-
Số nội dung
6.007 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
103
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by wildlavender
-
Xác nhận có 1,000,000 đ (một triệu đồng) của HNT góp Quỹ từ thiện. Quỹ hiện có:7,150,000 đ + 1,000,000 đ = 8,150,000 đ(tám triệu một trăm năm mươi ngàn đồng)
-
Xác nhận có 500,000 đ(năm trăm ngàn đồng) của Bác Thiên Sứ góp cho trường hợp "Tha con cầu thực..." Quỹ hiện có: 6,650,000 đ + 500,000 đ= 7,150,000 đ(bảy triệu một trăm năm mươi ngàn đồng)
-
Xác nhận có 500,000 đ(năm trăm ngàn đồng) của Bác Thiên Sứ góp cho trường hợp "Tha con cầu thực..."
-
Ăn mày cửa Phật. Ngôi chùa Ni ba tầng uy nghi bề thế vừa được trùng tu đã thu hút nhiều khách thập phương tìm đến vãn cảnh, lễ Phật.Chùa xây theo lối kiến trúc vừa cổ kính vừa hiện đại, có sân trồng hoa kiểng, có Đông lang Tây lang làm nhà chúng và có cả tầng hầm làm nhà kho, nhà bếp và nơi để xe của quý cô. Chùa khánh thành xong, mở nhiều khóa tu nên Phật tử lui tới đông đúc. Buổi sáng, khi công việc bếp núc thu dọn xong, quý cô thường rút hết lên lầu. Lúc này khu tầng hầm là nơi vắng vẻ yên tịnh hơn cả. Chùa to Phật lớn nên bọn trộm vặt thường thừa cơ lẻn vào. Để đối phó, nhà chùa buộc phải nuôi chó. Thế là mấy chú chó ta, chó Nhật có mặt trong tầng hầm đủ để hình thành một đội quân hùng mạnh trấn áp kẻ gian. Lại có cả một đàn mèo ung dung chiếm giữ nơi góc bếp. Lũ mèo bị bỏ rơi trước cổng chùa, quý cô thương tình đem vào nuôi cho làm bạn với bầy chó. Đáng ngại nhất là lũ chuột cống kéo tới trú ngụ khắp mọi ngóc ngách nơi tầng hầm. Mèo trở thành khắc tinh, là mối đe dọa trực tiếp làm giảm bớt sự sanh sản thái quá của bầy đoàn nhà chuột chuyên nghề phá phách này. Mấy chú chó cưng được nuôi nấng đàng hoàng nên đối xử cũng có phần biệt đãi hơn. Vả lại nhiệm vụ giữ chùa coi xe cũng rất nặng nề. Thường thì chúng ở tầng hầm và được một cô quản gia chăm sóc tận tình, chu đáo. Cách vài ngày, bầy chó được tắm rửa sạch sẽ, xức dầu thơm. Đêm ngủ được lót chăn, được mặc áo khi trời trở lạnh. Thức ăn ngoài cơm rau, còn có thịt cá. Thỉnh thoảng chúng lại được no nê một bữa với xương heo giò chả của Phật tử mang đến. Nhiệm vụ của chó là canh giữ kẻ gian. Nhưng thường thì chúng sủa toáng lên khi nghe tiếng xe máy của quý cô ra vào. Xem ra chúng không phân biệt được người quen kẻ lạ. Nhưng có lẽ mấy chú cẩu nhà ta cho mình là chủ nhân ở đây, nên thích quấy quá đôi chút cho đỡ phần vắng vẻ, tịch liêu. Quý cô trong chùa thường bảo nhau: "Thong dong như mấy o mèo". Quả là mấy ả mèo suốt ngày chỉ quanh quẩn bên bếp lửa hoặc nằm dài trên đống tro tàn hết sức hồn nhiên, tự tại. Chúng chẳng bận tâm đến điều gì ngoài việc ăn rồi ngủ, nên chẳng làm nên tích sự gì, ngay cả việc thị uy với lũ chuột cũng không thể. Mèo vốn là loài bắt chuột. Nhưng đám mèo của chùa quá nhu mì lại gầy ốm. Còn lũ chuột tinh quái thì to béo như chàng lực sĩ đang sung sức. Mèo không thể làm gì chuột nên lâu ngày nó cũng mất dần bản năng rình mồi. Quý cô bảo mèo ở chùa ăn chay nên không thích sát sanh. Mà quả vậy. Cả ngày mèo cứ nằm lim dim ra chiều tư lự, mặc cho lũ chuột có chạy ngang trước mũi, mèo cũng dửng dưng chẳng thèm để mắt tới. Tầng hầm là nơi ở lý tưởng và an toàn nhất cho cả bầu đoàn thê tử nhà chuột. Ở đây chúng mặc sức lộng hành quậy phá mà chẳng sợ một thế lực nào đe dọa. Chúng không sợ đánh bả, dính keo, không sợ bẫy… vì nhà chùa từ bi có bao giờ sử dụng những món ấy. Còn mấy chị mèo dù có nhởn nhơ qua lại trong bếp, chuột cũng chỉ xem đó là những hình nộm biết đi, chẳng đáng quan ngại. Ở đây chúng lại có cả một kho lương thực dồi dào nên không sợ đói khát. Kho gạo và thức ăn, rau cải lúc nào cũng đầy ắp. Dù quý cô cất giữ cẩn thận cách nào, chuột cũng đánh hơi đục khoét moi ra cho bằng được. Ngay cả mấy thùng rác to tướng cũng được chúng chiếu cố tha hồ tìm kiếm những thức ăn khoái khẩu. … Có nhà văn tu sĩ thích ngao du đây đó để tìm ý tưởng. Một lần viếng chùa, tình cờ nhà văn nhận ra sự chung sống hòa bình thân thiện của bầy gia súc với lũ chuột cống đã phải ngạc nhiên thốt lên: - Quả là khung cảnh yên bình, tịnh lạc! Nhà văn thích thú khi trông thấy chú chó Bắc Kinh trắng trẻo đang vuốt ve ả mèo tam thể xinh xắn. Xưa nay mèo chó vốn chẳng ưa gì nhau, dù sống chung mái nhà, chúng cũng làm mặt lạnh đến nghìn trùng xa cách, có khi còn ẩu đả loạn xị cả lên. Ấy vậy mà, cả bầy chó mèo ở chùa lại tỏ ra hết sức thân mật. Lũ chuột tuy không nhận được thạnh tình này, song cũng mặc nhiên chơi đùa rượt đuổi cắn la chí chóe. Nhưng xem kìa! Nhà văn dỏng hai tai lắng nghe cuộc đấu khẩu giữa ba nhân vật chính đang có mặt tại tầng hầm. Nhà văn vốn có giác quan thứ sáu, nên nghe được cả tiếng nói của loài vật. Mấy chú chó đánh chén no nê những đĩa thức ăn đầy thịt thì ưỡn bụng đi nằm. Một cô mèo từ nhà bếp đi ra. Mèo ta cảm thấy đói bụng. Trong đĩa chỉ còn cơm trộn lẫn với rau xanh. Quý cô vẫn trộn rau vào thức ăn chó để chúng tập quen với việc chay lạt. Mèo vốn ăn chay, nên chẳng lấy gì làm phiền lòng. Cô ả ăn chậm rãi từ tốn vài miếng rồi cũng đi nằm. Lúc này một bầy chuột nối đuôi nhau ra tiếp nhận bàn tiệc. Thật là một lũ háu ăn vô trật tự. Chúng tranh ăn tranh nói làm cơm vương vãi tứ tung. Thỉnh thoảng có bước chân quý cô xuống cầu thang, đàn chuột giựt mình chạy biến một lúc rồi lại trở ra. Chúng cũng phát hiện có người lạ mặt đang dõi nhìn từ xa. Bữa tiệc đã xong. Cơm trắng vãi đầy trên nền gạch. Lũ chuột no nê, nên bắt đầu giở trò ranh mãnh, cắn đuôi rượt đuổi chạy quanh bếp. Cô mèo bị quấy rối liền mở mắt ra quát tháo: - Này, cái lũ chuột gớm ghiếc kia. Tổ tiên ba đời nhà mi trông thấy ta còn phải sợ chết khiếp, chứ đâu có cái hạng nghênh ngang vô lại chẳng xem trời đất ra gì. Ta đã không thèm đếm xỉa tới mà còn không biết thân biết phận. Coi chừng có ngày ta cũng sẽ tóm cổ tiêu diệt bằng hết cái đồ thối tha phách lối đó. Gã chuột cống to lớn có vẻ bất ngờ trước mấy lời gay gắt của chị mèo, nhưng hắn ta vốn lém lỉnh già đời, biết mèo chỉ mạnh miệng nói chứ không làm gì nên điềm tĩnh trả lời: - Ái chà! Chúng tôi chỉ đùa chơi chốc lát cho vui thôi, chị mèo ạ. Họ hàng chuột nhà tôi vốn mang tiếng là bọn sống chui rúc, phá phách quen rồi. Bản chất của chuột là vậy, biết làm thế nào. Nhưng chúng tôi nào dám nghênh ngang xem thường chị. Mèo càng tức khí: - Hừ! Đúng là một lũ lẻo mép láo xược. Hãy cút mau, đừng để ta nổi giận… Chuột lại chu mỏ: - Ôi! Chị làm gì mà dữ thế. Chúng tôi chỉ ăn ít cơm thừa rồi đi ngay, chẳng cần chị phải xua đuổi. Chị bảo tôi là thứ ăn hại. Còn chị suốt ngày cũng chỉ ăn rồi ngủ. Mèo vụt đứng lên, vươn móng vuốt ra hăm dọa: - A! Mi còn dám lên giọng với ta nữa. Cái lũ chuột già mồm này… Lũ chuột con bỏ chạy hết vào kho củi. Chỉ còn gã chuột đầu đàn giương mắt nhìn mèo thách thức: - À! Chị đừng cho là tôi ưa lý sự nhé. Tôi cũng đâu muốn chọc giận chị làm gì để mang họa vào thân. Dòng họ chuột tôi với nhà mèo chị vốn có mối thù truyền kiếp, đời thuở nào mèo lại dung thứ cho chuột. Nhưng ở đây, dưới mái chùa từ bi độ lượng, chúng tôi được sống yên ổn, no đủ. Chuột tôi dù là loài vật cũng biết nghĩ đến ân đức hiếu sanh của mấy chị mèo... Chú chó xám to lớn vạm vỡ nãy giờ vểnh tai nghe chán vội lên tiếng bảo mèo: - Này cô mèo, nói làm chi cho nhọc sức. Cứ dạy cho tên nhãi ranh đó một trận là xong chuyện. Thấy mèo làm thinh, chó nhướng mắt: - Cái lũ mèo nhà cô quả là biếng nhác vô tích sự. Ăn bao nhiêu là cơm chùa mà chẳng bắt nổi một tên chuột nhắt… Mèo vốn