-
Số nội dung
6.007 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
103
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by wildlavender
-
Lâu nay bận ít việc riêng Wild ít vào diễn đàn nay trở lại xem qua Topic Thần Chú Wild chân thành tán dương công đức của Nha Khanh đã hoàn thành hạnh nguyện của mình vào việc phát triển Thần chú thay cho Cô, thật không có ngôn ngữ nào để có thể thay thế lòng cảm niệm tâm tin cậy của AE đạo hữu dành cho gia đình Nha Khanh khi hoàn thành Phật Sự. Mỗi thành viên đăng ký thỉnh nhận là một sự phát triễn Đạo Pháp ngày càng rộng rãi chúng ta nên nhất tâm kính niệm thành quả vi diệu này đến được với mọi người.
-
Nhân dịp sinh nhật lần thứ Lục Thập Hoa Giáp của Bác Thiên Sứ. Wild xin chúc Bác ngày này An Lành , cùng một đời An Lành.
-
CÓ MA HAY KHÔNG ? Có Ma hay không có Ma ? Ma là gì ? Ma ở đâu ? Ma có làm hại được ta hay không ? Phải trừ Ma như thế nào ?... Đó là những câu hỏi có thể nêu lên cho ta, vì trong số chúng ta đây, có thể có người chưa hề « gặp Ma » bao giờ, nên tò mò cũng muốn biết xem Ma ra thế nào, hoặc có người đã từng « thấy Ma » nên vẫn còn bị Ma ám ảnh, muốn biết xem cái thấy của mình, hay là cái con Ma đó có thật hay không. Vậy ta hãy xem quan điểm của Phật giáo về Ma như thế nào. Tôi xin trình bày bài viết ngắn này thành hai phần. Một phần nặng về định nghĩa và lý thuyết dựa theo Kinh điển, một phần « bàn rộng » và « tán rộng » những gì đã ghi trong Kinh sách. Dù sao, đây cũng là một bài viết ngắn, dưới hình thức một bài báo, không có chủ đích giải quyết hết vấn đề và thật sự ra cũng khó rứt bỏ hay đuổi bỏ con Ma ra khỏi đầu chúng ta lắm. 1. Phần thứ nhất : Định nghĩa về Ma Ma là gì ? Chữ Ma do chữ Phạn Mâra mà ra. Tiếng Tây tạng là Dud, tiếng Nhật là Hajun, tiếng Hán là Mo, nhưng người Trung hoa thường âm từ tiếng Phạn và gọi là Ma-la, vần r không có trong tiếng Trung hoa nên người Trung hoa thường gọi là Ma-la thay vì là Ma-ra. Kể dài dòng ra như thế để thấy rằng không phải chỉ có người Việt Nam ta mới « thấy » Ma. Kinh sách định nghĩa chữ Ma (Mâra) là « Quỷ sứ cám dỗ », một thứ « Quỷ tinh ranh » tượng trưng cho những xu hướng tâm thần bấn loạn và lầm lẫn, cản trở con đường tu tập của một hành giả. Trong Phổ diệu Kinh (Latitavistara), bộ Kinh kể lại cuộc đời của Đức Phật, cho biết Ma đã từng dùng mọi xảo thuật ma quái để quấy nhiễu và cản trở không cho Vị Phật tương lai là Thích Ca Mâu Ni đạt được Giác ngộ. Trong đêm trước khi Ngài thành Phật, Ma dẫn ba con ma nữ đến quyến rũ Ngài, lại đưa ma quân đến để ném đá như mưa vào Đức Phật. Ma đòi Phật phải nhường ngai lại cho hắn, vì hắn nhất định bảo rằng không có gì chứng nhận Phật đã đạt được Giác ngộ. Phật liền dùng tay phải chạm xuống mặt đất, mặt đất liền bị chấn động và rung chuyển ầm ầm, chứng minh cho sự Giác ngộ đích thực của Ngài.Ma liền biến mất như bị phù phép vậy. Như vừa kể trên đây, ta có ma nữ, ma quân…vì thế ta cũng có Ma vương. Ma vương cũng là cách dịch khác của chữ Mâra. Ma vương là Vua các loài Thiên ma, ngụ ở cảnh trời gọi là Tha-hoá Tự-tại thiên (Paranirmitavasavartin), tức là cảnh trời thứ sáu trong cõi Dục giới, tức là cảnh giới thấp nhất trong Tam giới. Ma vương có phép thần thông, chuyên dùng ma thuật để phá rối, ngăn cản sự tu tập của những vị Bồ-tát. Ma vương còn có tên là Ma vương Ba-tuần, tức là tên của Tha-hoá Tự-tại thiên vương. Vậy theo Kinh sách, có bao nhiêu thứ Ma tất cả ? Thật ra Ma nhiều lắm, nhưng tựu trung được phân loại ra làm bốn thứ Ma. Cách phân loại lại khác biệt nhau giữa Thừa Kinh điển (Sûtrayâna) và Kim cương thừa (Vajrayâna). Vì thế cộng lại có đến tám thứ Ma (Bát ma). Theo Thừa Kinh điển (Sûtrayâna) bốn loại Ma (Tứ ma) là : 1. Ma của cấu hợp (Skandhamâra) : đó là thứ ma quái làm cơ sở cho khổ đau và cái chết mà ta phải gánh chịu trong cõi luân hồi. Con ma đó gọi là « con ma của cái chết ». Kinh sách tiếng Hán gọi là Ấm ma, Uẩn ma, hay Ngũ chúng ma. 2. Ma của dục vọng (Klésamâra) : bao gồm những dục vọng, ham muốn, thèm khát, đẩy ta vào những hành vi tiêu cực, tạo ra nghiệp xấu, thu ngắn kiếp nhân sinh, đưa ta vào vòng khổ đau của cõi luân hồi. Đó là « con ma gây ra cái chết », kinh sách gốc Hán gọi là Phiền não ma. 3. Ma của thần chết (Mrtyumâra) : đó là sự hủy hoại, cứu cánh tất nhiên của sự sinh, hậu quả của bản chất cấu hợp của mọi hiện tượng, tức là hiện tượng Vô thường. Con ma này có tên là « con ma vô thường », kinh sách tiếng Hán gọi là Tử ma. 4. Ma của những con trời (Devaputramâra) : bao gồm những thứ ma làm cho ta đãng trí, phân tâm, xúi dục ta bám níu vào ảo giác của những vật thể bên ngoài, cản trở sự tu học. Đó là « con ma bấn loạn », kinh sách tiếng Hán gọi là Tha-hoá Tự-tại Thiên tử ma, gọi tắt là Thiên ma, tức thần thánh tay sai của Thiên-hóa Tự tại vương. Theo Kim cương thừa (Vajrayâna) bốn thứ Ma lại được định nghĩa như sau : 1. Ma xiềng xích (tiếng Tây tạng : thogs-bcas-kyi bdud) : con Ma này rất hung tợn và lộ liễu, gây ra phiền não, binh tật và chướng ngại bên ngoài. Đây là con Ma của sự bám níu và ghét bỏ đối với những vật thể và hiện tượng chung quanh. Kinh sách tiếng Hán gọi là Phiền não ma. 2. Ma thả lỏng (tiếng Tây tạng : thogs-med-kyi bdud) : đó là ba thứ nọc độc chính và năm thứ nọc độc phụ, tức là những dục vọng chính yếu và thứ yếu, những tư tưởng hay tư duy bấn loạn chưa được khắc phục, xâm chiếm tâm thức ta và gây ra khổ đau. Kinh sách gốc tiếng Hán gọi là Tâm ma. 3. Ma khánh hỷ (tiếng Tây tạng : dga’-brod-kyi bdud) : đó là con ma đội lốt hân hoan, vui thích, con ma của sự tự mãn, tự đại, thỏa mản với chính mình, xem mình là đặc biệt hơn cả mọi người, bám níu vào những « kết quả » và « kinh nghiệm » thiền định của mình, cho đấy là đúng và trở nên hãnh diện. Kinh gốc tiếng Hán gọi là Thiện căn ma. 4. Ma kiêu căng (tiếng Tây tạng : snyems-byed-kyi bdud) : đó là ma ngạo mạn, tự mãn, tự kiêu. Đấy là bản chất căn bản của con ma mang tên là cái « tôi », cái « ngã ». Kinh gốc tiếng Hán gọi là Tam muội ma. Có sách còn phân chia ra làm mười thứ Ma (Thập ma), như vậy ngoài tám thứ ma đã kể trên còn có : Thiện trí thức ma : tức là những kẻ thông hiểu được đạo lý, nhưng tham tiếc đạo lý ấy mà giữ nguyên cho mình, chẳng chỉ dạy cho kẻ khác. Bồ-đề Pháp-trí ma : là những kẻ tuy đã phát lộ được trí tuệ, nhưng vẫn còn chấp trước làm che lấp mất chính đạo. Đã nói đến danh từ và định nghĩa thì cũng mạn phép người đọc kể ra cho hết : Ma cảnh : khung cảnh do ma quái tạo ra để phỉnh gạt và ngăn trở người tu hành. Ma chướng : những chướng ngại, ngăn chận việc tu hành và sự thăng tiến của trí tuệ. Ma duyên : còn gọi là ác duyên, tức là những xui khiến đưa đến nghịch cảnh, bất lợi hay độc hại. Ma đàn : là sự bố thí của ma, không phải là của người. Đó là sự bố thí của những kẻ mang lòng tà, lòng tham, cầu danh, cầu lợi mà bố thí, sợ oai lực của ma quỷ mà bố thí, muốn tránh tại nạn mà bố thí. Chữ này nghịch nghĩa với chữ Phật đàn, tức là bố thí mà không biết là đã bố thí, không biết bố thí cái gì và bố thí cho ai, bố thí chỉ vì lòng từ bi vô biên mà thôi. Bố thí như thế còn gọi là Bố thí Ba-la-mật. Ma đạo : đường đi của ma, chốn lui tới của ma, còn gọi là ma giới, tức cảnh giới của ma. Ma lực : sức mạnh tiêu cực, kích động những hành vị xấu hay hung ác. Ma nghiệp : nghiệp ác. Ma ngoại : là những kẻ phỉ báng, chê bai Đạo pháp. Ma Phạm : (Mâra hay Brâma) tức là Ma vương ở cõi Phạm vương, gọi tắt là Ma Phạm. ChữMa vương đã được giải thích trên đây, đó là Thiên-hoá Tự tại vương, còn Ma Phạm hay Phạm vươnghay Phạm thiên vương là Chúa tể của cõi Ta-bà này, quyền lực của Ma Phạm vượt lên đến chỗ cao nhất trong cõi Sắc giới, cai quản và điều hành cả thế giới này. Kinh điển còn gọi « Ngài » là Ngọc Hoàng Thượng đế. Ma thiền : phép thiền định tà ma, sai lầm, liên hệ với ma quỷ, đi ngược với chánh đạo. Ma thuật : nói chung là những hành vi mê tín, dị đoan, phản khoa học. Ma sự : chữ này rắc rối lắm, đại cương là những sự việc, những hành vi sai lầm, ngăn cản sự tu học và con đường chánh Pháp. Kẻ thực thi ma sự, là những kẻ chạy theo lục trần : yêu sắc đẹp, thích tiếng êm tai, ưa thích