wildlavender

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    6.007
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    103

Everything posted by wildlavender

  1. Thiên tai hay con người phải chịu nghiệp báo? Thời gian gần đây thiên tai xảy ra khắp nơi. Thiên nhiên ngày càng khắc nghiệt hơn hay đơn giản con người đang phải gánh chịu nghiệp báo do chính mình gây ra. Những hiện tượng thiên nhiên hiền lành luôn hiện diện trong cuộc sống loài người hàng năm nay trở thành những thảm họa. Trung Quốc vừa phải gánh chịu một đợt hạn hán kéo dài, nhưng ngay sau đó lại là lũ lụt tồi tệ. Hàng triệu người ở đất nước Pakistan cũng rơi vào tình cảnh mất nhà cửa do lũ lụt. Nước Mỹ cũng không nằm ngoại lệ với những đợt lũ ở sông Mississippi, cháy rừng ở Arizona… Có phải thời tiết đang ngày càng trở nên khắc nghiệt hơn trên trái đất này? Hãy cùng xem bộ ảnh sau đây để cảm nhận nỗi sợ hãi! Cả một vùng rộng lớn của nước Mỹ bị ảnh hưởng bởi bão tuyết với những cơn mưa băng tuyết đầy nguy hiểm, khiến cho giao thông bị đình trệ, các chuyến bay bị hủy từ Texas đến Rhode Island hồi đầu tháng 02/2011. Anh Mohammed Nawaz bám vào chiếc thuyền đang chạy khi anh được cứu bởi quân đội Pakistan, 10/08/2010, ở Sukkur, Pakistan. Đây là trận lũ lụt tồi tệ nhất trong vòng 80 năm ở Pakistan, khiến hàng triệu người bị mất nhà cửa. Một nạn nhân lũ lụt ôm đầu sau khi bị thương trong lúc tranh giành thức ăn từ một chiếc xe tải phát hàng cứu trợ ở thị trấn Muzaffargarh, tỉnh Punjab, Pakistan, 10/09/2010. Một chiếc máy bay trực thăng của Mỹ đang chở những nạn nhân lũ lụt bay trên bầu trời ở Kallam, Pakistan, 02/09/2010. Những nỗ lực cứu trợ nạn nhân lũ lụt ở Pakistan gần như không có giới hạn vì sự ảnh hưởng của trận lũ là quá lớn.
  2. Một chiếc ô tô bị chôn vùi dưới lớp đất đá do một trận lở đất sau cơn mưa lớn bất ngờ ở Doda, Ấn Độ, 09/06/2011. Ít nhất 4 người bị lo ngại là đã chết và hàng trăm xe ô tô bị chôn dưới lớp đất đá. Nhân viên cứu hộ khiêng một xác chết từ vụ lở đất đã chôn vùi một phần trại mồ côi ở Hulu Langat, Malaysia, 22/05/2011. Một hòn đá tìm được ở Vivian, Nam Dakota, 23/07/2010 sau cơn mưa đá. Một trận bão với những hòn đá có đường kính 20cm hướng về Vivian, Nam Dakota, 23/07/2010. Cho dù những tấm ảnh trên đây chưa đủ thuyết phục để chứng minh rằng thời tiết trên trái đất đang ngày càng trở nên khắc nghiệt hơn. Nhưng có lẽ đã đến lúc loài người phải nhìn lại những gì mà họ đã làm với trái đất, nơi mà họ đang sinh sống. Cần phải có những hành động để cứu lấy hành tinh này. ===================================================== Còn các nước Châu á thì chưa có thống kê cho 2 năm gần đây thôi, khốc liệt không kém những hình ảnh trên bởi còn chở thêm cái nghèo và con người còn ra sức tận diệt nhau. Đáng buồn! A Di Đà Phật! Chúng sanh hãy sớm quay về cùng Phật Đạo.
  3. Người dân đang đào bới để tìm kiếm những nạn nân bị chôn vùi do lở đất ở Kingking, Phillippines, 24/04/2011. Theo các nhà chức trách đã có 15 thợ mỏ đã được cứu sống, nhưng 21 người vẫn bị mất tích sau trận lở đất. Một người phụ nữ bàng hoàng trong đau đớn bên cạnh khu vực bị lở đất ở Port-au-Prince 07/06/2011. Mưa lớn ở miền Nam Haiti liên tục trong 7 ngày đã gây lũ lụt và lở đất, khiến nhà cửa và các căn lều tạm bị phá hủy. Đàn cóc đang tìm đến nơi khô ráo hơn sau khi những cơn mưa rơi ở đầm lầy tại Cheongju, Nam Hàn, 26/05/2011. Ông Jim Pinter sơ tán khỏi nhà khi đám cháy rừng Wallow ở Alpine, Arizona đang tiến đến khu nhà của ông ta, 02/06/2011. Gió lớn và nhiệt độ cao khiến nỗ lực kiểm soát đám cháy của lính cứu họ trở nên khó khăn hơn. Những đám cháy rừng có thể nhìn thấy qua các căn nhà ở Sierra Vista, Arizona, 16/06/2011. Đám cháy lớn nhất trong lịch sử ở Arizona khiến hơn nửa triệu hecta rừng bị cháy rụi.
  4. W_L ơi! Rất hoan hỷ khi nhận được câu hỏi này của bạn! Có thể giải thích thế này, tâm điểm của Bản Chú là 2 Dòng" OM PADMO UNISHA VIMALE HUM PHAT- OM HANU PÁHA BHARA HEYE SOHA" đặt ở giữa. Ngoài ra là những họa tiết hay màu săc đều mang tính trang trí nhằm tôn tạo nổi bật được bản chú, tấm giấy trắng đính kèm dù là bản photo nhưng tự thân nó đã có bản chú đen trắng ngay phía trên cũng có lợi lạc cho người nhận nó. Nhân đây Wild có lời nhắn gởi tất cả ACE có đủ nhân duyên đã nhận được Thần chú này đừng xem nhẹ bản giấy trắng đính kèm mà hãy và nên cất giữ ở nơi trang trọng bởi từ bản chất của câu Chú là GIẢI THOÁT THÔNG QUA SỰ THẤY thì dù hình ảnh hay màu sắc nào cũng ban cho chúng ta sự chuyển hóa của giải thoát và an lạc.
  5. Những chiếc xe tải phải buộc xích vào bánh xe để có thể chạy trên đường phủ đầy tuyết ở Mount Hood, Government Camp, Oregon, 06/04/2011. Một người Ai Cập đi bán kem dạo đang đẩy chiếc xe trong cơn bão bụi ở thành phố Kuwait, 13/04/2011. Trường học, ngân hàng và một vài công ty đã phải cho sinh viên và nhân viên nghỉ do không khí bị ô nhiễm, và theo giới chức ở sân bay quốc tế tầm nhìn cũng giảm xuống 300 mét. Người đàn ông đẩy chiếc xe chở nước ngọt trên con đường đầy những hạt đá nhỏ sau cơn mưa ở Mexico City, 16/04/2011. Một người đàn ông ngồi sưởi ấm trong thời tiết dưới không độ ở Ciudad Juarez, 02/02/2011. Người nông dân xách xô nước trên tay để cố gắng dập tắt những đám cháy bùng phát do hạn hán tại một nông trại ở ngoại ô Havana 20/04/2011. Người dân ở Mogadishu đang vận chuyển những chú lạc đà bị ảnh hưởng bởi hạn hán trong lúc đi tìm những đồng cỏ xanh tươi mới. Các công nhân dùng bạt che đậy các tảng băng trên đỉnh núi cao nhất ở Đức, đỉnh Zugspitze, 10/05/2011. Để giữ cho khu vực trượt tuyết được an toàn cho việc chơi các môn thể thao mùa Đông, lớp băng phải được bảo vệ khỏi tan chảy từ tháng 05 đến tháng 09.
  6. Những chú ngựa được dẫn đến những vùng cao hơn để tránh lũ ở San Benito, Colombia, 20/05/2011. Người dân tập trung ở khu vực bị lở đất do mưa lớn ở Nakau, Thái Lan, 01/04/2011. Lũ lụt nghiêm trọng ở miền Nam Thái Lan đã khiến 25 người chết và hàng ngàn người phải đi sơ tán. Một người đàn ông bắt cá trên con đường ngập nước lẽ ở Phunpin, tỉnh Surat Thani, nam Bangkok, 03/04/2011. Một nông dân lái xe máy cày trên đường mô tô giữa Malmo và Trelleborg, miền Nam Thụy Điển 17/01/2011, sau khi đường xá bị ngập lụt do tuyết tan chảy. Một con bò sừng dài đứng trên bãi cỏ đã bị cháy rụi ở gần Graford, Texas, 24/04/2011. Cô Wendi Lehman tìm chỗ ẩn nấp sau khi đi thăm bãi biển Midtown ở Palm Beach, Jacksonville, Florida, Mỹ, 04/05/2011 trong khi một cơn bão lớn đang di chuyển ngoài khơi.
  7. Công ty điện lực đang trồng lại những trụ điện mới ở thành phố Pratt, Alabama, 03/05/2011 sau khi những cơn bão đi qua khu vực vốn đã bị tàn phá bởi các cơn lốc xoáy một tuần trước đó. Người cha ôm đứa con gái vừa được cứu sống trong lòng sau khi em và Mẹ bị mắc kẹt trong nhà vì cơn lốc xoáy tấn công Joplin, Missouri. Đợt lốc xoáy kinh hoàng từ ngày 25-28/04/2011, đã khiến hơn 300 người thiệt mạng ở miền Nam và miền Tây. Tổng cộng đã có hơn 500 người chết do lốc xoáy ở nước Mỹ tính từ đầu năm. Một người đàn ông đang ngồi câu cá trong khi bầy ngỗng bơi lội trong vũng nước nhỏ trên nhánh sông đã bị khô cạnh thuộc dòng sông Hanjiang, ở Wuhan, Trung Quốc 25/05/2011. Đợt hạn hán tồi tệ nhất trong 50 năm khiến vùng trung và hạ lưu sông Yangtze bị khô cạn và ảnh hưởng đến cuộc sống của gần 10 triệu người ở 4 tỉnh. Một người phụ nữ Trung Quốc khóc than tại lễ tang tập thể cho các nạn nhân lũ lụt ở Linxiang, 11/06/2011. Lũ lụt do mưa lớn ở miền Nam và Trung Trung Quốc đã khiến ít nhất 52 người thiệt mạng và hơn 100.000 người phải đi sơ tán. Người đàn ông này đang nhặt nhạnh những đồ dùng trong căn nhà đổ nát do lũ ở Laibin, Trung Quốc, 16/06/2011. Mưa to gây lũ lụt đã khiến hơn 55.000 người phải rời bỏ nhà cửa đi sơ tán, trong khi đó số người chết cho lũ và lở đất xác nhận được là hơn 100 người. Một người đàn ông đang lội trên con đường ngập sâu ở Yocoto, Colombia, 22/04/2011. Mưa lớn gây ngập lụt và lở đất trên khắp Colombia. Trong vòng 12 tháng qua đã có ít nhất 408 người chết, 487 người bị thương, 75 người mất tích và 2,8 triệu người bị ảnh hưởng. Anh chàng này đang tranh thủ lấy những đồ dùng cần thiết trong căn nhà bị ngập nước ở Cali, Colombia, 22/04/2011.
  8. Một người đàn ông đi bộ trên con đường ngập nước ở Nowshera, Pakistan, 01/08/2010. Ánh đèn xe chiếu vào tạo một hiệu ứng khá đặc biệt, trông anh ta như một ngọn đuốc. Đám đông ngồi trên cây cầu gãy và xem người đàn ông đang đu dây qua sông ở Chakdara, Pakistan, 03/08/2010. Một đám cháy rừng ở gần Viege, Thụy Sĩ, 26/04/2011 trong lúc 9 máy bay trực thăng và 300 lính cứu hỏa đang chiến đấu chống lại ngọn lửa ở đang lan đến gần khu vực thị trấn thuộc phía Nam, Thụy Sĩ, nơi bị hạn hán nặng. Một vài bang ở nước này đã phải ban bố lệnh cấm đốt lửa ở gần hoặc trong rừng để ngăn ngừa cháy rừng do đợt hạn hán tồi tệ nhất trong vòng 150 năm qua. Những chiếc xe tải ẩn mờ trong tuyết khi đang chạy trên đại lộ I-70, gần Boonville, Missouri, 01/02/2011. Đây là đợt lạnh tồi tệ nhất trong hàng thập kỷ qua ở Missouri, tuyết rơi dày kèm theo mưa băng, gió và nhiệt độ hạ thấp xuống mức nguy hiểm. Tuyết phủ đầy cả cabin của một chiếc ô tô để cửa trống ở Lake Shore Drive, Chicago, 02/02/2011. Đội Quad Cities River Bandits và Peoria Chiefs đang chơi một trận đấu bóng chày trong sân Modern Woodmen Park, Iowa, 20/04/2011. Ở bên ngoài, nước lũ từ sông Mississippi đang bao quanh sân vận động được bảo vệ bởi các bức tường chống lũ. Ngôi nhà được bảo vệ bởi con đê khi nước lũ từ sông Yazoo tràn bờ, ở gần Vicksburg, Mississippi, 18/05/2011. Anh Kevin Wincell kiểm tra đường băng ở sân bay City, London, 02/12/2010. Tuyết rơi dày cùng với cái lạnh khắc nghiệt đã khiến nhiều chuyến bay bị hủy khắp châu Âu.
