-
Số nội dung
6.007 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
103
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by wildlavender
-
24 loại ngạ quỉ Trong bộ kinh "Petakkathà - Ngạ quỉ kinh giải", có kể ra trong 24 thứ ngạ quỉ đầy đủ chi tiết như sau: Ngạ Quỉ Thứ Nhất: 1.- Ngạ quỉ nầy tên VANTÀSÀ hình tượng dị kỳ, mặt mày nhăn nheo, con mắt tròn vo, lông tóc xồm xàm, miệng méo mó, ống chơn cong queo, bụng chướng to lên, thân mình hôi thúi, răng hô chơm chởm, tay chơn nổi gân như dây luộc, cao nhồm ốm nhom, ghẻ lở đầy mình, đói khát nhiều năm, đau khổ vô cùng, khi nghe người khạc nhổ tưởng được no, lồng chạy đến liếm ăn cho đỡ đói. Hạng ngạ quỉ nầy có rất nhiều, thường ở gần nhà cửa, xóm làng, mấy chỗ dơ bẩn và ống nhổ mà kiếm ăn. Loại ngạ quỉ nầy trước kia tánh tình bỏn xẻn, không biết làm phước bố thí, lại nhổ nước miếng trong vật thực đem cho người có giới đức thanh cao, có khi đi vào chùa xả rác, hoặc nhổ nước miếng trên sân hoặc chỗ chư Tăng đã quét dọn sạch sẽ, không chịu nghe lời chỉ dạy của chư Tăng, cứ việc làm càn, không kiêng nể ai, nên khi chết phải sanh làm thứ ngạ quỉ nầy.Ngạ Quỉ Thứ Nhì: 2.- Ngạ quỉ nầy tên KUNAPÀ thân hình dị kỳ, bụng phệ thòng xuống, mắt cụt cằm dài, con mắt bằng cái chén, răng to như cái cuốc, tóc dài phết gót, đầu lớn hơn mình, hình thù ghê gớm, mùi thúi tanh hôi, ăn ròng mủ máu và tử thi, càng ăn chừng nào càng đói nhiều chừng nấy, khi thấy tử thi bỏ thì áp lại xé ăn, nhưng vẫn bị đói khát thật lâu đời. Ngạ quỉ nầy kiếp trước là người không biết làm phước, tánh nết xấu xa không sợ tội lỗi, dễ duôi cẩu thả, lại gạt chư Tăng ăn thứ thịt mà chư Phật đã cấm theo luật[*]. Tội gạt gẫm chư Tăng rất nặng nên khi chết phải sanh làm thứ ngạ quỉ nầy.[*] Mười thứ thịt cấm ăn là: thịt người, thịt cọp, beo, voi, ngựa, rắn, chó nhà, chó rừng, gấu, và sư tử. Ngạ Quỉ Thứ Ba: 3.- Ngạ quỉ nầy tên GUTHA thân hình kỳ dị, con mắt ngay xuống, miệng méo lên trên, lông mọc bít hết cổ từng sát vai, đầu to và sói, tóc mọc lưa thưa chung quanh, bụng lớn như trống cái, da đầy ghẻ lác, hôi hám vô cùng, ăn ròng phẩn máu, thường đi gần nhà, cầu tiêu để tìm vật thực, đói khát lâu đời, vô cùng đau khổ. Ngạ quỉ nầy kiếp trước là người hung ác không tin tội phước, xấc xược thái quá, ỷ quyền thế hiếp người tu hành, lại thêm tánh tình bỏn xẻn, tiếc của không nuôi dưỡng cha mẹ, vợ con thân quyến, để cho mẹ cha đói khát cơ bần. Do quả độc ác ấy, khi chết phải sa vào địa ngục "đồng sôi" thật lâu đời, khi hết quả, cảnh ấy còn dư sót nghiệp lại, phải sanh làm thứ ngạ quỉ nầy, ăn ròng là phẩn máu.Ngạ Quỉ Thứ Tư: 4.- Ngạ quỉ nầy tên AGGHÀLA mắt sưng lòi ra ngoài, lửa cháy đầy mình, khói lên nghi ngút cả ngày lẫn đêm da thịt phồng lên lở lói đầy mình, cháy nóng từ trong tràn ra ngoài, miệng đói khát vô cùng nhưng không chết vì nghiệp ác tạo nên, thường ở nơi núi rừng gần mé biển hoặc cồn bãi. Ngạ quỉ nầy kiếp trước là người dể duôi, cẩu thả, khi dể, chế nhạo chư Tăng. Do nhân ác đã gieo, nên khi chết, phải sanh làm thứ ngạ quỉ nầy.Ngạ Quỉ Thứ Năm: 5.- Ngạ quỉ nầy tên SUCIMUKHA miệng nhỏ nhọn như cây kim, thân hình thật to lớn, thịt nổi có u có nần, móng tay thật dài và nhọn, tay chơn ghẻ lác, mình mẩy đóng rêu, lông tóc xồm xoàm, đói khát vô cùng vì không ăn uống được chi cả, thường ở nơi rừng sâu núi thẳm. Ngạ quỉ nầy kiếp trước là người lòng dạ vô cùng bỏn xẻn, rít róng, không dám tiêu xài, không khi nào làm phước, dầu nhỏ nhen chút ít, bỏ cha mẹ gia quyến đói khát cơ hàn, không khi nào giúp đỡ vật chi cả, ham tiền tiếc bạc thâu thập để dành bo bo cất giữ. Do lòng dạ xấu xa ấy, nên khi chết phải sanh làm thứ ngạ quỉ nầy. Ngạ Quỉ Thứ Sáu: 6.- Ngạ quỉ nầy tên KANHAJI thân mình cao lớn, cổ cao đầu méo, mắt to lớn lộ ra, mũi vắn, răng hô chơm chởm, lông tóc xù xì, tay chơn cong veo, bụng rất to lớn, môi xệ thười lười, thường ở nơi rừng sâu, chịu đói khát lâu đời, ở xa thấy nước, đến gần lại thấy cạn khô, hoặc thấy thành lửa thành đá. Khi thấy vật thực thì mừng rỡ nhưng lại gần lấy ăn, thì vật ấy trở thành đồ dơ, thành đá, hoặc cháy lên lửa có ngọn táp tới mình. Ngạ quỉ nầy kiếp trước là người ngu si không biết tội phước, tánh tình xấc xược, đem bò, trâu, dê phá hoại vườn tược, ao nước của nhà chùa, lại nói vô lễ với chư Tăng. Vì nhân dữ đã gieo, nên khi chết phải sanh làm thứ ngạ quỉ nầy.Ngạ Quỉ Thứ Bảy: 7.- Ngạ quỉ nầy tên NIJJHÀ tội nặng vô cùng, thân mình ốm nhom, ăn uống chi chẳng đặng, trong miệng đuôi mọc ra rất hôi thúi, ngón tay chơn dính lại chỉ có một móng như cái cuốc, bụng phình, rún lồi lòng thòng, môi trên thật dài trệ xuống tới cằm, tay xụ tới vai, tóc mọc bùm xùm. Ngạ quỉ nầy thường ở nơi rừng sâu núi thẳm, hoặc nơi cồn bãi. Ngạ quỉ nầy kiếp trước là người tánh tình độc ác,thấy các bậc sa môn hoặc các người hành khất xin ăn, làm oai, chưởi mắng khinh người thậm tệ, lại hay nói đâm thọc người có giới hạnh, cho phân chia phe đảng, gặp người tàn phế chế diểu đủ điều không lòng ái truất. Do nhân đã gieo, nên khi chết, phải sanh làm thứ ngạ quỉ nầy.Ngạ Quỉ Thứ Tám: 8.- Ngạ quỉ nầy tên SABBANKÀ đầy mình ghẻ lở, ruồi nhặng bu đầy, thịt sưng hôi thúi, mắt to lộ ra, mũi lớn dài như trống cái, đói khát vô cùng, khi đói quá chịu không được, lấy móng tay bén như dao cạo móc thịt mà ăn, vừa ăn, vừa khóc, đau đớn vô ngần, càng ăn càng đói, thường ở các nơi thung lũng núi non và cồn bãi thật nhiều. Ngạ quỉ nầy kiếp trước là người lòng dạ bỏn xẻn, không biết tội phước, vô ơn bạc nghĩa, bất hiếu với cha mẹ, đánh đập ông bà cha mẹ thân bằng quyến thuộc, phản bội người có ơn mình, không lòng cung kính nể. Do nhân dữ đã gieo, nên khi chết, phải sanh làm thứ ngạ quỉ nầy.(còn tiếp)
-
Ngạ Quỉ Thứ Mười Bảy: 17.- Ngạ quỉ nầy tên NIMUGGA thân hình xấu xa, thịt da cứng rắn, thối tha, dính đầy những phẩn, luôn luôn cấm đầu xuống hầm phẩn ngộp thở, phải ăn uống đầy chướng bụng, mới trồi lên được; khổ não vô cùng, rồi cũng phải cấm đầu xuống hầm phẩn nữa, luôn luôn như thế ấy. Ngạ quỉ nầy là người trước kia tâm tánh đê tiện xấu xa, lén lúc tà dâm vợ con người, bất cần già trẻ, lại còn hành hạ vợ nhà, làm oai cho kiêng sợ, giả bộ tánh tình như người trong sạch ngay thật, nhưng vắng mặt vợ lại mèo mỡ, vợ nhà chịu đau khổ. Do nhân dữ đã gieo, nên khi chết, phải sa vào cảnh địa ngục, bị quỉ sứ bắt leo lên cây gòn bằng sắt cháy đỏ có gai thật bén, leo lên leo xuống, lủng xẻ mình mẩy, đau khổ hằng triệu năm; khi còn sót quả, sanh làm thứ ngạ quỉ nầy.Ngạ Quỉ Thứ Mười Tám: 18.- Ngạ quỉ nầy tên SUKARA hình tướng dị kỳ, mình người đầu heo, trong miệng có đuôi mọc ra trám đầy cả miệng, ăn uống chi cũng không được, phải chịu đói khát khổ sở vô cùng, lại có giòi bò lúc nhúc, rút vào miệng lở lói hôi thúi như thây ma, đau khổ thật lâu đời, thường ở nơi rừng sâu núi thẳm, hoặc gần núi Kỳ Xá Quật. Ngạ quỉ nầy kiếp trước là người không biết đạo đức, tánh nết đê hèn, không có lòng thành thật, thường hay nói láo, nói đâm thọc làm cho người chia rẽ, có khi lại nói phao vu để hảm hại người, khi thì nói lời độc ác, chửi mắng không kiêng nể ai. Do nhân ác đã gieo, nên khi chết, phải sa vào A tì địa ngục, bị lửa thiêu đốt thật lâu đời; khi sót quả, tái sanh làm thứ ngạ quỉ nầy.Ngạ Quỉ Thứ Mười Chín: 19.- Ngạ quỉ này tên MANGULI, là ngạ quỉ có hình tướng dị kỳ, trông đáng ghê sợ, da thịt xù xì, lông lá xồm xoàm, cùi lác đầy mình, mùi thúi tanh hôi không ai chịu được, răng hô ra chổm chổm, trôi nổi trên hư không; những con kên kên, ó, diều, có bầy có lũ áp lại cắn mổ đau đớn, khóc la thảm thiết, mắt lộ ra như chim ụt, bụng lớn như trống cái, tay chơn cong queo. Ngạ quỉ nầy kiếp trước là người phụ nữ lên đồng cốt, giả dối cho là linh thiêng, lường gạt người để uống rượu và sát sanh để cúng quỉ thần, mưu sĩ đủ cách để bốc lột người. Do nhân dữ đã gieo, nên khi chết, phải sa vào cảnh địa ngục nước chua (như a xit); thứ nước nầy khi đụng vào mình thì làm cho đau rát và thành lở lói da thịt từ nhỏ ra to, đốt nóng chết đi sống lại, đau khổ thật lâu đời; khi còn sót nghiệp ác ấy, tái sanh lại làm thứ ngạ quỉ nầy.Ngạ Quỉ Thứ Hai Mươi: 20.- Ngạ quỉ nầy tên CHÀTAKA, có cả mấy muôn, thân hình ốm gầy còn da bọc xương, đói khát phi thường; có lối 90 kiếp quả địa cầu không quần áo cơm nước chi cả, đói khát đến đỗi đứng lên té xuống, mệt xỉu ngất người, khóc than thảm thiết. Ngạ quỉ nầy kiếp trước kia (thuở Đức Phật Vipassì) là người giúp việc làm phước cho 3 vị thái tử để dâng cúng vật thực đến Đức Phật và 10 muôn chư Tăng, nhưng khi nấu chín xong, chưa đến giờ thọ trai, Đức Phật và chư Tăng chưa tới, con khóc đòi ăn, ban đầu múc bới cho vợ con ăn chút ít, sau cùng rồi họ cùng lấy ăn theo (vật thực để dâng cúng đến Đức Phật và chư Tăng nhưng họ lấy ăn trước). Do tội ăn trước vật thực dâng cho chư Tăng, nên khi chết, phải sa vào địa ngục, bị lửa thiêu đốt thật lâu đời; còn sót quả, phải tái sanh làm thứ ngạ quỉ nầy.Ngạ Quỉ Thứ Hai Mốt: 21.