hạ được đấy thôi”. Lê Lợi cười mà lưu lại, mưu việc khởi binh. Ông bảo chưa nên vội. Bèn dựng nhà dạy học, thường chế ra những cái trống bỏi, nấu mật đặc nặn ra những con gà con chó cho lũ trẻ làm đồ chơi. Trẻ khác thấy thế đua nhau nói với cha mẹ đến xin theo học. lại thường lấy mỡ viết lên khắp lá cây trong rừng mấy chữ sau: “Lê Lợi vi quân, Lê Trãi vi thần” (Lê Lợi làm vua Lê Trãi làm tôi) Sau kiến ăn mỡ đục thành nét chữ. Những người đi kiếm củi thấy thế, cho là sự thiêng liêng, người nọ bảo người kia, nhân thế người đến nương theo càng ngày càng đông Năm Mậu Tuất (1418) dấy quân, trước sau gồm 20 trận đánh, ông thường dự bàn mưu lược trong quân trường Năm Bính Ngọ (1426) đánh ở Tụy Động, quân ta đại thắng, tiến đến áp bức thành Đông Đô Thành Sơn Hầu nhà Minh là Vương Thông đóng thành chống giữ Năm Đinh Mùi (1427), nhà Minh sai An Viễn Hầu Liểu Thăng, Kiềm Quốc Công Mộc Thạnh chia đường đều tiến đến cửa Đông Đô. Vua Lê Lợi đánh nhau với giặc ở núi Mã Yên, chém chết Liễu Thăng, bắt sống bọn Hoàng Phúc, Thôi Tụ, hơn ba trăm người. Mộc Thạnh đương đêm phải chạy trốn. Vương Thông mở cửa thành ra hàng vua tha cho được trở về Bắc. Từ đấy, hai nước thông hiểu, bao nhiêu giấy tờ đều do ông soạn thảo. Khoảng năm Thiệu Bình (1431-1439) bài biểu tạ việc thăng quan có những câu: Phiên âm: Viên môn trượng sách, lâm đại tiết nhi bản sinh trung nghĩa tự tri Hổ khẩu điền thân, quyết hòa nghị nhi lưỡng quốc can qua dĩ tức Dịch nghĩa: Quất ngựa tới cửa quan, gặp tiết lớn mà nửa đời phơi trung nghĩa Dấn thân vào miệng cọp, quyết giải hòa cho hai nước can qua Đó là những lời đúng sự thực cả. Vì công lao lớn được ban quốc tính, trao cho chức Vinh Lộc Đại Phu, Nhập Nội Hành Khiển, Tri Tam Quán Sự Ông Trần sau được phong chức đến Quốc Công, khi mât được phong Phúc thần. Nay có đền thờ ở làng Hoắc Sa Văn thơ của ông Trãi có khí lực dồi dào. Khoảng năm Thuận Thiên (1428-1433) làm những bài văn như Bình Ngô Đại Cáo, bia Thần Đạo ở Vĩnh Lăng, Lam Kinh, đều có chép trong sách Thực Lục, ở đây khỏi phải chép thừa. Hoảng năm Thiện Bình, nhà vua tặng bà Chiêu Nghi làm Hoàng Thái Phi ( Bà này không phải sinh mẫu của Thái Tôn, nhưng có công nuôi dạy nên vua cũng coi như mẹ), ông phụng mệnh thảo bài chế như sau: Phiên âm: Trẫm duy Khắc kinh duy thân Duật truy lai hiếu Phủ cảo đế gian nan chi nghiệp Duy trung khuê dự lượng chi cần Tái dương đại hiệu ư triều đình Dụng thỏa thục linh ư u tịch Cụ vị mỗ Bỉnh tri ý đức Kinh sự Tiên triều Tảo bản dãng chi càn khôn Cộng trất một kì phong vũ Phụng thừa cờ trữu, vô vong sái tảo chi tâm Nhân bổ y thường, kì tận di phùng chi ích Nhất tâm tại ngự Thập tải my khuy Mang đường khi văn, Tuy thủy phong sa, doãn bị thường ư hiểm trở Hô đà mạch phạn, Lâu đình dậu chúc, thường tương trợ kì khát cơ Trí ngao cực chi diện an Đa kê minh chi cảnh giới Phương mẫu hậu bất hạnh nhi thăng thệ Độc trẫm thân hữu lại kì phù tri Thâm hoài cổ phục chi ân Cảm phục truy sung