mùi thơm, miếng ngon, thích đụng chạm và sờ mó những gì ưa thích, ước mong những cảnh huống thích nghi. Ma sự cũng là việc làm của những người tu hành phá giới, chạy theo danh lợi, sắc dục.Ma sự cũng có thể dùng để chỉ người ngồi thiền mà ngủ gục, bám vào những cảnh hiện ra khi thiền, cảm thấy bấn loạn, thấy cảnh dữ mà bỏ thiền. Người xuất gia mà thực thi ma sự tức là còn ham thích luận bàn thế sự, chiến tranh, tình yêu nam nữ, xu nịnh những hàng cư sĩ hay người lui tới chùa có của cải, cúng dường nhiều, hoặc vướng vào phép bói toán, đoán số mệnh, ếm ma, trừ quỷ… 2. Phần thứ hai : Bàn về Ma Trên đây là những gì Kinh sách nói về Ma, định nghĩa và phân loại về Ma. Dựa trên đó ta thử phân tích, tổng kết, tìm hiểu thêm về Ma, xem Ma ra sao, Ma thật sự là cái gì ? Tiếp theo, ta rút tỉa từ những phân tích ấy, từ những hiểu biết ấy để ứng dụng vào cách cư xử và thái độ của ta đối với Ma. Ma hay Mâra là một biểu tượng trong Phật giáo và cả Ấn độ giáo, dùng để chỉ một vị trời hay vị một thần đứng vào hàng đầu, cao siêu và mạnh hơn hết, giống như định nghĩa của chữ Ma Phạm vừa nói trên đây. Tên của Ma có nghĩa là thần chết. Ma là chúa tể của mọi dục vọng, thèm khát, ham muốn, mọi thứ khoái lạc do thân xác. Đó là Chủ nhân ông của thế giới vật chất và hiện tượng. Trọng trách và bổn phận của người Chủ nhân ông này là phải điều khiển và canh chừng sự vận hành của thế giới đang diễn biến chung quanh ta. Ma không những tượng trưng cho dục vọng hiển hiện như vừa kể mà còn tượng trương cho những thèm khát tiềm ẩn bên trong ta, không bộc lộ ra ngoài, chúng thuộc về bản năng, phát sinh từ những tâm thức có thể rất tinh khiết, từ những nghiệp sâu kín và những cấu hợp của thân xác. Con Ma này nằm trong thịt da của ta, trong tâm thức ta, trong sự vận hành của cơ thể ta. Ma còn mang một cái tên nữa mà ít Kinh sách nói đến, đó là con ma Ái dục (Kâma, xin đừng lầm lộn với karma), đó là sự yêu mến, lòng yêu thương, nôm na là tình yêu. Con ma Ái dục ấy là một thứ bản năng, tinh anh của sự sống, luôn luôn « canh chừng » và « chăm lo » cho ta. Con Ma đó hiển hiện một cách tuyệt vời, thật đẹp, nó làm phát sinh ra mọi hình tướng. Con ma đó hiến dâng cho những hình tướng biến động do chính nó tạo ra, mọi thứ lạc thú và mọi cảnh giới tuyệt đẹp thuộc vào thế giới luân hồi, tạo ra mọi thứ hạnh phúc của thế tục. Vấn đề mấu chốt và gay go là Ma không bao giờ chú ý đến hậu quả của những thứ mà nó đã tạo ra. Nó rất hào phóng, cho không tiếc tay, tham bao nhiêu nó cũng cho, « yêu » hay « bám níu » bao nhiêu nó cũng sẵn sàng tiếp tay. Nhưng hậu quả của những ảo giác ấy do nó đem tặng cho ta chỉ là khổ đau mà thôi. Điều này Ma không cần biết. Ma cho ta lạc thú, nhưng đồng thời cũng tập cho ta thèm khát lạc thú. Điều này có nghĩa là Ngũ uẩn quen dần với với những lạc thú ấy, lệ thuộc vào những lạc thú ấy và bị kích động bởi những lạc thú ấy. Ma vừa là kẻ sáng tạo và đồng thời cũng là kẻ phá hoại là như thế đó. Khi nhìn Ma dưới khía cạnh này, ta sẽ hiểu ngay là ma ở đâu. Ma ngự trị chính trong đầu của ta.Ma nằm sẵn trong tâm thức ta, trong da thịt ta, trong sự vận hành của thân xác và tâm trí ta. Nói cách khác Ma không nằm bên ngoài ta, không có ta thì cũng không có Ma. Ma quân hay những đạo binh ma chính là sự thèm khát nhục dục, chán nản, buồn bực, đói khát, bám níu, tham lam, chiếm giữ, lười biếng, đờ đẫn, sợ hãi, nghi ngờ, hận thù, tiện nghi, kiêu căng, tự kiêu, yêu thương một cách ích kỷ, tự mãn với cái « tôi » của chính mình v.v. và v.v. Tất cả những thứ này được Kinh sách phân ra làm tám thứ hay mười thứ ma : Uẩn ma, Phiền não ma, Tử ma, Thiên ma, Tâm ma, Thiện căn ma, Tam muội ma…như đã đề cập trong phần thứ nhất của bài viết. Để tránh cách nói tổng quát, siêu hình của giới trí thức hay học giả, ta thử đưa ra một vài ví dụ thực tiễn hơn của những con người bình dị như chúng ta đây. Chẳng hạn khi ta bước vào một căn phòng tối, ta thấy trong một góc phòng có một con Ma, tóc xõa, mặt xanh mét, đang nhe răng trợn mắt,… và cười với ta. Nếu ta bình thản, từ tốn, không khiếp sợ, tiến thẳng đến con Ma, ta sẽ không thấy nó khi ta đến gần. Vì đấy chỉ là những ảo giác do ta tạo ra trong đầu hay do bóng tối mờ ảo nuôi thêm trí tưởng tượng của ta. Nếu như ta vẫn « không dám » tiến đến gần, ta cứ bật đèn lên, thì con Ma cũng biến mất. Nhưng nếu ngược lại, ta hét lên một tiếng, « vắt giò lên cổ » mà chạy, thì nhất định con Ma sẽ đuổi theo, và nhất định ta sẽ không thể nào chạy nhanh hơn nó được, vì chính ta cõng nó mà chạy. Nó ở trong đầu của ta, trong thân xác đang nổi da gà của ta. Tệ hơn nữa, có thể ta lại đem chuyện « thấy ma » ấy mà vừa thở hổn hển, vừa kể như thật với người khác, tức là ta giới thiệu con Ma mà ta thấy cho một người thứ hai. Người này có thể vừa thích thú vừa sợ sệt mà đón rước nó, đem cất giữ nó vào trong đầu. Người này lại kể cho người thứ ba, người thứ ba lại kể cho người thứ tư. Mỗi lần như vậy thì con ma mà ta thấy lại trở nên hung tợn hơn và khiếp đảm hơn một chút, mắt nó trợn to hơn, răng nó dài hơn, và nó cười rùng rợn hơn. Biết đâu sau một vòng, người nghe sau cùng lại vô tình kể lại cho ta nghe về con ma này, có thể ta còn sợ nó hơn cả con ma ta từng thấy « thật » trước đây. Phật có đưa ra một ví dụ dễ hiểu. Khi bước ngang ngưỡng cửa lúc nhá nhem tối, ta thấy một con rắn. Ta hoảng hốt và giật lùi lại. Nhưng nhìn kỹ thì đấy chỉ là một cuộn dây thừng. Con rắn ở trong đầu ta. Con Ma cũng ở trong đầu ta là như vậy. Khi ta ngủ mê, ta thường chiêm bao « thấy ma ». Ta hét lên hay la ú ớ…Giật mình thức dậy, ta không thấy ma. Khi ngủ, ta nhắm mắt, nằm trên giường và trong gian phòng tối om, làm gì ta có thế dùng mắt mà thấy được. Cái thấy ấy là do tâm thức của ta thấy, hình ảnh con ma hiện lên từ tiềm thức ta, từ nơia-lại-da-thức (âlayavijnâna) của ta, sinh khởi từ những xúc cảm bấn loạn và tiềm ẩn trong ta, từ những nghiệp sâu kín của ta. Tóm lại, và cũng xin lập lại, con Ma nằm trong tâm thức ta, trong tâm trí ta và trong tâm linh ta. Tại sao ? Vì Ma được sinh ra từ những tư tưởng của ta. Nó chính là Chủ nhân ông của mọi tư tưởng. Chính nó, xuyên qua quá trình vận hành của ngũ uẩn (skanha), đã làm phát sinh ra tư tưởng của chính ta. Những tư tưởng đó gồm có dục vọng và thèm khát, lôi theo những hành vi nhắm vào mục đích làm thoả mãn những thèm khát và dục vọng đó. Hậu quả đưa đến là khổ đau. Trong đầu ta, Ma luôn luôn nhắc nhở ta phải bảo vệ cái tôi, cái ngã của ta, và tùy theo từng người, nó dùng cách quát nạt, ra lệnh hay vỗ về bằng những tiếng êm ái hay hét lên the thé…, mục đích để in đậm trong tâm trí ta sự hiện diện của cái ngã. Ma là cái ngã đang thống trị ta, làm cho ta tham lam, ích kỷ, xúi dục ta, nịnh hót ta, biến ta thành đốn mạt, nói dối và quỷ quyệt. Ma không phải chỉ biết doạ nạt suông mà thôi. Những hành vi của Ma làm phát sinh ra Thế giới luân hồi (Samsara). Thế giới luân hồi nằm trong sự kiềm tỏa của Ma, và Ma lại nằm trong tâm thức của ta. Vì thế có thể nói Ma chính là một hình thức của Vô minh hay một cách nói để so sánh với Vô minh. Chính Ma đã tung hoành trong tâm thức ta, tạo ra u mê, lầm lẫn và khổ đau. ChínhMa kích động để ta tạo nghiệp. Chu kỳ của sự sống là cách vận hành của bánh xe luân hồi do Ma tạo ra, và đó cũng là sự vận chuyển của cái ngã. « Tỉnh thức » hay « Giác ngộ » tức là nhận thức được quá trình đó, sự vận chuyển đó là không thật, chúng chỉ là ảo giác, chỉ là Ma, chỉ là Vô minh mà thôi. Tóm lại và để kết luận, ta không thể đuổi con Ma ra khỏi phòng, ta cũng không thể chạy trốn nó được, mà ta phải đuổi con Ma ra khỏi đầu ta. Ta không thể dùng bùa chú, phù phép hay nghi lễ để đuổiMa. Ta phải đuổi Ma bằng cách tu tập, bằng cách khắc phục Vô minh, đem đến cho ta một tâm linh minh mẫn, an bình, trong sáng và rạng rỡ, không còn bóng dáng một con Ma nào cả. Hoang Phong ======================================= Ma ma Phật Phật chính do ta Ma Phật khác nhau chổ chánh tà Luận giãi càng nhiều Ma càng dử Để yên tự nó bốc hơi ra !
-
Có 2 ngày bạn khai trương mồng 1/8 giờ Tỵ hoặc 8 tháng 8 âl, giờ Ngọ chính xác là 11h 45 đến 12 h 45.