- Ngạ quỉ nầy tên KUKKUTA, nhiều vô số kể, đầu láng tròn không tóc, ốm gầy, bụng phình lớn ra như trống cái, chân cẳng xẹo xọ, ban ngày tay cầm búa to, kiếm đập đầu chảy máu, dầm dề bể nát cả sọ, sưng hết mình mẩy, ban đêm lại thì lửa cháy dữ dội đầy cả mình, phỏng lở đau khổ kêu cha mẹ khóc than, nghe thảm thiết. Khi sáng ra, lửa tắt hết lại cầm búa đi kiếm nhau đập nữa, thả không lo làm ăn, tối ngày chỉ lo đá gà, đá cá, chọi trâu để cá nhau ăn tiền, cờ bạc rượu chè, nuôi gà đầy nhà; nếu đá ăn thì vui mừng hớn hở, uống rượu lè nhè; nếu đá thua thì làm thịt uống rượu, chẳng chút từ tâm, ăn năn hối hận. Do nhân ác đã gieo, khi chết, phải sa vào địa ngục, bị lửa đốt thật lâu đời; khi còn sót quả, tái sanh làm thứ ngạ quỉ nầy.Ngạ Quỉ Thứ Hai Mươi Hai: 22.- Ngạ quỉ nầy tên ASÌSA, hình tướng lạ kỳ hơn các thứ ngạ quỉ khác, có mình nhưng không đầu, mắt mũi miệng mọc ngay giữa ngực, tay chơn cong queo, bụng lớn như trống cái, có những kên kên, ó, diều bay lại có bầy, cắn mổ luôn luôn, máu mủ chảy đỏ dầm dề đầy mình, trôi nổi trên hư không, đau đớn khóc than, tiếng nghe ghê tởm. Ngạ quỉ nầy kiếp trước kia là người tánh tình hung tợn, nóng nảy như lửa, chém giết người không gớm tay, là giám sát trong xứ Vương Xá (Ràjagaha), chém đầu người vô số kể, chẳng chút từ tâm. Do nhân dữ đã gieo, khi chết, phải sa vào cảnh A tỳ địa ngục thật lâu đời; còn sót quả, tái sanh làm thứ ngạ quỉ không đầu nầy.Ngạ Quỉ Thứ Hai Mươi Ba: 23.- Ngạ quỉ nầy tên SATTHIKUTÀ, thân hình cao lớn như núi, có lối 60 cái búa sắt cháy đỏ hừng, lớn bằng tảng đá, bay lên bay xuống, đập vào đầu ngạ quỉ nầy sưng lên, bể tan nát rồi huờn lại như cũ, bị hành luôn luôn như thế ấy, đau khổ rên la thảm khốc, thường ở nơi rừng sâu núi thẳm. Ngạ quỉ nầy kiếp trước là người tánh tình nghênh ngang phách lối, biết nghề bắn đạn thật tài, gặp Đức Phật Độc giác đi khất thực, làm phách bắn chơi, làm cho Ngài phải lủng lổ tai bên nầy thấu qua bên kia. Do nhân ác đã gieo, nên khi chết, phải sa vào cảnh địa ngục bị lửa đốt thật lâu đời; khi còn sót quả, phải tái sanh lại làm thứ ngạ quỉ nầy.Ngạ Quỉ Thứ Hai Mươi Bốn: 24.- Ngạ quỉ nầy tên PABBAJITA, mang sắc phục người tu, lửa cháy rần rộ đầy cả mình, trôi nổi tới lui trên hư không, nhiều không số kể, đau khổ khóc than, nghe buồn thảm còn hiện đến bây giờ. Ngạ quỉ nầy kiếp trước kia là bực xuất gia trong thời kỳ Đức Phật Ca Diếp (Kassapa), không thu thúc trong giới hạnh, ăn ngủ suốt ngày, phá giới đủ điều, nhưng không chịu ăn năn sám hối, tham muốn quá độ, nuôi mạng bằng cách tội lỗi và tà vạy, bợ đỡ người thế, muốn được nhiều danh lợi, không cần mẫn thực hành chân chánh giáo lý của Đức Phật. Do nhân dữ đã gieo, nên khi chết, phải sa vào địa ngục, bị lửa thiêu đốt thật lâu đời; còn sót quả, phải tái sanh làm thứ ngạ quỉ nầy.
-
Ngạ Quỉ Thứ Chín: 9.- Ngạ quỉ nầy tên PABBANKÀ thân mình thật to lớn, tay chân cụt ngủn, đầu nhỏ, cổ vắn da thịt cứng như đất, lửa cháy đỏ đầy mình cả ngày lẫn đêm hừng hực như sắt nướng đỏ, nóng nảy đau khổ đến cực độ lại bị đói khát cả triệu năm. Ngạ quỉ nầy rất nhiều, thường ở nơi núi Kỳ Xá Quật và Tuyết lãnh sơn. Vì kiếp trước tánh tình hung dữ độc ác, thù oán, chưởi mắng người có giới hạnh, phá hoại của cải, giết hại người không gớm tay, đốt nhà cửa người vì lòng sân hận, bướng bỉnh, ngã mạn, muốn làm cho hơn người, nên gây tội lỗi dẫy đầy . Do nhân dữ đã gieo, nên khi chết, phải sanh làm thứ ngạ quỉ nầy.Ngạ Quỉ Thứ Mười: 10.- Ngạ quỉ nầy tên AJAGARA thân hình như con trăn dài, lớn hơn con voi với nhiều đầu, khi bị dầu tràn khi thì đầu bò, đầu cọp, đầu méo, đầu voi, đầu gà, đầu khỉ, đói khát lâu đời, lửa cháy đầy mình cả ngày lẫn đêm, kêu la khóc rất thê thảm, nhưng không chết được, vì nghiệp ác đã tạo, thường ở nơi rừng núi cồn bãi rất nhiều. Ngạ quỉ nầy kiếp trước tánh nết hung hăng thù oán đốt nhà đốt ruộng, miệng nói ra hung dữ, chưởi cha mắng mẹ, các bực Sa môn và người có giới hạnh nói là đồ trâu bò, heo, chó v.v… Do nhân dữ đã gieo, nên khi chết, phải sa vào cảnh địa ngục thật lâu đời; khi hết quả, tái sanh lại làm thứ ngạ quỉ nầy.Ngạ Quỉ Thứ Mười Một: 11.- Ngạ quỉ nầy tên VEMANIKA thân hình mập mạp cao lớn, bụng ngay như bí đao, lông lá mọc xồm xoàm, phủ kín cả mình, khi thọ vui, khi thọ khổ không đều, tâm tánh hung tợn, tay cầm khí giới. Ngạ quỉ nầy thường gọi là Yamaràja - Diêm Vương. Diêm Vương nầy có khi thọ vui trong nửa tháng, thọ khổ nửa tháng, thay đổi mãi mãi như vậy cho đến khi hết nghiệp. Khi thọ khổ thì tánh nết hung hăng nóng nảy như lửa, chém giết tra khảo và hành tội chúng sanh trong địa ngục, từ sớm đến chiều máu lấm đầy mình, sân hận luôn luôn, lại nhịn đói nhịn khát, đau khổ vô cùng. Khi nào thọ vui thì những cảnh khổ ấy tiêu tan mất hết, trở thành một vị Chư thiên an vui thơ thới, sắc đẹp tốt tươi, hưởng sự khoái lạc nơi cảnh trời, có rất nhiều tiên nữ hầu hạ. Ngạ quỉ nầy vì kiếp trước là người si mê, ai rủ làm chi cũng làm theo. Khi làm tội, khi làm phước, làm theo thói quen. Sát hại sanh vật cũng có, mà làm phước cũng có. Khi làm phước mà vẫn uống rượu, không giữ gìn giới hạnh.Ngạ Quỉ Thứ Mười Hai: 12.- Ngạ quỉ nầy tên MAHIDDHIKA có thân hình lịch sự tốt đẹp như chư thiên, ăn mặc, trang điểm đủ các thứ báu vật, có thần thông bay trên hư không, nhưng thân mình vô cùng hôi thúi, lại bị đói khát cả ngàn muôn năm. Thường đi khắp nơi kiếm đồ dơ mà ăn. Có khi gặp được vật thực, mừng rỡ lấy đưa vào miệng ăn thì vật thực ấy lại hóa thành sắt nướng đỏ, cháy cả miệng mồm, khi nuốt khỏi miệng trở thành sắt nướng đỏ, cháy hết ruột gan, đau khổ không kể xiết. Ngạ quỉ nầy vì kiếp trước là người xuất gia tu hành không thọ trì giới luật chín chắn, hay phá hoại Phật pháp. Hạng người tà mạng nầy chỉ giả tu để cốt nuôi mạng sống, gạt gẫm tín đồ, ham mê lợi lộc, không khi nào thu thúc và nghiêm trì giới hạnh. Do nhân dữ đã gieo, nên khi chết, phải sa vào địa ngục; khi còn sót quả, phải tái sanh lại lên làm thứ ngạ quỉ nầy.Ngạ Quỉ Thứ Mười Ba: 13.- Ngạ quỉ nầy tên SUCILOMA có lông tóc rất nhiều, nhọn như kim đâm khắp cả thân mình, đâm xoáy từ trên đầu thấu ra miệng, máu chảy tuôn ra, từ miệng thấu tới cần cổ, từ cần cổ thấu tới ngực, từ ngực lủng thấu tới bụng, từ bụng đâm thấu tới bắp vế và ống quyển, đâm hoài như vậy luôn luôn không ngừng nghỉ, đau đớn kêu la thảm thiết, trôi nổi bềnh bồng trên hư không, gần núi Kỳ Xà Quật. Ngạ quỉ nầy kiếp trước là người đánh xe bò tánh tình hung ác. Khi đánh xe, đâm trâu bò bằng sắt nhọn. Hơn nữa, họ còn là người xấu xa hay ganh gổ hay nói lời độc ác đâm thọc đầu nầy, đầu kia cho người khác sanh ra sự bất hòa, chia phe chia đảng. Do nhân dữ đã gieo, nên khi chết, phải sanh làm thứ ngạ quỉ nầy.Ngạ Quỉ Thứ Mười Bốn: 14.- Ngạ quỉ nầy tên KUMBHÀNDA có 2 hòn ngọc hành thật to, bị các loài kên kên, ó, diều theo cắn mổ, để xuống ngồi trên ngọc hành thì đau nhức, phải vác trên vai chạy hoài rất khổ sở, nhưng các loài ấy vẫn cứ bay theo, cả bầy cắn mổ đau nhức vô cùng. Ngạ quỉ nầy kiếp trước làm quan xử kiện, chuyện phải cho là quấy, chuyện quấy cho là phải, ăn hối lộ, tư vị, áp dụng sai lệ luật quốc gia, hành phạt kẻ hiền lương. Do nhân dữ đã gieo, nên khi chết, phải vào cảnh A tì địa ngục (Avici) bị lửa đốt thật lâu đời; khi hết tuổi thọ cảnh ấy và còn sót quả, tái sanh làm thứ ngạ quỉ nầy.Ngạ Quỉ Thứ Mười Lăm: 15.- Ngạ quỉ nầy tên AHI, mình rắn đầu người, lớn dài như trái núi, lửa cháy rần rộ chung quanh mình, dẫy dụa nóng la đau khổ ở trong lửa, lại phải chịu sống thật lâu đời vì nghiệp ác cấu tạo, nên không chết được, thường ở nơi rừng núi. Ngạ quỉ nầy kiếp trước là người nhiều lòng sân hận, câu mâu nhăn nhó, mỗi chút mỗi sân, tâm địa đen tối như súc sanh, không phân phải quấy, đốt nhà cửa người, đốt cả cốc liêu của Đức Phật, không chút ăn năn, khi chết phải sa vào cảnh A tì địa ngục thật lâu đời; khi hết tuổi thọ cảnh ấy, mới tái sanh làm thứ ngạ quỉ nầy.Ngạ Quỉ Thứ Mười Sáu: 16.- Ngạ quỉ nầy tên NICCHAVI là thứ ngạ quỉ thân mình mủ chảy tràn trề, phần thì các loại kên kên, ó, diều bay theo cả bầy cắn mổ, rớt ra từng miếng; do quả ác, thịt ấy trở mọc đầy lại, liền đau nhức khóc la thê thảm, nhưng các loài ấy vẫn không tha, luôn luôn cắn mổ, trôi nổi trên không, gần núi Kỳ Xà Quật. Ngạ quỉ nầy kiếp trước là người đàn bà đang tâm có chồng còn ngoại tình với kẻ khác, lén lút chia sớt tình thương của chồng cho kẻ khác; mưu hại, gạt gẩm chồng, làm bộ, làm điều giả dối hai lòng. Do nhân ác đã gieo, khi chết, phải sa vào "địa ngục đồ sôi", nấu lênh đênh trong nước đồng sôi thật lâu đời; còn sót quả, tái sanh lại làm thứ ngạ quỉ nầy.
-
Có nên gọi hồn để biết hương linh đã siêu thoát hay chưa? Theo quan điểm Phật giáo (Bắc tông), một người sau khi chết có thể lập tức tái sanh (đối với người tạo nghiệp cực thiện hay cực ác) hoặc trải qua giai đoạn trung gian từ 1 đến 49 ngày rồi tùy theo nghiệp mà tái sanh vào cảnh giới tương ứng. Trừ những trường hợp đặc biệt chết do đột tử, bất đắc kỳ tử thường gọi là chết oan, còn lại đa phần sau 49 ngày các hương linh đều theo nghiệp tái sanh. Khi thần thức đã theo nghiệp tái sanh vào một cảnh giới tương ứng rồi, tất nhiên phải chịu thọ báo (tốt hoặc xấu) ở trong cảnh giới ấy. Cho đến khi mãn nghiệp ở cõi ấy, nếu không có duyên lành tu tập giải thoát, thì thần thức lại theo nghiệp tái sanh vào một cõi khác. Cứ thế, chúng sanh luân hồi trong ba cõi sáu đường không cùng tận. Theo giáo lý Nhân quả-Nghiệp báo, những nỗ lực của người thân hướng về hương linh như tạo phước, cầu nguyện v.v… chỉ trợ duyên, ảnh hưởng tốt đến hương linh được phần nào thôi chứ không can thiệp sâu vào khuynh hướng tái sanh của họ. Vì mỗi người đều phải ‘thừa tự’ nghiệp lực của chính mình. Để được giải thoát, tự thân hương linh phải tỉnh thức và hướng thiện. Không ai có thể cứu vớt chúng ta ngoại trừ những nỗ lực tu tập của chính chúng ta. Thế Tôn đã dạy: “Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi. Hãy tự mình nương tựa hòn đảo chính mình”. Do vậy, không nên nhờ các nhà ngoại cảm gọi hồn người thân đã mất. Giả sử gọi được và gọi đúng người thân thì chúng ta cũng chẳng giải quyết được vấn đề gì. Vì giải thoát khổ đau phải do tự thân mỗi người thực hiện. Đó là chưa kể đến các trường hợp gọi không được hoặc gọi không đúng thì càng làm cho vấn đề phức tạp thêm. Các “hương linh” tiếp xúc với nhà ngoại cảm hầu hết là những chúng sanh trong loài ngạ quỷ (quỷ thần) và một số các thần thức chưa tìm được cảnh giới thọ sanh. Điều này chúng ta cần hết sức lưu ý vì giáo lý đạo Phật không đề cập đến cõi âm mà chỉ nói đến lục đạo (trời, a tu la, người, súc sanh, ngạ quỷ và địa ngục) cùng thân trung ấm (thân trung gian sau khi chết mà chưa hội đủ duyên để tái sanh). Do đó, nếu các hương linh tiếp xúc với nhà ngoại cảm thì chắc chắn họ chưa giải thoát, có thể họ đã tái sanh vào ngạ quỷ (loài đông nhất trong lục đạo, sống gần gũi và có thể giao tiếp, thọ hưởng vật thực loài người dâng cúng). Đối với vấn đề các hương linh đã siêu thoát thì có về nơi thờ tự không? Ở đây, chúng ta cần bàn thêm về ý nghĩa siêu thoát. Siêu là vượt lên, thoát là ra khỏi. Vãng sanh về Tây phương Cực lạc (hay các cõi Phật khác) hoặc sanh lên các cõi lành (thoát khỏi cảnh khổ ác đạo) chính là ý nghĩa siêu thoát. Trong quan niệm dân gian của đa phần người Việt (ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa), bàn thờ gia tiên là nơi ngự tọa của ông bà cha mẹ sau khi quá vãng. Sự thật không phải như vậy. Theo Phật giáo, con người sau khi chết theo nghiệp tái sanh trong lục đạo chứ không ở trên bàn thờ. Người Phật tử lập bàn thờ để tưởng nhớ, tri ân và cầu nguyện cho ông bà cha mẹ quá vãng chứ không phải là thiết lập nơi tọa ngự cho chư vị. Theo Phật giáo, sự vãng sanh hay siêu thoát cốt yếu do sự tỉnh thức và chuyển hóa của hương linh. Không có các đấng siêu nhiên hay bất cứ thế lực nào có thể làm giúp được. Đức Phật cũng chỉ là đạo sư, bậc thầy chỉ đường. Đi đến đích hay không là nhiệm vụ của chúng ta. Cũng vậy, siêu thoát hay không là do chính nỗ lực giác ngộ của hương linh. Mặc dù những trợ duyên như tha lực của Phật và các vị Bồ tát, sự hộ niệm của chư Tăng, sự thành tâm tạo phước của thân nhân… là vô cùng cần thiết nhưng không phải là tác nhân chính cho việc thành tựu siêu thoát. Ví như các phạm nhân đang thụ án trong trại giam, chỉ khi nào tự thân họ biết sám hối ăn năn và cải tạo tốt mới có thể mong ngày hưởng ân xá, khoan hồng. Còn người thân dù yêu thương hay có điều kiện đến mấy quyết lo cho phạm nhân mà tự thân phạm nhân ấy không tỉnh thức, cứ liên tục sai phạm thì khó cứu. Do vậy, khi người thân mất đi, trách nhiệm của chúng ta là tận tâm dốc lòng cầu nguyện và tạo phước để hồi hướng, mong họ siêu thoát. Còn siêu thoát hay không là do sự tỉnh thức chuyển hóa nghiệp lực của chính họ, thân nhân chỉ trợ duyên mà không thể can thiệp được. Cho nên, không cần gọi hồn, triệu hồn, cầu hồn hay các phương pháp tương tự vì không mang đến lợi ích thiết thực cho hương linh và chỉ tốn kém, gây lo lắng hoang mang thêm cho thân nhân. Trong bối cảnh cầu cúng mang sắc thái thần quyền đang nở rộ hiện nay, người Phật tử cần thiết lập chánh kiến trong việc thờ cúng để khỏi rơi vào tà kiến, mê tín dị đoan. Tổ Tư Vấn (báo Giác Ngộ)
-
Đã gởi đến bạn theo địa chỉ trên đây, hy vọng bạn sớm nhận đựoc!
-
Đã nhận 200,000 đ (hai trăm ngàn đồng) của Thiên Đồng ủng hộ Quỹ từ Thiện. Quỹ hiện có : 11,400,000 đ + 200,000 đ = 11,600,000 đ (mười một triệu sáu trăm ngàn đồng)
-
Phật giáo và Vũ-trụ-học ...Nói đến quan niệm về vũ trụ của Phật Giáo thì chúng ta không thể bỏ qua Kinh Hoa-Nghiêm, phẩm Thế Giới Thành Tựu. Trong phẩm này, Bồ Tát Phổ Hiền tuyên thuyết về 10 đặc tính của các thế giới: nhân duyên khởi, chỗ trụ nương, hình trạng, thể tánh, trang nghiêm tánh, thanh tịnh tánh, Phật xuất hiện, kiếp trụ, kiếp chuyển biến sai biệt, và môn vô sai biệt. Để cho vấn đề tương hợp với khoa học được rõ ràng, sau đây tôi xin luận về hai điểm : hình trạng và kiếp trụ các thế giới. Chúng ta hãy xét đoạn kinh văn sau đây:Lúc đó Phổ Hiền Bồ Tát lại bảo đại chúng rằng: "Chư Phật tử! Thế giới hải có nhiều hình tướng sai khác, hoặc tròn....hoặc hình như nước xoáy....hoặc hình như hoa ... có vi trần số hình sai khác như vậy."Rồi trong phẩm tiếp theo, phẩm Hoa Tạng Thế Giới, Phổ Hiền Bồ Tát lại tuyên thuyết: "Chư Phật tử! Tất cả thế giới chủng đó hình trạng đều khác nhau: hoặc hình núi Tu Di, hoặc hình sông, hoặc hình xoay chuyển, hoặc hình nước xoáy, hoặc hình trục xe...hoặc hình hoa sen...có vi trần số hình trạng như vậy." ("Kinh Hoa-Nghiêm", Thích Trí Tịnh, Phật Học Viện Quốc Tế xuất bản)So sánh với những hình trạng của các chòm sao, giải thiên hà, ngân hà khám phá bởi khoa học ngày nay, trong bất cứ cuốn sách nào về Vũ Trụ Học, chúng ta cũng thấy Phật giáo đã mô tả hình trạng của chúng một cách vô cùng chính xác. Thí dụ như các hình như bánh xe, nước xoáy chúng ta có thể quan sát được trong các chòm sao như Cetus, Pegasus và Hercules; hình của Thiên hà NGC 2997 đúng như là hình nước xoáy; hình của khối Tinh Vân Trifid trông giống như một bông hoa, lý do các khoa học gia đã gọi hình này là "những cánh hoa của khối Tinh Vân Trifid" ("Petals" of the the Trifid Nebula); hình của Thiên hà Andromeda trông giống như một cái đĩa; hình của chùm siêu sao mới (Supernova) SN 1987A trông giống như một bánh xe có trục; hình sông là giải Ngân Hà (Milky Way) quen thuộc mà Thái Dương Hệ của chúng ta nằm trong đó v..v… Thật tôi không thể tưởng tượng được ở một thời chưa hề có kính thiên văn, dù thô sơ nhất, mà Đức Phật và các Đại Bồ Tát đã có những hiểu biết chính xác về vũ trụ như trên. Nếu không phải vì đã giác ngộ hoàn toàn, nắm vững cơ cấu huyền bí của vũ trụ, thì làm sao có thể biết được những điều như trên. Và chúng ta cũng nên nhớ là những điều đức Phật và các Bồ Tát chọn để tuyên thuyết cho người đời chẳng qua cũng chỉ là một nắm lá trong tay so với số lá cây trong rừng.Tiếp theo, về kiếp trụ của các thế giới, Kinh văn viết rằng:"Lúc đó Phổ Hiền Bồ-Tát lại bảo đại chúng rằng: "Chư Phật tử! Nên biết thế giới hải có thế giới hải vi trần số kiếp trụ, hoặc có a-tăng-kỳ kiếp trụ, hoặc có vô-lượng kiếp trụ, hoặc có vô biên kiếp trụ, hoặc có vô đẳng kiếp trụ, hoặc có bất-khả-sổ kiếp trụ, hoặc có bất khả xưng kiếp trụ, hoặc có bất khả tư kiếp trụ, hoặc có bất khả lượng kiếp trụ, hoặc có bất khả thuyết kiếp trụ, ..có vi trần số kiếp trụ như vậy."Rồi trong bài kệ để tuyên lại nghĩa này Bồ Tát Phổ Hiền có giải thích bằng một câu: "Hoặc chỉ một kiếp hoặc vô số, Bởi những tâm nguyện đều chẳng đồng." Chỉ một câu "bởi những tâm nguyện đều chẳng đồng" cũng đã giải quyết vấn đề "thiên sai vạn biệt" trong vũ trụ. Thật là đầy đủ, thật là rốt ráo, thật là chính xác. Nếu chúng ta đi sâu vào một chút trong đoạn kinh văn trên, chúng ta sẽ thấy Phật Giáo đã đi trước khoa học như thế nào.Phật giáo phân biệt: Tiểu Kiếp có 16 triệu 8 trăm ngàn năm, Trung Kiếp có 336 triệu năm, và Đại Kiếp có 1 tỷ 344 triệu năm. Theo khoa học hiện nay thì một ngôi sao (coi như là một thế giới) mà chất lượng (mass) càng nặng thì đời sống của ngôi sao càng ngắn. Do đó có những ngôi sao chỉ "sống" được từ 1 tới vài tỷ năm và người ta đã tính được rằng một ngôi sao có chất lượng nhẹ hơn những ngôi sao trên khoảng 90 phần trăm thì ngôi sao này có thể sống tới hàng ngàn tỷ năm. Điều này rất phù hợp với câu kệ trên của Phổ Hiền Bồ Tát, có thế giới chỉ tồn tại một kiếp, có thế giới tồn tại vô số kiếp v...v.... __._,_.___Trần Chung Ngọc http://www.giaodiemo...Gvavutruhoc.htm