tánh hiền lành nên chẳng hứng thú gì ba cái chuyện đấu đá tranh cãi, song chị ta vẫn đáp trả: - Ơ! Thì cũng như bác suốt ngày chỉ biết sủa vang để hù mèo dọa chuột cho có lệ đấy thôi. Chuột lúc này quay sang chó với cặp mắt láo liên: - Anh chó xám ăn ngon vô sự bây giờ lại muốn gây chuyện với tui nữa à? Chó trợn mắt: - Ta mà thèm gây chuyện với lũ chuột hôi hám nhà mày. Ở đây ta là chủ. Cút ngay cho rảnh mắt ta, cái đồ súc sanh ăn hại... Chuột cười khỉnh: - Tụi tui và giống nòi nhà anh cùng một loài súc sanh như nhau cả thôi. Mấy anh được ăn trên ngồi trước, cậy thế hống hách ra oai, rốt cuộc cũng chỉ là những con vật, là một bọn ăn mày nơi cửa Phật... Chó trợn mắt nạt: - Cái gì là ăn mày cửa Phật? Ta được ăn cơm thịt cá ngon lành, chứ có ăn đồ cặn bã cống rãnh như bọn mày! Chuột gật gật đầu: - Là tui nói theo lý nhà Phật. Người nương cửa chùa, ăn cơm chùa người ta gọi là những kẻ ăn mày cửa Phật. Loài vật cũng vậy thôi. Nhưng xét ra thì chúng tôi vẫn có ích hơn mấy anh nhiều. Chúng tôi chỉ ăn cơm cùng thức ăn dư thừa. Còn anh, nhà chùa nuôi tốn biết bao cơm thịt của đàn na mà cứ để xảy ra trộm cắp. Mấy anh chỉ ăn lấy phần ngon, cơm thiu cơm dở thì chừa lại, lũ chuột tui phải lượm ăn cho hết. Như vậy chẳng phải là gánh bớt tội lỗi cho các anh sao? Chị mèo nghe vậy thì cười gằn: - Giống chuột nhà mi thì có lắm trò ma mãnh quỷ quái. Ngay đến bàn Phật, mi cũng dám lên đó cắn phá, ăn sạch trái cây chưng cúng. Vậy mà còn dám đến tội lỗi, dạy đời kẻ khác… Chuột vẫn vênh váo: - Ậy! Chị mèo ơi! Chị thừa hiểu bọn chuột là giống vật ưa phá bĩnh lại tinh quái vào bậc nhất thiên hạ mà. Đến con người còn kiêng nể không dám gọi tên tục của bọn tui ra nữa đấy. Nhờ đi lại khắp nơi nên tui cũng hiểu biết nhiều điều thú vị. Tôi leo lên tới chánh điện nhà Tổ ở tầng ba, nơi chưng cúng toàn trái cây tươi ngon. Và tôi đâu thể bỏ qua cơ hội được hưởng chút lộc Phật. Tui còn được nghe quý thầy giảng pháp. Còn mấy anh chị tối ngày chỉ quanh quẩn nơi xó bếp tầng hầm thì làm sao thấy được trời đất bao la đến nhường nào… Chú chó phóc từ bên ngoài chạy vào, nghe chuột đang khua môi múa mỏ với vẻ dương dương đắc ý liền nổi xung nhảy bổ tới chụp bắt. Chuột thất kinh hồn vía vội chạy biến vào nhà kho. Nhiều tiếng chí chóe kêu inh ỏi một hồi mới im bặt. Nhà văn tu sĩ lúc này như người vừa ra khỏi giấc mơ, ngơ ngẩn nhìn gian nhà bếp vắng lặng trong giờ chỉ tịnh. Thật thú vị. Nhà văn lẩm bẩm: - Mình sẽ viết lại cuộc đấu khẩu lạ lùng giữa ba con vật khắc tinh này. Chúng chung sống hòa bình dưới mái chùa, nhưng thỉnh thoảng cũng xảy ra những cuộc cãi vã to tiếng đấy chứ. Ừ! Chén bát trong chạn còn khua vang nữa là. Mà cái anh chàng Tí thật ranh mãnh, dám múa môi ngay trước miệng mèo. Quả là bọn tếu táo. Hắn ta lại cho mình nằm trong đoàn thể những kẻ ăn mày cửa Phật, có quyền hưởng lộc Phật. Ý tưởng này mới lạ lẫm làm sao. Tâm tư cảm kích, nguồn cảm hứng dâng trào, nhà văn yên lặng suy nghĩ ra chiều tâm đắc. Ờ! Ta cũng là kẻ ăn mày nương nhờ cửa Phật. Kẻ ăn mày tự cho mình có thân tướng trượng phu, có đầy đủ phước đức, có niềm tin và tuệ giác hơn người nên có quyền thụ hưởng tài lộc của người mang tới. Và ta trả nợ người bằng những bài thuyết pháp thao thao bất tận, bằng những lời kinh tụng thuộc lòng như ăn cháo và bằng những bài viết thấm đẫm giáo điển sâu xa. Ta mở tung mọi cánh cửa tu tập giải thoát cho người bước vào, còn mình thì mải mê theo đuổi những chân trời ảo mộng, nắm bắt hư danh. Đến một lúc nào đó, kẻ ăn mày cửa Phật cũng sẽ sớm nhận ra viên minh châu tỏa sáng nơi tự tâm, chấm dứt một đời cùng tử lang thang vào ra cõi tạm. Truyện ngắn của Lam Khê nguồn giacngo.vn
-
Còn một số ACE đã đăng ký La Kinh Việt vui lòng liên hệ 38 48 68 67 gặp Anh Thiên Đồng để nhận. @ Thiên Địa Nhân bạn liên hệ Anh Hoàng Triều Hải ở số 1 Đặng Dung Hà Nội.
-
Ai cũng qua trạng thái này, ng thân lần lượt ra đi tưởng chừng như mất hết, tưởng chừng như mọi cánh cửa yêu thương đều khép lại mục tiêu sống của đời mình cũng không có cánh cửa cho mặt trời lọt vào tia sáng ấm áp. Bi trí dũng cũng tiêu tan, nghiệp lực nay chống chỏi 1 mình. Bình tâm lại ! nghĩ con đò của kiếp người giữa sóng xô đó đã có 2 người 3 người 5 hay 10 người cùng chung chuyến đi nay hết nghiệp duyên hết ràng buộc phải ly biệt âm dương là lẽ vô thường. Chỉ tiếc rằng ta chẳng sớm NGỘ được để sống tốt với nhau để hết lòng với nhau để gieo mầm thiện nghiệp!
-
Dịch thuật kinh Phật với văn hiến Việt Nam Ngày 24/11 tới, nhà nghiên cứu, dịch giả Trần Trọng Dương (Viện Nghiên cứu Hán - Nôm) sẽ có buổi thuyết trình "Dịch thuật kinh Phật với văn hiến Việt Nam" trong chương trình phối hợp với Đại sứ quán Pháp tại Việt Nam. Tamnhin.net xin giới thiệu nội dung chính bài thuyết trình công phu và hữu ích này. Hiện tượng văn hóa quan trọng nhất Thuyết trình của dịch giả Trần Trọng Dương đề cập đến một hiện tượng văn hóa có tầm quan trọng bậc nhất của Việt Nam trong suốt 1.000 năm, từ đời Lý Trần cho đến năm 1945. Đó là việc dịch thuật kinh tạng Phật giáo sang chữ Nôm (tiếng Việt). Kết quả của nó là hàng trăm dịch phẩm cũng như áng văn chương của các nhà sư, quan lại cũng như các hoàng đế còn lại cho đến nay, góp phần tạo nên sự phong phú cho văn hiến của dân tộc. Buổi thuyết trình sẽ chú trọng đề cập đến một số tác phẩm sớm nhất trong lịch sử Việt Nam xuất hiện vào đời Trần. Từ đó, sẽ đề cập đến một số ngôi chùa cổ với tư cách là những trung tâm giáo dục, dịch thuật cũng như xuất bản của Việt Nam trong lịch sử. Nhà nghiên cứu, dịch giả Trần Trọng Dương Dịch thuật nói chung và dịch thuật các kinh điển tôn giáo nói riêng có thể nói là một trong những phương thức truyền tải văn hóa quan trọng hàng đầu của mọi quốc gia ở mọi thời điểm trong lịch sử. Ở Việt Nam, dịch thuật kinh điển Phật giáo có thể nói là hiện tượng sớm nhất, có truyền thống cả ngàn năm, và nó đã có những tác động sâu đậm đến rất nhiều khía cạnh của đời sống văn hóa, trong tâm lý dân tộc, ít nhất khoảng 1.000 năm trở lại đây. Tuy nhiên, trong bài viết này, chúng tôi tạm thời chỉ dừng lại ở khía cạnh sự ảnh hưởng của thuật kinh Phật đối với văn hiến Việt Nam qua các tài liệu thư tịch Hán Nôm. Lịch sử dịch thuật kinh Phật ở Việt Nam trước thế kỷ X Sách Lĩnh Nam chích quái của Trần Thế Pháp đời Trần còn ghi lại câu chuyện họ Việt Thường thời Hùng Vương, đã đến đặt quan hệ ngoại giao với Nhà Chu (Trung Quốc). Trong đó, khi giao tiếp, phải chuyển ngữ đến vài lần (cửu dịch). Chuyện huyền sử ấy chưa xác minh được thực hư, nhưng có thể mường tượng được rằng, nhu cầu thông ngôn, hơn nữa là dịch thuật ít nhiều đã là một sự thực. Có người còn đẩy xa hơn, coi cuộc tiếp xúc lịch sử này ắt hẳn không thể thiếu " tiếng Văn Lang "- ngôn ngữ của thời đại Hùng Vương. Sách Cổ Châu Pháp Vân Phật bản hạnh ngữ lục (1752) có ghi, Già Ca Đồ Lê (Ksudra) và Ma Ha Kỳ vực (Marajivaca) người Ấn Độ đã từng đến một trung tâm dịch thuật kinh điển ở Giao Châu (Việt Nam thời Bắc Thuộc) vào thế kỷ thứ II. Hai sách Cao tăng truyện (Huệ Hạo (497-554) ở thời nhà Lương biên soạn) và Khai nguyên thích giáo lục (đời Đường, Trí Thăng soạn) còn ghi Khương Tăng Hội đã đến Giao Châu tu hành và dịch sách Phật. Sách này cũng ghi Chi Cường Lương Tiếp (người Trung Á) từng dịch kinh Pháp hoa tam muội tại Giao Châu vào năm 225. PGS Trần Nghĩa cho rằng « công việc dịch thuật của những người nước ngoài trên đây khó lòng thành tựu, nếu không có sự tiếp tay của các dịch giả bản xứ». Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng, những thông tin trên chỉ cho phép chúng ta đi đến nhận định rằng, vào thời thuộc Bắc, ở Giao Châu đã có hiện tượng chuyển dịch kinh Phật. Nhưng, khó có thể xác quyết rằng đó là dịch từ tiếng Phạn sang tiếng Việt, hoặc dễ hiểu hơn ngôn ngữ đích có lẽ là tiếng Hán. Vì thời đó, ngôn ngữ bản địa đang tồn tại ở một trạng thái rất khác so với tiếng Việt sau này. Lê Mạnh Thát trong cuốn “Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguyên của dân tộc ta” đã giành hẳn chương IV để viết về “Vấn đề tiếng Việt thời Hùng Vương”. Trong đó, ông trực tiếp đề cập đến vấn đề dịch thuật cuốn Lục độ tập kinh. Cụ thể là, các học giả đã tiến hành dịch thuật cuốn sách này từ tiếng Phạn sang tiếng Việt vào thời Hùng Vương, và quan trọng hơn nữa là sau đó lại dịch từ tiếng Việt sang tiếng Hán. Nhưng, từ những giả thuyết theo kiểu “chồng trứng” , TS Lê Mạnh Thát đã thực hiện một thao tác trước nay chưa từng biết đến: ĐI TÌM DIỆN MẠO TIẾNG VIỆT THỜI HÙNG VƯƠNG QUA “LỤC ĐỘ TẬP KINH” - MỘT BẢN HÁN VĂN. Mặt khác, giới khảo cổ học, thư tịch học đến nay cũng không thể tìm thấy một chút di văn nào, hay một tác phẩm dịch thuật nào từ thế kỷ X đổ về trước. Hai tác phẩm dịch thuật kinh Phật cổ nhất Dịch phẩm được coi là cổ nhất còn lại cho đến nay là bản Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh. Theo GS.TS Nguyễn Quang Hồng, đây là tác phẩm được chuyển ngữ sang tiếng Việt (dưới hình thức chữ Nôm) vào quãng thế kỷ XII. Một trang sách Phật thuyết Dịch phẩm được coi là cổ thứ hai là cuốn Thiền tông khóa hư ngữ lục. Như ta biết, Khóa hư lục là tác phẩm của hoàng đế Trần Thái Tông. Tác phẩm này đã được thiền sư, y sư Tuệ Tĩnh dịch Nôm vào cuối thế kỷ XIV. Hai dịch phẩm này có ý nghĩa như sau: - Khóa hư lục giải nghĩa, cùng với Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh có thể coi là một trong hai bản dịch văn xuôi đầu tiên trong lịch sử dịch thuật của dân tộc. - Đây cũng có thể coi là một trong hai áng văn xuôi bằng tiếng Việt còn lại của thời Lý – Trần. - Dịch phẩm này, cùng với phú Nôm của Phật hoàng Trần Nhân Tông và bản dịch Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh, là 3 tư liệu văn hiến sớm nhất mang bản sắc Việt còn lại cho đến nay. - Với bản giải nghĩa sách Khóa hư lục, Tuệ Tĩnh là dịch giả có danh tính sớm nhất trong lịch sử. Dịch thuật kinh tạng Phật giáo đối với tiếng Việt Việc dịch thuật kinh Phật có thể coi là một điều kiện để hoàn thiện tiếng Việt. Chính trong môi trường dịch thuật này, các từ Hán Việt cũng như các thuật ngữ tôn giáo (nhất là của Phật giáo, Nho giáo…) đã được du nhập vào hệ thống từ vựng của tiếng Việt. Đây cũng chính là nhân tố quan trọng nhất để ngôn ngữ bản địa tách khỏi tiếng Việt Mường, để định hình hóa như là một thứ tiếng dân tộc Việt như ngày nay. Ví dụ : có những từ đã gia nhập vào tiếng Việt sâu đến mức người Việt cũng ít khi nhận ra như kiếp, nhân duyên, hằng hà sa số. Đó là trường hợp từ « chùa chiền » vốn được dịch từ chữ « Thiền tự ». Theo ngữ âm học lịch sử, chùa âm đọc của chữ Tự, và chiền là âm đọc cổ của chữ Thiền vào quãng thế kỷ thứ VI. Một ví dụ khác, từ BỤT vốn là âm cổ của từ Phật trước đời Đường. Nhưng khi vào văn hóa Việt Nam, BỤT đã được Việt hóa hoàn toàn trở thành một ông Tiên chuyên cứu giúp người lành. Người Việt có những câu như : lành như Bụt (chữ lành ở đây là một từ Việt cổ dùng để dịch từ TỪ của Phật giáo), ngoài ra tiếng Việt còn có nhiều tên gọi khác như Bụt Ốc, Bụt ướt áo. Dân gian có nhiều câu tục ngữ ca dao có nói đến Bụt, như : Bụt chùa nhà không thiêng, Đi với Bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy. Hay một từ khác như từ « bến mê » được dịch từ thuật ngữ « mê tân », từ « bể khổ » được dich từ thuật ngữ « khổ hải » của nhà Phật. Trong Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều (tk XVIII) có viết: "Gót danh lợi bùn pha sắc xám Mặt phong trần nắng nám mùi dâu Nghĩ thân phù thế mà đau Bọt trong bể khổ bèo đầu bến mê" Đến nay, các từ ngữ thuật ngữ Phật giáo tối thiều (qua từ điển Phật Học Hán Việt, 1998) đã lên đến khoảng 20.000 từ, và đã gia nhập vào tiếng Việt với số lượng chưa thống kê được hết. Cuốn Đại từ điển tiếng Việt (Nguyễn Như Ý , 1998) mới chỉ tiếp thu khoảng 390 từ, đây là một trong những bất cập của từ điển này. Có thể nói, việc dịch kinh Phật từ chữ Hán sang chữ Nôm là một đóng góp không nhỏ cho tiếng Việt, trong suốt lịch sử. Nó làm cho tiếng Việt giàu có thêm, phong phú thêm, khiến cho tiếng Việt được tôi luyện để trở thành một thứ ngôn ngữ của triết học và tôn giáo. Nhà chùa với việc dịch thuật, tổ chức in ấn, xuất bản Thiền tự, trước nay, chúng ta thường biết là nơi tu hành của các thiền sư. Nhưng, chức năng của các thiền tự trong xã hội Đại Việt trong suốt lịch sử lại khá đa dạng. Chùa là một đơn vị lao động sản xuất mang tính tự cung tự cấp. Chùa là một kiểu trường học « đặc biệt » để dạy chữ Hán, dạy kinh điển Nho- Phật- Đạo. Chùa là vườn thuốc (dược viên), nơi nghiên cứu y học và chữa bệnh… Và còn nhiều chức năng khác nữa. Ở đây, chúng tôi muốn đề cập đến chức năng dịch thuật và in ấn kinh sách của nhà chùa. Các nơi chùa tổ, là nơi đào tạo trí thức, và cũng là nơi tổ chức dịch thuật, in ấn các kinh sách với số lượng lớn. Kinh sách dịch xong liền được đem khắc ván ngay tại trong chùa. Các bản dịch được in ra phát cho các chùa khác và cho tín chủ. Ở miền Bắc hiện nay còn rất nhiều chùa còn trữ các ván in này. Có thể coi, chùa là « một kiểu nhà xuất bản » thời xưa. Chữ Nôm sản phầm của các thiền sư khi dịch thuật kinh Phật Chữ Nôm là loại văn tự duy nhất trong lịch sử do chính người Việt tạo ra để ghi lại tiếng mẹ đẻ của mình. Chữ Nôm có vai trò quan trọng trong hình thành, phát triển và bảo lưu văn hoá và diễn dịch văn học Việt Nam. Quá trình đó, chữ Nôm có vai trò không nhỏ với việc truyền bá, bảo lưu văn hoá Phật giáo. Thực tế cho thấy, văn học Việt Nam thời phong kiến, những tác phẩm còn đến ngày nay nhiều phần là tác phẩm Phật giáo, trong đó các dịch phẩm chữ Nôm chiếm địa vị không nhỏ, và có ý nghĩa đặc biệt trong nghiên cứu văn hoá, ngôn ngữ người Việt. Ở một khía cạnh, có thể nói, chữ Nôm là một sản phẩm của giới tăng lữ nhà Chùa, cũng như nhiều văn tự khác trên thế giới là sản phẩm của những người truyền giáo. Việc phát minh ra chữ viết có thể coi là một bước trưởng thành lớn của bất kỳ một dân tộc nào. Bởi chữ viết là một loại vật chất có thể lưu giữ âm thanh, hơn thế hình thức của nó khi đã được cố định hóa (định bản) trên đá, gỗ, gốm, giấy… thì khả năng truyền dẫn của nó đã được kéo dài hơn rất nhiều so với tiếng nói. Chữ Nôm đã trở thành công cụ dịch thuật kinh Phật từ tiếng Hán sang tiếng Việt trong suốt 1000 năm qua. Và quá trình dịch thuật ấy đã nảy sinh nhiều yếu tố ngôn ngữ văn tự ảnh hưởng sâu đậm đến văn hóa Việt Nam. Đức Kế ghi và giới thiệu (Tầm Nhìn) nguồn giacngo.vn
-
Xác nhận có 300,000 đ(ba trăm ngàn đồng) của Smile_at_life đóng góp cho Quỹ Từ Thiện. Quỹ hiện có: 6,350,000 đ + 300,000 đ = 6,650,000 đ(sáu triệu sáu trăm năm mươi ngàn đồng)
-
06/12/2010 VNCK - 0007295 + 500,000.00 IBVCB.0612100543837001.sunnyday81 uong ho quy tu thien Xác nhận có 500,000 đ (năm trăm ngàn đồng) của sunnyday81 đóng góp cho Từ Thiện. Quỹ hiện có: 5,850,000 đ + 500,000 đ = 6,350,000 đ (sáu triệu ba trăm năm mươi ngàn đồng)
-
