wildlavender

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    6.007
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    103

Everything posted by wildlavender

  1. Đang có dự kiến thay màu đỏ! Loại hẳn càng tốt cũng sẽ sử dụng tương sinh nhưng không dùng Hỏa nữa có nhiều lý do liên quan đến sinh hoạt của Diễn đàn. Việc này không thể giải thích trong một vài câu. ACE có ý kiến gì thêm Kỷ Thuật sẽ tiếp thu để cải tiến nhưng không quay lại màu Hỏa hay Thổ>
  2. Bạn ở TP HCM hay HàNội?
  3. @ vanvatho, trong bộ La Kinh có bản hướng dẫn sử dụng như cái toa, có thể cô Photo để VVT có thể tham khảo vì cô không biết cái khác nhau khi sản xuất giữa LK trước kia và LK Việt hiên nay (theo đơn đặt hàng).Có thể PM cho Cô số đt của VVT?
  4. Liên hệ với Thiên Đồng tại Trung Tâm đi viethq22, Còn 1 chiếc duy nhất và là chiếc cuối cùng.
  5. Sao cứ bắt tổ tiên phải cởi trần đóng khố? Tại sao người vẽ tranh cho truyện lại bắt tổ tiên ta phải ăn mặc nghèo nàn - trong khi, cùng thời đại - mà người láng giềng lại có được quần áo chỉnh tề như thế? LTS: Xung quanh những bức hình trong cuốn truyện tranh "An Dương Vương và Nhà nước Âu Lạc" truyện của Nguyễn Thị Thu Hương, tranh của Hồ Vĩnh Phúc, do Nhà Xuất bản Giáo dục in năm 2007 đang có các ý kiến tranh luận nhiều chiều. Để rộng đường dư luận, Tuần Việt Nam giới thiệu bài viết thể hiện góc nhìn riêng của CTV Đinh Công Nguyên để độc giả đóng góp thêm ý kiến. Sau đây là nội dung bài viết: Tôi nghĩ cách thể hiện hình ảnh trong cuốn truyện tranh có 2 cái sai, đó là: 1. Trang phục của tổ tiên ta không đúng với thực tế (bài viết: Xin đừng hiểu về trang phục của tổ tiên như thế chủ yếu chứng minh cho điều này) - nhưng xét trên khía cạnh một tác phẩm văn học - nghệ thuật (truyện, phim,...), vấn đề này cũng không phải là quá quan trọng. 2. Vấn đề đáng nói hơn, sai lớn hơn là ở chỗ, tại sao người vẽ tranh cho truyện lại bắt tổ tiên ta phải ăn mặc nghèo nàn - trong khi, cũng cùng thời đại - mà người láng giềng phương bắc lại có được quần áo chỉnh tề như thế. (Ít nhất thì cũng phải ngang nhau chứ - nếu có quần áo, thì cùng mặc quần áo - nếu không ta đóng khố lông chim, thì họ cũng là lông thú thôi, chứ đằng này...). Ảnh minh họa Cái ấu trĩ ở đây có lẽ là tư tưởng luôn tự cho mình là thấp kém hơn người khác. Nhiều người, do những lý do nào đó, họ không bao giờ được bằng bạn bằng bè, không bao giờ vượt qua được chính mình - vì trong tiềm thức họ đã luôn tự ti, mặc cảm rằng mình luôn thấp kém, không bằng mọi người... bản thân những người bi quan, tự ti, sẽ là thiệt thòi cho chính họ. Nhưng đem cái tư tưởng của số ít mà áp cho cả một dân tộc (theo kiểu bụng ta suy ra bụng cả làng..) thì thật là không nên, thật không thuyết phục. Ở đây tôi không muốn quy kết cái tội danh gì cho ai đã viết, hay vẽ nên những bức tranh truyện kia (vì ít nhất, nó cũng đã được qua kiểm duyệt trước khi xuật bản!). Song điều đáng nói ở đây là, hiện tượng tâm lý như trên, không phải chỉ có ở một vài người, hay một phần nhỏ người dân ta, mà có vẻ như nó đã ăn sâu, như một căn bệnh ung thư về tư tưởng trong một bộ phận không nhỏ người dân. Việc này khiến tôi liên tưởng tới một trong những hiện tượng (có thể nói là đặc biệt) của xã hội ta cách đây ít lâu - đó là khi cả nước ta ăn mừng chiến thắng trước Thái Lan rồi giành cúp vô địch cúp bóng đá khu vực. Khi đó tôi tự hỏi, liệu chiến thắng có thực sự đáng tự hào đến thế hay không? Thực tế, đây dù sao cũng chỉ là một chiến thắng trong thể thao (cho dù là môn thể thao vua - được yêu thích nhất) - nó chắng thể sánh với những chiến thắng trong những thành tựu khoa học - mà chúng ta đã phải rất khó khăn gian khổ, thậm chí mất mát hy sinh để có được - những chiến thắng này có giá trị đích thực của nó mà không cần phải tung hô - thể hiện ở sự ngưỡng mộ, nể trọng của bạn bè thế giới (ví dụ như chiến thắng trong công cuộc giải phóng đất nước, rồi những thành tựu y học kiệt xuất của một số cá nhân như: BS. Nguyễn Tài Thu, NS. Đặng Thái Sơn, ... và nhiều người khác). Nhưng cũng thật dễ hiểu cho lễ ăn mừng rầm rộ (thậm chí là hơi quá) của quần chúng cả nước cho chiến thắng (mặc dù nếu nhìn từ lăng kính nước ngoài vào, thì đó đúng là chuyện vui nhưng cũng thường thôi, họ không hiểu vì sao lại rầm rộ đến như thế). Bởi vì, mặc dù đây chỉ là một chiến thắng trong thể thao, nhưng nó đã đáp ứng mong mỏi - từ đã rất lâu rồi - của một xã hội mấy chục triệu dân - của cả một dân tộc mà vừa mới giành lại được một quốc gia độc lập cho riêng mình, được mấy chục năm - nhưng chính là từ đó đến nay, cái mà họ đã vất vả, cực nhọc, thậm chí hy sinh mất bao xương máu để đạt được ấy - từ khi khai sinh, dường như sau đó, chưa khẳng định được mình trước bạn bè thế giới - đáp ứng lòng mong mỏi của toàn dân. Để rồi đến khi, một chiến thắng trong thể thao, như miếng bánh, cốc nước thỏa nỗi thèm khát của một cơ thể đang đói cồn cào, khát khô cổ... Ảnh minh họa Tất nhiên, đây chẳng phải lỗi của riêng ai, cũng không thể đổ tội cho mọi người trong xã hội (bằng chứng là, ở đâu đó, trong lĩnh vực nào đó đã có những cá nhân nổi lên để khẳng định mình, qua đó góp phấn quảng bá bộ mặt dân tộc, đất nước ra thế giới). Phải