-
Tái Sinh Ở Phương Tây Ghi chú: Về tác giả Vicki Mackenzie, bà chào đời năm 1947 tại Anh, con của một sĩ quan hải quân,, lớn lên tại Úc, tốt nghiệp đại học Queensland University và làm ký giả cho báo nhật báo Sun tại Sydney. Sau này bà di chuyển qua Luân Đôn, viết cho các nhật báo như Daily Sketch, Daily Mail, Sunday Times, Observer, Daily Telegraph, Sunday Telegraph, Daily Express, Mail on Sunday và đóng góp cho nhiều tạp chí quốc gia.Vào năm 1976, bà nghỉ phép một tháng để dự một khóa thiền tại Nepal. Từ đó cuộc đời bà chuyển hướng. Bà muốn dùng ngòi bút để viết báo và viết sách nhằm mang Phật giáo và thuyết luân hồi đến công chúng Tây Phương.Bà đã viết những cuốn Reincarnation: The Boy Lama; Reborn in the West: The Reincarnation Masters (bài Hazel Denning nằm trong cuốn này); A Young Man of The Lama: A Tale Of Drugs, Hot Sex, and Violence in The Fall Of Tibet; Cave in the Snow: A Western Woman’s Quest for Enlightenment (hồi ký của Tenzin Palmo); Why Buddhism?: Westerners in Search of Wisdom; Child of Tibet (viết chung với Sonam Yangchen). Vicki Mackenzie Vào một buổi chiều lười biếng ở Sydney, tôi mở Tivi và thấy chương trình Oprah Winfrey đang tranh luận về kiếp trước kiếp sau, cuộc tranh luận rất sôi nổi. Đây là một “talk show” của Mỹ. Khách mời là Dr. Hazel Denning, bác sĩ phân tâm học, là một phụ nữ có tuổi, thông minh, ăn nói rất lưu loát và là sáng lập viên của hội Association for Past life and Therapies (Hội Nghiên cứu kiếp trước kiếp sau để ứng dụng vào việc chữa trị). Là một người tiền phong trong lãnh vực này, bà đã đi nhiều nơi trên thế giới thuyết giảng về luân hồi.Ngoài tài ăn nói rõ ràng lưu loát về đề tài luân hồi, về vấn đề kiếp trước ảnh hưởng đến kiếp hiện tại, bà còn là một bác sĩ tâm lý trị liệu rất giỏi. Tôi nghĩ công trình nghiên cứu của bà về luân hồi vào khoa tâm lý trị liệu ở Tây phương sẽ là những tài liệu quý báu cho tôi, nên tôi tìm cách hội kiến với bà.Máy bay hạ cánh xuống một phi trường nhỏ ở miền Nam California. Giáo sư Denning thân hành ra đón tôi. Người nhỏ thó, lưng thẳng đi đứng nhanh nhẹn tuy đã ngoài tám mươi. Bà ung dung lái xe về nhà ở Riverside, nơi sản xuất cam nổi tiếng của Cali. Trong căn phòng làm việc của bà treo đầy bằng cấp, chứng chỉ: hai bằng tiến sĩ, hai bằng thạc sĩ, bằng cấp cử nhân và rất nhiều văn kiện chứng thực bà rất uyên bác về khoa thôi miên và khoa cận tâm lý (Parapsychology). Trong hai ngày tôi ở lại nhà bà, bà kể cho tôi nghe về công việc của bà và giải thích lý do bà chọn công việc này. Từ hồi nhỏ, giáo sư Denning hay thắc mắc muốn tìm hiểu “tại sao” về việc này việc nọ, tại sao con người phải chịu khổ đau. Bà không tin đó là ý Chúa (God). Bà cho là tin như vậy có vẻ không hợp lý.Năm ngoài hai mươi tuổi, tình cờ bà được đọc một cuốn sách về luân hồi. Bà vui mừng,”Ôi chao! Tôi đã tìm được giải đáp cho những thắc mắc của tôi rồi. Tôi quá đổi vui mừng và suy nghĩ: cuối cùng thì tôi cũng tìm được một lời giải hợp lý, có thể lý giải được tất cả những bất công của thế gian”.Hồi đầu thì bà chưa tin lắm. Bà tìm đọc những tài liệu xưa để xem những thức giả đời trước nghĩ sao về luân hồi, và khám phá ra rằng tất cả những tôn giáo lớn trên thế giới đều tin luân hồi kể cả Thiên chúa giáo cho đến năm 533 sau Tây lịch, thì một ông vua La Mã và bà hoàng hậu cấm không cho nói đến luân hồi nữa. Có hai giáo hoàng bị giết vì muốn giữ đoạn nói về luân hồi trong kinh sách. Ít người biết đến dữ kiện này. Cũng không mấy ai biết chuyện những cha cố ngày xưa như cha Origin và ông thánh Augustin đều tin có luân hồi. Bà nói, “Vậy những người nào nói rằng tin có luân hồi là trái với giáo điều Thiên chúa giáo là không biết những chuyện này”. Bà càng thích thú hơn khi khám phá ra những nhân vật nổi tiếng từ cổ chí kim đều tin có luân hồi, từ Plato, Aristotle, Socrates đến Henry Ford, Gladstone, Thomas Edison, đại tướng Patton và nhiều người khác nữa. Bà áp dụng những hiểu biết về luân hồi vào khoa chữa bệnh tâm thần để tìm hiểu nguyên do sâu xa do đâu mà bệnh nhân dường như sống ở một thế giới khác, hay có nhiều sợ hãi vô lý (phobia).Tôi nóng lòng muốn biết giáo sư Denning làm sao dung hòa được hai vai trò có vẻ trái ngược, vai trò của một bác sĩ tâm thần và vai trò của một người dùng thuật thôi miên đưa bệnh nhân trở về kiếp trước. Làm sao bà có thể chấp nhận lối giải thích của các bác sĩ tâm lý trị liệu hiện nay dùng chữ nghiệp (karma) để giải thích rằng những gì xảy ra trong đời này đều do nghiệp chướng đương sự đã tạo nên từ nhiều đời trước.Giáo sư Denning không tin môi trường sống là tác nhân chính ảnh hưởng đến cách hành xử của một người. Bà công nhận hoàn cảnh bao quanh đời sống cũng đóng một vai trò khá quan trọng nhưng không phải là yếu tố chỉ huy. Theo bà thì mục đích của đời sống ở thế gian là để tu tâm hướng thượng. Một người tái sanh ở lại cõi trần là để thanh toán, thành tựu những gì mình làm dang dở trong những kiếp trước. Bà nói có những đứa trẻ sanh ra với một bản tánh yêu đời, đứa khác thì hay cáu giận, tức là mang theo chủng tử của kiếp trước. Theo bà thì số phận (destiny) của mỗi người không thể thay đổi được những phước báu của cha mẹ hay môi trường chung quanh có thể làm cho đời sống của người ấy thoải mái hơn hay khó khăn hơn.Vì thế giáo sư Denning quyết định trở nên một nhà thôi miên chuyên nghiệp. Bà muốn dùng thuật thôi miên đưa bệnh nhân trở về sống lại kiếp trước của mình. Bà rất cẩn trọng, tỉ mỉ và trung thực trong công việc này. Bà không tìm cách khống chế tư tưởng của bệnh nhân. Bà nói ngày trước trong khoa thôi miên người ta thường dạy phương pháp gợi ý cho bệnh nhân (post-hypnotic suggestion) dùng những câu như “Không được ăn thức ăn này. Thức ăn này ghê lắm v.v…”. Tôi không dùng phương pháp ấy, trái ngược với nguyên tắc của tôi. Tôi tìm được cách riêng của tôi mà không cần khống chế tâm ý của bệnh nhân. Vì thế tôi muốn dùng cụm từ “đổi đời” (altered state) thay vì hai chữ thôi miên”. Năm 1980 bà lập hội “Association for Past Life Research and Therapies” và vui mừng thấy hội phát triển nhanh hơn dự tính, vì số người tin và muốn tìm hiểu luân hồi ngày càng đông. Bà khẳng định rằng khoa hướng dẫn bệnh nhân nhớ lại kiếp trước (Past Life Therapy) trở nên một dụng cụ hữu hiệu trong khoa tâm lý và y khoa toàn diện – chữa trị cả thân và tâm. Đường hướng này không những phát triển nhanh ở Mỹ mà còn lớn mạnh ở các nước khác trên thế giới. Bà được mời đi nói chuyện nhiều lần ở Á châu và ở trường đại học Ultrecht của Hòa Lan, một trường đại học xưa nhất, mà cũng là trường đại học đầu tiên có giảng dạy môn cận tâm lý (parapsychology). Ở Mỹ những người tìm đến với Dr. Denning gồm đủ mọi thành phần xã hội. Bà dùng phương pháp thông thường trước. Nếu không có kết quả thì bà đưa bệnh nhân trở về kiếp trước để tìm hiểu nguyên nhân. Bệnh nhân của bà gồm đủ mọi hạng người, mục sư có, chuyên viên có, rất nhiều nhà giáo, nhiều quân nhân và các thành phần khác. Thường thường ai cũng muốn hỏi. “Mục đích của đời sống là gì?”, “Tôi đang làm gì ở đây”, “Tôi trở lại lần này để làm gì?” Bệnh nhân của bà thường ở lứa tuổi ba mươi đến bốn mươi, nhưng có một cô bé chín tuổi xin cha mẹ đến gặp bà để tìm hiểu tại sao cô sợ máu lắm. Mới chín tuổi nhưng cô rất chững chạc. Vừa thiếp đi cô bé thấy kiếp trước của mình là một ông già đang giẫy chết vì bệnh tim. Bỗng dưng cô la lên, “Không, tôi không phải chết vì bệnh mà vì tôi quá đau khổ”. Rồi cô bắt đầu kể đến ông già – tức là tiền thân của cô – đưa vợ đi ăn tiệm. Một tên cướp vào tiệm bắn chết nhiều người trong đó có vợ ông. Cô thấy người “vợ” chết trong vũng máu – ấn tượng hãi hùng đó theo thần thức qua đến đời này. Thêm vào đó là mặc cảm tội lỗi đã không cứu được người “vợ” của mình ray rức hành hạ cổ, bà kết luận. Quan điểm của giáo sư Hazel Denning về vấn đề này rất rõ ràng vì bà chứng kiến hàng ngàn bệnh nhân đã đổi đời, bà thấy rõ bao nhiêu thảm cảnh trong nhiều kiếp của họ và triển khai riêng lý thuyết của bà. Cuộc đàm thoại sau đây [giữa Vicki Mackenzie với giáo sư Denning], vì vậy, không những có giá trị về mặt thông tin mà còn rất thù vị và hào hứng. *Vicki Mackenzie: Tại sao lại có hiện tượng tái sanh? Hazel Denning: Khi đưa một người trở về kiếp trước và tìm hiểu tại sao đương sự chọn tái sanh vào gia dình này, và mục đích của họ trở lại thế gian để làm gì thì ai cũng có câu trả lời tương tự: “Quả thật tôi không muốn trở lại thế gian chút nào. Ép mình vào cái xác phàm như đi vào tù, ngột ngạt lắm”. Khi tôi hỏi lại: “Vậy tại sao ông/bà lại trở về, có ai bắt mình ở lại đâu?” thì câu trả lời luôn luôn là: “Vì thế gian là một trường