Chuyện “đầu thai” Đêm qua, nhân dịp ghé thăm anh bạn hàng xóm và nghe một câu chuyện mà tôi phải ghi lại đây để gọi là làm chứng từ cho hiện tượng “đầu thai”. Vâng, đúng là chuyện li kì, mà nếu không nghe từ chính miệng anh tôi kể thì chắc tôi sẽ gạt phắt là chuyện tầm phào ... Câu chuyện bắt đầu từ bài báo trên VNN (xem dưới đây) nhưng lại trùng hợp với câu chuyện của anh bạn tôi. Nhân dịp ghé chơi nhà anh bạn, tôi kể cho các bạn bè nghe câu chuyện tôi mới đọc trên Vietnamnet hôm qua, viết về một em bé được tin là đầu thai sau vài năm chết vì một tai nạn. Nghe xong, anh bạn tôi (tên D) thản nhiên hỏi lại “vậy ông có muốn nghe chuyện của tôi không”. Câu chuyện của anh cũng li kì không kém, và có nhiều nét tương đồng với câu chuyện đầu thai trên Vietnamnet ... Nhà anh D ở một làng ven sông thuộc tỉnh Trà Vinh. Gia đình anh có 4 anh chị em, nhưng chỉ có một mình anh đi vượt biên và đã định cư ở Úc gần 30 năm qua. Năm nay anh đã 60 tuổi. Sau ngày anh đi Úc, Ba anh đã qua đời, để lại má và mấy anh em. Gia đình vẫn làm nghề nông và cuộc sống vẫn trôi theo thời gian một cách bình thản, cho đến một ngày câu chuyện “thằng nhỏ hỗn láo” xảy ra: Ở đầu sông có một cậu bé khoảng 7 tuổi, là con đầu lòng của cặp vợ chồng, có những lời nói bất thường. Cứ mỗi lần thấy má anh đi ngang nhà, cậu bé cứ chỉ vào bà và nói “Nó là vợ tao đó”. Thoạt đầu, má anh và mấy người hàng xóm chỉ cười vì nghĩ thằng bé nó tập nói, nên chẳng ai chấp nhứt cả. Nhưng cậu bé nói câu đó rất nhiều lần như thế mỗi khi thấy mặt má anh, làm cho má anh nổi giận và mắng cặp vợ chồng trẻ không biết dạy con. Thế là cậu bé ăn đòn. Nhưng dù ăn đòn thế nào đi nữa, nó vẫn khẳng định điều nó nói. Chẳng những thế, cậu bé còn chỉ mặt những người trong gia đình anh, và nói giọng kẻ cả “thằng này là con tao, nó thứ 3; con kia thứ 4”, và kể ra vanh vách những chuyện và thông tin mà chỉ có gia đình anh mới biết. Đến lúc đó thì không ai có thể xem là thằng bé hỗn láo hay nói bậy. Anh em bên nhà gọi điện sang anh D và kể câu chuyện li kì trên, rồi hỏi anh phải làm gì. Trong một chuyến về thăm nhà anh quyết định tìm hiểu và tự mình chứng kiến mới tin. Ngày đầu tiên về thăm nhà, anh mua một con heo quay và mâm trái cây đem ra mộ để cúng ba anh, như là một việc làm rất thông thường của những người con đi xa mới về quê. Xong việc cúng bái, anh ghé thăm nhà người hàng xóm đầu sông (vốn không phải là chỗ quen biết hay bà con với gia đình anh). Vào nhà, anh gặp thằng bé và hỏi “Con có ăn gì không?” Cậu bé thản nhiên nói “Ăn hết một con heo quay rồi, no lắm rồi”. Anh kể nghe xong câu trả lời mà anh lạnh cả người. Anh thử hỏi thêm “biết tôi là ai không”, cậu bé cũng thản nhiên nói “Mày là thằng Hai chứ ai, mày ở xa mới về”. Lúc anh rời Việt Nam thì cậu bé chưa ra đời (và ba anh vẫn còn sống). Dù đã có vài ý niệm rằng con mình là một trường hợp đặc biệt, nhưng nghe qua cuộc đối thoại, cha mẹ của cậu bé cũng ngạc nhiên. Lại thêm những câu hỏi về những kỉ niệm riêng tư mà chỉ anh và ba anh biết, và cậu bé trả lời vanh vách, không sót một chi tiết nào. Điều đáng nói là cậu bé thản nhiên xưng “tao” và gọi anh là “mày” y như là ba anh lúc sinh tiền, nếu có khác thì giọng nói của một đứa bé! Đến đây thì anh tin rằng đứa bé chính là hiện sinh của ba anh, hay nói theo dân gian là ba anh đã tái “đầu thai”. Sự xuất hiện của đứa bé làm cho gia đình anh khó ứng xử. Má anh không biết gọi cậu bé bằng gì, mấy người anh em cũng không biết gọi nó là “ba” hay không. Ba má cậu bé cũng lúng túng. Cả làng ai cũng biết câu chuyện ba anh đầu thai. Không giống như câu chuyện dưới đây, đứa bé vẫn ở nhà của cha mẹ nó, chứ không về ở nhà anh. Nay thì cậu bé đã lớn và lên thành phố theo học, nên ít ai nhắc lại chuyện xưa, dù ai trong làng cũng biết. Tôi vẫn thường hay nghe người khác kể những câu chuyện đầu thai, và cũng đọc nhiều chuyện như thế trong sách báo phương Tây. Nhiều câu chuyện đầu thai (hay reincarnation) bên Tây còn li kì hơn câu chuyện tôi vừa kể. Nhưng thú thật tôi chỉ nghe và bỏ ngoài tai, chứ chẳng quan tâm. Một phần vì tôi chẳng thấy có bằng chứng khoa học nào nên làm sao tin được; một phần khác tôi nghĩ những câu chuyện đó bạn tôi chỉ nói cho vui hay nghe chuyện “tam sao thất bổn”. Thế nhưng khi đọc phóng sự của Vietnamnet và chính tôi nghe qua câu chuyện của anh bạn thì tôi bắt đầu dao động … Dù quen anh bạn rất lâu năm, nhưng anh chưa bao giờ nói chuyện này cho đến hôm qua tôi thuật lại câu chuyện trong bài báo trên Vietnamnet. Anh nói tôi nên kể cho Vietnamnet biết. Anh bạn tôi thuộc vào nhóm người nghiêm chỉnh, không thích đùa giỡn. Không một ai trong bạn bè đặt dấu hỏi về sự thật của câu chuyện gia đình anh, nhưng không ai giải thích được hiện tượng đầu thai. Trong khi những câu hỏi với mẫu tự w và h (what, when, where, why, how) cứ lởn vởn trong đầu, tôi nghĩ mình nên ghi lại câu chuyện để xem như là một bằng chứng thực tế cho những ai quan tâm và nghiên cứu về hiện tượng đầu thai. NVT
-
Quẻ TH V V hỏi về thương vụ làm ăn thì không như ý! về tình cảm thì buồn! Nhìn chung thì quẻ này bất lợi cho người đặt câu hỏi.
-
Thành thật chia buồn cùng ntpt và gia quyến. Cầu cho hương hồn Bác sớm vãng sanh cực lạc.
-
Pham Hung, Tuấn Dương, KhoiNguyen2004, NguyênAnh, Monsoon... các bạn đã nhận La Kinh Việt chưa? Cho ý kiến phản hồi.
-
Bạn hãy nhắc lại xem mình muốn hỏi gì, khi qua trang rồi AE cũng khó đáp ứng.
-
Theo Wild thì không và chưa bao giờ khuyên ai sửa mũi! Tọa cung Phu là cái mũi của người phụ nữ. Mũi chưa sửa mà Topic này Anh Hùng Hào Kiệt nhao lên như thế! MyMY hok thấy tầm và tâm của AE sao? Sửa rồi thì Quắng Quẻ đìu hiu đó nha! :rolleyes:
-
Nước mắt và hỗn loạn 02/12/2010 07:12 (GMT +7)15h ngày 1/12, Tòa án Quân sự TW đã tiến hành tuyên án vụ Nguyễn Thị Thuận, Bùi Tiến Hà và Hoàng Hải Tiệp phạm tội giết người, huỷ hoại tài sản. Tuy nhiên, bản án chưa kịp tuyên, phiên toà đã hỗn loạn. Vụ cô giáo đốt nhà anh chồng: Hỗn loạn khi tuyên án Tại phiên toà, bản án của HĐXX chỉ đọc được một nửa thì gặp phải sự phản đối quyết liệt của gia đình nạn nhân. Sự bức xúc tột độ của họ đã tạo nên cảnh hỗn loạn trong phiên toà. Bị cáo Thuận không mảy may hối lỗi tại toà. Những chai nước lavie mang theo được ném thẳng lên phía HĐXX, các bị cáo và luật sư bào chữa. Bàn ghế bị xô đổ ngổn ngang. Những tiếng kêu khóc ai oán, than trách dấy lên khắp trong, ngoài phòng xử. HĐXX buộc phải rời khỏi phòng xử án trong sự hỗ trợ của lực lượng bảo vệ với bản án còn dang dở trên tay. Các bị cáo ngay lập tức được áp giải ra ngoài. Trước đó, HĐXX nêu nhận định việc các bị cáo khai bị đánh đập, ép cung, mớm cung... nên phải nhận tội là không có cơ sở. Toàn bộ hồ sơ vụ án thể hiện các bị cáo được khai báo trong tình trạng đúng pháp luật. HĐXX bác bỏ kháng cáo kêu oan của các bị cáo, khẳng định việc các bị cáo kêu oan là không thể chấp nhận được. Điều khiến tất cả những người tham dự phiên toà này cảm thấy khó hiểu là mặc dù có những nhận định rõ ràng như đã nêu trên, tuyên bố các bị cáo phạm hai tội giết người, huỷ hoại tài sản nhưng HĐXX vẫn quyết định y án sơ thẩm. Bản án tuyên dở của HĐXX phải dừng lại ở câu: "... xử phạt Nguyễn Thị Thuận tù chung thân về tội giết người...". những hình ảnh sống động tại phiên tòa..... 3 tên tội phạm trước vành móng ngựa. Tiệp...kẻ tiếp tay cho tội ác. Kêu oan ... nỗi đau xoa dịu nỗi đau.... Những Hình ảnh này ấn tượng giữa phiên xử. Nguồn tintuconline ========================================================================= Bản lĩnh xét xử những tội ác máu lạnh của tòa án nước ta còn yếu kém hay nhân đạo? Xem ảnh Bà mẹ đã đội dòng chữ Quả báo trên đầu sao mà xót xa?