  9. Rợn người nữ bá tước lấy máu trinh nữ làm đẹp. Cực đẹp mà cũng cực tàn ác, nữ bá tước Elizabeth Bathory đã duy trì nhan sắc mỹ miều của mình bằng máu của hàng trăm trinh nữ. Sinh năm 1560, Elizabeth là thành viên của gia tộc Bathory danh giá nhất Hungary thời đó, là cháu của vua Ba Lan. Chính nhờ địa vị quý tộc mà người đàn bà quỷ dữ này có thể gây ra vô số tội ác. Người đàn bà đẹp nhất châu Âu Elizabeth có nhan sắc lộng lẫy và thanh tú, cộng thêm trí thông minh tuyệt vời. Nàng đọc nhiều sách, hiểu biết rộng, và đặc biệt xuất sắc về ngoại ngữ, thông thạo tiếng Latin, tiếng Hy Lạp, tiếng Đức. Nhờ thế, nàng chiếm được sự thán phục của mọi người và được mệnh danh là cô gái đẹp nhất châu Âu. Cùng với sắc đẹp, tính tàn ác của nàng cũng xuất hiện từ nhỏ. Cô bé thường hành hạ, cắn tay các hầu hái và sung sướng khi thấy họ hét lên đau đớn. Một lần, để chữa đau đầu cho tiểu thư Elizabeth, gia nhân mổ bụng một con chim bồ câu đặt lên trán cô. Đó là lần đầu tiên cô bé cảm nhận được khoái cảm mà máu đem lại. Năm 15 tuổi, tiểu thư Elizabeth cưới bá tước Nádasdy Ferenc. Họ sống trong lâu đài Cséjthe, nằm heo hút trên một ngọn núi cao thuộc dãy Transylvania, cách biệt với xung quanh. Sự cô lập của tòa lâu đài này là một lợi thế để sau này, nữ bá tước làm điều ác mà không bị phát hiện. Là một chiến binh, bá tước Nádasdy thường xuyên phải chinh chiến phương xa. Cuộc sống buồn chán ở lâu đài khiến người vợ xinh đẹp của ông phải tìm thú tiêu khiển. Ngoài việc hành lạc với các tình nhân cả khác giới và đồng giới, niềm say mê lớn nhất của nữ bá tước là hành hạ, gây đau đớn cho người khác. Những tội ác trứ danh Elizabeth là một người cực kỳ sáng tạo trong tra tấn. Nàng tìm khoái cảm bằng cách đánh đập, cắt xẻ nạn nhân, xẻo các cơ quan, bộ phận của họ, dùng kìm rứt từng miếng thịt ở nơi nhạy cảm, tùng xẻo cho đến chết… Nàng luôn đứng trước mặt nạn nhân khi hành hạ họ để được nhìn rúm ró vì đau đớn của họ. Để thường xuyên được giải trí, nữ bá tước để ý bắt lỗi người hầu từng việc nhỏ nhặt, đồng thời bắt các con nợ về lâu đài làm "con mồi". Những trò tiêu khiến nàng thường dùng là lột truồng nạn nhân, đâm kim vào người, bôi mật ong lên rồi trói họ ngoài vườn cho côn trùng cắn, đốt, bắt nạn nhân đứng giữa trời tuyết rồi dội nước lên để biến họ thành cột nước đá mang hình người. Nhiều người bị nữ bá tước bắt ăn những miếng thịt được cắt ra từ chính cơ thể mình, hoặc của người khác. Và cuối cùng, họ phải chết đau đớn trong ngọn lửa. Tất cả những trò hành hạ đó, nữ bá tước rất thích tự tay mình làm để được tận hưởng cảm giác thích thú. Elizabeth còn nổi tiếng suốt thời trung cổ bởi một dụng cụ giết người có tên là “máy trinh nữ”. Những người con gái trinh bạch bị tống vào một bức tượng rỗng ruột rồi đóng mạnh cánh cửa gắn hàng loạt con dao găm nhọn sắc sau lưng họ. Tắm máu để… dưỡng da Góa chồng ở tuổi tứ tuần, Elizabeth Bathory vẫn đẹp nhưng làn da bắt đầu héo úa. Bà điên cuồng tìm cách cứu vãn nhan sắc nhưng không chống lại được thời gian nên càng tàn ác hơn. Một lần, người hầu gái lỡ tay làm bà đau khi chải tóc, Elizabeth nổi giận tát mạnh vào mặt cô đến nỗi máu bật ra văng vào cánh tay bà. Khi lau máu, bà nhận thấy làn da chỗ đó trở nên căng mịn, tươi sáng trở lại. Ý tưởng dùng máu dưỡng da xuất hiện. Nữ bá tước cho rằng, vài giọt máu của cô hầu ngu ngốc mà còn có tác dụng như vậy, nếu được tắm trong máu các trinh nữ xinh đẹp thì sự biến đổi còn thần diệu đến thế nào. Một cuộc giải trí đẫm máu của nữ bá tước trong lâu đài. Một cuộc săn trinh nữ để lấy máu bắt đầu. Người hầu của nữ bá tước đi bắt cóc các cô gái xung quanh, hoặc lừa tuyển người hầu đưa vào lâu đài. Bà cũng mở một học viện “đào tạo” các cô gái xinh đẹp, nhằm thu hút những gia đình nông dân muốn con gái “có học” để kiếm được cuộc hôn nhân giúp đổi đời. Tất cả họ đều một đi không trở về. Trong lâu đài Cséjthe, các trinh nữ bị lột truồng, đánh đập, rồi bị kéo đến bồn tắm, cắt động mạch tay rồi hứng máu vào đó. Một số cô gái bị treo ngược trên bồn tắm rồi cắt cổ. Sau đó, nữ bá tước khoan khoái bước vào bồn tắm để làn da toàn thân được cái chết của các trinh nữ làm cho trẻ lại. Trong vòng 6 năm, đã có 650 cô gái đồng trinh bị giết hại vì sắc đẹp và thú vui của nữ bá tước tài sắc. Đền tội Có lẽ Elizabeth Bathory sẽ được vô tư giết người cho đến khi chết già nếu biết hài lòng với máu của các dân nữ. Nhưng người đàn bà này điên cuồng đến mức cho rằng dòng máu của các trinh nữ quý tộc sẽ tốt hơn rất nhiều trong chuyện cải lão hoàn đồng. Thế là nhiều cô gái con nhà danh giá bị biến mất bí ẩn. Và sau một lần đê mê vì tắm máu, nữ bá tước đã bất cẩn vứt xác bốn nạn nhân ra ngoài lâu đài. Người dân xung quanh bắt đầu nhận ra nguyên nhân mất tích của các thiếu nữ trong những năm qua. Tiếng đồn rồi cũng đến tai vua Hungary Matthias II. Đức vua cử anh họ của Elizabeth là Thurzo Bathory đi điều tra. Đêm 30/12/1610, đoàn người của Thurzo đột nhập lâu đài và chứng kiến một cảnh rùng rợn: một thiếu nữ cạn máu nằm chết trên sàn, một thiếu nữ khác thoi thóp trong hình hài rách nát, và một số cô gái đang bị treo lên chuẩn bị hành hình. Lục soát dưới hầm, họ phát hiện nhiều cô gái đang bị giam giữ và nhiều thi hài của những người xấu số. Trong phiên tòa được mở ít ngày sau đó, ba người đồng phạm của Elizabeth đã bị tử hình bằng cách tra tấn đến chết. Riêng nữ bá tước, được mệnh danh là Blood Queen – nữ hoàng máu – do là đại quý tộc nên không bị tử hình, mà nhận án giam giữ đến chết. Bà bị nhốt trong chính lâu đài của mình, trong căn phòng nhỏ tối tăm không cửa chính, cửa sổ, chỉ có một cái khe nhỏ để đưa thức ăn vào. Bốn năm sau, vào một buổi sáng, lính canh thấy thức ăn không được động đến nên nhìn qua khe hở và nhận thấy nữ bá tước 54 tuổi đã chết, đầu gục xuống sàn. Người ta kể rằng, suốt những năm giam cầm cho đến chết, con người này chưa từng thốt lên một câu ân hận. Sự khát máu của Elizabeth đã góp phần tạo nên hình thượng ma cà rồng trong văn chương. Bà trở thành một biểu tượng kinh hoàng của cái ác thời trung cổ. Theo Đất Việt
  10. Hãy cùng nhau ký tên kiến nghị đổi tên quốc tế của biển Đông thành " Southeast Asia Sea " (hiện vẫn đang bị gọi là South-China-Sea). Với chúng ta, 4 chữ “Biển Đông Nam Á” có một nửa là lịch sử cha ông để lại, nửa kia là hiện tại hội nhập cùng bạn bè quốc tế. Hãy cùng các bạn ấy nhập thành một bó đũa. Ký vào bản tiếng Anh tại đây: http://www.change.or...theast-asia-sea P/S. Mình ký là một việc, nhưng quan trọng hơn là chuyển thư cho thật nhiều bạn bè khắp nơi ký, vì hiện nay số lượng mới có khoảng 40,000 chữ ký, cần có đủ 500,000 thì mới được chấp nhận. Hãy mau chóng vận động gia đình, bạn bè, những ai yêu Việt Nam (bao gồm người nước ngoài, kể cả …người Trung Quốc, he he), hãy ký để nhanh chóng đạt được ý nguyện chính đáng và đương nhiên này! ================================================================================================= Trên đây là một trong những lá thư mà Wild nhận được trong ngày và rất tin tưởng vào uy tín người gởi, những ai quan tâm đến vấn đề Biển Đông, đừng thờ ơ với cơ hội này!
