Thiên Đồng

Hội viên
  • Số nội dung

    6.278
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    75

Everything posted by Thiên Đồng

  1. Hình âm dương Việt trên áo bô lão
  2. Ngoài lễ tế khai mạc, Hội mùa xuân Hoàng thành năm 2009 còn diễn ra nhiều hoạt động ý nghĩa khác như trưng bày, triển lãm các sản phẩm làng nghề truyền thống, tranh khắc dân gian, tranh gốm, áo long bào phục chế, cùng nhiều sinh hoạt văn hoá nghi lễ truyền thống, múa cổ, lễ hội đúc trống đồng, võ thuật cổ truyền... Đặc biệt, Hội xuân này sẽ có cả không gian trưng bày “Nét văn hoá xứ Đoài” thông qua hơn 200 cổ vật tiêu biểu đại diện cho từng thời kỳ từ văn hóa Đông Sơn; gốm sứ Lý, Trần, Lê, đến Nguyễn. . Hội xuân Hoàng thành chính là dịp để du khách khắp nơi hiểu hơn về văn hoá lịch sử Thăng Long xưa và Hà Nội nay. Hội xuân sẽ kết thúc vào Rằm tháng Giêng Kỷ Sửu. Hà Thành Ảnh: Quang Minh
  3. Anh Phạm Văn Cường gửi qua mail cho Thiên Đồng bài và ảnh mà anh tìm được. Chân thành cảm ơn anh Cường. ================ Chùm ảnh: Lễ tế khai hội xuân Hoàng thành Thăng Long Hội xuân Hoàng thành Thăng Long 2009 đã chính thức khai mạc bằng lễ tế theo nghi thức truyền thống trước thềm Rồng điện Kính Thiên trong khu di tích Thành cổ (Hà Nội) sáng 29/1. Hội xuân Hoàng thành Thăng Long 2009 do Trung tâm Bảo tồn khu di tích Cổ Loa -Thành cổ Hà Nội tổ chức với nhiều hoạt động, phục dựng và tôn vinh những giá trị truyền thống của văn hoá dân tộc, đồng thời như một bước tập dượt, hướng đến các nghi thức Tế lễ trong đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội. Mở đầu Hội xuân Hoàng thành là màn múa Bài Bông, điệu múa cung đình cổ xưa do các nghệ nhân đến từ xã Phú Nhiêu (huyện Phú Xuyên - Hà Nội) thực hiện. Tiếp đến là chương trình tế xuân của các bô lão thuộc nhiều đoàn tế, dàn nhạc lễ từ các quận, huyện trong thành phố.
  4. Giải mã trò chơi dân gian: TÍNH MINH TRIẾT TRONG TRÒ CHƠI LÒ CÒ XỦN Thiên Đồng – Bùi Anh Tuấn Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông Phương Một trò chơi của trẻ em rất phổ biến trong dân gian Việt có thể đang ẩn giấu phía sau nó những mật mã có thể làm sáng tỏ hơn cho một lý thuyết học thuật cổ Đông phương đầy tính minh triết thuộc nền Văn hiến Lạc Việt gần 5000 năm huyền vĩ bên bờ nam sông Dương Tử. LỜI GIỚI THIỆU Kính thưa quí vị quan tâm. Có thể nói đây là một bài viết với những ý tương xuất sắc của tác giả Thiên Đồng Bùi Anh Tuấn - một thành viên nghiên cứu của Trung Tâm nghiên cứu Lý học Đông phương. Qua bài viết này, chúng ta thấy một sự liên hệ chặt chẽ giữa một trò chơi của trẻ em Việt Nam với những nguyên lý căn bản của thuyết Âm Dương Ngũ hành và mối liên hệ với những gía trị văn hóa phi vật thể truyền thống khác còn lưu truyền trong văn hóa dân gian Việt; như: Bánh chưng bánh dầy, ô ăn quan...vv.... Từ những sản phẩm của trí tuệ thể hiện qua những hình thức trò chơi dân gian tưởng chừng như đơn giản ấy, chúng ta lại nhận thức được mối liên kết hữu cơ rất chặt chẽ của những di sản văn hiến phi vật thể Việt với một lý thuyết đồ sộ và bí ẩn, làm tốn biết bao giấy mực của các nhà nghiên cứu quốc tế từ hàng thiên niên kỷ. Điều này càng thấy rõ một chân lý khách quan minh chứng cho Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huyền vĩ ở bờ nam sông Dương tử và là chủ nhân đích thực của nền Lý học Đông phương. Thiên Sứ - Nguyễn Vũ Tuấn Anh. Giám đốc trung tâm nghiên cứu Lý Học Đông phương I. SƠ LƯỢC VỀ TRÒ CHƠI1. Trò lò cò xủn ở Nam Bộ Việt Nam. Dưới đây là đồ hình trong trò chơi Lò cò xủn phổ biến ở Nam bộ Việt Nam. Độc giả xem hình dưới đây: Khi chơi, trẻ em thường vẽ đồ hình trên dưới đất bằng que vạch, hoặc phấn trắng trên nền gạch. Đồ hình gồm 10 ô từ 1 đến 10, gọi là 10 mức. Một ô với hình bán nguyệt trên cùng gọi là ô Trời hay mức Trời. Ba đường thẳng có chia đuôi gọi là đuôi chuột, nhằm phân ranh giới trái phải của vị trí khởi hành và kết thúc. Điều kiện chơi: * Vẽ hình trên mặt đất như hình trên * Ô 1, 2, 3, 4 và 7, 8, 9, 10 buộc phải lò cò (Di chuyển bằng một chân, chân kia co lên). * Ô 5 và 6 thì được phép bẹp 2 chân. * Đối tượng chơi: không phân biệt nam nữ, ấu lão, có thể lực có thể tham gia. * Hình thức: thi đấu tay đôi hay nhóm đối kháng. * Vật dụng: gọi là “chàm” thường là một viên đá, gổ hay những vật tương tự có bề mặt tròn dẹt, phải dùng chân đứng để di chuyển trong lúc chơi. Cách chơi Người chơi đến lượt mình vào vị trí khởi hành, thảy chàm bắt đầu từ ô số 1 và nhảy vào ô số 1 với một chân co một chân duỗi, dùng một chân di chuyển viên chàm từ ô số 1 lần lượt sang ô số 2, cứ thế thuận tự cho đến hết 10 ô. Đi đến ô nào bị phạm lỗi theo quy định thì phải ngừng chơi đến lượt người khác. Khi đến lượt mình thì bắt đầu từ ô đã đi được trong lần trước. Khi đi hết các ô từ 1 đến 10 thì người chơi thảy chàm sao cho vào ô Trời rồi di chuyển bằng cách nhảy chàng hảng hai chân từ ô 1-10, 2-9, 3-8, 4-7, 5-6, rồi quay ngược lại dừng lại ở ô 5-6, vẫn ở vị trí chàng hảng, nhưng ngồi xổm xuống thấp, lòn tay qua dưới 2 chân mò tìm chàm cho được mới thôi. Xong, người chơi di chuyển bằng cách như lúc đầu về vị trí khởi hành. Ở vị trí khởi hành, người chơi lại tiếp tục đi những thử thách tiếp theo, gọi là mụt ghẻ ở tay, ở chân, ở đầu và gánh nước bằng cách để viên chàm ở mu bàn tay, mu bàn chân, vai, đầu rồi di chuyển qua từng ô từ 1 đến 10, mà không lò cò sao cho chàm không rơi. Hết một vòng khi trở về vị trí khởi hành, người chơi tung viên chàm lên không rồi đưa tay bắt lấy, nếu rớt chàm thì dừng chơi, chờ lượt đi lại. Hết những thử thách, người chơi được quyền “cất nhà”, bằng cách đứng dạng hai chân ở vị trí khởi hành và vị trí dừng, quay lưng lại với vị trí đồ hình rồi tung chàm ngược ra sau. Chàm được phép rơi vào một trong 10 ô, không cán mức, không văng ra ngoài đồ hình thì coi như thành công. Chàm ở ô nào thì ô đó gọi là “nhà” và người chơi đi đến đó thì có quyền đứng 2 chân, không được co chân. Nếu lỡ co chân là “cháy nhà”, ô đó trở lại ô bình thường như ban đầu. Những người chơi khác, hoặc không cùng phe, không được quyền đứng hai chân ở nhà người khác, hoặc phe khác. Cất nhà xong, người chơi trở lại mức khởi điểm là mức 1 và tiếp tục một chu trình mới. Cuộc chơi ngừng khi các ô trở thành nhà của mình hoặc của đối thủ. Những ô đã trở thành nhà thì không phải thảy chàm vào ô đó. Ai hoặc phe nào nhiều nhà nhất được coi là thắng cuộc. Điều kiện ngừng chơi: * Trong khi di chuyển chàm, nếu chàm phạm vạch thì phải ngừng chơi và đến lượt người khác. * Chân đạp ranh giới giữa các ô hay chàm dừng ở ranh giới giữa các ô hay văng ra khỏi đồ hình. Tuy nhiên chàm văng vào giữa hai đôi chuột thì không bị phạm điều kiên này. * Lò cò vào ô 5 hay 6 thì người đi bị dừng chơi. * Bẹp 2 chân vào mức 1,2,3,4,7,8,9,10. * Cuộc chơi ngừng khi cả hai bên đồng ý ngừng Hình minh họa - Trẻ em chơi Lò cò xủn. 1. Trò lò cò xủn ở Bắc Bộ Việt Nam. Sự khác nhau giữa hình trò chơi ở miền Bắc với miền Nam - ở trên - là chỗ nơi ô Trời có hình tam giác, vẽ lớn hay nhỏ tùy theo người chơi. Do vậy nội dung quy định và cách thức chơi đại để giống như ở miền Nam, nhưng có cái khác cách chơi ở miền Nam một chút. Cụ thể, khi đi đến mức 5 thì người chơi xủn cho viên chàm vào “ô Trời” đồng thời cũng nhảy lò cò vào ô đấy. Có 2 trường hợp xẩy ra: Nếu chàm ở ngoài phạm vi ô tam giác thì người chơi chỉ được xủn một lần sao cho sang ô 6 mà không di dịch chàm nhiều lần trong “ô Trời”. Nếu chàm rơi vô đúng hình tam giác thì ngưới chơi phải xủn chàm ra khỏi khu vực tam giác rồi được phép xủn tiếp sang ô 6. Nhưng nếu chàm sau khi xủn ra mà vẫn còn vướng lại trong tam giác hay vướng ở biên của tam giác đó thì phạm quy, gọi là “Xê xích thủ”, buộc người chơi phải đi lại từ ô 01 đầu tiên. Trò chơi chỉ đơn giản như vậy nhưng mang đầy tính chất thể thao, nghệ thuật và trí tuệ. Bởi khi người tham gia cuộc chơi cần phải có một thể lực ổn định, một tinh thần nhạy bén giúp cho sự vận động và quan sát để thực hiện cách chơi. Đồng thời cần phải có sự khéo léo trong những động tác, hành động di chuyển để thắng cuộc. Vì vậy có thể nói trò chơi dân gian Việt, ngoài việc mang ý nghĩa lợi ích về tinh thần và thể lực cho người chơi thì nó lại chính là một loại hình văn hóa mang đậm nét trí tuệ sâu sắc của dân tộc Việt. Tuy nhiên, nếu nó chỉ dừng lại ở tác dụng của một trò chơi thì nó không phản ánh được một tư duy cao cấp hơn của một dân tộc có một nền văn hiến rực rỡ, văn hiến Việt 5000 năm. Bởi nội dung của trò trơi đó lại chuyển tải những mật mã, những thông điệp bí ẩn về một tri thức cao cấp của nền văn hiến ấy. II. GIẢI MÃ NHỮNG BÍ ẨN TRONG TRÒ CHƠI Từ những tác phẩm “Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại”, “Định mệnh có thật hay không?”, “Hà đồ trong văn minh Lạc Việt”, “Tính minh triết trong tranh dân gian Việt nam”…của nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh, lấy cảm hứng từ những sự hiệu chỉnh về nguyên lý lý thuyết học thuật cổ Đông phương hay sự giải mã của Ông về những bí ẩn trên linh vật bánh Dầy – bánh Chưng, những câu ca dao hay những trò chơi dân gian “chơi ô ăn quan”…người viết tiếp nối nguồn cảm hứng ấy hay ít ra là sự học tập từ một người Thầy, thử khám phá thêm những bí ẩn đằng sau những trò chơi dân gian, cụ thể là trò “Lò cò xủn” nhằm làm phong phú hơn cho sự nhận thức về một hệ thống lý thuyết thuộc nền văn minh Lạc Việt. 1. Bánh Chưng, Bánh Dầy - Linh vật của nền văn hiến Việt. Nếu câu chuyện bánh chưng bánh dầy lưu truyền trong tâm thức người dân Việt từ ngàn xưa như một mặc khải cho một hình tượng thiêng liêng của nền văn hiến Việt, dân tộc duy nhất trên thế giới dùng thực phẩm làm biểu tượng chuyển tải một giá trị minh triết đông phương, một tri thức về vũ trụ quan sâu sắc thì trò chơi dân gian, cụ thể là trò chơi lò cò xủn, là một phương thức khác âm thầm truyền lưu những tri thức ấy và như là một “dấu ấn” minh chứng cho chủ nhân của nền văn minh này. Từ bao đời nay, trong những ngày xuân mới, Tết đến, người dân Việt, con cháu Rồng Tiên với cả lòng thành kính dân lên tổ tiên Lạc Hồng đôi bánh Chưng – bánh Dầy, biểu hiện cho tâm thức người Việt. Một chi tiết tinh tế cũng như là một nghi thức chuẩn xác rằng khi đặt đôi linh tượng bánh Chưng – bánh Dầy lên bàn thờ tổ tiên Lạc Hồng thì luôn luôn chiếc bánh Dầy được đặt chồng lên trên chiếc bánh Chưng. Cũng theo cách giải thích của người xưa cho hậu nhân rằng Trời ở bên trên, đất ở bên dưới, bánh Dầy để trên bánh Chưng là ý đó. Một chiếc bánh bằng nếp giã trắng tinh hình tròn với vòng cung vồng lên hình bán nguyệt biểu thị cho Trời trên, một bánh Chưng hình khối vuông gói bởi lá xanh biểu thị cho Đất dưới;Lạ lùng thay được tái hiện lại một cách thông minh tuyệt vời bằng đồ hình của trò Lò cò xủn, truyền lại cho hậu thế bằng một loại hình trò chơi dân dã, chứa đựng tài tình nội dung một nguyên lý của thuyết Âm Dương Ngũ hành. Một ô hình cung bán nguyệt bên trên một ô lớn hình vuông chứa 10 ô nhỏ là một cách tái hiện rất giản đơn, nhưng tinh tế và rất cũng vô cùng bí ẩn hình tượng của bánh Dầy để trên bánh Chưng. Hay nói chính xác hơn là một đôi phạm trù Âm Dương. Trong trí nhớ của những trẻ nhỏ chơi trò Lò cò xủn, trong đó có cả người viết, ô hình cung bán nguyệt, theo quy định của trò chơi, được gọi là “ô Trời” hay “mức Trời” và 3 đường tua rua gọi là “đuôi chuột”, chính sự quy định này như là một mật ngữ, như là một chìa khóa để cho người viết khám phá ẩn ý đằng sau trò chơi. 2. Ẩn Ngữ “Dương trước Âm sau”: Vòng cung bên trên, theo một sự hiển nhiên, được đám trẻ nít của bao đời gọi là “ô Trời”, 3 tua rua cuối gọi là “đuôi chuột”. Hai chi tiết nhỏ nhưng qúy báu. Ô vòng cung được gọi là Trời đối lập với cái khác nó là hình vuông hay hình chữ nhật, tùy theo cách vẽ của người chơi, lẽ dĩ nhiên sẽ gọi là Đất theo sự giải mã. Chi tiết còn lại là 3 tua rua “đuôi chuột”. Chi Tý tức là chuột, con giáp đứng đầu trong 12 con giáp, gọi là Địa Chi thì ngay trong trò chời Lò cò xủn được nhắc đến, được dùng làm ranh giới cho mốc khởi đầu và kết thúc lượt chơi. Nhưng chi tiết này chỉ nêu một phần của chuột. Đó là “đuôi chuột”, tức cái phía sau của chuột. Như vậy cái đối lập với Trời, là ô