-
Người đàn bà không có tình mẫu tử. Nguyễn Chí Tuấn có lẽ là một người đàn ông bất hạnh mà tôi đã từng gặp. Anh là chồng của “cô giáo Thuận” - ả phù thủy đã gây ra vụ đốt nhà người anh chồng khiến ba người tử vong. Người đàn bà bị kết tội giết người là mẹ của con anh, Tuấn không còn tình cảm gì với người đàn bà ấy, nhưng anh xót xa khi chứng kiến ả không nỡ ngoái lại nhìn mặt cậu con trai nhỏ bé trong phiên tòa sơ thẩm mới diễn ra hồi tháng 8. Tình mẫu tử! Chao ôi, với người đàn bà đó là một khái niệm nghe sao thật mơ hồ. Đau lòng con trẻ “Đêm nằm ru con ngủ, ngày xưa tôi hay hát: “Con cò bay lả bay la/ Bay từ Yên Bái bay về Hưng Yên. Nhưng bây giờ mà hát thế, con tôi sửa lại ngay là: Bay từ Hà Nội bay về Hưng Yên. Yên Bái là quê của Thuận, còn Hưng Yên là quê của tôi” – Nguyễn Chí Tuấn đã mở đầu câu chuyện với chúng tôi như thế. Đôi mắt người đàn ông này thâm quầng có lẽ là do nhiều đêm mất ngủ. Không phải đến khi Nguyễn Thị Thuận (sn 1975 tại Yên Bái) bị bắt thì Tuấn mới là người ru con ngủ hằng đêm, mà kể cả trước đây, khi cuộc sống hôn nhân của họ vẫn còn suôn sẻ thì người chăm sóc, lo lắng cho cậu con trai không phải là Thuận mà chính là Tuấn. Những đêm bé Hoàng ốm sốt, Thuận vẫn nằm ngủ ngon lành, mặc kệ chồng bế con và loay hoay với thuốc men, khiến anh Tuấn có lần phải cáu. “Hồi bé Hoàng còn nhỏ, đêm hôm cháu khóc đòi bú, bảo thì Thuận mới dậy cho con bú, còn không là cứ ngủ hoặc bắt tôi pha sữa cho con”. Thế nên hàng xóm nhà anh Tuấn không lạ khi thấy bé Hoàng lúc nào cũng quấn lấy bố. Với gia đình nhà chồng, Thuận cũng không phải là người con dâu thảo hiền, ỷ thế gia đình giàu có, Thuận thường có lối ăn nói cộc lốc, nhấm nhẳng với gia đình nhà chồng. Sau khi vụ án xảy ra, anh Tuấn cho bé Hoàng về ở cùng ông bà nội vì sợ bà không thể chịu nổi cú sốc này mà sinh ra ốm nặng. Và bắt đầu từ thời điểm 1 – 6 – 2008 đến bây giờ, người đàn bà ác độc này chưa một lần hỏi thăm con, không gặp cũng không gọi điện. Bị bắt ngày 31 – 12 – 2008 cho đến khi bị đưa ra xét xử sơ thẩm vào tháng 8 – 2010, tức là sau hơn 2 năm không gặp con, những người dự phiên tòa cảm thấy thật bất nhẫn và thương bé Hoàng hơn bao giờ hết vì bé cùng bố, bà nội ngồi bên dưới nhưng chưa một lần Thuận đưa mắt về phía con. Thị trơ tráo, nhâng nhâng nháo nháo thách thức gia đình nhà chồng (cũng là gia đình người bị hại) và thách thức cả hội đồng xét xử bằng những lời trả lời cộc lốc, vô lễ khiến hội đồng xét xử luôn phải nhắc nhở và khiến dư luận vô cùng căm phẫn. “Khi bé Hoàng về ở với bà nội, cháu nói với tôi: Con không ở với mẹ Thuận đâu, mẹ Thuận ác lắm, mẹ Thuận suốt ngày đánh con”- đôi mắt Tuấn đục ngầu giá mà anh có thể khóc được thì tôi tin những giọt nước mắt sẽ làm anh nhẹ lòng hơn rất nhiều. “Anh đã bao giờ góp ý, khuyên vợ nên dành tình cảm cho con nhiều hơn chưa” – tôi hỏi Tuấn. “Có chứ, tôi góp ý nhiều, tôi bảo với cô ta, trẻ con rất nhạy cảm, nó cần được yêu thương, cần tình cảm của người mẹ, nhưng cô ta vẫn lạnh lùng như cũ. Những người phụ nữ hàng xóm nhà tôi lúc nào cũng bế con hôn hít, nựng nịu, nhưng nói thật là tôi chưa từng chứng kiến cô ta làm thế với con đẻ của mình”. “Nói chị không tin chứ từ bé đến giờ chỉ có mỗi tôi ru con ngủ chứ cô ta chưa bao giờ. Tôi hay lồng vào lời ru những câu chuyện, những lời dạy dỗ, bé Hoàng nghe và hiểu hết. Bé Hoàng bây giờ 7 tuổi rồi nhưng đêm nào cũng vẫn thích được nghe bố ru ngủ. Chính cháu bảo với tôi rằng, từ bây giờ bố đừng hát là: “Bay từ Yên Bái bay về Hưng Yên nữa”. Trẻ con thì không biết nói dối và chúng sống đúng với cảm xúc thật của mình. Có lần anh Tuấn đưa con đi học, có người hàng xóm nhìn cảnh gà trống nuôi con của anh, thương quá, hỏi bé Hoàng: “Con có nhớ mẹ không?”, không ngờ bé Hoàng tụt khỏi xe, chạy biến vào nhà, vừa khóc vừa nói với bố: “Cái bà kia hỏi vớ vẩn. Con không thích nghe đâu”. Có bài báo viết về vụ án mà mẹ nó gây ra, anh Tuấn vô tình để cháu đọc được, bé Hoàng dùng hai ngón tay đặt chéo vào bức ảnh của Thuận cùng hai đồng phạm và nói: “Con ghét những người này”. Lần khác, Hoàng vào mạng, lại thấy người ta đăng ảnh người mẹ bất nhân, cháu gọi bố vào, dùng ngón tay chỉ vào màn hình và quay đi. Nhói lòng người lớn Những ngày gần phiên xử là những ngày thật khó khăn đối với anh Tuấn. Anh ngơ ngẩn kể lại: “Thằng Bùi Tiến Hà (một đối tượng trong vụ án được thị Thuận nhờ đốt nhà) có gọi cho tôi vào lúc 3 giờ sáng ngày 25 – 1 – 2008, nói rằng: “Tuấn ơi, nhà anh Hưng (anh trai anh Tuấn) cháy rồi. Có tiếng trẻ con khóc ở trong.”. Tôi đang ở Đào Tấn, (thời gian này tôi đã sống ly thân với Thuận) liền tức tốc nhảy xe taxi về. Đêm ấy trời mưa rét căm căm. Khi xe taxi gần đến nơi thì tôi nghe thấy tiếng hú còi của xe chữa cháy. Tôi chỉ kịp ném tờ 100 nghìn cho anh lái xe là chạy thục mạng. Người dân khi ấy đã tập trung đông lắm rồi. Tôi mở cửa cho các anh Cảnh sát cứu hỏa vào nhà vì tôi có chìa khóa riêng. Thằng em út nhà tôi chạy bổ vào bế được chị Hà (vợ anh Hưng) ra, còn cháu Thảo Hiền, con vợ chồng anh Hưng thì được một anh Cảnh sát bế ra. Cháu Thảo Hiền bảo với em trai tôi: “Bố cháu chết rồi. Cháu nhìn thấy chân bố cháu ở cầu thang…”. Tôi gào lên như tưởng vỡ cổ. Mọi người đưa mẹ con chị Hà đi cấp cứu, 6 ngày sau thì hai mẹ con đều mất. Bé Hiền mất buổi sáng, chị Hà mất buổi chiều. Đau quá chị ạ!”. “Không hiểu sao, sau ngày vụ án xảy ra, những giấc mơ liên quan tới cái chết của ba con người vô tội cứ ám ảnh các thành viên trong gia đình tôi, có người mơ thấy cô ta quỳ lê lết van xin tha tội, có người mơ thấy Thuận cười ha hả trước đám cháy…”- anh Tuấn kể tiếp. Có lẽ Tuấn không còn nước mắt để khóc nữa. Đôi mắt anh đục ngầu khô khốc. Tội ác mà thị Thuận gây ra là quá lớn, không gì có thể bù đắp nổi, nguyên nhân vô cùng đơn giản là thị mâu thuẫn với chồng bởi lý do tình cảm, khi anh Hưng ngỏ lời khuyên giải, thị cho rằng anh Hưng bênh em nên nhờ người đốt nhà cho bõ tức. Điều đáng nói chính vợ chồng anh Hưng là những người vun đắp cho cuộc hôn nhân giữa Thuận và anh Tuấn. Tuấn và Thuận gặp nhau trong buổi sinh nhật chị Hà và do được anh trai, chị dâu vun vén nên đã quyết định lấy “cô giáo Thuận” làm vợ. Không những thế, Nguyễn Thị Thuận và chị Hà từng là những người bạn thời chăn trâu cắt cỏ, ở quê Yên Bái, nhà họ lại sát vách nhau, lớn lên cùng học Đại học Sư phạm và để trở thành giáo viên. Thói ích kỷ đã khiến Thuận trở thành ả phù thủy ác độc. Thị đã che giấu hành vi tàn độc của mình được gần một năm, cho đến khi cơ quan điều tra lần tìm được manh mối về một kẻ tên Tiệp – một người quen của Bùi Tiến Hà ( cùng quê Yên Bái) – người đã lưu lại nhà thị chỉ nửa tháng rồi biến mất Sự dã man của Nguyễn Thị Thuận thể hiện ngay ở hôm đưa tang anh Hưng. Ngồi trên xe tang, trước những giọt nước mắt đau thương của người thân, thị đã cười nói hô hố khi nghe điện thoại cho người nhà ở Yên Bái. Khi ấy, chưa ai nghi ngờ thị là thủ phạm, nhưng họ cảm thấy ở Thuận có điều gì đó thật lạ. Còn chúng tôi thì lại nghĩ khác, có thể đó là cách che giấu tâm lý tội phạm, thị phải cố tỏ ra bình thản, phải cố cười để lấn át đi nỗi sợ hãi đang ngự trị. Nó cũng giống như lúc thị vào thăm chị Hà đang cấp cứu trong viện, sau khi đưa tang anh Hưng về. Ả phù thủy này chỉ lướt qua giường bệnh chưa đầy một phút rồi chuồn mất, thì sợ phải đối mặt với anh mắt trừng trừng của chị Hà, nhìn thị như muốn hỏi: “Tại sao gia đình tôi lại phải chịu cái chết đau đớn như thế này?” Thị cũng không dám vào thăm cháu Thảo Hiền, bởi không đủ dũng cảm để đối diện với gương mặt cô bé vô tội đang thiêm thiếp trên giường bệnh. Nhưng dù có cố gắng chối tội thế nào thì cuối cùng Thuận cũng không thể thoát khỏi sự trừng trị của pháp luật. Tuy nhiên, mức án mà chị ta nhận ở phiên tòa sơ thẩm là quá nhẹ, gia đình bị hại (trong đó có người chồng của Thuận) không chấp nhận bản án này. Việc thị gây ra cái chết cho 3 con người khiến dư luận hết sức căm phẫn, căm phẫn hơn nữa khi chứng kiến thị thản nhiên trước nỗi đau của gia đình bị hại bằng thái độ ngông nghênh, điệu cười nhếch mép trước phán quyết của tòa. Và nữa, điều khiến người ta thấy đáng sợ nhất ở thị là sự lạnh lùng, vô cảm với cậu con trai bé bỏng trong phiên xét xử. Không một giọt nước mắt, không một lời hỏi thăm, không một ánh mắt tìm kiếm đứa con trai dứt ruột đẻ ra. Thế nên người ta có quyền nghĩ, với tình mẫu tử thị còn không thiết tha thì với những người không máu mủ như anh Hưng, chị Hà thị làm sao có thể dành tình cảm cho họ. Dù khó khăn nhưng anh Nguyễn Chí Tuấn vẫn phải nói với chúng tôi về những suy nghĩ của anh về Thuận.Thuận vẫn là mẹ của con trai anh, là vợ của anh nhưng tội ác thị gây ra là quá lớn, mẹ anh, gia đình anh không thể nào tha thứ được, anh cũng như mọi người trong gia đình muốn pháp luật xử Nguyễn Thị Thuận với mức án cao nhất. Tôi biết, khi Tuấn buộc phải thốt ra những lời này là anh cũng đau lắm, nhưng có lẽ chỉ như thế mới thế hiện được sự nghiêm minh của pháp luật và thỏa mãn sự bức xúc của dư luận. nguồn tintuconline