học để rèn luyện nhân phẩm của mình. Muốn trau dồi tâm linh, muốn hướng thượng thì phải trở lại thế gian. Mà thật tình tôi muốn tu tâm nên tôi phải trở lại thế gian này”. Đó là câu trả lời tôi ghi lại. Vicki Mackenzie: Theo kinh nghiệm của bà thì người ta trở lại thế gian này bao nhiêu lần? Hazel Denning: Vô lượng kiếp, cho đến khi họ học hỏi thành tựu được những điều mong muốn. Ngay cả trong đời hiện tại này có người phải mất nhiều năm mới thấy rõ ý nghĩa của những chướng ngại khó khăn xảy ra cho mình. Có một bà khi đến phòng mạch lần đầu tuyên bố rằng, “Tôi đến đây muốn hỏi về tình yêu lứa đôi”. Trả lời thế nào với bà này? Là bác sĩ chuyên môn về khoa tâm lý, tôi không thể nói bà cứ yêu đi rồi sẽ được yêu. Bà vẫn đến phòng mạch nhưng không thường xuyên. Mãi đến mười tám năm sau bà mới tìm ra “chân lý”. Trong thời gian không gặp mặt, bà có một đời chồng, ly dị, ăn ở với một ông khác, lấy chồng lần thứ hai, rồi cũng ly dị, ăn ở với năm, sáu ông khác nữa cho đến một hôm bà không chịu đựng được cảnh sống một mình nữa và cương quyết đi gặp tôi mỗi ngày cho đến khi nào tìm được nguyên nhân tại sao bà không thể chung thủy với một người. Cuối cùng thì bà thấy kiếp trước bà là con gái của một gia đình giàu có ở Hy Lạp. Khi chừng mười bốn tuổi, cô bé yêu cậu người làm cùng tuổi. Khi biết được, cha cô nổi trận lôi đình đày người yêu của cô ra một hòn đảo và bán cô cho một người đàn ông lớn tuổi. Quá đau buồn uất ức, cô tự tử chết. Trước khi chết, cô nguyện rằng. “Tôi thề sẽ không bao giờ, không giờ thương yêu ai nữa”.Qua bao năm kinh nghiệm với công việc này, tôi thấy tư tưởng hay ý nguyện cuối cùng trước khi chết, nếu là tiêu cực sẽ theo người đó qua kiếp sau. Thí dụ nếu mình chết với lòng giận dữ, với tâm thù hận thì kiếp sau mình phải tu tâm dưỡng tánh để rửa lòng, để xả bỏ những thù hận của kiếp trước. Trở lại chuyện bà khách. Sau khi biết tiền kiếp của mình, bà gặp được một người chồng tử tế và có hai đứa con. Bà đang hụp lặn trong hạnh phúc mà trước đây bà không thể tưởng tượng có ngày bà có thể được hưởng. Sau khi chứng kiến câu chuyện bà này, tôi nghiệm rằng có nhiều người không thể một sớm một chiều mà tìm được lời giải. Họ cần phải trải qua nhiều biến cố nữa trước khi thấy cái nghiệp của mình. Và câu chuyện này cũng giúp tôi đi đến kết luận rằng mình không thể tự dối lòng. Cho đến khi mình thấy được cái nhân của đời trước, mình mới có thể giải quyết cái quả của đời này. Nhiều khi phải đi sâu vào nhiều đời trước mới thấy được cái “nhân” chính đang chi phối đời sống hiện tại. Vicki Mackenzie: Có những người đa nghi cho rằng bệnh nhân tưởng tượng ra những hình ảnh, thêu dệt nên những câu chuyện trong tiềm thức của họ để biện minh cho những đau buồn ưu não của họ? Hazel Denning: Nếu quả đúng như vậy thì khoa tâm lý học phải giúp được bệnh nhân giải quyết mọi ẩn ức của họ chứ. Nhưng thực tế thì không phải vậy. Có nhiều bệnh nhận của tôi theo khoa tâm lý trị liệu trong nhiều năm mà không ăn thua gì. Vicki Mackenzie: Bà có cho rằng chính mình tự chọn đời sống của mình không? Hazel Denning: Đúng vậy. Để tôi kể cho cô nghe một chuyện rợn tóc gáy. Một người đàn bà đến nói với tôi rằng: “Mẹ tôi đang hấp hối, cha tôi thì chết rồi. Cả cha lẫm mẹ tôi bầm dập sờ mó tôi hồi tôi mới ba tuổi cho đến năm tôi mới mười ba tuổi”. Khi thiếp đi, bà sống lại cảnh tượng bị cưỡng hiếp hồi còn bé và la lên, “Cha ơi đừng, đừng làm con đau!” và bà nói tiếp liền “Tôi muốn tha thứ cho mẹ tôi trước khi bà chết nhưng tôi thấy khó tha thứ quá, tôi thù ghét cả cha lẫn mẹ”.Nếu một người muốn sẵn sàng tha thứ, muốn quên hận thù cũ thì người đó đã được một sự chuyển hóa tâm linh cao và có thể hóa giải được. Nhưng nếu người nào nói ra rằng, “Đừng nói đến chuyện tha thứ những quân dã man đó, Tôi sẽ không bao giờ tha thứ cho họ. Tôi thù ghét họ”. Thì đừng tìm cách giúp họ tha thứ vì tâm họ chưa sẵn sàng.Đối với bà này, tuy bà nói sẵn sàng tha thứ cho cha mẹ, nhưng tôi nghĩ “Làm sao tôi có thể giúp bà ta tha thứ cho người cha, người mẹ đã làm những chuyện ghê tởm như thế đối với con mình”? Tôi bức rức, dằn vặt mãi và cuối cùng chính bệnh nhân đã giúp tôi tìm câu giải đáp. Bà thấy kiếp trước, thời Đức Quốc Xả, bà là một đứa trẻ bụi đời, sống lang thang đầu đường xó chợ và đã giết chết một đứa trẻ khác. Sau đó họ bị bắt vào Auschwitz, một trại giam người Do Thái, và bắt phải làm công việc kiểm soát những đứa trẻ Do Thái bị giết đã chết hẳn chưa. Lúc đầu công việc không làm bà phiền hà mấy, nhưng ngày lại ngày nhìn bao nhiêu xác trẻ con, bà chịu không được nên đã bỏ trốn và bị bắn chết. Bệnh nhân nói thêm rằng, “Đời sau, khi tái sanh, tôi muốn cha mẹ tôi hành hạ tôi để tôi trả nghiệp cho mau. Vì vậy tôi phải cám ơn hai vị này đã giúp tôi trả nghiệp báo” .Vicki Mackenzie: Có bao giờ bà chứng minh được những mẫu chuyện tiền thân này thật sự xảy ra không? Hazel Denning: Có chứ. Tôi vẫn để tâm theo dõi mỗi khi có dịp tốt. Thí dụ trường hợp một thân chủ nhất định không cho các con đi coi đoàn biểu diễn của gánh xiếc. Bà biết cấm đoán như vật thật là vô lý nhưng bà không thể làm gì khác hơn. Khi được đưa trở về kiếp trước thì bà thấy chính bà là “con mụ mập” (the fast lady) của một gánh xiếc và bà ghét cay ghét đắng vai trò của mình. Bà nhớ cả tên người đàn bà mập ấy và cả tên thành phố nữa. Có một bệnh nhân khác có mặt hôm đó biết thành phố này. Ông tình nguyện sẽ tìm đến xem thì quả nhiên đầu thế kỷ 20, ở thành phố đó có một bà mập tên đó đã theo đoàn hát xiếc kiếm ăn như lời bà kia tả lại. Trong đời hiện tại bà này cũng mập.Một bệnh nhân khác nhớ lại kiếp trước bà là một phú thương đàn ông bị chết chìm theo chiếc tàu Titanic. Bà nhớ tên tuổi của người đàn ông này. Về sau tìm xem sổ sách thì quả nhiên người đàn ông ấy là hành khách trên chiếc tàu Titanic. Bà kể khi nhìn thấy tên trong sổ bà rùng mình ớn lạnh! Ngoài những chứng cớ cụ thể này, những chứng cớ cho thấy những chuyện tiền thân mà các thân chủ tôi nói ra là có thật, và nó rất hợp tình hợp lý với bối cảnh riêng của từng người. Nhờ đó họ có thể đổi đời, có thể thoát được những ray rứt, những sợ hãi vô lý làm xáo trộn đời sống hiện tại của họ. Vicki Mackenzie: Có ai tỏ ra có mặc cảm tội lỗi khi nhìn thấy những việc xấu họ đã làm trong những đời trước? Hazel Denning: Không hẳn như thế sau khi họ hiểu mục đích của sự tái sanh và duyên nghiệp. Tôi giải thích cho họ thấy rằng những chuyện xảy ra trong quá khứ không quan trọng mấy. Quan trọng chăng là những gì mình học hỏi được từ những biến cố ấy, và dường như đây mới là nguyên tắc căn bản.Có một trường hợp rất lạ lùng. Một bệnh nhân vừa bước vào phòng mạch là ngồi phịch xuống ghế, đấm mạnh hai tay vào thành ghế và la lớn, “Tôi ghét Chúa! Jesus Christ là một kẻ lừa đảo! Tôi đã cố gắng làm hết mọi thứ, đã đi tìm thầy chuyên môn, đã học hết kinh Thánh mà vẫn không thay đổi gì được cuộc sống của tôi. Tôi khổ quá!” Bà gặp toàn chuyện xui. Rờ tới cái gì thì hỏng cái đó mặc dù bà là một người có khả năng xuất chúng. Sự nghiệp làm ăn bà gây dựng nên tưởng như thành công, cuối cùng cái gì cũng thất bại. Đường chồng con cũng xấu. Tuổi còn trẻ mà trông như một bà già. Bác sĩ nói cơ thể của bà già trước tuổi đến hai chục năm.Khi được hướng dẫn trở về kiếp trước thì thấy bà là một hồng y trong Tòa Án Dị Giáo (The Inquisition) do giáo hội La Mã Thiên Chúa chủ trì để trị tội những người ngoại đạo. Sự việc này làm đức hồng y (tiền thân của bà) rất đau khổ. Ngài biết trị tội những người ngoại đạo là sai lầm, nhưng đó là việc giáo hội muốn làm. Khi được hỏi tại sao bà trở thành công cụ chính trong Tòa Án Dị Giáo thì bà buột miệng nói rằng, “Đó là để cải tổ lại giáo hội vì giáo hội thời ấy quá hủ hóa, và tôi được giao trọng trách này”. Qua những chuyện tương tự, tôi thấy rằng những việc làm khủng khiếp đều có mục đích riêng. Vicki Mackenzie: Đứng trên góc độ này, nghiệp báo trở nên khúc mắc, ly kỳ khó hiểu, phải không thưa bà? Vì nếu quan niệm những kẻ phạm tội ác chỉ là những công cụ giúp người kia trả nghiệp thì họ đâu có tội lỗi gì? Hazel Denning: Thật ra thì cũng khó nói lắm. Trùng trùng duyên khởi, cái nọ xọ cái kia, khó mà giải thích chữ nghiệp một cách rốt ráo. Mọi vật hiện hữu trên đời đều phụ thuộc tương tác lẫn nhau, chúng nương nhau mà sống. Nói một cách giản dị, có thể lấy ví dụ của một người chỉ thấy hạnh phúc trong sự đau khổ (masochist) có thể thỏa mãn nhu cầu của một người chỉ thấy vui sướng trên sự đau khổ của kẻ khác (sadist). Hai loại người này nương tựa vào nhau mà sống. Không có cái gì xấu hoàn toàn. Mỗi kinh nghiệm là một bài học. Ta có thể là thủ phạm làm điều ác trong một kiếp nào đó nhưng cũng có thể là nạn nhân trong một kiếp khác. Và cứ như thế, con người sống từ đời này qua đời khác cho đến khi nào họ học được bài