vuông, được gắn kết một chi tiết phụ là “đuôi”, nghĩa là muốn nói cái có “sau”, là Đất, đối đãi với cái có trước là Trời. Cặp phạm trù Trời – Đất được mã hóa bằng đồ hình của trò chơi, cũng chính là một cách vẽ giản lược của hình ảnh bánh Dầy trên bánh Chưng, rõ ràng đây là hình tượng ám chỉ ý “Dương trước Âm sau”. Tuy nhiên, điều này vẫn chưa đủ đầy, khi đằng sau nó còn mang một nội dung sâu sắc hơn… 3. Ẩn ý “ Dương tịnh Âm động” và “ Mẹ tròn Con vuông” Khi vạch xong 10 ô, trẻ nhỏ hay người chơi không quên đánh số thứ tự vào từ 1 đến 10. Đây lại là một bí ẩn…lộ rõ từ hàng ngàn năm trước, nhưng chưa bao giờ được giải nghĩa cũng từ bao lâu...Thuận tự của các số được đánh số từ dưới đi lên, từ trái sang phải, từ trên xuống dưới, hết một vòng theo đúng chiều thuận, chiều kim đồng hồ…. cho thấy rằng 10 con số trùng hợp với 10 Thiên Can. Khi người viết mạo muội cho áp theo thứ tự của 10 Can theo thứ tự 10 số thì chiều tương sinh của ngũ hành hiển thị chiều vận động của của Thiên Hà trong vũ trụ được diễn giải cô động trên nguyên lý căn để là Hà Đồ. Từ sự giải mã của phần trên, cho rằng đồ hình trò chơi Lò cò xủn là đồ hình giản lược của hình tượng bánh Dầy trên bánh Chưng, linh tượng của văn hiến Việt, biểu thị cho sự lý giải về thể bản nguyên vũ trụ - tức bánh Dầy- và một trạng thái đối đãi có sau nó – tức bánh Chưng- thì ngay trong trò chơi, tính trạng của hai thể đối đãi này được diễn tả trực thị qua quy định và hoạt động của trò chơi. Trước tiên, xin khảo qua một đoạn trong tác phẩm “Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại’, trang 40, của nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh: Quy định của trò chơi, người chơi chỉ “đi”, tức mọi hoạt động di chuyển và diễn biến của trò chơi, chỉ diễn ra trong phạm vi hình vuông, 10 ô số, và chiều di chuyển của người chơi là chiều thuận của chiều kim đồng hồ cũng chính là chiều tương sinh của âm dương ngũ hành. Một cách trực kiến, ô hình vuông được diễn tả ý nghĩa “động” qua những hoạt động của người chơi, theo chiều biểu kiến của người “đi” nước lò cò, là chiều biểu kiến sự vận động tương tác thuận của ngũ hành được thể hiện trên Hà Đồ. Nói một cách khác, phần ô vuông trên đồ hình của trò chơi là diễn tả bằng một hình thức khác đồ hình của Hà Đồ, tức diễn tả trạng thái sau khởi nguyên của vũ trụ là Âm Động đối đãi có sau so với Dương tịnh có trước. Ý nghĩa Dương tịnh, tức Thái Cực chí tịnh là bản nguyên của vũ trụ khi chưa có cái đối đãi, được giản đơn bằng một ô bán nguyệt cung tròn viên mãn, gọi là “mức Trời”, mà nơi đó người chơi không được phép “đi”, tức ô Trời được để trống không, yên tịnh, nhằm diễn tả nghĩa Tịnh của cái Dương, cái Thái Cực. Ẩn ý “Dương tịnh Âm động”, Mẹ tròn con vuông” được mã hóa một cách khéo léo, bí ẩn và giản đơn thông qua mô hình giản lược, một trò chơi của trẻ nhỏ lột tả hết nội dung của một nguyên lý lý thuyết học thuật cổ Đông phương và dường như trong trò chơi còn diễn giải những ẩn ý về sự nhận thức vũ trụ. 4. Ẩn Ý Về Sự Nhận Thức Vũ Trụ: “Tính Thấy Trong Minh Triết Cổ Đông Phương”. Trong cách thức chơi, có một quy định về một “nước đi” như sau: “Khi đi hết các mức từ 1 đến 10 thì người chơi thảy chàm sao cho vào ô Trời rồi di chuyển bằng cách nhảy chàng hảng hai chân từ ô 1-10, 2-9, 3-8, 4-7, 5-6, rồi quay ngược lại dừng lại ở ô 5-6, vẫn ở vị trí chàng hảng nhưng ngồi xổm xuống thấp, lòn tay qua dưới 2 chân mò tìm chàm cho được mới thôi. Xong, người chơi di chuyển bằng cách như lúc đầu về vị trí khởi hành.”. Hoạt động của trò chơi chủ yếu diễn ra trên ô vuông lớn chứa 10 ô theo quy định, riêng ô Trời không được đi vào đó, nhưng khi đi hết 10 ô thường thì được phép thảy chàm vào “ô Trời”, muốn lấy chàm thì phải nhảy cóc bằng 2 chân trong 2 ô, rồi dùng sự phán đoán mà nhặt chàm. Từ những sự giải mã trên, “ô Trời” là mật thư cho hình tượng bánh Dầy, là ý niệm về cái Dương, là Thái Cực, đó là trạng thái về bản nguyên của vũ trụ. Có thể tổ tiên Lạc Hồng với nền văn hiến Lạc Việt gần 5000 năm, kể từ năm Nhâm Tuất 2879 trc CN, muốn chuyển tải một ẩn ngữ rằng “Sự nhận thức về một thực tại khởi nguyên của vũ trụ không thể thông qua sự logich lý trí, suy luận của cái đầu mà phải nhận thức thực tại ấy bằng một tư duy trù tượng cao cấp ngay từ bản nguyên và gốc rể của nó” Chi tiết trong trò chơi cho thấy rõ, người chơi không nhìn trực tiếp để nhặt chàm. Nếu quay lưng lại, không nhìn ra sau,thì phải lòn tay qua hai chân mà không lòn tay ra sau lưng, do vậy phài cần đến sự phán đoán của tư duy trừu tượng - đây chính là sự nhận thức sự khởi nguyên của vũ trụ tại giây /0/tuyệt đối. Cũng tương tự như sự khởi sinh của một con người thoát ra từ bụng mẹ thì hành động lòn tay qua hai chân dưới và ngang bộ phận sinh dục, bộ phận khởi sinh những “tiểu vũ trụ” là con người, thì đó lại là một ẩn ngữ cho biết rằng có một lý thuyết toàn diện giải thích thực tại từ sự khởi nguyên của vũ trụ và muốn nhận thức thực tại ấy thì không gì khác hơn rằng phải dùng tư duy trù tượng nhận thức lại từ căn để thực tại ấy, đó gọi là tính “Thấy” hay gọi là Tính “Biết” được diễn từ hằng ngàn năm trong Lý học Đông phương. Hành động người chơi phải nhảy cóc hai chân trên hai ô, hai hành Âm Dương có thể là một ẩn ngữ cho biết rằng muốn tiến tới một nhận thức tuyệt đối là bản nguyên vũ trụ, tính “Thấy” hay tính “Biết” phải vượt qua tâm lý nhị nguyên, phải đạt được trạng thái của sự cân bằng âm dương thì mới có thể tiệm cận đến trạng thái tuyệt đối ấy. Hình minh họa - Lòn tay ra sau lưng tìm chàm 5. Tịnh - Động là tương đối sau khởi nguyên Vũ Trụ Ở cách chơi phổ biến vùng Nam Bộ Việt Nam, trò chơi diễn tả rõ bản chất của Dương tịnh và Âm Đông qua những biển hiện cụ thể của trò chơi. Nhưng trờ chơi lò cò xủn ở vùng Bắc bộ Việt Nam thì có chút khác biệt về hình thức thể hiện đồ hình, chính sự khác biệt này lại diễn tả một ý khác của Lý học đông phương: “Tịnh động là tương đối sau sự khởi nguyên của vũ trụ”. So với cách chơi và đồ hình trò chơi vùng Nam bộ thì cách chơi vùng Bắc bộ người chơi được phép lò cò vào “Ô Trời”, nhưng không được phép dịch chuyển chàm nhiều lần trong ô này, khác với ô 1 đến 10 được phép dịch chuyển nhiều lần có thể. Như vậy nhìn chung, cả đồ hình, mọi chổ đều thể hiện tính chất “động”, tuy vậy tiền nhân đã ý nhị sắp sẵn sự quy định sự di chuyển ở “ô Trời” bị hạn chế hơn 10 ô còn lại, chi tiết này thật tinh tế. Người viết cho rằng đó là sự diễn tả ý nghĩa “Tịnh động tương đối”. Xin khảo qua một đoạn trong “Thời Hùng Vương và bí ẩn Lục thập hoa giáp”, tg Nguyễn Vũ Tuấn Anh, trang 33: Có thể hiểu, mặt trời tỏa sáng và tịnh so với Trái đất, nhưng ngay trong bản thân mặt trời, các hiện tượng sôi sục, cháy bỏng, bão mặt trời vẫn diễn ra quyết liệt ngay trong nội tại. Sự nhìn nhận cái “Động Tịnh” phải được xem xét trong cái toàn thể và trong mối tương quan đối đãi thì mới thấy được tính chân lý của vấn đề. Hay nói cách khác là sự phân biệt Động Tịnh mang tính đối đãi so sánh và tùy từng hệ quy chiếu. 6. Tri thức nhân loại tiến tới sự nhận thức Bản nguyên Vũ Trụ Trong đồ hình trò chơi vùng Bắc bộ, phần ô Trời được vẽ thêm hình tam giác và khi người chơi không dịch chuyển được chàm ra khỏi tam giác này bằng một lần đẩy duy nhất thì bị phạm quy, gọi là “xê xích thủ”. Yếu tố bí ẩn lại được tăng thêm khi xuất hiện chi tiết này. Các cụ ngày xưa đều biết, khi vẽ hình tượng tam giác là một hình tượng mang ý nghĩa thô tục xấu xa. Một hình tam giác được vẽ trên vách tường nhà, kế bên là câu chửi. Tranh cổ của Hăng-ri -Óc ghe đầu thế kỷ XX. Một hình tam giác được vẽ ở vách một ngôi nhà để “chửi” hay có ý nghĩa mĩa mai một ai đó như ngày nay người ta vẫn vẽ trên tường những câu thô tục vẫn thường thấy. Bởi hình tượng tam giác trong hiện tượng văn hóa dân gian của người Việt thể hiện cho sinh thực khí nữ, hay nói đúng hơn là bộ phận khởi sinh cho những “tiểu vũ trụ” con người. Hình vòng cung bán nguyệt “ô Trời” như một cái bụng bầu của người phụ nữ, điểm xuyết thêm một tam giác và như vậy hình ảnh phồn thực khi phụ nữ lâm bồn, chuyển dạ được cách điệu tinh tế thông qua khả năng trừu tượng của người quan sát. Một chi tiết thật bất ngờ và bí ẩn, ngay cả khi người viết nhận ra hình tượng này, thán phục trước sự tinh tế của tiền nhân Lạc Việt. Từ sự quán xét hình tượng trên, có thể đây hiểu rằng đây là một hình tượng cô động diễn tả nội dung của của Nguyên lý học thuật cổ đông phương về sự khởi nguyên của vũ trụ, cái bản nguyên duy nhất và trước nhất mà mật ngữ dân gian Việt thường gọi “Mẹ tròn”, nay sự điểm xuyết của hình tượng tam giác nâng lên hay khẳng định “tính mẹ” của khái niệm, nghĩa là vũ trụ được khởi sinh từ một thể bản nguyên viên mãn, như một đứa con sinh ra từ bụng người mẹ. Cũng giống như hành động lòn tay qua hai chân của người chơi trong cách chơi thứ nhất, ý nghĩa của hình cung tròn và tam giác muốn chuyển tải một ẩn ngữ diễn đạt về sự nhận thức một thực tại vũ trụ phải thông qua một tư duy trừu tượng mới có thể nhận thức được thực tại đó cho mọi sự khởi nguyên. Hình tam giác trên chóp Kim tự tháp trên tờ đô la. Mặt khác, hình tượng tam giác được nhìn thấy ở nhiều dân tộc trên thế giới như các Kim tự tháp Ai Cập, Hy Lạp, Kim tự tháp InCa, Maya, như chóp tam giác có hình con mắt trên tờ dollar…là biểu tượng sự thông minh, sự huyền bí hay những tri thức chưa được biết đến. Bằng một óc tưởng tượng giản đơn: một hình ảnh của kim tự tháp nào đó hiện ra dưới vòm trời bao la được giản lược qua đồ hình của trò lò cò. Sự trùng lặp đôi khi có hay không có nguyên do, nhưng nếu chỉ gói gọn trong trò chơi dân gian Việt, trong phạm vi giải mã của trò chơi thì tam giác và cung tròn cũng đủ tạo nên một hình tượng “con mắt huyền bí” chứa đựng những ẩn ngữ cho một lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành, lý thuyết học thuật cổ đông phương, lý thuyết thống nhất vũ trụ. Do vậy một mật mã cuối cùng của trò chơi được giải nghĩa rằng: “Phải nhận thức bản nguyên của vũ trụ là cái toàn thể, cái duy nhất một, cái mang tính Mẹ với sự viên mãn, chí tịnh khởi sinh vạn hữu và “cái đó” được khái niệm gọi rằng tính Thấy hay tính Biết được diễn giải trong nguyên lý học thuật cổ đông phương từ bao đời nay.” Hình trẻ em Việt Nam chơi lò cò xủm III. LỜI KẾTSự giải mã không nhằm làm bằng chứng chứng minh mà nhằm khám phá những bí ẩn đằng sau những dấu ấn văn hóa vật thể hay phi vật thể còn phổ biến hay âm thầm tồn tại trong xã hội người Việt hằng ngàn năm. Những thăng trầm của lịch sử tương tự như sự thăng trầm tồn tại của một học thuyết cổ Đông phương đã làm cho lý thuyết ấy bị thất truyền thì những giá trị được che giấu hay ít ra là trùng lấp ẩn sau những văn hóa vật thể hay phi vật thể như ca dao, hò vè, tục ngữ, dân ca, hình tượng, biểu tượng hay những trò chơi dân gian…sẽ làm định hướng cho việc làm hoàn chỉnh hay nhận thức đúng đắn một lý thuyết cổ đông phương mà nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh từng khẳng định đó là một “Lý thuyết thống nhất vũ trụ”, một lý thuyết mà các nhà khoa học hiện đại từng mơ ước: Hay như SW Hawking, nhà vật lý thiên văn hàng đầu thế giới, đã từng viết: Nhưng thật thú vị, những quy luật vũ trụ thuộc một lý thuyết cho sự nhận thức về thực tại vũ trụ lại được diễn tả cô động và sinh động chỉ trên một trò chơi trẻ nhỏ của người Việt. Chỉ có thể có ở một sự thông minh linh hoạt của những chủ nhân của nền học thuật cổ Đông phương thuộc nền văn minh Lạc Việt mới có thể mã hóa một cách xúc tích những ẩn ý của lý thuyết cao cấp ấy. Đó chính là câu trả lời cho sự băn khoăn của nhà khoa học hàng đầu SW Hawking, khi ông đặt vấn đề: Lý thuyết ấy được tập cho trẻ em Lạc Việt ngay từ khi còn thơ ấu qua trò chơi Lò cò xủn, ô ăn quan , bánh chưng, bánh dầy...... Tp HCM, 16/12/2010 Thiên Đồng Bùi Anh Tuấn ===================================== Tài liệu Tham khảo: - Hà Đồ trong văn minh Lạc Việt, tg Nguyễn Vũ Tuấn Anh, NXB Tổng Hợp TpHCM 2007 - Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại, tg Nguyễn Vũ Tuấn Anh, NXB Tổng Hợp TpHCM 2003 - Tính minh triết trong tranh dân gian Việt Nam. - Phong thủy Lạc Việt, tg Nguyễn Vũ Tuấn Anh, lưu hành nội bộ.
