wildlavender

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    6.007
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    103

Everything posted by wildlavender

  1. 7 tác dụng không ngờ của nước dừa - Nước dừa là chất lỏng tinh khiết nhất chỉ đứng thứ hai sau nước tinh khiết. Nước dừa có rất nhiều tác dụng tốt cho sức khỏe mà có thể bạn chưa biết. Bởi nó chứa rất nhiều các chất điện phân, canxi, kali, magiê… mà tất cả mọi chất này đều là tốt cho bạn. Nước dừa là chất lỏng đó được lấy từ dừa chưa chín. Nếu dừa được chín các chất lỏng bên trong sẽ cứng lại và trở thành một phần của thịt trắng của dừa. Vì vậy, việc chọn dừa khi nó chưa chín sẽ đảm bảo được nguồn nước dừa đầy dưỡng chất. 1- Cung cấp nước và khoáng chất cho cơ thể Nước dừa là một giải pháp thay thế cho các chất lỏng và khoáng chất mà cơ thể đã bị mất trong các hoạt động thể chất. Cũng bởi lý do này mà nhiều vận động viên và những người thường xuyên thể dục được khuyến khích uống nước nhiều hơn. 2. Giảm vấn đề về tiết niệu Nếu bạn uống nước dừa thường xuyên có thể làm giảm các vấn đề về tiết niệu. Những người bị bịnh tiểu rắt, và các bệnh tiết niệu khác nên uống nhiều nước dừa để làm giảm triệu chứng của bệnh. 3. Tiêu diệt các vi khuẩn đường ruột Uống nước dừa với một muỗng cà phê dầu ô liu trong ba ngày sẽ giết chết các vi khuẩn trong ruột và làm sạch dạ dày, đồng thời giúp cho tiêu hóa tốt hơn. 4. Nước dừa ngăn ngừa sỏi thận Những người có vấn đề về thận hoặc đang có dấu hiệu sỏi thật thì nên uống nước dừa bên cạnh các loại thuốc điều trị. Uống nước dừa thường xuyên sẽ giúp tan sỏi thận và dễ dàng làm cho chúng thoát ra ngoài cơ thể. 5. Nước dừa được sử dụng trong truyền máu Nước dừa gần giống như huyết tương, do vậy nó dễ dàng được sử dụng trong truyền máu và điều này làm cho nó dễ sử dụng cho truyền máu. Trong trường hợp khẩn cấp, nước dừa còn được sử dụng như là một chất lỏng làm thông tĩnh mạch thay vì dùng các chất lỏng tiêu chuẩn. Trong Chiến tranh thế giới II nhiều binh sĩ bị thương đã được cứu tại Thái Bình Dương do cần truyền máu khẩn cấp nên các bác sĩ đã dùng nước dừa như một huyết tương. 6. Nước dừa là một kháng khuẩn Nước dừa chứa monolaurin, một monoglyceride kháng virus, kháng khuẩn và antiprozoal được sử dụng để diệt các loại virus gây các bệnh như HIV, Herpes, cytomegalovirus, cảm cúm và các vi khuẩn khác. 7. Chống buồn nôn Nước dừa được đánh giá là rất tốt trong việc giảm nôn mửa. Những người bị bệnh thương hàn, sốt rét, sốt hoặc các bệnh khác mà gây ra ói mửa thì có thể uống nước dừa để ổn định dạ dày. Theo afamily Nguồn Vietnamnet.vn
  2. 17h15: Lúc này, những người làm nhiệm vụ tđang thay quần áo ở khu vực chân tháp. Thời gian đầm mình dưới mặt nước hơn 2 giờ đồng hồ khiến nhiều người nhiễm lạnh. Mắm tép, nước mắm... là những thứ chống lạnh được lực lượng bắt giữ rùa sử dụng để chống rét, làm cho ấm người. Công việc còn lại do đội ngũ trong Ban cứu chữa rùa Hồ Gươm đảm nhiệm. Một nguồn tin cho hay, việc chữa trị rùa Hồ Gươm sẽ tiến hành ngay vào thời gian tới. Sự kiện đưa rùa lên bể thông minh thành công khiến cho nhiều người lần đầu tiên được nhìn cận cảnh cụ rùa Hồ Gươm. Những người may mắn được nhìn thấy rùa cho biết, cụ rùa vừa được bắt có kích thước lớn hơn kích thước cụ rùa trong đền Ngọc Sơn. Tuy nhiên, nhiều móng của cụ đã bị mòn và mất.
  3. Trực tiếp: Đã bắt được rùa Hồ Gươm - Cuộc vây bắt rùa hồ Gươm lần thứ 3 đã bắt đầu vào lúc 15h15 phút chiều 3/4. 17h: Rùa Hồ Gươm đã được đưa vào bể thông minh để chuẩn bị hành trình chữa trị. 16h55: Lồng sắt được đưa đến chân tháp. Chuẩn bị dùng cẩu đưa cụ rùa vào bế thông minh. 16h45: Lồng giữ rùa Hồ Gươm lúc này đang được hai chiếc thuyền di chuyển đưa về khu vực chân tháp. Do trọng lượng của cụ rùa quá lớn, chiếc lồng sắt này chìm dưới mặt nước. Tuy nhiên, nhờ hệ thống phao xốp được ghì dưới đáy nên lồng sắt này vẫn nổi. Rùa Hồ Gươm đã nằm trong lồng sắt và đang được di chuyển về chân tháp 16h30: Các lực lượng lai dẫn đã bắt được rùa Hồ Gươm. Lúc này, dưới sự phối hợp của nhóm người làm việc dưới nước và nhóm người chốt giữ chiếc lồng sắt, rùa Hồ Gươm đã được đưa vào chiếc lồng sắt để di chuyển ra ngoài chân tháp - nơi sẽ chữa trị. Những chiếc thuyền làm nhiệm vụ đã neo lại với nhau để di chuyển chiếc lồng sắt giữ rùa Hồ Gươm đi về phía chân tháp. Trên chân Tháp Rùa, lực lượng tiếp nhận cũng đã trong tư thế sẵn sàng. 16h20: Rùa gần như đã chạm vào chiếc lồng sắt này. Nhưng ngay sau đó, đã đổi hướng và di chuyển vào phía bên trong. 16h10: Dù đã nằm phía trong vòng vây lưới, cụ rùa lại một lần nữa phá bung lớp lưới bên trong, tuy nhiên, vẫn còn một lớp lưới bủa vòng ngoài. Trong khi đó, lực lượng chốt giữ lồng sắt vẫn trong tư thế chờ đợi. Rút kinh nghiệm lần vây bắt bất thành ngày 8/3, lần vây bắt này lưới được chừa một phần để đưa chiếc lồng sắt này vào phần để trống. Có thể tưởng tượng chiếc lưới được thiết kế có khoảng trống như hom giỏ và chiếc lồng sắt chính là chiếc hom giỏ đó. Được biết, việc lai dẫn rùa chỉ thực hiện khi đã đảm bảo các yếu tố hạ tầng ngòai chân tháp cũng như việc rùa Hồ Gươm thích nghi và làm quen được với con người. Thu hút hàng ngàn người dân Cũng như lần vây bắt trước, lần vây bắt này cũng được sự quan tâm của hàng ngàn người dân hiếu kỳ. Vẫn không hiếm cảnh trèo lên cây, ghế đá, chân cột điện khi xem vây bắt rùa. 15h30: Khu vực đường Lê Thái Tổ từ ngã ba Bảo Khánh lên tới ngã ba Hàng Trống đã được chặn đường. 15h15: Lưới vây bắt rùa Hồ Gươm đã được thả xuống sau khi phát hiện tăm rùa. Khu vực vây bắt rùa lần này ở ngay sau lưng đền Ngọc Sơn và đối diện với trụ sở báo Nhân Dân, phía đường Lê Thái Tổ. Chiếc thuyền có lưới dùng vây bắt rùa đã đợi sẵn ở khu vực chân đền từ khoảng hơn 14h. Gần một giờ chờ đợi, khi chắc chắn rùa ở khu vực này, lực lượng làm nhiệm vụ đã tiến hành thả lưới. Do khẩu tổ chức đã được chuẩn bị từ trước, việc thả lưới tiến hành khá nhanh, gọn và thao tác trong chừng 10 phút. Ngay sau khi lưới vây rùa đã được thả xuống, ba chiếc thuyền khác từ chân Tháp Rùa đã tiến về khu vực quây lưới. Phạm vi khép lưới so với lần vây bắt ngày 8/3 trước đó hẹp hơn. Lực lượng làm nhiệm vụ nhanh chóng khép lưới. Khu vực khép lưới chừng hơn 100m2. Ngay sau khi lưới khép chừng 15 phút, cụ rùa Hồ Gươm đã nổi và ngóc hẳn đầu lên cao ở gần mép lưới phía quay lưng ra đài phun nước đường Đinh Tiên Hoàng. Hàng ngàn người dân rất nhanh chóng đã tụ tập vây kín khu vực đang được bủa lưới. Chiếc thuyền chở lồng sắt dùng để đưa rùa Hồ Gươm từ khu vực quây lưới đưa ra chân tháp đã có mặt. Những người làm nhiệm vụ đã tiến hành bọc lưới vào phía bên trong lòng của chiếc lồng này. Đây sẽ là phương tiện để đưa rùa Hồ Gươm về tháp, nếu như việc vây bắt thành công. Lực lượng chức năng giữ trật tự giao thông đã có mặt ngay sau đó để làm nhiệm vụ. Tất cả các phương tiện giao thông lưu thông trên đường Lê Thái Tổ đều được yêu cầu di chuyển hướng khác để tránh gây ùn tắc, ảnh hưởng tới việc tiến hành vây bắt rùa. Khâu chuẩn bị kỹ càng Từ 7h sáng, khi có thông tin hôm nay các sở, ngành của Hà Nội tái bắt rùa Hồ Gươm phục vụ chữa bệnh cho cụ, hàng trăm người dân đã tụ tập quanh khu vực bờ hồ phía đường Lê Thái Tổ để chờ đợi. Thế nhưng, thử thách với sự kiên nhẫn của người xem, lực lượng chức năng vẫn tỏ ra khá bình tĩnh trong việc triển khai các đầu mục bắt rùa Hồ Gươm.
  4. Hi hi! Tạo hình rồi mới ra khí chứ nhỉ? Theo thứ tự Hình, Lý, Khí !
  5. Vua Việt có vợ Đầm người Hòa Lan, đó là Vua Lê Thần Tông Xin các sữ gia cho ý kiến: Lê Thần Tông (1607 – 1662) là vị vua hiếm có trong lịch sử 108 vua chúa Việt Nam, có 6 vợ thì 4 bà là người ngoại quốc. Ngoài bà vợ đầu tiên là Trịnh Thị Ngọc Trúc, vua Lê Thần Tông có 5 phi tần nữa và điều kỳ lạ rằng, mỗi bà thuộc một dân tộc: vợ thứ 2 là người Thái, vợ thứ 3 là người Mường, vợ thứ 4 là người Hán, vợ thứ 5 người Lào và vợ thứ 6 người Hoà Lan. Vợ cả từng lấy bác họ Sách Đại Việt sử ký toàn thư có ghi: "Vào năm Canh Ngọ 1630, niên hiệu Đức Long thứ 2, tháng 5, Vua lấy con gái Vương (Trịnh Tráng) là Trịnh Thị Ngọc Trúc, lập làm hoàng hậu. Trước, Ngọc Trúc đã lấy người bác họ của Vua là Cường quận công Lê Trụ, sinh được 4 con. Khi ấy, Lê Trụ bị giam, Vương đem Ngọc Trúc gả cho Vua. Vua lấy vào cung. Triều thần là Nguyễn Trực, Nguyễn Danh Thế nhiều lần dâng sớ can. Vua không nghe mà nói rằng: Xong việc thì thôi, lấy gượng vậy. Từ hôm ấy trở đi, trời mưa dầm ngày đêm không ngớt...". Pho tượng hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc ở chùa Mật Sơn. Khi nhập cung, Hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc không chỉ có vai vế là trưởng bối, mà còn hơn vua Thần Tông đến mười hai tuổi. Song, ở ngôi vị quốc mẫu không được bao lâu, bà Ngọc Trúc đã mang theo con gái Ngọc Duyên (con của bà và Lê Trụ) rời cung, tu hành tại chùa Bút Tháp ở phía tây thôn Bút Tháp, xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh ngày nay.Linh mục Alexandre de Rhodes từng viết về bà hoàng Trịnh Thị Ngọc Trúc như sau: Bà rất thông chữ Hán, giỏi về thơ, chúng tôi gọi bà là Katerina vì bà giống Thánh nữ về nhiệt tâm cũng như đạo hạnh, về những đức tính tinh thần cũng như sang trọng về dòng họ. Vợ "út" lại là “bà đầm” Bà vợ thứ 6 của vua Lê Thần Tông là người Hoà Lan lai Triều Tiên tên Orona và đây cũng chính là bà hoàng đầu tiên và duy nhất trong các triều đại phong kiến Việt Nam.Tài liệu ghi rằng, bà hoàng đó là con gái của Phó toàn quyền Hoà Lan tại Đài Loan. Trong chuyến cùng thương đoàn Hoà Lan sang Việt Nam vào năm 1630, bà Orona được gặp vua Lê Thần Tông ở kinh thành Thăng Long. Khi đó, nghe theo lời của bố, bà ở lại Việt Nam làm vương phi của vua Thần Tông. Những ngày ở Thăng Long, bà buồn rầu vì lần đầu tiên sống ở kinh thành với hầu hết những người không biết tiếng...Trong cuốn sách Tường trình về Đàng ngoài, linh mục Alexandre de Rhodes viết: Chúa Đàng ngoài đã cầu cứu các thương gia người Hoà Lan khi ấy đã chiếm đóng Java (Indonesia), xin cung cấp cho một số tàu tròn... và người Hoà Lan đã đồng ý vì biết vua chúa Đàng ngoài cần những tàu đó để tiến đánh chúa Đàng trong (chúa Đàng trong những năm đó đã công khai tỏ ra thù địch với người Hoà Lan... ). Từ việc liên minh có tính quân sự của Đàng ngoài với người Hoà Lan, người Hoà Lan đến miền Bắc Việt Nam làm ăn nhiều hơn. Đơn cử, công ty Đông Ấn của Hoà Lan đã liên tục lập những thương điếm ở Phố Hiến, ở Kẻ Chợ... mở mang thêm nhiều cuộc làm ăn buôn bán với Đàng ngoài. Trong bối cảnh cuộc sống xã hội như vậy, vua Lê Thần Tông, một người rất đẹp trai, sống mũi cao, da trắng, thông minh, học rộng, giỏi văn chương, đã lấy các bà vợ người Mường, Thái, người Lào và người Hán, thì có thêm vợ người Hoà Lan cũng là việc dễ hiểu”. Chuyện 6 bà hoàng nhập thần vào tượng Tương truyền, 6 pho tượng nhập thần của 6 bà vợ vua Lê Thần Tông ở chùa Mật Sơn (Thanh Hóa) là do 6 bà cùng lòng cùng sức bỏ tiền công đức ra làm, với nguyện ước mãi mãi bên nhau. Trong đó, tượng bà Hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc ngự trên toà sen, còn các bà khác đội vương miện trong tư thế tọa thiền. Mỗi pho tượng thể hiển một nét dung nhan khác nhau và thấy rõ trang phục của mỗi bà đúng theo y phục dân tộc của từng người. Đặc biệt, y phục, váy áo của pho tượng tạc bà người Hoà Lan, dù là tượng thờ, cổ áo trong vẫn trễ xuống để lộ một mảng ngực. Năm 1959, năm pho tượng vợ vua Lê Thần Tông đã được rước về đền Nhà Lê - được xếp hạng Di tích lịch sử cấp nhà nước - chỉ cách chùa Mật Sơn chừng hơn cây số, thuộc địa phận phường Đông Vệ. Riêng tượng bà Trịnh Thị Ngọc Trúc được đưa về Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.