-
Người cha - nguyên thủ trong mắt người con - công dân "Với cha tôi, kể cả khi ở nhà, ông luôn thể hiện không cần danh, không cầu lợi, không ham chức quyền. Thậm chí, ông có lúc chỉ muốn nghỉ, không làm nữa. Ông khác nhiều người là ở chỗ đó!"- Ông Lê Mạnh Hà nói về người cha của mình- Đại tướng Lê Đức Anh. LTS: Được phân công phỏng vấn Giám đốc Sở Thông tin - Truyền thông thành phố Hồ Chí Minh Lê Mạnh Hà cảm nhận về cha ông, nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh, nhân ngày sinh lần thứ 90 của nhân vật lịch sử này, người viết đã chọn cái cách của một phóng viên mới chân ướt chân ráo bước vào nghề. Đó là không chuẩn bị trước câu hỏi, mà chờ ông trả lời đến đâu hỏi tiếp đến đó. Bởi, thực ra, có chuẩn bị cũng bằng thừa. Trước cuộc gặp gấp gáp này, người viết chỉ biết vị quan chức cấp sở này là một người phản đối đề án 112 đến cùng, cũng như đánh vụ OCI tới bến. Lê Mạnh Hà đã từng công tác tại Viện Kỹ thuật Quân sự - nơi xuất thân của những "quái thủ" trong lĩnh vực của mình như Nguyễn Quang A, hay ông chủ của "Viết Tân Studio" -, cũng như ông nằm trong danh sách những vị quan chức đã từng học ở Mỹ. Tất nhiên, không kể tới tấm hình của ông trên Internet. "Thánh Nhân đãi kẻ khù khờ!", Câu chuyện hóa ra cởi mở và thú vị đến bất ngờ. Và, thú vị hơn, vị quan chức phụ trách báo chí của Sài Gòn đã giữ đúng lời hứa: Sau khi xem lại bản thảo bài trò chuyện, ông chỉ chỉnh sửa đôi chút cho chính xác, chứ không cắt gọt, hay viết lại, như trong không ít trường hợp khác. Gặp gỡ và Đối thoại tuần này là cuộc trò chuyện thú vị giữa nhà báo Huỳnh Phan và ông Lê Mạnh Hà, con trai đại tướng Lê Đức Anh. Cha tôi dạy: Thấy đúng làm đến cùng, không ham danh lợi Một năm anh gặp cha mình mấy lần? Ông Lê Mạnh Hà: Gặp ông ở Hà Nội cũng tùy thuộc vào số lần ra đó công tác của tôi, lần nào tôi cũng về chỗ ông ở. Còn ở đây thì một năm có mấy lần ông vào, thường ở cả tháng. Thời gian đó trưa nào tôi cũng về nhà ăn cơm với ông. Ông đi tránh rét? Không, tôi thấy mùa rét ông ở ngoài đó nhiều hơn. Thường ông vào đây là tùy theo công việc. Lần ông vào gần đây nhất là cách đây độ gần hai tuần, trong khoảng hai - ba tuần gì đó. Câu chuyện giữa hai cha con anh thường về đề tài gì? Xin anh cho biết, nếu không phải là bí mật. Chuyện riêng thì về con cái, gia đình. Rất ít nói chuyện về công việc. Điều lớn nhất tôi học ở ông là thấy đúng là phải làm và làm đến cùng. Chuẩn bị kỹ càng mọi kế hoạch, phương án, để phải đạt tới mục tiêu cuối cùng" - ông Lê Mạnh Hà nói về ảnh hưởng của cha đối với cá nhân ông. Có bao giờ ông hỏi anh là đến bây giờ anh mới ở vị trí một giám đốc sở hay không? Trong khi con cái những người khác đã ở vị trí nọ vị trí kia rồi. Không bao giờ. Chắc chắn không bao giờ. Với cha tôi, kể cả khi ở nhà, ông luôn thể hiện không cần danh, không cầu lợi, không ham chức quyền. Thậm chí, ông có lúc chỉ muốn nghỉ, không làm nữa. Ông khác nhiều người là ở chỗ đó. Nói chung, con người ta bên ngoài có thể tỏ ra là họ không đến danh, đến lợi, nhưng về nhà khó giấu được người trong gia đình. Đối với bản thân đã như vậy, nên không thể có chuyện ông dùng ảnh hưởng của cá nhân để đặt con cái ở vị trí nào đó. Cho nên, ông chẳng bao giờ bảo tôi rằng bước đi của tôi là chậm hay là mau, mà yêu cầu tôi làm việc cho thật tốt ở từng vị trí công tác. Có bao giờ ông hỏi anh về những khó khăn trong công việc, hoặc anh có cần ông giúp gì không? Ông có hỏi về công việc, nhưng hỏi để giúp cho những công việc, những khó khăn cụ thể thì không. Tôi cũng không bao giờ hỏi công việc cụ thể phải giải quyết thế nào. Tôi đều tự giải quyết các công việc của mình. Như tôi chẳng hạn, qua những câu chuyện mà cha tôi, một nhân viên ngoại giao, một giảng viên trường ngoại giao, rồi một chuyên gia tiếng Anh, kể cho tôi lúc tôi còn nhỏ, hoặc trao đổi với tôi từ khi tôi trưởng thành, đã giúp tôi khá nhiều kinh nghiệm, kiến thức, và đặc biệt là lối tư duy, khi tôi hành nghề phóng viên. Trong trường hợp anh thì như thế nào? Những chuyện cụ thể cũng giúp tôi học nhiều điều. Nhưng có lẽ, tôi thụ hưởng từ ông về tính cách. Chẳng hạn, điều lớn nhất tôi học ở ông là thấy đúng là phải làm và làm đến cùng. Chuẩn bị kỹ càng mọi kế hoạch, phương án, để phải đạt tới mục tiêu cuối cùng. Luôn đối thoại, có thể nhân nhượng, nhưng không từ bỏ nguyên tắc. Ý anh muốn nhắc tới vụ anh chống lại việc triển khai đề án 112 ở thành phố Hồ Chí Minh? Đúng. Thậm chí, bây giờ có việc còn khó hơn 112. Nhưng tôi vẫn hạ quyết tâm làm tới cùng. Vụ nào vậy? Chắc mọi người đều biết, đó là cuộc đấu tranh để loại bỏ các trò chơi trực tuyến bạo lực. Khó hơn nhiều, đụng tới cao hơn vì họ hưởng lợi từ những trò chơi này rất lớn. Tôi cảm nhận rất rõ thách thức này, nên có lúc đã nói với anh em trong sở là nếu thắng được trận này với cái giá phải nghỉ, tôi cũng vui vẻ chấp nhận. Bởi tôi thấy đó là chuyện xứng đáng để làm, và xứng đáng để trả giá. Tự lập vì "muốn dựa cũng không được" Tôi muốn hỏi anh một điều hết sức bình thường: Khi anh muốn làm thành công một việc gì đó mà bản thân anh thấy rất khó, tự nhiên anh phải tìm kiếm thêm những sự ủng hộ, nhất là từ những người mà tiếng nói có trọng lượng. Vậy, tại sao anh lại không sử dụng cái tiềm năng mà anh có sẵn, khi là con của một nhân vật được coi là vẫn có tầm ảnh hưởng, để làm việc này cho dễ dàng hơn, đỡ phải trả giá hơn? Có thể cái đó là cái nhược điểm cố hữu của tôi. Tôi thường không tận dụng các mối quan hệ cá nhân để làm việc chung. Tôi chỉ nghĩ mọi người sẽ ủng hộ tôi, nếu họ thấy việc tôi đang làm là đúng. Chẳng hạn, việc đấu tranh với trò chơi trực tuyến bạo lực, thấy đây là việc làm đúng, cả hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân lẫn dư luận xã hội ở thành phố đều rất ủng hộ tôi. "Cha tôi không bao giờ dùng ảnh hưởng cá nhân để hỗ trợ cho con cái. Bản thân mấy chị em chúng tôi không bao giờ dựa dẫm và cũng rất biết rằng có muốn dựa cũng chẳng được" Cái mà anh gọi là "nhược điểm cố hữu" này xuất phát từ đâu? Tôi nghĩ đó là văn hóa gia đình tôi, từng người rất tự lập và độc lập. Như đã nói ở trên, cha tôi không bao giờ dùng ảnh hưởng cá nhân để hỗ trợ cho con cái. Bản thân mấy chị em chúng tôi không bao giờ dựa dẫm và cũng rất biết rằng có muốn dựa cũng chẳng được. Vậy tốt nhất là dựa vào bản thân. (Cười). Vậy trong đời anh, nhất là thời còn nhỏ, có một chuyện đáng nhớ nào đó để anh đi tới kết luận là "có muốn dựa cũng không dựa được" không? Chẳng hạn, có lần nào anh cầu cứu ông và ông đã từ chối không? Không, chưa có một bài học đáng nhớ nào như anh vừa giả định. Mà nó là văn hóa, là truyền thống gia đình rồi. Tôi rất khó giải thích, nhưng tôi cảm nhận rất rõ ràng điều đó. Còn chuyện ông biết đâu có thể chủ động làm điều gì đó thì tôi không biết. Thông thường con của các vị lãnh đạo có điều kiện thuận lợi hơn rất nhiều người. Riêng với tôi, thuận lợi cũng nhiều mà thử thách cũng không ít. Nhưng anh có thực sự cho rằng anh sẽ phải trả