  5. NGUYỄN XUÂN QUANG – TẠI SAO GỌI RẮN LÀ TỴ? Năm nay xuân lại về, chúng ta lại tìm hiểu tên con giáp của năm Tỵ. Tôi đã viết trước đây, tên 12 con giáp không phải là do người Trung Hoa phát kiến ra. Chúng ta là Việt Mặt trời rạng ngời, có một nền văn minh Hừng Việt chói chang, thờ mặt trời còn ghi khắc lại trong sử đồng Đông Sơn, có nền văn minh sông biển giỏi về thủy vận nên rất rành về niên lịch, năm tháng, thiên văn. Cổ sử đã ghi Việt Thường đã có Việt Dịch nòng nọc ghi trên lưng rùa về thời Đạo Đường, vua nhà Chu sai chép lại gọi là lịch rùa. Vì thế người Việt cổ có niên lịch, năm tháng mang tên bằng tiếng Việt là một chuyện có thật. Thật vậy, tác giả Bùi Huy Hồng trong bài “Mấy Nét Về Thiên Văn Học Thời Hùng Vương” đã viết “Ở Cam-pu-chia còn lưu lại đến ngày nay một cuốn lịch cổ nhất là lịch Bầu Ràn (634 AD) dùng 12 tên con giống tiếng Việt và tiếng Mường…” (Hùng Vương Dựng Nước, 1972, t. III, tr. 299). Nếu tên 12 con giáp này của Việt Nam thì chúng bắt buộc phải có nghĩa thuần Việt, nghĩa là phải hiểu theo kiểu nôm na mách qué của những người Việt dân dã chứ không phải hiểu theo nghĩa bác học. Để chứng minh tên của 12 con giáp đều là tên thuần Việt, có nguồn gốc Việt Nam, ta không phải chỉ dựa vào Hán ngữ, mà ta phải dựa vào tất cả ngôn ngữ loài người trong đó có Ấn Âu ngữ (Anh, Pháp ngữ…) vốn ruột thịt với các từ thuần Việt. Qua các bài viết vào những mùa xuân trước đây, chúng ta đã biết: .Hợi là con hoi, con oi, con mỡ, con vật cung cấp mỡ. Hoi liên hệ với Pháp ngữ huile, oi liên hệ với Anh ngữ oil. Với h câm, hoi = oi (miệng coi hoi sữa hay oi sữa) = oil. Việt ngữ mỡ liên hệ với Thái Lan ngữ moo là con heo, con moo là con mỡ. Việt ngữ lợn biến âm với lờn, nhờn liên hệ với mỡ dầu. Việt ngữ sề chỉ heo nái liên hệ với Cổ ngữ Anh sù (lợn sề), Latin sùs (lợn sề), gốc Ấn-Âu ngữ *sù- (lợn, heo), Việt ngữ heo, hợi, liên hệ với Anh ngữ hog… Hợi là con heo, con hoi, con huile, con hog, con oi, con oil… .Tí là con chuột. Tí là tí ti, nhỏ, bé, lắt, nhắt. Tí biến âm với Pháp ngữ petit, bé tí. Theo t=s như sụt = tụt (giá), ta có tí = sí (nhỏ sí) = síu (nhỏ). Síu biến âm với Pháp ngữ souris, chột nhắt. Chuột biến âm với chút là nhỏ là tí, liên hệ với Phạn ngữ chutt, to become small (trở thành nhỏ). Vậy Tí là petit, là chút, là chuột. Anh Theo (r=l, róc = lóc), Pháp rat là chuột liên hệ với Việt ngữ lắt, nhắt (chuột lắt, chuột nhắt). Tí là con bé tí, petit, con sí, con síu, con souris, con tí chút, con chuột… .Sửu là con trâu. Sửu liên hệ với Việt ngữ sẩu là sừng (xin khúc đầu những xương cùng sẩu…), sậu (cứng), cứng liên hệ với sừng (c=s). Con trâu là con có sừng ở đầm ao nước. Trâu con gọi là con nghé hay con he: Trâu he còn hơn bò khỏe He có nghĩa là trâu con, trâu nghé còn khỏe mạnh, hữu dụng hơn là bò khỏe. He biến âm với hèo là cái roi, cái vọt: Còn duyên anh cưới ba heo, Hết duyên anh đánh ba hèo đuổi đi. ca dao He biến âm với Mường ngữ “hẻo” là húc (bằng sừng). Theo h=k (bệnh hen = bệnh kèn) ta có he = ke, que, nọc. Con he là con que, con nọc, con sừng. Theo ngh = k, như nghịt = kịt (đen nghịt = đen kịt); nghẹt = kẹt; nghều = kều (cao nghều = cao kều)…, ta có nghé = kẻ. Con nghé là con kẻ, con quẻ, que, kèo, nọc (kẻ là cái kèo nhỏ, thước kẻ) tức con sừng. Mã Nam Dương ngữ kerbau là con trâu có ker- là kẻ. Gốc Hy Lạp ker- là sừng (keratine, chất sừng, keratitis, sưng màng sừng, giác mạc, keratomy, cắt màng sừng…). Rõ như ban ngày con trâu do con he, con nghé lớn lên mà thành là con kẻ con sừng. Sửu liên hệ với cổ ngữ Anh cù, Anh ngữ hiện kim cow (bò cái), với gốc Phạn ngữ kar, to be hard (cứng), Av. srù, horn; sarah-, head; New Persian surù, horn ; Skt çrnga (r with a dot, n có huyền), çira, liên hệ với sừng. .Dần là con cọp. Dần biến âm với dằn, vằn. Con Dần là con dằn, con vằn. Con cọp có lông vằn. Tôm vằn gọi là tôm cọp… Tiger có ti- biến âm với “tie” (dải dây, cà vạt) liên hệ với Việt ngữ tau, tao (dải, dây, tua), đai (dải dây cột), Pháp ngữ tigre có ti- biến âm với ty, tơ (dải dây)… Tiger, tigre là con dây, con vằn, con dần. .Mão, mẹo là mèo. Mão, mẹo biến âm với Việt ngữ mấu, bấu, vấu, với Anh ngữ maul (cào xé bằng móng vuốt). Con mão, con mẹo, con mèo là con mấu, con maul, con cấu, con quào: Tuổi mẹo là con mèo ngao, Hay cấu hay quào, ăn vụng quá tinh (vè) Mã ngữ hari mau là con cọp. Hari là trời, mau rõ ràng chỉ loài có móng vuốt loài mấu, mauling. Cọp hari mau là mèo trời. Con mão là con mấu, con mâu, con maul… .Thìn: Thìn biến âm với thắn, Mường ngữ có nghĩa là con rắn, với thận (con rắn nước lớn, con trăn nước anaconda). Thìn cũng biến âm với thằn (lằn), với thìu (điu) (rắn nước) với thuồng (luồng). Theo biến âm in, iên = iu, iêu như diễn hành, diễn binh = diễu hành, diễu binh, ta có thìn = thìu (điu). Thìn là thìu (điu), là thắn (rắn), là thận, là thằn (lằn, cá sấu), là thần (liên hệ tới nước), là thuồng (luồng), linh vật mang tính nam hóa của rắn nước, thằn lằn nước, cá sấu thời phụ quyền. Con Thìn là con thắn (rắn), con thận là con rắn nước lớn, con trăn nước (anaconda), con thằn (có gốc thằn lằn, cá sấu), thìu (rắn nước), con thuồng (luồng)… TỴ LÀ GÌ? Ta thấy ngay Trong Việt ngữ .Tỵ biến âm với Việt ngữ tơ, tao, tau. Tao, tau có nghĩa là tua, giải, dây như thấy qua câu ca dao: Hai tay cầm bốn tao nôi, Tao thẳng, tao dùi, tao nhớ, tao thương. Cầm bốn “tao nôi” là cầm bốn sợi dây của cái nôi để đưa con. “Tao thẳng, tao dùi, tao nhớ, tao thương” là sợi căng thẳng, sợi trùng, sợi nhớ, sợi thương. Có thể đây là tâm trạng của người mẹ cầm bốn sợi dây của cái nôi ru cho con ngủ mà nhớ thương tới người tình cũ. .Đọc thêm hơi vào tao ta có thao. Nón quai thao là cái quai nón ở chỗ buộc vào vành nón có hai cái tua, cái tao, cái thao rủ xuống hai bên. .Tỵ liên hệ với phương ngữ Thanh Nghệ Tĩnh te là lưới cá nhỏ: Mặc ai lưới, mặc ai te, Thì ta cũng vẫn dăng bè nghênh ngang. (ca dao). Lưới đan bằng dây liên hệ với tua, tao, thao. Theo biến âm thấy qua từ đôi te tua, ta có te = tua. Việt ngữ te, lưới liên hệ với Latin tela, lưới. .Tỵ liên hệ với Việt ngữ dải, dây, dợ (dợ hay rợ có nghĩa là dây như dây dợ). Theo t=d, tỵ = ty = tơ = dợ. Theo qui tắc từ đôi dây dợ ta có dợ = dây = dải. Cổ ngữ Việt cũng gọi con rắn là con dải. Con rắn trông như một dải dây dợ. Ta thấy rất rõ qua vật tổ rắn nước của người Ngaju Dayak, Borneo. Họ có vật tổ tối cao tối thượng dòng Nòng là con rắn nước tên là Tambon liên hệ với tamban (rope, rein, bow string), dải, dây, dây cương, dây cung. .Tỵ liên hệ với Hán Việt đai. Theo d = đ như cây da = cây đa, ta có dải = Hán Việt đai. .Tỵ liên hệ với từ thị. Trong tên Việt Nam, chữ lót thị chỉ phái nữ. Ta biết rõ nữ là âm, thuộc dòng nòng, nước có một biểu tượng là con rắn nước. Ta thấy rất rõ qua mẹ tổ thế gian của chúng ta là Thần Long hay Long Nữ có mạng Khảm (nước) là vợ vua tổ thế gian đầu tiên Kì Dương Vương (mạng Li, Lửa đất). Long là rồng theo duy âm có cốt là con rắn nước. Cốt lõi văn hóa Việt là nòng nọc, âm dương Chim-Rắn, Tiên Rồng. Thị thuộc ngành Rắn Rồng. Trong văn giáp cốt Trung Hoa, thị có nghĩa gốc là tên một tộc, sau dùng chỉ dòng họ (thị tộc) được biểu thị bằng hình con rắn trên đầu một cái cột, thể hiện rắn là vật tổ (Ly Jim). Rắn là con dải bò ngoằn ngoèo như dòng nước nên rắn là biểu tượng cho nước, các tộc nước. Anh ngữ snake, rắn có nak- = nác, nước, rồng naga của Ấn-Độ và của các dân tộc bị ảnh hưởng của văn hóa Ấn-Độ có gốc từ con rắn nước. Naga có nag- = nác, nước. Cá lạc là loài cá mình dài như con rắn (Huỳnh Tịnh Paulus Của, Đại Nam Quốc Âm Tự Vị). Lạc ruột thịt với nác, nước với naga, snake. Như thế thị chỉ phái nữ và các thị tộc thuộc ngành nòng âm, nước liên hệ với tỵ, rắn có một khuôn mặt là rắn nước, con dải. Trong Ấn Âu ngữ .Tỵ biến âm với gốc Tiền-Ấn Âu ngữ *ten-, liên hệ với Tân Latin taenia, Anh ngữ tenia có gốc từ Hy Lạp ngữ tainia, teino có nghĩa là band (băng), ribbon (dải), tape (băng dán). Từ này cũng chỉ con sán dẹp, sán dải, sán sơ mít. Tenia là loại ký sinh trùng ruột có hình dài và dẹp như cái dây, cái dải, như sợi dây sên, dây xích (vì thân có các đốt, các đoạn) nên gọi là con sán, con sên (khác với con ốc sên), Anh ngữ dân dã gọi là tapeworm, ký trùng dải. Việt ngữ sán, sên ruột thịt với Anh ngữ chain, Pháp ngữ chaine, dây chuyền, dây xích cũng hàm nghĩa dây, dải. Con sán dải có đốt trông giống như sợi dây sên, dây xích. Taenia, tenia liên hệ với Pháp ngữ cổ tenie, dây cột, dải băng cột đầu tóc. *Ten- có te- liên hệ với tua (như thấy qua từ đôi te tua), tơ, ty, tỵ. Theo t=d, có te-, tae-, tai- = dải = dây. Trung Nam gọi là con lải, con lãi. Theo l=d=t, con lải, con lãi = con dải, con dây. Lải là sán dẹp như cái dải (dây). Ta cũng có từ đôi sán lải nghĩa là lải = sán = sên = Anh ngữ chain, Pháp ngữ chaine. Tương tự tỵ cũng liên hệ với tennis, quần vợt. Đa số các nhà tầm nguyên ngữ học cho rằng từ tennis liên hệ với Hy Lạp ngữ tainia, băng, dây cột, Pháp ngữ cổ tenie, dây cột, dải băng cột đầu tóc. Ta thấy rất rõ tennis có gốc từ gốc Tiền-Ấn Âu ngữ *ten-. Tennis là môn thể thao đánh quả banh qua một dải dây (sau là cái lưới) ở giữa sân. Tennis có ten-, te- = -tai = tae- = tape = tỵ = dải, dây, đai. .Tỵ liên hệ với Latin tela, lưới, có cùng gốc với taenia, tainia, tennis. Tela có te- = Việt ngữ te (như đã nói ở trên te là lưới cá nhỏ). Từ tela chẻ đôi thành Việt ngữ te là lưới và Hán Việt la là lưới như thiên la địa võng. .Tỵ liên hệ với Anh ngữ tie (dây, cột, cà vạt) với đai với dải. Rõ ràng con tỵ là con tie, con đai, con dải. Và tỵ liên hệ với Anh ngữ tape, dải, dây. . Theo t=tr (tui luyện = trui luyện), Tỵ liên hệ với gốc Hy Lạp trich-, tricho-, tơ, tóc, dây dải như trichina, giun xoắn (ký sinh trùng hình con giun cuộn tròn như rắn), trichogen, thuốc mọc tóc, trichopathy, bệnh tóc… Trong Hán ngữ Về mặt Hán ngữ Tỵ biến âm với Hán Việt ty là tơ, dải, sợi, dây. Như đã nói ở trên Tỵ liên hệ với dải. Theo d=tr như dàn = tràn, ta có dải = trãi. Bộ trãi trong Hán ngữ như thấy qua từ Lạc trong tên Lạc Long Quân viết với bộ trãi có nghĩa là con sâu không chân. Con sâu không chân mang hình ảnh con rắn tí hon. Điểm này thầy rõ qua từ worm, sâu, giun, trùn (giun, trùn Hán Việt gọi là địa long vì trông giống rắn). Trong nhiều ngôn ngữ cổ Ấn-Âu worm cũng có nghĩa là rắn vì con sâu là những con rắn tí hon, bằng chứng là Việt ngữ sâu có gốc sa- cùng âm với sà, xà, rắn. Qua biến âm thấy ở từ đôi sâu sa, ta có sâu = sa = sà = xà. Theo w = u, worm có wor- = uor- = uốn (éo), thấy rõ nhất qua từ Latin uermis, a worm, có uer- = uốn, éo. Sâu và rắn là con uốn éo. Tỵ phát âm theo tiếng Bắc Kinh là Sì. Theo s=t như sụt = tụt; suốt = tuốt (lá); sí = tí (nhỏ), ta có tỵ = sì. Tuy nhiên biên âm giữ t (sì) và t (Tỵ) chỉ là biến âm khác vần tức biến âm họ hàng trong khi tỵ biến âm với tơ, tua, tao, te, Anh ngữ tie, tenia, tennis, Hy Lạp ngữ tainia, Latin tela, gốc Tiền-Ấn Âu ngữ *ten-, Hán Việt ty… là biến âm mẹ con (giữa t và t) và có cùng một nghĩa như nhau. Như thế Tỵ không thể do Sì giọng Bắc Kinh của Tỵ đẻ ra. Tóm lại, rõ như ban ngày Con Tỵ là con ty, con tơ, con tao, con tau, con thao, con tae- (tape), te- (tenia, tennis), con tai- (tainia), con tie, con *ten-, con dải, con đai, con dây, con thị, con tri-, tricho… Những từ chỉ rắn và liên hệ tới rắn. Để làm sáng tỏ thêm xin nói qua một chút về các từ chỉ rắn và liên hệ với rắn. Thìu điu, liu điu. Việt ngữ cổ gọi con rắn nước là con thìu điu hay liu điu: Chẳng phải liu điu cũng giống nhà, Rắn đầu biếng học lẽ không tha. Thẹn đèn hổ lửa, đau lòng mẹ, Nay thét, mai gầm rát cổ cha. Ráo mép chỉ quen lời lếu láo, Lằn lưng chẳng khỏi vết năm ba. Từ nay Châu Lỗ xin siêng học, Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia (Chiêu Lì, Lê Quí Đôn) Châu là nước Châu, quê thầy Mạnh Tử và Lỗ là nước Lỗ, quê thầy Khổng Tử. Châu Lỗ cũng là tên một loài rắn. Bài thơ mỗi câu đều có tên một con rắn: liu điu, rắn, hổ lửa, mai gầm, rắn ráo, lằn lưng , châu lỗ, hổ mang. hay Cha hổ mang đẻ con thìu điu hoặc Cha thìu điu đẻ con hổ mang (ca dao) hay Trứng rồng lại nỡ ra rồng, Liu điu lại nở ra dòng liu điu. hay Đôi ta như thể thìu điu, Nước chẩy mặc nước ta dìu lấy nhau Ta cũng có từ thìu đìu chỉ một loại dây leo bò như rắn có lá rất nhám dùng làm giấy nhám đánh đồ gỗ (Huỳnh Tịnh Paulus Của, Đại Nam Diễn Âm Tự Vị). Thìu biến âm thiu. Thìu cũng biến âm với thều, thào, thao là dải, con rắn thìu điu có hình ảnh của dòng nước, con sông. Thìu biến với thìn, thằn, thắn có nghĩa là rắn, với thần (bậc siêu phàm dòng nước), thẩn (rắn nước có sừng), thận (cơ quan lọc máu “làm nước” tiểu). Liu biến âm với lũ, lụt, Hán Việt lưu có một nghĩa là nước chảy. Liu biến âm với Mường, Tây Tạng ngữ tlu, rắn. Chú ý ta có liu láy với điu, thìu với điu nghĩa là liu = điu, thìu = điu tức liu = thìu = điu đề có nghĩa là dây dải liên hệ với nước. Vì thế thìu điu, liu điu thật sự là loài rắn nước. Rắn Rắn = lắn = lăn (r = l như người Trung Hoa nói fried rice thành fried lice). Con rắn là con lăn. Ta cũng thấy rắn biến âm với lằn (dải, dây như vết lằn), Anh ngữ lane, dải đường. Con rắn là con lằn, con dải. Rắn là con lằn, thằn lằn cùng họ bò sát nhà rắn. Mường ngữ thắn là rắn. Ta cũng thấy lăn = trăn (l=tr lòng=tròng, mắt, trứng). Trăn viết theo tiếng cổ là tlăn. Trăn là loài rắn lớn. Như thế rắn cũng có nghĩa cổ tlăn là trăn, là con có hình dạng như vết lằn, vệt dài như dải như dây và có nghĩa chỉ động tác lăn, trăn (trăn trở) của con rắn. Trăn Trăn biến âm với lăn (tr=l) với rắn (tr=r). Con trăn là con lăn, con rắn. Mường ngữ tlu là rắn. Tlu