  11. Thư tịch cổ Trung Hoa thừa nhận Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Việt Nam. Đại Thanh Nhất Thống Toàn Đồ, đảo nhỏ ở phía dưới là Hải Nam, gần đó bên trái là Giao Chỉ, đảo lớn hơn bên phải là Đài Loan Theo chính sử Trung Hoa, trong suốt 22 thế kỷ, từ các đời Tần, Hán đến sau Thế chiến thứ II, không thấy tài liệu nào, hay nói rõ hơn, không có câu chữ nào ghi rằng Biển Đông (Trung Quốc gọi là Biển Nam Trung Hoa) với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (Trung Quốc gọi là Tây Sa và Nam Sa) thuộc chủ quyền của Trung Quốc.Trong khi đó, không ít thư tịch cổ Trung Hoa, do chính người Trung Hoa ghi lại trong lịch sử đã thừa nhận Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Một tài liệu đáng tin cậy về chính sử Trung Hoa là cuốn "Lịch sử Trung Quốc thời trung cổ” do Hàn Lâm Viện Trung Quốc xuất bản tại Đài Bắc năm 1978, học giả Hsieh Chiao-Min trong bài "Nghiên cứu về lịch sử và địa lý” nhận định về cuộc thám hiểm của Trung Hoa tại đại dương như sau: "Suốt chiều dài lịch sử, về sự phát triển văn hóa và khoa học, dân tộc Trung Hoa không tha thiết với đại dương”. Và theo các tài liệu lịch sử chính thống "thảng hoặc triều đình Trung Hoa cũng gửi những đoàn thám hiểm đến Nhật Bản trong các thế kỷ thứ III và thứ II (TCN) và tại Đông Nam Á, Ấn Độ, Ba Tư và Phi Châu trong thế kỷ XV. Điểm rõ nét nhất là tại Thái Bình Dương có rất ít, nếu không nói là không có, những vụ xâm nhập quy mô của Trung Hoa” suốt chiều dài lịch sử (từ đời nhà Tần thế kỷ thứ III TCN đến nhà Thanh từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XX). Dưới đời nhà Minh, Minh Thành Tổ cử Đô đốc Thái Giám Trịnh Hòa chỉ huy những đoàn thám hiểm đến Ấn Độ Dương và Biển Ả Rập nhằm thiết lập bang giao với trên 30 quốc gia duyên hải, triển khai Con đường Tơ Lụa tại Ấn Độ, Phi Châu và Trung Đông. Những chuyến hải hành của phái bộ Trịnh Hòa không phải để chinh phục Biển Đông nơi có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trên thực tế đoàn thuyền chỉ đi ngang qua Biển Đông nhằm khai phá Ấn Độ Dương. Trạm trú chân duy nhất của đoàn trong khu vực này là Đồ Bàn (Chaban) thủ phủ Chiêm Thành bấy giờ. Sau khi Minh Thành Tổ mất, triều đình nhà Minh đã phê phán những cuộc hải trình nặng phần trình diễn của Trịnh Hòa đã góp phần làm suy yếu nền kinh tế quốc gia. Sử gia Triệu Nhữ Quát đời nhà Tống trong cuốn Chư Phiên Chí đã xác nhận nhiều sự kiện lịch sử quan trọng từ thời nhà Hán. Theo đó, năm 111 TCN, sau khi thôn tính Nam Việt "Hán Vũ Đế sai quân vượt biển sang chiếm đất của địch quân (Nam Việt) và đặt ra 2 quận Châu Nhai và Đạm Nhĩ (đảo Hải Nam). Trong thế kỷ thứ I TCN, Hán Nguyên Đế đã rút quân khỏi đảo Hải Nam. Mãi tới đời nhà Lương và nhà Tùy (cuối thế kỷ thứ VI đầu thế kỷ thứ VII) mới đặt lại quyền cai trị”. Triệu Nhữ Quát cũng cho biết vùng quần đảo Hoàng Sa (Vạn Lý Trường Sa) là nơi nguy hiểm, tàu thuyền Trung Hoa không nên đến gần vì chỉ đi sai một tí là có thể chìm đắm. Nhan đề sách là Chư Phiên Chí, có nghĩa là chép chuyện các phiên quốc, nước ngoài. Vạn Lý Trường Sa nằm ở phiên quốc, có nghĩa là không thuộc về Trung Hoa mà thuộc về phiên quốc Nam Việt. Như vậy, biên giới trên Biển Đông của Trung Hoa vào đời nhà Hán chỉ tới đảo Hải Nam. Một trang trong cuốn Hải Ngoại Kỷ Sự (1695) của Thích Đại Sán, một nhà sư Trung Quốc đời Khang Hy, thuật lại chuyến du hành tới xứ Đàng Trong, thừa nhận chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Đại Việt. Đời nhà Đường có sách Đường Thư Nghệ Văn Chí đề cập tới cuốn Giao Châu Dị Vật Chí của Dương Phu chép những chuyện kỳ dị và những nơi kỳ dị tại Giao Châu (Việt Nam). Sách này chép, tại Thất Châu Dương (nhóm An Vĩnh, quần đảo Hoàng Sa) là nơi có nhiều đá nam châm khiến các thuyền ngoại dương có đóng chốt sắt đi qua không được. Điều này đã khẳng định quần đảo Hoàng Sa thuộc về Giao Châu xưa (nay là Việt Nam). Trong đời Nam Tống, cuốn Lĩnh Ngoại Đại Đáp của Châu Khứ Phi cũng xác nhận: "Vạn Lý Trường Sa (Hoàng Sa) tọa lạc tại Giao Chỉ Dương”. Chư Phiên Đồ đời Tống cũng xác định giới hạn lãnh thổ của Trung Quốc với các nước khác ở Giao Dương (tức Giao Chỉ Dương). Giao Chỉ Dương hay Biển Giao Chỉ là Vịnh Bắc Bộ ngày nay, trong khi Hoàng Sa và Trường Sa lại cách xa Vịnh Bắc Bộ hàng trăm dặm về phía nam. Như vậy, các thư tịch cổ Trung Hoa từ đời nhà Tống đã cho thấy Hoàng Sa và Trường Sa không thuộc về Trung Quốc mà thuộc về nước khác mà Trung Quốc gọi là phiên quốc hay Giao Châu, Giao Chỉ.Vào đời nhà Nguyên, quân và dân Đại Việt đã 3 lần đánh tan quân Nguyên – Mông xâm lược và góp phần phá tan kế hoạch Đông Tiến (đánh Nhật Bản) của đoàn quân Mông Cổ nổi danh là bách chiến bách thắng từ đời Thành Cát Tư Hãn. Sau 3 phen thất bại, nhà Nguyên không còn dòm ngó Đại Việt cả trên lục địa đến các hải đảo. Trong suốt các thế kỷ XIII và XIV, theo chính sử Trung Hoa, quân Mông Cổ không hề có ý định xâm chiếm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trong Dư Địa Đồ đời Nguyên của Chu Tư Bản được vẽ thu nhỏ lại trong sách Quảng Dư Đồ của La Hồng Tiên thực hiện năm 1561 phần cực nam lãnh thổ Trung Hoa là đảo Hải Nam. Đời nhà Minh, Thiên Hạ Thống Nhất Chi Đồ trong Đại Minh Nhất Thống Chí (1461), Hoàng Minh Đại Thống Nhất Tổng Đồ trong Hoàng Minh Chức Phương Địa Đồ (1635) đã vẽ phần cực nam Trung Hoa là đảo Hải Nam. Trong khi cuốn Vũ Bị Chí của Mao Nguyên Nghi gọi Biển Đông là Giao Chỉ Dương. Trên các bản đồ Trịnh Hoà Hạ Tây Dương, Trịnh Hòa Hàng Hải Đồ cũng không thấy ghi chép các danh xưng Hoàng Sa, Trường Sa (hay theo cách gọi của Trung Hoa là Tây Sa, Nam Sa, Tuyên Đức, Vĩnh Lạc) trong các lộ trình và hải đạo của Trịnh Hòa sau 7 lần đi qua Biển Đông để khai phá Ấn Độ Dương (Tây Dương). Nhiều tài liệu chính sử nhà Minh cho biết, từ thế kỷ XV, các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nguyên là địa bàn ngư nghiệp của Chiêm Thành đã trở thành lãnh thổ của Đại Việt. Lưu ý rằng từ năm 1427 Lê Lợi đã đánh thắng quân Minh để giành lại chủ quyền cho Đại Việt bị Minh Thành Tổ chiếm đoạt từ 20 năm trước (1407). Đại Thanh Nhất Thống Toàn Đồ, đảo nhỏ ở phía dưới là Hải Nam, gần đó bên trái là Giao Chỉ, đảo lớn hơn bên phải là Đài Loan Đời nhà Thanh, từ thế kỷ thứ XVII đến XX, theo bản đồ Hoàng Thanh Nhất Thống Dư Địa Bản Đồ do triều đình nhà Thanh ấn hành năm 1894 thì đến cuối thế kỷ XIX "lãnh thổ của Trung Quốc chỉ chạy đến đảo Hải Nam là hết”. Qua thế kỷ XX, sự kiện này còn được xác nhận trong cuốn Trung Quốc Địa Lý Học Giáo Khoa Thư xuất bản năm 1906 với đoạn như sau: "Điểm cực nam của Trung Quốc là bờ biển Châu Nhai thuộc quận Quỳnh Châu (Hải Nam) tại vĩ tuyến 18”. Các quận Châu Nhai và Đạm Nhĩ thuộc đảo Hải Nam kéo dài từ vĩ tuyến 20 (ngang Thanh Hoá) đến vĩ tuyến 18 (ngang Nghệ An – Hà Tĩnh). Trong khi quần đảo Hoàng Sa tọa lạc về phía nam, từ vĩ tuyến 17 đến vĩ tuyến 15 (Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi) và quần đảo Trường Sa tọa lạc tại các vĩ tuyến 12 đến vĩ tuyến 8 (Cam Ranh – Cà Mau). Bản đồ Đại Thanh Đế Quốc do triều đình nhà Thanh ấn hành cũng không thấy vẽ các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (cũng không thấy ghi theo cách gọi của Trung Quốc là Tây Sa, Nam Sa, Vịnh Lạc, Tuyên Đức...). Hơn nữa, trong bộ Hải Quốc Đồ Ký, cuốn Hải Lục của Vương Bỉnh Nam (1820-1842) chép: "Vạn Lý Trường Sa (Hoàng Sa) là dải cát dài ngoài biển được dùng làm phên dậu che chắn mặt ngoài bờ cõi nước An Nam”. Như vậy, tư liệu này của Trung Quốc đã thừa nhận quần đảo Hoàng Sa là lãnh thổ trên biển của Việt Nam. Trong bộ sách địa lý Đại Thanh Nhất Thống Chí do Quốc Sử Quán nhà Thanh biên soạn năm 1842 với lời tựa của hoàng đế Thanh Tuyên Tông, không có chỗ nào ghi Thiên Lý Trường Sa hay Vạn Lý Trường Sa (quần đảo Hoàng Sa). Trong cuốn Hải Quốc Văn Kiến Lục của Trần Luân Quýnh (1744), vùng biển của Việt Nam tại Biển Đông được ghi bằng các danh xưng Việt Hải và Việt Dương. Trong vụ ngư dân đảo Hải Nam cướp tàu chở đồng bị đắm tại quần đảo Hoàng Sa những năm 1895-1896, để trả lời văn thư phản kháng của Chính phủ Anh, Tổng đốc Lưỡng Quảng Trung Hoa đã phủ nhận trách nhiệm với lý do: "Hoàng Sa không liên hệ gì tới Trung Quốc”. Ngoài ra cuốn Hải Ngoại Kỷ Sự (1695) của Thích Đại Sán một nhà sư thời Khang Hy đã đến đất Thuận Hóa của chúa Nguyễn ngày 29 tháng giêng năm Ất Hợi (13-3-1695) thuật lại chuyến hải hành này và ghi nhận chủ quyền của Đại Việt trong việc chiếm hữu, kiểm soát và khai thác vùng Biển Đông nơi tọa lạc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ít nhất là từ thế kỷ thứ XVII. Vitinfo.vn
  12. Lễ hội Macchabée THỂ PHÁCH NGƯỜI CHO KHÔNG TÍNH TOÁN TINH ANH ĐỜI GIỮ MÃI TRƯỜNG TỒN Từ thời trung cổ xa xưa, sự nuối tiếc và cầu chúc của người đang sống đối với những người đã khuất luôn luôn tồn tại trong suy nghĩ của những người thân còn ở lại. Tình cảm thiêng liêng đó được ghi đậm dấu ấn trong những nghi lễ, hội hè, thờ cúng và bằng cả nghệ thuật. Người ta đã vẽ, đã khắc hoạ những bức tranh hoành tráng mô tả những cuộc khiêu vũ của những người chết dưới âm phủ, và luôn mong mỏi rằng : người thân của mình khi chết sẽ sang một thế giới mới, thế giới hoàn toàn bình đẳng, an lành và siêu thoát. Đến thời kỳ phục hưng, thế kỷ XVI sau công nguyên, khi ngành Giải Phẫu học phát triển mạnh mẽ, trở thành một môn học quan trọng, là cơ sở của các môn cơ sở, việc phẫu tích xác trở nên bắt buộc và phổ biến trong các trường Đại học Y khoa. Các nhà Giải Phẫu học và sinh viên Y là những người cảm nhận hơn ai hết sự cống hiến vô giá và đầy hiệu quả của những người đã tình nguyện hy sinh thân thể cho khoa học nói chung và cho sự nghiệp giáo dục - đào tạo Y Khoa nói riêng. Vì thế, họ đã có sáng kiến biến tinh thần biết ơn trên thành buổi khiêu vũ tạ ơn những người đã hiến thân mình cho khoa học vào dịp lễ Noel hàng năm. Lễ hội Macchabée được hình thành từ đó. Macchabée là một hình tượng văn hóa độc đáo, phổ biến ở các nước phương Tây, thể hiện tính đa dạng trong nghi lễ, hội hè, âm nhạc và nghệ thuật tạo hình. Lễ hội mang tính nhân bản sâu sắc, thể hiện sự thương tiếc và chúc phúc của những người sống cho những người đã khuất, qua đó gửi gấm khát vọng hạnh phúc và bình đẳng đến tất cả mọi người. Thi hào Nguyễn Du đã viết: “Thác là thể phách, hồn là tinh anh”. Với những người nằm đây, họ dường như vẫn còn cả hai, vẫn còn đó thể phách với từng mạch máu thớ cơ, từng bộ phận với những bài giảng và vẫn còn đó nét tinh anh trong mỗi dịp xuân về, trong mỗi dịp lễ tri ân truyền thống. THỂ PHÁCH NGƯỜI CHO KHÔNG TÍNH TOÁN TINH ANH ĐỜI GIỮ MÃI TRƯỜNG TỒN Ở Việt Nam , trước năm 1975, lễ hội thường được tổ chức trong dịp đón tết âm lịch cho phù hợp với phong tục và tập quán chung của dân tộc. Sinh viên các lớp trang trí phòng thực tập Hình ảnh phòng xử lý xác Hình ảnh phòng xử lý xác Bàn thờ tại phòng thực tập giải phẫu Đông đảo các giảng sư - sinh viên và gia đình những người hiến thân cho khoa học tham dự buổi lễ Đại diện Sinh viên năm thứ Nhất đọc văn tế tưởng nhớ công lao những người hiến thân cho khoa học Nghi thức rước hương về phòng thực tập Các sinh viên đứng nghiêm trang dọc theo hành lang Các Thầy Cô thắp nhang tưởng nhớ những người hiến thân cho khoa học Các bạn sinh viên xếp hàng vào thắp nhang Các giảng sư bộ môn Giải Phẫu học tận tình giải đáp các thắc mắc Các giảng sư bộ môn Giải Phẫu học tận tình giải đáp các thắc mắc