chi điền Việt khảo Thành Chu chi di chế Nghi gia Thái phi chi tàn phong Vu dĩ chương bảo hực chi công Vu dĩ tận ai vinh chi lễ I hi Vi dịch mạnh phục, lưu huy vô gián kí tồn cong Mã liệp lậu tuyền, bỉ sức hữu quang ư minh mạc Dịch nghĩa: Trẫm nghe Đối với dung thân Trước nên hiếu kính Giữ được cơ nghiệp lớn lao của Cao Đế Nhờ công sse6ng năng giúp đỡ của Đức Bà Vậy: Phải tôn hiệu lớn ở Triều đình Để thỏa hồn thien6ng nơi u tịch Đức Bà mỗ, Giữ gìn đức tốt Thờ phụng tiên triều Gặp buối trời đất chông chênh: Từng cùng gió mưa tắm gội Nâng niu khăn túi, một lòng không sai Khâu vá áo xiêm, mười năm chẳng thiếu Đức Cao Hoàng tổ, Từng trải những bước gian nan ( như vua Hán Cao, nào mây ráng ở Nam Đường (1), gió cát ở Tuy Thủy(2) Lại qua những buổi cơ hàn (như vua Quang Võ) nào cơm chiêm ở Hô Đà(3), nào cháo đậu ở lâu Đình(3) Đều có đức bà: chia sẻ đắng cay Sớm hôm săn sóc Khi đức Mẫu Hậu băng hà, Trẫm được nhờ ơn dìu dắt Nhờ ơn dưỡng dục, dám nhãng truy sung Vậy, nay theo qui chế cũ của nhà Thành Chu Tôn phong Bà làm bậc Thái phi Để tỏ công ơn phù trì, để hợp lễ thương kính Than ôi! Áo xiêm dâng tiến, vinh quang chắng cứ mất còn; Nắm đất vun bồ, rực rỡ khắp nơi minh mạc Khi tặng bà Chiêu Nghi làm Trinh Ý Nguyên Phi, ông phụng soạn bài chế rằng: Phiên âm: Trãm duy Thành nhân chế lễ, đạo mạc trận ư thân thân Triều đình suy ân, nghĩa ưu đôn ư quí quí Tái ban chế phát Dụng bi u quynh Cụ vị Mỗ Thục thân nhu gia Đương càn không thảo muội chi tế Hình cung khốn cần kiệm chi phong Linh sơn khưu bỉ chi gian nan, vưu tư chủ quĩ Lẫm lộ y thường chi lam lũ, chinh lại di phùng Mỗi niệm tá phụ tiên triều chi công Khởi vong bảo hựu xung nhân chi đức Thời phương đại định Dục thân chi hiếu chi tình Cảm hệu truy sung chi điền Thị dụng trạc chi tam phi chi liệt Dĩ chiêu dị số chi vinh I hi Sinh dưỡng tuy thù, ân hữu đồng ư võng cực Tủ sinh vô giàn, kí mặc hựu ư vĩnh chung Dịch nghĩa: Trẫm nghe Thánh nhân đặt lễ, đạo không gì trọng hơn yêu mến người thân Triều đính ra ân, nghĩa chẳng gì hậu hơn, tôn trọng bậc quí Nay ban chế sách, để làm sáng rọi nơi tới mờ Đức Bà mỗ Người vốn tinh hạnh nhu mì, đoan trang tĩnh nhất Đương khi mờ tối bao trùm trong khoảng trời đất Đã tỏ tinh thần cần kiệm ở chốn cung vi Khi ở núi Linh sơn, lương thực khô khan từng nhờ lo liệu Hồi ở trại lẫm Lộ, áo xiêm rách rưới thường cậy vá may Những nhớ đến công giúp đỡ tiên triều Hà lại quên ơn phù trì tiểu tử Buổi vừa bình định, người đã qua đời Tình chi hiếu muốn tỏ ra Lể truy sung phải nhớ đến Vậy tôn bà lên hàng ba vị Hậu phi, để tỏ sự vinh qui đặc biệt Than ôi Sinh nuôi dẫu khác, ơn săn sóc chính cũng như nhau Sống thác là thường, việc hộ trì hẳn là còn mãi Đó là những bài văn hay, làm cho người đọc được khoái trá Có lần ông bị lỗi phải hạ ngục, nhưng lại được than gay. Dần thăng lên đến Môn hạ Tả Gián Nghị Đại Phu kiêm Hàn Lâm Thừa Chỉ Học Sĩ, tước Tế Văn Hầu. Tính điềm đạm có chí ẩn dật. Thơ tặng bạn có hai