là tlăn, trăn. Trăn liên hệ với Maya (Trung Mỹ) ngữ khan, chan, can là chăn, trăn. Maya có vật tổ chim cúc cu-trăn kukucan. Maya ruột thịt với cổ Việt đã được xác thực qua sự phân tích DNA cho thấy Maya và cổ Việt có cùng nhóm DNA (xem Sự Tương Đồng Giữa Cổ Sử Việt và Maya trên blog bacsinguyenxuanquang.wordpress.com). Vật tổ Chim Cúc Cu-Trăn Kukucan của Maya chính là hình ảnh vật tổ Chim-Rắn, Tiên Rồng của Việt Nam ở dưới dạng nhất thể. Xà Xà có nghĩa là rắn (bạch xà), phát âm Bắc Kinh là shé. Xà liên hệ với sa (sương) sả (cỏ, chim bói cá): “Nào lên rừng đào mỏ, nào xuống bể mò châu, nào hố bẫy hươu nai, nào lưới dò chim sả” (Nguyễn Trãi, Bình Ngô Đại Cáo). Sả là nước như mưa sối sả là mưa sối nước; sả nước như sát xà phòng rồi sả nước; cỏ sả (lemon grass) là cỏ nước vì cỏ sả dùng nấu nước uống, trà sả, tắm hay gội đầu. Chim sả là chim “nước”, chim bói cá, chim thằng chài. Theo s=ch ta cói sả=chả=chà, chè. Chà là nước uống nấu bằng cỏ cây. Chà cá là chỗ nuôi cá. Chài lưới cũng liên hệ với chà, sả (nước). Chim sả, chim (thằng) chài là một. Chim bói cá, chim sả còn gọi là trả, phí thúy (theo s=ch=tr, sả = trả): Con chim tra trả, ai vay mà trả, Bụi gai sưng, ai vả mà sưng. Đấy người dưng, đây cũng người dưng, Cớ chi nước mắt cứ rưng rưng nhỏ hoài… (hò Miền Nam) Miền Nam có thứ lúa sạ nhà nông chỉ việc vãi hạt, cây lúa mọc ngoi lên theo mực nước dâng cao hàng ngày. Lúa sạ là lúa nước. Sả, sạ, trả, chà, chài liên hệ với Phạn ngữ sara, saras, nước như saroja, hoa sen (hoa mọc dưới nước). Như thế xà là loài rắn liên hệ với nước có thể là loài rắn nước, những loại rắn nước khổng lồ có thể là loài anaconda ở Amazon. Xà (rắn) liên hệ với Phạn ngữ sarpa-, Rumania sarpe (s có chấm dưới), Ý serpe, Pháp Anh serpent là rắn. Ở đây ta thấy rõ shé (âm Bắc Kinh của xà) biến âm ruột thịt với sì (âm Bắc Kinh của Tỵ) hơn là giữa Tỵ với Sì. Lươn Lươn là loài “cá rắn”. Lươn tương đương với rắn. Lươn biến âm lăn, lằn, luồng với trườn, trăn. Thuồng luồng Luồng biến âm với lươn. Thuồng biến âm với luồng (th=l). Thuồng luồng biến âm với lươn, lăn, trăn, rắn. Thuồng luồng có gốc rắn nước. Thuồng luồng là dạng nam hóa, thần thoại hóa của rắn nước. Dựa theo thiên nhiên thì thuồng luồng có cốt rắn có sừng, có mào, cá sấu…, dựa theo thần thoại là con vật dòng rắn có gắn thêm các yếu tố thần thoại thêm vào như có cánh chim, có bờm… Giun, Trùn Giun trùn là loài sâu đất có hình rắn, Hán Việt goi là địa long (rồng đất) . Trùn biến âm với trằn, thằn, trăn, rắn . Giun biến âm với trùn (gi=tr; giăng = trăng), cổ ngữ trùn là tlun liên hệ với Mường, Tây Tạng ngữ tlu, rắn. Lạc Lạc là loài cá mình dài như con rắn (Huỳnh Tịnh Paulus Của,ĐNQÂTV). Từ Lạc trong tên Lạc Long Quân cũng hàm nghĩa nước, rắn mang dương tính lửa, mặt trời. Lạc liên hệ với Việt ngữ nác (nước), Phạn ngữ naga (rắn, rồng), nak (rắn nước), Anh ngữ snake (rắn)… Ngo Ngoe Việt ngữ có từ ngo ngoe chỉ động tác của rắn, sâu và từ ngoằn ngoèo chỉ hình dáng rắn uốn khúc. Ngo ngoe, ngoằn ngoèo tất cả đều có gốc ngo- liên hệ với Thái ngữ ngo, Thái Lan ngữ ngoo là rắn. Khăn Khăn là một vật hình dải dây như hình rắn, trăn. Theo k=c, khăn = chăn, trăn. Người Việt cả hai phái vấn khăn, quấn khăn, vắt khăn… là mang tộc biểu rắn của dòng Nước, Rắn nước Lạc Việt Lạc Long Quân Âu Cơ. Khăn liên hệ với Maya (Trung Mỹ) ngữ khan, chan, can là rắn (vật tổ chim cúc cu-trăn kukucan), với Pháp ngữ chal, chale, khăn “san”, Ấn ngữ shàl, Anh ngữ shawl, loại khăn choàng, choàng cổ hay vắt vai. Khăn choàng dài như một cái dải (như con rắn) có thể trùm đầu, vai và cánh tay được. Ta cũng thấy từ choàng liên hệ tới dây, dải, rắn. Choàng biến âm với chằng (dây, dải, cột), chăng (căng dây), chàng (dải, vòng như chàng pháo, chàng hoa, chàng hạt), với chăn, trăn. Điểm này cũng thấy rõ trong Anh ngữ: shawl gần cận với crawl (bò như rắn); scarf (khăn quấn cổ) liên hệ với Phạn ngữ sarp(a), với serp(ent), rắn. Việt ngữ chăn (vật đắp cho ấm) nguyên thủy là một thứ khăn lớn (người Aztecs có cái khăn lớn vắt vai cũng dùng là vật đắp ấm) liên hệ với Anh ngữ blanket. Từ blanket có blan- ruột thịt với cổ ngữ Việt blan với Việt ngữ hiện kim trăn (rắn lớn), chăn (vật đắp ấm). Rồng Rồng là con vật có cốt là con ròng, dòng (rắn nước) nam hóa, dương hóa bay lên trời được. Rồng có bản thể nước-khí, gió. Theo truyền thuyết Trung Hoa về mùa thu, đông con rồng ẩn mình ở dưới đáy nước (biển, vực sâu) đến mùa xuân bay lên trời làm ra mưa gió. Rồng có dương tính nên gió là gió dương, gió động, gió lửa tức dông. Con rồng là con dòng-dông. Đọc lồng hai từ dòng dông vào nhau ta có dồng, rồng. Theo qui luật biến âm r=l (róc mía = lóc mía, người Trung Hoa đọc r thành l), ta có rồng = long. …… Rắn Và Chữ Viết Cổ .Mẫu tự số 5 trong bảng 35 chữ cái của Mường Việt cổ ở châu Quan, Thanh Hóa là tô ngo (hàng trên cùng từ trái qua phải) (Vương Duy Trinh, Thanh Hóa Quan Phong in lại trong Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt tr. 40). Tô là đồ, vẽ, tô ngo là chữ vẽ tức hình ngữ ngo vẽ hình con rắn. Việt ngữ cổ ngo, ngoe, ngoằn, ngoèo (tất cả đều có gốc ngo-) ám chỉ rắn. Thái ngữ ngo, Thái Lan ngữ ngoo là con rắn. Rõ như ban ngày tô ngo (chữ ngo) vẽ hình con rắn. Ở đây cho thấy rõ các chữ Mường cổ này là một thứ hình ngữ (pictogram). .Trong các hình ngữ mẫu tự cổ Ai cập, hình ngữ dj vẽ hình con rắn thông thường. Dj nếu phát âm theo tiếng Việt là dì, tì, tị, nếu coi d tương đương với th của Anh ngữ như trong “the” (phát âm đại để là “dờ”) thì dj phát âm là thì, thị, thằn, thắn… .Chữ nòng nọc hình chữ S (thường gọi là hoa văn, “mô-típ” chữ S) trên trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn và chữ S của mẫu tự ABC có nguồn gốc là sóng nước là hình con rắn đang chuyển động như sóng nước (xem chữ Nòng Nọc và Mẫu Tự ABC). Trong 12 con giáp ta có hai con thuộc loài rắn là Thìn và Tỵ nằm kề nhau. Vì các con giáp liên hệ với Vũ Trụ giáo, với Dịch, với lịch học, thiên văn học nên Tỵ và Thìn mang tính nòng nọc, âm dương khác nhau. Rắn có nguồn gốc nguyên thủy như thấy qua các truyền thuyết sáng thế Chim-Rắn, Tiên Rồng của Việt Nam và của nhiều nền văn hóa khác trên thế giới. Trong khi rồng là một con thú thần thoại hóa có cốt là con rắn nước hay cá sấu tức là một khuôn mặt xuất hiện muộn sau này. Thìn là loài có cốt là rắn nước, nam hóa, dương hóa bay lên trời được (nước thái âm OO dương hóa một phần bốc thành hơi thành thiếu âm khí gió IO) biểu tượng nòng khí gió. Con rồng thìn là con nước-gió. Việt ngữ rồng là con dòng (nước) dông (gió). Bà Thần Long (Rồng Nước, Khảm) vợ Kinh Dương Vương (Chàng Núi Lửa đất Li) là Nàng Gió (Vụ Tiên là Nàng Nước, Âu Cơ là Nàng Lửa và vợ Hùng Vương Nàng Non) (KQKTCSHV). Trong khi Tỵ là khuôn mặt thật sự của rắn còn ở dưới cõi đất trần gian mang trọn ý nghĩa của Vũ Trụ Tạo Sinh. Rồng chính là “vẽ rắn thêm chân”. Kết luận Tóm lại, rõ như ban ngày con Tỵ là con tơ, con tao, con tau, con thao, con ty, con tae- (tape), con te- (tenia, tennis), con tai- (tainia), con tie, con *ten-, con dải, con đai, con dây, con thị, con tri-, tricho… Một lần nữa cho thấy về ngôn ngữ học từ Tỵ trong 12 con giáp ruột thịt và có gốc từ các từ thuần Việt, nôm Việt nôm na mách qué. Tên 12 con giáp không phải là do người Trung Hoa phát kiến ra. http://khoahocnet.co...-goi-ran-la-ty/
  6. Truyện cổ tích Việt Nam: TRUYỆN CÓC KIỆN TRỜI Thủa xa xưa, Ngọc Hoàng cai quản tất cả các việc trên trời và dưới đất. Ngọc Hoàng giao cho thần Mưa chịu trách nhiệm làm mưa cho tất cả các con vật và cây cỏ có nước uống. Nhưng đã ba năm nay, không có một giọt mưa nào. Khắp nơi đất đai nứt nẻ, cây cỏ khát nước chết rụi, các con thú cũng chết dần chết mòn vì khát. Muôn loài đều kêu than ai oán, vậy mà trời đâu có thấu. Một hôm, các con vật họp bàn nhau lại, chúng quyết định cử Cóc lên gặp Ngọc Hoàng. Cùng đi với Cóc có Cáo, Gấu và Cọp. Bốn con vật đi mãi, cuối cùng cũng lên đến cửa nhà trời. Ở cửa có đặt cái trống rất to. Theo tục lệ nếu ai có điều gì oan ức thì đánh trống lên. Ngọc Hoàng sẽ ra giải quyết. Cóc bảo Cáo, Gấu, Cọp nấp vào bụi rậm, còn Cóc thì nhảy lên đánh trống inh ỏi. Ngọc Hoàng nghe tiếng trống liền sai một thiên thần ra nhìn xem ai. Thiên thần bước ra nhìn ngược, nhìn xuôi mãi cũng không thấy ai, chỉ thấy con Cóc bé nhỏ ngồi trên trống. Khi biết Cóc có ý định gặp Ngọc Hoàng để kêu oan, thiên thần tỏ ý khinh bỉ Cóc, lẳng lặng đi vào và thưa với Ngọc Hoàng. - Thưa Ngọc Hoàng, kẻ dám cả gan đánh trống ầm ĩ nhà trời là một con Cóc bé tí, xấu xí khinh khủng, thần hỏi nó đi đâu, nó nói lên Ngọc Hoàng để kiện. Ngọc Hoàng nghe thiên thần nói như vậy thì lấy làm giận lắm, bèn sai bầy Gà ra mổ Cóc. Nhưng bầy Gà vừa ló khỏi cửa, Cóc ra hiệu cho Cáo từ bụi rậm xong ra vồ gà. Biết Gà bị Cáo vồ mất, Ngọc Hoàng liền sai Chó ra giết Cáo. Chó chạy ra chỉ kịp sủa “Gâu gâu gâu ” mấy tiếng đã bị Gấu ra chộp lấy tha đi. Ngọc Hoàng lại sai một toán lính ra trị Gấu. Lần này, Cọp xông ra quật chết toán lính không còn sót một người nào. Ngọc Hoàng không ngờ Cóc tuy bé nhỏ mà lại khó trị như vậy, Ngọc Hoàng đổi giận thành làm lành sai thiên thần ra mời Cóc vào. Ngọc Hoàng hỏi Cóc: - “Cậu” lên đây có việc gì? Cóc thưa: - Muôn tâu Ngọc Hoàng, đã 3 năm nay chúng tôi không được một giọt mưa nào. Loài vật cử tôi lên đây để kiện trời, vì sao không làm mưa? Ngọc Hoàng cho gọi thần mưa đến. Té ra thần Mưa mải rong chơi tối về đắp chiếu nằm ngủ, quên không làm mưa bị Ngọc Hoàng trách mắng, thần Mưa vội sai các con rồng phun nước ào ào xuống đất. Ngọc Hoàng đưa tiễn Cóc ra về và dặn: - Từ nay về sau, nếu cần mưa thì Cóc nghiến răng ken két báo cho Ngọc Hoàng biết. Ta sẽ sai thần làm mưa ngay. Cóc không phải lên kiện trời nữa. Cóc, Cáo, Gấu, Cọp từ biệt Ngọc Hoàng trở về dưới đất. Khi bốn con vật đến nơi thì thấy nước đã tràn đầy hồ, ao, sông, suối, cây cỏ, muôn loài uống nước thỏa thuê. Tất cả đều phục Cóc bé tí mà kiện được trời nên đặt ra câu hát: “Con cóc là cậu ông trời Hễ ai đánh Cóc thì trời đánh cho”. http://maxreading.co...troi-14018.html
  7. TRÒ CHƠI CON TRẺ Đánh chuyền (Đánh Đũa): Trò chơi của con gái. Số người chơi 2-5 người. Đồ chơi gồm có 10 que nhỏ và một quả tròn nặng (quả cà). Cầm quả cà ở tay phải tung lên không trung và nhặt từng que. Lặp lại cho đến khi quả cà rơi xuống đất là mất lượt. Chơi từ bàn 1 (lấy một que một lần tung cà) bàn 2 (lấy hai que một lần) cho đến 10, vừa nhặt quả chuyền vừa hát những câu thơ phù hợp với từng bàn. Một mốt, một mai, con trai, con hến,… Đôi tôi, đôi chị… Ba lá đa, ba lá đề v.v. Hết bàn mười thì chuyền bằng hai tay: chuyền một vòng, hai vòng hoặc ba vòng và hát: “Đầu quạ, quá giang, sang sông, trồng cây, ăn quả, nhả hột…” khoảng 10 lần là hết một bàn chuyền, đi liền mấy ván sau và tính điểm được thua theo ván. Đánh khăng (Đánh Căng): Một trò chơi của trẻ nhỏ. Hai bên đứng đối diện nhau. Một người cầm hai đoạn tre, một ngắn một dài. Đào một hố nhỏ, dài dưới đất, đặt đoạn tre ngắn lên miệng hố, lấy thanh tre dài hất đoạn tre ngắn lên cao đánh thật mạnh văng ra xa. Nếu người đứng đối diện bắt được thanh tre, người đó sẽ được vào chơi thay. Đánh quay (Chơi Bông Vụ): Con quay (bông vụ). Trò chơi của trẻ nhỏ. Đồ chơi là con quay bằng gỗ hay sừng hình nón cụt, có chân bằng sắt. Dùng một sợi dây, quấn từ dưới lên trên rồi cầm một đầu dây thả thật mạnh cho quay tít. Con quay của ai quay lâu nhất, người đó được. Có thể dùng một con quay khác bổ vào con quay đang quay mà nó vẫn quay thì người chủ của con quay đó được nhất.
  8. Dân mạng phát sốt vì bức tranh cổ giống hệt ảnh Marilyn Monroe Long Hy Thứ năm 19/04/2012 14:38 (GDVN) - Mới đây cư dân mạng Trung Quốc đang xôn xao về một bức tranh cổ trong hang động Đôn Hoàng Mạc Cao có tạo hình giống với cô đào Marilyn Monroe một cách ngạc nhiên. Hình ảnh cô đào Marilyn Monroe nổi tiếng trong phim "The Itch Seven Year" (trên) và bức tranh tường cổ trong các động Mạc Cao ở Đôn Hoàng (dưới). Sự giống nhau kỳ lạ giữa bức ảnh của Marilyn Monroe và bức tranh cổ Trung Quốc được Chen Shiyu, biên tập viên một tạp chí văn hóa đăng lên trang web douban.com khiến cư dân mạng ở Trung Quốc xôn xao. Nhiều người không khỏi ngạc nhiên, thích thú khi thấy sự tương đồng giữa tạo hình ở bức tranh tường cổ và ảnh tạo dáng của nữ diễn viên quá cố người Mỹ Marilyn Monroe. Theo ông Zhao Shengliang, một nhà nghiên cứu cấp cao của Viện nghiên cứu Đôn Hoàng, thì bức tranh tường cổ có nội dung một nhà tu hành đang phạt học trò của mình do phạm lỗi. Người học trò này bị thầy quất bằng một sợi dây mây và phải hướng mông về phía thầy để lĩnh đòn, trên mặt thể hiện rõ sự buồn bã và sợ hãi. Bức bích họa có những điểm tương đồng với tạo hình của Marilyn Monroe. Hang Đôn Hoàng thuộc vùng ngoại ô thành phố Đôn Hoàng, tỉnh Cam Túc (phía tây bắc Trung Quốc), là một báu vật của đất nước hơn 1 tỷ dân. Khu vực hang động Đôn Hoàng nằm trên sa mạc Gobi. Những hang động này xuất hiện trên các vách núi chạy dài hơn 2km và được xây dựng từ năm 366. Đến đời nhà Đường (thế kỷ thứ 7) thì khu vực hang Mạc Cao Đôn Hoàng có tới hàng nghìn hang động, với rất nhiều các bức bích họa và tượng Phật mang phong cách nghệ thuật Phật giáo đa dạng từ nhiều thời kỳ tựu lại. Đặc biệt là hơn 50.000 mét tranh tường trong 500 hang động còn lưu giữ được cho đến ngày nay. Tượng Phật và các bức bích họa tại hang Mạc Cao Đôn Hoàng. Bức bích họa 'kiểu Monroe' đã được chụp từ hơn 50.000 mét bích họa tại Mạc Cao Đôn Hoàng và làm cư dân mạng vốn thờ ơ với những giá trị cổ bỗng trở nên quan tâm đến nghệ thuật tranh tường độc đáo của đất nước mình.