chăng đây là hậu quả của sự trì trệ - tự bóp chẹt mình trong một thời gian dài. Trong hoàn cảnh như vậy, mỗi người tiến bộ, trước hết hãy tự đổi mới, cải cách chính mình ngay từ tư duy, cách nghĩ. Tiếp đến là làm sao để truyền bá luồng tư tưởng tiến bộ, mạnh dạn cầu tiến của mình đến cho người khác, đặc biệt là thế hệ trẻ. Chỉ có cách như vậy, dần dần đến một lúc nào đó, khi đa phần người trong xã hội có "bộ óc mới" thì khi đó mới có thể tăng tốc cho cả bộ máy xã hội này được. Một lần nữa tôi muốn nhấn mạnh, rằng mình có thể kém người về tiền bạc, của cải, thậm chí là tri thức, khoa học công nghệ, ... - nhưng tất cả những thứ này đều có thể phấn đấu để làm giầu thêm cho mình, thậm chí đuổi kịp để sánh ngang, hay vượt qua những người đi trước (như ví dụ về những "con rồng châu Á" là điển hình) - nhưng trên tất cả, nếu ta thua kém người về ý chí, chấp nhận thất bại ngay từ trong ý nghĩ, nhận mình thua kém từ trước khi phấn đấu, xác định thua từ trước trận đấu thì... có thể nói thật quá khó để chúng ta vượt qua được chính mình. Tác giả: Đinh Công Nguyên Bài đã được xuất bản.: 01/12/2009 09:30 GMT+7 tuanvietnamnet.net
  6. Tình yêu của Bò Cạp trong 2011 So với 2010, đây là năm mà chuyện tình cảm của Bò Cạp (23/10 - 21/11) xuôi chèo mát mái hơn rất nhiều. Đa số Bò Cạp cô đơn sẽ tìm thấy một nửa của mình và sớm đi đến hôn nhân, đặc biệt vào khoảng thời gian cuối năm. Tuy nhiên, sự thiếu kiềm chế thường là nguyên nhân dẫn đến bất đồng, vì thế lời khuyên cho bạn là cần kiên nhân nhẫn, nhún nhường và bao dung hơn trong cư xử với đối tác. Để cải thiện đời sống tình cảm, đừng quên dành cho nhau những phút riêng tư, ví dụ như những kỳ nghỉ lãng mạn để hâm nóng tình yêu. Chấm điểm đời sống tình ái: 4/5 Với phái nam: Sự kết hợp với đối tác mới mang đến cho chàng những phút thăng hoa, phấn khích trong chuyện gối chăn. Đây cũng là năm có nhiều thay đổi trong đời sống tình ái, mang đến cho chàng nhiều chuyện vui trong gia đình. Với phái nữ: Đây là năm mà phái nữ dễ dàng tìm thấy cảm giác hài lòng, tự tin chốn phòng the. Bạn cũng sẽ vượt qua được sự bất ổn trong chuyện ấy và có một đời sống tình dục hài hòa. Kết hợp Bò Cạp với các cung Hoàng đạo khác: Bò Cạp và Dương Cưu: Cả hai đều mạnh mẽ, hiếu thắng, chính điều này dẫn đến mối quan hệ không bền vững trong 2011 này. Bò Cạp và Kim Ngưu: Bên nhau, họ là nguồn động lực tuyệt vời cho đối tác của mình. Với sự giúp sức của Bò Cạp, Kim Ngưu sẽ luôn đạt được thành công trong cuộc sống. Bò Cạp và Song Sinh: Một cặp không có gì nổi trội. Thậm chí, thái độ thích sở hữu của Song Sinh vô tình khiến Bò Cạp cảm thấy khó chịu vì sự xâm phạm riêng tư, và vì thế, tình cảm của họ không vững bền chút nào. Bò Cạp và Cự Giải: Sự kết hợp tuyệt vời của 2011. Tuy nhiên đôi khi Bò Cạp sẽ cảm thấy ghen tị với thành công của Cự Giải. Bò Cạp và Sư Tử: Tình yêu của cặp đôi này thật mãnh liệt, đây là điểm mạnh, nhưng đôi khi cũng là điểm yếu của họ, do cả hai phía đều muốn sở hữu đối tác. Bò Cạp và Xử Nữ: Bên Bò Cạp, Xử Nữ sẽ có được những phút giây hạnh phúc. Tuy nhiên trong 2011 này, có đôi lúc Bò Cạp sẽ cảm thấy không thoải mái khi đối tác của mình được rất nhiều "vệ tinh" vây quanh. Bò Cạp và Thiên Bình: Cả hai luôn cảm thấy bất an trước các mối quan hệ của đối phương, và vì thế, tình cảm của họ rất dễ rạn nứt do những hiểu nhầm không đáng có. Bò Cạp và Bò Cạp: Một cặp hoàn hảo của 2011 này. Bên nhau, họ như thỏi nam châm thu hút sự chú ý, ngưỡng mộ của mọi người. Bò Cạp và Nhân Mã: Dường như Bò Cạp luôn tìm cách thống trị đối tác Nhân Mã của mình trong quan hệ yêu đương, và sự kết hợp này chỉ tồn tại chừng nào Nhân Mã còn kiên nhẫn và bao dung. Bò Cạp và Ma Kết: Sự kết hợp này không tốt, nhưng cũng không xấu. Đôi khi, Bò Cạp tỏ ra quá ích kỷ, lúc nào cũng muốn sở hữu đối tác Ma Kết, và vì thế, đôi uyên ương này thường xuyên cãi vã. Bò Cạp và Bảo Bình: Bảo Bình chính là đối tác hoàn hảo của Bò Cạp, bởi họ bổ sung cho nhau về tính cách. Trong khi Bò Cạp khá dè dặt thì Bảo Bình lại là con người của công chúng. Bò Cạp và Song Ngư: Tình yêu mà cả hai dành cho nhau thật tuyệt vời, họ đến bên nhau sau một tình yêu sét đánh và luôn duy trì tình cảm ngọt ngào ấy. N.H
  7. Hiểu đúng về chuyện “khai ấn” Năm nay tiếp tục khai ấn đền Trần Lại sắp đến ngày rằm tháng Giêng, Cung nhà Trần xưa ở phủ Thiên Trường (nay là thành phố Nam Định), bây giờ đang náo nức chuẩn bị đón người về xin ấn. Năm nay, kế hoạch tổ chức lễ hội sẽ có nhiều đổi mới, để giảm bớt sự quá tải, cũng như những sự cố đáng tiếc có thể xảy ra.Tuy nhiên, tâm lý của đa phần người đi dự lễ vẫn là muốn cầu thăng tiến cho cả năm. Chính điều này đã để lại cho nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Bảo, Chủ tịch Chi hội Di sản văn hóa Phúc Chí (Hội Di sản văn hóa Việt Nam) nhiều suy ngẫm. TT&VH xin giới thiệu bài viết của ông. 1. Cùng với việc mở cửa tự do tín ngưỡng cho nhân dân theo chủ trương của Nhà nước, lễ hội đền Trần mấy năm nay trở lên tấp nập, người về dự đông đến mức lạ thường, nhất là từ khi có các vị lãnh đạo Nhà nước về đóng ấn (dấu). Như những năm trước mà tôi chứng kiến, thì từ ngày 14, bắt đầu lúc 17 -18h, dòng người từ khắp các tỉnh thành đổ về đây để dự lễ. Tất cả các tuyến đường xuyên qua nội ngoại vi thành phố Nam Định đều ùn tắc, 21h trở đi thì cả khu vực sân bãi kéo từ cửa đền ra tận quốc lộ 10, hướng đi Thái Bình, hướng đi Ninh Bình, hướng đi Hà Nội, cả ba phía đều đông nghẹt như như nêm những người và xe cộ. Hàng vạn xe ô tô các loại nối đuôi nhau xếp dọc dài hàng chục km, hai bãi đỗ ô tô rộng gần 6ha mà vẫn không đủ sức chứa, nhiều xe phải chui vào các nhà dân, các trụ sở cơ quan ở bốn phía xung quanh đền. Còn xe máy thì không biết bao nhiêu mà kể. Nhiều xe không còn chỗ có chủ trông giữ, các chủ xe đành khóa cửa an toàn rồi bỏ mặc bên vệ đường mà đi vào hội. Được biết tỉnh Nam Định, có năm, huy động tới gần 2.000 chiến sĩ và quân đội, cùng với hàng trăm bảo vệ là người của phường sở tại tham gia bảo vệ an ninh trật tự xã hội. Lễ Khai ấn đền Trần bản chất là một lễ hội rất giàu ý nghĩa. Có năm, tất cả các phía vào cổng đền đều được dựng nên hàng rào bằng sắt để ngăn dòng người không thể vào được sân chính, bởi vì ở đó là nơi đón khách Nhà nước cấp trung ương về làm lễ và đóng ấn. Khách vào đền được chia làm hai loại, loại thẻ xanh thì chỉ được vào qua hàng rào sắt thứ nhất, đứng đợi ở hai bên tả hữu (Cổ Trạch phía Đông, Trùng Hoa phía Tây). Chỉ có loại thẻ đỏ mới vào được sân khai ấn. Số thẻ đỏ chỉ vào khoảng trên dưới 1.500 người tức là bằng một phần ngàn số người tham gia lễ hội và có mong muốn lấy được tờ ấn. Bởi thế mới có chuyện xô đẩy nhau, bẻ gãy, đạp đổ hàng rào sắt là chuyện dễ xảy ra (sức người mà). Chuyện mật độ người đông như thế nên trộm cắp cũng phải xảy ra, thôi thì điện thoại di động, ví tiền, đồng hồ và những đồ kim loại quý đeo trên người... kẻ xấu cứ thích cánh lấy đi. Chuyện may cả năm chưa thấy nhưng chuyện rủi đầu năm đã xảy ra trướ c khi giờ khai ấn điểm linh. Thế mới biết kẻ gian rất xem thường cả chốn cửa thần linh. Bảo không linh thì sao dại gì mà vượt chặng đường dài cả trăm, cả ngàn km về được đến đây, còn chuyện kẻ gian làm chuyện xấu ở những nơi này chả biết thế nào về hậu vận. 2. Trở lại lịch sử khai ấn của nhà Trần, vào năm 1239 tại phủ Thiên Trường, vua Trần làm lễ tế tổ tiên và mở tiệc chiêu đãi phong chức cho những quan quân có công, đến khi đất nước bước vào cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông thì lễ khai ấn bị gián đoạn, phải đến năm 1262 Thượng hoàng Trần Thánh Tông mới cho mở lại. Việc mở lại lần này tiếp đến bao giờ thì dứt cũng không thấy sử sách nào ghi và bản thân chiếc ấn cũ mang dòng chữ “Trần triều chi bảo” cũng không còn. Mãi đến năm 1822 vua Minh Mạng qua đây mới cho khắc lại ấn mới và mang dòng chữ “Trần triều điển cố” và thêm chữ “Tích đức vô cương”. Từ đó hàng năm cứ đến ngày rằm tháng Giêng, từ 23h ngày 14 đến 1h sáng ngày 15 là diễn ra lễ khai ấn, đây là một tập tục văn hóa rất có ý nghĩa nhân văn, vừa tri ân tiên tổ vừa nhắc nhở nhau chấm dứt các hoạt động vui chơi để chuẩn bị bắt tay vào công việc mới với những luồng sinh khí mới. Ngày nay, việc đồn thổi giá trị thiêng liêng từ tờ ấn ở đền Trần đã đi đến chỗ thái quá thành dị đoan. Kẻ bất tài, tham nhũng, lười biếng nhưng lại những mong thăng tiến thì xã hội đương thời cũng chẳng thèm chấp nhận, huống hồ anh linh các vị vua Trần dưới thời Đại Việt quốc gia, ba lần đánh tan giặc ngoại xâm càng không bao giờ ủng hộ cho cái lối “ nằm ngửa chờ sung rụng” như thế. 3. Tôi cũng có đôi lần đi lễ hội đền Trần nhưng là cốt để thắp nén nhang tri ân và ngưỡng mộ đức tài thao lược của các vua Trần và xem khai ấn, tuyệt nhiện không có ý cầu may bởi ngẫm mình là kẻ học chưa hết chữ, chỉ số IQ ở vào hạng xóa mù, vốn cơ bản là cuốn sổ hưu, hơn 40 năm trời lội suối trèo đèo, cả đạn bom ngoài tuyến lửa... nên có cầu thì cung cũng chẳng có nữa. Đi nhận ấn bây giờ nói như một nhà báo bạn tôi: “Mỗi lần nhận ấn là một lần tự hứa với mình, với tổ tiên sông núi về trách nhiệm trước công việc mình đang làm chứ không phải hy vọng vào may rủi. Và may trong lĩnh vực nào chứ tài hèn đức mỏng lại gặp may trong đường hoạn lộ thì quả là tai họa cho người liên quan đến trách nhiệm của mình”. Chuyện lễ hội và nghi thức đóng ấn ở đền Trần đang có nhiều ý kiến nêu lên là bỏ. Bỏ thì mất một kỳ lễ hội rất nhiều ý nghĩa truyền thống văn hóa, có nên chăng chỉ là bỏ phần đóng ấn. Lãnh đạo Nhà nước từ nay nên bỏ hẳn việc đóng ấn như đã làm. Bởi làm như thế vô tình đã đổ dầu thêm vào đốm lửa dị đoan, làm cho ngọn lửa thêm bùng cháy. Mà thay vào đó là việc vinh danh, trao phẩn thưởng cho những công dân Việt Nam lập công xuất sắc hàng năm thì hay biết mấy. Nếu được như thế thì những mục đích cầu may, thăng tiến vô vọng ấy sẽ giảm đi rất nhiều, người đến lễ hội cũng giảm đi làm cho trật tự trị an trở lại bình thường. Chỉ có thế thì lễ hội đền Trần mới thực sự là một dịp tri ân báo đức, báo công với các thế hệ vua Trần. Nguyễn Văn Bảo (Hội Di sản văn hóa Việt Nam) nguồn thethaovanhoa.vn
  8. :((Phát biểu này có tác dụng: Nhà Sp sẽ có đội ngũ rồng rắn xếp hàng chờ phát chẩn!
  9. Thiên Đồng chịu khó minh họa hình ảnh đi! Mùng 2 ACE họp mặt chúc tết SP, được lì xì, được măm măm.... Mùng 7 ACE viếng và thắp nhang Đền Hùng... SP và ACE mừng Tân Niên "BIA TIỆP" và Drink BALLENTIN'S !