  6. Bưởi giúp tăng sức đề kháng Bưởi từ lâu được xem là loại hoa quả tốt cho sức khỏe. Bưởi có tác dụng trị tính a-xít vốn có thể ảnh hưởng đến hệ tiêu hóa, theo báo The Times of India dẫn nguồn tin từ các chuyên gia dinh dưỡng Ấn Độ. Nhờ giàu vitamin C nên bưởi giúp duy trì độ đàn hồi trong động mạch. Pectin - một hợp chất khác trong quả bưởi - giúp giảm quá trình tích tụ các chất cặn bã trong cơ thể. Ăn bưởi thường xuyên sẽ giúp bạn tăng cường hệ miễn dịch. Bưởi còn rất tốt cho bệnh nhân tiểu đường vì giúp giảm lượng đường trong máu. Đối với những ai khó ngủ hoặc mất ngủ, ăn bưởi trước khi đi ngủ sẽ giúp họ dễ dàng say giấc nồng. Thai phụ ăn bưởi có thể giảm được quá trình giữ nước trong cơ thể và chứng phù chân. Ngoài ra, bưởi còn chứa một số loại enzyme đốt cháy chất béo giúp giảm cân. Đó là nhờ bưởi giúp ngăn chặn đường và tinh bột tích tụ trong cơ thể. Nếu bạn đang bị đau họng thì nên uống nước bưởi ép vì bưởi có tác dụng giảm đau họng. Bưởi còn chứa nhiều chất chống ô-xy hóa giúp ngừa ung thư. Mai Duyên
  7. Sách Kinh Thánh Cổ. Các cuốn sách cổ gói kín được phát hiện trong một hang động ở Jordani có thể cho biết về những năm tháng đầu tiên của Thiên Chúa Các cuốn sách, mỗi cuốn gồm 5-6 trang bằng chì và được đóng gáy bằng các vòng chì, có lẽ được tìm thấy tại mạn bắc Jordani vào khoảng thời gian giữa năm 2005 và 2007. Trang sách bằng chì này cho thấy hình một cây cọ có quả, mà các học giả nói đó là biểu tượng của người thừa kế House of David, cùng với ngôi sao 8 cánh một chỉ dấu cho Chúa Cứu Thế. Các trang sách độ dầy của trang gần bằng thẻ tín dụng có chữ viết tiếng Hebrew cổ, mà phần lớn là mật mã. Gáy của một trong những cuốn sách này. Tiến siex Zaid Al Saad, người đứng đầu Bộ chuyên về đồ cổ của Jordani, cho biết các cuốn sách được các tín đồ của Chúa làm trước khi Chúa bị đóng đinh trên thập tự giá vài thế kỷ. Sách có họa tiết một chiếc chân nến thường được dùng trong các nghi lễ Do Thái. Tiến sĩ Al Saad tin là phát hiện này cũng "quan trọng như tìm thấy Dead Sea Scrolls". Gáy sách nằm ngang. David Elkington đã cùng với vợ đưa các cuốn sách này tới một bảo tàng của Jordani, và ông cho rằng đây có thể là "một phát hiện lớn trong lịch sử Thiên Chúa Giáo".
  8. Bạn ơi sao lại so sánh thế không sợ khập khểnh à? Các vị này thu nhập khác chúng ta nên họ thấy thấp mà! Hic !
  9. Qua bài viết trên đây càng thể hiện rõ lý thuyết Phong thủy Lạc Việt của người Việt đã đúng theo "Hình nào khí đó", ở đây muốn nói đến các thầy PT ngoại, thế thì PTLV ta có quyền ngẫng cao đầu đi tiếp và phát triển.
  10. <B>ALBERT EINSTEIN VÀ ĐẠO PHẬT Năm 1911, Ông là giáo sư vật lý ở Prague. Năm 1913, ông được mời làm giám đốc Học Viện Vật Lý Hoàng Đế Wilhelm tại Berlin. Đến năm 1921, ông được trao giải thưởng Nobel về Vật lý học qua đề án nghiên cứu "Lý Thuyết Tương đối" (The Theory of Relativity). Trong thế chiến thứ nhất (1914-1918), ông từng bị tống giam vì tội "chống chiến tranh và ủng hộ hòa bình". Sau khi Adolf Hitler (1889-1945) trở thành quốc trưởng của Đức, ông ra sức chống lại chủ nghĩa phát xít và rời bỏ nước Đức sang sống tại Hoa Kỳ. Từ năm 1933 đến năm 1945, ông là giáo sư toán và lý tại Viện Cao học Princeton ở bang New Jersey. Phát xuất từ lòng căm thù chủ nghĩa phát xít mà ông đã giúp cho Tổng thống Mỹ Franklin Roosevelt (1882-1945) chế tạo bom nguyên tử và cuối cùng bị xem là "cha đẻ" của thứ vũ khí giết người này. Đây cũng là lý do mà về sau năm 1950, ông thành lập Viện Kiểm Soát Nguyên tử Quốc tế tại Hoa Kỳ. Ba thập niên cuối đời mình, ông dành thời gian để nghiên cứu về "Lý thuyết thống nhất giữa lực hấp dẫn và hiện tượng điện quang" (The Theory of unify gravitation and eletro-magnetism). Mặc dù bận rộn nghiên cứu và giảng dạy khoa học, nhưng ông Einstein vẫn dành thời gian nhất định để nghiên cứu triết học và tôn giáo, đặc biệt trong đó có Đạo Phật. Theo tài liệu "The World As I See It" (Trần thế khi tôi nhìn thấy nó, nhà xb Philosophical Library, New York, 1949) và quyển "Ideas and Opinions" (Những Ý Kiến và Những Quan Điểm, nhà xb Crown, NY, 1945) là hai tuyển tập những bài báo, bài tham luận về tôn giáo và khoa học mà ông Einstein viết từ đầu những năm ba mươi. Đáng chú ý trong tập này là các bài như "Religion and Science" (Tôn giáo và Khoa học), viết từ 1930; bài "Science, Philosophy & Religion, A Sumposium" (Khoa học, Triết học và Tôn giáo, một buổi hội thảo) viết năm 1941; bài "Religion and Science: Irreconcilable?" (Tôn giáo và Khoa học: không thể hòa giải được sao?) viết vào năm 1948. Theo các tài liệu trên thì chính A. Einstein tự xem mình là một người thuộc về tôn giáo. Tôn giáo của ông được người ta biết qua lý thuyết khoa học của ông. Ông bác bỏ sự thần thánh hóa trong tôn giáo, ông quan tâm đến đời sống con người ở hiện tại và ngay cả sau khi chết. Trong các buổi hội thảo về triết học và tôn giáo, có lúc ông trích dẫn lời của Chúa, rồi có khi ông dẫn lời trong kinh Phật. Quan điểm của ông về tôn giáo chưa bao giờ có hệ thống và nhất quán. Tuy nhiên, với trí tuệ sắc bén và lòng ngưỡng mộ của ông đối với các tôn giáo đã giúp cho ông hiểu đúng và chính xác về các tôn giáo mà ông để tâm nghiên cứu. Ông vẫn thường nhắc nhở các nhà khoa học nên học hỏi ở các tôn giáo để bổ sung cho những khiếm khuyết của khoa học. Ông nói: "Khoa học mà thiếu tôn giáo là khập khiễng. Tôn giáo mà không có khoa học thì mù quáng" (Science without religion is lame. Reigion without science is blind). Cũng theo các tài liệu trên cho thấy, ông đã nghiên cứu Đạo Phật qua các sách báo của các học giả Phật học của người Âu Mỹ viết, đáng kể là triết gia người Đức Schopenhauer Arthur (1788-1860), tiến sĩ người Đức Paul Carus (1852-1919), viện sĩ hàn lâm người Nga Vasily Vasaliyey (1818-1900)... là những nhà Phật học nổi danh ở phương Tây. Nhờ nghiên cứu như vậy mà A. Einstein đã nhìn thấy Đạo Phật như là một triết lý phương Đông cực kỳ sống động và triết lý ấy đã đi vào cuộc đời bằng chân lý thực chứng của mình, ngỏ hầu cắt ngang sự chậm tiến, lạc hậu, mê tín, cuồng tín và kém văn minh của thời đại. Đạo Phật đã đem lại cho con người một cái nhìn mới, một lối sống mới, một sự hài hòa mới, sống với nhau như ánh sáng trong không gian, chan hòa với nhau như nước với sữa. Chính vì thấy rõ cái độc đáo đó mà ông Einstein đã phát biểu về Đạo Phật như sau : "Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trên trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó" (The religion of the future will be a cosmic religion. It would transcend a person God and avoid dogmas and theology. Covering both the natural and the spiritual, it should be based on a religious sence, arising from the experience of all things, natural and spiritual, as a meaningful unity. Buddhism answers this description). Đồng thời, một lần khác ông cũng khẳng định rằng: "Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với các nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo. Phật giáo không cần xét lại quan điểm của mình để cập nhật hóa với những khám phá mới của khoa học. Phật giáo không cần phải từ bỏ quan điểm của mình để xu hướng theo khoa học, vì Phật giáo bao hàm cả khoa học cũng như vượt qua khoa học" (If there is any religion that would cope with modern scientific needs, it would be Buddhism. Buddhism requires no revision to keep it up to date with recent scientific finding. Buddhism need no surrender its view to science, becauseit embrances science as well as goes beyond science). (Cả hai câu trên được trích từ Collected famous quotes from Albert Einstein. http://rescomp,stanford,edu/~ cheshire/ Einstein quotes.htm). Dù những lý thuyết khoa học của ông rất phức tạp và khó hiểu, nhưng tấm lòng nhân đạo và mến chuộng hòa bình của ông đã khiến cho mọi người cảm thấy gần gũi với ông. Ông đã cống hiến tất cả trí tuệ và sức lực của mình đối với sự phát triển khoa học của nhân loại. Ông làm việc không biết mệt mỏi cho đến ngày qua đời. Ông mất vào lúc 1giờ 25 phút rạng sáng ngày 19 tháng 04 năm 1955 tại Princeton, Hoa Kỳ, hưởng thọ 76 tuổi. Ngày nay, đối với mọi tín đồ Phật Giáo trên khắp năm châu đều thành kính khi nhắc đến tên tuổi của ông, người đã từng góp phần khẳng định lại giá trị vĩnh cửu đối với Giáo lý của Đạo Phật.(theo gdptchanhphap.org) </B>
  11. Cá tháng Tư là ngày đầu tiên của tháng 4, ngày mà mọi người trên thế giới có thể nói khoát với nhau cho vui mà không sợ bị người kia giận dữ. Trong ngày này, mọi người đi nói khoác với nhau càng nhiều càng tốt và ở một số nơi thì việc nói khoác này sẽ kết thúc vào buổi trưa. Nếu sau buổi trưa còn ai tiếp tục nói khoác thì vận đen sẽ ập tới với người đó. Cho tới bây giờ nguồn gốc chính xác của ngày Cá tháng Tư vẫn chưa được lộ rõ. Tại sao lại là ngày đầu tháng 4 và tại sao lại nói khoác với nhau? Một giả thuyết cho rằng đó là ngày đánh dấu mùa xuân tới (ở phương Tây) trong khi giả thuyết khác cho rằng đây là ngày kết thúc Đại Hồng Thủy và kết thúc chuỗi ngày lênh đênh trên biển của Noah, người đã được Chúa chỉ bảo để đóng thuyền. Giả thuyết được chấp nhận rộng rãi nhất bắt nguồn từ cuối thế kỷ XVI khi mà lịch Julian (lấy tên từ Julius Caesar) được thay thế bởi lịch Gregorian. Trong lịch Julian cũ, năm mới bắt đầu từ 25 tháng 3 và ngày lễ kỷ niệm năm mới thường được tổ chức sau đó 1 tuần (tức là rơi vào khoảng 1/4) vì tuần có ngày 25/3 lại vướng vào Holy Week. Do vậy sau khi đã đổi lịch sang lịch mới và kỷ niệm năm mới vào ngày 1/1, một vài người vẫn muốn ăn Tết lần thứ hai bằng cách lừa mọi người nhớ lại rằng 1/4 mới là ngày lễ kỷ niệm năm mới. Trong ngày đó, người đi lừa thường mời người bị lừa tới các bữa tiệc mừng năm mới không tồn tại trên thực tế. Ngày nay, ở Anh người ta gọi những người bị lừa trong dịp 1/4 là “April Fool”, ở Scotland thì được gọi là “gowk” cũng có nghĩa là fool – kẻ ngốc. Người Pháp thì gọi những người bị lừa là Poissons D’Avirl có nghĩa là “những con cá tháng Tư” và có lẽ do ảnh hưởng của người Pháp nên ở Việt Nam chúng ta cũng gọi ngày này là ngày Cá tháng Tư. MỘT SỐ TRÒ CÁ THÁNG TƯ NỔI TIẾNG Ngày 1/4/1957, kênh truyền hình BBC, chương trình thời sự Panorama, đã phát một bộ phim ngắn giới thiệu cách trồng và thu hoạch mì ống có độ dài kỉ lục. Đoạn phim quá ấn tượng đến nỗi sau chương trình, không biết bao nhiêu khán giả đã gọi điện đến đài để hỏi làm cách nào mà nông dân Thụy Điển lại trồng mỳ spaghetti ở trên cây được như thế?.. Đến năm 1965, lại thêm một “quả lừa” khác mà nhiều người vẫn tin: BBC thông báo có 1 thiết bị mới cho phép truyền tải mùi vị qua sóng điện từ đài truyền hình tới khán giả. Thế là hàng trăm người gọi điện tới xin “ngửi” thử. Ngày cá tháng Tư năm 1950, chương trình thời sự đài truyền hình Hà Lan đưa tin: Tháp nghiêng Pisa đã bị đổ hoàn toàn. Trước tin này, rất nhiều người đã “choáng” nặng và gọi điện tới đài bày tỏ sự tiếc nuối. Cũng cơ quan này, trong ngày 1/4 năm khác, thông báo: chính phủ Hà Lan đã có thiết bị công nghệ mới, cho phép dò ra những máy thu hình “xem chui”- tức là không trả tiền cho đài truyền hình, tuy nhiên thiết bị này bị vô hiệu hóa nếu TV được bọc trong tấm chắn thép. Ngay lập tức chỉ trong vài giờ đồng hồ, các loại lá thép ở các cửa hàng trong cả nước bán hết veo. Một trò đùa nổi tiếng khác là kì World Cup 2006 ở Đức. Ngày 1/4/2006 đài truyền hình SAW tung tin một virus đã phá hủy hệ thống bán vé làm 500 vé đã đặt trước đều tan thành mây khói. Hơn 600 người đã đệ đơn kiện khi biết đó chỉ là một bản tin vịt trong ngày Cá Tháng Tư. Minh Triết (tổng hợp)