giá không? Cha anh có nói rằng đã quyết tâm làm thì cũng phải có quyết tâm ráng chịu không? Ông không nói ra, nhưng tôi hiểu là như vậy. Ông không bao giờ bảo tôi cứ yên tâm mà làm đi, vì có ông ở đằng sau chống lưng. Ông chỉ bảo thấy đúng thì phải làm, rồi sớm muộn nhà nước và xã hội sẽ hiểu. Mà ai biết muộn là bao giờ. (Lại cười). Anh đã từng học ở Harvard. Liệu cái tính tự lập của người Mỹ - điều mà nền giáo dục Mỹ tự hào nhất - có sự ảnh hưởng nào đó đến quá trình hình thành tính cách, và một phần nhân cách, của anh không? Tôi nghĩ điều đó chỉ củng cố thêm cho tôi thôi. Bởi sống trong một môi trường mà hầu như mỗi người đều tự vươn lên và tự làm nên sự nghiệp của người ta (self-made) là một sự tái khẳng định rất quan trọng cho sự lựa chọn cách đi của tôi trong cuộc đời. Vả lại, lúc tôi đi học ở Harvard, tôi đã ở cái tuổi ngoài 40, tức là khó thay đổi về tính cách. Không "nằm im, nói khẽ", dù muốn thử thách ở vị trí khó hơn Nhưng, anh có bao giờ anh cảm thấy hối tiếc không, khi trong một môi trường mà sự dựa dẫm nhiều khi là một yếu tố đảm bảo thành công như ở Việt Nam, không chịu dựa dẫm lại khiến anh thua thiệt hơn người khác, có khi kém anh về năng lực và phẩm cách? Tôi vẫn nghĩ thế này, mình vẫn còn may mắn hơn rất nhiều người, bởi còn được thành phố trọng dụng. Rất nhiều người còn giỏi hơn mình mà không ai nhìn ra họ, họ thiệt thòi hơn mình nhiều, và suốt đời vô danh. Tôi thực sự thấy như vậy, không phải là tự an ủi đâu. Cũng có những người nói với tôi thế này: "Khả năng anh như thế, anh phải ở vị trí cao hơn mới giúp ích được cho xã hội, cho nhà nước, nhiều hơn. Tại sao anh không cố gắng leo lên?" Tôi luôn cho rằng, hãy làm thật tốt công việc của mình, từng việc cụ thể một, ở vị trí hiện tại của mình. Đấy cũng là yêu cầu của cha tôi. Mình được người khác trọng vì làm được việc tốt, chứ không phải vì cái ghế mình ngồi. Nếu làm không làm tốt được ở vị trí đang có, vậy khi leo lên vị trí cao hơn liệu có làm tốt được hơn không? Cả cuộc đời leo được hết chức này lên chức khác, mà vẫn mờ nhạt, vô dụng, thì lên cao để làm gì? Tất nhiên, ở nước mình còn ảnh hưởng của phong kiến, như thích làm quan, hay nể người có chức quyền, nên nhiều người thích leo cao, nhưng không dám làm. Làm ít, ít đụng chạm, thì ít mất phiếu. Hay như mọi người nói là "nằm im, thở khẽ" vào trước và sau các kỳ đại hội, các kỳ bầu cử. Như vậy, suốt đời cũng chỉ "nằm im thở khẽ" mà thôi, không giúp ích được gì cho xã hội. Nói rất thật lòng, tôi luôn muốn thử sức ở những vị trí khó khăn hơn. Nhưng với một nguyên tắc bất di bất dịch là không bao giờ "nằm im, nói khẽ". Những người cùng làm việc với anh, từ cấp dưới đến cấp trên, rồi bạn bè, đồng nghiệp, họ nhìn anh bằng con mắt như thế nào? Có bình thường không? Về ứng xử và phong cách làm việc thì tôi nghĩ họ cho tôi là người hoàn toàn bình thường. Nhưng chắc vẫn có những người, trong thâm tâm, cũng nghĩ là tôi là người không bình thường. Chịu thôi, biết làm sao được. Người ta có ngại va chạm với anh không? Có chứ. Có những người có thể ngại tôi vì sự nóng tính, mặc dù đa số vẫn đánh giá tôi là người cởi mở và hóm hỉnh. Những người khác có thể ngại vì tính quyết tâm, không lay chuyển của tôi, một khi tôi đã thấy cần phải làm. Tôi là người luôn biết lắng nghe, và sẵn sàng trao đổi. Tôi luôn công khai "đường bay" của mình, nên họ hoàn toàn không phải lo chuyện tôi thay đổi đột ngột, tùy hứng, hay vô nguyên tắc. Nói cách khác, người ta biết "quĩ đạo bay" của tôi để có cách ứng xử phù hợp, tùy theo lựa chọn của từng người. Họ chỉ cần trung thực, thẳng thắn mà không cần tiếp cận theo cách thiếu minh bạch, không cần lựa lời để lấy lòng. Anh nghĩ sự rõ ràng đó của anh có bao nhiêu phần ảnh hưởng từ cha anh, bao nhiêu phần ảnh hưởng từ môi trường nước Mỹ, nơi anh từng theo học? Tôi nghĩ ảnh hưởng của cha tôi, hay truyền thống gia đình, cũng như tác động của môi trường học tập là có. Nhưng chủ yếu là kết quả của quá trình tự hình thành tính cách của tôi. Thượng tôn pháp luật - điều tốt đẹp nhất tôi học được từ Mỹ Anh đi Mỹ là theo cơ quan nào? Lúc đó tôi là chuyên viên bình thường ở Bộ Kế hoạch - Đầu tư. Cuối năm 1996, cha tôi ngã bệnh, và đầu 1997 tôi xin chuyển từ trường Hàng Không ở Sài Gòn, nơi tôi làm một trưởng khoa, ra Hà Nội để gần ông. Một năm sau, tôi được đi học ở Harvard. Ở mình thông tin về một con người cụ thể nào đó rất thiếu, kể cả các thông tin về giới lãnh đạo. Nếu đủ thông tin, chắc chắn sẽ có đánh giá khác về những người đang được ngợi ca, hoặc đang bị phê phán. Ảnh Ánh Hồng. Qui trình xét tuyển thế nào? Hoàn toàn theo qui trình của Quỹ Fulbright. Bên đó, họ có biết anh là con của một vị cựu nguyên thủ, và lúc đó đang là cố vấn Ban chấp hành Trung ương không? Họ không thể hiện là họ biết tôi là ai. Mặc dù, tôi nghĩ có điều gì mà họ không biết. Và điều đó làm tôi thấy thoải mái. Anh học gì ở đó? Tôi học về quản lý nhà nước. Khác với học ở Pháp, hay ở Việt Nam, người Mỹ không dạy cụ thể là ở vị trí nào phải làm những việc cụ thể gì về hành chính. Họ cho chúng tôi cái nền về kinh tế, về pháp luật, hay về quan hệ quốc tế... Từ đó tùy mình chọn cách xử lý, ứng xử, chứ không theo khuôn mẫu nào cả. Ông Nguyễn Thiện Nhân, hồi còn làm Phó Chủ tịch UBND TP HCM có kể với báo giới rằng khi được chọn đi Mỹ học, ông đã có một cuộc tranh luận nảy lửa với cha mình. Bởi, theo lời ông Nhân, bác sĩ Nguyễn Thiện Thành không đồng ý với việc con mình sang học ở một nước từng là kẻ thù của Việt Nam. Anh có gặp phải điều tương tự với cha mình không? Khi tôi xin phép, ông đồng ý ngay. Ông còn bảo đó là một nước rất phát triển, cái gì tốt của họ mình phải cố gắng học. Có thể hiểu chuyện này vì ông là người đóng vai trò quan trọng trong việc bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Mỹ. Nhưng, mặt khác, trên cương vị chủ tịch nước, ngoài lĩnh vực ngoại giao, ông còn phụ trách cả hai mảng quốc phòng và an ninh. Vậy ông có dặn anh phải cẩn thận, không để người Mỹ lợi dụng không? Không hề. Chắc là vì ông tin tôi. Cha anh dặn anh cần cố gắng học những điều tốt từ nước Mỹ, một nước rất phát triển. Vậy, những điều gì tốt nhất mà cho đến bây giờ anh thấy rằng mình đã học được từ nước Mỹ, người Mỹ? Tinh thần thượng tôn pháp luật! Với những gì học được ở Harvard, kể cả phương pháp tiếp cận và tư duy mới, như anh vừa đề cập, có bao giờ anh nhìn nhận lại về cha mình, với tư cách một Chủ tịch nước, hay không? Không. Muốn đánh giá công bằng, thông tin phải công khai, minh bạch Cha anh, cũng như hầu hết các nhân vật có dấu ấn trong lịch sử khác, đều nhận được những sự đánh giá khác nhau, nhiều khi hoàn toàn trái chiều nhau. Anh có nghe thấy những đánh giá đó về cha mình không? Tất nhiên là có. Thậm chí nghe rất nhiều. Anh có bị tác động không? Tôi coi tất cả những đánh giá, nhìn nhận đó như những nguồn dữ liệu để tham khảo nhiều hơn. Chứ khó có thể nói chúng làm thay đổi nhận thức, hay cách đánh giá, của tôi về cha mình. Tôi không bảo thủ, nhưng tôi không bị tác động đến mức thay đổi nhận thức từ trước đến nay của mình. Hơn nữa, tôi vẫn nghĩ, khi kẻ xấu mà nói xấu mình thì không có gì đáng bận tâm cả. Thế những người không xấu thì sao? Hay anh cho rằng những ai đánh giá không tốt về cha anh, hay về anh, đều là kẻ xấu cả? Có những người có dụng ý xấu, nhưng tôi không cho rằng tất cả những ai đánh giá sai thì là người xấu. Thường thì người ta đánh giá không đúng khi không có đủ thông tin. Ở mình thông tin về một con người cụ thể nào đó rất thiếu, kể cả các thông tin về giới lãnh đạo. Nếu đủ thông tin, chắc chắn sẽ có đánh giá khác về những người đang được ngợi ca, hoặc đang bị phê phán. Thiếu thông tin về các vấn đề là điểm yếu cần khắc phục. Chỉ có công khai, minh bạch và ý kiến nhiều chiều mới làm cho xã hội dân chủ và công bằng được, và không chỉ trong đánh giá. Chẳng hạn, lâu nay chúng ta hay kêu ca về sự yếu kém của công tác cán bộ. Cái đó có nguyên nhân là thông tin về một cán bộ nào đó quá ít. Cứ nhìn tiểu sử, hoặc sơ yếu lý lịch, của những người được đề cử để bầu vào các chức vụ mà xem. Chúng ta chỉ thấy người được đề cử đã trải qua những chức vụ gì, chứ không hề biết người đó đã làm những công việc cụ thể gì, làm được bao nhiêu việc, việc nào thành công, việc nào thất bại, hoặc thậm chí việc nào mờ ám. Vậy nhận thức của anh về cha mình như thế nào, một vị tướng chiến trường, một vị bộ trưởng quốc phòng, rồi chủ tịch nước? Tôi nghĩ, có những nguyên tắc mà ông luôn giữ, không bao giờ từ bỏ. Nhưng ông không hề bảo thủ, như không ít người nhận xét. Những gì tôi được biết về ông qua công việc, trong tiếp xúc ở gia đình, ông là một người cấp tiến. Thế à? Nhiều người tưởng ông là con người đã cũ rồi, bởi ông học từ thời Pháp thuộc, làm từ thời chiến tranh, rồi thời bao cấp. Nhưng hóa ra ông tiếp thu cái mới rất nhanh. Việc ông là một trong những nhà lãnh đạo thời kỳ đổi mới là một minh chứng. Trong gia đình, với những thứ hoàn toàn mới mẻ mà chúng tôi nói, ông rất chăm chú lắng nghe, và đưa ra những nhận xét sắc sảo. Chẳng hạn? Khó mà đơn cử ngay được, bởi những điều đó tương đối nhiều. Hay là ví dụ gần đây nhất vậy? Cái này lại liên quan đến công việc tôi đang làm, như Internet chẳng hạn. Đây là lĩnh vực hoàn toàn mới đối với thế hệ trước. Trò chơi trực tuyến là một ứng dụng trên nền Internet. Khi tôi nói về trò chơi trực tuyến bạo lực với sự tàn phá không biên giới của nó qua hệ thống Internet thì ông hiểu ngay. Như tôi đã nói với anh, không bao giờ tôi hỏi ông phải giải quyết công việc thế nào, đây hoàn toàn là việc cung cấp thông tin cho ông về lĩnh vực mới và mặt trái của nó. Xin hỏi thêm rằng vậy công dân Lê Mạnh Hà, với tính cách khá độc lập của mình, đánh giá thế nào về Đại tướng và Chủ tịch nước Lê Đức Anh? Câu hỏi thật sự khó đấy. Bởi một công dân bình thường thì chắc khó có điều kiện gần gũi để biết về ông như tôi đã biết. (Bật cười thoải mái). Nhưng một điều hết sức tự nhiên là nhiều người trong chúng ta, ở chỗ này hay chỗ khác, vẫn có thói quen bàn luận về các vị lãnh đạo của mình. Bởi, đơn giản là những quyết định của họ ít nhiều ảnh hưởng tới số phận của chúng ta. Đúng không anh? Trong thời gian ông làm bộ trưởng quốc phòng, ngoài những việc về vấn đề chiến lược quốc phòng, hay bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, mà tôi không dám lạm bàn, có một việc ông làm mà tôi nghĩ được nhiều quân nhân đánh giá cao, nếu không nói là biết ơn. Đó là việc chia đất cho sĩ quan quân đội, những người hầu như không có gì cả sau khi các cuộc chiến kết thúc. Cuộc sống của họ rõ ràng có sự thay đổi, bởi như các cụ vẫn nói "an cư lạc nghiệp". Mục đích cuộc đời ông không phải là để trở thành Đại tướng, hay Chủ tịch nước! Anh có được phân đất không? Trước đây, tôi là thiếu tá quân đội, nên cũng được cấp đất như mọi sĩ quan khác. Nhân nói chuyện bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, cũng có những người đặt lại vấn đề rằng lẽ ra Việt Nam nên bình thường hóa với ASEAN trước Trung Quốc. Bởi vì, có thể trong trường hợp này, có lẽ điều kiện bình thường hóa sẽ công bằng hơn với chúng ta. Anh nghĩ sao? Chắc rằng thời gian học ở bên Mỹ anh cũng có những dịp trao đổi, hay tranh luận, về câu chuyện này. Theo tôi nghĩ nếu Việt Nam đặt vấn đề bình thường hóa quan hệ với ASEAN trước, sẽ khó hơn trong việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc. Tại sao? Bởi bình thường hóa quan hệ kiểu tay đôi sẽ được phía họ nghĩ là mình không liên kết với những nước khác để gây áp lực hoặc có mục đích nào đó đằng sau. Vả lại, chúng ta nói câu chuyện này sau khoảng hai thập kỷ, dễ nói, dễ phân tích lợi hại hơn nhiều. Nhưng anh hãy tưởng tượng trong thời điểm lịch sử đó, những người lãnh đạo phải quyết nhanh và chính xác nhất có thể được. Riêng tôi, nhìn câu chuyện này sau 20 năm, tôi đánh giá không có lựa chọn nào tốt hơn. Bởi một lộ trình khác có thể sẽ làm trì hoãn quá trình mở cửa và hội nhập của Việt Nam. Là người mặc nhiên thụ hưởng thành quả của việc bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ, qua cái cơ hội mà nhiều người mơ ước là được đi học ở một trường danh giá hàng đầu thế giới như Harvard, anh đánh giá thế nào về vai trò của Chủ tịch nước Lê Đức Anh trong tiến trình này? Tôi cho rằng rất quan trọng. Tất nhiên, lúc đó tôi không biết được đầy đủ thông tin như bây giờ. Chẳng hạn, ông đã sử dụng những con đường không ai nghĩ tới như thông qua bác sĩ Phan. Cuốn sách "Đại tướng Lê Đức Anh" đã phân tích kỹ việc này nên tôi không nhắc lại. Tôi nghĩ ông và giới lãnh đạo mình lúc đó rất khôn khéo. Làm theo cách này chúng ta không phải nhờ vả ai, mà cũng tránh làm mất lòng một bên thứ ba nào đó. Thế về con người xuyên suốt của ông Lê Đức Anh, từ một vị chỉ huy cấp trung ở chiến trường miền Nam, đến khi ông trở thành cố vấn, rồi nghỉ hẳn, anh đánh giá ra sao? Tôi có thể nói ngắn gọn thế này: Mục đích cuộc đời ông không phải là để trở thành Đại tướng, hay Chủ tịch nước! Tôi nghĩ đó là một điều rất hiếm. Tôi biết nhiều lãnh đạo có tham vọng về sự thăng tiến rất rõ. Nhưng với ông Lê Đức Anh, tôi không thấy điều đó. Ở nơi làm việc ông có thể không biểu lộ chuyện này, nhưng đến cả khi về nhà ông cũng không có chút mảy may thể hiện sự ham muốn quyền lực. Hay vì ông quá kín đáo? Giấu ai thì giấu, làm sao giấu được vợ con, ở cái nơi mà con người ta có thể giãi bày được những điều chất chứa một cách dễ dàng nhất. Còn nếu đặt vấn đề như anh thì thực sự ông là bậc thầy siêu việt, và hoàn toàn vượt quá khỏi tầm hiểu biết của công dân Lê Mạnh Hà. Anh còn nhớ rằng ở Nga, nơi anh từng bảo vệ luận án phó tiến sĩ về vô tuyến điện (nay gọi là viễn thông), người ta có câu "Плox coлдаm, komopый не мечmaеm быmь гeнepaлoм!" (Chỉ có một anh lính tồi mới không mơ ước trở thành tướng). Có bao giờ anh nhìn nhận lại câu chuyện về cha mình theo hướng đó không? Tôi nghĩ câu đó là của tướng chiến trường, của người lính trận. Họ muốn nói người lính là phải xông lên lập công đầu. Người lính lao vào mũi tên hòn đạn không phải để được lên tướng mà là để chiến thắng. Bất cứ người lính nào cũng mong ước và được lệnh phải chiến thắng. Khi lập được chiến công, họ được lên cấp chỉ huy không phải để hưởng thụ mà để tiếp tục chiến đấu. Mà đã tiếp tục chiến đấu như vậy, họ hoàn toàn có thể hy sinh bất cứ lúc nào. Trong thời bình, những người sống vì lí tưởng hành động như những người lính trận. Xin cảm ơn anh. Người thực hiện: Huỳnh Phan tuanvietnamnet
-
Phương thức và phương tiện đổ xăng gây cháy do các bị can tự khai từ vòng điều tra. Ít ai nghĩ ra cách gây cháy hay đốt theo kiểu này.
-
Loại thước nhôm dẹp rỗng ruột, 1 trong các loại làm khung cửa hiện nay thường làm nẹp cho các cửa kéo chât liệu nhôm.
-
http://tintuconline.vietnamnet.vn/vn/tin11...1125/index.html Và các báo khác đồng lọat đưa tin: http://dantri.com.vn/c728/s728-440143/sap-...a-anh-chong.htm
-
Nếu đây chưa là thủ phạm chính thì sự vô cảm của đương sự cùng thái độ dững dưng khinh bạc đối với phiên tòa cũng nói lên bản chất của cô giáo tên Thuận. Trở lại vụ án khám phá ra được từ sự tiết lộ ngây thơ của đứa bé (con của đương sự) với Bà nội. " Mẹ đã đốt nhà Bác Hưng" manh mối từ câu nói này. Giờ suy ra chứng cứ thì lằng nhằng do xét lời trẻ thơ không mang tính "trọng cung" cô ấy cũng giận lắm con của mình, nên ở tòa có quay xuống nhìn con đâu! Chỉ có những oan khuất mới dẫn dắt cho con trẻ buông lời và mọi việc được mở! Nhưng còn phần kết thế nào chưa rõ......
-
Rừng nauy lo xa lo gần quá mí! Chứ Sắc diện này ngôn ngữ này tính cách này đúng chính chủ Sổ Đỏ rồi NaUy ah! @ Khanh Hoàng càng đi đúng đường rồi đó! May mắn sẽ quay về ! qua vận rồi CP sẽ phục hồi KH ạh! Cô cũng đã cảm nhận được cuộc đời đỡ quay cuồng hơn! KH chịu khó tham gia Hiến máu Nhân Đạo đi rút ngắn nghiệp nạn!
-
Đến được biển vũng tàu, có biển có Nắng, có làng chài có xóm cá mà chẳng có Làng Xưa?
-
Tuyệt tướng triện căn Tự thơ bất cách Giác tánh bản lai hiện chiếu Từ Bi hỷ xã vô lượng tâm