  10. Hai nút (+) ( -) ngay trên dòng chữ Trích dẫn dưới mỗi bài viết đó N/A!
  11. Tình yêu của Thiên Bình trong 2011 Đây là năm mà cây tình yêu của Thiên Bình (23/9 - 22/10) đầy hoa trái, mang lại cho bạn những phút giây hạnh phúc. Không những vượt qua được chướng ngại vật cản trở chuyện yêu đương, các bạn Thiên Bình sẽ luôn có được cảm giác tin cậy đối tác, tình cảm từ đó cũng thật bền vững. Cuối 2011, cơ hội cho chuyến du lịch lãng mạn cùng người ấy mang đến cho cả hai thêm những hiểu biết sâu sắc về nhau, cánh cửa hôn nhân từ đó cũng mở rộng. Lời khuyên cho bạn là cần kiên nhẫn hơn khi gặp phải bất đồng với đối tác, chính sự mềm mỏng, khéo léo sẽ giúp mâu thuẫn được hóa giải nhanh chóng. Cũng theo dự đoán này, 2011, Thiên Bình có thể sẽ phải xa người yêu trong khoảng thời gian vài tháng vì lý do công việc, tuy nhiên khoảng cách cũng khiến cho tình cảm càng nồng nàn, khăng khít. Chấm điểm đời sống tình ái của Thiên Bình: 5/5 Với phái nam: Các bạn nam tìm thấy sự hòa hợp tuyệt vời với đối tác trong chuyện gối chăn. Đây cũng là năm mà bạn có được những đam mê mạnh mẽ với sex, từ đó dẫn đến tâm lý muốn chế ngự bạn đời trong đời sống ái tình. Với phái nữ: Phái nữ sẽ mang đến cũng như nhận được nhiều bất ngờ trong đời sống tình ái ở 2011 này. Ngoài ra, vào một số thời điểm trong năm, tâm lý của bạn thay đổi liên tục khi "giao lưu" cùng đối tác. Kết hợp Thiên Bình và các cung hoàng đạo trong 2011 Thiên Bình và Dương Cưu: Một cặp đầy sức mạnh của 2011 này, cả hai dành cho nhau tình cảm chân thành, sự yêu thương, trìu mến. Trong năm, họ có dịp du lịch tới nhiều địa điểm đẹp và lãng mạn, tình cảm từ đó cũng trở nên bền chặt hơn. Thiên Bình và Kim Ngưu: Hỗ trợ cho nhau trong cuộc sống, cả Thiên Bình và Kim Ngưu đều tìm thấy tiếng nói chung khi kết đôi. Đương nhiên, không ai có thể xen vào mối quan hệ của họ. Thiên Bình và Song Sinh: Là cặp đôi lý tưởng của 2011. Cùng có chung sở thích, đam mê, họ khiến mọi người phải ghen tị vì sự hòa hợp này. Thiên Bình và Cự Giải: Sự kết hợp này không có gì nổi trội, ngoại trừ việc họ tìm thấy ở nhau những phút nồng nàn trong chuyện ấy. May mắn là một số Thiên Bình sẽ có tác động tốt đến Cự Giải trong cuộc sống. Thiên Bình và Sư Tử: Cả hai luôn tìm cách thống trị nhau – đặc biệt trong công việc, tuy nhiên họ chính là nguồn sức mạnh của nhau, tình yêu của họ cũng vì thế mà rất tốt đẹp. Thiên Bình và Xử Nữ: Sự khác biệt về sở thích khiến họ không ít lần cãi vã, nhưng tình yêu chân thành vẫn chiến thắng tất cả. Thiên Bình và Thiên Bình: Sự kết hợp tuyệt vời trong 2011 này. Với thái độ chân thành, cả hai dễ dàng loại bỏ mọi vướng mắc về nhau, tình cảm từ đó rất khăng khít. Thiên Bình và Bò Cạp: Đôi khi họ tỏ ra ghen tị với sức hấp dẫn, trí thông minh của đối tác, đây là lý do khiến cặp đôi có chút hục hoặc. Thiên Bình và Nhân Mã: Một mối quan hệ tốt đẹp, do hai phía hiểu nhau rất sâu sắc. Thiên Bình và Ma Kết: Cả hai tìm thấy ở nhau những hứng thú mạnh mẽ trong chuyện gối chăn. Tuy nhiên, việc Thiên Bình thường có tâm lý "hướng ngoại" sẽ khiên cho Ma Kết giận dữ, tình cảm từ đó dễ sứt mẻ. Thiên Bình và Bảo Bình: Một cặp hoàn hảo, họ luôn hiểu và chia sẻ mọi điều với nhau. Năm nay cũng mang đến cho họ nhiều cơ hội đi du lịch thú vị. Thiên Bình và Song Ngư: Bên nhau, Thiên Bình sẽ trở thành nguồn động lực tuyệt vời cho Song Ngư trong 2011 này. Nguyễn Hương
  12. :((Sao lại trắng đỏ ở các ô dưới bài viết nữa? Hay chưa hoàn chỉnh hả BK?
  13. Vâng! Sau tết những ACE đăng ký mua sẽ nhận được bản Hướng dẫn sử dụng qua email đấy! Cô sẽ xúc tiến việc này để thấy hết chức năng tuyệt diệu của La Kinh Việt.
  14. Không đúng đâu nha TL! Nơi này hất hủi nơi khác nâng niu thôi, làm gì cũng không qua yếu tố con người đâu!
  15. Khá lắm rồi Bá Kiến ah! Còn lại các cậu dùng thẫm mỹ của dân thiết kế cải tiến nhe! Cám ơn các cậu!
  16. Đồng ý với TL về quan điểm tương sinh trong ngũ hành mà đẹp mắt nữa!
  17. "Mèo" Trong Ca Dao Việt Khi nói đến Mèo, hầu hết người Việt thường lại nhớ đến bốn câu ca dao bất hủ sau đây: “Con mèo mà trèo cây cau Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà Chú chuột đi chợ Đồng xa Mua mắm mua muối giỗ cha con mèo”. Mèo với Chuột là hai con vật mà nói chung ai mà cũng biết. Riêng miền quê Việt Nam thì chẳng ai lạ gì "chuột" vì chúng hay phá hoại mùa màng, ngủ cốc lúa gạo, bắp khoai, đậu. Ở thành phố thì ít thấy chuột vì thực phẩm được lưu trữ, cất giấu kỹ. Để chống lại chuột người ta nuôi mèo. Mèo và chuột xét về bản chất thì hai con vật này đối kháng nhau. Chuột thân phận nhỏ bé nên luôn là miếng mồi ngon cho mèo, vì thế nơi nào có mèo, chuột khó sống. Với chuột, mèo là kẻ tử thù, chẳng thân thiết gì cả. Vậy thì tại sao chuột lại tận tâm với ông tổ nhà mèo như ngụ ý bốn câu ca dao trên?. Tương truyền rằng có một chú chuột bị con mèo vớ được, tính ăn thịt. Chuột sợ quá bằng năn nỉ ỉ ôi, lạy mèo tha cho rồi chuột ta sẽ mua "cao lương mỹ vị" như tôm, thịt ...làm giỗ mời mèo hôm sau tới ăn. Nghe thế, mèo vì thèm các món ăn ngon chuột nói trong khi chuột nhỏ xíu, thịt đâu có bao nhiêu nên tha chết cho. Y như hẹn, mèo đến nơi trèo lên cây cau réo gọi nhưng nào thấy chuột, bàn cổ để cho mèo ăn cũng chẳng thấy. Lúc đó mèo ta mới biết mình bị chú chuột kia đánh lừa. Chỉ biết tức giận, không được gì hết, ngay cả miếng thịt chuột! Qua những câu ca dao trên chúng ta nhận ra điều kỳ lạ ở đây là chuột lo đi chợ mua đồ ăn để giỗ cha mèo, kẻ thù truyền kiếp luôn hại giống nòi nhà chuột. Tuy nhiên khi mèo đến chơi nhà chuột, leo lên cây cau nhưng không gặp được chuột. Câu chuyện ngắn ngủi nghe phải bật cười bởi sự phi lý của nó và sau đó ngẫm nghĩ kỹ thì thấy đau đớn, nhức nhối tâm can vì "bị lừa"!. Ngoài ra, 4 câu ca dao còn hàm chứa sự thâm thúy khác mà ai cũng có thể hiểu là muốn giữ được mạng sống thì chuột chỉ còn cách làm cái việc chẳng đặng đừng với kẻ mạnh hơn mình "năn nỉ tha mạng". Đau đớn là thế. Thực ra thì ai cũng hiểu chẳng có chuyện