  12. http://mp3.zing.vn/bai-hat/Lan-Dau-Tien-Noi-Doi-Cam-Ly/ZWZBIUA9.html
  13. Truyền thuyết đã có Cụ hơn mấy trăm năm, mà không nâng niu Cụ e rằng Cụ cũng tủi phận lắm!
  14. Internet gia truyền, thiền siêu tốc Nhiều chùa thi nhau xây thật to thật cao, xe sang, điện thoại di động mốt mới nhất. Dân tham nhũng thì thi nhau lao đi chùa, cạnh tranh phúng viếng, lấy lượng tiền phúng để đo sự đức độ.Ông Bi: “Thế giới phẳng hẳn rồi”. Phải mở ngay cái quán kinh doanh game internet thôi. Trẻ con bây giờ chả học hành gì cả, 24/24 ở trên mạng. Đâu cũng mạng và mạng chúng lao vào đến mức quên mạng sống của chính mình. Không kinh doanh thì ngu à. Phải làm cái thương hiệu thật ăn khách. “Internet gia truyền”. Sốc! Hốt! Độc! Bà Lạc: Thiên hạ lao như điên như dại để kiếm tiền. Cái gì cũng muốn một nhát ăn ngay. Hết nhảy lầu vì chứng khoán bây giờ lại đại hạn bất động sản và vàng. Mật ít ruồi nhiều. Stress mãn tính tràn lan. Phải ngược lại cái lão Bi lẩn thẩn, nó phục vụ con cái, ta phục vụ bố mẹ chúng. Mở ngay CLB “thiền siêu tốc”. Tuyệt chiêu! Người quá hoài cổ, kẻ lại quá sính kim. “Internet thì gia truyền, thiền thì siêu tốc”. Cổ không ra cổ, kim cũng chả ra kim. Vàng thau lẫn lộn chả biết lối nào mà lần. Giới trẻ ngày nay hoặc là tự kỷ sống khép kín, hoặc là đánh nhau rồi tung clip lên mạng để nổi tiếng, để làm thương hiệu, hệt như các sao. Bố mẹ nghèo thì nhốt con trong nhà như gà công nghiệp. Hội tham nhũng thừa tiền nhưng thiếu tình, đối xử với con hệt như với quan tham, chi nhiều là chí tình. Cho con tiêu xả láng tha hồ phá đời. Nhiều chùa thi nhau xây thật to thật cao, xe sang, điện thoại di động mốt mới nhất. Dân tham nhũng thì thi nhau lao đi chùa, cạnh tranh phúng viếng, lấy lượng tiền phúng để đo sự đức độ. Người quá bảo thủ, kẻ lại quá phóng túng. Người quá tự tin, kẻ quá tự ti. Thiên nhiên & cuộc sống luôn âm dương hài hòa. Hội nhập nhưng không hòa tan. Hòa đồng nhưng không đồng hóa. Du nhập được cái mới, cái văn minh, hiện đại trên nền tảng bảo tồn văn hóa dân tộc. Muốn xây nhà cao thì móng phải sâu và chắc. Phan Quốc Việt( bee.net)
  15. Tính cách Nhật Bản: Tự nhận biết số phận và được rèn luyện theo Phật giáo. Giác Ngộ - Hòa thượng Yoshimizu Daichi (trụ trì chùa Nisshin Kustu, Tokyo, Nhật Bản) là một người bạn của Việt Nam, của Phật giáo Việt Nam. Hòa thượng là người đã nhiệt thành ủng hộ cuộc vận động Phật giáo năm 1963, chủ trương chương trình tặng hoa anh đào cho Việt Nam, tham dự nhiều đại lễ quan trọng của Giáo hội. Hòa thượng vừa có mặt ở Việt Nam vào chiều 21-3 để tham dự Lễ cầu nguyện cho các nạn nhân trong thảm họa thiên tai vừa qua tại Nhật Bản theo lời mời của Hòa thượng Thích Trí Quảng, Phó Chủ tịch HĐTS GHPGVN, Trưởng ban Trị sự Thành hội PG TP. Ngôi chùa Hòa thượng đang trụ trì là nơi cưu mang gần 200 người Việt lánh nạn. Hòa thượng đã dành cho GN thời gian chia sẻ… HT.Yoshimizu Daichi kể lại nỗi kinh hoàng của trận động đất - Ảnh: H.Diệu ✒Thưa Hòa thượng, tình hình ở Nhật hiện nay như thế nào? Qua các phương tiện truyền thông, thầy có nắm được nhiều thông tin về thảm họa ở một số tỉnh phía Đông bắc Nhật? - Hòa thượng Yoshimizu Daichi: Thảm họa động đất, sóng thần ngày 11-3 vừa qua ở đất nước chúng tôi là một trong những sự kiện chấn động toàn thể nhân loại. Hình ảnh hung hãn của cơn sóng dữ cùng sự sụp đổ của hàng vạn ngôi nhà, hàng triệu công trình và đặc biệt là những vụ nổ hạt nhân, rò rỉ chất phóng xạ ở các nhà máy điện hạt nhân đã làm xáo trộn đời sống nhân dân. Theo tôi biết, hiện có khoảng 20.000 người đã chết và mất tích, con số này là chưa thống kê đầy đủ. Ngoài ra, báo chí và truyền hình loan tin có khoảng 400.000 người thuộc 4 tỉnh chịu ảnh hưởng nặng của thảm họa đang trong tình cảnh thiếu thốn vì hàng cứu trợ chưa đến được. Cả nước có 1.350 địa điểm - trại lánh nạn được mọc lên để giúp những người mất hết nhà cửa, hoặc người dân ở trong vùng có khả năng bị ảnh hưởng bởi chất phóng xạ. Tôi năm nay đã 71 tuổi, nhưng đây là lần đầu tiên trong đời tôi chứng kiến thảm họa thiên tai, động đất và sóng thần, to lớn đến vậy. Sự tàn phá của nó cũng khốc liệt, khôn lường. Tuy nhiên, nỗi lo về động đất đã tạm lắng. Nay người ta lo lắng về sự phóng xạ của các lò năng lượng nguyên tử hạt nhân ở Fukushima. Đây không còn là vấn đề của riêng Nhật Bản mà trở thành sự quan tâm của thế giới. Con người đã chế tạo ra các lò hạt nhân nguyên tử, nhưng lại không thể kiểm soát nó! Thủ tướng Nhật Bản đã và đang kêu gọi sự chung tay góp sức của các nước có kinh nghiệm bằng cách cử các chuyên gia cũng như viện trợ về công nghệ để có giải pháp tốt nhất, an toàn nhất cho việc hạn chế, ngăn chặn tác hại của các lò hạt nhân sau khi phát nổ, rò rỉ chất phóng xạ. Hiện nay, theo chỗ tôi biết được, đã có 54 quốc gia hưởng ứng lời kêu gọi này và đã nhanh chóng cử người có chuyên môn cũng như các phương tiện khác, đặc biệt là thuốc men đến các vùng bị nạn. Với Việt Nam, xin các bạn yên lòng. Chúng tôi sẽ làm bất cứ điều gì có thể để giúp người Việt đang du học, lao động tại Nhật, nhất là ở các vùng bị ảnh hưởng động đất, sóng thần được an toàn và yên ổn về tinh thần. Hiện tại, tới thời điểm tôi sang Việt Nam thì đã có trên 200 dư chấn kể từ sau vụ động đất ngày 11-3 với cường độ rung lắc khác nhau. ✒Vậy ngôi chùa Nisshin Kustu có bị ảnh hưởng gì không, thưa Hòa thượng? - Chùa Nisshin Kustu là một ngôi chùa cổ kính nằm ở thủ đô Tokyo, cách khá xa nơi diễn ra trận động đất sóng thần nên không ảnh hưởng gì nhiều. Hơn nữa, trong xây dựng chúng tôi đã sử dụng các thiết bị, máy móc bảo quản hiện đại, tự động hóa nên nếu có xảy ra sự cố cũng hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại. Chỉ ít kệ sách bị đổ, vài bức tường ở công trình phụ bị nứt… ✒Được biết, ngôi chùa Nisshin Kustu là điểm đến bình yên của rất nhiều người tị nạn Việt Nam? - Từ năm 1963 tôi đã có duyên với Việt Nam, thông qua mối thâm tình bạn hữu với Hòa thượng Tâm Giác, Hòa thượng Thanh Kiểm, Hòa thượng Trí Quảng… Và cách đây 4 năm tại chùa Nisshin Kustu tôi có làm lễ quy y cho 40 học sinh-sinh viên Việt Nam du học tại Nhật Bản. Khi ấy, các vị ở Đại sứ quán Việt Nam có đến dự và đã biết đến sinh hoạt của chùa có sự gắn bó với người Việt ở Nhật. Từ đó, hễ có duyên sự gì thì phía Đại sứ quán đều liên hệ với chúng tôi để kết hợp thực hiện. Lần này cũng vậy, sau khi động đất, sóng thần xảy ra thì Ngài Đại sứ Nguyễn Phú Bình đã liên hệ với chúng tôi, thông qua Sư cô Tâm Trí (nghiên cứu sinh Phật học tại Nhật, trú xứ tại Nisshin Kustu) và đã cam kết sẽ hỗ trợ nơi ăn chốn ở cho người Việt tị nạn. Sau đó, Ngài Đại sứ đã làm việc với phía Nhật Bản để được đưa xe buýt lên vùng Đông bắc (trong tình hình hết sức khó khăn về nhiên liệu, đường sá ách tắc, thời tiết giá lạnh…) để đón các em về. Tại chùa, chúng tôi đã chuẩn bị đầy đủ mọi thứ cần thiết để các em có thể yên tâm ổn định sau sự cố. Hiện nay chùa là nơi lánh nạn của gần 200 người Việt Nam, đa số là sinh viên, học sinh, nghiên cứu sinh. ✒Trước đó nhà chùa đã có kinh nghiệm trong công tác cứu nạn, cứu hộ chưa, thưa Hòa thượng? - Với ý thức về động đất thường xuyên xảy ra nên người dân Nhật lúc nào cũng có sự chuẩn bị cả về tâm lý lẫn phương tiện để ứng phó. Song, với những thảm họa lớn như động đất ở Kobe hồi năm 1995 hoặc thảm họa như vừa qua thì ngoài sức dự liệu. Tuy nhiên, Phật dạy về cách làm việc tùy duyên, cái gì tới thì mình tiếp nhận một cách bình tĩnh, xử lý nó theo những điều kiện cụ thể, theo hướng tốt nhất. Do vậy, ban đầu có một vài khó khăn như lo điện nước sẽ thiếu, không có nước nóng để các em sinh viên, người lao động lánh nạn tắm chúng tôi cũng khá băn khoăn. Nhưng ngay sau đó, nhà chùa đã linh động liên hệ được với nhà tắm công cộng gần chùa nên sau đó đã ổn định. Nghĩ xa một chút, thì được trú tại chùa đã là hạnh phúc khi trong thực tế hàng vạn người đã chết và mất tích, hàng trăm nghìn người đang phải sống trong điều kiện giá lạnh, thiếu thốn… ✒Hiện tại, tinh thần và đời sống của người lánh nạn như thế nào? - Bây giờ thì an tâm nhất rồi, có gì đâu lo khi được sống trong chùa, có Phật, có chư vị Bồ tát… Quan trọng là các em đã được hướng dẫn ngồi thiền, tụng kinh giúp an tâm, nhìn nhận sự thật để chấp nhận và bước qua. Có khoảng một nửa số sinh viên đã được bố mẹ mua vé từ Việt Nam đưa về nước. Một số còn ở lại, trong đó chủ yếu là lao động chưa hết thời hạn nên cố gắng để vượt qua khó khăn, trở lại làm việc bình thường… ✒Trong hoàn cảnh khắc nghiệt vừa qua, người Nhật dường như vẫn rất bĩnh tĩnh giữa đau thương. Thế giới đã từng biết đến một tính cách Nhật Bản kiên cường, nay lại hết lời ca ngợi về sự bình tĩnh ấy. Giới truyền thông Việt Nam cũng đã đăng tải nhiều câu chuyện hết sức đẹp, cảm động về tinh thần đùm bọc, ý thức chia sẻ cộng đồng… của những người đang là nạn nhân của thảm họa thiên tai kinh hoàng nhất. Là người Nhật, Hòa thượng nhìn nhận điều gì đã làm nên tính cách ấy? - (Trầm ngâm) Đất nước chúng tôi gồm nhiều đảo, nằm trên vành đai núi lửa Thái Bình Dương. Chúng tôi biết số phận của mình là phù du, là mong manh, có thể tan biến bất cứ lúc nào. Cũng giống như hoa anh đào, hoa rất đẹp nhưng lại rất mong manh. Phật giáo du nhập vào Nhật Bản và đã ảnh hưởng rất sâu sắc lên tư duy, nhận thức, nói chung là ảnh hưởng sâu sắc vào văn hóa, lối sống của người Nhật. Người Nhật đã lấy từ Phật giáo những tinh hoa để đưa vào đời sống hàng ngày, phương pháp rèn luyện tâm thức trong thiền định Phật giáo đã được vận dụng thành Kiếm đạo, Hoa đạo, Trà đạo…, mà qua đó, người Nhật được giáo