  13. Từ bi của Phật giáo & đạo đức nhân loại. Giác Ngộ - Phật giáo vào Việt Nam lúc nào thì “từ bi” xuất hiện vào lúc ấy. Nói đúng hơn, Phật giáo hay “từ bi” cũng chỉ là một. Phật giáo ra đời không ngoài mục đích giải thoát chúng sinh, giải thoát nhân loại khỏi khổ đau. Có khổ đau mới có “từ bi”, có “từ bi” mới có Phật giáo. Quán vô lượng thọ kinh chép: “Tâm của chư Phật là tâm đại từ bi” (Chư Phật tâm giả, đại từ bi thị 诸佛心者大慈悲是). Đại trí độ luận giải thích thêm: “Hết thảy những điều trong Phật pháp, từ bi là quan trọng nhất” (Nhất thiết chư Phật pháp trung từ bi vi đại 一切诸佛法中慈悲为大)… “Từ bi là gốc rễ của đạo Phật” (Từ bi thị Phật đạo chi căn bản 慈悲是佛道之根本). Phật giáo hay "từ bi" đến với Việt Nam khác với Trung Quốc. Trung Quốc dựa vào Nho, Đạo và các học thuyết có lịch sử lâu đời chẳng kém gì Phật giáo ở Ấn Độ để "lĩnh hội" vị khách từ Tây Trúc viếng thăm này. Tứ khố toàn thư tổng mục đề yếu, quyển 117 cho rằng Phật giáo chẳng có gì mới cả: “Giáo lý của nhà Phật, về “thanh tịnh” thì có nguồn gốc ở Lão Tử, về “từ bi” thì có nguồn gốc ở Mặc Tử” (Nhiên Phật thị chi giáo, kỳ thanh tịnh thủ chư Lão, kỳ từ bi thủ chư Mặc 然佛氏之教其请净取诸老其慈悲取诸墨)(1). Có lẽ nên so sánh những điểm dị đồng giữa các học thuyết hơn là khẳng định cái này từ cái kia mà ra. Việt Nam không có điều kiện để so sánh như vậy, ba giáo gần như du nhập cùng một lúc. Lấy giáo lý để "lĩnh hội" giáo lý như Mâu Tử trong Lý hoặc luận không phải là “sở trường” của Việt Nam. Phật giáo vào Việt Nam từ dưới lên chứ không phải từ trên xuống như ở Trung Quốc(2). Cho nên ba giáo “đồng nguyên” ở Việt Nam là “đồng nguyên” ở tiêu điểm văn hóa truyền thống nhân ái, “thương người như thể thương thân”. Nói cách khác là “từ bi” của Việt Nam đã “bắt gặp” “từ bi” của ba giáo (3). Ba giáo “đồng nguyên” ở thời Lý-Trần là “từ bi thực hành” được lý thuyết hóa. Sự thống nhất giữa “từ bi” bên trên và “từ bi” bên dưới đã tạo thành sức mạnh phi thường trong lịch sử chống ngoại xâm cũng như xây dựng đất nước. Nói cách khác, “đồng nguyên” giữa ba giáo xuất phát từ lợi ích, từ tinh thần dân tộc chứ không phải từ lợi ích, từ quyền lực của giai cấp thống trị. Nếu như “từ bi” trong truyện dân gian Quan Âm Thị Kính bị lãng quên hay bị đánh mất thì có nghĩa là xã hội đang đứng trước ngã ba đường về giá trị đạo đức, văn hóa. Với 788 câu thơ lục bát của truyện Quan Âm Thị Kính có thể tóm lại trong một chữ, đó là chữ “từ” (câu 624). Ôi! chữ “từ” của “một thời để nhớ” là chữ “từ” gắn liền với truyền thống văn hóa dân tộc, còn chữ “từ” “một thời để quên” là chữ “từ” bị che lấp bởi đồng tiền và quyền lực. Như vậy là chữ “từ” hay “từ bi” có lịch sử của nó, ở mỗi thời đại khác nhau nó được nhận thức và thực hành theo nhiều cách khác nhau. “Từ bi” là “từ” và “bi”, là hai đức tính (tinh thần) cơ bản trong bốn đức tính mà Phật giáo gọi là “tứ vô lượng” (Caturapramana) hay còn gọi là “tứ vô lượng tâm” 四无量(4). Theo Câu xá luận, quyển 29, “vô lượng” 无量nói về đối tượng vô lượng, bao quát mọi chúng sinh, không hạn chế một ai cả (vô lượng chúng sinh无量众生) và hiệu quả vô lượng, lợi ích đem lại cho chủ thể cũng như khách thể đạo đức là vô cùng lớn lao (vô lượng phúc quả无量福果). Bốn đức tính đó gọi là "từ" 慈, (Skt: Maittri", Pali: "Metta"; "bi" 悲 (Skt, Pali: Karuna); "hỷ" 喜 (Skt, Pali: Mudita); "xả" 舍 (Skt: Upeksa, Pali: Upekkha)(5). Kinh Tập giải thích: “Từ” là lòng mong muốn đem lại lợi ích và an lạc cho người khác. “Bi” là hy vọng nhằm loại trừ những khổ đau không có lợi cho người khác hoặc có hại cho người khác” (Từ thị lợi ích hòa an lạc tha nhân đích tâm nguyện. Bi thị trừ khử bất lợi tha nhân hoặc hữu hại tha nhân chi khổ chi hy vọng 慈是利益和安乐他人的心愿,悲是除去不利他人或者害他人之苦之希望). Phật học Đại từ điển Đinh Phúc Bảo định nghĩa “tứ vô lượng” là “bốn đức tính của Phật Bồ tát gồm từ, bi, hỷ, xả. Tâm niệm đem lại niềm vui cho người khác gọi là “từ”, tâm niệm làm cho người khác bớt khổ đau gọi là “bi”, vui mừng vì chúng sinh được an lạc, tránh khổ đau gọi là “hỷ”, tâm niệm đối với chúng sinh không tính toán thân, sơ, đối xử với mọi người bình đẳng như nhau gọi là “xả” (Phật Bồ tát từ, bi, hỷ, xả chi tứ đức dã. Dữ lạc chi tâm vi từ, bạt khổ chi tâm vi bi, hỷ chúng sinh ly khổ hoạch lạc chi tâm viết hỷ, ư nhất thiết chúng sinh xả hận thân chi niệm nhi bình đẳng nhất như viết xả 佛菩萨慈悲喜舍之四德也,与乐之心为慈,拔苦之心为悲,喜众生离苦获乐之心曰喜,于一切众生舍恨亲之念而平等一如曰舍). Thông thường, "từ" vẫn được hiểu là "đem lại niềm vui" (dữ lạc 与乐), "bi" có nghĩa là "giảm bớt khổ đau" (bạt khổ 拔苦). Nhưng không phải ai cũng hiểu như vậy. Chẳng hạn Vãn sinh luận chú lại cho rằng: “Giảm bớt khổ đau cho người khác gọi là “từ”, đem lại niềm vui cho người khác gọi là “bi”” (Bạt khổ viết từ, dữ lạc viết bi 拔苦曰慈,与乐曰悲). Niết bàn kinh, quyển 14, cũng cùng kiến giải: “Giảm bớt những gì không có ích lợi cho chúng sinh gọi là “đại từ”, đem lại niềm vui vô hạn cho chúng sinh gọi là “đại bi”” (Vi chư chúng sinh trừ vô lợi ích thị danh đại từ, dục dữ chúng sinh vô lượng lợi lạc thị viết đại bi 为诸众生除无利益是名大慈,欲与众生无量利乐是名大悲). Như vậy là “từ” được hiểu là “bi” và “bi” lại được hiểu là “từ”. Cái nọ thành cái kia và cái kia thành cái nọ. Nhưng thực ra “từ” và “bi” cũng là hai mặt của một vấn đề, cho nên gọi là “đại từ”, “đại bi” hay “đại từ bi” cũng thế mà thôi. Thậm chí chỉ cần một chữ “từ” cũng đủ rồi, bởi vì “từ là mẹ của mọi đức tính” (Từ vi nhất thiết đức chi mẫu, Nhân Vương kinh 慈为一切德之母,仁王经). Metta sutta có thể gọi là Từ kinh hay Từ bi kinh cũng chẳng có gì khác nhau. Cũng như “ngũ thường” của Nho giáo bao gồm “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín” nhưng gọn lại chỉ cần một chữ “nhân” là đủ. “Từ” của Phật giáo thường được ghép với “ái” 爱 - "từ ái" 慈爱. "Nhân" 仁là cốt lõi của Nho giáo, "nhân" cũng là "nhân ái" (Nhân, nhân ái dã, Mặc Tử, Kinh thuyết hạ仁,仁爱也). "Nhân ái" là "yêu người" (Nhân giả ái nhân, Mạnh Tử, Ly lâu hạ). “Ái” (Love) cũng là một trong ba mỹ đức của thần học và cũng là một trong ba cương lĩnh của Đức Chúa Giê-su(6). Như vậy phải chăng “yêu thương mọi người”, “yêu thương nhân loại” là tiêu điểm của Phật giáo, Nho giáo và Cơ Đốc giáo? Nhưng “tình thương” hình như vẫn đang bị bóng đen của “hận thù” và “dục vọng vô bờ” che lấp. Mahatma Gandhi, vị Thánh của người Ấn Độ, đã từng sống và kêu gọi mọi người hãy sống theo tinh thần “chấp trì chân lý” (Satyafraha), nghĩa là từ bi, tình thương và phi bạo lực (Ahimsa): “Linh hồn bao gồm cả trí tuệ. Ngọn lửa của lòng từ bi bùng cháy trong nó. Nếu một ai đó tổn thương ta bằng vô minh thì ta thắng họ bằng tình thương” (Collected Work of Mahatma Gandhi). Mahatma đã cảnh báo về “bảy sai lầm lớn đối với nhân loại” (Seven Blunders of the World) (ông có bổ sung thêm sai lầm thứ tám). Nhưng chẳng bao lâu sau đó ông bị hành thích và nghe đâu trước khi từ giã cõi đời ông còn đưa tay lên trán tỏ ý khoan dung cho kẻ đã hành thích mình. Có thể trích ra đây một vài sai lầm mà ông đã phê phán: “Của cải mà không tự mình làm ra”, “Hưởng lạc mà vô lương tri”, “Tri thức mà không có phẩm hạnh”, “Buôn bán làm ăn mà không có đạo đức”, “Khoa học mà không có nhân tính”, “Quyền lợi mà không có trách nhiệm”… (Wealth without work, Pleasure without conscience, Knowledge without character, Commerce without morality, Science without humanity, Rights without responsibility)… Như vậy thì hạnh phúc của con người được giải quyết bằng đạo đức, bằng từ bi hay là bằng bạo lực? Hầu như ít ai đồng tình bạo lực đem lại hạnh phúc. Nếu như vậy thì con người đâu có hơn gì con vật? Nhưng con người cũng là con vật kia mà! Tính người đâu đã dễ dàng gì chiến thắng tính động vật. Đức tính “từ bi” cao cả của lý tính e rằng còn lâu mới có thể thuyết phục nổi “nắm đấm” của những con người công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chẳng trách học trò của Khổng Tử lại dám lên tiếng chê học thuyết nhân ái của thầy là “không thực tế” (vu khoát). Còn Khổng Tử thì tự an ủi rằng biết thừa là học thuyết của mình không thực thi được nhưng vẫn cứ làm. Có lẽ ông hy vọng rằng một ngày nào đó trên trái đất, “nhân ái” của ông sẽ chiếm được ưu thế chăng? Giá như ông sống lại ở thế kỷ XXI này thì ông sẽ thấy mọi việc chẳng có gì khác xưa, thậm chí có khi còn tệ hại hơn là đằng khác. Thuyết “nhân ái” nổi tiếng của Khổng Tử gồm hai nguyên tắc gọi là ‘trung” 忠và "thứ" 恕. Khổng Tử giải thích "trung" như sau: "Nếu ta muốn đứng được trong xã hội thì nên làm cho người khác cũng đứng được như vậy, ta muốn được thành đạt thì nên làm cho người khác cũng thành đạt như vậy" (Kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục đạt nhi đạt nhân, Luận ngữ, Ung Dã 己欲立而立人己欲达而达人). "Thứ" nghĩa là: "Cái gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác (Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân, Luận ngữ, Nhan Uyên 己所不欲勿施于人). Nhưng giữa "trung" và "thứ" thì Khổng Tử vẫn xem trọng "thứ" hơn là "trung". Tử Cống hỏi thầy rằng liệu có câu nói nào mà suốt đời cần phải theo hay không? Khổng Tử đáp đó là "thứ", nghĩa là "cái gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác" (Kỳ thứ hồ, kỷ sở bất dục vật thi ư nhân, Luận ngữ, Vệ Linh Công 其恕乎!