-
ĐỪNG LÃNG PHÍ TÁI SINH LÀM NGƯỜI TOÀN HẢO CỦA QUÝ VỊ! Lama Zopa Rinpoche đã gởi cho một tu viện bức thư này cùng với một ảnh 3-D hình một con rùa: “Tôi là con rùa mù nổi tiếng. Trong vô lượng kiếp, tôi đã nỗ lực để có cơ hội đưa cổ của mình vào chiếc vòng vàng nổi tiếng nhưng điều đó vẫn không xảy ra, dù chỉ một lần. Nhưng quý vị đã nhận được thân người toàn hảo này, đã gặp được Phật Pháp – điều đó thực sự như một giấc mơ, thật khó mà tin nổi. Chớ lãng phí thân người đó ngay cả một giây, xin hãy làm việc cho sự giác ngộ và thực hành Bồ đề tâm. Con rùa nói: “Tôi không biết chiếc vòng vàng ở đâu? Tôi không thể nhìn thấy, nhưng tôi đã nghe nói rằng tinh túy của toàn bộ Phật giáo là sự phát triển Bồ đề tâm, đưa tất cả chúng sinh đến sự Toàn Giác. Câu thần chú trên chiếc mai rùa của tôi, chỉ nhìn thấy nó là quý vị có thể đạt được sự toàn giác. Tôi mang nó trên lưng khắp các đại dương, khai sáng cho những người khác, ít nhất là những con rùa khác, cũng như toàn thể chúng sinh kể cả kẻ thù của tôi, những kẻ ăn thịt tôi, làm hại tôi.Xin tạm biệt, sớm gặp lại quý vị ở cõi người!” Với rất nhiều lòng yêu thương và những lời cầu nguyện Lama Zopa Rinpoche Chú thích: Thần chú bên cạnh con rùa – mỗi lần nhìn thấy thần chú này sẽ tịnh hóa ác nghiệp quý vị đã tạo ra trong 100 triệu kiếp.Thần chú trên mai rùa – nhìn thần chú này sẽ khiến cho quý vị đạt được giác ngộ.” GHI CHÚ THÊM CỦA NGƯỜI DỊCH: Về các Thần chú trong hình con rùa, một Tăng sinh Việt Nam đang học tiếng Tây Tạng tại Ấn Độ đã giúp đọc những hàng chữ trên tấm hình và giải thích như sau: Thần chú bên góc trái con rùa là OM HANU PASHA BHARA HEYE SVAHA - (Om Ha-nu Pa-sha Bha-ra Hê-Yê Soa-ha) là thần chú giải thoát qua sự nhìn thấy mà ở VN hiện nay ấn tống rất nhiều, nhất là Ngài Garchen Rinpoche vừa rồi vào VN có phát cho mọi người. Thường thần chú này hay đi cùng với câu chú: Om Padmo Ushnisha Vimale Hum Phat. Trên mai con rùa có hai Thần chú, đó là Lục Tự Đại Minh (OM MANI PADME HUNG HRI), đi kèm với câu chú phía dưới là Lục Đạo Kim Cang Chú, 6 âm trong 6 cõi (A AH SHA SA MA HA). Nguyên tác : “Advice from Lama Zopa Rinpoche”by LamaZopa Rinpoche http://74.55.149.51/...opa/advice.html Thanh Liên dịch sang Việt ngữ
-
Chiếc đồng hồ Trống đồng Đông Sơn 43.000 USD ANTĐ - Hãng đồng hồ cao cấp Speake Marin của Thụy Sỹ vừa trình làng mẫu đồng hồ Đông Sơn dành riêng cho thị trường Việt Nam. Đẳng cấp hàng đầu Mặt số của chiếc đồng hồ này được thiết kế dựa trên cảm hứng từ những hoa văn trên mặt trống đồng Đông Sơn, một trong những linh vật của người Việt cổ. Đây là lần đầu tiên hình ảnh văn hóa Việt Nam hiện diện trên một sản phẩm cao cấp hàng đầu thế giới. Trống Đông Sơn là sản phẩm cơ khí phức tạp nhất thời cổ đại của ngươì Việt. Còn đồng hồ Đông Sơn là bộ máy cơ khí phức tạp nhất trong thơì kỳ hiện đại. Dù cách nhau hàng nghìn năm, chúng cùng có điểm chung là đều dành cho những người đứng đầu: một bộ tộc cổ đại hoặc một quốc gia hiện đại. Chiếc đồng hồ Đông Sơn do Speake Marine tham gia thiết kế và hoàn thiện. Không dễ để thuyết phục những thương hiệu cao cấp - vốn luôn cầu kỳ, khó tính, và kén khách - làm một dòng sản phẩm riêng cho Việt Nam, việc Speake Marin ra mắt mẫu Đông Sơn cho thấy đẳng cấp thật sự hiếm có của mẫu đồng hồ này. Sáng tạo, kỳ công Đồng hồ Đông Sơn hội tụ những điều làm nên danh tiếng của Speake Marin: ý tưởng sáng tạo, gu thiết kế, độ hoàn thiện sản phẩm. Những điều đó kết hợp với sự hoàn hảo trong cấu trúc và nghệ thuật tạo hình của trống đồng Đông Sơn đã làm nên những chiếc đồng hồ tuyệt tác. Đồng hồ Đông Sơn được chế tác vô cùng kỳ công. Đầu tiên, hàng chục chi tiết, hoa văn trên mẫu trống đồng Đông Sơn được chụp, bóc tách, và vẽ lại. Sau đó, những mẫu họa tiết đẹp nhất được chọn để kết hợp với các phong cách khác nhau (Classic, Art Décor, Sporty, England..) cho mặt số. Thiết kế cuối cùng là sự kết hợp của hai phương án. Thiết kế này được đưa lên bản vẽ kỹ thuật, tạo hình 3D để xem hiệu ứng, sau đó đưa vào làm prototype (nguyên mẫu) trên vật liệu mềm. Tiếp đó, nó lại được làm prototype lần nữa trên kim loại. Mỗi công đoạn trên bao gồm vô số những chỉnh sửa. Cho đến khi tất cả đều hoàn hảo, Speake Marin mới chế tác mặt số đồng hồ trên vàng nguyên khối bằng máy cắt laze. Khi chế tác xong, các chi tiết lại được tiếp tục hoàn thiện bằng tay dưới kính hiển vi có độ phóng đại 40 lần. Vì qua nhiều công đoạn cầu kỳ, nên số lượng đồng hồ Đông Sơn chỉ giới hạn trong 18 chiếc, tượng trưng cho huyền thoại về 18 đời vua Hùng đã dựng lên đất Việt. Để hoàn thành bộ sưu tập này, Speake-Marin mất khoảng 9 tháng. Nếu kể thêm thời gian thiết kế, lựa chọn vật liệu như trên thì tổng thời gian dành cho bộ sưu tập này là gần 2 năm.Trên mặt số đồng hồ Đông Sơn, những hoạ tiết quen thuộc của trống đồng nổi bật bởi cảm giác về ánh sáng như chiếu từ dươí lên. Sự hiện diện của ánh sáng này là nhờ kỹ thuật điêu khắc nổi kết hợp với công nghệ mạ trắng vô cùng tinh tế. Hình ngôi sao 12 cánh cũng nằm giữa tâm như trên trống đồng, nhưng nó chiếm tỷ lệ diện tích lớn hơn. 12 con chim lạc trên trống Đông Sơn cũng được lấy lại, cũng được sắp ngược chiều kim đồng hồ, nhưng kiêm thêm một nhiệm vụ mới: làm cọc chỉ giờ. Các đường tròn đồng tâm, các đường viền trang trí chấm bi của trống Đông Sơn cũng được tái hiện, nhưng với phong cách hiện đại hơn. Trên một hình tròn có đường kính chỉ 38mm, hàng loạt các hệ thống biểu tượng cổ được phục hiện và làm mới một cách đầy bất ngờ. Có rất nhiều thứ lạ mà quen. Có rất nhiều điều quen mà lạ giữa hai món đồ quý có niên đại cách nhau hàng nghìn năm tuổi này. Nằm trong bộ sưu tập độc đáo Đồng hồ Đông Sơn là một phần của bộ sưu tập Vietnam Collection, bao gồm các sản phẩm cao cấp của thế giới chế tác riêng cho thị trường Việt Nam. Trong bộ sưu tập này còn có bút viết cao cấp Grayson Tighe mang hình bản đồ Viêt Nam, hình rồng biểu tượng cho Lạc Long Quân, điện thoại xa xỉ Mobiado mang hình bản đồ Việt Nam, hộp nghe nhạc Reuge chơi bản quốc thiều Việt Nam. Trước đó, Speake Marin cũng đã góp vào bộ sưu tập này những chiếc đồng hồ có khắc hình bản đồ Việt Nam, với đầy đủ quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, trên thân vỏ.Đồng hồ Đông Sơn sử dụng bộ máy SM2 trứ danh, có khả năng dự trữ năng lượng từ 80-100 giờ. Giá của nó khi về Việt Nam là $43.000. Phân phối độc quyền bởi Miluxe.Speake Marine là người đã chế tác những chiếc đồng hồ đặc biệt dành cho các chính khách, nguyên thủ trên thế giới theo đơn đặt hàng riêng. Trong danh sách khách hàng gần đây của Speake Marin có cựu tổng thống Nga Medvedev hay cựu vương Malaysia. Theo VietNamNet
-
CHO CHỪA CÁI TẬT KHOE KHOANG Trên đời này tớ ghét nhất mấy thằng hay khoe khoang. Gặp thằng nào khoe khoang là tớ đập ngay.. Đấy, mới sáng nay gặp một thằng nổ, tớ tháo đôi giày Italy mới mua 2000 đô đập thẳng vào mặt nó. Chưa hết tớ còn tháo ngay cái thắt lưng D&G 900 vả tới tấp vào mặt nó...Và cuối cùng là nhét chiếc cell phone mạ vàng, có kim tuyến nhấp nhánh vào mồm nó cho chừa cái tội khoe khoang !
-
Chúc mừng sinh nhật Thiên Bồng lần thứ...(hok biết) vạn sự như ý nhe!