dục, được rèn luyện về tinh thần, về tâm tỉnh thức, sự chịu đựng trước mọi hoàn cảnh để rồi vượt lên hoàn cảnh. Truyền thống Nhật Bản dạy cho chúng tôi ý thức về tổ tiên, luôn biết ơn, lúc nào cũng nhớ về công lao của các bậc tiền nhân, của người khác trong tương quan xã hội mà mình đang sống. Chính vì vậy mà người Nhật luôn có ý thức tôn trọng, nghĩ về lợi ích của người khác trước mình… Phật giáo đã du nhập, bổ sung thêm nhiều nội dung quan trọng về giáo lý Vô thường, duyên sinh, vô ngã… Tôi nghĩ chính điều đó đã làm nên tính cách của người Nhật Bản chúng tôi, trở thành chuẩn mực trong mọi ứng xử ở cuộc đời, lúc khoẻ mạnh cũng như lúc cận kề cái chết, với trẻ con cũng như người già… Tôi đã đến Việt Nam nhiều lần, đã được tham dự Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, qua những gì tôi chứng kiến, qua hình tượng Hồ Chí Minh được nhắc đến rất nhiều, tôi thấy văn hoá Việt Nam cũng có nhiều điểm tương đồng với Nhật Bản, nhất là về lòng biết ơn, nhớ ơn với tiền nhân và về sự ảnh hưởng của Phật giáo. ✒ Là công dân Nhật, Hòa thượng có niềm tin vào sự phục hồi của đất nước sau thảm hoạ được nhận định là đã đưa nước Nhật vào tình trạng khó khăn nhất kể từ sau thế chiến thứ hai? - Đương nhiên là tôi hoàn toàn tin tưởng. Đây không phải là lần đầu tiên người Nhật đối mặt với khó khăn. Trong khó khăn thì tinh thần đoàn kết và niềm tin, sự mạnh mẽ của nhân dân Nhật càng được phát huy tối đa. Một cậu bé Nhật ở thành phố Sendai, tỉnh Miyagy bình tĩnh xếp hàng chờ nhận nước sôi trong giá rét, một văn hóa đẹp được thế giới ca tụng - Ảnh: AFP ✒ Những ngày qua, ở Việt Nam cũng đang có một phong trào hướng đến Nhật Bản bằng nhiều việc làm thiết thực, cụ thể như cầu nguyện, quyên góp… Hòa thượng có cảm nghĩ gì trước nghĩa cử thấm đẫm tình người ấy? - Tôi thật sự xúc động và cảm kích trước tấm lòng của các bạn Việt Nam và bạn bè thế giới. Trong mối tương quan rộng lớn, mang tính toàn cầu như hiện nay thì việc sẻ chia với nhân dân Nhật, nhân dân các nước bị tai ương, thảm hoạ là một việc làm thể hiện trách nhiệm và tình người. Dù bất cứ chia sẻ nào trong lúc này cũng sẽ tiếp thêm sức mạnh để cho Nhật Bản đứng dậy, thoát khỏi khó khăn, cùng hoà chung bước tiến với toàn thế giới. Lần này sang đây, ngoài việc tham dự một vài Phật sự khác thì tôi còn đến vì lời mời của Hòa thượng Thích Trí Quảng, Phó Chủ tịch HĐTS GHPGVN kiêm Trưởng Ban trị sự THPG TP.HCM trong Phật sự cầu siêu, cầu an cho nạn nhân động đất, sóng thần Nhật Bản vào ngày 27-3. Tôi đến để cùng hiệp tâm cầu nguyện cho đồng bào mình, dù đường xa xôi nhưng tôi vẫn đi, bởi tôi nghĩ tới thịnh tình của các bạn đồng tu Việt Nam… "Ngày 17-3, khi trực tiếp nói chuyện qua điện thoại với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, tôi đã báo cáo sự giúp đỡ to lớn của Đại lão Hòa thượng Yoshimizu Daichi, Sư cô Tâm Trí cùng toàn thể Phật tử chùa Nisshin Kustu đối với các em sinh viên và tu nghiệp sinh Việt Nam. Thủ tướng hết sức cảm động, đánh giá cao và chuyển lời cảm ơn trân trọng nhất đối với tấm lòng, tình cảm của Đại lão Hòa thượng nói riêng, của Sư cô Thích nữ Tâm Trí và các Phật tử chùa Nisshin Kustu nói chung và mong muốn Đại lão hòa thượng sau này tiếp tục dành sự quan tâm, hỗ trợ những người dân Việt Nam nào còn gặp khó khăn tại Nhật Bản. Một lần nữa, thay mặt Đại sứ quán Việt Nam tại Nhật Bản, tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành nhất tới Đại lão Hòa thượng cùng toàn thể Phật tử chùa Nisshin Kustu. Tôi cũng xin bày tỏ lòng kính phục đối với nhân dân và đất nước Nhật Bản khi trong hoàn cảnh khó khăn như hiện nay, người dân vẫn giữ được trật tự và kỷ cương xã hội, tinh thần đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau để vượt qua thử thách hiện nay. Xin kính chúc nhân dân và đất nước Nhật Bản sẽ sớm vượt qua được khó khăn, nhanh chóng khôi phục những khu vực bị thiệt hại để phát triển nhanh và mạnh mẽ hơn nữa".( Nguyễn Phú Bình Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước CHXHCNVN tại Nhật Bản (Trích thư gửi HT.Yoshimizu Daichi) Từ đêm 11-3 vì mọi giao thông không hoạt động, nên có người đến chùa Nisshin Kustu trọ, có người vì tiệm 24 giờ bán hết thức ăn, bị đói 5, 6 tiếng đồng hồ, đến chùa an toàn, rồi có người ở gần Sinkiba, bị cúp nước cả 3 ngày không tắm rửa được, lên chùa được tắm, ăn no, ngủ ấm... họ nói thật hạnh phúc vô cùng. Nhờ trời Phật che chở.
  16. Chúc mừng Sinh Nhật VuSongAnh, Thành Công, Hạnh Phúc Viên Mãn.
  17. Nắng ấm, cụ rùa cố bò lên bờ Sáng 31/3, cụ rùa Hồ Gươm - Hà Nội đã khiến tất cả những người có mặt xung quanh hồ phải ngạc nhiên khi cố gắng leo lên bờ. >> Khẩn cấp cứu cụ Rùa Hồ GươmCụ rùa nổi đoạn Lê Thái Tổ lúc 8h sáng rồi bơi lững lờ đến phía đường Đinh Tiên Hoàng. Như thường lệ, rùa nổi đến đâu thì người dân hiếu kỳ lại chạy theo đến đó để xem cho rõ. Cụ Rùa tiến đến gần bờ ... và lấy hết sức bình sinh leo lên Lúc 11h30, đang bơi gần mép hồ, cụ rùa bỗng nhiên tiến đến sát bờ rồi cố gắng hết sức leo thẳng lên bờ. Cụ rùa đặt thẳng cả 2 chân lên trên bờ rồi lấy hết sức bò lên Nắng ấm làm cho vết thương của cụ rùa có vẻ như khó chịu hơn Tuy nhiên, mặc dù cụ đã hết sức cố gắng nhưng có lẽ do sức quá yếu, cơ thể lại cồng kềnh nên cụ rùa vẫn không thể nào trèo được lên bờ trong sự hò reo của người dân đứng xung quanh. Không từ bỏ mong muốn được lên bờ sưởi nắng, cụ rùa lại tiếp tục ngoi lên, để lộ phần móng đã bị tuột gần hết vuốt. Phần móng đã tuột gần hết vuốt Nhiều người dân sống quanh hồ cho rằng, hôm nay trời nắng đẹp nên cụ rùa có lẽ cũng muốn được lên bờ phơi nắng một chút. Nhìn thấy những móng vuốt đã tuột và lở của rùa, không ít người cảm thấy xót xa. Trong khi đó, kế hoạch lai dẫn cụ rùa về chân Tháp Rùa để chữa bệnh vẫn chưa biết khi nào tiếp tục được tiến hành sau lần bắt hụt hôm 8/3. Theo Long Anh - Thu Lý VietNamnet
  18. Dinh dưỡng tạo lá chắn cho tim Những thực phẩm sau đây có thể giúp bạn bảo vệ tim mạch, tiêu diệt các phân tử gốc tự do, chống cholesterol cao. Táo: Đây là nguồn phong phú chất xơ và chất chống ô-xy hóa. Chất chống ô-xy hóa từ táo khi vào cơ thể có tác dụng loại bỏ các phân tử gốc tự do, chống chứng viêm sưng và ngừa ung thư. Có thể ăn một quả táo (cung cấp 85 calo) mỗi ngày. Cà rốt: Beta-carotene trong cà rốt giúp bảo vệ động mạch, chống chứng máu vón cục. Nhờ chứa nhiều chất xơ, cà rốt giúp cung cấp kali - chất có tác dụng giảm huyết áp, vitamin B6 và một số chất chống ô-xy hóa khác. Thịt bò: Thịt bò cung cấp khá nhiều vitamin B12 và B6. Cơ thể cần cả hai loại vitamin này để chuyển hóa homocysteine thành những phân tử không còn gây độc hại cho cơ thể. Hàm lượng homocysteine cao có liên quan tới nguy cơ mắc bệnh tim và đột quỵ cao, đồng thời còn dẫn tới chứng loãng xương. Các chuyên gia khuyên dùng 100g thịt nạc mỗi ngày. Tỏi: Tỏi chứa allicin và một số hợp chất sulphur khác giúp giảm huyết áp và cholesterol. Theo báo The Times of India, các chuyên gia dinh dưỡng cho biết hợp chất trong tỏi giúp ức chế quá trình sản xuất cholesterol có hại LDL trong gan. Dưa hấu: Bạn có thể ăn khoảng 200g dưa hấu mỗi ngày, vốn cung cấp khoảng 62 calo. 200g dưa hấu còn cung cấp khoảng 275mg kali giúp giảm huyết áp. Trong dưa hấu cũng chứa nhiều chất chống ô-xy hóa lycopene rất tốt cho tim mạch. Nhất Linh
  19. Một số ví dụ về chữa trị và hoá giải tâm linh Có lẽ có vô số trường hợp về chữa trị và hoá giải tâm linh đã được thực hiện trong thực tế, nhưng chỉ một phần rất nhỏ được đưa lên sách báo. Dưới đây sẽ xét một số trường hợp đã biết để minh hoạ cho một nền y học tương lai tuy huyền bí, nhưng chắc chắn rất hiệu quả. Nhà tiên tri Vanga: Chữa bệnh tâm thần - Một lần vào đêm khuya, từ làng Colarovo người ta đưa một thanh niên bị điên đến nhà Vanga. Anh ta bỗng dưng bị mất trí, túm lấy cái rìu và lao vào những người thân. Người điên bị trói để phòng gây rắc rối. Khi biết vậy, Vanga phán: “Hãy mua một chiếc bình gốm mới, đổ đầy vào đó nước từ con sông gần nhất và hãy rẩy lên người ốm ba lần. Sau đó ném bình xuống đá để cho nó vỡ ra thành mảnh nhỏ. Dù thế nào cũng không được ngoảnh về phía chiếc bình vỡ”. Mặc cho cách chữa trị kỳ lạ, nhưng mọi người đã thực hiện đúng theo lời nhà tiên tri dặn. Điều ngạc nhiên nhất là người thanh niên đã tỉnh lại, ngủ say suốt đêm và sáng dậy đã trở lại bình thường. Cái giá của quả dưa hấu - Một hôm có đôi vợ chồng đứng tuổi từ một làng nhỏ bé miền Pleven tới gặp Vanga để xin lời khuyên về những nỗi cay đắng và bệnh tật của mình. Bổng nhiên Vanga quay sang phía ông chồng và hỏi: - Thế anh không quên chuyện cái dây thừng đấy chứ? Người đàn ông ngơ ngác không hiểu, nhưng vợ ông ta ngay lập tức nhớ ra chiếc dây bất hạnh đó và bà ta kể lại như sau: Khi cả hai còn trẻ và khoẻ, họ có một mảnh vườn lớn. Họ trồng dưa hấu rồi đưa đi bán. Một lần trên đường ông chồng chở dưa ra chợ, gặp một cậu bé đu lên đằng sau xe của ông và moi lấy một quả. Ông ta nổi nóng vớ lấy chiếc dây thừng đánh cậu bé tàn bạo. Vợ ông phải khó khăn lắm mới giằng nổi cậu bé ra khỏi tay ông đang nổi đoá. Biết được điều đó, Vanga nói tiếp: - Vì sự tàn bạo của mình mà bây giờ anh phải trả giá. Quả dưa hấu có đáng gì không? Và bà đã khuyên họ phải rán làm việc thiện nhiều để hoá giải lỗi lầm quá khứ. Gieo nhân độc phải gặt quả đắng - Một người nông dân tới gặp Vanga. Gia đình ông đã sinh ra 13 người con, nhưng tất cả đều chết khi còn nhỏ; đứa thứ 13 chết khi tròn 12 tuổi. Nguyên nhân chết của những đứa trẻ đã được bác sĩ giải thích là do người mẹ truyền vi trùng lao cho chúng. Nhưng Vanga thì lại giải thích khác. Bà nhắc lại cho người nông dân rằng: ngày xưa ông đã quá thẹn thùng vì mẹ mình già mà còn có mang, nên đã lăng mạ bà rất nặng nề. Hậu quả là hai mẹ con họ đều chết. Điều đó xảy ra lâu lắm rồi và đến giờ phải trả giá. Nếu biết sớm thì có thể hoá giải tâm linh theo cách thực tâm sám hối tội lỗi và cầu xin sự tha thứ của vong linh người mẹ! (Theo “Những nhà tiên tri thế giới”, NXB Văn hoá Thông tin, 10-2000)