己所不欲勿施于人). Cũng không có gì khó khăn lắm để tìm thấy những câu tương tự như thế trong Kinh Thánh. Trong Tân ước có câu: “Những gì anh em muốn người ta làm cho mình thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta” (Do to others what you would have them do to you) (Matthew 7:12). Tân ước, Phúc âm Luca (Gospel of Luke 6: 31) cũng có câu tương tự như vậy. Cựu ước cũng có câu tương tự như “thứ” của Nho giáo: “Điều gì con không thích thì cũng đừng làm cho ai cả” (Do not do to others what you would not like to do) (Tobias 4:15). Hobbes trong tác phẩm Leviathan, khi đề cập về nhà nước cũng đề cập đến “nguyên tắc vàng” (Golden Rule) nói trên. Thực ra “nguyên tắc vàng” còn xuất hiện ở nhiều kinh điển tôn giáo trên thế giới. Chẳng hạn như: “Bất kỳ ai làm cho người khác những gì mà mình không muốn thì kẻ đó không xứng đáng là tín đồ”, Islam giáo (Bốn mươi Thánh huấn 13). “Nhân loại nên lấy đạo lý của mình để đối xử với kẻ khác”, Jaina giáo, (Sutrakritanga, 11). “Không thể lấy đạo lý mà mình không thích để làm cho người khác. Đó là bản chất của đạo đức”, (Mahabharata, XIII, 114, 8). “Nguyên tắc vàng” phổ biến như vậy cho nên “Tuyên ngôn đạo đức toàn cầu” (Declaration Toward a Global Ethic)(7) xem đó như là điểm đồng quy của đạo đức nhân loại: “Hàng nghìn năm qua, rất nhiều tôn giáo và truyền thống đạo đức của nhân loại đều duy trì một nguyên tắc, đó là “cái gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác”. Điều đó cần phải trở thành nguyên tắc tuyệt đối vô điều kiện, thiên cổ không thay đổi trong mọi lĩnh vực của đời sống, bao gồm gia đình và xã hội, các chủng tộc, các quốc gia, các tôn giáo”. Đó là điểm tương đồng giữa đạo đức và văn hóa của phương Đông và phương Tây. Tuy nhiên, ngay ở điểm tương đồng này cũng đã có dị biệt, dị biệt giữa Đông và Tây đã đành mà còn cả dị biệt giữa phương Đông và phương Đông nữa. Kinh Thánh, hay văn hóa phương Tây thường tách biệt giữa con người và tự nhiên, giữa chủ thể và khách thể, cho nên có phần thiên về “trung” hơn là “thứ”. Cho nên “nguyên tắc “thứ” của Khổng Tử bị xem là có phần tiêu cực, còn “trung” mới là tích cực. Nhiều học giả lại cho rằng “thứ” mới là cơ bản, còn “trung” mà phương Tây đề cao có thể lại là nguyên nhân của chủ nghĩa nhân loại trung tâm, châu Âu trung tâm, cá nhân trung tâm, chân lý bản vị… Cái gì mình thích, cái gì mình cho là đúng thì nên hoặc bắt mọi người cũng thích và cũng cho là đúng như mình. Nói vậy thôi chứ nguyên tắc “thứ” của Khổng Tử có phải ai cũng khen hết đâu! Chưa chắc cái gì mình thích thì người ta cũng thích, cái gì mình không thích thì người ta cũng không thích? Cho nên “suy bụng ta” không phải lúc nào cũng “ra bụng người”. Nhưng dầu sao “hễ ta không muốn thì người chẳng ưa”, nghĩa là đừng “đụng” đến người khác có lẽ còn hơn là “hễ ta đã muốn thì người phải ưa”. Xuất phát điểm “từ bi” của Phật giáo không phải từ chủ thể để đến với khách thể, không phải từ “suy bụng ta” để “ra bụng người”. Đã là “vô ngã” thì làm sao “suy bụng ta” được? “Từ bi” của Phật giáo không khiên cưỡng đem “muốn” hay “không muốn” của mình áp đặt cho người khác(8). Cơ sở của “từ bi” không phải là chủ nghĩa kinh nghiệm, cảm tính. Cho dù “vô ngã” ở Phật giáo nguyên thủy chủ yếu là phê phán “vị ngã” trên bình diện đạo đức, nhưng từ thuyết duyên khởi Nagajruna đã tiến thêm một bước thống nhất giữa “vô ngã” và “tính không”, giữa đạo đức và triết học. Cơ sở của “từ bi” không phải là kinh nghiệm mà là triết lý “vô duyên đại từ, đồng thể đại bi” 无缘大慈同体大悲 , nghĩa là "đại từ" là do nhận thức được "duyên" là "không" (vô duyên), "đại bi" là do lãnh ngộ chúng sinh và bản thân cùng một gốc (đồng thể). Cho nên đạo đức và trí tuệ, hay "bi" và "trí" trở thành yêu cầu không thể thiếu của Đại thừa. A la hán 阿罗汉 (Skt: Arhat) là hình tượng của Tiểu thừa, chủ yếu là tự độ, tự giải thoát, thịnh hành nhất ở thế kỷ thứ II-III trước Tây lịch. Bồ tát 菩萨hay Bồ-đề-tát-đỏa 菩提萨缍, Bồ-đề-tát-đa 菩提萨多, Skt: Bodhisattva, Pali: Bodhisatta, mới thực sự là hình tượng của Đại thừa(9). “Bodhi” nghĩa là trí tuệ, Satva nghĩa là chúng sinh hữu tình. Cho nên “Bồ tát” được dịch là “giác ngộ chúng sinh hữu tình” (Giác hữu tình 觉有情). Bồ tát bao gồm "trí tuệ" và "từ bi", thể hiện của "từ bi" lại là "bố thí". "Bố thí" được xếp ở hàng đầu của Lục độ. Bố thí có nhiều hình thức, nhiều phương pháp, nhiều cấp độ nhưng Du già sư địa luận (Yogacarabhumi-sastra) chia “bố thí” làm ba loại: “tài thí”, “pháp thí” và “vô uý thí”. “Bố thí” không phải chỉ là hành vi lợi người, thiệt mình mà là hành vi tự lợi, lợi tha. Thậm chí không phân biệt chủ thể và khách thể, không phân biệt giữa người bố thí và người được bố thí. Kinh Kim cương cũng đã từng lưu ý điều đó: “Bồ tát cứu độ không biết bao nhiêu là chúng sinh nhưng thực ra chẳng có chúng sinh nào được cứu độ cả” (Bồ tát diệt độ vô lượng chúng sinh thực vô chúng sinh đắc diệt độ giả 菩萨灭度无量众生实无众生得灭度者). Hoàn toàn không có sự phân biệt giữa người “cứu độ” và người được “cứu độ”, cho nên “từ bi” hay “bố thí” không có thân, sơ, trên dưới mà là “bình đẳng nhất như”. Khen cho ai đã chuyển từ “dộc thiện kỳ thân” sang “thiện cùng đại thiên hạ”. Vĩ đại thay cho ai đã từng tuyên bố: “Ta không vào địa ngục thì còn ai vào địa ngục? Chừng nào địa ngục còn chúng sinh thì ta thề không thành Phật” (Ngã bất nhập địa ngục thùy nhập địa ngục? Địa ngục bất không thệ bất thành Phật, Địa Tạng Bồ tát bản nguyện kinh 我不入地狱谁入地狱?地狱不空誓不成佛)(10). Như vậy là Phật không phải chỉ ở Niết bàn mà còn ở địa ngục, ở nơi mà chúng sinh cần đến người hơn bất cứ nơi nào trên cõi đời này! “Nhân ái” của Nho giáo dựa trên cơ sở huyết thống để phân biệt thân sơ, dựa vào địa vị xã hội để phân biệt trên dưới (xem Lễ ký, Lễ vận). Phạm vi “nhân ái” của Nho giáo chủ yếu là con người chứ không bao quát mọi chúng sinh, mọi sinh vật như “từ bi” của Phật giáo. Cho nên quan hệ giữa con người và tự nhiên của Phật giáo có phần hài hòa hơn là “thiên nhân hợp nhất” của Nho giáo. “Từ bi” của Phật giáo cũng không đặt con người vào vị trí trung tâm vũ trụ hay con người được Chúa sinh ra là để cai quản muôn loài như Cơ Đốc giáo. Như vậy là hành tinh xanh đang cần đến “từ bi” và “từ bi” cũng đang hướng về hành tinh xanh! Không có hành tinh xanh thì cũng không có sinh vật, không có sự sống và cũng không có con người. “Từ bi” vô lượng hay “tứ vô lượng tâm” của Phật giáo chẳng phải với mục đích cao cả đó sao? Tuy nhiên, cái gọi là “tình thương” của Phật giáo đối với chúng sinh không hoàn toàn giống như “bác ái” của Cơ đốc giáo hay “nhân ái” của Nho giáo. Thậm chí có người cho rằng Phật Thích Ca chưa bao giờ kêu gọi “bác ái” như Cơ đốc giáo cả. Rắc rối có lẽ là tại chữ “ái” mà ra. Chỉ có một chữ “ái” nhưng lại được dịch từ nhiều chữ Sanskrit, Pali khác nhau trong kinh điển Tiểu thừa và Đại thừa (nhất là Tiểu thừa) thì làm sao mà không rắc rối được? Chữ Sanskrit hay Pali được dịch ra chữ Hán là “ái” 爱, nhưng "ái" lại có nghĩa rộng hơn "Love" tiếng Anh hay "Liebe" tiếng Đức. "Ái" trong kinh điển Phật giáo nói chung chia làm hai loại: loại chỉ đức tính tốt và loại chỉ tính xấu, gọi là ô nhiễm, chấp trước. Ví dụ như Skt, "sneha" có nghĩa là cha mẹ thương (ái) con (Xem Phật sở hành tán), “Preman” là tình yêu cao thượng (từ này có ngoài đời từ lâu) hay Pali, Pema có nghĩa là tình bằng hữu (Xem Pháp cú kinh)… Đó là những từ chỉ đức tính tốt. Còn những từ có tính ô nhiễm cũng được dịch là “ái”, ví dụ như Pali, Chanda, có nghĩa là ham thích (Xem Tạp A hàm kinh), Skt, anunaya, trsyamana (Xem Trung luận), Skt, trsna, Pali, tanha, có nghĩa là ham muốn (Xem Câu xá luận và Tạp A hàm kinh)… đều là những từ thuộc vào loại “chấp trước” cần phải loại trừ. Như vậy có thể thấy chữ “ái” được dịch từ kinh điển Phật giáo chủ yếu là chữ “ái” không biểu thị đức tính tốt mà thường ngược lại. Ngay ở “Tứ diệu đế” hay “Thập nhị nhân duyên”, “ái” và “dục” là những từ đồng đẳng, được xem là nguyên nhân cơ bản của khổ đau. “Ái-dục” là yêu thích, là ham muốn chiếm đoạt những đối tượng do nhân duyên hợp thành, không có tự tính, thực ra là ảo, là không tồn tại. Cho nên “từ bi” của Phật giáo không hoàn toàn giống như “bác ái” của Cơ Đốc giáo hay “nhân ái” của Nho giáo cũng là lẽ đương nhiên(11). Có lẽ vì vậy nên Nagajruna đã chia “từ bi” thành ba mức độ: chúng sinh duyên众生缘, pháp duyên法缘 và vô duyên无缘. "Chúng sinh duyên" là từ bi, bố thí cho chúng sinh những nhu cầu thông thường thiết yếu đối với cuộc sống. "Pháp duyên" là từ bi đối với đối tượng đã lãnh hội được mọi sự vật là do nhân duyên hợp thành. "Vô duyên" là từ bi đối với đối tượng đã lãnh hội được "duyên" (nhân duyên) cũng là không, là vô. Để lãnh ngộ được điều đó, "từ bi" hay "bố thí" không thể thiếu trí tuệ. "Bi-trí" trở thành đặc điểm của Đại thừa. Lục Ba-la-mật 六波罗蜜 (Skt: Satparamita) đặt "bố thí" ở hàng đầu và cả năm điều đầu tiên đều thuộc về "bi", nhưng điều sau cùng không thể thiếu lại là "tuệ". Cho nên "bi" thiếu "tuệ" sẽ mất phương hướng, "tuệ" thiếu "bi" thì "tuệ" sẽ mất sức sống. Phật giáo Việt Nam thời Lý-Trần đã kết hợp cao độ giữa "bi" và "trí" nhưng càng về sau hình như thiên về "bi" hơn là "trí". Phải chăng là do một trong những đặc điểm gọi là "thiết thực" của dân tộc Việt Nam đã tác động? "Thiết thực" là không xa rời thực tế, không kinh viện, không lý luận suông, nhưng lại có xu hướng xem thường lý luận. "Quyền lực" thường được đặt ở vị trí cao hơn cả "bi" lẫn "trí", nói cách khác, "bi" và "trí" thường không thống nhất với quyền lực. Sở dĩ như vậy là vì "quyền lực" là thiết thực của thiết thực. Có quyền lực thì làm gì mà chẳng được, có quyền lực thì muốn gì mà chẳng có. Quyền lực mới là mục đích, "bi-trí" chỉ là phương tiện. Cho nên "từ bi” và "Bồ tát" trở thành đối tượng của cầu đảo ở các lễ hội. Thay vì Quan Thế Âm Bồ tát và "từ-bi-hỷ-xả" chỉ là một thì nay hình tượng của ngài lại được đồng nhất với tiền tài, lợi lộc, thành đạt, thăng tiến… "Từ bi" của Phật giáo thời Lý-Trần là đỉnh cao của "bi-trí" - "đạo đức" và "trí tuệ, của Phật giáo Đại thừa và cũng là của dân tộc, của nhân loại. Thời đại văn minh vật chất, GDP được xem như là giá trị, là mục tiêu tối