-
Câu chuyện về chữ NHẪN. Có một nhà sư chọn tu pháp Nhẫn nhục Ba la mật, sau nhiều năm tháng nỗ lực tu tập thì sư cũng thành tựu được rất nhiều công hạnh, trụ vững như kim cương khi bình an trước mọi nghịch cảnh, bị người khách ganh ghét, lăng nhục, mưu hại sư vẫn luôn nở nụ cười trên môi thản nhiên như không. Rất nhiều người tán thán sư và thường xuyên đến chỗ sư để đàm đào và thực tập hạnh tu này, sư luôn vui vẻ tiếp đón và chia sẻ những kinh nghiệm thực tập được cho họ. ...Một hôm có một thanh niên đến tham quan chùa, anh ngưỡng mộ hạnh tu của sư nhưng vì mới tìm hiểu đạo nên không biết chuyện gì để tham vấn, nhìn quanh thấy trên tường treo tấm bảng gỗ có một chữ sư viết rất bay bướm, anh liền hỏi: Thưa Thầy, đây là chữ gì ạ? Sư trả lời đầy vẻ tự hào: - Chữ Nhẫn viết theo lối thư pháp, ta phải tập viết hàng trăm lần mới được như ý đấy con à. Anh gật gù vẻ tán thưởng, sau khi đi lòng vòng ngó nghiêng đây đó anh đứng trước tấm bảng gỗ gãi đầu gãi tai: Thưa Thầy chữ gì đây ạ? Nhà sư tươi cười trả lời: - Ta tu hạnh nhẫn nhục nên viết chữ Nhẫn đó mà . Một chút sau, anh lại ngắm nghía tấm bảng và hỏi: Thưa Thầy, thầy viết chữ gì đây ạ ? - Chữ NHẪN! Trước khi ra về anh lại tần ngần trước tấm bảng: Thưa Thầy, chữ gì đây ạ? Nhà sư không chịu nổi nữa , nộ khí xung thiên: - Chữ nhẫn! nhẫn ! nhẫn! Đồ ngu , ngu gia truyền ! Có một chữ mà nãy giờ hỏi hoài, hỏi hoài! Cút ngay! Lời bàn : Chữ Nhẫn được ghép từ hai chữ: Đao ở trên và Tâm ở dưới. Tâm( tức là trái tim) mà không chịu nằm yên thì Đao ( tức con dao) sẽ phập xuống tức thì. Vậy đấy, tự mình mà nhẫn nhịn được thì đao kề cổ vẫn bình yên vô sự, bằng không thì tai họa sẽ giáng xuống đầu mình trước tiên Cách viết chữ nhẫn: Chữ ĐAO (con dao) ở trên và chữ TÂM (con tim) ở dưới. Lưỡi dao ấy ở ngay trên tâm, và nếu như gặp chuyện mà không biết nhẫn nhịn thì tránh sao khỏi đau đớn, có nhẫn nhịn mới chuyển nguy thành yên, bại thành thắng, dữ thành lành…
-
Đức Phật Dược Sư và Nghiệp chữa bệnh Trong truyền thống Phật giáo, vị thầy chữa bệnh nguyên thủy và đầu tiên là đức Phật. Thường được gọi là Đức Phật Dược Sư, chính đức Phật Dược Sư đã tiết lộ các bài pháp thiêng liêng được gói ghém trong những bài kinh được gọi là Tứ Mật Y Kinh (Four Medical Tantras). Một nhà cố vấn về thời trang thẩm mỹ bị bệnh ung thư.Đây là cách mà bà ta sử dụng để làm giảm nỗi đau :Bà ta gửi một tin nhắn đến người bạn đang là học viên ở Viện Vajrapani ở California, để hỏi về cách thực tập chữa bệnh. Bà được người bạn chỉ dẫn nên mua lại các sinh vật sắp sửa bị giết và phóng sanh chúng ở một nơi an toàn, giúp cho chúng có thể sống lâu hơn.Người phụ nữ dễ thương nầy đã cứu rất nhiều súc vật sắp sửa bị giết. Bà đã phóng sanh hai hoặc ba ngàn con vật, đa số là gà, cá, và giun trùn. Bà đem gà đến một nông trại gia súc, và thả cá xuống sông. Bà mua hai ngàn con trùn vì chúng rẻ và dễ tìm, và bà thả trùn trong khu vườn của bà. Phóng sanh trùn là một ý rất hay vì trùn khi được thả ra sẽ lẹ làng chui xuống đất. Chúng sống trong khu vườn nhà thì không bị sát hại bởi các sinh vật khác và như vậy chúng sẽ sống lâu hơn. Các con vật khác được phóng sanh trong rừng, hồ, hoặc biển không chắc sẽ sống lâu hơn vì chúng luôn có những kẻ thù trong thiên nhiên.Nghe nói rằng sau khi đã thực tập phóng sanh, bà ấy vào nhà thương để chẩn đoán lại, và các bác sĩ đã không tìm thấy dấu vết nào của căn bệnh ung thư .Thật hay giả, chuyện nầy cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên đối với những ai tin tưởng thuyết nghiệp quả. Đây là những lời của ông Deepak Chopra :« Không có món nợ nào trong vũ trụ mà không phải trả. Vũ trụ có một hệ thống tính toán sổ sách rất hoàn hảo, và tất cả mọi thứ là sự trao đổi tới lui. »Như vậy, nhờ giúp đỡ sinh mạng các con vật yếu đuối, người phụ nữ đã xác định niềm tin của bà trong tính xác thật của luật nhân quả, gọi là « nghiệp vừa là hành động vưà là kết quả của hành động đó. » Hành động của bà không phải là ảo thuật hay phép lạ mà là gieo trồng những hạt giống thích hợp để chúng đơm hoa kết trái thành sức khỏe và niềm hạnh phúc. Thật vậy, nếu chúng ta muốn tạo dựng hạnh phúc trong cuộc sống, chúng ta phải học gieo trồng các hạt giống hạnh phúc cho người khác. Cũng như với các thực tập của người Phật tử thông thường, kết quả mà một người đang nhận lãnh là nghiệp của quá khứ. Tất cả mọi thứ đang xảy ra vào lúc nầy là kết quả của những hành động mà ta đã làm trước đó. Đây là một minh họa cho thành ngữ « gieo nhân nào gặt quả nấy » . Nếu chúng ta có lòng từ bi và tử tế, chúng ta sẽ luôn luôn không có ý gây tổn hại đến người khác, và việc nầy chính nó đã là một phương pháp chữa bệnh. Theo niềm tin Phật giáo, một người có từ tâm là vị thầy chữa bệnh thần kỳ nhất, không những chỉ chữa lành bệnh hay giải quyết được các nan đề cho chính họ, mà còn là vị thầy chữa bệnh cho những người khác. Đa số chúng ta đều xác nhận rằng trong nhà thương, nơi căn bệnh đang hoành hành và bệnh nhân đang chịu đựng nỗi đau, với nụ cười thân thiện và lời khích lệ của vị y sĩ, bệnh nhân sẽ đỡ đau và mau khỏe hơn. Thật ra chính là do tình thương mà bệnh được chữa lành. Một khi tình thương được lan tỏa ra từ nơi sâu thẳm của một người, chính tình thương yêu đã tạo nên sức khỏe tốt. Trong truyền thống Phật giáo, vị thầy chữa bệnh nguyên thủy và đầu tiên là đức Phật. Thường được gọi là Đức Phật Dược Sư, chính đức Phật Dược Sư đã tiết lộ các bài pháp thiêng liêng được gói ghém trong những bài kinh được gọi là Tứ Mật Y Kinh (Four Medical Tantras). Tất cả y thuật của Phật giáo đều bắt nguồn từ bộ kinh thiêng liêng nầy. Như đã giải thích trong bài đầu tiên của các bài kinh nầy, đức Phật Dược Sư một lần đã ngồi thiền định, và xung quanh các vị đệ tử gồm có các vị y sĩ, các vị thông thái, thiên vương và các vị Bố Tát, tất cả đều ước muốn học hỏi về phương pháp chữa bệnh. Tất cả đều lặng người bởi hào quang sáng rỡ trang nghiêm của đức Phật, mà không dám mở lời. Biết được nguyện vọng của họ, đức Phật Dược Sư đã phát ra hai ánh hào quang, ánh hào quang thứ nhất là lời thỉnh cầu học pháp, và ánh hào quang thứ hai giảng giải về pháp nầy. Nhờ vậy, bài kinh nầy được nói ra, và đức Phật Dược Sư giải thích những chứng bệnh khác nhau về thân cũng như tâm, giảng về nguyên nhân của chúng, sự chẩn đoán bệnh tình, và cách chữa trị.Mặt khác, đức Phật hiểu rõ nguyện vọng của các đệ tử mà không cần họ phải nói ra, việc nầy cho thấy lòng từ bi vô hạn của đức Phật đối với các đệ tử. Thật vậy, các thầy chữa bệnh như đức Phật được gọi là những vị đại y sĩ không những chỉ vì khả năng chữa lành bệnh – mà còn là vì lòng từ bi và trí tuệ để chẩn đoán và chữa trị tận gốc rễ của căn bệnh, dù là thân bệnh hay tâm bệnh.Trong nghệ thuật tranh ảnh, hình đức Phật Dược Sư được vẽ với màu vàng hoàng kim, dù các đặc điểm khác vẫn là màu xanh dương.Trong bất cứ hình ảnh nào, bàn tay trái của đức Phật Dược Sư đều để trên đùi trong tư thế bắt ấn của thiền định, với một cái bát bằng sắt. Tay phải ngửa lên, như đang ban phát, một cử chỉ thể hiện sự rộng lượng, một nhánh myrobalan (một loại thảo dược trong y học Tây Tạng). Đây là một loại trái cây có thể chữa bệnh rất phổ biến trong y học Tây Tạng và ở đây là biểu tượng của sự phục hồi mạnh mẽ của thế giới thực vật, nhắc nhở chúng ta là trái đất cung cấp miễn phí cho chúng ta, và không đòi hỏi gì hơn là gìn giữ sự mầu mỡ của nó với sự chăm sóc nhẹ nhàng, nâng niu.Tuy nhiên, y học Phật giáo chỉ áp dụng thuốc men một cách có giới hạn. Việc sử dụng thuốc chỉ được áp dụng vừa phải để chữa các triệu chứng ngoại tại của căn bệnh. Việc chữa trị căn bệnh cho con người tận gốc rễ cần phải nương vào sự chứng ngộ tâm linh, mỗi người chúng ta đều có thể tự chữa trị bằng cách nầy. Đức Phật Dược sư thường được vẽ với đủ loại dược thảo thơm tho bao quanh, trong y dược Tây Tạng, với vô số thiên vương, và Bố Tát. Hình vẽ như thế nầy được gọi là « Thiên đàng của đức Dược Sư » . Thiên đàng nầy tượng trưng cho một vũ trụ lý tưởng, nơi tất cả các thuốc giải cho mỗi chứng bệnh đều hiện hữu. Đức Phật Dược Sư cũng đã nói như sau, « Bao nhiêu chúng sinh hiện hữu trong hệ thống thế giới, đều có một con đường giải thoát. »Theo lời Romio Shrestha « « Đức Phật Dược Sư là nhà bào chế thuốc tâm linh. Để khám phá ra sức mạnh chữa bệnh tiềm tàng ngay trong con người chúng ta, là lối vào thiên đàng của « Bậc thầy về thuốc giải. » . Cũng có nghĩa là thiên đàng nầy nằm ngay trong lòng mỗi chúng ta, chỉ cần tâm thức sáng suốt để nhận diện và sử dụng nó. Romio Shrestha còn nói thêm, « Thân thể chúng ta có khả năng tự chữa bất cứ căn bệnh nào. Mỗi một cây, mỗi một dược thảo, mỗi thuốc giải đều có vật bổ sung của nó nằm trong cốt lõi tinh tế của thân thể con người. »Chúng ta không những có khả năng chữa trị cho chính bản thân, mà còn có thể chữa bệnh cho những người xung quanh chúng ta như câu chuyện sau đây :Ngày xưa đó, có một tăng sĩ sống trong một làng nhỏ ở Tây Tạng. Ông ta rất là tầm thường, và hằng ngày chăm lo nhiệm vụ tu sĩ của mình. Năm đó làng xảy ra một cơn dịch đậu mùa, giết chết vô số người trong vùng, vị tăng sĩ cũng bị đậu mùa và chết đi. Đó là vào giữa mùa đông, mặt đất bị đóng băng và củi thì khan hiếm, vì vậy xác của vị ấy được khiêng thả xuống một cái hồ đang đóng băng. Một thời gian sau đó, cơn dịch đậu mùa chấm dứt. Vào mùa xuân, mặt băng tan đi, và người ta nhận thấy một cầu vòng phía trên mặt hồ nơi họ thả xuống xác của vị tu sĩ.Người ta liền đến nơi đó và