  20. CÁC LINH HỒN CHỮA VẾT THƯƠNG Thông tin sau đây cho biết một trường hợp các linh hồn người chết công khai chữa vết thương cho người sống. Chứng cứ của sự việc này đã được ghi lại bằng hình ảnh và ghi chép khám chữa bệnh của bệnh viện. Một ngày đầu tháng 1-2010, nhà ngoại cảm Vũ Thị Minh Nghĩa (Năm Nghĩa) đã ngã từ trên võng và bị thương ở tay phải do chống xuống đất. Kết quả chụp phim X quang cho thấy tay bà bị trệch khớp, rạn xương và bong gân, phải đi bệnh viện bó bột và dự kiến sau một tháng sẽ tháo bỏ bột.Ngày thứ ba sau khi bó bột, khi đang ngồi tiếp khách thì bà Năm Nghĩa nhìn thấy một con bướm to bay đến. Bà nhận ra đó là linh hồn bác sĩ Đặng Thùy Trâm nhập vào con bướm đến chữa tay đau cho mình. Bà giơ tay trái lên nhưng bướm không đậu, nhưng lại nhanh chóng hạ xuống bàn tay đau. Sau ít phút, phần lòng bàn tay có bướm đậu trở nên đỏ rực màu lửa, bà Năm Nghĩa có cảm giác như điện chạy râm ran dọc cánh tay đau. Theo lời nhà ngoại cảm, chính linh hồn bác sĩ Đặng Thùy Trâm và các liệt sĩ khác đã tập trung truyền năng lượng để cứu chữa cho tay bà. Trong thời gian này, bà Năm Nghĩa nhìn thấy một khối năng lượng phía trên bàn tay đau với hình khuôn mặt bác sĩ Trâm. Được sự đồng ý của linh hồn, bà Năm Nghĩa đã bảo một người dùng điện thoại di động chụp lại hình ảnh có một không hai đó. Ngày hôm sau, do cảm thấy cánh tay hoàn toàn bình thường, bà Năm Nghĩa đã đến bệnh viện để kiểm tra. Kết quả cho biết là các tổn thương của tay đã được phục hồi, bệnh viện chấp nhận tháo bỏ bột cho bà Năm Nghĩa chỉ sau 4 ngày./. Lê Văn (St)
  21. Cảm nhận của KN2004 thấy thích là vì có Tinh và Khí, mà phần 2 thì không ???
  22. Sẽ có một tai họa khủng khiếp xảy ra mà không biết ở đâu ??? Chờ xem !!! Các ngư dân và các quan chức cảng California, Mỹ đã rất ngạc nhiên khi chứng kiến cảnh hàng mấy triệu con cá chết nổi trên một bến cảng ngay phía nam thành phố Los Angeles hôm qua. Các ngư dân và các quan chức cảng California, Mỹ đã rất ngạc nhiên khi chứng kiến cảnh hàng mấy triệu con cá chết nổi trên một bến cảng ngay phía nam thành phố Los Angeles hôm qua. Cảnh cá chết trắng bến cảng King. Hình ảnh được chiếu trên truyền hình cho thấy những lớp xác cá màu trắng dày hơn 30cm phủ kín mặt nước và quanh những con thuyền tư nhân đậu tại bến cảng King trên bãi biển Edondo.“Bến cảng của bãi biển Redondo đầy cá chết trôi nổi trên mặt nước”, Andrew Hughan, phát ngôn viên của Bộ nghề cá và săn bắn California, cho biết.Ông Hughan nói thêm rằng nguyên nhân của hiện tượng cá chết hàng loạt dường như là do chúng bị thiếu oxy và chết ngạt sau khi bị đánh xô vào bến cảng bởi những con sóng lớn và gió mạnh.“Có vẻ như chúng đã bơi sai hướng và bị kẹt trong một góc của bến cảng mà không có đủ oxy”, ông Hughan nói. “Không có dấu hiệu của dầu mỏ, hoá chất hay hành động phi pháp”. Hiện tượng cá chết hàng loạt xảy ra trên bến cảng tại bãi biển Redondo. Ông Hunghan nói hiện tượng cá chết hàng loạt là bất thường nhưng không phải là chưa từng xảy ra.Cảnh cá chết hàng loạt đã thu hút nhiều người hiếu kỳ. Một số người đã ghi lại hình ảnh cá chết trắng xoá bao phủ bề mặt của nước.Các nhân viên cứu hoả, lực lượng tuần tra bến cảng và các lực lượng khác phải sử dụng lưới và thùng xô để vớt xác cá. Cá chết được chuyển tới các thùng rác lớn.Giới chức địa phương ban đầu cho biết họ định đổ cá chết ra xa ngoài biển nhưng sau đó quyết định đưa tới các trung tâm tái chế chất thải hữu cơ, nơi các chết được chuyển thành phân bón.Các quan chức ước tính chi phí để thu dọn cá chết lên tới 100.000 USD. Cảnh cá chết nổi trên bãi biển Redondo
  23. NGÓN TAY GUTEI Thiền sư Gutei hay giơ ngón tay trỏ lên mỗi lần Sư giảng về Thiền. Một thiền sinh trẻ khi thấy Sư giơ ngón tay trỏ lên thì cũng bắt chước giơ theo, lâu dần thành quen. Một hôm, Sư Gutei nghe nói đến chuyện này, liền đến ngay thiền sinh đó nhằm lúc chàng đang đưa ngón trỏ lên. Sư liền nắm lấy ngón tay của thiền sinh rồi chặt nghiến, vứt đi. Thiền sinh đó la hét vang trời, chạy tưởng chết. Sư quát lớn: ‘Đứng lại!’. Chàng đứng sững, quay đầu lại. Sư giơ ngón tay trỏ lên. Thiền sinh bất giác theo thói quen, cũng định giơ ngón tay trỏ của mình lên. Nhưng khi nhìn xuống thì... thiền sinh đại ngộ. Chàng sụp xuống lễ Thầy". (Luận) Đây là câu truyện Thiền thật lạ và bạn có thể hiểu sai, méo mó về ý nghĩa của nó vì cái khó hiểu nhất của cốt truyện là phong cách xử trí độc đáo của vị Thầy giác ngộ. Chúng ta thường có thói quen nhận xét và đánh giá người khác hay một sự vật theo cảm tính của mình. Nhưng vị Thầy giác ngộ thì hoàn toàn khác. Người đó đứng ở một góc độ khác chúng ta, những con người phàm tục. Nơi nào người đó có mặt, nơi nào người đó đặt chân tới, nơi đó hoàn toàn mất dấu những khái niệm ta-người, có-không, được-mất, hơn-thua... Những thước đo giá trị, những bảng luân lý đạo đức, những bình phẩm khen chê v.v... đều vắng bóng bởi vì tất cả những thứ đó đều lồng cái "tôi" ở bên trong, một cái "tôi" được tô màu và đánh bóng. Người đạt Đạo không màng những thứ phù phiếm đó và cũng không để tâm mình dính bụi. Người đạt Đạo sống thật đơn giản, không cầu mong, không trông đợi. Người đó không có nơi nào để đi, không có một mục tiêu để đạt tới. Còn một nơi nào để đến, còn một mục tiêu nào để đạt tới thì tâm hành giả vẫn còn dính mắc và tham cầu. Như khúc gỗ giữa dòng sông, người đạt Đạo không tắp vào bờ bên này, không trôi về bờ bên kia; không có gì “tốt” cũng không có gì “xấu” đối với người đã giác ngộ. Người đó sống trọn vẹn hồn nhiên, phóng khoáng trong cái chân-thiện-mỹ của dòng đời, nhưng chúng ta thì không thể sống trọn vẹn được như vậy. Tật xấu của con người tầm thường là luôn đánh giá sự vật. “chúa” khác với “quỷ”, “thiện” khác với “ác”, “trong sạch” khác với “tội lỗi” v.v... Luôn luôn có sẵn hai trận tuyến, hai bến bờ mà trong đó dòng sông đời đang tuôn chảỵ. Tôi có nghe một câu chuyện ý nhị như sau: "Ngày kia, có một họa sĩ tài ba danh tiếng gặp lại người bạn bác sĩ và mời ông ta đến phòng triển lãm tranh của mình để bạn đánh giá một tác phẩm vừa mới hoàn thành. Họa sĩ đã nghĩ rằng tác phẩm này đúng thật là tuyệt tác, là đỉnh cao nghệ thuật hội hoạ của ông. Vì thế, với tài trí của bạn bác sĩ, chắc chắn ông sẽ được nghe những lời khen thích đáng, bổ ích. Ông bác sĩ đó đến phòng triển lãm tranh, ngắm bức tranh, ngắm tới, ngắm lui, ngắm xuôi, ngắm ngựợc, hết bên này tới bên kia, gật gù, nhíu mày suy nghĩ, rồi lại quan sát. Mười phút trôi qua, mười lăm phút trôi qua, rồi hai mươi phút. Họa sĩ hơi sốt ruột, chần chừ và cuối cùng lên tiếng hỏi: - Thế nào bạn? Anh nghĩ sao về tác phẩm này? Ông bạn bác sĩ trả lời, giọng chắc nịch đắc ý: - Tôi nghĩ là người vẽ tranh đã mắc bệnh phổi cấp hai rồi ! Ông họa sĩ: ...! ! !”. Như thế đó, không riêng gì chúng ta mà cả ông bác sĩ học thức kia cũng mắc cái bệnh đánh giá sự vật qua trung gian khái niệm giá trị. Ông bác sĩ là người sống trong phòng thực nghiệm, bên cạnh những thuốc men và bệnh tật. Trong đầu ông ta luôn luôn có sẵn những công thức hoá học, những căn bệnh phải tìm hiểu, những vi trùng, vi khuẩn... Nhìn ở đâu ông ta cũng thấy vi trùng và bệnh tật; những vi trùng và bệnh tật đó đã trở thành máu xương trong ông, môt nửa con người của ông. Vì thế, khi nhìn bức tranh, ông bác sĩ cũng phân tích, mổ xẻ, định bệnh. Ông ta đã bị méo mó do nghề nghiệp! Thiên nhiên trước mắt ông với trời xanh, lá đỏ hoa vàng, nhưng ông ta không còn khả năng thưởng thức cái đẹp thiên nhiên được nữa. Cái khiếu thẩm mỹ trong ông đã mất, nhường chỗ cho một đầu óc xơ cứng vì khái niệm phân biệt chia chẻ. Điều thứ hai khác biệt là người đạt Đạo trực chỉ Chân tâm, chứ không mất thì giờ với những cái bên ngoài. Còn chúng ta lại quan tâm đến cái vỏ bên ngoài. Đó là thứ vô giá trị. Chúng ta đã giết chết linh hồn mình và giữ gìn cái thân xác. Nhưng người giác ngộ thì hy sinh thân xác và không thể đánh mất linh hồn. Người đó sẵn sàng cho chết cái thân tướng giả hợp đó, không một chút luyến tiếc và luôn trân trọng chú tâm gìn giữ chánh niệm từng giây từng phút. Đối với vị Thầy giác ngộ, thân tướng bề ngoài chỉ là một phương tiện hành đạo. Khi nào cần phải xả lỵ, người đó sẵn sàng từ bỏ. Ngay cả phải cắt bỏ cái đầu để chứng Đạo, người đó cũng sẵn sàng làm thế. Krishna đã từng nói với Arjuna trong Phạm thư rằng: “Đừng quan tâm tới thân xác. Chúng ta sinh ra và chết đi không biết bao nhiêu lần rồi. Cái chết không là gì cả; chẳng qua chỉ là sự thay đổi cũng như một người nào đó cởi bỏ bộ quần áo cũ hay rời căn nhà cũ để mặc tấm áo mới hay vào căn nhà mới mà thôi". Đừng quan tâm tới cái thân tướng giả tạm bên ngoài. Hãy quay ngược vào bên trong nội tâm; hãy chú tâm nhìn vào bên trong con người của ngươi! Nhưng liệu Arjuna có hiểu đựơc ý tứ lời nói của Krishna không? Thiền sư Gutei còn hơn thế. Krishna nói, chứ Gutei thì hành động ngay mà không nói, còn đệ tử Arjuna của Krishna cũng khác xa đệ tử của Gutei. Hãy nhớ kỹ điều này: người Thầy chỉ có thể hành động mau lẹ, chớp nhoáng khi nhận xét kỹ đệ tử mình đã đạt tới một trình độ có thể lãnh hội được sự huấn thị đột xuất, và cơ duyên học hỏi cũng đã chín