học.Tôi tin rằng chính chúng ta tự chọn con đường mình đi, dễ dàng hay chông gai là cũng do mình. Một khi mình nhận chân được sự thật đó và chấp nhận mục đích của đời sống hiện tại thì hoàn cảnh chung quanh có thể thay đổi. Nếu một người biết nhận trách nhiệm của mình thì người đó có thể giải quyết được nhiều vấn đề. Còn những kẻ ngu muội không biết nhận trách nhiệm của mình mà cứ đổ lỗi cho người khác thì họ chưa sẵn sàng thay đổi. Chúng tôi, bác sĩ chuyên môn, phải thấy và biết rõ điểm này.Khi đạt đến mức tỉnh thức tối thượng thì linh hồn (the soul) tự dưng hiểu thấu mọi lẽ – hiểu được mình là ai, tại sao mình hiện hữu ở đây; thấy những gì mình đã làm trong kiếp trước, và những gì mình sẽ làm về sau này vân vân và vân vân. Nhưng chính cá nhân người đó phải tự mình học hỏi. Và tôi cũng không hiểu lý do tại sao chúng ta phải học hỏi nhiều quá như vậy, nhưng tôi không phải là người tạo ra những quy luật ấy mà chỉ tìm cách phân tích lý giải chúng thôi.Có người thật sự không muốn thay đổi hoàn cảnh không mấy tốt đẹp của mình như chuyện một bà nọ sinh ra với hai con mắt gần như mù. Bà phải đeo mắt kiếng dầy cộm. Sau khi soi căn, bà biết rằng chính bà muốn mắt mình như thế để ít thấy những phù du vật chất, để quên cái ngã của mình, để quay nhìn vào bên trong. Từ đó, bà vui vẻ với cặp mắt gần như mù của mình và không chịu tìm cách làm cho mắt sáng hơn. Vicki Mackenzie: Bà có thấy ai chọn trở về gần gũi với những người họ quen biết từ nhiều kiếp trước không? Hazel Denning: Có, Nhưng vai vế thì thay đổi. Có người tái sanh với nhau để giải quyết nhiều vấn đề còn dang dở. Có người muốn trở lại để giúp đỡ những người thân. Tôi cho rằng các thánh tử đạo, hay những người chọn cái chết vì chính nghĩa là họ tự nguyện làm như vậy để thức tỉnh lương tri của nhân loại. Cho nên nói rằng nghiệp báo chỉ thể hiện như một sự trừng phạt thì không đúng, cũng có nghiệp dữ, nghiệp lành. Đó là luật nhân quả.Tôi có quen biết một bà bác sĩ, một người đàn bà rất dễ thương mà lấy một ông chồng dễ ghét nhất trần gian. Khi nào ông cùng mè nheo, gắt gỏng, độc ác mà chính ông không cố tình độc ác. Dần dần, bà chán nản không còn thương chồng nữa. Nhưng không bao giờ bà có ý định ly dị.Một hôm bà đến xin soi căn và thấy rằng bà đã gặp ông này ở một kiếp trước khi ông là một linh hồn lạc lỏng. Bà hứa kiếp sau sẽ lấy ông làm chồng và sẽ giúp ông tìm lại linh hồn mình. Và sau đó thì bà thay đổi thái độ, thật tình yêu thương ông, dịu dàng kiên nhẫn với ông và chỉ một năm sau thì ông cũng đổi tính. Ông đi nhà thờ với bà, ông lái chiếc xe sport màu đỏ rong chơi khắp phố phường. Ông nói năng vui vẻ, hài hước ai cũng thích.Tôi dùng câu chuyện này để khuyên răn những gia đình có chồng nghiện rượu. Tuy người vợ tha thứ sự nghiện ngập của chồng nhưng tình cảm đối với chồng thì đã sứt mẻ. Tôi nói với họ rằng. “Nếu chị thật tình thương yêu và muốn cải hóa chồng thì chị không nên dùng giọng lời gay gắt với chồng mà nên bộc lộ tình thương, ăn nói dịu dàng thì ông sẽ thay đổi”. Có nhiều bà nghe lời và đã thành công. Vicki Mackenzie: Bà cho biết sau khi chết, hồn có một thời gian nhất định để đi đầu thai không? Hazel Denning: Có người tái sanh trong vòng vài tiếng đồng hồ sau khi chết, nhất là lính tráng chết ngoài trận mạc. Họ không chịu được cảnh hồn họ lang thang. Họ muốn nhập xác liền. Có lẽ lý do này giải thích được hiện tượng thiên hạ sinh đẻ nhiều sau những trận chiến tranh. Có nhiều người thì mấy trăm năm sau mới tái sanh. Có nhiều linh hồn từ thời Atlantean Age mà bây giờ mới trở lại trần gian. Có lẽ họ chờ đúng thời cơ để đem những hiểu biết mới giúp cho sự chuyển tiếp qua thời đại mới. (New Age). Vicki Mackenzie: Có khi nào bà đã gặp những người đã từng sống ở hành tinh khác hay cõi giới khác không? Hazel Denning: Thỉnh thoảng cũng có. Rất nhiều người cho rằng hạ giới là hành tinh thấp nhất trên cột luân hồi (the totem pole). Có mấy người nói rằng trước kia họ sống trên một hành tinh khác. Có một ông viết một thứ chữ lạ hoắc rồi dịch lại tiếng Anh. Ông nói hành tinh ấy có một văn hóa khắc hẳn. Ông còn nói khi ấy ông hiểu được “nguyên lý đồng thời” – hiện tại, quá khứ và vị lai đều đang thể hiện ở giây phút này.Thật là khó hiểu. Vicki Mackenzie: Bà có biết những kiếp trước của bà không? Hazel Denning: Có chứ. Đời trước kiếp này của tôi rất lạnh lẽo. Tôi là một phụ nữ sinh ra ở nước Anh, lấy chồng là một người làm ngoại giao giàu có, nhà cao cửa lớn, có nhiều gia nhân hầu hạ, tiệc tùng liên miên nhưng tôi rất cô đơn, sống không có tình thương. Khi gần chết, tôi còn nhớ gia nhân rón rén bước không dám gây tiếng động, tôi đã nắm tay em gái tôi và nuối rằng, “Nếu chị được sống lại từ đầu, chị sẽ thương yêu nhiều hơn”.Và trong đời này, một em gái tôi chết lúc chín tuổi, tôi mới mười một tuổi. Tôi đã thương khóc em trong hai năm. Tôi cần kinh qua sự đau khổ như vậy mới lấy lại được cảm xúc bình thường.Nhưng kỷ niệm khó quên nhất xảy ra lúc tôi đang ở trong phòng tắm. Tôi bị đau gan từ lúc học lớp tám. Tôi hay bị những cơn đau túi mật hành hạ, đau đầu đến buồn nôn làm tôi khổ sở lắm. Hồi trước tôi cũng hay nóng nảy. Có hôm cơn giận nổi lên khiến hai mạch máu nhỏ ở cổ bị đứt. Có nhiều lúc tôi có cảm tưởng như cơn giận làm chóp đầu của tôi có thể bay đi mất. Nhưng không ai biết vì tôi không để lộ ra ngoài. Cách đây chừng mười năm, một hôm tôi đang tắm dưới một vòi sen thì cơn nhức đầu kéo tới. Tôi dằn giọng nói lớn, “Chúa ơi, tôi muốn biết tại sao tôi bị bệnh gan hành hạ, tại sao tôi phải chịu đau khổ như thế này?” Vừa dứt lời bỗng nhiên tôi thấy mình là một người lính theo Thập Tự Chinh thời Trung Cổ, vừa bị một giáo xuyên qua gan. Tôi tức giận sắp phải chết vì một “chính nghĩa” mà tôi không còn tin tưởng nữa. Tôi chán ghét những việc chúng tôi đang làm – đốt phá những đền đài đẹp đẽ – nhưng tôi không làm gì được hơn. Tôi biết tôi sắp chết và sẽ không bao giờ thấy lại được người vợ và hai đứa con trai. Tôi chết trong giận dữ, và chứng đau gan bây giờ là biểu hiện của cơn giận xa xưa ấy. Giây phút ấy trong phòng tắm, tôi nghe một giọng thì thầm: “Nguyên do của tính nóng giận của ngươi bắt nguồn ở đây”. Từ ngày đó, tôi không bị cơn đau túi mật hành hạ nữa. Vicki Mackenzie: Biết được kiếp trước của mình có lợi ích gì trong kiếp sống hiện tại không? Hazel Denning: Những hiểu biết về kiếp trước kiếp sau giúp tôi sống an nhiên tự tại. Đối với tôi, thế giới kia cũng rất thật như thế giới này. Cho nên khi mẹ tôi mất, rồi chồng và con trai lần lượt qua đời, tôi không đau buồn mấy. Ngày con tôi tử nạn xe mô tô, tôi vẫn tiếp tục đi thuyết giảng tại một trường đại học đã được sắp đặt trước. Khi biết ra, một giáo sư ở trường hỏi sao tôi có thể dửng dưng trước cái chết của con như vậy. Tôi đã trả lời rằng đối với người ngoài thì tai nạn ấy là một thảm cảnh, nhưng đối với tôi thì khác. Tôi biết con tôi là thầy tu trong ba kiếp trước. Trở lại lần này là cậu muốn nếm mùi đời. Cậu sống mau, sống vội, bất chấp nguy hiểm. Tôi biết con trai tôi không muốn kéo dài đời sống như vậy và cậu quyết định rời bỏ cõi trần sớm trước khi chuyện gì xấu có thể xảy ra. Tuy tôi thương tiếc con, và cũng như những bà mẹ khác, tôi vẫn mong được thấy ngày con khôn lớn, nên người v.v… nhưng trong thâm tâm, tôi mừng cho con đã giải thoát vì tôi biết con tôi sống trong đau khổ. Trường hợp chồng tôi cũng thế. Một buổi sáng đang chơi tennis, ông gục chết trên sân cỏ. Sau khi được tin, tôi vào phòng đọc sách gọi điện thoại báo tin cho gia đình và bỗng dưng một cảm xúc kỳ diệu chưa từng có đã đến với tôi. Căn phòng như sáng hơn và ấm áp hơn.Lông măng trên hai tay tôi dựng đứng hết và tôi cảm thấy được an ủi, khích lệ và sung sướng lạ lùng dường như được ôm ấp bởi tình yêu của nhà tôi, khi ấy tôi nghe tiếng ông thầm thì: “Em ơi, anh sung sướng được ra đi như ý muốn”. Tối hôm ấy tôi vẫn đi dự buổi họp ở trường. Tan họp, tôi mới báo cho mọi người biết tin và ai cũng xúc động thương tiếc làm tôi phải đi an ủi từng người.Khi người thân qua đời thì đau buồn là chuyện thường tình, nhưng tôi không chịu được cảnh người ta tỏ ra bi thương thái quá, vì như vậy chứng tỏ họ có mặc cảm tội lỗi gì với người chết. Vicki Mackenzie: Theo như bà nói thì mọi chuyện xảy ra đều có lý do? Và cuối cùng thì cũng đưa đến sự tốt đẹp? Hazel Denning: Đúng thế… Tôi cho rằng con người được sinh ra với một trí tuệ sáng tạo vô bờ mà chúng ta đã ngu muội không thông hiểu, đã phá hoại và lãng quên những khả năng ấy. Thời đại này là thời đại chúng ta có thể trở về với bản năng chân thật của chúng ta.* Cũng giống như những mẫu đối thoại với các vị “gurus” Tây phương khác về luân hồi, buổi nói chuyện với Dr. Denning thật là hứng thú. Những điều tôi học được ở bà cũng như ở nhiều nhà chuyên môn khác về kiếp trước kiếp sau cũng không khác những điều tôi đã được nghe mấy Lạt Ma của phương Đông giảng dạy. Chi tiết về trường hợp tái sanh có thể khác nhau nhưng chân lý thì chỉ có một, là chân lý mà Lama Yeshe và Lama Zopa đã nói cho chúng tôi nghe trong chiếc lều trên sườn núi của Kopan rằng sau khi chết sẽ có một đời sống khác; rằng đời sống kế tiếp như thế nào là do nghiệp báo của bao đời trước quyết định; rằng trạng thái tâm thần khi hấp hối đóng một vai trò quan trọng ảnh hưởng đến đời sau; rằng người ta thường trở lại sống với những người có nghiệp duyên với chúng ta; rằng những đau khổ của đời này là chính chúng ta tạo ra v.v… Không nên oán ai, đổ lỗi cho ai vì chính mình vẫn luôn luôn làm chủ đời mình. (Trích: Đặc San Hoa Nghiêm, Mừng Xuân Tân Mão, Phật lịch 2554 – 2011)Tái Sinh Ở Phương Tây (Reborn in the West) của Vicki Mackenzie