thấy xác của vị tu sĩ đang nổi lên, hoàn toàn nguyên vẹn. Xác của ông được đưa về tu viện và được làm lễ hỏa táng theo nghi thức tăng sĩ. Khi xác thân của ông biến mất trong ngọn lửa, nơi dàn hỏa xuất hiện nhiều cầu vồng bay thẳng lên bầu trời, sau đó người ta tìm được các xá lợi trong đống tro tàn. Lúc ấy, mọi người đồng công nhận vị tăng sĩ là một người xuất chúng trong cái vỏ ngoài rất « tầm thường », và người ta khen tặng ông đã nhận lãnh căn bệnh hiểm nguy để thanh tịnh hóa các nghiệp xấu tạo nên cơn dịch. Trong Phật giáo Tây Tạng, bệnh hoạn có thể là một biểu hiện của sự thành công về mặt tâm linh, và sự hy sinh chính mình để cứu những người khác.Một người mẹ có thể hiểu được điều nầy, bà mẹ có thể cho đi sự sống của mình để nuôi nấng các con. Thật như vậy có thể chứng minh sự ép xác, khổ hạnh là đúng, xem bệnh hoạn như một cây chổi quét sạch hết nghiệp xấu, và như vậy chứng tỏ con đường tâm linh cao nhất để thanh tịnh hóa bản thân là sự chịu đựng khổ hạnh.Một người tầm thường có khả năng trị bệnh xuất phàm. Khả năng nầy chỉ đạt được khi chúng ta chấp nhận về mình sự đau khổ của kẻ khác, chịu đau khổ như kẻ khác, bằng cảm nhận lấy nỗi khổ của họ. Trau dồi những cảm giác tương thông nầy sẽ làm tăng trưởng lòng từ bi, sự xót thương. Chỉ có như vậy mới có thể huy động được năng lực chữa bệnh không giới hạn đã tìm tàng sâu thẳm trong tâm thức vô biên của chúng ta.Thật sự bệnh tật và đau khổ được xem là cách giải thoát đặc thù, cho ta cơ hội để trải nghiệm sự liên hệ chặt chẽ giữa ta và những chúng sinh khác, và cho ta thấy rõ bản chất tử vong của kiếp con người. Có một câu chuyện về một vị trụ trì thiền viện đã đạt được năng lực chữa bệnh bằng lòng từ bi. Một ngày trong khi ông ta đang dạy dỗ đệ tử, bất thần ông ta la đau. Khi các đại sư hỏi ông bị gì, ông nói rằng có một con chó đang bị đánh đập bên ngoài. Khi họ ra ngoài, họ nhìn thấy một người đàn ông đang giận dữ và dùng gậy để đánh một con chó. Khi người đàn ông được gọi vào bên trong thiền viện, vị trù trì kéo áo xuống cho ông ta thấy những vết bầm và cắt trên lưng đúng ngay chỗ con chó bị đánh đập. Đây là tính chất hợp nhất mà một vị thầy chữa bệnh lý tưởng cần phải có.Truyền thống Phật giáo nhận diện Đức Dược Sư là vị thầy chữa bệnh lý tưởng, và nhấn mạnh rằng năng lực chữa bệnh mạnh mẽ nhất nằm trong lòng chúng ta. Theo ông Deepak Chopra "Chúng ta có một dược phòng nội tại thật sự thanh nhã. Dược phòng nầy chế tạo thuốc có hiệu quả trong thời gian với mục tiêu chính xác về bộ phận được chữa trị, và không bị ảnh hưởng phụ của thuốc.."Như vậy, chúng ta hiểu rằng đức Phật Dược Sư đang ở trong lòng mỗi chúng ta. Con đường đi đến giải thoát phải xuyên qua việc thiền định, đặc biệt là thiền định mường tượng. Bằng cách thiền về đức Dược Sư và mường tượng về Ngài trước mặt chúng ta, chúng ta có thể đối diện với đức Phật Dược Sư, và trông thấy được nụ cười từ bi sáng rỡ đối với vũ trụ, và cặp mắt hiền dịu đầy ắp tình thương yêu đối với tất cả chúng sinh.Kế đó, từ nơi trái tim đức Phật phóng ra một luồng hào quang sáng chói và làn ánh sáng nầy ngấm dần vào trái tim của chúng ta một cách dịu dàng. (Trái tim ở đây có nghĩa là « trung tâm » - cốt lõi của bản chất nằm ngay trọng tâm ngực của chúng ta, không phải chỉ là một cơ cấu máy móc vật chất chỉ để bơm máu). Trọng tâm nầy được định nghĩa như sau :"Ngay trong bản thân anh, đã có sự tĩnh lặng và một ngôi đền thiêng liêng mà anh có thể lui vào bất cứ lúc nào để nghỉ ngơi và yên tịnh một mình. Ngôi đền thiêng liêng nầy chính là nhận thức đơn giản về sự tiện nghi không bị bất cứ rối loạn nào có thể xâm phạm được. Nơi đây không có sự sợ hãi và không có đau thương. Một thiền sinh cần phải tìm ra không gian tâm thức nầy để có thể chữa được các bệnh."--- Deepak ChopraChứng nghiệm nầy đến với chúng ta như một ánh chớp sáng suốt, và đây không phải bằng lời nói, hoặc bằng ngôn ngữ học. Đây là cảm giác thật bất ngờ, một sự hiểu biết tự do, khi mà chúng ta trải nghiệm chân lý không cần từ ngữ. Chân lý lọc qua từ ngữ sẽ bị gò bó, bởi vì chúng ta cần một thời gian nhất định để chuyên chú về ý nghĩa của nó. Xuyên qua trải nghiệm biểu tượng và sáng tạo tâm linh mà những chúng sinh « tầm thường » được chuyển hóa để trở thành những vị thầy chữa bệnh xuất chúng. Đây là cách giao tiếp với đức Phật Dược Sư, vị y sĩ chữa bệnh vĩ đại nhất. Cũng vì vậy các y sĩ tin tưởng vào những lý tưởng nói trên sẽ thực tập thiền định và cầu khẩn đức Phật Dược Sư trước khi ra toa xắt thuốc, và trước khi đưa cho bệnh nhân sử dụng. Khi bắt đầu làm những công việc nầy, họ đọc thần chú của đức Dược Sư. Câu thần chú ấy là OM BEKANDZE BEKHANDZE MAHA BEKANDZE RANDZE SAUNGATE SOHA. Khi đọc thần chú thiêng liêng nầy, họ tưởng tượng đến hình ảnh mật hoa rơi xuống, từ những âm tiết của thần chú, rớt vào chén thuốc. Những âm tiết nầy hoàn toàn tan hòa vào chén thuốc và làm cho thuốc ấy trở nên có hiệu lực và có khả năng trị bệnh. Biểu tượng hành động nầy nhắm vào sự thực hành và các âm tiết thiêng liêng đã tạo nên câu thần chú, làm cho chén thuốc có khả năng trị bệnh, cũng như vậy, do ý thức được việc bước đi trên con đường nghiệp đúng đắn, chúng ta có thể thấm nhuần cuộc sống của chúng ta với mật hoa chảy ra từ những hành động tốt đẹp xuyên qua việc trau dồi phẩm hạnh. daophatngaynay.com
-
@ CCB! Kính Đàn Pháp này là một pháp khí riêng của các hành giả tu đông mật, mà người nào tu người ấy biết. Còn như Niệm hay đọc Phật Mẫu Chuẩn Đề không giới hạn con à!
-
Chuẩn Đề Chân Ngôn “Nam mô tát đa nẫm, tam miệu tam Bồ Ðề cu chi nẩm, đát điệt tha. Om, Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Ðề, ta bà ha.” Phật dạy: "Nếu muốn biết pháp này thành hay không thành, phải y pháp tụng chú, mãn đủ 7 ngày, liền trong chiêm bao mộng thấy Phật và Bồ Tát ban cho hoa trái, miệng mửa ra vật đen, sau lại ăn vật trắng, tức biết thành tựu. Phật dạy: "Đà La Ni này có thế lực rất lớn, chí tâm tụng trì quyết phải tự chứng. Có công năng khiến cây khô phát sanh hoa, trái, huống gì nhũng quả báo ở thế gian. Nếu thường trì tụng thì thủy, hỏa, đao binh, oán gia độc dược đều không hại. Nếu người bị quỷ thần làm bịnh chết, kiết ấn tụng chú này 7 biến, lấy ấn, ấn nơi tại ngực đều khiến sống trở lại. Gia đình, nhà cửa ở không yên, bị quỷ thần gây họa, trì chú, chú vào bốn hòn đất, đem trấn 4 phía thì liền đi. Phật dạy: "Nếu người trong lục thân không hòa, không nghĩ tình thương nhau, nên y pháp tụng chú hướng về lục thân thì được hòa hợp nghe tên thấy thân đều được hoan hỷ. Phàm cầu việc gì cũng vừa lòng toại tâm. Huống người trai giới đầy đủ, nhất tâm thanh tịnh y pháp tụng trì, thì nhất định chuyển thân này tức chứng Bồ Đề có được công lực. Phật dạy: “ Thần Chú này có công năng diệt trừ Thập Ác, Ngũ Nghịch tất cả tội chướng. Thành tựu tất cả bách Pháp công đức. Trì Chú này dù ở tại gia hay xuất gia, không lựa kẻ tịnh người uế; chỉ chí Tâm trì tụng hay khiến Chúng Sanh đời sống ngắn ngủi, sẽ tăng thọ vô lượng. Ca Ma La Tật là bệnh nan y, còn trị lành, huống chi các bệnh khác; nếu không tiêu diệt là không có lý. Phật dạy: “ Thần Chú này có công năng diệt trừ Thập Ác, Ngũ Nghịch tất cả tội chướng. Thành tựu tất cả bách Pháp công đức. Trì Chú này dù ở tại gia hay xuất gia, không lựa kẻ tịnh người uế; chỉ chí Tâm trì tụng hay khiến Chúng Sanh đời sống ngắn ngủi, sẽ tăng thọ vô lượng. Ca Ma La Tật là bệnh nan y, còn trị lành, huống chi các bệnh khác; nếu không tiêu diệt là không có lý. Nếu có ai tụng mãn (49 ngày), Chuẩn Ðề Bồ Tát khiến hai vị Thánh thường theo người đó, kẻ nào có Tâm niệm thiện ác, đều mỗi mỗi báo hiệu hai bên tai người đó đầy đủ.Nếu có người vô phước vô tướng cầu quan không toại ý, nghèo cùng khốn khổ, bức bách thường tụng Chú này sẽ khiến hiện đời được phước báu như Luân Vương cầu xin quan vị quyết được xứng toại. ” Trong Thiền Tông, truyện Ðăng Lục có dẫn tích người xưa: “Cu Chi chỉ niệm Tam Hành Chú, mà được danh tiếng hơn người. Vì thế cho nên Chuẩn Ðề Thần Chú rất thù thắng linh diệu. Nếu cầu Trí Huệ được Ðại Trí Huệ; cầu nam nữ lại được nam nữ. Phàm có sở cầu, đều được xứng lòng và toại ý, giống Ngọc Như Ý; tất cả tùy Tâm mình muốn. Hơn nữa, tụng Chú này thường khiến cho các Quốc Vương, Ðại Thần và Tứ Chúng đều sanh lòng kính yêu, thảy đều hoan hỷ. Người tụng Chú này, xuống nước không chết chìm, nạn lửa không thể đốt, độc dược, oan gia, quân trận, cường tặc và Ác Long, thú, các loài Quỷ Mị đều không thể hại. Nếu muốn thỉnh: Phạm Vương, Ðế Thích, Tứ Thiên Vương, Diêm La, Thiên Tử v.v… Chỉ tụng Chú này tùy thỉnh, quyết đến, không dám trước sau chậm trễ. Hoặc có sai khiến gì được như ý muốn. Thần Chú này có thế lực lớn đối vối Nam Thiệm Bộ Châu. Dời núi Tu Di; khô nước Ðại Hải; Chú vào cây khô sẽ phát sanh hoa quả. Huống chi là người năng y Pháp trì tụng, có thể chuyển nhục thân, được Ðại Thần Túc, sanh về cõi Trời Ðâu Suất. Phật dạy: "Nếu y pháp tụng trì, nhất tâm tinh cần, thì công lực nói không thể hết. Kính Đàn pháp này không được cho người khác thấy nếu thấy thì không tốt, mất linh nghiệm, không được thành tựu viên mãn. Pháp này cần phải bí mật, không được tuyên nói, hãy tự mình chứng biết. Tùy ý mong cầu quyết được thành tựu thọ hưởng được cái vui nhiệm mầu thù thắng". Kiết Ấn Thần Chú Chuẩn Đề (Nên nhớ ! Khi kiết Ấn Chuẩn Ðề chớ nên cho những người khác thấy, hoặc đem ra biểu diễn ắt phải bị sa đọa. Chỉ có nhập thất một mình mới dùng kiết Ấn Chuẩn Ðề mà thôi, phải thận trọng cho lắm !)