  9. Truyện cổ tích Việt nam: SỰ TÍCH ĐẦM MỰC Ngày ấy vào đời nhà Trần có một cụ đồ nho ở xã Quang Liệt tên là Chu An (Chu Văn An). Học vấn của cụ sâu và rộng. Cũng vì tiếng tăm của cụ truyền khắp mọi nơi nên học trò xa gần đến học rất đông. Về sau nhà vua nghe tiếng, vời cụ về Kinh giao cho trông nom trường Quốc tử và dạy thái tử học. Cụ để nhà lại cho vợ con rồi đi nhậm chức. Nhưng được hơn một năm đã thấy cụ chống gậy trở về. Cụ bảo mọi người rằng: -Ta không thể chịu được với bảy tên quyền thần dối vua hại nước! Từ đó người ta thấy cụ trở lại nghề dạy học. Lần này những người đến xin "nhập môn" đông vô kể. Cả một cái gò cao ở xóm Văn phải dựng thêm ba bốn mái nhà nữa mới đủ chỗ để chứa học trò. Nhà trong xóm chật ních những anh đồ nho, đủ mặt người kinh, người trại. Đó là chưa kể những người ở quanh vùng hàng ngày cơm đùm cơm gói đi về học tập. Trong số học trò của cụ có hai anh em con vua Thủy. Nghe tiếng cụ đồ, vua Thủy cũng cho con lên học. Ngày ngày hai anh em đến bờ sông trút lốt thuồng luồng ở nước rồi lên đất, nói năng cử chỉ không khác gì người trần. Một hôm cụ đồ đang chấm bài thì anh trưởng tràng đến kể cho biết rằng sáng hôm nay, khi chưa rõ mặt người, anh có việc đi chợ huyện, đến cầu Bưu tình cờ thấy từ dưới sông có hai người đi trên mặt nước tiến vào bờ: -Đúng là hai anh em nhà Gàn thầy ạ? Con đầu tiên sợ nhưng cũng cố đi theo. Quả nhiên họ vào đây. Thầy bảo bây giờ nên làm thế nào? Cụ đồ gật gù đáp: -Con cứ để yên mặc họ, con ạ! Nếu là quỷ thần mà họ chuộng đạo thánh hiền thì lại càng hay chứ sao! * * * Năm ấy vùng Thanh Đàm trời làm đại hạn. Suốt từ cuối năm ngoái cho đến tháng Hai năm nay không có lấy một giọt mưa. Đồng ruộng nứt nẻ. Mấy đám lúa, đám ngô cứ héo dần. Thấy mọi người nhao nhác, cụ đồ sốt ruột không kém. Một chiều kia sau buổi học, cụ đồ lưu hai anh em chàng Gàn ở lại rồi bảo: -Thầy muốn các con thương đến dân một chút. Hai anh em làm bộ ngơ ngác không nói gì. Thấy họ còn giấu mình, ông cụ nói: -Các con bất tất phải giấu. Thầy đã biết cả. Bây giờ đây chỉ có các con là cứu được dân sự. Các con hãy làm mưa cho họ nhờ. Hai anh em đưa mắt nhìn nhau, hồi lâu bảo cụ: -Dạ, nhưng hiềm vì sông hồ đều có lệnh "phong bế" cả thì lấy đâu ra nước bây giờ. Trạng cụ khẩn khoản: -Các con cố nghĩ thử xem có thể lấy nước ở đâu được không. Không cứu được nhiều thì ta hẵng tạm cứu ít vậy! Hai anh em ngần ngừ hồi lâu rồi chỉ vào nghiên mực đặt trên án thư, bảo cụ đồ: -Dạ, oai trời thì rất nghiêm nhưng lời của thầy thì rất trọng. Chúng con xin vâng lời thầy. Chúng con sẽ dùng nước ở nghiên mực này tạm thấm nhuần trong một vùng vậy. Cụ đồ mừng rỡ chạy lại án thư bê cái nghiên mực lớn còn đầy nước và cả quản bút lông của mình thường dùng, đưa cho họ. Hai anh em đỡ lấy rồi cả ba người cùng tiến ra bờ sông. Đến nơi họ xắn ống tay áo rồi sau đó em bưng nghiên mực, anh cầm quản bút nhúng mực vẩy lên trời nhiều lần. Đoạn họ vứt cả nghiên lẫn bút xuống nước, cúi vái cụ đồ rồi biến mất. Đêm hôm ấy quả nhiên mây mù tối tăm rồi mưa một trận như trút. Cụ đồ vừa mừng vừa sợ, suốt đêm chạy ra chạy vào không ngủ. Sáng dậy, điều mà ai nấy đều lấy làm lạ là nước chỉ lênh láng suốt mấy cánh đồng trong vùng Thanh Đàm mà thôi. Hơn nữa sắc nước chỗ nào chỗ ấy đều đen như mực. Trận mưa đêm hôm đó quả cứu vớt được biết bao nhiêu là ruộng lúa, ruộng ngô và các hoa màu khác. Dân vùng Thanh Đàm lại vui vẻ như xưa. Nhưng lúc đó ở thiên đình, các thiên thần đều lấy làm lạ về một trận mưa bất ngờ. Ngọc Hoàng nổi giận sai một thiên thần đi tìm bắt cho được thủ phạm trị tội. Và cả hai anh em đều không thoát lưới trời nghiêm ngặt: cả hai đều rơi đầu dưới lưỡi búa của thần sét. Xác của họ hiện nguyên hình là hai con thuồng luồng song đầu một nơi mình một nẻo, giạt vào gậm cầu Bưu. Cụ đồ nghe tin rất thương xót. Cụ khóc và cụ bắt tất cả học trò đưa đám chôn hai con thuồng luồng. Khăn áo hôm ấy trắng phau cả một bờ sông. Xác hai con vật được chôn cất một cách tử tế ở bên cầu và cũng đắp thành nấm như mộ của người. Cái nghiên mực của cụ đồ Chu An sau đó trôi về làng Quỳnh Đô làm đen cả nước đầm ấy, ngày nay người ta vẫn quen gọi là đầm Mực. Còn quản bút thì lại trôi về làng Tó cho nên các cụ thường truyền rằng nhờ thế làng Tó tức là làng Tả Thanh Oai bây giờ, có lắm người họ hành đỗ đạt. Còn chỗ ngôi mộ hai con quái vật tức là hai anh em thuồng luồng sau đó người ta lập miếu thờ, ngày nay vẫn còn có tên là miếu Gàn.
  10. Phương pháp nuôi dạy con sớm (0-6 tuổi) của người Nhật - Phần 1 Lịch sử của tất cả thiên tài hay thần đồng trên thế giới này đều có chung một điểm là họ đều không phải là do thiên bẩm hay do trời phú cho họ tài năng đó, mà 99% những người đó đều được áp dụng phương pháp nuôi dạy từ sớm, tức là được cha mẹ họ nuôi dạy từ khi mới lọt lòng (Kimura Kyuichi). Yếu tố gen chỉ chiếm một phần rất nhỏ, còn lại tất cả những tài năng phi thường mà họ có được đều được hình thành nhờ giai đoạn nuôi dưỡng đúng đắn từ 0-6 tuổi, đặc biệt là giai đoạn từ 0-3 tuổi. Bài viết được trích dẫn từ facebook của tác giả Nguyễn Thị Thu. Thông tin trong bài viết được dịch lại từ những cuốn sách của các tác giả SHICHIDA Makoto, IBUKA Masaru, KIMURA Kyuichi, họ là một trong số rất nhiều nhà giáo dục đã viết ra những cuốn sách tuyệt vời làm thay đổi số phận của rất nhiều con người, giúp ích cho sự tiến bộ của giáo dục Nhật Bản. Dù tựa đề ghi là từ 0-6 tuổi nhưng những cách cha mẹ dạy con cái giúp trẻ hình thành nhân cách hay phương pháp giúp trẻ thích học tập thì vẫn có thể áp dụng với những trẻ lớn hơn 6 tuổi. Các cuốn sách tham khảo: 1. Cuốn sách chủ đạo là Nuôi dưỡng con để phát triển toàn diện về trí tuệ và tài năng, tác giả SHICHIDA Makoto 赤ちゃん*幼児の知力と才能を伸ばす本, 七田 眞 2. Tham khảo thêm từ các cuốn sách sau: 2.1 Nuôi con từ 0 tuổi những điều người mẹ cần làm, tác giả IBUKA Masaru 0歳からの母親の作戦、井深 大 2.2 Bắt đầu dạy trẻ từ mẫu giáo là quá trễ, tác giả IBUKA Masaru 幼稚園では遅すぎる、井深 大 2.3 Thiên tài và sự giáo dục sớm, tác giả KIMURA Kyuichi 早教育と天才、木村久一 Lời khuyên của các tác giả dành cho các bậc cha mẹ trước khi áp dụng những điều được viết trong sách: 1. Điều đầu tiên mà tất cả các tác giả của những cuốn sách này, đều là những nhà giáo dục nổi tiếng của Nhật, muốn khẳng định rằng những ai áp dụng phương pháp nuôi dạy trẻ được viết trong những cuốn sách này với mong muốn biến con mình trở thành những thần đồng hay thiên tài thì đừng đọc nó, vì mục đích của tác giả viết ra những phương phải đó không phải là để biến những đứa trẻ trở thành thiên tài hay thần đồng. Mục đích là để các bậc cha mẹ hiểu được tầm quan trọng của việc nuôi dạy con từ sớm, từ đó biết cách nuôi dạy con để phát huy tối đa những khả năng và tố chất mà con cái của mình có, giúp con cái mình có nền tảng vững chắc về sức khỏe, trí tuệ, và nhân cách và sau này trở thành những người có ích cho xã hội. 2.Điều thứ hai là lật lại lịch sử của tất cả thiên tài hay thần đồng trên thế giới này đều có chung một điểm là họ đều không phải là do thiên bẩm hay do trời phú cho họ tài năng đó, mà 99% những người đó đều được áp dụng phương pháp nuôi dạy từ sớm, tức là được cha mẹ họ nuôi dạy từ khi mới lọt lòng (Kimura Kyuichi). Yếu tố gen chỉ chiếm một phần rất nhỏ, còn lại tất cả những tài năng phi thường mà họ có được đều được hình thành nhờ giai đoạn nuôi dưỡng đúng đắn từ 0-6 tuổi, đặc biệt là giai đoạn từ 0-3 tuổi. 3.Điều thứ ba là vì sao phải nuôi dạy trẻ từ sớm? Bởi vì bộ não của trẻ chỉ phát triển đến năm 6 tuổi, còn sau 6 tuổi thì hầu như không phát triển nữa. Và giai đoạn từ 0-3 tuổi (bộ não hoàn thiện 80%) là giai đoạn trẻ có khả năng học tập tốt nhất, khả năng nhớ, liên tưởng,...là vô hạn, nó cũng quyết định sự hình thành về tính cách và năng lực của trẻ. Nếu ví khả năng mà bộ não của trẻ tiếp nhận thông tin và tri thức như một chiếc computer thì giai đoạn 0-3 tuổi giống như là hardware còn sau giai đoạn đó chỉ như là software mà thôi. Chúng ta thường hay cho rằng trẻ con thì không biết gì, mặc nhiên coi việc giáo dục trẻ là bắt đầu khi trẻ đi mẫu giáo, hay vào lớp 1 trở đi mới chú trọng. Thực tế nghiên cứu lại cho thấy phát triển trí tuệ của trẻ sau 4 tuổi là đã quá trễ, đợi đến khi vào lớp 1 thì lại càng không thay đổi nhiều được trí tuệ hay khả năng của trẻ nữa. 4. Điều thứ tư là thời kì 0-3 tuổi là thời kì không một ai có thể thay thế được vị trí và vai trò của người mẹ trong việc nuôi dạy trẻ. Sợi dây gắn kết được hình thành giữa mẹ và trẻ đã có từ khi trẻ trong bụng mẹ, rồi khi trẻ được sinh ra thì mẹ chính là người gần gũi nhất. Tình thương của người mẹ được trẻ cảm nhận vô cùng đặc biệt so với những người khác, đặc biệt là giọng nói của mẹ. Nếu giai đoạn này mà trẻ phải xa mẹ và được người khác chăm sóc thì trẻ sẽ không bao giờ cảm nhận đầy đủ được tình yêu của mẹ, dù sau này người mẹ có muốn bù đắp bao nhiêu đi nữa. Hơn nữa, giai đoạn này sự hình thành tính cách, năng lực, trí tuệ của trẻ là phát triển mạnh mẽ nhất, nếu người mẹ không ở bên mỗi ngày thì trẻ sẽ không được phát huy hết khả năng của mình, và tính cách của trẻ cũng bị ảnh hưởng bởi những yếu tố của người xung quanh nhiều hơn là của mẹ. Vì thế đừng bao giờ giao việc chăm con, chơi với con cho người khác ở giai đoạn này. 5.Điều thứ năm là phương pháp áp dụng nuôi con từ sớm có thể dành cho mọi gia đình dù giàu có hay khó khăn về tiền bạc. Bởi vì sao ? Để có thể nuôi dạy con tốt thì dù có phương pháp tốt, có nhiều tiền thế nào đi nữa mà các bậc cha mẹ thiếu đi bốn yếu tố sau thì không thể nào thành công được đó là: Yêu Thương, Kiên Nhẫn, Trò Chuyện và Khen Ngợi. Những điều đó cha mẹ nào cũng có thể cho con cái mình, nó chỉ phụ thuộc vào cách mà cha mẹ làm mà thôi. http://bevadochoi.co...oi-nhat-phan-1/
  11. Thưa Sư Phụ, Qua những thông tin, đệ tử được nghe nói đến phương pháp giáo dục "kỳ lạ" của người Nhật, khác hẳn lối giáo dục logic thực dụng Tây phương. Phương pháp này hiện nay đang được truyền bá, quản cáo qua tới Việt Nam, trong khi các nước phương Tây cũng đã nghiên cứu và áp dụng. Những cách thức dạy trẻ của người Nhật gậy sự ngạc nhiên lạ lẫm không hiểu nổi cho người phương Tây, ví dụ. Họ cho bé trong giai đoạn 0-3 tuổi chơi nhiều trò chơi. Vd01: họ đưa ra một loạt hình ảnh, hình tam giác, hòn tròn, hình nước, hình lửa. Họ bảo:" con nhìn đây, cái này nóng nhé (hình lửa), cái này mát nhé (hình nước), cái này đau nhé (hình nhọn tam giác), cái này trơn nhé (hình tròn). Họ bảo bé sờ vào cảm nhận. Xong họ ụp mặt bài lại và xào nó đi. Rồi họ yều cầu bé để tay lên phía trên mặt bài, họ bảo bé cảm nhận như thế nào để đoán xem hình gì. Kết quả các bé làm được, đoán trúng hình ảnh bằng các cảm giác định sẳn trong sự ngạc nhiên không ngờ. Vd 02, để chữa bệnh đái dầm của trẻ, họ dạy cho trẻ tự chữa bệnh!! Họ khuyên người mẹ trò chuyện và bảo con họ "Con không được đái dầm nhé, như vậy là xấu...." trong 5 phút đầu của giấc ngủ của bé, khi bé còn lim dim. Kết quả cũng bất ngờ là bé không đái dầm nữa! Vây con kinh thưa sư phụ, Lý học có thể giải thích như thế nào về phương pháp giáo dục này và liệu trong văn hóa Việt đã từng tồn tại phương pháp nầy hay không? Kính mong Sư Phụ giảng cho đệ tử tỏ tường ạ. Thiên Đồng