mèo chuột gì cả ở đây mà chỉ là "chuyện con người ". Trong cuộc sống bên ngoài xã hội cũng thế "mạnh được yếu thua" vì vậy con người đôi khi phải "hạ mình, quỳ lụy" để giữ mạng sống. Và những câu ca dao ở trên là "sự mách nước rất khéo léo" cho kẻ yếu ứng xử với kẻ mạnh! Công tâm mà nói, tiếng Việt mình thâm thúy thật! Ca dao Việt lại càng không thể nào chê được, chẳng những bởi "sự thâm thúy, trừu tượng" thôi mà còn có cả sự trêu, giễu trong đó. Để chào đón Năm Mới Tân Mão 2011, năm con "Mèo", tôi sưu tầm thêm những câu ca dao khác liên quan đến "Mèo" và trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả qua bài phóng tác: "Mèo Trong Ca Dao Việt". Không những chỉ ám chỉ loại mèo vô dụng, câu ca dao sau đây còn đề cập đến loại người chưa học làm điều tốt mà đã nhiễm phải thói xấu, muốn nói đến những người vô tích sự: Chưa học bắt chuột đã học ỉa bếp Miền Trung, Nghệ Tĩnh có câu: Chua như cứt mèo ám chỉ sự nói năng của ai đó với giọng điệu gây khó chịu cho người khác, rằng cái "mụ nớ, thằng đó" ăn nói chua như "kít mèo", vì cứt mèo mùi chua khắm rất khó chịu. Cho nên chúng ta thường nghe "Giấu như mèo giấu cứt" là vậy! Cũng còn có ý khác chê những người giấu diếm vật gì, điều gì đó quá ư là kỹ. Hoặc Có ăn nhạt mới thương tới mèo ngụ ý muốn diễn tả cảnh ai từng trải qua sự cực khổ mới biết thương kẻ khốn cùng. Đã yếu đuối, khốn khổ nếu lại gặp thêm hoạn nạn, thì người ta đành ngậm ngùi than thở: mèo què phải trận chó đòi Gặp ai quá đanh đá, ghê gớm không từ một thủ đoạn nào. Khuyên người khác đừng có trêu mệ nớ, là " mổ mèo lấy cá " chứ không phải vừa đâu thì có những câu: Mẹ chồng đối với nàng dâu Như mèo với chuột có thương nhau bao giò. Thật chẳng biết đâu mà mò. Đàn ông nếu ăn như mèo thì bị chê bai, cho là tật xấu. Nhưng phụ nữ ăn uống từ tốn, ăn từng miếng một, uống từng hớp nhỏ được khen là có nết na: Ăn nhỏ nhẻ như mèo Nói đến kẻ hà tiện, tính bủn xỉn thì có câu: Buộc cổ mèo, treo cổ chó Hoặc muốn bảo rằng mỗi người có sở trường riêng, chưa chắc ai đã hơn ai, tế nhị có thể nói: Chẳng biết mèo nào cắn mỉu nào (Mỉu: do tiếng miu là mèo đọc chệch ra) Để diễn đạt ai cũng có nghề nghiệp chuyên môn của mình, cho nên đừng tị nạnh nhau làm chi và chuyện ai nấy lo, đừng can thiệp vào việc người khác thì thiên hạ thường buông lời: Chó giữ nhà, mèo bắt chuột Đặc biệt để phê phán kẻ không nhìn thấy lỗi nơi mình, mà chỉ tìm thấy lỗi ở người khác: Chó chê mèo lắm lông Dùng để chê những kẻ đần độn, ngu ngốc: Chó gio, mèo mù hay để chê bai hạng người không có tài năng: Chó khô, mèo lạc Để ám chỉ những vật vô giá trị, bị bỏ lăn lóc chẳng ai thèm lấy: Chó tha đi, mèo tha lại Người ta thường treo thức ăn trên cao để tránh chó ăn và đậy kỹ để không cho mèo lục đớp. Câu ca dao sau đây ngụ ý cảnh giác chúng ta cẩn thận cửa nẻo đề phòng trộm cuỗm mất: Chó treo, mèo đậy Muốn gián tiếp khuyên lơn người khác hãy thận trọng, đừng làm ơn cho kẻ có thể hại mình: Chuột cắn dây buộc mèo Như chúng ta biết, mèo thấy chuột là vồ lấy ăn thịt ngay. Để cảnh giác ai đó không nên làm một việc liều lĩnh, nguy hiểm thì ca dao mình cũng có câu: Chuột gặm chân mèo Hay tỏ vẻ tức giận người khác bằng cách chửi mắng vu vơ. Bực mình họ nhưng lại trút bực tức qua những con vật nuôi trong nhà. (giận cá, chém thớt) chẳng hạn: Chửi chó mắng mèo Đá mèo, quèo chó Nhằm nói đến sự đau khổ càng lớn của những ai mất quyền lợi ở địa vị cao, nhiều hơn nếu so sánh sự đau khổ với người ở địa vị thấp: Hùm mất hươu hơn mèo mất thịt Hoặc để ám chỉ những kẻ cố tình che giấu tội lỗi bằng cách im lặng tuyệt đối, hay đề cập đến những kẻ hễ thấy lợi là giấu giếm không cho ai hay biết hưởng một mình: Im ỉm như mèo ăn vụng Trong trường hợp mỉa mai, đánh giá cho việc sử dụng người trong một công việc không đúng với sở trường, khả năng của người đó: Không có chó bắt mèo ăn cứt Ám chỉ ai nói dai, thường nói đi nói lại để nài xin: Lèo nhèo như mèo vật đống rơm Ngụ ý khuyên ai trước khi làm việc gì phải tự lượng sức mình, cố gắng cho lắm cũng vô ích: Mèo cào không xẻ vách vôi Muốn khen người trẻ tuổi tài cao, làm được việc mà nhiều người lớn làm không nổi: Mèo con bắt chuột cống Muốn nói người già nhờ sống lâu nên đúc kết được nhiều kinh nghiệm quý báu. Nghĩa khác là mới đầu làm việc gì có vẻ rụt rè nhút nhát, nhưng lâu năm thì tinh ma ranh mãnh: Mèo già hóa cáo Ám chỉ những kẻ vô lại thường hay kết bè tựu đảng với nhau, thiên hạ thường nói rằng: Mèo hoang lại gặp chó hoang; anh đi ăn trộm gặp nàng bứt khoai Còn ai tự đề cao, khen ngợi mình thì ca dao Việt cũng chẳng tha: Mèo khen mèo dài đuôi Ngụ ý so sánh thanh niên bạo gan hơn, trong khi người lớn tuổi thì nhút nhát: Mèo già lại thua gan chuột nhắt Một đặc điểm khác, khi nói đến hai chữ “mèo chuột” thì chúng ta, nhất là những người đầy lãng mạn tính thường liên tưởng ngay tới chuyện “trai gái, bồ bịch, mèo mỡ”, vì từ xưa, ông bà mình cũng từng diễn tả sự thu hút lẫn nhau giữa nam nữ qua những câu tục ngữ sau đây mà mọi người đều đã nghe biết, ý nói đặt trước mặt người ta một thứ gì hay muốn chế giễu họ trước thứ mà họ đang mong muốn, thèm khát, ví dụ như chuyện "người đàn ông khi ... gần gũi muốn chiếm đoạt phụ nữ", đó là: Như mèo thấy mỡ Mỡ để miệng mèo hay Lửa gần rơm không cháy cũng tròm trèm Mèo không ăn vụng đi đêm làm gì ? Để diễn tả cảnh "bất hoà giữa mẹ chồng nàng dâu", ca dao Việt Nam cũng mượn "con mèo": Con mèo trèo lên cây táo Mẹ chồng nương náu, chưởi mắng nàng dâu Bà ơi không sợ bà đâu Bà đừng chửi mắng mà mang tiếng đời Hay để chọc quê người khác: Con mèo trèo lên cây vông Con chó đứng dưới ngó mong con mèo Mèo rằng, sao chó chẳng theo ? Lên đây mèo sẽ dạy leo cho mà Xa hơn nữa, nhằm ám chỉ đến những người đàn bà bị chồng chê, chồng bỏ vì hư đốn, phải về nhà cha mẹ ruột. Thay vì biết thân phận âm thầm sống đến già, nhưng lại khoa trương nọ kia để củng cố danh giá mình thì thiên hạ hay nhắc đến, mỉa mai qua các câu ca dao sau đây: Mèo làm ai nỡ cắt tai; gái kia chồng bỏ khoe tài làm chi? Hoặc để chê bai các người đàn bà tính hư, tật xấu, ngày hai bữa cứ ăn cơm hàng cháo chợ, không lo cơm nước cho gia đình: Mèo lành chẳng ở mả; ả lành chẳng ở hàng cơm Hay nhằm ám chỉ hạng người vô lại, trai trộm cướp, gái lăng loàn khiến ai cũng khinh ghét: Mèo mả gà đồng Nói đến những kẻ không còn phương kế sinh nhai: Mèo mù móc cống Đề cập kẻ nghèo hèn đang túng quẫn nhưng gặp vận may bất ngờ: Mèo mù vớ cá rán Khuyên người hãy biết liệu sức mình mà đảm đương công việc. Tài hèn sức mọn nhưng nếu ham đảm trách một việc lớn thì trước sau chỉ chuốc lấy thất bại mà thôi: Mèo nhỏ bắt chuột con Nói đến kẻ có quyền hành làm việc sai trái thì không sao, trong khi kẻ dưới bị trừng phạt nặng (như chuyện tham nhũng ở dưới xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay chẳng hạn! Theo Internet, tham nhũng hạng "bự" thì cứ "phây phây"; còn cở "nhỏ" thì lại bị kết án xử tù!). Mèo tha miếng thịt xôn xao; hùm tha con lợn thì nào thấy chi Khuyên người ta nếu biết tiện tặn chi tiêu thì không sợ túng: Mèo uống nước bể chẳng bao giờ cạn Chỉ kẻ tài thô trí thiển mà thích, muốn cáng đáng việc lớn lao quá sức mình, không đúng với khả năng cho phép, thiên hạ nghịch rằng: Mèo vật đụn rơm Nhằm nói cho dù kẻ thù nguy hiểm đến cỡ nào nhưng nếu mình có mưu mẹo, có phương tiện thì thế nào cũng thắng: Sắc nanh, chuột dễ cắn được cổ mèo Bày tỏ vì thất vọng nên buồn rầu, không muốn nói năng, làm ăn gì cả: Tiu nghỉu như mèo cắt tai Sự kiên nhẫn, siêng năng cho đến khi được việc mới thôi được thể hiện qua câu : Rình như mèo rình chuột Ca dao Việt cũng khuyên các ông chồng không nên quá nuông chiều và cũng đừng hiếp đáp vợ quá, vì nuông chiều quá thì vợ lờn mặt, lâu dần sẽ lấn áp quyền chồng. Còn hiếp đáp thì vợ buồn rầu, gia đình mất hòa khí, hạnh phúc: Vợ quá chiều ngoen ngoẻn như chó con liếm mặt; vợ phải rẫy tiu nghỉu như mèo lành mất tai ! Nhằm mục đích răn dạy người đời hãy tìm cách giải quyết những mâu thuẫn trong cuộc sống để sống hòa thuận, đoàn kết, yêu thương nhau vì ngay cả loài vật còn biết nhường nhịn nhau mà sống huống chi con người, ca dao mình cũng có câu: Trâu bò ở với nhau chia nhau phần cỏ, Người ở với nhau như chó với mèo Và để kết thúc bài phóng tác này vì 2011 là năm con "Mèo (Mẹo)", tôi xin trích dẫn câu ca dao sau đây đề cập đến quan niệm mê tín từ xưa lưu truyền lại: Mèo đến nhà thì khó, chó đến nhà thì giàu ! Mong rằng Quý độc giả luôn được sức khoẻ dồi dào, đầy đủ "Phước, Lộc, Thọ" cho dù " Chó " hay " Mèo " đầu năm tình cờ ghé đến thăm nhà quý vị. Như chúng ta thấy, ca dao tục ngữ thường đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau trong cuộc sống, đặc biệt là xã hội, gia đình và tình yêu. Riêng về con "Mèo" thì còn rất nhiều nhưng rất tiếc bài viết có giới hạn nên người viết không thể trích dẫn hết để trình bày cùng quí vị, xin thông cảm. Tuy nhiên qua đó cũng gói ghém đủ ý nghĩa sâu sắc của Ca Dao, có thể nói là căn bản nền văn hóa của Dân Tộc Việt Nam. Trước thềm năm mới, xin kính chúc quý độc giả một Năm Tân Mão 2011 "An Khang Thịnh Vượng và Hạnh Phúc". st
  18. Rất vui khi nhận được phản hồi từ bạn! Luận bàn thêm về pháp giáo của Đức Phật cũng là cơ duyên nhưng Wild nghĩ cạn, ngay sự im lặng của Ngài đã pháp thí nhiều điều vĩ đại thì tiếng nói của ta dành cho bằng hữu có bao người được ngộ? Khi bể sở mênh mông thuyền mê thức, ngụp lặn trồi dâng chỉ mong tỉnh thức được chính mình!
  19. Nếu đi qua giấc mơ, không đọng chút mong chờ thì đời người chỉ có một cuộc sống!

    1. Bá Kiến®

      Bá Kiến®

      Nếu cuộc sống cũng là một ước mơ, cũng là một mong chờ, Thì cuộc sống ý nghĩa hơn chứ ạ!

  20. Phương pháp thì nhiều nhưng cốt lõi vẫn là cách luận của từng cá nhân có tài cảm ứng ! Kể cả Tarot bản chất 1 lá đã là 1 biểu tượng nhưng luận thế nào cho đối tượng xem gật gù cho là soi đúng tim đen họ mới phục.
  21. Phông nền vàng chữ màu đỏ (dưới mỗi bài viết có 1 loạt ô vàng chữ đỏ như "báo cáo" "xóa" v.v..... cũng nên xem lại BaBywolf ah! "Lý do "Điều này Cô đã trao đổi riêng hơn 1 lần với BW ở lần thay giao diện trước..
  22. Phiếm luận về đạo hiếu của Chử Đồng Tử. Theo truyền thuyết dân gian, Chử Ðồng Tử là một người con rất có hiếu. Truyện Nhất Dạ Trạch trong Lĩnh Nam chích quái, ghi về cuộc đời buổi sơ thời của Chử Ðồng Tử như sau: "Tại làng Chử Xá, có người tên Chử Vi Vân, sinh được con trai đặt tên là Chử Ðồng Tử. Theo truyền thuyết dân gian, Chử Ðồng Tử là một người con rất có hiếu. Truyện Nhất Dạ Trạch trong Lĩnh Nam chích quái, ghi về cuộc đời buổi sơ thời của Chử Ðồng Tử như sau: "Tại làng Chử Xá, có người tên Chử Vi Vân, sinh được con trai đặt tên là Chử Ðồng Tử. Hai cha con bản tính từ hiếu. Một thời, nhà lâm đại nạn, tài sản tiêu tán, chỉ còn lại một cái khố. Cha con ra vào thay nhau mặc, đến khi bệnh nặng gần chết, người cha mới dặn dò Chử Ðồng Tử, hãy giữ lấy cái khố để mặc, còn chôn cha khỏa thân. Nhưng Chử Ðồng Tử không đành lòng thấy cha trần truồng nằm trong lòng mộ, nên chôn khố theo cha. Thế là từ ấy, Chử Ðồng Tử khỏa thân sống dọc theo bãi cát…". Như thế, niềm hiếu đạo của Chử Ðồng Tử là ở nơi ý nghĩ và hành động chẳng thà để tự mình bị lõa lồ còn hơn để thây cha trần truồng khi chôn cất. Trong truyện này, ta thấy vấn đề xoay quanh chiếc khố duy nhất giữa hai cha con Chử Ðồng Tử. Thực tế, cho dù nghèo đói đến đâu, cũng không lý nào mà cả hai cha con chỉ có được một chiếc khố để che thân. Cũng như câu dân gian thường nói "Nghèo đến nỗi không có mảnh đất để cắm dùi", lẽ là phải nói "Nghèo đến nỗi không có được một cái dùi để cắm đất". Cho nên, khi nói ra vào, cha con Chử Ðồng Tử thay đổi nhau mà mặc, vậy đến phiên người mặc nó, thì người đó làm gì? Tất nhiên là đi ra ngoài kiếm sống, sinh nhai. Không lý trong thời gian vật lộn với cuộc sống như vậy, cả hai cũng không thể dành dụm được một chút gì để có thể sắm thêm được một cái khố nữa hay sao? Sao phải cứ thay nhau mà mặc một chiếc, cho đến khi người cha chết rồi cũng