-
GỬI MẸ CHỒNG TƯƠNG LAI - Mẹ đừng buồn khi anh ấy yêu con. - Bởi trước con, anh ấy là của mẹ. - Anh ấy yêu con một thời trai trẻ. - Nhưng suốt đời anh yêu mẹ, mẹ ơi! - Mẹ đã sinh ra anh ấy trên đời. - Hình bóng mẹ lồng vào tim anh ấy. - Dẫu bây giờ con được yêu đến vậy. - Con cũng chỉ là người phụ nữ thứ hai... - Mẹ đừng buồn mỗi hoàng hôn ban mai. - Anh ấy có thể nhớ con hơn nhớ mẹ. - Nhưng con chỉ là một cơn gió nhẹ. - Mẹ mãi là bến bờ thương nhớ của đời anh. - Con chỉ là một cơn gió mỏng manh. - Người đàn bà khác. - Có thể thay thế con trong trái tim anh ấy. - Nhưng một tình yêu suốt đời âm ỉ cháy. - Anh ấy chỉ dành cho mẹ mà thôi. - Anh ấy có thể cùng con đi suốt cả cuộc đời. - Cũng có thể chia tay ngày mai,có thể. - Nhưng anh ấy suốt đời yêu mẹ. - Dù thế nào con cũng chỉ thứ hai.. Ai thấm ý tâm lý này thì thank nhé!
-
Vẻ đẹp linh thiêng động Nghìn Phật. Động Nghìn Phật nằm ở tỉnh Đôn Hoàng, giữa hoang mạc Gobi, trên con đường Tơ Lụa danh tiếng năm nào. Về lý do xây dựng động đá và những bức tượng Phật, có truyền thuyết kể rằng: Năm 366, cao tăng Lạc Tôn Vân chu du trên dải đất này, nhìn thấy kim quang lấp lánh trên núi, ẩn hiện hình tượng nghìn mắt nghìn tay. Ông biết rằng đây là vùng đất Phật, bèn đào một hang động thờ Phật ở chân vách phía Đông núi Ô Sa. Sau này, thiền sư Pháp Lương tiếp tục công việc, xây thêm nhiều động đá khác nhau và các bức tượng Phật bên trong Hang động ở Đôn Hoàng được vinh danh là thiên hạ đệ nhất động bởi sở hữu một quần thể lên tới 492 hang động và hơn 2.400 bức tượng Phật, cùng vô vàn bức bích họa, trải dài trên diện tích 45.000 m2. Hơn 1.000 năm trôi qua, con đường Tơ Lụa nay đã hoang vu, nhưng động đá vẫn giữ vẹn nguyên vẻ đẹp trong con mắt du khách thập phương hành hương về đất Phật Những bức tượng nổi tiếng nhất ở Đôn Hoàng là hai bức tượng Phật và một số tượng Bồ Tát trong động thứ 248, là đỉnh điểm của nghệ thuật điêu khắc Trung Quốc. Phong cách nghệ thuật của những bức bích họa trong động Đôn Hoàng chịu ảnh hưởng của 2 phong cách bích họa Trung Nguyên. Các bức theo phong cách Tào gia có hình Phật mặc áo cà sa nhiều nếp gấp, vải mềm như bị ướt nước. Phong cách thứ 2 là phong cách bích họa đời Đường, chú trọng vào quần áo, cân đai của nhân vật. Trong động có chứa Kinh Phật với 5 vạn bản kinh chép tay, tư liệu lịch sử, tranh lụa, tranh khắc gỗ và các tác phẩm thư pháp, được ca tụng là “Thư viện trên vách đá”. Khối lượng khổng lồ này đòi hỏi một phòng tranh dài 25km mới đủ để trưng bày hết, chẳng khác gì những kì động chứa bí kíp được mô tả trong những câu chuyện kiếm hiệp. Lên non vùi hạt Bồ Đề Xôn xao để lại dưới kia bụi hồng
-
Củng cố phương pháp hộ niệm Pháp hộ Niệm là chánh pháp có thể cứu huệ mạng một người phàm phu vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc một đời thành đạo chứ không phải là chuyện bình thường. Kính mong tất cả chư vị hết sức cẩn thận, y giáo theo lời chư Tổ Sư chỉ dạy mà phụng hành, phải thực hiện như lý như pháp. Cố gắng tránh những điều sơ suất, không được tự động thêm bớt theo sở thích cá nhân, không được áp cụng những pháp lạ mà làm sai lệch chánh pháp. Kính mong chư vị trong các BHN nên sớm họp lại, hội thảo, chỉ bày cho nhau. Các vị có kinh nghiệm nhiều về hộ niệm nên tích cực hướng dẫn lại các BHN mới, vạch ra những ưu khuyết điểm, ứng dụng tốt pháp hộ niệm, tránh những sơ suất đáng tiếc. Cụ thể, xin nêu ra những điểm phổ thông cần chú ý sau đây: 1. Nên khuyến tấn được HN càng sớm càng tốt. Không nên chờ đến giai đoạn nguy kịch rồi mới bắt đầu HN. 2. Thăm thân xác chỉ được thưc hiện ít ra là sau 8 giờ, tốt nhất là sau 12 giờ kể từ khi người bệnh tắt hơi. Trong khoảng thời gian này tuyệt đối không được đụng chạm đến thân xác. Không được tắm rửa, thay quần áo, sắp sửa chân tay, v.v... Không được tẩn liệm, ồn náo. kêu khóc... Nếu gặp những trường hợp quá đặc biệt, ví dụ như bị té chết trong nhà vệ sinh, xác bị rớt nửa trên giường nửa dưới giường, v.v... thì có thể lên tiếng báo cho người chết biết rồi nhẹ nhàng bồng đặt lên giường, đắp mền cho ấm và sau đó niệm Phật hộ niệm liền, không được đụng chạm đến nữa. 3. Sau khi thăm kiểm, dù biết được thoại tướng mềm mại, thân sắc tươi tốt, v.v... cũng không được quyền lay động thân xác quá lâu, quá nhiều. Không được dùng thân xác người quá cố thành trò biểu diễn cho mọi người xem sự vi diệu, hoặc làm mẫu để quay video. 4. Nếu thăm mà thấy thân xác cứng, hoặc còn nóng nhiều chỗ, chứng tỏ bị trở ngại thì phải ngưng việc thăm thân. Khuyên thân chủ cho phép niệm thêm 4 hoặc 8 giờ nữa. Cần tìm hiểu để biết thêm những khó khăn nào khác chưa được giải tỏa mà hướng dẫn thẳng vào đó. Nếu sau đó không cứu vãn được thì cũng là duyên phần của người ra đi. Xin người HN vẫn cứ an tâm làm đạo. Chớ quá lo âu. 5. Không được áp dụng những phương thức lạ như: Ấn huyệt, vận khí vào bàn tay đẩy thần thức, dùng que cây điểm huyệt, tạo vết thương cho chảy máu, chế ngự động mạch, v.v... Khi chết rồi không được dùng dao và nải chuối để trên bụng. Không được đổ gạo nếp vào miệng, nhét tiền bạc vào tay, v.v... 6. Không được dùng những pháp khác trợ duyên như: Lập đàn cúng cô hồn, lên đồng, cầu hồn, v.v... 7. Nếu người bệnh không yêu cầu, người HN chớ nên xen tạp các việc tụng kinh, tụng Chú, tụng Sám nhiều quá. Nếu thấy cần thiết thì nên tụng vài biến rồi mau mau trở về niệm Phật. Cố gắng hướng dẫn bệnh nhân nhiếp tâm vào một câu danh hiệu A-di-đà Phật là tốt nhất. 8. Người HN không được khởi tâm thượng mạn như: Nghĩ mình có năng lực phi thường, có cảm ứng đặc biệt, có năng lưc cứu độ người bệnh hay đàn áp được "Oan Gia trái Chủ", có năng lực "Hộ Niệm Từ Xa!", v.v... Tu hành phải khiêm nhường mới tránh khỏi "Ma Chướng" cho chính mình vậy! 9. Khai thị-Hướng dẫn người bệnh cần cụ thể, ngắn gọn, tìm các gỡ những khó khăn cho người bệnh. Chú ý nhắc nhở người bệnh nhiếp tâm niệm Phật, theo đức A-Di-Đà vãng sanh. Chú ý nhắc nhở khi gặp những vị khác thì làm ngơ đi, cứ an tâm niệm Phật là được. Cần nhiều tâm lý thiện xảo để khuyến tấn bệnh nhân, không được nói pháp dài dòng. 10. Khi điều giải oan gia trái chủ mọi người cần phải thành tâm, cung kính, khẩn cầu... Người điều giải tuyệt đối không được khởi một tâm ý cao ngạo hay nói lời trịnh thượng. Chỉ được dựa vào lời Phật lời Tổ ra thành khẩn khuyên nhắc. Không được chèn ép, áp chế, cưỡng bức, đấu tranh để giành phần thắng với chư pháp giới chúng sanh. 11. Muốn tìm ra những sơ suất khi hướng dẫn, đề nghị người HN nên quay video để lại, rồi tự mình xem lại nhựng tư thái, lời nói, cử chỉ của chính mình khi khai thị để tự tìm cách sửa chữa. 12. Chú ý khuyến cáo thân chủ về các việc phá giới như: sát sanh hại vật, thường phạm tội giết các loài muỗi, ruồi, v.v... Coi ngày giờ chôn cất, gây ảnh hưởng không tốt đến việc HN. 13. Cần hiểu thấu tình trạng khó khăn về cả tâm lý của người bệnh. Cẩn thận lời nói, cử chỉ, nét nhìn. Tuyệt đối tránh những ý tưởng tiêu cực, gây phiền não. Không được đùa giỡn quá đáng! 14. Cần hiểu thấu tình trạng khó khăn về sức khỏe cuả người bệnh. Không được bắt người bệnh niệm Phật quá lâu. Không ép người bệnh phải thức suốt đêm để niệm theo đại chúng. 15. Cách niệm cần hoà với nhau, tránh người nhanh, người chậm. Tránh các giọng quá khàn hay quá cao ( tức là giọng quá sắc). Tránh các âm điệu gằn giọng, niệm giựt gọn từng tiếng, âm thanh này rất dễ làm người bệnh bị căng thẳng thần kinh. Nên có chiếc máy niệm Phật để bắt giọng mẫu khi cần để tránh bị lạc giọng, hay tắt tiếng, v.v... 16. Khi đang hấp hối cần niệm chậm rõ ràng từng tiếng. Tránh niệm nhanh, nhừa nhựa. Nên nương theo hơi thở của người bệnh mà niệm thì tốt nhất. Bên trên là những điều thường mắc phải mà Diệu Âm nhớ đến xin nêu ra. Chư vị xem qua. Chư vị cũng có thể bổ khuyết thêm theo kinh nghiệm của mình để hoàn chỉnh pháp Hộ Niệm cứu người vãng sanh. Công đức vô lượng. Diệu Âm kính cẩn.