cao đã và đang đẩy đạo đức nhân loại trở về quá khứ. "Con người kinh tế", "con người văn minh dã man" càng ngày càng trở thành "người mẫu" hiện đại, còn con người thì ngày càng được “kính nhi viễn chi”. Chủ nghĩa GDP giàu mạnh đang lạc lối trước cửa ngõ của “trái tim của thế giới không có trái tim” và đang cách xa thế giới tâm linh của con người. Quyền lực, pháp chế, chế tài… hình như đang nhường chỗ tình yêu thương con người cho các tôn giáo, “từ bi” của Phật giáo cũng ở trong số đó. Nếu “từ bi” của Phật giáo là đạo đức của dân tộc, của nhân loại thì môi trường sống sẽ không phải chết, quan hệ giữa con người sẽ là quan hệ con người chứ không phải là quan hệ chó sói. Quan hệ giữa người và người là quan hệ “từ bi”, là “bi” và “trí”. “Từ bi” tồn tại cùng với nhân loại và nhân loại sẽ tồn tại cùng với “từ bi”. ------------ (1) Xem Tứ khố toàn thư tổng mục đề yếu, quyển 117, Tử bộ tạp gia loại, Mặc Tử, quyển 15. (2) Những giả thuyết Phật giáo từ Ấn Độ vào Trung Quốc thường được bắt đầu từ các vị vua như Hán Vũ Đế, Hán Minh Đế, Tần Thủy Hoàng… Chùa Bạch Mã đầu tiên ở Trung Quốc xây dựng ở Lạc Dương là do lệnh của Hán Minh Đế (Xem Lý hoặc luận của Mâu Bác). Cao tăng truyện, Phật Đồ Trừng truyện ghi chép Hán Minh Đế để cao tăng Ấn Độ dựng chùa ở Lạc Dương nhưng cấm người Hán xuất gia. (3) Phật giáo: “Từ”, “Bi”, “Hỷ”, “Xả”; Nho giáo: “Nhân nghĩa”, “Nhân ái” (Luận ngữ, Phàn Trì); Đạo gia: “Từ”, “Kiệm”, “Bát vi thiên hạ tiên” (Đạo đức kinh, Chương 67). (4) Tiếng Anh thường dịch là “Four Immeasurable Minds”, “Four unlimited Minds”, tiếng Pháp “Quatre incommensurables”… (5) Bhikshu Dharmamitra dịch sang tiếng Anh: “từ”- Kindness, “bi”-Compassion, “hỷ -Delight, “xả”-Renunciation. Những bản dịch khác: “từ”- Loving-Kindness, “bi”-Compassion, “hỷ”-Sympathetic joy, “xả”- Equanimity. Tiếng Pháp dịch “từ”- Bienveillance, “bi”-Compassion, “hỷ”-Sympathie, “xả”-Équanimité, Détachement… (6) Ba mỹ đức đó là “Ái” (Love), “Vọng” (Hope) và “Tín” (Faith). (7) Tuyên ngôn của Hội nghị tôn giáo thế giới lần thứ 2 họp tại Chicago (Mỹ) từ ngày 28-8 đến ngày 4-9-1993. (8) Tương Ưng bộ kinh chép: “Những gì mà ta không thích thì đương nhiên cũng đừng làm điều đó cho người khác. Làm sao mà ta có thể đem những điều không thích áp đật cho người khác được” (Phàm bất năng thủ duyệt ư ngô nhân giả diệc tất bất năng thủ duyệt ư tha nhân, ngô nhân hựu khả năng tương chi cưỡng gia ư tha nhân ni?). (9) Danh xưng “Bồ tát” ở thời Phật giáo nguyên thủy chủ yếu là để chỉ tiền thân của Đức Phật Thích Ca. (10) Địa Tạng Bồ tát bản nguyện kinh thực ra không có nguyên văn câu nói trên. (11) Xem Phật giáo đại từ điển, Thương vụ án thư quán quốc tế hữu hạn công ty xuất bản, 1992. Hà Thúc Minh
  14. http://www.flixxy.com/dani-lary-magic-le-taj-mahal.htm Nhạc hay! Nghệ sĩ biểu diễn tuyệt vời>
  15. Rùng rợn tục thụ táng của người Tây Tạng (Tin tuc) - Những đứa trẻ sơ sinh không may chết non sẽ được bọc vào chăn hoặc tã rồi buộc trên cây, đó là phong tục thụ táng của người Tây Tạng, Trung Quốc.Tin Tức, Tin HOT trong ngày được cập nhật liên tục từng giờ tại Tin Tức Trong Ngày Hiện nay, tại một số vùng của Trung Quốc vẫn tồn tại những phong tục mai táng cổ xưa như: thổ táng, thủy táng, huyền táng (chôn treo), thiên táng (điểu táng), thụ táng (lộ thiên táng)… Tây Tạng vốn là một trong những nơi có tục thiên táng, thụ táng phổ biến nhất Trung Quốc. Thụ táng, còn gọi là lộ thiên táng, là đem tro xương của người chết chôn dưới gốc cây hoặc rải lên một khoảnh đất nào đó rồi trồng lên chỗ ấy một cây làm kỷ niệm. Thụ táng không có huyệt mộ, không có bia mộ, chỉ có một phiến đá đặt dưới gốc cây hay một miếng kim loại treo lên thân cây ghi họ tên, năm sinh, năm mất của người chết. Hiện nay, thụ táng được xem là một trong những hình thức mai táng hiện đại nhất trên thế giới. Người ta cho rằng thi thể người chết được phơi nắng dầm mưa sẽ hóa thành những vì sao trên trời, soi sáng và dẫn đường cho con cháu. Nếu trẻ con chết, thi thể sẽ được bó lại bằng vỏ cây hoa treo lên cây vì người ta sợ rằng chôn trẻ con dưới đất, linh hồn của chúng sẽ không thoát ra được, ảnh hưởng xấu đến việc sinh nở về sau. Quan niệm của người Tây Tạng cho rằng, do trẻ sơ sinh vẫn chưa từng tiếp xúc với bất cứ việc thiện ác nào trên thế giới này nên mới có tư cách thụ táng, hy vọng kiếp sau chúng sẽ được trưởng thành khỏe mạnh như những thân cây rắn chắc. Khu thụ táng trong ảnh có hơn 500 thi thể bé sơ sinh (bao gồm cả những thi thể trải qua nhiều năm tháng nên đã rơi xuống đất), cùng hơn 20 thi thể của những cao tăng được thổ táng. Trên núi có rất nhiều cờ phướn, nhiều đầu lâu rơi xuống đất phủ đầy rêu xanh. Không khí nơi đây vô cùng âm u, nồng nặc âm khí và mùi chết chóc. Dưới đây là những bức ảnh cận cảnh khu thụ táng rùng rợn này: <P style="TEXT-ALIGN: center" id=yui_3_2_0_3_1309786730370171> <P style="TEXT-ALIGN: center" id=yui_3_2_0_3_1309786730370187> nguồn tintuc 24h
  16. Mỗi đồ vật nhựa đều được đánh số hiệu, từ đó ta có thể biết cái nào sẽ ảnh hưởng tới sức khỏe con người. Nếu bạn vô tình lật ngược một chiếc vỏ chai Lavie hoặc một hộp dầu gội đầu, bạn sẽ thấy những con số nằm gọn trong dấu hiệu “recycle”, vậy bạn có biết những con số này có ý nghĩa như thế nào không? Nếu bạn là nhân viên một công ty tái chế đồ nhựa, thì những con số này giúp bạn có thể biết được loại đồ nhựa nào có thể tái chế được, loại nào không. Còn nếu bạn muốn tìm hiểu xem loại hộp nhựa nào có thể sử dụng để đựng thức ăn an toàn và hợp vệ sinh nhất, thì những con số trên cũng sẽ giúp bạn giải quyết thắc mắc đó. Có 7 loại số mà các bạn sẽ thấy chúng xuất hiện trên các hộp nhựa, phản ánh 7 loại khác nhau của đồ nhựa được phép lưu hành trên thị trường. Một số loại thì ít độc hại cho sức khỏe của chúng ta và thân thiện với môi trường, còn một số khác thì không. Một số loại dễ dàng tái chế, trong khi một số khác khả năng này ít hơn. Số 1: Là loại nhựa polyethylene terephtalate, hay còn được gọi là PETE hoặc PET. Hầu hết các chai soda và chai nước khoáng... đều thuộc loại đồ nhựa số 1. Loại nhựa này nói chung là an toàn, tuy nhiên, với bề mặt xốp có thể cho phép vi khuẩn và mùi vị tích tụ lại, do đó, nó chỉ được xem là loại đồ nhựa chỉ sử dụng một lần và rất dễ dàng để tái chế. Số 2: Đây là loại nhựa có tỷ trọng polyethylene cao, hay còn được gọi là HDPE. Hầu hết các bình sữa cho trẻ em, chai đựng sữa, nước trái cây, hoặc chứa các loại nước tẩy rửa... đều là loại nhựa số 2. Tuy có màu đục nhưng loại nhựa này được xem là an toàn và khả năng tích tụ vi khuẩn thấp. Nhựa số 2 cũng được xem là có thể dễ dàng tái chế. Số 3: Đây là loại nhựa được làm từ polyvinyl clorua, hoặc PVC. Các loại giấy gói thực phẩm, chai đựng dầu ăn, đường ống dẫn nước... là nhựa PVC.Trong thành phần của nhựa PVC có chứa phthalates – một trong những hợp chất hóa học gây cản trở sự phát triển của hormone, do đó, nó được xem là không an toàn khi tiếp xúc với nhiệt độ cao - thông thường là đựng đồ ăn nóng hoặc nước nóng. Bạn nên hạn chế tối đa sử dụng loại nhựa số 3 trong việc lưu trữ thực phẩm càng nhiều càng tốt. Thông thường, nhựa PVC hiếm khi được chấp nhận trong các chương trình tái chế. Số 4: Đây là loại nhựa có chứa polyethylene mật độ thấp (LDPE). Nó thường được sử dụng để làm các loại túi nhựa đựng hàng tạp hóa, giấy gói thực phẩm... Loại nhựa này được xem là khá an toàn, nhưng nó cũng không phải là đối tượng được chấp nhận trong các chương trình tái chế. Số 5: Đây là loại nhựa được làm từ polypropylene. Hộp sữa chua, chai đựng nước lọc, lọ đựng thuốc, chai đựng nước xiro hoặc nước sốt cà chua, tương ớt, ống hút... đều được thuộc loại nhựa số 5. Loại nhựa này được xem là an toàn, và ngày càng được chấp nhận bởi chương trình tái chế. Số 6: Nhựa Polystyrene, hay còn được gọi là xốp, thường được sử dụng trong khâu đóng gói bao bì. Bạn cũng sẽ thấy rằng nhựa số 6 được sử dụng để làm ra các loại đĩa và ly dùng 1 lần. Ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy rằng loại đồ nhựa này có khả năng tiết ra các chất hóa học độc hại, đặc biệt khi đun nóng. Do đó, chúng ta nên tránh xa các loại đồ nhựa mang nhãn số 6 càng tốt. Rất khó để tái chế các loại đồ nhựa số 6. Số 7: Con số này về cơ bản có nghĩa là “Tất cả mọi thứ”. Đây là sản phẩm từ hỗn hợp các loại chất dẻo đã được phát minh sau năm 1987, trong đó có Polycarbonate và chất BPA rất đáng sợ.Hầu như không có bất cứ loại đồ nhựa gia dụng nào mang nhãn số 7. Loại nhựa này đa phần chỉ được sử dụng trong công nghiệp, từ vỏ máy điện thoại, máy tính... Rất khó để tái chế nhựa số 7 và các chương trình tái chế đều không chấp nhận loại nhựa này.Loại nhựa nào là an toàn?Tóm lại, các loại đồ nhựa số 2, 4, 5 thường được coi là an toàn. Đồ nhựa số 1 cũng được xem là an toàn nếu chỉ được sử dụng 1 lần. Khi bạn lựa chọn đồ nhựa gia dụng, cần phải hết sức thận trọng và xem xét kỹ lưỡng những con số được đánh dấu dưới đáy các loại chai, hộp nhựa. Tốt nhất là không nên chọn những loại đồ nhựa không có nhãn mác gì nhé.
  17. Xác nhận có 300,000 đ (ba trăm ngàn đồng) của Sunnyday81 đóng góp ủng hộ từ thiện. Quỹ hiện có: 9,900,000 đ + 300,000 đ = 10,200,000 đ (mười triệu hai trăm ngàn đồng)
  18. Và nếu để ý trong năm 2011 này có sự trùng lắp đặc biệt trong tháng 7- 2011 có năm ngày thứ 6, thứ 7 và năm ngày Chủ Nhật, tiếp theo đó là tháng 10 và tháng 12 có năm ngày thứ bảy. Sự kiện này hình như bao nhiêu chục năm mới lập lại. Tính về mặt hưởng lương nhà nước CB & Công Chức được nghĩ 10 ngày trong tháng 7/2011. Riêng tháng 8-2011 chúng ta cũng phải đi qua 7 ngày Tam Nương. Dôi ra 1 ngày so với 6 ngày của tháng khác.
  19. Gởi tất cả các bạn đã nhận Linh Chú, Wild luôn gởi đến các bạn số bản thỉnh nhận + 1, bởi vẫn cần 1 bản được đặt hoặc dán ở nơi ra vào nhiều người đi qua hoặc trông thấy sẽ được lợi lạc rất nhiều. Vì lẽ trên người xin Linh Phù được Wid tặng thêm để phát huy oai lực của Chú. Chúc các bạn nhận sự chuyển giác từ tâm chân.
  20. Cô đã chuyển đến các bạn sáng nay theo đường chuyển phát nhanh, hy vọng tất cả sớm nhận được tính vi diệu của bản Chú. Cô cũng đã gởi lại cho Thành Long sáng nay theo dạng thư bảo đảm, hy vọng bạn và gia đình sớm nhận được!