câu rằng: Phiên âm: Thân ngoại phù danh yên các quýnh Mộng trung hoa điển cố sơn tri Dịch nghĩa: Việc được ghi công trên gác khói cao thẳm cũng chỉ là phù danh ở bên ngoài Thực ra, ta vẫn mơ màng cái cảnh hoa nở chim kêu ở chốn núi rừng Ông có cái biệt thự ở Kinh Bắc gọi là Tiên Viên. Cuối năm Thiệu Bình, ông đến cửa ai Nam Quan đợi mệnh Bắc Triều. Bấy giờ Thái Tông Hoàng Đế ngự giá Bắc tuần, đến chơi Tiên Viên, rồi bang hà đêm hôm ấy. Người ta bảo vợ ông là nàng Nguyễn Thị Lộ đã giết vua, nên ông bị tội, cả một nhà không kỳ lớn bé đều bị chu di ( Chém bỏ thây ở ngoài chợ) Khi xưa đánh nhau ở núi Mã Yên với quân Minh, quân ta bắt được Thượng thư nhà Minh là Hoàng Phúc. Hoàng giỏi phong thủy, khi ở nước at đã đi xem khắp các kiểu đất và có ghi cả. Đến nay Hoàng bị bắt, ông Nguyễn Trãi coi là tù binh, không cần kính trọng, Hoàng cười bảo rằng: - Mả tổ nhà tôi có Xà văn Tinh, nên dù có nạn cũng chỉ trong năm ngày mà thôi; không như mả nhà ông, có vạ rất lớn bị tru diệt Ông không tin, sau Hoàng được tha về mà ồng thì vì Thị lộ mà mắc tai vạ. Người ta cho là ứng nghiệm Nay xét mả Tổ nhà ông ở Nhị Khê, huyệt táng ở ruộng bằng phẳng, người thì cho là cách “tướng quân mở cờ” người thì cho là hình “tướng quân cụt đầu”. Vì hướng nam có cái gò rùa qua đuôi lại. Trong bảng Kiểm kì cuả Hoàng Phúc nói rằng: “Nhị khê mạch đoản, họa thảm chu di” chính là trỏ vào đấy vậy Đời truyền, khi ông chưa hiển đạt, ở làng Nhị Khê dạy học trò, một hôm trỏ cái gò ngoài đồng bảo học trò: - Ngày mai các anh giẫy cỏ ở cái gò ấy để dựng nhà dạy học Học trò vâng lời, tảng sáng hôm sau ông nằm mơ thấy một người đàn bà đến nói: - “ Tôi, người còn yếu. con còn nhỏ, xin hãy thư cho ba bữa, để tôi được dời đi nơi khác” Tỉnh dậy, ông ra gò xem thì thấy học trò đã dọn xong rồi. Họ bắt được 2 quả trứng, hỏi lí do, họ nói: - Vừa rồi thấy con rắn, chúng con đánh nó cụt đuôi chạy mất Ông cầm hai quả trứng về nươi giữ. Đêm hôm ấy chong đèn đọc sánh, ông thấy có một con rắn trắng leo lên xà nhà, rỏ giọt máu xuống sách, ướt chữ Đại (là đời), vết máu thấm xuống ba tờ giấy. Ông tự hiểu mà rằng: - Nó sẽ báo oán ta đến 3 đời sau Trứng rắn nở ra được 2 con, một dài một ngắn, ông sai đem thả xuống sông tô lịch ở làng bên, nay những rắn ấy làm thần sông Khi ông hiển đạt, thường mỗi ngày ở triều đình về, qua phố hàng chiếu, gặp một người con gái nhan sắc rất đẹp. Hai bên dùng thơ đùa cợt rồi ông yêu mến, lấy về làm thiếp. Trong năm Thiệu Bình, người ấy thường đi lại vào trong cung cấm, vua Thái Tông cho làm chức Nữ Học Sĩ. Đến khi vua thăng hà, Triều đình đem nàng ra hỏi tội. Nàng nói là do ông xúi. Vì thế nên ông phải tội. Khi bị hành hình, người con gái hóa thành con rắn bò xuống mặt nước mất Ông có một người thiếp chạy trốn xuống vùng Sơn Nam, ẩn ở nhà người rồi sinh ra được một người con trai là Anh Võ. Sau lâu, chủ nhà ấy mới biết là vợ lẽ của ông. Khoảng năm Quang Thuận (1460-1469) vua Thành Tông lên nối