  12. Nhân ngày Nhà giáo Việt Nam, con kính chúc Sư Phụ và Cô an lạc, dồi dào sức khỏe và luôn sáng danh văn hiến Việt.
  13. Hậu duệ của người nổi tiếng: Tutankhamen - ông tổ người Châu Âu? - Các nhà di truyền học Thụy Sĩ khẳng định hơn một nửa dân số của châu Âu hiện nay là họ hàng của pharaoh Tutankhamen. Điều này dẫn đến một cuộc tranh cãi khá thú vị. Pharaoh Tutankhamen Các khách du lịch châu Âu khi đến bất kỳ thành phố nghỉ mát nào đó ở Ai Cập đều nghĩ rằng không ít những người bán hàng nơi đây là hậu duệ của các pharaoh, và mình chẳng có dây mơ rễ má gì với mảnh đất đầy huyền bí này. Thế nhưng, thật là trớ trêu khi vào tháng 8.2011, các chuyên gia Trung tâm nghiên cứu phả hệ iGENEA của Thụy Sĩ kết luận: Chỉ có 1% người Ai Cập mang gien của pharaoh, trong khi hậu duệ của pharaoh Tutankhamen (còn gọi là Tutankhamun) hiện có khá nhiều ở châu Âu. Tại một vài nước, như ở Pháp chẳng hạn, 60% đàn ông mang dòng máu của Tutankhamen, con số này ở Tây Ban Nha còn cao hơn với 70%. Thậm chí có khu vực có tới 80% đàn ông là hậu duệ của pharaoh này. Các tác giả Thụy Sĩ của công trình gây chấn động giới khoa học đã làm cuộc khảo sát tạm gọi là haplogroupe (những người chung huyết thống). Các khảo sát của haplogroupe tập trung vào đột biến gien để xác định nguồn gốc của một người với một nhóm chủng tộc. Loại gien này có đột biến nhiễm sắc thể Y và chỉ có ở đàn ông mà không có ở phụ nữ. Các nhà khoa học xác định gien của pharaoh Tutankhamen thuộc nhóm haplogroupe R1b1a2. Trong khi đó ngân hàng của iGENEA (qua nghiên cứu ADN) đang lưu giữ nhóm gien này và nó thuộc hơn một nửa số đàn ông châu Âu hiện nay. Đột biến lịch sử Cần phải giải thích điều này như thế nào? Bởi, sau hàng nghìn năm, gien của Tutankhamen bị thay đổi theo thời gian và gần như mất hẳn. Chuyên gia phòng thí nghiệm gien thuộc Viện Hàn lâm y học Nga là Andrei Sanko giải thích: “Một nhóm người tiền sử có đột biến nhiễm sắc thể Y, tạm gọi là R. Sau đó, một gia đình của nhóm này sinh ra đứa con trai mang gien đột biến này - R1. Sau đó đứa trẻ này lớn lên, lập gia đình sinh ra những đứa con trai, từ gốc R, chúng đều mang gien đột biến R1”. Các nhà khoa học cho rằng đột biến gien này không ảnh hưởng (tác động) tới màu tóc, màu da, màu mắt. Quê xứ bậc vương giả Giám đốc iGENEA, ông Roman Scholz, cho biết các chuyên gia của trung tâm này đã theo dõi, nghiên cứu R1b1a2 của nhóm haplogroupe khi phân tích AND của Tutankhamen. “Điều này không có nghĩa là chỉ có một mình Tutankhamen mang R1b1a2, mà nhiều khả năng ông là người đầu tiên mang biến thể gien này”, Scholz nói. Tutankhamen sống cách nay khoảng hơn 9.000 năm và ông có nhiều họ hàng. Phần lớn hậu duệ của ông di chuyển qua châu Âu sinh sống khi nông nghiệp bắt đầu phát triển 7.000 năm trước Công nguyên. Và chỉ có một nhóm người nhỏ di chuyển xuống phía nam Ai Cập. Nghiên cứu của các nhà khoa học Thụy Sĩ khẳng định giả thuyết rằng tầng lớp vương giả Ai Cập có nguồn gốc từ nơi khác và những người Ai Cập hiện nay không phải là con cháu của những người bản địa xa xưa của đất nước này. Tiến sĩ lịch sử Maria Dovrovolskaja, thuộc Viện Khảo cổ (Viện Hàn lâm khoa học Nga), giải thích: “Cư dân cổ Ai Cập khác hẳn người Ai Cập ngày nay - chủ yếu là những người Ả Rập đến đây sau khi có những cuộc di trú tại Bắc Phi”. Các nhà khoa học tin rằng tổ tiên của người Ai Cập ngày nay đến từ vùng vịnh Persic. Đây là những bộ tộc Ả Rập đã xâm chiếm, chinh phục Ai Cập và định cư ở đó. Các nhà khoa học một lần nữa khẳng định việc duy trì tên họ của các triều đại Ai Cập là khép kín. Ngay cả để duy trì nòi giống thì chỉ những người trong hoàng tộc mới được phép cưới nhau. Nhưng nếu Tutankhamen và giới tăng lữ Ai Cập không phải dân gốc Ai Cập thì vị pharaoh này đến từ đâu? Phó tiến sĩ lịch sử Roman Zarapin, Đại học Lưu trữ lịch sử Moscow (Nga), nói: “Giả thiết Tutankhamen có nguồn gốc Tiểu Á nhiều người đã biết”. Nhưng các nhà khoa học Thụy Sĩ lại cho rằng những người thuộc triều đại Tutankhamen đến từ vùng duyên hải biển Đen. Trước đây còn có vài giả thiết. Một trong số đó là pharaoh có nguồn gốc từ vùng lưỡng hà, tức lãnh thổ Iran ngày nay. Giả thiết khác cho rằng giới vương giả Ai Cập cổ đại chuyển từ sa mạc Sahara đến Ai Cập cách nay khoảng 4.000 - 5.000 năm. Nhưng nếu các nhà khoa học Thụy Sĩ đúng, thì chỉ có một giả thiết: Tutankhamen từ châu Âu đến Ai Cập cách nay khoảng 9.000 năm. Tuy vậy, giới khoa học thế giới không hoàn toàn thừa nhận kết luận của phía Thụy Sĩ. Hơn thế, mới đây Roman Scholz lại thừa nhận với phóng viên tạp chí Itogi (Nga) rằng ông và các đồng nghiệp “lấy” gien của Tutankhamen từ… bộ phim tài liệu (!?) của một kênh truyền hình. Nghĩa là các thông số đều dựa theo bộ phim này. Trong khi đó kết quả phân tích ADN pharaoh Tutankhamen của các nhà khoa học Ai Cập vào năm 2010 đến nay vẫn được giữ kín. Câu hỏi về nguồn gốc của vị pharaoh này và nguồn gốc châu Âu thực ra vẫn là dấu hỏi lớn. Có thể đến một lúc nào đó, chính quyền Ai Cập sẽ công bố bí mật này để kết thúc các cuộc tranh cãi tưởng như không có hồi kết và đặt dấu chấm hết cho một trong những câu hỏi chính về lịch sử thế giới cổ đại. Châu Âu có 3 lần diễn ra việc di dân. Cách nay 100.000 năm con người “bước ra” từ châu Phi nhưng không di cư đến châu Âu mà lại tới Ấn Độ, Trung Quốc và Úc. Những người định cư đầu tiên ở châu Âu dường như đến từ Iran. Các cuộc di dân diễn ra ở Tiểu Á, Thổ Nhĩ Kỳ, vùng Balkan và ở khu vực Địa Trung Hải, Tây Ban Nha, Pháp... Điều này diễn ra cách nay 50.000 năm. Cuộc di dân thứ hai diễn ra tại Nga cách nay 30.000 năm, từ vùng sông Don. Hai làn sóng di dân này tạo nên hai nền văn hóa khảo cổ khác nhau. Cuộc di dân thứ ba vào châu Âu từ Ấn Độ diễn ra cách nay 10.000 năm. Về lý thuyết, mỗi cuộc di dân tại vùng biển Đen có thể có ông tổ của Tutankhamen. (Theo nhà sử học người Nga Gudz Markov) (Theo BBC) Hơn 50% nam giới Tây Âu là hậu duệ của pharaon Ai Cập Có đến 70% nam giới Anh và khoảng 50% nam giới Tây Âu có chung ADN với vị pharaon Ai Cập cổ đại Tutankhamun. Nói một cách khác, họ là những hậu duệ của vị pharaon này. Các phương tiện thông tin đại chúng Anh mới đây đã đăng tải kết luận của các nhà di truyền học Thụy Sĩ cho rằng “tổ tiên của họ từng sống tại vùng Caucasus vào khoảng 9.500 năm trước”. Các nhà khoa học Thụy Sĩ thuộc Trung tâm nghiên cứu di truyền Zurich đã lấy mẫu ADN từ xương hóa thạch của vị pharaon đã trị vì Ai Cập hơn 3.000 năm trước này để so sánh với ADN của người châu Âu đương đại. Kết quả cho thấy pharaon Tutankhamun thuộc nhóm gien được biết đến với tên gọi R1b1a2, mà theo các nhà khoa học, có hơn 50% nam giới Tây Âu thuộc nhóm gien này. Nghiên cứu của các nhà khoa học Thụy Sĩ cho thấy, gần 70% số đàn ông Tây Ban Nha và 60% số đàn ông Pháp thuộc cùng một nhóm gien với pharaon Tutankhamun. Máu của vị pharaon này cũng đang chảy trong huyết quản của 50% số đàn ông Thụy Sĩ. Theo đánh giá của các nhà khoa học Thụy Sĩ, sự du nhập sớm nhất nhóm gien R1b1a2 từ khu vực Caucasus sang châu Âu bắt đầu cùng với việc phổ biến canh tác nông nghiệp vào khoảng thời gian 9.000 năm trước Công nguyên. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu hiện chưa lý giải được phả hệ họ nội của vị pharaon nói trên tới được Ai Cập từ khu vực Caucasus như thế nào. http://www.baotintuc...03065638729.htm
  14. Hậu duệ của người nổi tiếng - Kỳ 2: Người con xấu số của Stalin Ít người biết đến Yakov Dzhugashvili - con trai cả của lãnh tụ Xô Viết Joseph Stalin - số phận đầy nghiệt ngã. Tình duyên trắc trở Sinh ngày 18.3.1907 tại làng Borji, Georgia, cho tới năm 14 tuổi Yakov Dzhugashvili mới được nhìn thấy mặt cha. Yakov là kết quả của cuộc hôn nhân giữa Stalin với Ekaterina Svanidze. Khi Yakov chưa đầy 1 tuổi thì Svanidze qua đời vì bạo bệnh. Sau khi chôn cất vợ, Stalin đã để họ hàng nuôi Yakov và ông hầu như không ngó ngàng đến cậu bé. Năm 1921, khi dì Aliosa Svannidze đưa Yakov lên Moscow gặp Stalin, nhà lãnh đạo không biểu lộ vẻ mừng vui và bố trí cho con trai ở một phòng khá lạnh lẽo với đồ đạc hết sức đơn giản. Yakov cảm thấy xa lạ trong nhà người cha, nhưng may mắn khi ở đó có Nadezhda Sergeevna Alliluyeva, người vợ thứ hai của Stalin. Alliluyeva hơn Yakov 10 tuổi và bà đối xử với đứa con riêng của chồng rất tốt. Vào năm 1925, Yakov muốn cưới vợ nhằm có cuộc sống độc lập, nhưng Stalin cấm con thực hiện điều này và buộc chàng trai trẻ trước hết phải học xong đại học. Bị cha cấm đoán và ghẻ lạnh, nên đã có lúc Yakov tự tử hụt. Sau vụ việc này, Stalin nổi giận, nói với Alliluyeva: “Kệ nó, muốn sống thế nào, ở đâu và với ai cũng được”. Yakov cùng người tình là Zoya đến Leningrad ở nhà người họ hàng của Alliluyeva. Tại đây, Yakov học và trở thành công nhân sửa chữa điện. Năm 1929, Zoya sinh con gái, nhưng đứa bé chết ngay sau đó, rồi cuộc hôn nhân của Yakov đổ vỡ. Đầu hàng số phận, Yakov trở lại Moscow và thi đỗ vào Đại học Giao thông. Stalin hầu như không can thiệp vào đời sống của con trai, ngoại trừ một lần khi Yakov nhập học, ông gọi điện thoại hỏi hiệu trưởng của trường rằng có ai phàn nàn kêu ca gì về Yakov Dzhugashvili không. Vị hiệu trưởng gần như chết lặng và chỉ trả lời là không có ai kêu ca gì. Vào năm 1934, Yakov làm quen rồi yêu cô gái đẹp Olga. Cuộc tình này cho ra đời đứa con trai ngoài giá thú là Evgeni Dzhugashvili. Olga về quê nhà ở Yryupinsk nuôi con và khi Evgeni được 2 tuổi thì cô mang con lên Moscow gặp Yakov. Đáng nói đây là lần gặp duy nhất, Evgeni còn quá nhỏ nên hầu như không nhớ được điều gì về cha. Vào thời gian này, Yakov đã cưới nữ nghệ sĩ Yulia Meltzer và hai người có một con gái. Yulia Meltzer từng đề nghị Olga để Evgeni lại Moscow để cô nuôi dưỡng, nhưng Olga không đáp lại thiện chí này. Olga lo sợ rằng, nếu để Evgheni cho vợ chồng Yakov - Yulia, nhiều khả năng sau đó họ sẽ gửi con cô vào trường nội trú. Đáng chú ý, Yulia Meltzer là người Do Thái, nên Stalin không mấy có thiện cảm và hầu như không thừa nhận cô. Sau này khi Yakov bị phát xít Đức bắt làm tù binh thì Yulia cũng bị phía Liên Xô bắt giam ngay lập tức. Yakov bị phát xít Đức bắt làm tù binh - Ảnh: img11.nnm.ru Binh nghiệp ngắn ngủi Ngay trước khi Thế chiến 2 nổ ra, Yakov Dzhugashvili tốt nghiệp Học viện Pháo binh ở Leningrad. Ngày 23.6.1941, trung úy Yakov lên đường ra mặt trận, anh không nhận được lời động viên nào từ cha, qua điện thoại Stalin chỉ nói ngắn gọn: “Hãy đi và chiến đấu”. Yakov chỉ huy một đại đội thuộc Trung đoàn pháo số 14 và bắt đầu tham chiến vào ngày 27.6, chống lại tập đoàn xe tăng số 4 của phát xít Đức. Đến ngày 4.7, đại đội của anh bị bao vây tại khu vực Vitsyebsk, Belarus. Mặc dù Yakov được cấp trên quan tâm đặc biệt, đề nghị giải cứu riêng nhưng anh từ chối. Đến ngày 16.7, Yakov bị Đức bắt làm tù binh. Chiến tranh với anh đã kết thúc, nhưng những thử thách nặng nề nhất lại đang ở phía trước. Yakov bị bắt làm cả hai phía tham chiến có những phản ứng dữ dội nhưng trái ngược. Vào ngày 20.7, trong khi Đài phát thanh Berlin (Đức) mừng rỡ loan báo tin bắt được con trai của Stalin, thì từ Tổng hành dinh Liên Xô, nguyên soái Zhukov âm thầm ra lệnh báo cáo gấp hiện trung úy Yakov đang ở đâu. Điều này cho thấy, con trai của Stalin đã mất liên lạc với Hồng quân vài ngày trước khi bị bắt. Chỉ đến khi phía Đức công bố bức ảnh Yakov với vẻ mặt buồn bã đứng giữa vòng vây của bọn phát xít, phía Liên Xô mới tin đó là sự thật. Ngày 19.7, Yakov được phép viết thư cho cha với nội dung ngắn gọn: “Cha kính mến! Con bị bắt làm tù binh. Con vẫn khỏe, sắp tới sẽ được đưa đến một trong số các trại giam sĩ quan ở Đức. Họ đối xử bình thường. Con chúc cha khỏe và gửi lời chào đến mọi người. Yakov”. Đến nay, tính xác thực của bức thư vẫn là dấu hỏi với các nhà sử học. Nhưng khi Stalin biết được nội dung bức thư, thì ngay sau đó Sắc lệnh số 270 ra đời. Sắc lệnh này khẳng định các sĩ quan để cho kẻ thù bắt làm tù binh bị coi như phản quốc và gia đình của họ cũng sẽ bị bắt. Chính vì thế, Yulia Meltzer bị giam vào tù ngay sau đó. Các tài liệu lưu trữ để lại cho thấy Yakov liên tục bị hỏi cung, bị chuyển từ trại giam này đến trại giam khác. Nhưng dù có thế nào, anh vẫn giữ vững tinh thần, sự kiên định của một sĩ quan Hồng quân. Tháng 2.1943, Yakov bị đưa đến trại tập trung Sachsenhausen. Khi đó, Đức có ý định đánh đổi Yakov lấy thống chế Paulus, bị Hồng quân bắt ngày 31.1.1943. Lời đề nghị này được chuyển qua ông Bernadotte, Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ Thụy Điển. Câu trả lời của Stalin đã trở nên nổi tiếng: “Tôi không đánh đổi một thống soái lấy một người lính”. Không những thế ông còn nói: “Chúng tôi không có tù binh mà chỉ có những kẻ phản bội Tổ quốc”. Ngày 14.4.1943, Yakov chết tại Sachsenhausen mà nguyên nhân đến nay chưa được rõ. Có thể anh bị bắn chết khi trốn chạy, hoặc chết do dính điện cao thế tại hàng rào dây thép gai. Sau cái chết của con trai, Stalin ngay lập tức trả tự do cho Yulia Meltzer. Evgeni Dzhugashvili (ảnh) sinh năm 1936, con của Yakov Dzhugashvili, cháu nội của Stalin, là giáo sư, nhà sử học, kỹ sư, nhà hoạt động chính trị - quân sự Xô Viết. Mang hàm đại tá, đến năm 1991 Evgeni về hưu. http://www.thanhnien...cua-stalin.aspx
  15. Cảm ơn tác giả Viên Như đã hồi đáp. Chúc Viên Như có nhiều phát hiện mới trong nghiên cứu Lý học. Thiên Đồng
  16. Nên xoay hướng bàn thờ 1 trong 4 hướng Tây Bắc, Đông Nam, Đông Bắc hoặc Tây cho tuổi 1980. Tuy nhiên đây chỉ là một yếu tố còn tùy vào hiện trạng nhà. Thiên Đồng
  17. Các từ mượn gốc hán hay bị lẫn lộn, vì sao? (LĐCT) - Số 43 - Chủ nhật 27/10/2013 14:57 Vốn từ tiếng ta hiện có vào khoảng trên dưới 60% yếu tố gốc Hán. Có tác giả cho rằng con số đó có lẽ còn cao hơn thế. Do quá đông về số lượng, lại cùng sống trà trộn bên nhau, nên các yếu tố ấy rất hay bị lẫn lộn hoặc là với nhau, hoặc là với các yếu tố thuần Việt. Thực tế đó khiến người dùng tiếng Việt ít từng trải dễ mắc lỗi. Dăm dẫn liệu dưới đây là các minh chứng cụ thể. 1. Người Việt mượn của tiếng Hán hai chữ CỨU. Trong đó, chữ thứ nhất có nghĩa là “giúp” (cứu vớt, cứu giúp, cứu nạn, cứu đói, cứu hộ, cứu trợ, cứu tế, v.v.); còn chữ thứ hai có nghĩa là “cuối cùng”. Do chỉ xuất hiện hạn hẹp trong một kết hợp duy nhất là cứu cánh. Nghĩa đích thực của nó là “mục đích cuối cùng”, bởi trong tiếng Hán, chữ cánh có nghĩa là “mục đích”. 2. Tương tự, vốn từ tiếng ta hiện có hai chữ TRỮ, và cả hai đều mượn của Hán ngữ. Chữ TRỮ thứ nhất hay dùng với nghĩa “chứa”. Chữ này có thể bắt gặp trong hàng loạt kết hợp, như tích trữ, tàng trữ, tồn trữ, dự trữ, trữ kim, trữ lượng, v.v.. Trong tất cả các kết hợp nêu trên, TRỮ đều được dùng với nghĩa vừa nhắc. Do chữ thứ hai (tức TRỮ2) chỉ được dùng với nghĩa là “bày tỏ”, và chỉ gặp trong một kết hợp độc nhất là trữ tình. Vì bị TRỮ1 lấn át (nhờ được dùng rộng rãi hơn), nên trữ tình hay bị người Việt (thậm chí cả vài vị GS, như GS Nguyễn Lân, chẳng hạn) hiểu chệch là “chứa đựng tình cảm”, trong khi nghĩa đích thực của nó là “bày tỏ tình cảm”. 3. Đọc câu thơ nổi tiếng “Gác mái ngư ông về viễn phố” của Bà huyện Thanh Quan, phần đông chúng ta đều không khỏi bối rối tự hỏi: Chẳng rõ động cơ nào đã thôi thúc ông lão đánh cá tả trong bài, sau một ngày dài vật lộn với các luồng cá, lại chậm rãi lê bước về một con phố xa xôi vào lúc chiều tà, thay vì đi về nhà nghỉ ngơi khi đã gác mái chèo lên mạn. Họ đâu biết cái địa điểm được nữ sĩ gọi là “viễn phố” kia thực ra chỉ là một bến sông nào đó ở chốn khuất xa. 4. Như mọi người đều biết, chữ YẾU gốc Hán (hay dùng trong các kết hợp trích yếu, hiểm yếu, trọng yếu, yếu nhân,…) vốn đồng âm với YẾU thuần Việt (vốn có nghĩa là “thể lực kém sung mãn”). Do bị YẾU thuần Việt có khả năng kết hợp rộng rãi hơn nhiều lấn át, nên yếu điểm (tức “điểm hệ trọng”) hay bị hiểu chệch thành “điểm yếu kém”. 5. THAM QUAN trong Hán ngữ vốn dùng để chỉ hành động “[Tìm tới tận nơi để] được tận mắt ngắm nhìn một địa danh/một cảnh vật nào đó nhằm mở rộng vốn hiểu biết/học hỏi kinh nghiệm”. Ấy thế nhưng vẫn có không ít người Việt lại chả thích thế, mà thích hiểu là “Đến viếng thăm nơi nào để xem xét/thưởng ngoạn”. Đó là lý do khiến họ đã “mạnh dạn” đổi yếu tố đầu trong kết hợp trên thành THĂM, do thấy chữ THĂM thuần Việt có tần suất sử dụng cao hơn và nghe “dễ hiểu” hơn gấp bội. 6. CHÚNG CƯ trong tiếng Hán vốn dùng để chỉ các “công trình kiến trúc cao tầng được thiết kế thành nhiều căn hộ khép kín và riêng biệt dùng làm nơi sinh sống”. Do người Việt chẳng phải ai cũng thạo tiếng Hán, nên cảm thấy yếu tố thứ nhất trong kết hợp trên nghe quá đỗi “lạ tai”, nên đã đổi CHÚNG thành CHUNG cho “thuận tai” và cũng “thuận lý” hơn. Nhất là khi thấy có nhiều hộ cùng chung sống bên nhau trong thứ công trình kiến trúc kiểu vừa nhắc. 7. Tiếng Việt mượn của Hán ngữ từ THỐNG KẾ, một từ hay dùng để chỉ hành động “tính gộp cả” (như học giả Thiều Chửu từng giảng). Khi đi vào tiếng ta, yếu tố thứ hai (KẾ) trong kết hợp trên khiến lỗ tai của nhiều người Việt cảm thấy “nghịch nhĩ”. Trong khi đó tiếng ta đang sẵn có từ KÊ vẫn hay được dùng với nghĩa “Ghi ra theo thứ tự từng thứ, từng món cho đỡ bị quên/để báo cho ai đó biết”. Đó chính là lý do khiến kết hợp THỐNG KẾ “trái tai” bị đổi thành THỐNG KÊ nghe vừa “thuận tai”, vừa “dễ hiểu” hơn. Từ những gì vừa trình bày, chúng ta có thể rút ra một bài học nhỏ: Dù thạo tiếng Hán đến đâu chăng nữa, chúng ta cũng khoan hẵng tự tin vội, bởi lẽ cái giữ vai trò tối hậu quyết định trong ngôn từ lại là khả năng kết hợp rộng hay hẹp và thế thượng phong của các yếu tố hợp thành trong thực tế sử dụng. http://laodong.com.v...-sao/144841.bld ============================== Ngày xưa thì bảo 80% là từ Việt có gốc Hán, bây giờ hạ xuống còn 60%. Chán! Ơ mà tiếng Việt nghèo nàn thế sao? Hay sự hiểu biết nó nghèo nàn?