  21. Bài của Tâm An quá hay và nhiều cảm xúc, dù chua xót nhưng vẫn cần những tiếng chuông cảnh tỉnh sự lầm lạc của giới trẻ hưởng thụ. Nhật ký phá thai Những thai nhi bé nhỏ, chưa kịp đủ hình hài, vỡ tan theo những dụng cụ kim loại lạnh lẽo, vô hồn. Ngày…tháng…năm… Mình được nhận vào một phòng khám tư không tồi. Cũng do quen biết là chính. Haizzz. Một đứa mới ra trường như mình mà kiếm được việc như thế này là tốt rồi. Sau này mình sẽ xin đến những bệnh viện lớn hơn, để được chào đón những sinh linh ra đời, được tận hưởng niềm hạnh phúc của việc đưa một sinh linh chào đón thế giới này, để nhìn thấy nụ cười hạnh phúc của các ông bố bà mẹ. Những đứa trẻ mới thật kì diệu làm sao. Ngày… tháng… năm… Mình đã cố gắng, cố gắng, cố gắng chịu đựng những âm thanh ấy, những mùi vị tanh tưởi ấy. Nhưng hơn hết là thái độ của những bác sĩ lớn tuổi hơn. Họ cáu gắt. Họ dấm dẳng. Họ chì chiết. Họ mỉa mai. Thật đáng sợ. Cô bé sáng nay hình như là “khách quen” ở cái phòng khám này. Trên mặt không có cái vẻ lo âu sợ sệt, mà là sự miễn cưỡng, nhẫn nhục, và cả đau khổ nữa. Mình là người thực hiện thủ thuật cho cô ấy, phải cố gắng nhẹ nhàng, nhìn cô ấy trắng bệnh ra. Đưa những cái dụng cụ bằng kim loại lạnh lẽo ấy vào tử cung, rồi cào xé, nạo vét cái sinh linh chưa kịp thành người ra khỏi cơ thể… Mình đang còn run rẩy làm thì bà cô Hương đứng bên cạnh đã lên tiếng: “Vét cho kỹ hai bên thành, con này làm nhiều rồi dễ sót lắm, mày cứ khều khều thế thì ăn thua gì, nó đau quen rồi!Để sót nhau thì quả thực là thảm họa. Mình đâu muốn như thế. Mình biết rõ mà, sao cô ấy lại phải nói kiểu đấy. Ăn trưa, mình không nuốt nổi. Nhìn thấy gì cũng muốn nôn ọe. Cô Hải, bác sĩ nhiều tuổi nhất, dịu dàng bảo: - Mấy lần đầu ai cũng thế thôi, cô còn không ăn được suốt cả tuần trời ấy chứ. Con bé sớm nay, khổ thân, thằng người yêu nó đúng là đốn mạt, bắt nó dùng thuốc tránh thai khẩn cấp chứ không bao giờ chịu dùng BCS. Mà một tháng uống đến 8, 9 lần thì.... Nó phá ở đây là lần thứ 3 rồi đấy. Ngày… tháng... năm… Mình ngồi trò chuyện với một cô bé chỉ bằng tuổi con em ở quê. Cái mặt còn búng ra sữa, đang còn mặc áo đồng phục. Nó đi một mình, cũng là chuyện bình thường ở đây. Ngồi được một lúc, nó bắt đầu nói nhiều hơn: - Em xấu hổ, nhục nhã lắm, chẳng dám nói với ai. Anh ấy bảo cứ tin anh ấy, sẽ không có chuyện gì xảy ra, lúc đấy em cũng vì quá yêu, chỉ thấy đau xé người ra, chứ sung sướng gì. Thế rồi mất kinh, rồi mệt mỏi, anh ấy không nghe điện thoại, không thèm gặp em… Đến đây, em chỉ có tiền học phí tháng này! - Sao em không dùng biện pháp tránh thai? - Em không biết. Anh ấy bảo lần đầu thì không sao đâu. Rồi em đã rửa chỗ ấy rất sâu, rất kĩ như lời anh ấy, mà vẫn bị. Mình đưa cho em ấy tờ giấy hướng dẫn phòng tránh thai. Chỉ biết thở dài, cho những cô bé quá thiếu hiểu biết về sức khỏe, về những kẻ vô tâm và ích kỉ. Hy vọng sẽ không gặp lại em ở đây một lần nữa. Ngày… tháng… năm… Ca hôm nay lớn quá, mình chỉ đứng hỗ trợ cô Hải thôi. Thai đã hơn 6 tháng, mà người mẹ vẫn nhẫn tâm dứt bỏ. Chỉ vì nó là con gái. Hiếm khi có nam giới xuất hiện ở khu này. Những ca lớn thế này thì bác sĩ phải có tay nghề vững lắm. Nhưng mình không biết mình có muốn trở thành người như thế không. Dùng kềm có răng kẹp từng bộ phận ra ngoài. Những cái cẳng tay, cẳng chân bé xíu, nội tạng còn chưa hoàn chỉnh, rời rạc và nát bươm… Mình thực sự không thể chứng kiến nổi, không giống như những gì đã được học. Đứa bé này sắp sống, nó đã nên hình người. Đứa bé là thật… Và khi cô ấy bóp vụn phần đầu để đưa thai ra, thì mình phải quay đi để chuẩn bị khăn và nước nóng. Cô ấy tiếp hút phần còn lại, rồi kiểm tra từng mảnh cơ thể đã vụn nát xem còn sót không. Hôm nay, mình lại không ăn trưa. Ngày… tháng… năm… Mình làm một ca với cô Hương. Chỉ là hỗ trợ thôi. Cho thuốc vào để ra thai. Lớn quá. Cô ấy cấm cẳn: - Ngửa lên, la hét cái gì? Lúc sướng thì không ai sướng cho, bảo ngửa cái *** ra cơ mà! Mình nhăn mặt. Cô bé tóc nâu đỏ, có vẻ rất xì tin. Bước vào phòng làm thủ thuật với một nhóm bạn cũng diện không kém đang trêu đùa nhau ở ngoài. Vậy mà vừa nhìn thấy đống dụng cụ y tế, nằm lên cái giường chênh vênh lạnh lẽo cô nàng òa khóc, nước mắt ròng ròng xin bác sĩ nhẹ tay. Máu tuôn. Ngột ngạt và tanh tưởi. Trắng bệch và lảo đảo bước ra ngoài, anh người yêu trắng trẻo với mấy cô bạn lại hào hứng rủ đi bar. Mang hài nhi ra ngoài, đã hàng chục phút, trái tim bé nhỏ vẫn còn đập, rồi yếu ớt dần... Mình có tội không? Khi đã cướp đi mạng sống của sinh linh này? Ngày… tháng… năm… Mình đi qua một nghĩa trang dành cho những hài nhi. Hàng vạn hài nhi. Xin từ bệnh viện, phòng khám tư, bãi rác, gốc cây… Một số người phụ nữ khóc lóc vật vã trước mộ. Những người vì bỏ đi giọt máu của mình, mà giờ không thể có con, thắp hương cho những nấm mồ vô danh, rồi len lén quay đi khi thấy có người bước vào. Vết thương thể xác rồi sẽ lành, cũng có thể để lại di chứng, cũng có thể sẽ không còn đau đớn. Nhưng vết thương tinh thần, vết sẹo ấy, khi tước đi quyền làm người của một sinh linh, ám ảnh và dai dẳng, chỉ người phụ nữ mới phải chịu đựng. Ngày mai, mình sẽ đem những thai nhi đến đây, để các em có bạn bè, và tâm hồn không lạnh lẽo… Đỗ Thị Mỹ Duyên
  22. Địa chỉ này Cô đã chuyển thư rồi Cô mới thông báo, nhưng nếu chưa nhận được Cô sẽ gởi lại bảo đảm, cho Cô số điện thoại liên hệ.
  23. Mòn ăn phòng và chữa cận thị theo dân gian (Dân trí) - Với người bị cận thị hoặc có nguy cơ cận thị, ngoài việc lưu ý nghỉ ngơi, không để mắt bị mệt mỏi quá độ và thường xuyên mát xa làm giảm áp lực cho mắt, nên ăn thêm các món dưới đây: Canh kỳ tử cá chép Chủ trị: Mắt bị cận thị, nhìn mờ không rõ. Nguyên liệu: 1 con cá chép (khoảng 2kg), kỳ tử 10g. Cách làm: Làm sạch cá, bỏ nội tạng. Đun cùng kỳ tử thành canh. Ăn thịt cá, uống nước canh Trứng gà sữa tươi Chủ trị: Mắt cận thị. Nguyên liệu: Trứng gà 1 quả, sữa tươi 1 ly, mật ong 1 thìa. Cách làm: Đun nóng sữa, sau đó đập trứng gà vào đun sôi cùng, để nhỏ lửa. Khi trứng chín, bỏ ra, chờ cho ấm, thêm mật ong vào rồi ăn.   Canh gan lợn trứng gà Chủ trị: Mắt cận thị. Nguyên liệu: Gan lợn 150g, trứng gà 1 quả. Cách làm: Gan lợn rửa sạch, thái miếng, cho vào nồi đảo qua dầu, thêm chút rượu trắng, rồi cho nước vào đun sôi. Sau đó đập trứng gà vào, thêm muối cho vừa miệng. Canh ngân nhĩ kỳ tử giúp sáng mắt Chủ trị: Gan thận suy dẫn đến cận thị.  Nguyên liệu: Ngân nhĩ 20g, kỳ tử 20g, hoa nhài 10g. Cách làm: Đun các nguyên liệu trên cùng nhau thành canh để uống, mỗi ngày 1 lần, uống liên tục nhiều ngày.     Kỳ tử hầm gan lợn Chủ trị: Mắt cận thị, chảy nước mắt do trúng gió. Nguyên liệu: Kỳ tử 20g, gan lợn 300g, 1 chút dầu ăn, hành, gừng, đường cát, rượu trắng. Cách làm: Rửa sạch gan lợn, cho vào nồi cùng kỳ tử, cho vừa nước đun trong 1 giờ. Sau đó bỏ gan ra, thái miếng.Làm nóng chảo dầu trên bếp, rồi cho hành, gừng vào đảo cùng gan lợn đã thái miếng. Cho gan xào, nêm đường cát, rượu trắng vào canh.   Canh sáng mắt Chủ trị: Mắt cận thị Nguyên liệu: Kỳ tử 10g, trần bì 3g, long nhãn khô 10 quả, mật ong 1 thìa. Cách làm: Giã kỳ tử cùng trần bì cho nhuyễn, sau đó cho vào nồi đun cùng long nhãn, cho vừa nước. Để sôi nửa tiếng, bỏ ra bát, thêm mật ong vào ăn như món điểm tâm. Cháo kỳ tử Chủ trị: Suy gan làm mờ mắt, hoa mắt. Nguyên liệu: 30g kỳ tử, đậu tương 100g. Cách làm: Nấu các nguyên liệu trên cùng nhau thành cháo để ăn.   Phạm Thúy Theo People
  24. Trung Quốc đang rơi vào thế khó khăn Tokyo có vẻ như đã sẵn sàng chi hàng tỷ USD là cho việc phát triển máy bay tàng hình ATD-X của riêng mình. Điều đó khiến Trung Quốc rơi vào thế khó. Phô trương quá mức Mọi việc có lẽ được bắt đầu từ năm 2005, khi trên internet Trung Quốc xuất hiện úp mở về một tiêm kích sơn màu đen với rất nhiều những lời đồn đoán đầy bí ẩn. Cuối cùng mọi lời đồn đoán đã được sáng tỏ. Không chỉ dừng lại ở những bức ảnh, tháng 1/2011, một tiêm kích thế hệ 5, mang tên J-20 xuất hiện và có chuyến bay thử nghiệm đầu tiên. Điều đó đã làm cả thế giới chú ý. Trong khi báo giới tốn không ít giấy mực để bình phẩm, phân tích về chiếc tiêm kích này, Bắc Kinh vẫn hoàn toàn im lặng với mục đích, khả năng của sự phát triển tiêm kích J-20. Không dừng lại ở đó, những năm qua Trung Quốc liên tục cho ra đời hàng loạt vũ khí mới, đặc biệt là các vũ khí cho tác chiến hải quân. Liên tục hạ thủy các tàu chiến mới, các tàu khu trục mới như Type-052C, 052D đã dần đạt được một số khả năng tương tự như các tàu khu trục Aegis của Hải quân Mỹ. Danh sách các tên lửa chống hạm mới được Bắc Kinh ngày một kéo dài thêm. Đặc biệt hơn cả là tên lửa đạn đạo liên lục địa DF-21D cải tiến, được giới thiệu là có khả năng tiêu diệt tàu sân bay ở cự ly đến 3.000km. Tàu sân bay đầu tiên mang tên Thi Lang được hoán cải từ tàu sân bay Varyag của Ukraine sắp được hoàn thành. Cùng với đó là sự xuất hiện úp mở của hàng loạt các tiêm kích mới như, J-14, J-15, J-18, J-19… cùng với nhiều lời đồn đoán từ các trang mạng quốc phòng Trung Quốc. Về phía mình Bắc Kinh không phủ nhận cũng không thừa nhận về các chương trình phát triển vũ khí xuất hiện úp mở trên internet. Việc Trung Quốc liên tục "khoe" vũ khí mới khiến các nước trong khu vực phải nhanh chóng hiện đại hóa quân đội của mình.Có thể nói rằng, những năm qua Bắc Kinh là trung tâm của các hệ thống vũ khí mới, ngay cả Mỹ nền quân sự hùng mạnh nhất thế giới cũng không có nhiều chương trình phát triển vũ khí đến vậy. Điều đó càng làm cho các nước trong khu vực không khỏi lo lắng. Bên cạnh đó Trung Quốc liên tục tham gia các chống cướp biển tại vịnh Aden, điều động các tàu khu trục hạng nặng tới các vùng biển gần khu vực tranh chấp với Nhật Bản, Liên tục tổ chức