-
Chùa quê cực nghèo bị cháy cần giúp đỡ Trong một chuyến làm từ thiện, do nhân duyên qua một chị Phật tử tên là Mai, tôi biết đến Chùa Phúc Khánh, tọa lạc tại thôn Miêu Nha, xã Song Mai, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên, bị cháy và hiện đang gặp nhiều khó khăn. Nên chủ nhật, ngày 03/06/2012, tôi và hai Phật tử khác đã quyết định xuống thăm chùa. Sau khi làm lễ tại Tam Bảo chúng tôi đã trò chuyện cùng sư cô Trân Bảo, được Tỉnh hội Phật giáo Hưng Yên bổ nhiệm về làm trụ trì chùa từ tháng 11/2011 (trước đó chùa đã thay một số trụ trì bởi điều kiện tu hành ở đây khá khó khăn), và đi vãn cảnh chùa. Ấn tượng của chúng tôi với sư cô trụ trì là hạnh lắng nghe, tính cách điềm đạm cùng với vóc người thanh mảnh khắc khổ của một người tu hành thực sự. Sư cô đã ăn trường chay từ khi xuất gia, theo chúng tôi đó là một điều đáng quý trong thời cuộc hiện nay . Đặc biệt ấn tượng là tại đây không có việc đốt vàng mã và dâng cúng đồ mặn. Trước khi sư cô về làm trụ trì, với lễ giải hạn tại chùa người dân trong thôn có thói quen đốt hình nhân thế mạng. Bằng sự kiên trì và nhẫn nại, sư cô đã làm cho người dân trong thôn hiểu rõ về giáo lý của Đức Phật trong việc cầu an, cũng như làm sao lễ Phật và thờ Phật cho đúng cách. Sau một vòng quanh chùa, chúng tôi cảm thấy trong lòng dấy lên một nỗi buồn. Trước khi bị cháy, chùa đã xuống cấp và sư cô cũng đã cố gắng sửa chữa tu bổ bằng số tiền hạn hẹp của các Phật tử đóng góp. Vì đây là vùng nông thôn với mức sống thấp, nên số tiền đó cũng là một sự cố gắng lớn của các Phật tử địa phương . Mỗi khi trời mưa là Tam Bảo bị dột bởi mái chùa đã xuống cấp trầm trọng hơn sau đám cháy. Nhìn những bức tượng Phật, Bồ-tát trên Tam Bảo với những vết nứt và ám màu đen của khói, những bàn để bát hương cũ kĩ với chân kê bằng gạch, những bệ thờ lát đá hoa thời bao cấp, những mảng tường bong tróc chắc hẳn sẽ làm đau lòng các Phật tử khi tới thăm chùa. Qua lời kể của sư cô trụ trì, đôi lúc đang tụng kinh mà mưa thì các Phật tử nơi đây phải chạy ra những chỗ không bị dột, có sãi đêm ngủ tại chùa, sáng hôm sau tỉnh dậy thấy người mình ướt vì đêm hôm trước trời mưa dột do ngủ say mà không biết. Nếu sang bên nhà thờ Tổ chắc hẳn các Phật tử còn đau lòng hơn nữa khi biết gian thờ Tổ trước đây là một cái kho, vì chùa xuống cấp nên phải tận dụng làm nhà thờ. Trong nhà thờ Tổ, ban thờ Tổ nằm ở giữa, hai bên là ban thờ Mẫu và ban thờ Đức Thánh Trần. Nhìn lên ban thờ Tổ, chúng tôi thấy có di ảnh của cố HT. Thích Thanh Tứ. Khi hỏi sư cô thì mới biết thôn này chính là quê gốc của ngài. Khi còn sống mỗi lần về thăm quê, ngài dù có bận việc gì cũng luôn ra chùa thắp hương lễ Phật. Sư cô Trân Bảo đã may mắn khi được cố Hòa thượng làm lễ đăng đàn thọ giới cho. Trước khi mất cố Hòa thượng đã có tâm nguyện trùng tu chùa. Ngài đã đề nghị sư cô chuẩn bị hồ sơ, nhưng khi sư cô đang chuẩn bị thì ngài đã theo đức Phật về Tây Phương, không kịp thực hiện hạnh nguyện của mình. Mong muốn của sư cô thật giản đơn, làm sao có một ngôi chùa nhỏ, trang nghiêm và thanh tịnh để làm nơi truyền bá giáo lý màu nhiệm của đức Phật đến với những người dân trong thôn. Với mục đích tạo điều kiện cho các Phật tử ở xa có thể giúp đỡ chùa, tôi hỏi sư cô có tài khoản ngân hàng không? Tôi thật sự ngạc nhiên với câu trả lời là không có. Thực tế, sư cô cũng ít đi đâu xa trừ khi có việc, chủ yếu là ở tại chùa tu tập. Vì thế việc đầu tiên tôi mong muốn sư cô làm là đi mở một tài khoản ngân hàng. Theo ước nguyện của chúng tôi, mọi sự giúp đỡ của các Phật tử sẽ được chuyển vào tài khoản này, để việc thu chi được công khai và minh bạch. Để có kinh phí tu sửa hay xây mới, nhà chùa chỉ biết nương nhờ sức gia hộ của chư Phật, chư Đại Bồ Tát, Chư Hiền Thánh Tăng, Long Thần Hộ Pháp, cùng sự sẻ chia ủng hộ của các Phật tử gần xa. Nhà chùa dự kiến sẽ tiến hành công việc này dựa trên số tiền các Phật tử ủng hộ từ lúc thời điểm kêu gọi đến ngày 31/12/2012. Trong quá trình chờ đợi nhà chùa sẽ không sử dụng tiền công đức thu được cho bất kỳ một mục đích nào khác. Kính mong các Phật tử phát tâm, góp sức để công việc trùng tu chùa sớm được bắt đầu, mọi công đức xin gửi vào tài khoản: Chủ tài khoản: Lê Thị Hiền (Pháp danh Thích Trân Bảo), số tài khoản 711 A 688 011 36 - Ngân hàng Vietinbank Hưng Yên. Thông tin liên lạc: 1. Sư cô Thích Trân Bảo: Tel 09 87 13 78 18 2. Đường đến chùa Phúc Khánh: Đi xe Bus 205, 208 từ Hà Nội hoặc xe khách đi thành phố Hưng Yên, xin dừng tại Bệnh Viện Kim Động, hỏi chùa thôn Miêu Nha, xã Song Mai, quãng đường từ bệnh viện đến chùa khoảng 3.5 km. Tâm Pháp Tuệ nguồn chuaphuclam.vn ========================================================================================================================== Trăm hạnh, hạnh bố thí cúng dường là vô lượng công đức. Ngàn duyên bố thí duyên xây chùa đúc tượng phước hoàng thâm. Nam Mô Công Đức Lâm Bồ tát ma ha tát.
-
OM BENZA SATO HUM Phật Kim Cang Tát Đỏa là một vị Phật tổ của Mật Tông Tây Tạng.Được truyền thừa từ ngài Kim cang trì ( vajradhara Buddha ) truyền tới Kim cang tát đỏa ...Trong Mật tông thì không ai tu mà không biết tới Ngài vì thần chú của ngài có năng lượng tịnh hóa nghiệp chướng vô cùng mãnh liệt .LDK viết vài viết này nhân tròn 3 năm thọ quán đảnh Kim cang Tát Đỏa Pháp tu Kim cang tát đỏa trong Mật giáo tây tạng là pháp môn bắt buộc phải hành trì để dự bị tu tập tới bậc pháp cao hơn như du dà hay tối thượng du dà . Thường thì người ta trì thần chú 100 chủng tự của Ngài 100 000 lần là coi như hoàn mãn xóa nghiệp chướng . Bổn tôn Kim Cang Tát Đỏa thì luôn luôn được nhắc đến trong Mật tông , bởi vì trì tụng thần chú của ngài có thể tịnh hóa tất cả các nghiệp chướng sâu dày . Pháp môn này thì Thày LDK là đại sư Rinpoche truyền dạy . Không nhất thiết phải có quán đảnh gia trì mà vẫn có thể tu tập . Quy y : Con xin quy y phật tới ngày giác ngộ , nguyện đem tất cả công đức mà con có được xin cho con thành phật để độ chúng sanh ( 3 lần ) Tứ vô lượng tâm : Xin cho tất cả chúng sanh là những bà mẹ hiền vô biên như bầu trời có được hạnh phúc và biết được gốc rễ của hạnh phúc Xin cho họ thoát khỏi đau khổ và thấy được cội nguyền của đau khổ . Xin họ luôn được an vui thoát khỏi phiền não . xin cho họ luôn an trú nơi tâm bình đẳng không chấp giữ bạn , không thù kẻ thù . Namo vajrasattva Nam mô kim cang tát đỏa như lai. Tội lỗi mà con đã làm từ vô thủy cho đến nay con xin sám hối . Nguyện cho con làm lợi lại cho tất cả chúng sanh nhờ pháp tịnh hóa nghiệp chướng này . Quán rằng đỉnh đầu mình có Phật kim cang tát đỏa . Một mặt và 2 tay , thân mình màu trắng cầm chuông và chày . Ngài để chân theo kiểu bán già . Bản chân phải hơi duỗi xuống . Từ tim ngài có 1 chữ HUM và 4 chúng tự Om Benza Sattoa quay xung quanh theo chiêu fkim đồng hồ ( màu trắng ) . Nước mật cam lô từ chủng tự HUM chảy xuống thân thể ta qua ngã đảnh đâu. Tịnh hóa tát cả nghiệp chướng . Các ám chướng bệnh tật chảy xuống đất qua 2 lỗ thoát phía dưới dưới dạng nước đen ám khói . Trong khi quán như vậy tụng đọc Mantra này 21 lần : OM BENZA SATO HUM Nếu có thời gian có thể đọc nhiều hơn . Sau đó Phật Kim cang tát đỏa tan thành ánh sáng . Hòa nhập vào thân ta . Thân ta từ nay trở nên thanh khiết . hồi hướng : Nguyện cho công đức này con sớm thành quả vị Phật đê đem lại lợi ích cho muôn loài chúng sanh . Đức Bổn Sư của LDK có nói . Nếu ai hàng ngày chỉ cần y pháp tụng đủ 21 biến này thôi thì những lỗi lầm hàng ngày sẽ hết sạch. Ai tu pháp này trong 3 năm thì nghiệp nặng tới đâu cũng có thể hết nếu chuyên tâm quán tưởng .Xin nhắc lại là Pháp này không cần quán đảnh .