  18. Truyện tranh Việt Nam khiến báo Trung Quốc e ngại Tập 1 bộ truyện tranh “Hoàng Sa, Trường Sa - khẳng định chủ quyền” của Cty Phan Thị được báo chí Trung Quốc mổ xẻ khá nhiều, thể hiện rằng bộ truyện là hướng đi đúng và đang khiến báo chí Trung Quốc lo ngại. Theo Cty Phan Thị, ngoài thông tin quanh việc Việt Nam ra mắt bộ truyện tranh đầu tiên về biển đảo, một số tờ báo Trung Quốc cũng phản bác thông điệp của bộ truyện tranh này. Một số bài viết đã giật tít: “Truyện tranh Việt Nam ngang nhiên nhận biển Đông của Trung Quốc là của mình”, “Truyện tranh “Hoàng Sa và Trường Sa” của Việt Nam cho trẻ biết biển Đông không thuộc về Trung Quốc”, “Việt Nam dùng “Thần đồng Đất Việt” để gây hấn vấn đề chủ quyền Tây Sa, Nam Sa của Trung Quốc”, “Bắc Kinh phẫn nộ: Truyện tranh Việt Nam ngang nhiên cho rằng biển Đông của Trung Quốc là của riêng họ”. Tập 1 “Hoàng Sa, Trường Sa - khẳng định chủ quyền”. Một bộ truyện tranh vừa mới ra mắt tập đầu mà đã được lên báo ngoài nước như thế quả là một hiện tượng truyền thông. Bởi những gì viết cho thiếu nhi - thế hệ tương lai của đất nước tưởng là nhỏ, nhưng sức mạnh và sự ảnh hưởng của nó thì lại sâu rộng khôn cùng. Theo tiến sĩ Nguyễn Nhã - người cố vấn và hiệu đính cho bộ truyện tranh này, “Truyện tranh về Hoàng Sa, Trường Sa” sẽ là bước khởi đầu cho phương thức truyền bá thông điệp yêu nước, kiến thức về chủ quyền biển đảo đến thế hệ trẻ thật gần gũi, đơn giản, nhưng không kém phần sâu sắc”. Bộ truyện tranh dự kiến gồm 10 tập. Các tập tiếp theo lần lượt đề cập các vấn đề liên quan đến lãnh thổ An Nam, hành trình khám phá những hòn đảo Hoàng Sa - hay quần đảo Paracels - huyền bí trong mắt các học giả Tây phương. Điều thú vị là từ đề tài tưởng khó viết này, các nhà làm sách đã phải bỏ ra một năm để lồng vào cốt truyện thiếu nhi, cho trẻ con thấy hấp dẫn để theo dõi mạch truyện. Theo đó, Công chúa Phương Thìn là người dẫn truyện, đưa các nhân vật quen thuộc của Thần đồng đất Việt như Tý, Mẹo, Sửu, Dần vào thế giới màu sắc của các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, thông qua thư viện của các vị quan chép sử. Qua bộ truyện tranh này, Cty Phan Thị muốn truyền bá kiến thức chủ quyền biển đảo, hun đúc lòng yêu nước và tinh thần bảo vệ lãnh thổ, để các em hiểu thêm về lịch sử nước nhà, ra sức bảo vệ và khẳng định chủ quyền đất nước. Xem ra, bộ truyện này không còn là truyện tranh cho thiếu nhi mà còn liên quan đến vấn đề của cả quốc gia, của vấn đề biển đảo quốc tế. Chính vì thế, bộ truyện được báo chí nước ngoài nhắc tới - dù là phản bác đi chăng nữa - thì đó cũng là một tín hiệu cho thấy đã thành công bước đầu: Công cuộc đấu tranh đòi công nhận chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa là của VN tuy còn dài, nhưng với chứng cứ, tài liệu rõ ràng, với từng bước, từng việc làm cụ thể, trên nhiều phương diện, sẽ được cộng đồng quốc tế ủng hộ. http://laodong.com.v...ngai/144114.bld ======================= Cty Phan Thị làm bộ truyện này rất ý nghĩa, đáng để đời.
  19. Thiên Đồng cũng xin lấy một quẻ xem thành viên jeta1080 đã "đi" tới đâu? Quẻ Cảnh Đại An và Hưu Đại An. Theo quẻ thì jeta1080 đã nổi lên và tấp vào bến trái bờ sông tính theo chiều đông nam - tây bắc, nghỉa là xuôi theo đòng nước ở bên trái bờ, từ cầu Thanh Trì ngược lên đến đoạn sông phình to, có thể tấp vào đám cỏ cao cây bụi nơi gần đất trống hoặc đất chùa lớn, cách khoảng 5km tính từ nơi bị ném xuống. Thi thể còn tương đối rõ để nhận dạng. Xin cầu xin các chư vị hộ pháp linh thiêng, các chư vị thần sông, thần đất gia hộ độ trì cho việc tìm thi thể cô Lê Thị Thanh Huyền, jeta1080, mau chóng tìm được. Nhanh thì mai, chạm thì mốt 23 âm lịch tìm được. Nam mô A Di Đà Phật, Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát, Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát. ngày bổ sung hình:26/10/2013, khoảng 11:00.
  20. Nhà xưa - Nét đẹp miền Tây Nam bộ (P1) Phải nói rằng ở đâu đó thấp thoáng trong các vùng nông thôn miền Tây Nam bộ, những ngôi nhà cổ đang hiện diện như một minh chứng cho một giai đoạn lịch sử của văn hóa, con người miền sông nước một thời. Những ngôi nhà hiện nay cũng có căn còn y nguyên dáng dấp và các đường nét kiến trúc ban đầu, có căn không còn nguyên vẹn, một phần do thời gian, con người và các tác nhân gây hại của thời tiết qua hàng bao thập kỷ trên mảnh đất nhiệt đới có độ ẩm cao này. Nhưng nhìn chung ở chúng đã thể hiện được một phần kiến trúc và văn hóa tín ngưỡng cũng như trình độ xây dựng những năm của thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 thế kỷ trước, lối kiến trúc cũng như bố cục hài hòa phù hợp với văn hóa lối sống của bản địa. Tôi đã nghe nói đến ngôi nhà cổ nổi tiếng ở Bình Thủy – Cần Thơ, ngôi nhà trăm cột ở Cần Đước - Long An nhưng chưa có dịp ghé thăm và chiêm ngưỡng. Những ngôi nhà dưới đây có nhiều căn tuy đơn giản hơn về đường nét kiến trúc cũng như quy mô xây dựng nhưng nhìn chung tự bản thân nó cũng nói lên được quá khứ qua bàn tay và dấu ấn của tiền nhân ở vùng đất Nam bộ xưa, tiếc rằng do thời gian, điều kiện kinh tế và thiếu đi bàn tay chăm sóc của con người. Và nhiều lý do khác mà có nhiều căn nhà nay đã xuống cấp ngiêm trọng trong sự tiếc nuối của người trong cuộc, cũng như những ai thích khám phá tìm hiểu kiến trúc xưa và tâm hồn muốn tìm về hoài cổ. Với hình khối đường nét phóng khoáng pha lẫn kiến trúc Pháp thời thuộc địa, mái lợp ngói vẩy cá (ngói âm dương) 2 lớp, những cây cột trụ chính và cửa hiên thoáng gió, cửa chính vào nhà và cửa sổ sơn màu xanh lơ đặc trưng tạo chớp, kích thước lớn hơn bình thường tạo không gian thoáng đãng khi được mở tối đa, tất cả lối kiến trúc hoà quyện vào nhau và mang đậm dấu ấn phương Đông, những ngôi nhà có tuổi thọ trên dưới trăm năm hầu như vẫn còn giữ lại được kiểu dáng ban đầu. 3 ngôi nhà này tọa lạc tại Tân Túc, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh: Ngôi thứ nhất gồm quần thể 2 nhà riêng biệt nối với nhau bằng một khoảng sân hẹp chừng 2 mét, phù hợp với bố cục cảnh quan xung quanh. Hàng rào bằng thép đúc, hoa văn đơn giản tạo mỹ quan cho ngôi nhà. Ngôi nhà thứ 2, tường sơn màu vàng đặc trưng mái ngói âm dương cũ màu. Hoa dong riềng đỏ rực cả góc sân như điểm gạch nối thời gian hiện tại với ngôi nhà đang suy tư. Ngôi nhà thứ 3, hình khối đường nét dứt khoát, kín đáo, tường màu vàng lợt cũng lợp bằng mái ngói âm dương.
  21. Đang lẫn khuất trong con ngõ nhỏ um tùm cây trái của một vùng quê yên bình ở huyện Giồng Trôm - tỉnh Bến Tre. Ngôi nhà bên dưới tuy không bề thế nhưng mọi chi tiết và hoa văn trang trí cũng như bố cục hầu như không thay đổi, chỉ có mái ngói bị xô lệch theo thời gian vì mưa nắng. Những mảng tường vỡ như nhắc nhớ đến quá khứ vui buồn khi xưa. 2 tòa nhà sau đây nức tiếng một thời ở tỉnh Bạc Liêu xưa, chắc rất ít người là không biết đến; nhà ông Hội đồng Trần Trinh Trạch, cha Công tử Bạc Liêu Trần Trinh Huy. Những vật liệu cơ bản như gạch, xi măng, cửa cổng chính bằng thép đúc, hàng rào... được đặt mua và vận chuyển về từ nước Pháp xa xôi. Kiến trúc mang tính hiện đại của phương Tây nhưng vẫn giữ được nét riêng hồn quê thanh bình nơi bản xứ. Nhìn ngôi nhà đứng trầm mặc ưu tư với thời gian và quá khứ ta như thấy lại cảnh nhộn nhịp khách khứa vào ra của gia đình th trước, những vị chức sắc khắp lục tỉnh Nam kỳ trong đó có cả những người Ăng lê dập dìu đến tham dự, cậu Ba Huy quát tháo người làm công tất bật ra vào, và nhốn nháo dân cái bang khắp xứ... không khí thật tưng bừng mỗi khi nhà Lớn tổ chức đám tiệc, vui chơi... Nay quần thể này đã trở thành Khách sạn "Công tử Bạc Liêu", trong ngôi nhà chính vẫn đặt ban thờ cũng như di ảnh gia đình và 2 bức tượng đồng vợ chồng ông Hội, rất nhiều khách du lịch trong nước cũng như nước ngoài đến nghỉ và tham quan, trong đó phòng nghỉ VIP xưa kia là phòng Hắc công tử lúc nào cũng kín chỗ. Vẫn biết rằng ở đâu đó khắp hang cùng ngõ hẻm của dãi đất miền Tây Nam bộ đầy nắng và gió này còn rất nhiều ngôi nhà xưa mà tôi chưa kịp bết đến, mà tất cả đang âm thầm lưu giữ cho đời sau những kiệt tác kiến trúc của lớp người đi trước, mong cho thời gian và con người không lấy đi hết những gì còn sót lại nét đẹp tinh túy của lối kiến trúc mang đậm dấu ấn văn hóa Việt. http://yume.vn/news/du-lich/kham-pha-viet-nam/nha-xua-net-dep-mien-tay-nam-bo-p1.35A8FF9C.html
  22. Hoa rụng trên bậc thềm cũ gợi niềm hoài cảm. Ngôi nhà dưới đây tại huyện Bến Lức - Long An, tiếc rằng đã từ lâu không còn bóng dáng của con người hiện diện vì số phận của nó sắp kết thúc trong lặng lẽ, khi mảnh đất này chuẩn bị giải tỏa để nhường chỗ cho khu du lịch trong tương lai. Hàng cột hiên phai màu đứng trầm mặc với thời gian. Hoa trái quanh nhà như còn xanh tươi lần cuối để sắp tiễn biệt người bạn cố tri...
  23. Top 10 kiến trúc sư "đạo chích" nổi tiếng nhất mọi thời đại Cùng khám phá những bí mật về những thiên tài của nhân loại. Điều gì được cho là nguồn cảm hứng thực sự và điều gì bị coi là “đạo ý tưởng”? Và làm thế nào để vạch rõ ranh giới giữa chúng? Rất khó để giải thích hợp lý về sự khác biệt việc tán dương một tác phẩm và bản sao của nó. Cũng ca ngời bản sao đó? Làm vậy có phải nhẹ nhàng quá không? Hay gọi nó là đồ ăn cắp ư? Thật vớ vẩn! Đặc biệt, đối với các kiến trúc sư thì vấn đề này luôn là tâm điểm của mọi sự tranh cãi trong nhiều thế kỷ qua. Tính cách đóng vai trò quan trọng để xác định sự khác biệt giữa người lạc quan và bi quan; người có phong cách rõ ràng hay không xác định; và cả người hướng nội với người hướng ngoại. Bất chấp tất cả, thời đại này sang thời đại khác, các kiến trúc sư vẫn mượn những ý tưởng trước đó và biến nó thành một tác phẩm khác, và họ cũng có phần nào công sức trong tác phẩm đó. Vì vậy, cho dù bạn coi họ như những người cải cách tiên phong hay chỉ là những người “mượn ý tưởng” thì những kiến trúc sư sau đây vẫn là những người có ảnh hưởng nhất mọi thời đại. 10. Filippo Brunelleschi Để bắt đầu danh sách, chúng ta hãy cùng quay trở về thời của Filippo Brunelleschi. Ông sinh ra ở Florence nước Ý vào năm 1377. Là một trong những người được coi là bậc thầy của kiến trúc hiện đại, những sáng tạo trong tác phẩm của ông có tác động to lớn để nhiều nghệ sĩ thời kỳ phục hưng noi theo. Tài năng thực sự của Brunelleschi nằm ở chính những thiết kế của ông. Khi nhà thờ Florence Cathedral muốn làm mái vòm mới, Brunelleschi tự tin rằng mình có thể thực hiện một kiệt tác chưa từng có: Mái vòm tự chịu lực hoàn toàn. Nhà thờ chính tòa Santa Maria del Fiore (Florence, nước Ý) có phần vòm do KTS Filippo Brunelleschi thiết kế. Dường như ông đã gặp phải hai khó khăn lớn khi xây dựng. Thứ nhất là phương thức trộn bê tông không phù hợp khi xây dựng Falling of Rome. Thứ hai là lượng gỗ từ những khu rừng trong vùng không đủ để đáp ứng số lượng giàn giáo cần thiết. Thế nhưng sự cố gắng của Brune là ngoài sức tưởng tượng. Thậm chí ông còn chẳng có đủ hai loại nguyên vật liệu chính, vậy mà ông vẫn có thể làm trọn vẹn mọi thứ. Dù sao, chỉ với 4 triệu viên gạch mà 16 năm sau, Florence Cathedral đã có một mái vòm tuyệt vời, là một kiệt tác của mọi thời đại. Từ khi được Đức Giáo hoàng thừa nhận vào Lễ phục sinh năm 1436, tác phẩm vẫn là một mốc son đáng ghi nhớ của nền kiến trúc đương đại cho đến tận ngày nay. 9. Michelangelo Buonarroti Người tiếp theo không ai khác ngoài Michelangelo Buonarroti. Ông sinh năm 1475 và có lẽ là người được biết đến nhiều nhất. Không chỉ là một họa sĩ mà còn là một nhà điêu khắc đại tài. Bên cạnh trang trí cho nhà nguyện Sistine và điêu khắc tượng David, Michelangelo còn tạo nên những tác phẩm điêu khắc tuyệt vời cho nhà thờ St. Peter’s Basilica ở Vantican, cùng rất nhiều dự án khác như Thư viện Laurentian và Nhà thờ Medici. Nhà thờ St. Peter's Basilica ở Vantican Những thiết kế của ông mở ra thời đại mới cho kiến trúc Mannenism (trường phái Biểu Hiện), là tiền đề trong hội họa và kiến trúc của thời kỳ Baroque sau này. Rất nhiều kiến trúc sư thời kỳ Phục hưng, trong đó có một bộ phận không nhỏ là học trò và đồng nghiệp của Michelangelo đã tìm cho mình nguồn cảm hứng từ những tác phẩm của ông. Điều này chưa bao giờ bị hạn chế bởi những học thuyết thiết kế cổ điển khắt khe. 8. Louis Sullivan Người tiếp theo trong danh sách này là Louis Sullivan, ông được người ta biết đến như cha đẻ của những tòa Skyscraper (nhà chọc trời). Ông là thầy dạy của rất nhiều KTS nổi tiếng, một trong số đó cũng nằm trong danh sách này mà chúng tôi sẽ đề cập đến ở phần sau. Những gì mà Sullivan làm được không chỉ dừng lại ở việc đào tạo nên những người trò giỏi. Sinh năm 1856, Sullivan có kinh nghiệm làm việc ở rất nhiều công ty kiến trúc, vì vậy ông có nhiều triển vọng nghề nghiệp với những tòa nhà được thiết kế ngày càng cao hơn. Là tín đồ trung thành của định lý “hình dáng theo công năng”, Sullivan thấy không khó để hình dung, thiết kế và xây dựng những toà nhà cao hơn những kiến trúc đương thời. Một khi phương diện chức năng được chú ý thì Sullivan cũng không e ngại về việc tăng cường những hoạ tiết trang trí đắt giá vào nội thất bên trong và bên ngoài tác phẩm để có những dự án độc nhất vô nhị. Tòa nhà Wainwright, Hoa Kỳ Trong khi nhiều kiến trúc sư khác còn đang phân vân trong việc chuyển sang sử dụng các thiết kế hiện đại như cấu trúc thép hay sử dụng hệ thống đèn điện thì Sullivan và đồng nghiệp của mình đã đi tiên phong, trong khi đó họ vẫn tôn trọng những đặc tính vốn có của những vật liệu thường được sử dụng thời đó. Trong tương lai, sẽ có những tài năng tiếp tục con đường của ông và họ sẽ gặt hái được những thành tựu to lớn hơn… 7. Le Corbusier Nếu Sullivan được coi là cha đẻ của kiến trúc nhà chọc trời, thì Le Corbusier được mọi người biết đến như cha đẻ của mô hình Trung cư. Ông đã thiết kế và đưa ra những lý thuyết cơ bản về những dự án nhà ở công cộng. Yếu tố nổi bật của dự án này là thực sự phù hợp với mật độ dân cư rất lớn hiện nay. Trong số những dự án của ông, có thiết kế gác xép thoáng đãng giữa những bức tường ngăn hay những hoạ tiết trang trí và bậu cửa sổ lớn có thể làm tăng ánh sáng cho không gian. Bê tông cốt thép cũng được đánh giá là điểm nổi bật trong những thiết kế của ông. Biệt thự Savoye, Pháp. Le Corbusier tên khai sinh là Charles-Edouard Jeaneret, ông sinh năm 1887. Không chỉ dừng lại ở góc độ tình cảm khi người ta quan niệm “Mái ấm là nơi con tim ngự trị”, hơn thế nữa ông còn dựa trên quan điểm chức năng của nó, ngôi nhà – nơi thể hiện cuộc sống có trật tự và phong cách sống gắn liền với công nghệ và kĩ thuật. Triết lý này đã có ảnh hưởng sâu rộng đến phong cách của nhiều thế hệ kiến trúc sư sau này. Le Corbusier cũng phát triển mô hình nhà xây dựng hàng loạt, góp phần đẩy nhanh tiến độ xây dựng nhà cửa sau chiến tranh TG thứ I và cải thiện mức sống cho những người dân có thu nhập thấp. 6. Joseph Eichler Joseph Eichler sinh năm 1900, nói một cách chính xác thì ông không phải một kiến trúc sư nhưng ông có tầm ảnh hưởng rất lớn đến công cuộc phát triển khu vực ngoại ô giữ thế kỷ 20. Trong suốt tuổi thanh xuân của mình, ông đã cùng công ty của mình xây dựng hơn 11000 ngôi nhà thiết kế dựa trên những nguyên tắc của kiến trúc hiện đại, và hầu hết những ngôi nhà này nằm ở California. Những tác phẩm của ông đã đưa kiến trúc hiện đại dẫn đầu trong giới thiết kế. Ngôi nhà ông thiết kế có một số chi tiết không thực sự phù hợp với tiêu chuẩn hiện này, ví dụ như cửa sổ thiết kế từ sàn nhà lên trần nhà hay cột trụ và xà dầm không được thiết kế theo cách thông thường. Những thiết kế khác của ông thì vẫn được thiết kế như thông thường như thiết kế sàn nhà hay phòng tắm thì không thể thiếu giống như những thiết kế ngày này. Ông có ý tưởng mang tới những ngôi nhà đẹp, phong cách và sang trọng đến cho mọi người (Eichler ám chỉ mọi người ở đây bao gồm cả những người bị phân biệt chủng tộc cũng như tôn giáo). Tuy nhiên ngày nay, để mua một căn nhà của Eichler thì hơi khó đối với một khách hàng được coi là tiềm năng trước đây. Một số căn nhà còn có giá từ 2 triệu đô la hoặc hơn thế. Những căn hộ Eicher đã xây dựng hiện giờ đang là những thiết kế thời thượng. Thật đáng ghen tị ! 5. Philip Johnson Philip Johnson sinh năm 1906, ông tốt nghiệp đại học Harvard và là người cũng áp dụng thiết kế cao tầng của Le Corbusier, sử dụng sức nặng bê tông trong xây dựng trên khắp nước Mỹ. Những thiết kế mang phong cách quốc tế sử dụng thép nguyên khối và kính megalith đã đến với Bắc Mỹ một cách rầm rộ, và phần lớn là nhờ công của Johnson. Trụ sở tập đoàn AT&T, Tp. New York, Hoa Kỳ Tuy nhiên thành công và tầm ảnh hưởng của Johnson chủ yếu nằm ở việc quay lại sử dụng những họa tiết kiến trúc truyền thống. Hệ quả của lời nguyền cho các kiến trúc sư - sẽ áp dụng lại những gì đã có sẵn mà thế hệ trước để lại. Ông đã mở đường cho kiến trúc hậu hiện đại, sự trở lại của những thiết kế truyền thống với những dự án như trụ sở tập đoàn AT&T tại thành phố New York. Tòa nhà này thỏa mãn cả hai khía cạnh chức năng và thị hiếu – hai khía cạnh mà trước đó một trong hai đã bị bỏ quên. 4. Ieoh Ming Pei Ieoh Ming Pei thường được biết đến với cái tên I.M. Pei, ông sinh năm 1917. Không lâu sau khi tốt nghiệp, Pei được chú ý bởi những dự án có quy mô lớn. Ông nhanh chóng nhận được sự ca ngợi mang tầm quốc tế và công ty của ông trở thành một trong những công ty danh tiếng nhất trên thế giới. Pei còn nổi tiếng khi khắc phục được những khó khăn trong những dự án đòi hỏi sự khéo léo và tinh tế cao độ trong khi những kiến trúc sư khác không làm được và quan hệ khách hàng củ họ thậ chị có thể trở nên tồi tệ hơn. Kim tự tháp tại bảo tàng Louvre, Paris Có lẽ có chút bất kính nhưng những người hâm mộ kiến trúc dành cho người đi bộ sẽ thấy quen thuộc với kim tự tháp tại bảo tàng Louver hơn là sự nổi tiếng của "Mật mã Da Vinci ". Đó chính là nhờ có I.M. Pei. Thực tế thì rất nhiều thiết kế hiện đại của bảo tàng được đảm nhiệm bởi công ty của ông trong nhiều thập kỷ. Sau nhiều năm phát triển những thiết kế đa dạng với quy mô lớn ở Mỹ thì Pei tập trung và những dự án ở Trung Quốc và các nước Đông Á. Quyết định thay đổi về địa lý này cũng ảnh hưởng nhiều đến phong cách của ông, khi trở lại Trung Quốc làm việc, ông đã đắn đo rất lâu để pha trộn giữa phong cách truyền thống và hiện đại, việc này thực sự liều lĩnh khi thực hiện tại đất nước như Trung Quốc,bởi sự tôn nghiêm và truyền thống lâu đời của nước này. 3. Renzo Piano Có cái tên đặc biệt như những dự án kiến trúc của mình vậy. Renzo Piano sinh năm 1937, ông đã thiết kế và xây dựng rất nhiều công trình quan trọng trong nhiều năm – đủ để khiến những kiến trúc sư khác phải khó chịu vì ghen tị. Ông đã đạt được ngôi sao vàng danh vọng đầu tiên trong giới kiến trúc cho những cống hiến của mình tại trung tâm văn hóa George Pompidou ở Paris. Sự phối hợp của hình ảnh mang tính công nghệ, sự tinh tế mang tính nghệ thuật và hình thức độc đáo, trung tâm này nhanh chóng đi vào lòng người, không chỉ du khách mà cả những kiến trúc sư khác. Học viện Khoa học California, Hoa Kỳ Những tòa nhà mà Piano thiết kết không góc cạnh và phức tạp mà thay vào đó phong cách của ông rất phóng khoáng và tinh tế. Ông dành sự quan tâm chi tiết đặc biệt cho thiết kế của mình đặc biệt là về ánh sáng, điều này khiến nhiều người ngưỡng mộ và bắt chước theo. Điều đáng chú ý nhất có lẽ là ông đã mang đến phong cách đột phá và ấn tượng đến từng chi tiết cho tất cả những dự án dù đó là bảo tàng, nhà hát ngoài trời, sân bay hay thậm chí là những cây cầu. 2. Frank Gehry Frank Gehry sinh năm 1929, ông vẫn đang làm việc chủ yếu tại khu vực Los Angeles, ông đã thử nghiệm pha trộn những chất liệu khác nhau và là người tiên phong trong việc kết hợp những chất liệu và họa tiết độc đáo để tạo nên những kiệt tác mang hơi hướm hiện đại. Gehry thường sử dụng tôn kim loại, bê tông, hàng rào, titan, kính và gỗ dán trong những dự án của mình. Những tòa nhà của ông thường có đặc điểm: góc độ sắc nét, mặt tiền sâu rộng và không gian ấn tượng với những yếu tố ngoại cỡ và lạ lẫm. Chỉ mất một cuộc khảo sát nhanh chóng những thiết kế đương đại để thấy được tầm ảnh hưởng sâu rộng của Gehry đến những kiến trúc sư khác. Trong số những kiệt tác có ảnh hưởng nhất của Gehry có bảo tàng Guggenheim tại Bilbao, Tây ban Nha và Trung tâm hòa nhạc Walt Disney Los Angeles. Ông cũng là người xây dựng nên Bảo tàng không gian vũ trụ California, bảo tàng The Experience Music Project ở Seattle, Pritzker Pavilion ở Công viên kỷ Chicago và dự án Grand Avenue và rất nhiều thiết kế nổi tiếng khác. Bảo tàng Guggenheim, Tp. Bilbao, Tây Ban Nha. Song có lẽ điều đáng giá nhất mà Gehry có được là ông đã có được sự công nhận đặc biệt. Ví dụ tờ tạp chí Vanity Fair dã khảo sát 52 chuyên gia trong lĩnh vực kiến trúc trong năm 2005 đã xác định những kiến trúc có ý nghĩa quan trọng trong 25 năm trước đó, thật đáng kinh ngạc, có tận 28 đề cử cho bảo tàng Guggeheim của Gehry. 1. Frank Lloyd Wright Cuối cùng, một người chịu ảnh hưởng cực lớn bởi những tác phẩm của Luis Sullivan, người đàn ông đã làm công việc như một người trợ lý cho Sullivan hơn 6 năm liền. Hẳn là các bạn đnag tự hỏi rằng liệu chúng ta có nên bỏ Frank Lloyd Wright ra khỏi danh sách này hay không ? Yên tâm đi, vì ông chính là người xứng đáng nhất. Những dự án của Wright như là Biệt thự trên thác (Fallingwater), Tòa nhà Robie và bảo tàng Solomon R. Guggenheim đều đặc trưng bởi kiến trúc sinh thái hay hữu cơ và không gian thoáng đãng gần sông suối. Rất nhiều đồng nghiệp của ông tìm cách bắt chước lối thiết kế tao nhã mang cảm hứng từ thiên nhiên của ông. Biệt thự trên thác (Fallingwater), Hoa Kỳ. Frank Lloyd Wright sinh năm 1867, phong cách làm việc độc lập của ông có ảnh hưởng lớn đến nền kiến trúc thế giới nhưng ảnh hưởng to lớn nhất có lẽ là việc ông thành lập trường học nội trú Taliesin Fellowship năm 1932. Qua nhiều năm, những học viên đã vừa học vừa thực hành và xây dựng từ ngôi nhà Taliesin mùa hè của Wright ở Wisconsin cho đến ngôi nhà mùa đông của ông ở phía Tây Arizona. Ngôi trường đã đào tạo được một đội ngũ kiến trúc sư đầy hứa hẹn. Trong đó có những kiến trúc sư nổi tiếng như William Wesley Peters, Henry Klumb, Edgar Tafel and Jack Howe. Hiện tại ngôi trường đã được đổi tên là Trường Kiến trúc Frank Lloyd Wright, Taliesin vẫn là một học viện phát triển và chuẩn bị cho những kieens trúc sư tương lai theo con đường mang tính chất thương mại. http://genk.vn/kham-...19195737740.chn
  24. Những bộ lạc sắp biến mất khỏi trái đất Nhiếp ảnh gia người Anh Jimmy Nelson đã mất 3 năm để chụp ảnh về 35 bộ lạc bí ẩn tại 5 châu lục có nguy cơ biến mất vĩnh viễn. Người Tsaatan ở phía bắc Mông Cổ là một bộ lạc du cư sống phụ thuộc vào những con tuần lộc. Sống ở các khu rừng taiga ở cận Bắc cực, nơi nhiệt độ có lúc giảm xuống âm 50 độ C, Tsaatan là bộ lạc chăn nuôi tuần lộc di cư cuối cùng ở Mông Cổ. Các bộ lạc Kazakh là những người gốc Thổ Nhĩ Kỳ bắt nguồn từ phần phía bắc của Trung Á. Trong hơn 2 thế kỷ qua, những người đàn ông của bộ lạc luôn đi săn bắn trên lưng ngựa cùng các con đại bàng vàng. Người Mursi là một bộ lạc du mục chăn nuôi gia súc ở Great Rift châu Phi, phía tây nam Ethiopia. Họ sinh sống chủ yếu nhờ vào việc săn bắn, hái lượm, chăn nuôi gia súc và trồng lúa dọc theo bờ sông Omo. Bộ lạc Wigmen Huli cư trú ở Papua New Guinea và nổi tiếng với mái tóc giả cầu kỳ, nhiều màu sắc. Người Gauchos ở Argentina sống du mục trên lưng ngựa và lang thang trên thảo nguyên từ đầu những năm 1700. Vào thế kỷ 19, cuộc sống của họ gặp nhiều khó khăn vì các quy định chống người du mục. Người Gauchos có thú tiêu khiển như đánh bạc, uống rượu, chơi guitar và ca hát. Bộ lạc Mustang ở Mun Tan, Tây Tạng là hậu duệ của Vương quốc Lo. Bộ lạc này nằm trên một cao nguyên lộng gió ở giữa tây bắc Nepal và Tây Tạng, một trong những vùng đất xa xôi hẻo lánh nhất thế giới. Đây là một trong những bộ lạc cuối cùng đang lưu giữ nền văn hóa cổ của người Tây Tạng. Người Lo có cấu trúc gia đình truyền thống, theo đó người con trai sẽ kế thừa tài sản của gia đình.
  25. Nguy cơ biến mất của bộ tộc ít người nhất hành tinh Gần đây, vì những kẻ chiếm đất bạo lực nên một trong những bộ tộc du mục cuối cùng ở Amazon đang phải đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng, trừ khi một hành động khẩn cấp được đưa ra để bảo vệ họ. Đó là bộ tộc Awá, bộ tộc này rất ít khi được nhìn thấy tại khu vực Amazon của Brazil, họ được phát hiện lần đầu vào giữa những năm 1970. Bộ tộc Awá hiện có 360 người liên lạc với thế giới bên ngoài và khoảng 60-100 người được tin là đang ẩn náu trong các khu rừng. Awá đang đứng trước nguy cơ biến mất khi những kẻ xâm chiếm bất hợp pháp, chủ trang trại và những người di cư tới chiếm đất vài khai thác gỗ bất hợp pháp trên mảnh đất của họ. Hiện tại nhóm luật sư Survival International đang thực hiện một chiến dịch với hy vọng cứu bộ tộc này khỏi những kẻ xâm lấn đất. Fiona Watson, giám đốc Survival International cho biết: "Khi những khu rừng bị phá hủy, họ cũng sẽ biến mất hoặc chết". Đàn ông Awá là những thợ săn lành nghề và họ tự làm lấy mũi tên, cung tên cho mình. Người dân bộ tộc Awá sống chủ yếu dựa vào rừng. Cũng giống như nhiều người Anh-Điêng ở Amazon, những bà mẹ người Awá địu con trên một tấm vải vắt ngang người. Amerintxia có lẽ là người già nhất ở Awá. Bà sống trong một căn lều lợp bằng lá dừa cùng với những con thú cưng của mình. Hằng ngày, bà vẫn vào rừng để kiếm thức ăn. Apãranã đu dây qua một con lạch, nơi bọn trẻ vẫn thường tới tắm và chơi đùa. Người Awá đánh bắt trong những dòng suối trên mảnh đất của mình và họ rất thích món thịt Rùa. Hemokoma"á đứng trong khu rừng đang cháy âm ỉ ở Awá, 31% diện tích rừng trên lãnh thổ của người Awá đã bị những kẻ xâm lấn bất hợp pháp đốt và phá hủy. Hoàng Tuấn - ĐS&PL Việt Báo (Theo_VTC)