ngôi, thương ông mắc oan, xuống chiếu rửa tội, truy tặng là Thái Sư Tuệ Quốc Công. Dò hỏi về con cháu ông Trãi, mới tìm được Anh Võ đem về. Lớn lên Anh Võ làm quan ở Đài sảnh, rồi phụng mệnh đi sứ Tàu. Khi qua hồ Động đình, thấy trên mặt nước xuất hiện một con rắn, rồi song gió nổi lên dữ dội, ông khấn xin cho đi xong việc nước, sóng gió mới im. Sau khi đi chầu vua Tàu về, đến hồ Động Đình, thuyền bị úp sấp mà chết đuối, được truy tặng Thái Sư Sùng Quốc Công Trong năm, Cãnh Hưng (1740-1786) làm sổ dân chính. Triều đình muốn rút bớt ân trạch đối với những công thần khai quốc. Khi xem đến đạo sắc ông Trãi, quan Thị lang Bộ Hộ là Bảng Nhỡn Lê Quí Đôn xé đi mà rằng: - Đây là loạn thần tặc tử còn cáo sắc làm gì? Nói chưa dứt lời thì mơ màng ngủ lịm đi, thấy hai người lính đến bắt đem đi một nơi: chung quanh có tường bao vây và những cây cổ thụ, thân cây lớn bằng 10 vòng tay người. Trên điện có đến mấy chục chiếc ghế bành chạm rồng, hành lang phía hữu đặt 1 cái sập cao, có 1 vị quan văn ngồi, đội mũ phốc đầu, mặc áo hổ phục (5) hai bên tả hữu có người đứng uy nghiêm. Lính điệu ông bảng nhỡn vào bắt quì xuống thềm. Vị quan văn ngồi trên sạp cao quát lớn: - Ta là Tế văn Hầu, nhà ngươi là một gã tiểu sinh mới học, sao dám càn giỡ xúc phạm đến bậc bề tôi cũ có công của Triều trước, tội đáng chết không thể tha thứ Ông Bảng Nhỡn nín hơi không dám ngẩn mặt lên trông. Cạnh đấy, có một viên khan mỏng, áo tấc, van xin hộ. Một lúc lâu, Tế Văn Hầu mới nguôi giận mà nói: - Công danh sự nghiệp của ta, cố nhiên không thèm so sánh với nhà ngươi. Duy ngươi thường hay tự kiêu là tay giáp bảng thì về thử đọc Bình Ngô Đại cáo của ta, nếu ngươi có viết được hay hơn thì xé sắc của ta mới không có lỗi Ôi! Ông là người có những công lao to lớn như thế mà không giữ nổi được mình, con cháu lại bị chu di gần hết. Chó cỏ, rồng đất(4) vẫn là mối than chung từ xưa đến nay, thật đáng buồn thay Chú thích: (1) Hán Cao Tổ, khi còn hàn vi phải ẩn náu ở núi Mang Đường. Sách nói: thường có đám mây ngũ sắc che ở trên đầu (2) Hán Cao Tổ bị quân Sử vây ở Tuy Thủy, nhờ một trận gió bão tung cát mịt mù, mới được giải vây mà thoát nạn (3) Khi vua Quang Võ vì hết lương thực ở sông Hô Đà, Phùng Di dâng cơm, lại khi vua bị đói ở Võ Lân Đình, Phùng Di dâng cháo (4) Đời xưa cúng tế thường tết chó cỏ, nặn rồng đất để cúng. Cúng xong thì vứt đi. Vì thế người at thường ví vào những công thần, sau khi đánh Đông dẹp bắc xong thường bị coi rẻ (5) Bồ phục là thứ áo trước ngực, sau lung có thêu kim tuyến và cỉ tơ ngũ sắc. Áo quan văn có những hình cầm quan võ có những hình thú, để nêu rõ phẩm trật các quan http://hocthuatphuon...ic=4275.40;wap2
-