phải chôn theo luôn để tự mình trần truồng như nhộng? Như vậy, ở đây, chiếc khố có ý nghĩa gì? Dĩ nhiên, khố là để che nơi kín đáo của con người, tuy kín đáo nhưng mà lại là nguyên ủy của sự sinh sôi nảy nở, sự truyền thừa nòi giống của con người. Một khi che kín lại, một mặt là để phù hợp với thuần phong mỹ tục khi sống trong khuôn khổ của xã hội, nhưng mặt khác thì lại che mất đi cái nguyên ủy, cái bản thể, cái chân tánh của con người. Cho nên hình ảnh một Chử Ðồng Tử lõa thể, có thể nói đó là hình ảnh nguyên sơ, trút bỏ hết mọi ngăn che, mọi hệ phược, để đạt đến cái mà Ðạo gia gọi là "xích tử", "hồn nhiên", hay "bản phác", và là điều mà Phật gia gọi là "không còn dính mắc", "không còn ràng buộc", tức là "giải thoát". Không còn gì cả, nên đạt được tất cả. Trở về với nguyên uyên của cái gọi là "bản lai diện mục" trong nhà Thiền. Rồi cũng chính nhân duyên hiếu hạnh chôn khố theo cha mà Chử Ðồng Tử mới có thể gặp được Tiên Dung khi nàng công chúa này lại chọn đúng vào nơi Chử Ðồng Tử ẩn vùi thân dưới cát. Thế là cả hai thành vợ thành chồng, cho đó là duyên tiền định. Nếu xét ở logic thông thường thì đây là chuyện hoang đường. Có lẽ vì thế mà xưa nay, chuyện Chử Ðồng Tử chỉ lưu truyền trong dân gian như là một huyền thoại, ngay cả khi được phái Nội Ðạo tôn xưng là biểu trưng cho đạo hiếu, là vị tổ của quan niệm về chữ hiếu của dân tộc Việt Nam, vẫn không được giới Phật gia lưu tâm đến. Cho nên, ta cần đặt vấn đề đọc lại chuyện Chử Ðồng Tử bằng một nhân sinh quan mới. Qua những điều trên, ta bắt đầu trực diện với hai lý tắc đáng kể. Trước nhất, một anh chàng nghèo xơ kiết xác, trọn đời không sắm được một mảnh vải để che thân, ở dưới tận cùng nhất của cái cùng cực thấp kém lại được sánh vai cùng nàng công chúa giàu sang cao ngất tột đỉnh trên nấc thang xã hội. Thực tế bất khả thể. Cả hai biểu trưng cho hai thái cực tương phản nhau. Có phải chăng vì là hai thái cực cho nên chung quy cũng phải quay về một mối nên cũng phải gặp gỡ nhau? Ðó là lý tắc uyên nguyên của Ðạo. Mà trong đạo Phật thì không cực đoan nào có thể tồn tại. Bởi vì còn cực đoan là còn nhị nguyên, còn có đối đãi, còn bị điều kiện tương ưng. Chỉ có trung dung, siêu việt cả hai để đi đến cái Một bất nhị mới có thể thấu triệt được chân lý trung đạo. Lý tắc thứ hai, chính ở nơi điều mà thế gian cho là duyên tiền định, ngay cả đến Chử Ðồng Tử cũng quan niệm "vợ chồng [họ] là do bởi Trời mà nên". Nhà Phật gọi đó là nhân quả. Từ nơi nguyên nhân là do lòng hiếu thúc đẩy phải chôn khố theo cha mới đưa đến kết quả là gặp được Tiên Dung, nên duyên vợ chồng. Giả dụ như mà Chử Ðồng Tử có khố, thì làm gì có việc chàng phải vùi mình dưới cát để trốn, mà chỉ có chuyện là nhởn nhơ đâu đó, thì duyên tiền định không đến mà nhân quả cũng chẳng thành. Ðây là lý tắc chủ yếu, phát sinh từ nơi lòng hiếu thảo của Chử Ðồng Tử đưa đến việc thành hôn cùng Tiên Dung, từ đó họ bắt đầu phát triển việc buôn bán (Chử Ðồng Tử còn được cho là ông tổ nghề thương buôn) dẫn đến cuối cùng gặp nhà sư Nhật Quang tại núi Quỳnh Viên nơi cửa biển Nam Giới, còn gọi là cửa Sót [Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb. Thuận Hóa, 1999, tr.19-22], thuộc Hà Tĩnh ngày nay, một cuộc nhân - quả, quả - nhân duyên khởi trùng trùng. Câu chuyện Chử Đồng Tử ẩn chứa nhiều triết lý của người Việt xưa cần được nghiên cứu và giải mã Sau khi gặp nhà sư Nhật Quang trên núi Quỳnh Viên và được truyền pháp, Chử Ðồng Tử lại còn được tặng cho một cây gậy và một chiếc nón và được sư dặn rằng: "Mọi việc linh thông đều ở đó". Gậy và nón gợi ra biểu tượng cho sự phồn thực, là một giải cách rất phù hợp, bởi vì từ nơi lòng hiếu thảo của Chử Ðồng Tử, chắc chắn khi sinh con đẻ cháu, hiếu đạo đó sẽ được truyền thừa và với sự linh thông giữa gậy và nón, chắc chắn truyền thừa đó đã trở thành bẩm sinh trong lòng con cháu của Chử Ðồng Tử, của những người con Việt, của dân tộc Việt Nam. Một giải cách thứ hai về sự linh thông của cây gậy [xem thêm bài "Ý nghĩa của cây gậy trong truyện Chử Ðồng Tử và Man Nương" của Ngọc Kinh Lang Hoàn] cũng là để biểu hiện một nền Phật giáo quyền năng trong giai đoạn du nhập vào Việt Nam và hài hòa cùng các đức tin bản địa. Trong truyện Nhất Dạ Trạch này, sau khi vợ chồng Chử Ðồng Tử thành công trong việc tạo dựng một vùng đất mới để an cư lạc nghiệp thì bị vua Hùng Vương tưởng dân tạo phản, kéo quân đánh. Trong một đêm nhờ vào cây gậy, Chử Ðồng Tử đã hô phong hoán vũ tạo nên thành quách lâu đài, quân binh rầm rộ, khiến Hùng Vương phải giảng hòa, mới biết ra đó là vợ chồng Tiên Dung mà trước kia vua trục xuất. Thế là thành quách lâu đài, không còn giá trị thực dụng nữa, sau một đêm biến mất. Có phải chăng đây là ý nghĩa "Hóa thành" trong kinh Pháp Hoa? Tất cả đều huyễn hóa, không thật, tất cả đều chỉ là phương tiện mà thôi.Thường vào mùa Vu lan, ta hay nhắc đến chuyện Mục Kiền Liên nhờ lòng hiếu thảo đã cứu được mẹ thoát khỏi cõi địa ngục. Chuyện Chử Ðồng Tử trái lại là một biểu tượng hiếu đễ ngay tại cõi thế. Ðạo hiếu của Phật giáo Việt Nam như thế chính là ở nơi thực hiện ngay với người sống, chứ không phải là "Sống thì lại chẳng cho ăn, đến khi chết mới làm văn tế ruồi" như ta thường thấy qua hình thức rình rang nghi táng thậm chí ngay cả vào thời nay. Mà chữ hiếu của Chử Ðồng Tử được thể nghiệm ngay trong tương quan giữa người sống với người sống. Chính ngay trong sinh hoạt hàng ngày mà người đời đã nhận định hai cha con Chử Ðồng Tử là "từ hiếu", cha hiền, con hiếu, và tuyệt đỉnh của thể hiện đạo hiếu này chính là nơi chôn khố theo cha để cha không lõa thể thi thể. Chuyện Chử Ðồng Tử không có vấn đề vào địa ngục cứu mẹ, một vấn đề huyền bí siêu linh, thường thấy ở Trung Hoa. Bởi vì nghiệp đã tạo rồi, thì tự người gây nghiệp phải gánh nhận hậu quả, không ai có thể giải quyết được. Ngay chính Ðức Phật, bậc Giác ngộ, mà còn có "tam bất năng", trong đó "định nghiệp bất năng chuyển" là một . Chữ hiếu của Chử Ðồng Tử như thế lại có tích cách vô cùng tích