các cuộc tập trận hải quân quy mô lớn nhằm mở rộng khả năng tác chiến xa bờ. Bắc Kinh đã phát triển được một đội ngũ tàu chiến mặc nước và tàu ngầm hùng hậu. Thách thức sự hiển diện của Mỹ tại châu Á, cảnh báo Washington tránh xa các tranh chấp trên biển Đông, thậm chí, đòi chia đôi Thái Bình Dương với Mỹ. Tự đặt mình vào cuộc chạy đua vũ trang Có vẻ nhận thấy mình đã quá lố, qua chuyến thăm đến Mỹ vào tháng 5/2011 của Tổng tham mưu trưởng quân đội Trung Quốc tướng Trần Bỉnh Đức, Bắc Kinh đã dịu giọng hơn. Tướng Trần Bỉnh Đức cho biết: “Chúng tôi không muốn sử dụng tiền của chúng tôi để mua thiết bị hoặc vũ khí tiên tiến để thách thức Mỹ. Có một khoảng cách rất lớn về công nghệ giữa Trung Quốc và Mỹ”. Tuy nhiên, bài phát biểu của tướng Đức đã quá muộn để ngăn chặn một cuộc chạy đua vũ trang sẽ đem đến nhiều bất lợi cho Bắc Kinh. Sự xuất hiện của J-20 cùng với hàng loạt các hệ thống vũ khí khác khiến Washington và các đồng minh thân cận tại châu Á thúc đẩy một cách nhanh chóng quá trình hiện đại hóa kho vũ khí của mình. Dù đang đối mặt với thâm hụt ngân sách trầm trọng, Washington vẫn sẳn sàng chi hàng tỷ đô la vào nỗ lực cải thiện khả năng của phi đội F-15E, F-22 Raptor, tái khẳng định cam kết cho chương trình tiêm kích tiến công kết hợp JSF F-35. Tổng chi phí cho chương trình dự kiến ở mức 1.000 tỷ USD. ATD-X sẽ là một tiêm kích đẳng cấp ngang ngửa với F-22 Raptor của Mỹ. Phản ứng của Tokyo trước sự xuất hiện của J-20 thậm chí còn ấn tượng hơn. Trong một động thái hết sức bất ngờ, quốc gia vốn luôn tránh các đối đầu quân sự đã quyết định hồi sinh sự phát triển của tiêm kích tàng hình ATD-X của riêng mình. Lúc đầu, sự phát triển của ATD-X chỉ dừng lại ở mức độ thao diễn công nghệ, chứng minh khả năng của Nhật Bản trong việc phát triển tiêm kích thế hệ 5. Cần nhớ lại, Tokyo từng cố gắng đàm phán với Mỹ để sở hữu tiêm kích thế hệ 5 F-22 Raptor nhằm thay thế cho phi đội F-4 già cỗi. Nhưng khi bị từ chối, Không quân Nhật Bản JASDF đã phối hợp với Mitsubishi Heavy Industries để tạo ra mẫu thử nghiệm của ATD-X Shinshin từ khoảng 6 năm trước. Việc phát triển ATD-X chủ yếu để gây áp lực với Washington, cho thấy khả năng của Nhật Bản trong việc tạo ra một tiêm kích tàng hình có thể cạnh tranh với tiêm kích F-22, qua đó, đánh động Washington hoặc hợp tác hoặc để Tokyo gặt hái những lợi ích riêng của mình từ ATD-X. Ít nhất đã có 3 mẫu thử nghiệm của ATD-X được phát triển, một mẫu thử nghiệm khả năng tàng hình trước radar được đưa đến Pháp, mẫu thử nghiệm phát triển động cơ XF5-1, cùng với mẫu hỗ trợ cho các công nghệ khác. Tuy nhiên, dù cây bút Bradley Perrett của Aviation Week đã gọi ATD-X là mối đe dọa tiềm ẩn những mẫu thử nghiệm không thể khiến Washington lo ngại, Tokyo vẫn không thể sở hữu F-22 cho chương trình hiện đại hóa không quân của mình. Những tưởng ATD-X đã rơi vào quên lãng khi Tokyo quay sang lựa chọn EF-2000 Typhoon của châu Âu cùng với F/A-18 E/F Super Hornet và F-35 của Mỹ làm giải pháp thay thế. Song trước sự xuất hiện của J-20, Tokyo đã quyết định hồi sinh ATD-X, trong tất cả các nước châu Á, Nhật Bản đủ khả năng để tạo ra một tiêm kích đẳng cấp như F-22. Đất nước mặt trời mọc có sẵn nền tảng công nghệ cao vững chắc, đặc biệt là công nghệ điện tử, việc áp dụng các công nghệ này vào lĩnh vực quân sự chỉ là vấn đề thời gian. Trung tướng Hideyuki Yoshioka của JASDF cho biết: “ Chúng tôi nhận ra rằng, vai trò ATD-X là quan trọng đối với đất nước chúng tôi”. Đại tá Yoshikazu Takizawa một quan chức cao cấp của quân đội Nhật Bản trao đổi với AP vào tháng 3/2011 rằng: “ATD-X được phát triển trở lại, dự kiến sẽ có chuyến bay thử nghiệm đầu tiên vào khoảng năm 2014, chính phủ sẽ quyết định có sản xuất loạt hay không vào năm 2016”. Cũng theo đó, JASDF dự định sẽ dùng ATD-X làm nòng cốt để thay thế cho phi đội khoảng 200 chiếc F-15 hiện nay. Việc Tokyo quyết định tái khởi động chương trình ATD-X khiến cuộc đua tiêm kích thế hệ 5 trên bầu trời châu Á trở nên sôi động hơn. Hàn Quốc cũng đã lên kế hoạch hiện đại hóa lực lượng quân đội của mình, Seoul đã hạ thủy chiếc tàu khu trục Aegis thứ 3 của mình. Cùng với đó là chương trình hiện đại hóa không quân, ngoài F-15K Slam Eagle, F-35 đang là đích ngắm tiếp theo của Seoul. Ấn Độ đã ký một thỏa thuận lớn với Nga cùng nhau phát triển tiêm kích thế hệ 5 FGFA, cùng với PAK F/A của Nga sẽ là 2 loại tiêm kích chủ lực cho không quân 2 nước và xuất khẩu rộng rãi ra thị trường thế giới. Tất cả những sự phát triển các hệ thống vũ khí mới này có vẽ như đều cùng nhắm một mục tiêu. Cuộc chạy đua vũ trang không chỉ dừng lại ở các nước lớn mà còn lan rộng đến các nước nhỏ. Đặc biệt là các nước chịu ảnh hưởng trực tiếp từ kế hoạch hiện đại hóa quân đội của Bắc Kinh. Các chuyên gia quân sự nhận định, với sự xuất hiện của ATD-X cùng với F-22, F-35 của Mỹ , FGFA của Ấn Độ, một số T-50 có thể xuất khẩu của Nga tại châu Á, liệu có cơ hội nào cho J-20 hay không? Việc phô trương sức mạnh quân sự của Bắc Kinh chưa đem lại kết quả mong muốn về đòi hỏi các yêu sách trên biển Đông và các vùng biển lân cận. Nhưng rõ ràng đã đánh động một cuộc chạy đua vũ trang không kém phần khốc liệt. Các quốc gia châu Á gần như đã xích lại gần nhau hơn cho một mục đích duy nhất, “đối trọng lại với sự trỗi dậy đáng lo ngại của Bắc Kinh”. Vươn ra biển lớn một cách thiếu khôn ngoan, Trung Quốc đã tự đặt mình vào thế khó. Quốc Việt_DV
  25. Bắc Kinh quên lời dạy của Khổng Tử Trung Quốc rất xem trọng Khổng tử vì vậy mà hiện đang xây dựng hơn 150 Viện Khổng Tử trên thế giới, với mục đích quảng bá ngôn ngữ và văn hóa. Nhưng lạ thay, nước này có vẻ chỉ biết khai thác tiếng tăm của đức Khổng, mà cố tình quên lời dạy của ngài. Trung Quốc, Khổng Tử được phong là người thầy ở mọi thời đại. Cố tình không theo? Trung Quốc xem trọng Khổng Tử như thế, nhưng lạ thay, nước này có vẻ chỉ biết khai thác tiếng tăm của đức Khổng, bởi trong hành động, Bắc Kinh tỏ ra không hề hiểu, hoặc đã hiểu mà cố tình không làm theo lời dạy của ngài. Chúng ta chỉ cần nhìn vào ba điểm then chốt nhất của Khổng Giáo để chứng minh cho lời nhận định trên. 1. Khổng Tử dạy: Người quân tử lấy nghĩa làm đầu, không vì lợi mà quên nghĩa. Năm 1974, nhân thế cuộc chiến tranh Việt Nam lúc cao trào, Trung Quốc thừa cơ đánh chiếm Hoàng Sa. Nên nhớ rằng, trong thời gian đó, quan hệ Việt-Trung là đồng chí, anh em. Năm 1988, Trung Quốc lại tấn công Trường Sa, gây thương vong cho nhiều chiến sỹ Việt Nam. Hai sự kiện này cả thế giới ai cũng biết. Tức Trung Quốc cũng biết rõ hành động chiếm đoạt lãnh thổ của bằng hữu mình là trước thanh thiên bạch nhật, thế mà vẫn làm. Rõ ràng là thấy lợi quên nghĩa! Gần đây, Trung Quốc tăng cường hiện đại hóa quân đội, xây dựng căn cứ tàu ngầm Tam Á, và ngày càng có thái độ hung hăng trên Biển Đông. Thái độ và hành động hung hăng của Trung Quốc vừa qua cả thế giới điều biết, báo đài quốc tế đã tốn nhiều giấy mực để phân tích. Tại sao Trung Quốc lại tăng cường tấn công Biển Đông như thế mà không ngại trắng trợn vị phạm luật quốc tế, không ngại mất tình láng giềng, không ngại mang tiếng lấn lướt người yếu thế? Câu trả lời rất đơn giản mà cả thế giới đều biết, đó là dưới lòng Biển Đông trong khu vực Trung Quốc áp đặt đường lưỡi bò có một trữ lượng dầu hỏa và khí đốt khổng lồ. Rõ ràng lại vì lợi quên nghĩa! 2. Khổng Tử dạy: Người quân tử không sợ kẻ mạnh, không hiếp người yếu. So với Trung Quốc, các nước có tham gia tranh chấp Biển Đông điều là nước nhỏ hơn, kinh tế kém phát triển hơn, quân lực yếu hơn. Gần đây, Trung Quốc tăng cường ngân sách đáng kể cho quốc phòng, xây dựng căn cứ tàu ngầm Tam Á trên đảo Hải Nam. Trung Quốc cũng vừa soán ngôi Nhật Bản để trở thành nền kinh tế thứ hai thế giới. Trung Quốc lại là một trong năm nước có quyền phủ quyết tại Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Như vậy, có thể nói rằng, dù Bắc Kinh luôn “khiêm tốn” không thừa nhận, nhưng trên thực tế, Trung Quốc là một cường quốc kinh tế, chính trị và cả quân sự. “Tri kỉ tri bỉ”, Trung Quốc hiểu rõ vị thế của mình, và đã tận dụng lợi thế này để lấn lướt các nước trong khu vực, dùng sức mạnh để đe dọa láng giềng, không kể gì đến luật pháp quốc tế và tình nghĩa cận thân. Rõ ràng là ỷ mạnh hiếp yếu! 3. Khổng Tử dạy: Trong quan hệ bằng hữu, lấy chữ tín làm đầu. Trên các diễn đàn chính thức, Bắc Kinh luôn tuyên bố không cậy mạnh hiếp yếu, muốn giải quyết tranh chấp bằng hòa bình. Thế mà sự thật đã chứng minh, Trung Quốc tỏ ra "tiền hậu bất nhất". Philippines vừa rồi tố cáo Trung Quốc nhiều lần xâm phạm lãnh hải, trong khi quan chức Bắc Kinh đến thăm Philippines để tăng cường tình hữu nghị. Tàu hải giám Trung Quốc vào trong phạm vi đặc quyền kinh tế của Việt Nam để tấn công tàu Việt Nam. Thế mà, người phát ngôn Bộ Ngoại giao của Trung Quốc lại cáo buộc điều ngược lại, trong khi báo đài thế giới đều ghi nhận sự xâm phạm lãnh hải Việt Nam này của phía Trung Quốc. Rồi tại diễn đàn Shangri-La 2011, trước phản ứng của Philippines, Việt Nam, Malaysia, tổng trưởng quốc phòng Trung Quốc Lương Quang Liệt lại tuyên bố mạnh mẽ rằng Trung Quốc không hề dùng sức mạnh đe dọa láng giềng, Trung Quốc theo đuổi giải pháp hòa bình... Sau cuộc "trấn an", tàu Trung Quốc lại tiếp tục tấn công tàu Việt Nam một lần nữa. Rõ ràng là không giữ điều tín nghĩa? Đức Khổng Tử răn dạy hậu thế tu thân để thành người quân tử. Thế nhưng, chỉ xét sơ ba điều cơ bản của Nho Giáo nói trên, thì đủ thấy rằng bài học cơ bản của đức Khổng đã không được Bắc Kinh học thuộc. Như vậy, chính phủ Bắc Kinh có xứng đáng là con cháu Khổng Tử chăng? Nếu phải, thì nên chăng Bắc Kinh phải học lại Khổng Giáo trước khi truyền bá cho người.