-
Cõi vô hình. Hamud là một pháp sư có kiến thức rất rộng về cõi vô hình. Khác với những đạo sĩ phái đoàn đã gặp, ông này không phải người Ấn mà là một người Ai cập. Ông ta sống một mình trong căn nhà nhỏ, xây dựa vào vách núi. Hamud không hề tiếp khách, nhưng trước sự giới thiệu của bác sĩ Kavir, ông bằng lòng tiếp phái đoàn trong một thờ...i gian ngắn. Vị pháp sư có khuôn mặt gầy gò, khắc khổ và một thân hình mảnh khảnh. Ông ta khoác áo choàng rộng và quấn khăn theo kiểu Ai cập. Giáo sư Evans-Wentz vào đề : - Chúng tôi được biết ông chuyên nghiên cứu các hiện tượng huyền bí… Pháp sư thản nhiên : Đúng thế, tôi chuyên nghiên cứu về cõi vô hình. - Như thế ông tin rằng có ma… Vị pháp sư nói bằng một giọng chắc chắn, quả quyết : - Đó là một sự thật không những ma quỷ hiện hữu mà chúng còn là đối tượng nghiên cứu của tôi. - Bằng cớ nào ông tin rằng ma quỷ có thật ? - Khắp nơi trên thế giới đều có các giai thoại về ma, vì con người thường sợ hãi cái gì mà họ không thể nhận thức bằng các giác quan thông thường nên họ đã phủ nhận nó. Sự phủ nhận này mang đến niềm sợ hãi. Từ đó họ thêu dệt các giai thoại rùng rợn, ly kỳ, không đúng sự thật. Nếu chúng ta chấp nhận ma quỷ hiện hữu như một con voi hay con ngựa thì có lẽ ta sẽ không còn sợ hãi. Các ông đòi hỏi một chứng minh cụ thể chăng ? - Dĩ nhiên, chúng tôi cần một bằng chứng hiển nhiên … - Được lắm, các ông hãy nhìn đây. Vị pháp sư mở ngăn kéo lấy ra một cặp que đan áo, một bó len và mang ra góc phòng để xuống đất. Ông ta thong thả : - Chúng ta tiếp tục nói chuyện, rồi các ông sẽ thấy. Mọi người ngơ ngác, không hiểu ông muốn nói gì, giáo sư Mortimer nóng nảy : - Nếu ông nghiên cứu về cõi vô hình, xin ông giải thích về quan niệm thiên đàng, địa ngục cũng như đời sống sau khi chết ra sao ? Vị pháp sư nghiêm giọng : - Đó là một quan niệm không đúng, sự chết chỉ là một giai đoạn chuyển tiếp chứ không phải là hết. Vũ trụ có rất nhiều cõi giới, chứ không phải chỉ có một cõi này. - Khi chết ta bước qua cõi trung giới và cõi này gồm có bảy cảnh khác nhau. Mỗi cảnh được cấu tạo bằng những nguyên tử rất thanh mà ta gọi là “dĩ thái”. Tùy theo sự rung động khác nhau mà mỗi cảnh giới một khác. Tùy theo vía con người có sự rung động thanh cao hay chậm đặc, mà mỗi người thích hợp với một cảnh giới, đây là hiện tượng “đồng thanh tương ứng” mà thôi. Khi vừa chết, thể chất cấu tạo cái vía được sắp xếp lại, lớp thanh nhẹ nằm trong và lớp nặng trọc bọc phía ngoài, điều này cũng giống như một người mặc nhiều áo khác nhau vào mùa lạnh, áo lót mặc ở trong, áo choàng dầy khoác ngoài. Vì lớp vỏ bọc bên ngoài cấu tạo bằng nguyên tử rung động chậm và nặng nề, nó thích hợp với các cảnh giới tương ứng ở cõi âm, và con người sẽ đến với cảnh giới này. Sau khi ở đây một thời gian, lớp vỏ bao bọc bên ngoài dần dần tan rã giống như con người trút bỏ áo khoác bên ngoài ra, tùy theo các lớp nguyên tử bên trong mà họ thích ứng với một cảnh giới khác. Cứ như thế, theo thời gian, khi các áp lực vật chất tan rã hết thì con người tuần tự tiến lên những cảnh giới cao hơn. Điều này cũng giống như một quả bóng bay bị cột vào đó những bao cát; mỗi lần cởi bỏ được một bao thì quả bóng lại bay cao hơn một chút cho đến khi không còn bao cát nào, thì nó sẽ tự do bay bổng. Trong bảy cảnh giới của cõi âm, thì cảnh thứ bảy có rung động nặng nề, âm u nhất, nó là nơi chứa các vong linh bất hảo, những kẻ sát nhân, người mổ sẻ súc vật, những cặn bả xã hội, những kẻ tư tưởng xấu xa, còn đầy thú tánh. Vì ở cõi âm, không có thể xác, hình dáng thường biến đổi theo tư tưởng nên những kẻ thú tánh mạnh mẽ thường mang các hình dáng rất ghê rợn, nửa người, nửa thú. Những người thiếu kiến thức rõ rệt về cõi này cho rằng đó là những quỷ sứ. Điều này cũng không sai sự thật bao nhiêu vì đa số những vong linh này luôn oán hận, ham muốn, thù hằng và thường tìm cách trở về cõi trần. Tùy theo dục vọng riêng tư mà chúng tụ tập quanh các nơi thích ứng, dĩ nhiên người cõi trần không nhìn thấy chúng được. Những loài ma đói khát quanh quẩn bên các chốn trà đình tửu quán, các nơi mổ sẻ thú vật để tìm những rung động theo những khoái lạc vật chất tại đây. Khi một người ăn uống ngon lành họ có các rung động, khoái lạc và loài mà tìm cách hưởng thụ theo tư tưởng này. Đôi khi chúng cũng tìm cách ảnh hưởng, xúi dục con người nếu họ có tinh thần yếu đuối, non nớt. Những loài ma dục tình thì quanh quẩn nơi buôn hương bán phấn, rung động theo những khoái lạc của người chốn đó, và tìm cách ảnh hưởng họ. Nếu người sống sử dụng rượu, các chất kích thích thì ngay trong giây phút mà họ không còn tự chủ được nữa, các loài ma tìm cách nhập vào trong thoáng giây để hưởng một chút khoái lạc vật chất dư thừa. Vì không được thoa? mãn nên theo thời gian các dục vọng cũng giảm dần, các nguyên tử nặng trọc cũng tan theo, vong linh sẽ có các rung động thích hợp với một cảnh giới cao hơn và y sẽ thăng lên cõi giới tương ứng. Dĩ nhiên, một người có đời sống trong sạch, tinh khiết sẽ không lưu ở cõi này, mà thức tỉnh ở một cõi giới tương ứng khác. Tùy theo lối sống, tư tưởng khi ta còn ở cõi trần mà khi chết ta sẽ đến những cảnh giới tương đồng, đây chính là định luật “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”. Toàn thể phái đoàn im lặng nhìn nhau, vị pháp sư Ai cập đã diễn tả bằng những danh từ hết sức khoa học, chính xác, chứ không mơ hồ, viễn vông. Dù sao đây vẫn là một lý thuyết rất hay, nhưng chưa chứng minh được. Có thể đó là một giả thuyết của những dân tộc nhiều tưởng tượng như người Á châu chăng ? Hamud mỉm cười như đọc được tư tưởng mọi người : - Nếu các ông biết rằng tôi cũng là một tiến sĩ vật lý học tốt nghiệp đại học Oxford … Giáo sư Harding giật mình kêu lên : - Oxford ư ? Ông đã từng du học bên xứ chúng tôi sao ? Chính thế, tôi tốt nghiệp năm 1864, và là người Ai cập đầu tiên tốt nghiệp về ngành này. (Ghi chú của giáo sư Spalding : Phái đoàn đã phối kiểm chi tiết này và hồ sơ đại học Oxford ghi nhận có một tiến sĩ người Ai cập tên là Hamud El Sarim nhập học năm 1856 và tốt nghiệp năm 1864 với bằng Tiến sĩ Vật lý). - Nhưng làm sao ông biết rõ được cõi giới này ? Ông đã đọc sách vở hay dựa trên những bằng chứng ở đâu ? - Tôi đã khai mở các giác quan thể vía, nhờ công phu tu hành trong nhiều năm. Ngay khi còn là sinh viên tôi đã say mê môn Vật lý siêu hình (metaphysics). Tôi dành nhiều thời giờ nghiên cứu sách vở khoa học, nhưng đến một lúc thì khoa học phải bó tay. Sự nghiên cứu dẫn dắt tôi đến với Khoa Huyền Bí học. Tôi học hỏi rất kỹ về môn này, khi trở về Ai cập tôi may mắn gặp được các vị đạo sư uyên bác, nên sự nghiên cứu càng ngày càng tiến bộ. Sự nghiên cứu dẫn dắt tôi sang Ấn độ, và Tây Tạng. Tại đây tôi gặp một Lạt Ma chuyên nghiên cứu về cõi âm, tôi đã học hỏi rất nhiều với vị này. Sau đó, tôi tu nhập thất trong 10 năm liền, và khai mở được một vài giác quan đặc biệt. Từ đó, tôi tha hồ nghiên cứu cõi âm vì tôi có thể sang tận đây học hỏi và cõi này trở nên quen thuộc, tôi kết bạn với rất nhiều sinh vật siêu hình, chúng giúp đỡ tôi rất nhiều. Giáo sư Evans- Wentz ngập ngừng : - Ông muốn nói rằng ông kết bạn với ma ? - Dĩ nhiên, vì tôi dành trọn thời giờ hoạt động bên cõi này, nên tôi có rất đông bạn bè, phần lón là vong linh người quá cố nhưng cũng có một vài sinh vật có đường tiến hoá riêng, khác với loài người, có loài khôn hơn người và có loại không thông minh hơn loài vật là bao… Giao thiệp với chúng có lợi ích gì không ? - Các ông nên biết cõi âm là một thế giới lạ lùng, phức tạp với những luật thiên nhiên khác hẳn cõi trần. Sự đi lại giao thiệp giúp ta thêm kiến thức rõ ràng….. - Như thế có nguy hiểm không? - Dĩ nhiên, có nhiều sinh vật hay vong linh hung ác, dữ tợn…Một số thầy phù thuỷ, thường liên lạc với nhóm này để mưu cầu lợi lộc, chữa bệnh hoặc thư phù, nguyền rủa…. - Ông có thể làm như vậy không ? Vị pháp sư nghiêm mặt : - Tất cả những việc gì có tính cách phản thiên nhiên, ngược luật tạo hoá đều mang lại hậu quả không tốt. Mưu cầu lợi lộc cho cá nhân là điều tối kỵ của ai đi trên đường đạo. Tôi không giao thiệp với những loại vong linh này, vì chúng rất nguy hiểm, hay phản phúc và thường giết chết kẻ lợi dụng chúng bất cứ lúc nào. Các ông nên nhớ tôi là một khoa học gia chứ không phải một thầy pháp hạ cấp hay một phù thuỷ chữa bệnh. - Xin ông nói rõ hơn về những cảnh giới cõi âm. - Các ông nên biết dù ở cõi nào, tất cả cũng không ra ngoài các định luật khoa học. Thí dụ như vật chất có ba thể : thể lỏng, thể đặc và thể hơi, thì bên cõi này cũng có những thể tương tự. (còn tiếp)