cực, thực dụng và thực tế không trừu tượng, không đi vào cõi âm linh, không siêu nhiên như chuyện Mục Kiền Liên. Mà bản chất đạo Phật cũng là tích cực, thực dụng và thực tế, cho nên chuyện Chử Ðồng Tử không còn phải là một truyền thuyết nữa, mà là một sự kiện với đầy đủ dữ liệu hoàn toàn phù hợp với tinh thần Phật giáo đương thời. Bởi vậy, ngoài việc cây gậy và chiếc nón tạo nên sự linh thông làm nền tảng cho tầng lớp Phật giáo quyền năng tại Việt Nam [Lê Mạnh Thát, sđd, tr.22], chuyện Chử Ðồng Tử còn tiềm ẩn rất nhiều tư tưởng, rất nhiều triết lý, rất nhiều ý nghĩa có tính cách Phật giáo rất căn bản cần phải được giải mã, như trên đã một phần đề cập đến. Chuyện không phải chỉ chờ đến lúc Chử Ðồng Tử gặp được nhà sư Phật Quang mới xác định được Chử Ðồng Tử là người Phật tử đầu tiên và Phật Quang là nhà truyền đạo đầu tiên tại Việt Nam mà thôi. Như học giả tài danh Hồ Thích đã từng xác định rằng: "Phật giáo đã truyền vào Giao Châu rất sớm, có thể là 400 hay 500 năm trước thời Lý hoặc luận (ra đời khoảng cuối thế kỷ thứ II sdl) và các kinh luận đã được học tập và phiên dịch tại đây còn sớm hơn rất nhiều các kinh điển hiện tồn tại Trung Quốc cho ta biết". Như thế có nghĩa là, theo Hồ Thích, Phật giáo đã có mặt tại Giao Châu khoảng 200 hay 300 năm trước dương lịch, và đó là điều rất phù hợp với niên đại của Chử Ðồng Tử sống vào triều Hùng Vương ở khoảng thế kỷ II tdl. Một phù hợp không phải chỉ do suy diễn mà đã có luận cứ vững chắc như các dẫn chứng trên. Ngoài ra, các học giả Ðông phương học khác như E. Schafer, G. Sargent, Tsukamoto Zenryù và J. Keenan cũng trực tiếp hay gần xa ủng hộ xác định trên của Hồ Thích [Hồ Thích, Luận học nghiên cứu, tập I, tr.151-154; Schafer, E.H, The Vermillion Bird: T’ang Image of the South, Berkely: UC Berkeley Press, 1967, p.97, Sargent, G.E., "The Intellectual Atmosphere in Lingnan at the Time of the Introduction of Buddihsm"in Drake, F.S (editor), Symposium on Historical and Linguistics Studies on Southern China, University of Hongkong, 1967, p.161-171; Tsukamoto Zenryù, A History of Early Chinese Buddihsm : from its Introduction to the Death of Hui-yuan, tr. By Leon Hurvitz. Tokyo, Kodansha, 1985, tập 1, tr.43-45, Keenan, J., How Master Mou remmoves Our Doubts : a Reader-Response Study and Translation of the Mou-tzu Li-hou lun. State University of New york Press, 1994, p.184, note 86]. Tóm lại, sự tồn tại của Chử Ðồng Tử như là một trong Tứ Bất Tử, biểu trưng cho đạo hiếu của dân tộc Việt Nam, và như là người Phật tử đầu tiên sống khoảng thế kỷ II tdl, Phật giáo cần phải được xác quyết một lần dứt điểm là đã hiện hữu tại Việt Nam ở những thế kỷ II, III trước dương lịch [Lê Mạnh Thát, sđd, ch.I] và đã tôn trọng đạo hiếu theo quan điểm tích cực và thực tế của dân tộc Việt Nam. PHẤN TẢO Y LANG Nguồn giacngo.vn
  23. Sự tích nhẫn cưới Ngày nay, toàn thế giới đều hiểu khi một chàng trai lấy ra một chiếc nhẫn, dâng lên cho một cô gái, dù lúc dâng anh ta quỳ xuống, đứng thẳng, đứng nghiêng hay nằm thì lúc đó cũng là lúc anh ta ngỏ lời muốn lấy cô gái làm vợ. Từ trẻ con đến người già, từ cô gái làm nghề mổ gà tới chàng trai lãng mạn đều hiểu điều này. Nhưng phong tục ấy có nguồn gốc ra sao? Đó là từ cách đây một ngàn năm, con người không có xe máy, xe hơi, không có tivi màn hình phẳng lẫn tủ lạnh, điện thoại di động cũng không có nốt, kể cả loại thường lẫn loại màn hình cảm ứng. Lúc đó, bò là tài sản giá trị nhất vì bò cho sữa, cho thịt và cho da, chưa kể thỉnh thoảng cho cưỡi. Những gia đình có bò con danh giá hơn có xe hơi Mercedes hiện nay. Do đó, những chàng trai chủ bò rất được các cô gái ưa chuộng. Hầu như rất ít thiếu nữ cưỡng nổi tình yêu với anh có bò. Cứ mang bò tới nhà là thành công. Nhưng mang bằng cách nào? Đầu tiên các chàng trai dắt bò bằng dây, nhưng dây dài, vướng víu, chưa kể nhiều dây bị đứt giữa đường (từ đó dân gian có câu “nửa đường đứt gánh”). Bò chạy vụt đi mất. Nhân thể nói thêm, bò hồi đó chạy rất nhanh do không có kẹt xe. Các chàng trai bèn nghĩ ra cách dùng một vòng to bằng gỗ hoặc bằng sắt tròng vào cổ bò lôi đi. Vòng ấy rất khó bị gãy. Đến đám cưới, trao vòng, trong vòng có con bò vào tay cô dâu là an toàn tuyệt đối. Nhưng phong tục này bị một số người trí thức phản đối (hồi đó những ai hay suy nghĩ, ngủ ít hơn kẻ khác thì gọi là trí thức). Họ nói việc mang bò đến lễ cưới như thế có vẻ khoe khoang, khiến những ai chưa có bò chạnh lòng. Chưa kể bò không phải con vật làm chủ tốt bản thân, có khả năng gây mất vệ sinh bữa tiệc. Thêm một lý do nữa là số người muốn kết hôn ngày càng đông, mà số bò không tăng nhiều như vậy. Nhiều chàng trai hứa tặng bê, rồi thậm chí bê còn chưa sinh ra đã bị mang ra hứa. Vì thế, trong đám cưới, chú rể chỉ cần dâng tặng một cái vòng cổ bò, coi như một giấy chứng nhận sẽ có bò là đủ. Tất nhiên, sẽ có những anh gian manh, chưa có bò đã sắm vòng nhưng số ấy không nhiều vì nói chung ngày xưa con người trung thực, ít nhất là trong hôn nhân. Phong tục trao vòng cổ bò tồn tại rất lâu, xuất phát từ châu Mỹ, nơi có nhiều đồng cỏ rộng và có nhiều bò. Nhưng đến khi sang châu Âu, quanh năm tuyết phủ, bò không nhiều và các cô gái không thích bò bằng mèo. Vì mèo nom dễ thương, xinh đẹp, sạch sẽ lại không ầm ĩ như bò. Mèo cũng chả khi nào bị mắng là ngu như bò. Thế là các chàng trai châu Âu muốn cầu hôn bạn gái phải trao vòng cổ mèo. Vòng ấy rất tiện lợi vì bé nên các cô gái có thể xỏ vào cổ tay. Nhưng khác với chó, mèo là con vật ngày xưa ở châu Âu rất hiếm. Muốn có mèo phải có thứ gì cho nó ăn. Ai chả biết mèo ăn chuột. Từ đó suy ra, kẻ nào có chuột, kẻ đó có mèo. Vòng cổ chuột ra đời từ đó. Phần lớn mèo xơi chuột nhắt nên vòng bé xíu, để khỏi bị mất, các cô gái xỏ luôn vào ngón tay. Nhưng dần dần, các cô phát hiện ra nhiều chàng trai ăn gian, có đưa vòng nhưng vẫn không đưa chuột và đưa mèo. Họ bèn đòi cái vòng đó phải làm bằng vàng hay kim cương, để coi như một sự bảo đảm. Nhẫn cưới từ đó ra đời! Lê Hoàng