muồi để có thể truyền dạy; người Thầy phải ra tay hành động ngay, xuất kỳ bất ý, không để cho cơ duyên may mắn đó vuột mất. Thầy có thể tát một cái thật mạnh, đạp một cú đau điếng hay thậm chí chặt nghiến đi ngón tay của đệ tử như Thiền sư Gutei để giúp trò bước cuối cùng nhảy vọt vào chân không-giác ngộ. Nhưng không phải ai cũng lãnh hội được như vậy. Thầy chỉ ra tay khi đệ tử đã thuần thục; nếu không, ông ta phải dùng lời nói để dạy bảo. Hành động chỉ phát xuất khi cả hai đều sẵn sàng; không một chút sơ hở, không được vuột mất, chớp nhoáng, cấp kỳ, đúng thời điểm. Tâm niệm của Thầy và tâm niệm của đệ tử phải hợp nhất, thông tri nhau; nếu không, chỉ hoài công vô ích. Thầy truyền trao hết tâm huyết cho trò, đệ tử cũng gửi trọn mạng sống của mình và niềm tin tuyệt đối cho Thầỵ. Nếu Thầy bảo chết, đệ tử sẵn sàng chết ngay, không do dự. Nếu cả hai được như thế thì mới có kết quả mỹ mãn. Ngày xưa có rất nhiều người đã chứng ngộ vì họ có niềm tin vững chắc vào Sư phụ của họ. Chính niềm tin sắt đá và nghị lực bền bỉ tham thiền công án đã giúp họ đắc quả. Còn ngày nay, con người sinh ra trong nghi kỵ, trưởng thành trong do dự, hiềm khích nên khó lòng đặt chân tới ngưỡng cửa của Chân lý, chứ chưa nói đến nắm bắt được Chân lý. Trong Đạo thì Thầy không tin trò, trò nghi ngờ Thầy, huynh đệ hiềm khích báng bổ nhau, các tông phái chống đối lẫn nhau, sát phạt lẫn nhau; còn ngoài thế gian thì cha mẹ, chồng vợ, con cái, anh chị em xúc xiểm nhau, tàn hại nhau để tranh đoạt lợi lộc. Nét đẹp nhân bản đã biến mất. Cả một thế giới điên đảo vì quyền lực, danh lợi. Ngay từ ngày đầu tiên con người bú dòng sữa mẹ, chúng ta đã được nuôi dưỡng bằng tham vọng, nghi ngờ, sân hận và si mê. Bị ấp ủ, nuôi dưỡng và trưởng thành trong một môi trường như vậy, thử hỏi làm sao chúng ta tránh khỏi sự hoen ố tinh thần? Nhưng đường hướng tôn giáo thì ngược lại. Chúng ta phải tin tưởng tuyệt đối và cũng được người khác tin tưởng lại như vậy. Đệ tử của Gutei thuộc hạng người tin tưởng tuyệt đối này, vì thế anh ta đã giác ngộ. Bây giờ chúng ta đi vào mẩu truyện Thiền khác thường ở trên. Từng cử chỉ, từng câu nói trong cốt truyện thật kỳ thú, thật đặc biệt. "Thiền Sư Gutei hay giơ ngón tay trỏ lên mỗi lần Sư giảng về Thiền". Các Thiền sư không bao giờ làm một chuyện gì đó vô ích, ngay cả khi chỉ giơ một ngón tay lên. Từng cử chỉ, từng lời nói của các Thiền sư đều toát lên một ý nghĩa nhất định, một giá trị nào đó. Các Thiền sư không bao giờ làm một cử chỉ hay nói một lời nói vô bổ thừa thãi, phí thì giờ vô ích cả. Tại sao Thiền sư Gutei giơ một ngón tay lên mỗi lần ông giảng về Thiền hay có ai hỏi về Thiền? Nhưng không phải lúc nào Sư Gutei cũng làm như vậy, chỉ khi giảng về Thiền hay có ai hỏi về Thiền thì Sư mới làm như thế. Đó là tại vì Sư muốn chỉ bảo cho chúng ta nhận thức ‘Vạn pháp quy tâm’ (‘Một là tất cả, tất cả là Một’). Mọi vấn đề khơi mào cũng vì chúng ta không thể là Một, không phải là Một. Mọi rắc rối xảy ra chỉ vì chúng ta còn chia chẻ phân biệt quá. Sự vật nào cũng bị chúng ta đem ra mổ xẻ cân đong, đo lường. Chúng ta là sự phân tán, không hài hòa kết hợp. Thiền sư Gutei giảng về Thiền; những lời nói chỉ là phụ, cái chính là ngón tay. Nếu ai nhận thức được, kẻ đó bước chân vào Đạo; ai không nhận thức ra thì dù có lễ lạy nhiều cũng cách xa Chân lý vạn dặm. Cũng như Phật Thích Ca trên núi Linh Thứu giơ cành hoa sen lên cao và im lặng. Tất cả hội chúng đều ngơ ngác, duy chỉ có ngài Ma Ha Ca Diếp mỉm cười thông ý. Đạo là vô lời, không thể dùng ngôn ngữ để diễn tả Đạo, để lý giải Chân lý được. ‘Đạo khả đạo phi thường Đạo; Danh khả Danh phi thường Danh’ (‘Đạo mà còn diễn tả thành lời được thì không phải Đạo, Danh mà còn gọi tên được thì không phải Danh’ - lời của Lão Tử). Nếu bạn nhìn thấu được thì ngôn ngữ đạo đoạn, không cần đến lời nói nữa. Nhưng nếu bạn không có khả năng thẩm thấu đó thì dù có nói vạn lời cũng vô ích. Có nhiều tôn giáo, đạo phái khác nhau; có nhiều pháp môn, nhiều cách thức hành đạo khác nhau nhưng phải tựu trung lại một điểm là: Vạn pháp quy về Một, tức là quay về tìm lại cái Bản tính chân thật thường hằng, cái Bản lai diện mục, cái Vô sinh, cái Chân không thường hữu của chúng sinh thì đó mới chính là Đạo. Tụng kinh, lễ bái, tu thiền, trì chú, niệm Phật, niệm Chúa v.v... đều quy về nhất tâm thì mới mong chứng đạt. Hành giả phải thực nghiệm rằng người tu, pháp môn tu, quả vị để chứng đều là giả danh, giả hợp; phải thấy vạn pháp giai không, do nhân duyên hợp thì mới rốt ráo Ba-la-mật, mới đáo bỉ ngạn, đạt tới bờ bên kia của giác ngộ. Ý nghĩa đoạn văn ở trên được thể hiện rõ nét nhất trong bài tán tụng Đức Phật mà một Phật tử thường lễ bái, đại ý: "Con lễ Phật nhưng không thấy Phật là đối tượng đang được lễ, không thấy con là người đang lễ; cả hai đều vắng bóng cái Ngã". Khi đạt được cái Tính không vẳng lặng rốt ráo thì mối đạo vốn vô ngôn vô tướng mới tỏ hằng, mới giao lưu cảm ứng. Lúc đó, trong ta có Phật, trong Phật có ta; không biên giới, không rào cản. Người tu đến một mức nào đó sẽ nắm bắt được cái tinh túy, cái cốt tủy của suối nguồn Chân tâm trung trinh thường hằng. "Có một thiền sinh trẻ hay bắt chước Sư Gutei, giơ một ngón tay lên... " Dĩ nhiên, thiền sinh đó còn rất trẻ nên mới bắt chước người khác. Thường thì trẻ con hay bắt chước người lớn. Người đã trưởng thành đâu còn bắt chước người khác? Thực tế không phải vậy. Sự chín muồi của tâm trí không đặt trên số lượng tuổi tác. Có rất nhiều người đã lớn tuổi nhưng vẫn chẳng có kinh nghiệm gì nhiều. Nếu còn bắt chước người khác thì mãi mãi họ vẫn như đứa bé, có hiểu biết nông cạn, khờ khạo đến tội nghiệp. Vậy ‘trưởng thành’ là gì? Đó là sự nhận thức để biết rõ chính mình, chứ không phải là một kẻ bắt chước. Trưởng thành có nghĩa là ta phải là ta, ta chính thực là ta, một con người trần trụi, không một lớp sơn che phủ, không là cái bóng của kẻ khác. Không nên thế này: người bạn của ta có cái xe mới, ta cũng vội tìm mua cái xe khác; ông hàng xóm xây lại nhà, ta cũng cố kiếm tiền xây lại nhà của mình lớn hơn v.v... Hãy sống thật với mình. Hãy sống trung thực với cảm nghĩ của chính ta, không nên che giấu, không nên dồn nén, không nên ức chế. Cái quý nhất của con người là bản tính trung thực và lòng can đảm. Chính hai đức tính đó sẽ giúp con người thăng hoa đời sống và chuyển đổi ngoại giới. Bạn có sẵn hạt giống giác ngộ trong mình. Nếu bạn chuyên tâm tưới tẩm chăm bón nó, hạt giống đó sẽ đâm chồi nẩy lộc cao lớn thành cây, rồi bạn sẽ hưởng được quả vị thơm ngon. Vậy tại sao bạn không lo chăm bón hạt giống của chính mình mà lại đi bắt chước người khác, đi chăm bón hạt giống của người khác? "Có chàng thiền sinh trẻ thấy Sư Gutei giơ ngón tay trỏ lên mỗi lần giảng về Thiền, cũng bắt chước giơ ngón tay trỏ lên..." Chàng thiền sinh kia thấy Sư Gutei nổi tiếng được mọi người kính trọng, cũng muốn được như vậy nên bắt chước Sư phụ để được tiếng thơm; nhưng chính Phật Thích Ca, Chúa Jesus hay Krishna cũng không hề dạy chúng sinh phải trở thành bản sao của các Ngài mà phải trở thành chính mình, phải là chính mình, không là hình bóng của ai khác, dù người đó là Phật, là Chúa hay là các vị Thánh nhân gì đi nữa. Tìm một vị Minh sư, đến với vị Minh sư đó, hiểu những gì Minh sư dạy, uống cạn sự hiện hữu của Minh sư, ăn trọn sự có mặt của Minh sư càng nhiều càng tốt, nhưng chớ có bắt chước ông ta, đừng làm kẻ bắt chước, đừng làm điều ngu xuẩn đó, vì thật nguy hiểm. Sự bắt chước người khác không giúp ta đuợc gì mà trái lại còn gây nguy hiểm cho ta nữa. "Sư Gutei nghe chuyện, đến gặp thiền sinh đó nhằm lúc anh chàng đang giơ ngón trỏ lên, Sư nắm lấy chặt nghiến vứt đi..." Kinh khủng quá, tàn nhẫn quá, phải không? Sư phụ gì mà ác độc quá vậy, nỡ cầm tay đệ tử chặt cụt đi một ngón? Nhưng thực ra, Sư Gutei là một vị Thầy đầy lòng bi mẫn. Phương pháp giáo huấn đệ tử trong Thiền tông độc đáo quái chiêu là ở chỗ đó. Không tài nào hiểu thấu được nếu chính chúng ta không tu tập, không tư duy quán chiếu tự tâm. Phát xuất từ tâm đại từ, đại bi, đại trí, những cú đấm, những cây gậy hay những câu la hét của các Thiền sư đều là những phương tiện thiện xảo giúp đệ tử chóng khai ngộ. Thiền Sư Gutei đã sử dụng độc chiêu cuối cùng để đẩy đệ tử một bước nhảy vọt vào vùng không gian bao la của tâm thức. Đệ tử không kịp phản ứng, không kịp suy nghĩ gì hết, chỉ một tích tắc thôi, ngón tay đã rơi xuống đất... Cái đau thể xác đó thật tê tái điếng hồn, cái đau tinh thần cũng to lớn không ngần và đột xuất thần kỳ, trong một giây phút, hai nỗi đau đó hòa nhập vào nhau và chuyển hóa. Đệ tử đã liễu đạo, anh ta đã trưởng thành, không còn là một đứa bé bắt chước người khác nữa. Giây phút ngộ Đạo đến chớp nhoáng, mau lẹ và cũng có thể không xảy ra dù trải qua nhiều đời nhiều kiếp. Ngón tay chỉ là một biểu tượng, một ví dụ điển hình. Chàng thiền sinh đó bị một cú xốc bất ngờ; ngay lúc ý niệm chưa thành hình thì chàng ngộ Đạo, tâm niệm được tịnh hóa. Khi chúng ta còn kịp suy nghĩ, còn phản ứng thì lúc đó ý thức trong chúng ta vẫn còn năng lực hoạt động và chi phối, ví dụ như khi chúng ta nhìn một đóa hoa là mắt tiếp xúc với cảnh trần, tức thì thức thứ 6 là Ý thức xen vào phân biệt đây là hoa hồng chứ không phải là hoa cúc, hoa huệ, màu đỏ này đẹp hơn màu vàng kia v.v... và thức thứ 7 là Mạt na thức chấp trước dính mắc liền "hoa hồng này trong vườn ta đẹp hơn hoa của ông bà hàng xóm kia" hoặc chúng ta sẽ khởi niệm "hoa này đẹp quá, ta phải hái về cắm trong phòng" v.v..., nghĩa là một khi sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) tiếp xúc với sáu trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) là ý thức khởi lên phân biệt dính mắc ngay và đưa đến tâm Ái, Thủ, Hữu (yêu thích cái gì là muốn chiếm đoạt ngay để làm của riêng). Vì thế, Sư Gutei đã đánh ngay một đòn chí mạng dù phải chặt đứt ngón tay của đệ tử hay thậm chí giết chết đệ tử để giúp anh ta liễu đạo được cũng có giá trị gấp vạn lần sống cả một đời người mà ngu ngơ, sống không lợi ích cho đời, không đạt được gì cho mình thì kiếp sống đó dư thừa vô vị. Đệ tử bị một nhát dao chém tay đó của Sư phụ trong lúc không kịp đề phòng, không chuẩn bị, bất ngờ nhất, nên dòng ý thức ngưng hoạt động - giữa cái cự ly mong manh ngắn ngủi đó, tâm trí chàng thiền sinh như một tờ giấy trắng tinh, vô niệm - và chính cái trạng thái vô niệm đó là Chân tâm, là Đại ngã. "Chàng thiền sinh chạy tưởng chết. Sư Gutei quát lớn: ‘Đứng lại!’ Thiền sinh đứng sững quay đầu lại, Sư Gutei giơ ngón trỏ lên. Thiền sinh bất giác, theo thói quen cũng định giơ ngón trỏ lên, nhưng nhìn xuống thì... thiền sinh đại ngộ, sụp xuống lễ Thầy." Chàng thiền sinh đau điếng, chạy trốn; nhưng giật bắn người vì tiếng quát lớn đầy uy mãnh của Sư phụ ‘Đứng lại’. Khi chàng thiền sinh bất thần dừng phắt lại, toàn thể sự chú tâm của anh ta quay hẳn về âm thanh ‘Đứng lại’. Ngón tay bị chặt đứt, máu vẫn chảy, cái đau vẫn còn đó, nhưng tiếng quát ‘Đứng lại’ đã thu hút tất cả sự chú tâm của thiền sinh nên anh ta đã quên phắt ngón tay bị chặt, quên cả máu và cái đau. Một khi tâm phân biệt vắng bóng thì cái đau thể xác mất dấu. Ta cảm thấy đau vì ý thức khởi lên phân biệt. Cái đau hiện hữu không phải trong thể xác mà chính do ý thức cấu tạo nên. Nếu bạn bị đau, phải nằm trên giường bệnh, bạn sẽ làm gì? Bạn sẽ tiếp tục nghĩ về căn bệnh đang hoành hành cơ thể mình. Bạn đang nuôi dưỡng nó đấy! Bạn chú tâm về nó, lo lắng, suy nghĩ về nó. Chính cái tâm trạng khắc khoải lo sợ đó đã nuôi lớn căn bệnh! Tôi nghe nói như thế này: "Có một người bị bệnh bại liệt; ông ta đã không đi đứng được suốt 15 năm. Một đêm kia, bỗng căn nhà ông bị bốc cháy dữ dội, mọi người kêu la, cầu cứu om sòm, chạy ào ra cửa. Người đàn ông bại liệt đó trong lúc sợ hãi nhất đã quên bẵng là mình không đi được, theo bản năng ông đã đứng bật dậy chạy bay ra cửa. Ra đến ngoài đường, người nhà ông ta sau phút hãi hùng, hoàn hồn, chợt sững sờ: ‘Ủa, sao ông chạy ra đây được vậy? Ông bị bại liệt mà!’. Vừa nghe đến đây, ông ta té quỵ xuống đất”. Chuyện gì vậy? Ngay trong lúc tai nạn xảy đến bất ngờ, không kịp phản ứng, người đàn ông đã quên hẳn đi căn bệnh của mình nên toàn thân ông ta đã nghe theo lời sai khiến của tâm trí ‘Đứng lên chạy ngay!’ và ông ta đã chạy được, nhưng khi người nhà nhắc lại căn bệnh thì ông ta lại chuyển dòng ý thức về cơ thể nên không còn sức chống đỡ nữa. Cũng vậy, đệ tử của Gutei bị tiếng quát lớn ‘Đứng lại’ của Sư phụ, dừng phắt lại, dòng tâm niệm dừng lại, cái đau dừng lại, hơi thở dừng lại - ngay trong tích tắc đó, anh ta đã thoát khỏi sức chi phối của thể xác và tiếng quát lớn đó là một phép lạ nhiệm mầu giúp chàng thiền sinh tỉnh thức. Đây là lần đầu tiên, đệ tử thấu triệt được tâm trí và thân tướng giống như căn nhà và ánh đèn sáng bên trong. Thân xác này giống như căn nhà tối om, nếu không có ánh sáng ngọn đèn thì ta không thấy được gì bên trong căn nhà; cũng vậy, nếu không tịnh hóa được nguồn tâm thì mây mù vô minh vẫn còn che phủ bản tâm. Vì thế, đệ tử kia đã sụp xuống lễ Sư phụ: ‘Thầy đã cho con cơ hội nhìn thấu được tầng lớp sâu kín nhất của bản thân con; cái Bất tử vĩnh hằng". "Ngay lúc đó, đệ tử ngộ Đạo..." Giác ngộ là gì? Đó là sự liễu tri không thân, không tâm, là sự rỗng rang tự tại không bị ràng buộc, không bị ý thức chi phốị. Một khi thẩm thấu được câu hỏi ‘Ta là ai?’ thì bạn đã giác ngộ. Thiền sư Gutei đã chờ đợi cái giây phút tỉnh thức của đệ tử này nhiều năm rồi. Cũng đã nhiều năm, đệ tử này đã từng giơ ngón tay lên như vậy. Thiền sư đã đợi, đã đợi cơ duyên chín muồi, căn cơ đệ tử phải thuần thục mới hạ thủ công phu để chém một nhát cuối cùng. Vậy là giây đứt, thùng rơi, không còn nước trong thùng, không còn trăng trong nước. Ảo ảnh tan biến, đệ tử ngước nhìn vành trăng thực thụ trên trời, chàng ta đã ngộ Đạo. Giác ngộ chính là ta biết được chính ta, ta tìm lại được chính ta!
  24. (Luận) Thiền có một đường lối chỉ dạy rất độc đáo, riêng biệt gọi là công án. Công án là một câu đố tối nghĩa, vô lý. Bạn không thể nào giải đáp nó được. Càng cố công giải đáp công án, bạn càng đi vào bí đạo. Vị Sư phụ cứ nói: "Cố lên, cố lên, ngươi không chịu cố công tìm hiểu gì cả!". Song, ông ấy đang phỉnh gạt bạn đấy. Làm sao mà bạn có thể giải đáp được một câu đố vô nghĩa. Công án là một bài toán không đáp số, một trò chơi chữ vô nghĩa mà các Thiền sư dùng để thử tài trí đồ đệ của mình. Công án không tùy thuộc vào sự nổ lực của thiền sinh. Dù bạn có chạy theo công án đó đến hụt hơi, chết ngất đi nữa thì bạn cũng không bao giờ tìm được ẩn số của nó. Nhưng nếu bạn an nhiên bình thản nghiền ngẫm nó như một trò chơi thú vị với tất cả tổng thể con người bạn, bất chợt bạn sẽ loé lên ý thức về nó. Tiếng vỗ một bàn tay... Âm thanh chỉ phát ra khi có hai vật chạm vào nhau, chứ chỉ có một vật thì làm sao gây ra tiếng động được? Do đó, ngay trong câu hỏi ‘Tiếng vỗ một bàn tay?’, ta đã hiểu ngay đó là một điều vô lý vô nghĩa, nhưng thói thường người ta hay dùng tri thức để khám phá, suy luận vấn đề. Vì thế đệ tử đã rơi vào cái bẫy của Sư phụ. Mamiya cũng vậy, ông đã gắng sức suy tư nghiền ngẫm về câu hỏi của Sư phụ, vì cho rằng phải có ẩn ý gì sâu kín bên trong, phải có sự bí mật nào đó đằng sau câu hỏi; nhưng không ngờ công án đó chỉ là một xảo thuật mà Sư phụ của Mamiya (cũng như các vị Thiền sư khác) sử dụng để giúp đệ tử rạch toang lớp màn tri kiến, phá vỡ thành trì ngôn luận, chọc thủng mạng lưới vô minh để khai phóng nội tâm, thoát khỏi cái vỏ tự ngã to tướng. Toàn thể sự văn minh của con người đều nằm trong phạm vi cái Tôi cả: văn hóa, quốc gia, dân tộc, phong tục, tập quán, tôn giáo v.v... Tất cả những giấc mơ vĩ đại, siêu quần đều quy tụ vào con người vì nó tự cho rằng, con người là loài tối linh duy nhất đứng thẳng trên hai chân. Con người không phải là thú vật, nó hoàn toàn khác hẳn thú vật, nó là duy nhất không thuộc vào thế giới loài thú. Vì thế, càng lúc cái Ngã càng bành trướng to ra, bao trùm lên tất cả và dẫn dắt con người xa rời thực tại, đánh mất tâm linh, khiến họ mơ màng, nhận thức sai lạc. Điểm thứ hai, chúng ta là những kẻ chỉ biết bắt chước như con vẹt mà thôi. Bắt chước thì dễ dàng hơn là phải có tính xác thực và có lập trường riêng. Chúng ta bắt chước người này, tập theo phong cách người nọ; cả cái xã hội này và những con người, văn hóa tập tục đều lặp đi lặp lại, tái diễn liên tục. Tất cả đều bắt chước lẫn nhau. Chúng ta được chỉ bày phải xử sự thế này thế nọ, chúng ta phải sống theo hướng này hướng kia, chúng ta phải suy nghĩ, phải ăn nói theo cách mà những người khác đang hành động v.v... Những con người tôn giáo (thực chất là mang danh tôn giáo) những tu sĩ, những nhà thần học, tất cả họ cũng chỉ dẫn, bắt buộc chúng ta phải bắt chước làm theo như Chúa, như Phật, như Krishna; không có một ai bảo chúng ta là "Hãy là chúng ta!". Không một ai cả! Không một ai cho phép chúng ta sống theo chính mình, là tự chính mình. Không một ai cho chúng ta cái tự do đó cả. Chúng ta không thể sống theo chúng ta được. Chúng ta là một phần tử của xã hội, là một phần tử của thế giới, chúng ta phải bắt chước người khác, chúng ta phải sống y như người khác đang sống. Chúng ta không còn và cũng không có tự do cá nhân để hành xử theo ý mình. Chúng ta không còn là chúng ta nữa! Thật kỳ cục và ngớ ngẩn làm sao! Ngày xưa, chính Phật Thích Ca cũng đã bị thiên hạ nói phải bắt chước giống như Rama, như Krishna. Nhưng Đức Phật đã không làm theo ý họ, vì thế Ngài đã thành vị Phật. Đức Phật giác ngộ vì Ngài không muốn trở thành nạn nhân của sự bắt chước ngu xuẩn, không muốn trở thành nạn nhân của tư tưởng, tập tục, lề thói và xã hội. Nếu chúng ta bắt chước người khác, chúng ta đánh mất mình rồi còn gì! Tuy nhiên, chúng ta có dám cách mạng như Đức Phật không? Có dám sống, dám nghĩ, dám làm như Ngài không? Từ lúc chúng ta bắt đầu biết nhận thức, chúng ta đã bị uốn nắn theo khuôn mẫu mà người lớn đặt ra cho chúng ta, và đó là cái mà người ta gọi là nhân cách. Nếu đứa trẻ nào sống đúng quy tắc khuôn mẫu như vậy, nó sẽ đựơc ban thưởng xứng đáng; ngựơc lại, nó sẽ là đứa trẻ bất trị, có vấn đề. Thực sự, chúng ta đã bị tước đoạt quyền sống ngay từ lúc mới chào đời. Cái gọi là “Tự Do” chỉ là một danh từ suông, rỗng tuếch và giả dối. Người vợ không muốn người chồng sống theo ý muốn của anh ta. Người chồng không cho phép người vợ tự do có ý kiến, tự do phát biểu, tự do sống. Không một ai muốn người khác sống cho họ, sống đúng theo ý họ cả; bởi vì nếu người nào dám sống theo ý mình, người đó rất nguy hiểm. Những quy ước, luật lệ, những phong tục, tập quán, lối xử thế, cách suy nghĩ đều bị rập khuôn - mọi người đều phải đi đúng khuôn mòn lối cũ; không được đi trệch hướng. Người trước ta đi một bước trái, một bước phải, ta cũng phải đi một bước trái, một bước phải. Người trước ta rớt xuống hố, ta cũng phải lăn tòm theo. Ta đã được huấn luyện phải trở thành con cừu kêu be be lê lết theo vết chân đằng trước. Không dám có ý kiến, không dám làm khác đi; ta chỉ biết cúi đầu và phục tùng, cúi đầu và phục tùng thật tội nghiệp đáng thương! Dồn nén! Con người bị dồn nén; xã hội bị dồn nén; cả