'Sạn' trong sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 1 Câu thơ nguyên văn trong bài Quê hương của nhà thơ Ðỗ Trung Quân làTuổi thơ con thả trên đồng, sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 1, tập 1, in "Chiều chiều con thả trên đồng" (bài 80, trang 163). Ðọc toàn bộ sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 1, tập 1, do Nxb Giáo Dục (Bộ Giáo dục - đào tạo) phát hành năm 2003, chúng tôi nhận ra nhiều sai sót. Theo đó, từ bài 1 đến bài 27, các chữ đầu câu và tên người không được viết hoa. Hỏi một giáo viên thì người này cho biết do những bài đầu chưa dạy học sinh chữ viết hoa và viết thường nên tạm không dùng chữ viết hoa để tránh làm học sinh rối trí(!). Thế nhưng sau bài 28, cách sử dụng chữ viết hoa vẫn tùy tiện. Cụ thể, bài 56 (trang 115) sách viết: "Trai gái bản mường cùng vui vào hội", nếu viết đúng thì chữ "mường" phải viết hoa ("Mường") vì là danh từ riêng. Còn các loài vật thì đều được viết hoa như Rùa, Khỉ, Kiến, Sên... nhưng cũng tùy tiện. Chẳng hạn trang "Một số bài học khác" thì việc viết hoa viết thường tùy hứng như "Sáo Sậu với châu chấu, cào cào, Sói và Cừu" (bài 43, trang 89), "Cừu" viết hoa còn "hươu, nai"... viết thường. Trích dẫn không chính xác viết hoa tùy tiện - Ảnh: Như Hùng - chụp từ sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 1, tập 1, Nxb Giáo Dục 2003. Ðộ tuổi các trẻ (6 tuổi) chưa có nhiều khái niệm về cuộc sống xung quanh nhưng nội dung sách lại đánh đố bằng câu chữ như "Nhà Dế Mèn ở gần bãi cỏ non, còn nhà Sên thì ở ngay trên tàu lá chuối". Sên ở đây nghĩa là ốc sên, nhưng trong sách chỉ ghi Sên. Bản thân người viết phải nhìn hình minh họa mới biết nói về loài ốc chứ không phải tên người. Hỏi lý do thì nghe trả lời là do các bé chưa học chữ "ốc" nên bỏ chữ này không viết ra (!). Các em luyện viết, luyện đọc và hiểu từ không chỉ qua con chữ mà còn qua hình minh họa. Thế nhưng những hình ảnh minh họa trong sách nét vẽ còn dối so với rất nhiều tranh, ảnh trên các sách khác. Nhiều bài học còn thể hiện độ vênh giữa hình vẽ với nội dung cần truyền đạt. Ðó là ảnh minh họa cho từ "giữa trưa" (bài 30, trang 63), sách in hình một người đàn ông đứng trong bóng râm đang cởi trần cho mát. Phải là người trưởng thành mới liên tưởng được vì giữa trưa nắng nóng, phải tìm vào bóng râm, nhưng dùng cách này thì trẻ con không thể hiểu được. Hình và chữ lệch pha như vậy rất khó cho việc dạy và học. Ngoài ra trong cấu trúc câu cũng gặp lỗi như "bò bê có cỏ, bò bê no nê" (bài 13, trang 29) đúng phải là từ "ăn" chứ không phải là "có", hoặc câu "mẹ cho bé ra y tế xã" (bài 26, trang 55), thay vì phải là "trạm y tế xã"... Sách Tiếng Việt lớp 1, tập 1 đã áp dụng hơn mười năm nhưng những sai sót này vẫn không được chỉnh sửa, điều này khiến các phụ huynh lo lắng, thậm chí nhiều người cho rằng "học sách cải cách chưa biết hiệu quả ra sao, chỉ biết hiện nay tình trạng viết sai chính tả, viết hoa không theo nguyên tắc và văn phạm lủng củng diễn ra khá phổ biến, kể cả ở những người trưởng thành". Theo Đàm Vũ/Tuổi Trẻ ============================= Cứ tưởng Thiên Đồng sai chính tả, nhớ nhầm câu là bình thường. Ai ngờ sách giáo khoa cũng nhớ nhầm và sai chính tả. Chắc là...bình thường.