-
KHÓA TU “GIEO HẠT TỪ TÂM” Khóa tu "Gieo hạt từ tâm" kỳ 4 với chủ đề "Tưới tẩm thương yêu " dành cho các bé nhỏ có độ tuổi từ 5 đến 12 tuổi được tổ chức sáng nay tại Quan Âm Tu Viện, Quận Phú Nhuận, Tp. HCM. Được biết có hơn 260 bé đăng kí tham gia khóa tu lần này, số lượng các bé tham gia khóa tu kì này nhiều hơn gấp đôi khóa tu kì trước và phạm vi không gian không chỉ ở trong Tp. HCM mà đã có các bé từ các tỉnh miền Tây và miền Đông cũng được phụ huynh đưa các bé về chùa tham dự. Vào lúc 8g15, ngày 22 tháng 04 năm 2012 - 02 / 04 Nhâm Thìn, tại Quan Âm Tu Viện ( 384 Trường Sa - P.2 - Q. Phú Nhuận - TP.HCM ) đã diễn ra Khóa Tu Gieo Hạt Từ Tâm Dành Cho Học Sinh - Sinh Viên ở lứa tuổi từ 13 đến 25. Quang lâm chứng minh gồm có: HT.Thích Minh Thông - Trụ trì tổ đình Vĩnh Nghiêm (Mỹ), ĐĐ. Thích Tâm Hải - Thư ký báo giác ngộ, ĐĐ.Thích Nhuận Thường - họa sĩ báo Giác Ngộ, NT.Thích Nữ Như Giác - Trụ trì Quan Âm Tu Viện, SC.Thích Nữ Hương Nhũ - Giáo thọ sư HVPG tại TPHCM, Họa sĩ Nguyên Hải, Họa sĩ Thọ Cường cùng đông đảo các bạn trẻ đến tham dự. Cuộc đời mỗi con người bắt đầu từ tuổi trẻ, tuổi trẻ là giai đoạn hình thành tâm sinh lý nói chung và định hướng tương lai của chính mình nói riêng. Rất nhiều giới trẻ phạm pháp vì sự nông nổi bồng bột vì thiếu hiểu biết, cái tuổi muốn chứng tỏ cái tôi là đúng - là người lớn - là sành điệu. Ngày nay, có nhiều các tệ nạn xã hội xảy ra, đặc biệt đa số rơi vào các trường hợp ở độ tuổi thanh thiếu niên, nguyên nhân là do một phần vì môi trường gia đình - học đường - xã hội, một phần vì một số giới trẻ ngày nay chỉ sống dật dờ, tương lai mờ mịt - không biết mình muốn gì, không cần biết mình sẽ phải sống như thế nào để có ích cho bản thân - gia đình và xã hội. Một số bạn trẻ lại có khuynh hướng sống thử, nên chỉ biết ăn chơi hưởng thụ, ngày càng sa đà lún sâu vào các trò chơi giải trí vô bổ, tàn hoại thân xác, chôn vùi tương lai. Một số lại qúa tham vọng mải mê chạy theo tiền tài danh vọng mà đôi khi quên đi hoặc đánh mất tình cảm của người thân và thậm chí là đánh mất ngay cả bản thân mình. Các tệ nạn xã hội ngày càng nhiều, trước nguy cơ suy thoái đạo đức ngày càng tăng, không ít các nhà chức trách và các bậc phụ huynh không tránh khỏi băn khoăn lo lắng cho con trẻ của mình và tương lai của xã hội. Để góp phần xây dựng một thế giới an bình - hạnh phúc, đồng thời để giúp giới trẻ ý thức rõ được cuộc sống đang diễn ra xung quanh, và có ý thức sống như thế nào cho thật đáng sống, chư Tôn Đức lãnh đạo Giáo hội nói chung và Quan Âm Tu Viện nói riêng mong muốn trang bị cho các bạn trẻ những hành trang thiết yếu trong cuộc sống và kỹ năng sống thiết thực phù hợp với truyền thống đạo đức trong môi trường sống hiện đại ngay từ bây giờ trong một khóa tu. Nhân Đại Lễ Phật Đản 2556 sắp đến - Sư Cô Hương Nhũ thuyết giảng bài pháp thoại “ Đức Phật Lịch Sử Và Đức Phật Tôn Giáo ” để các bạn biết trẻ biết rõ Đức Phật là ai? Ngài có thật không? Ngài đã làm lợi ích gì cho chúng sinh? Và trong số các bạn trẻ có ai muốn mình giống Đức Phật không? Theo thông tin chúng tôi được biết đây là khóa tu đầu tiên, về sau sẽ có khóa tu tu định kỳ 01 tháng / 01 lần. Tại khóa tu này có 110 em tham dự, tự viện đã hỗ trợ pháp phục, ngoài ra còn có cuộc thi vẽ tranh Đức Phật Của Em, tập hát bài Gieo Hạt Từ Tâm do ca sĩ Sĩ Luân hướng dẫn. Có duyên ta đã gặp nhau tại khóa tu này, xin hẹn gặp lại vào những khóa tu sắp đến. Xin chúc các bạn trẻ tinh tấn - an vui - chăm ngoan - hiếu thảo - học tốt - rèn luyện nhân cách để trở thành người công dân hữu ích cho đời và đạo. Và hãy tự biết ơn lẫn sự trân trọng những người bỏ thời gian công sức để các bạn có khóa tu như ngày hôm nay. Chân - Thiện - Mỹ là thông điệp từ HT.Thích Minh Thông gởi đến các bạn nhân khóa tu này. http://www.daophatng...Am-Tu-Vien.html http://nghethuatphat...o-ht-t-tamq-k-4 ========================================================================================== và hôm nay ngày 19/8/2012 nhằm mùng 3 tháng 7 để khai lễ Mùa Vu Lan Báo Hiếu. Các em con và cháu của thành viên Lý Học Đông phương cũng tham gia khóa tu kỳ 5 tại Quan Âm Tu Viện. (còn tiếp)
-
Cô sẽ gửi đến các bạn vào ngày mai.
-
Cô chẳng biết Vô Thức muốn thỉnh nhận bao nhiêu bản? Nói rõ để Nha Khanh gửi tặng bạn nhé! @ Nha Khanh giúp cô chuyển trao tặng 100 bản ra Đà nẵng chưa ah!
-
Chúng tôi sẽ gửi đến Bạn, sau thời gian lễ nhé!
-
Đây là địa chỉ Dieu Hoa ! NK gửi cho bạn ấy nhé!
-
Từ thiện tháng 8/2012 Kính thưa Giám Đốc Trung tâm LHĐP, các thành viên diễn đàn, các nhà hảo tâm, thân hữu của Wild tham gia sinh hoạt và không sinh hoạt trên diễn đàn LHDP. Lời đầu tiên trong báo cáo chương trình từ thiện cuối cùng của LHDP này, Wild xin được chân thành cám ơn sự tin tưởng, tín nhiệm và ủng hộ của các thành viên diễn đàn, các nhà hảo tâm với trung tâm và Wild trong suốt thời gian qua, trong các chương trình từ thiện của trung tâm LHDP. Bằng tịnh tài, tịnh vật, công sức và đặc biệt là tinh thần là tấm lòng từ bi, bác ái các cô bác anh chị và các bạn đã đồng hành cùng Wild trên một số nẻo đường, đem lại chút niềm vui và thêm yêu cuộc sống cho đồng loại của mình. Trước sự tín nhiệm này, Wild đã cố gắng sử dụng quỹ một cách hiệu quả về tài chính, ý nghĩa về mặt xã hội và cả tâm linh nữa. Dịp tháng 7 âm lịch – tháng Vu Lan báo hiếu của những người con Phật nói riêng và tháng để con cháu nhiều gia đình Việt nhớ về tổ tiên nói chung. Dịp mà mỗi gia đình đều có cúng giỗ, cầu nguyện đến tổ tiên ông bà đã khuất. Dịp mà Phật tử lên chùa dự lễ Bông hồng cài áo , để những ai đang còn mẹ còn cha trên cõi đời này biết trân quý và sống Hiếu đạo hơn. Tuy nhiên có một nơi mà theo Wild là : Ở nơi đó các cụ có thể được chăm lo khá đầy đủ về vật chất, phương tiện sinh hoạt nhưng điều chắc chắn thiếu thốn lớn tình cảm của con cháu gia đình – Chính vì vậy, Wild và AE đã chọn chương trình cho tháng 8/2012 là: "Ấm lòng Mẹ ơi !" - Chương trình sẽ là thăm và tặng quà đến các cụ, các mẹ già đang sống tại các cơ sở nuôi dưỡng thiện nguyện. Chương trình lên kế hoạch và chuẩn bị từ đầu tháng 7 âm lịch với tiêu chí chọn một cơ sở ở thành phố ( vùng ven ) và một ở thật xa thành phố đô hội, vùng xâu xa càng khó khăn càng là mục tiêuchính. Maymắn thay, chúng tôi đã tìm được hai địa điểm khá ý nghĩa đó là : Chùa Phổ Quang Xã hòa hiệp 1, huyện Xuyên Mộc tỉnh Bà Rịa Vũng tàu. Và chùa nuôi dưỡng người già tại Q.8,( chúng tôi sẽ tường thuật bằng hình ảnh vào chiều nay) Chươngtrình được thực hiện vào ngày 28/8/2012 và chúng tôi lên đường vào lúc 5g30, khởi hành từ Bến xe miền đông trực chỉ Bà Rịa & Vũng tàu. đến nơi hẹn chúng tôi được Công Minh dùng xe dân dụng đón để rẽ nhánh đi vào Xã Long Đất đến xã Hòa Hiệp huyện Xuyên Mộc. Chùa đang xây dựng dỡ dang, góc phải có chiếc xế màu đen mà CM đã hổ trợ phương tiện để đưa chúng tôi đến điểm này. Quà gồm có 6 tạ gạo loại 10,000 đ = 6,000,000 đ, 1 thùng dầu nóng trường sơn. Cao dán salonpas, bột giặt 25 kg, sữa ducth lady 2 thùng, 1 thùng rửa chén 4l5. Thoạt bước vào nghe Thầy bảo "nghỉ đi các Cụ" tôi tưởng các cụ đang ngồi tổ tôm với nhau...nhưng khi đến gần... nghỉ để nhận quà... Có Cụ đau nằm bẹp 1 chỗ cũng có thiết quà đâu? Cụ cần 1 hơi ấm 1 lời thăm hỏi. Vẫn có Cụ ngồi nhìn phía xa xăm chả thiết quà ! (còn tiếp)
-
Cụ săm soi món quà mà chẳng thể hiện cảm xúc vui buồn? những hình ảnh này trong ký ức có Bà tôi Mẹ tôi với chiếc tăm tre dang dỡ, với sự mệt mỏi sức tàn lực kiệt. Sinh, bệnh, lão, tử vòng đời nghiệt ngã. Khi ra về, chúng tôi lại nhìn thấy 1 người tàn tật ngồi bên ngoài cổng chùa chờ xin lòng thương xót của khách vãng lai, Chip cũng đã nhanh tay trao bác ấy phần quà. Có lẽ Nk cũng muốn chia sẽ chút gì đó, bởi trên đường xuôi ngược khi được gặp nhau là ta có đủ duyên dù trong phút giây, Lại một nụ cười là trong lòng chúng tôi lại nở nhanh 1 bông hoa hỷ lạc. ước gì những nơi đô hội phồn hoa chia chút tình người cho nơi này lặng lẽ, ước gì con người ta bớt đi chút sân si để chiêm nghiệm cuộc đời sẽ có ngày không còn Mẹ. Khi chúng ta thay đổi đối tượng và nghĩ về những người khác thay vì chính mình thì cảm xúc trở thành lòng bi mẫn Nguyện hồi hướng công đức cho khắp cả chúng sinh không chừa sót một ai đạt quả vị Phật đà Mỗi ngày tôi chọn 1 niềm vui là được đi và đến với những thân phận con người quá nhiều bất hạnh! Gieo chút nhân lành bớt thiên nghiệp chướng !