một thế giới bị ức chế; và sự ức chế tâm lý đó đã tạo ra những bi kịch cùng bệnh tật cho con người. Không một ai có được hạnh phúc thực sự cả; con người chỉ có đau khổ, ray rứt và suy sụp toàn diện. Freud, một triết gia người Áo, đã nói rằng: "Nhân loại không còn và cũng không có khả năng lĩnh hội; và cũng không có hy vọng đựơc cứu độ!". Ông ta đã nhận xét đúng, cái phương cách, con đường mà nhân loại đang đi tới, chỉ có đau khổ, ức chế và vô vọng. Không thấy một dấu hiệu sống nào; không có một chút sinh lực nào; không có đến một tia sáng hy vọng cỏn con nào. Và rồi những con người máy móc đó, những con người giả hiệu đó, sau khi đến tận cùng bờ vực thẳm của cái gọi là khuôn mẫu xã hội, sau khi bị dồn nén quá độ, đã bùng nổ ra như trái bom và chống trả lại. Có kẻ bùng nổ và tìm cách hủy diệt người khác. Có người đi theo các đạo sư hầu mong tìm ra một lối thoát; nhưng đáng buồn thay, trong những đền thờ, thánh đường, chùa miễu v.v... họ lại gặp những con người rập khuôn. Những nơi tôn nghiêm đó chỉ là những nấm mồ hoang lạnh. Với Chúa, ta là con người thực sự; nhưng đứng trước Đức Giáo Hoàng của Tòa thánh Vatican, ta phải là một con chiên biết bắt chước và phục tùng. Chúa Giê Su không bao giờ là một phần tử của xã hội. Ngài vẫn là một người đứng ngoài vòng xã hội. Tất cả những bậc Chân sư, những người tôn giáo thực thụ luôn là những người lạ mặt, đứng ngoài vòng xã hội. Nhưng các thánh đường, các chùa miếu, đền thờ là một phần của xã hội, và các tu sĩ không còn là người đại diện cho Tôn giáo nữa, đại diện cho sự thánh thiện linh thiêng nữa; họ bây giờ đại diện cho tiền bạc và danh vọng; họ đại diện cho nền kinh tế của xã hội. Càng xây những ngôi thánh đường nguy nga vĩ đại, càng xây những đền đài chạm trỗ tinh vi, càng bộc lộ cho người ta thấy nền kinh tế phồn vinh của đất nước đó, xã hội đó, và như một Thiền sư đã nói: "Điện Phật to lớn nhưng Phật trong đó không linh". Karl Marx đã đúng khi ông ta nói tôn giáo đang nằm trong tay những nhà tư bản hay những người trưởng giả phong kiến, những người khuynh loát và có quyền lực. Tôn giáo giờ chỉ còn là một công cụ cho sự khuynh loát thống trị. Marx đã nói đúng về bộ máy quyền hành của Tòa thánh La Mã Vatican hay tôn giáo của Mecca và Medina; nhưng Marx đã sai lầm về Mohammed, về Chúa Giê Su. Marx đã sai lầm vì không thấu triệt hoàn toàn phong cách đạo đức của các bậc Chân sư. Các đấng Giáo chủ khác xa với cái gọi là tôn giáo của xã hội. Mamiya sau này trở thành một vị đạo sư nổi tiếng... Nhưng hãy nhớ kỹ điều này: chỉ những người nào là đệ tử chân chính thì mới trở thành những đạo sư chân chính được. Người nào chưa bao giờ làm đệ tử, chưa bao giờ là người cầu đạo, chưa bao giờ học hỏi hiểu biết giới luật kinh điển là gì, thì không bao giờ có thể thành thầy dạy người khác được. Trước khi ta muốn dạy người, ta phải học cho chính mình trước đã. Nhưng mọi người đều muốn làm thầy người khác, muốn dạy bảo người khác trước, muốn chứng tỏ cho mọi người biết ta đây hiểu biết, tài giỏi hơn người chứ không muốn làm đệ tử, cho nên trên đời này có quá nhiều những người thầy rỗng tuếch, bịp bợm. Bạn cũng vậy, cái tự ngã của bạn cũng muốn một bước thành thầy người khác, thành vĩ nhân, thành thánh, nên bạn cũng trở thành một người thầy kém tài đức, nhưng không những chỉ riêng mình bạn gặp nguy hiểm mà bạn còn dẫn dắt nhiều kẻ khác vào đường cùng nữa. Một người mù dắt những kẻ mù khác rơi tõm xuống hố. Hãy nhớ rằng, cái bản ngã của ta bao giờ cũng muốn bành trướng. Ta không thể để mất một dịp may nào có thể lên mặt dạy dỗ kẻ khác; ta có thể mất hàng ngàn cơ duyên học hỏi, nhưng ta không thể mất một dịp may được dạy bảo kẻ khác. Có người nào đó hỏi ta một câu, có khi ta cũng chẳng hiểu hoàn toàn ý câu hỏi đó, nhưng ta vẫn gân cổ lên trả lời (sợ gì cơ chứ, chắc gì kẻ hỏi ta đã giỏi hơn ta!). Cho nên, cái bãn ngã của ta được vuốt ve, được khoái chí khi chứng tỏ ta đây là kẻ hiểu biết, đầy kiến thức. Đó là lý do trên đời này có lắm kẻ dạy người, nhưng rất hiếm các bậc Chân sư. Những người thầy có thể nói, có thể giảng đạo, thuyết pháp, có thể tranh luận rất thiện xảo; họ có thể tạo ảnh hưởng đến mọi người, nhưng họ không phải là những bậc Chân sư có tu chứng thực, có kinh nghiệm sống thực. Muốn trở thành một bậc Đạo sư thực thụ, muốn trở thành một vị Thánh, một Vĩ nhân, một bậc Chân sư, ta cần phải triệt để xả bỏ và khai phóng toàn diện chấp Ngã và chấp Pháp - có nghĩa không thấy cái ta đang dạy người, đang thuyết pháp, không thấy có người để học, cũng không thấy có những pháp môn, phương tiện thuyết giáo. Cái Thực chỉ hiển hiện khi cái Giả đã bị hủy bỏ. Mamiya sau này trở thành một vị đạo sư nổi tiếng; nhưng khi ông ta còn tu học dưới sự hướng dẫn của Sư phụ, ông bị buộc phải giải thích thế nào là ‘Tiếng vỗ một bàn tay?’ Lúc đó, Mamiya đã không thể thấu suốt được ẩn ý của Sư phụ khi ra một câu hỏi vô lý như vậy. Mamiya cứ miệt mài vào công án đó như con dê húc đầu vào tường đá, ngày này qua tháng nọ. Sư phụ cũng không giải thích cho ông, vì có gì mà giải thích; nhưng Mamiya vẫn không nản chí bỏ cuộc vì Mamiya tuyệt đối tin tưởng vào Sư phụ mình. Khi Sư phụ đưa ra công án ‘Tiếng vỗ một bàn tay’, chắc chắn phải có gì trong đó. Dù công án khó giải thích, khó hiểu, vô nghĩa, phi lý đến đâu đi nữa nhưng khi Sư phụ nói thì chắc chắn có cái gì mà ta không hiểu nổi. Mamiya tự nghĩ như vậy và miệt mài tư duy hành trì công án mà Sư phụ đã đề ra. Niềm tin mãnh liệt và sắt đá của Mamiya đối với Sư phụ chính là động lực giúp Mamiya nhẫn nại hành trì công án. Nhưng Sư phụ Mamiya vẫn không hài lòng, ông la rầy Mamiya: "Ngươi không cố công tu học gì cả. Ngươi còn đắm nhiễm quá nhiều vào tiền bạc, vào những lạc thú trần tục, nhất là vào ‘Tiếng vỗ một bàn tay’. Có thể may ra ngươi chết đi, lúc đó ngươi mới thấy đựơc lời giải đáp!” Sư phụ của Mamiya nói thế có ý nghĩa gì? Vị thầy cố ý chỉ dẫn cho đệ tử thấu đáo rằng không những ăn uống, tiền bạc, danh vọng là những thứ vật chất cám dỗ đầy nguy hiểm mà cái tư tưởng bám víu, ôm giữ những thứ đó cũng là trở ngại trên con đường cầu tìm giải thoát. Mamiya đã bỏ nhà cửa, gia đình, vào tự viện sống đời tu sĩ, chỉ có ba tấm cà sa, một bình bát khất thực, một cái túi lọc nước và một manh chiếu nhỏ ngủ qua đêm. Không còn gì quý báu xa hoa cả, thật quá đơn giản, phải không? Nhưng nếu Mamiya chưa xả bỏ được cái tư tưởng bám víu vào cái Không đó thì cũng vẫn còn là chấp thủ. Vị Sư phụ nói: "Ngươi vẫn còn chấp vào tài sản, vật chất..." (sự thực các tu sĩ đâu có vật chất tài sản gì), song ông ta đâu có nói cái vật chất tầm thường bên ngoài, mà muốn nói đến cái tâm niệm, cái tư tưởng bám víu vào ba tấm cà sa, vào cái chùa, vào cái danh hiệu tu sĩ v.v... Nếu ta tham đắm vào thiền định; thiền định từ phương tiện trở thành cứu cánh. Nếu ta bám víu vào cầu nguyện, tụng kinh; kinh điển trở thành chướng ngại, hàng rào bao bọc lấy ta. Dù ham ngồi thiền, ham tụng kinh, ham làm việc thiện, ham tu hành v.v... vẫn còn là tâm tham. Dù ham thiện khác xa với ham bất thiện, tham vẫn là tham. Chính cái tâm tham đắm đó đưa ta trở lại luân hồi trong ba cõi sáu đường. Chính cái tâm tham đắm đó cản ngăn ta chứng Đạo. Vì thế, vị Sư phụ đã nói: "Tiếng vỗ một bàn tay đã ràng buộc ngươi. Ngươi đã cố công tìm cách giải thích nó cho bằng được. Đừng tham đắm, bám giữ như vậy. Chính ngươi đã ràng buộc ngươi. Có thể may ra ngươi chết đi, lúc đó ngươi mới thấy được lời giải đáp." Nhưng Mamiya đã hiểu lầm câu nói của thầy mình. Thực ra, lời Sư phụ ‘Tốt hơn hết là ngươi nên chết đi’ chỉ ngụ ý chết cái tâm niệm ràng buộc, chết cái tư tưởng bám víu, chết cái Tôi, cái Tự ngã. Chính vào lúc mà chết cái Tự ngã của ta thì ta sẽ hiểu được thế nào là ‘Tiếng vỗ một bàn tay’. Đó là cái chết của Đức Phật, cái chết của các bậc Thánh. Chết đi và không bao giờ tái sinh lại. Đức Phật đã tận diệt, đã chết đi cái tâm tham luyến vô minh; các bậc A La Hán cũng đã xả ly hoàn toàn tâm khát ái đắm nhiễm. Một khi tâm niệm chấp thủ đã vắng bóng, ai sẽ là người tái sanh do nghiệp quả? Nhưng Mamiya, lúc ấy chưa thấu triệt được nên đã giả bộ thẳng cẳng ra chết, và còn ngóc cổ lên nói: "Ồ, con chưa giải được Tiếng vỗ một bàn tay". Vì thế, vị Sư phụ đã hét lớn: "Cái gì? Người chết không trả lời! Hãy đứng dậy cuốn xéo khỏi nơi đây!" Đúng vậy. Người chết rồi làm sao trả lời đựơc? Nếu Mamiya đã chuyển hóa được vô minh thì cần gì phải giải đáp công án ‘Tiếng vỗ một bàn tay?’ Chỗ vướng mắc của chúng ta là cái tâm chấp trước. Ta cứ đi tìm những cái xa xôi, mờ ảo mà quên đi cái thường hằng. Ta cứ lo lấp đầy khoảng trống tri thức mà quên nuôi dưỡng Chân tâm. Vì thế, ta đã tu tập bao nhiêu năm mà vẫn còn cách Đạo xa lắm, xa lắm!
  25. NGƯỜI CHẾT KHÔNG TRẢ LỜI Thiền Sư Mamiya là một đạo sư nổi tiếng. Nhưng trước kia khi ngài còn cầu pháp dưới sự chỉ đạo của Sư phụ, ngài đã bị chất vấn phải giải đáp thế nào là ‘tiếng vỗ một bàn tay?’ Mặc dù Mamiya đã ngày đêm gia công thiền quán về câu hỏi đó, Sư phụ vẫn không hài lòng và đã rầy la Mamiya: "Ngươi không chuyên tâm cần cầu tu học gì cả. Ngươi dính mắc nhiều quá vào lợi dưỡng, danh vọng, và nhất là vào 'tiếng vỗ một bàn tay'. Tốt hơn hết là ngươi nên chết quách đi cho xong!". Lần khác, Mamiya lên gặp Sư phụ và khi được hỏi về công án đó, Mamiya lăn quay ra đất, thẳng cẳng giả bộ như người chết. Sư phụ hé mắt nhìn hỏi: - Ừ, ngươi đã chết rồi, vậy ‘tiếng vỗ một bàn tay’ là thế nào? Mở mắt ra, Mamiya trả lời: - Ồ, con vẫn chưa giải đáp được! Sư phụ hét lớn: - Cái gì? Người chết không trả lời! Cút ngay!"