-
Cõi Vô hình (phần ll) Luật thiên nhiên cho thấyvật nặng sẽ chìm xuống dưới và vật nhẹ nổi lên trên thì cõi vô hình cũng thế. Nguyên tử cõi âm rung động với một nhịp độ khác với cõi trần, các nguyên tử rung động thật nhanh dĩ nhiên phải nhẹ hơn các nguyên tử nặng trược. Tóm lại, tùy theo nhịp độ rung động mà tạo ra những cảnh giới khác nhau, có bảy loại rung động nên có bảy cõi giới. Các nguyên tử rung động chậm chạp phải chìm xuống dưới vì nếu ta mang nó lên cao, sức ép sẽ làm nó tan vỡ ngaỵ Thí dụ ta đặt một quả bóng xuống nước nếu đến một độ sâu nào đó sức ép của nước sẽ làm nó vỡ tan. Loài cá cũng thế, có loại sống gần mặt nước, có loại sống tận đáy đại dương. Nếu loại sống gần mặt biển bị mang xuống đáy nó sẽ bị sức ép mà chết, ngược lại nếu loài sống ở dưới đáycũng không thể lên sát mặt nước vì đã quen với sức ép khác nhau. Cảnh giới thứ bảy lúc nào cũng tối tăm, nặng nề với các vong linh hình dáng ghê rợn, nhưng hoàn toàn không có vụ quỷ sứ tra tấn tội nhân. Bị lưu đày ở đây đã là khổ sở lắm rồi, các ông hãy tưởng tượng bị dụcvọng hành hạ mà không thể thoa? mãn thì còn khổ gấp trăm lần bị tra tấn. Vong linh thèm muốn nhưng không so thoa? mãn được, như đói mà không thể ăn, khát không thể uống. Do đó, theo thời gian y sẽ học bài học chịu đựng, nhẫn nhục cho đến khi dục vọng giảm bớt và tan ra thì y sẽ thăng lên cảnh giới thứ sáu. Cõi giới thứ sáu, có sự rung động rất giống như cõi trần, tại đây các vong linh ít còn thèm muốn vật chất như ăn uống, dục tình, nhưng bận tâm với những nhỏ nhen của cuộc sống như thoa? mãn bản ngã, ích kỷ, ghen tuông, hờn giận, v…v… Đa số có hình dáng giống như người cõi trần, nhưng lờ mờ không rõ. Vì sự rung động của nguyên tử gần giống như cõi trần nên họ hay trở về cõi này, họ thường nhập vào đồng cốt, các buổi cầu cơ, cầu hồn để chỉ dẫn bậy bạ, nói chuyên vu vơ nhằm thoa? mãn tự ái, bản ngã cá nhân. Vì đa số vong linh khi còn sống rất ham mê danh vọng, chức tước, uy quyền nên khi họ nhập vào đồng cốt, họ thường tự xưng là các đấng này, đấng nọ. Theo thời gian, các rung động ham muốn, các cố chấp về bản ngã, danh vọng cũng tan biến nên họ thăng lên cảnh giới thứ năm. Cõi thứ năm có sự rung động thanh nhẹ hơn cõi trần nên vong linh có thể biến đổi sắc tướng rất nhanh chóng. Đây là một thế giới với những âm thanh màu sắc lạ lùng dễ bị mê hoặc. Các vong linh ở đây đã bớt ham muốn về cá nhân, nhưng còn ham muốn về tư tưởng, kiến thức. Đây là nơi cư ngụ của những kẻ đạo đức giả, những kẻ bảo thủ nhiều thành kiến, những người trí thức tự phụ, v…v… Đây cũng là cõi có những sinh hoạt của loài Tinh linh. Loài Tinh linh là những sinh vật vô hình có hình dáng hao hao giống như người mà ta thường gọi là Thiên tinh (sylphs), Thổ địa (gnome), Phong tinh (elves), v…v… Một số bị thu phục bởi các phù thuỷ, pháp sư để làm ảo thuật hay luyện phép. Cõi này còn có sự hiện diện của những “hình tư tưởng”. Các ông nên biết, khi một tư tưởng hay dục vọng phát sinh thì chúng sử dụng tinh chất cõi này tạo nên một hình tư tưởng thích hợp. Đời sống của chúng tùy theo sức mạnh của tư tưởng mạnh hay yếu. Vì đa số tư tưởng con người còn mơ hồ nên hình tư tưởng chỉ tạo ra ít lâu là tan rã ngaỵ Một người tập trung tư tưởng có thể tạo ra một hình tư tưởng sống lâu trong vài giờ hay vài ngày. Một pháp sư cao tay có thể tạo ra các hình tư tưởng sống đến cả năm hay cả thế kỷ, không những thế hình tư tưởng này còn chịu sự sai khiến của ông tạ Các phù thuỷ luyện thần thông đều dựa trên nguyên tắc cấu tạo một sinh vật vô hình để sai khiến. Hình tư tưởng không chỉ phát sinh từ một cá nhân mà còn từ một nhóm người hay một quốc gia, dân tộc. Khi một đoàn thể, dân tộc cùng một ý nghĩ, họ sẽ tạo ra một hình tư tưởng của đoàn thể, quốc gia đó. Hình tư tưởng này sẽ tạo một ảnh hưởng vô cùng rộng lớn đối với tình cảm,phong tục, thành kiến của quốc gia, dân tộc. Ta có thể gọi đó là “Hồn thiêng sông núi” hay “dân tộc tính”. Khi sinh ra tại một quốc gia, ta ít nhiều chịu ảnh hưởng của hình tư tưởng này, dĩ nhiên chúng chỉ ảnh hưởng lên thể vía, nghĩa là tình cảm của dân tộc đó, chứ không ảnh hưởng đến lý trí. Một người sống nhiều bằng lý trí sẽ ít chịu ảnh hưởng như người bình thường. Điều này giải thích tại sao một dân tộc có tâm hồn mơ mộng như thi sĩ khi dân tộc khác lại có đầu óc thực tế mặc dù trên phương diện địa lý, họ không ở cách xa nhau mấy và ít nhiều chia sẻ một số quan niệm về tôn giáo, phong tục, tập quán. Cảnh giới cõi thứ tư sáng sủa hơn và dĩ nhiên nguyên tử cõi này rung động rất nhanh. Phần lớn những vong linh tiến hoá, thánh thiện, những nhà trí thức trầm mặc nhưng còn quyến luyến một ít dục vọng khi chết đều thức tỉnh ở cảnh giới này. Đa số đều ý thức ít nhiều, nên họ bắt đầu cởi bỏ những ham muốn, quyến luyến. Đây cũng là chỗ họ học hỏi và ảnh hưỏong lẫn nhau, và đôi khi kêt những liên hệ để cùng nhau tái sinh trong một gia đình hay quốc gia. Cõi giới thứ ba chói sáng, có những rung độgn nhẹ nhàng. Tại đâu có những linh hồn từ tâm nhưng vụng về, những tu sĩ thành tâm nhưng thiếu trí tuệ, những nhà lãnh đạo anh minh nhưng thành kiến. Đây cũng là một cảnh giới của một số thần linh (devas) như Cảmđục thiên thần (Kamadeva), Hữu sắc thiên thần (Rupadeva), và Vô sắc thiên thần (Arupadeva). Các thần linh này có đời sống và tiến hoá cao hơn trình độ của nhân loại. Cõi giới thứ hai và thứ nhất cấu tạo bằng những nguyên tử hết sức thanh thoát, rung động rất nhanh và tràn đầy ánh sáng. Đây là cõi giới mà những người tiến hoá rất cao, rất tệ nhị không còn dục vọng, ham muốn, lưu lại để học hỏi, trao đổi kinh nhigệm, phát triển ccác đức tính riêng trước khi siêu thoát len cảnh giới cao hơn. - Như thế người chết thường lưu lại ở cõi Trung giới bao nhiêu lâu ? - Thời gian lưu lại đây hoàn toàn tùy thuộc vào dục vọng con người, có người chỉ ghé lại đây vài giờ, lập tức đầu thai trở lại. Có kẻ ở đây hàng năm và có kẻ lưu lại đây hàng thế kỷ… Để siêu thoát, thể vía phải hoàn toàn tan rã hết thì mới lên đến cõi Thượng thiên hay siêu thoát. Tóm lại danh từ như thiên đàng hay địa ngục chỉ là những biểu tượng của những cảnh ở cõi Trung giới (Kamaloka). Tùy theo sự sắp xếp của thể vía khi chết, mà ta thức tỉnh ở một cảnh giới tương ứng. Mọi người yên lặng nhìn nhau, những điều Hamud giải thích hoàn toàn hợp lý và hết sức khoa học, không hoang đường chút nào. Nhưng làm sao chứng minh những điều mà khoa học thực nghiệm không thể nhìn thấy được ? Dù sao Hamud cũng là một Tiến sĩ Vật lý tốt nghiệp đại học nổi tiếng nhất Âu châu chứ không phải một phù thuỷ vô học chốn hoang vu, ít nhiều ông ta cũng có một tinh thần khách quan vô tư của một khoa học gia chứ không mê tín dễ chấp nhận một lý thuyết vu vơ, không kiểm chứng. Nhưng làm sao có thể thuyết phục những người Âu Mỹ vốn rất tự hào, nhiều thành kiến và tin tưởng tuyệt đối ở khoa học. Hamud mỉm cười tiếp tục : - Sự hiểu biết về cõi vô hình rất quan trọng, vì khi hiểu rõ những điều xảy ra sau khi chết, ta sẽ không sợ chết nữa. Nếu có chết chỉ là hình hài, xác thân chứ không phải sự sống, và hình hài có chết đi, thì sự sống mới tiếp tục tiến hoá ở một thể khác tinh vi hơn. Đây là một vấn đề hết sức hợp lý và khoa học cho ta thấy rõ sự công bình của vũ trụ. Khi còn sống, con người có dục vọng này nọ, khi dục vọng được thoa? mãn, nó sẽ gia tăng mạnh mẽ, đồng thời các chất thô kệch, các rung động nặng nề sẽ bị thu hút vào thể vía. Sau khi chết, dục vọng này trở nên mạnh mẽ vì không còn lý trí kiểm soát nữa, chính thế nó sẽ đốt cháy con người của ta. Sự nung đốt của dục vọng chẳng phải địa ngục là gì ? Giống như đức tính, phẩm hạnh khi còn trẻ, quyết định điều kiện sinh sống lúc tuổi già, đời sống cõi trần quyết định đời sống bên kia cửa tử. Luật này hết sức hợp lý và dễ chứng minh. Khi còn trẻ ta tập thể thao, giữ thân thể khoẻ mạnh, thì khi về già ta sẽ ít bệnh tật, khi còn trẻ ta chịu khó học hỏi, có một nghề nghiệp vững chắc thì khi về già đời sống được bảo đảm hơn, có đúng thế không ? Những người nào chế ngự được dục vọng thấp hèn, làm chủ được đòi hỏi thể xác, thì các dục vọng này không thể hành hạ khi ta chết. Luật thiên nhiên định rằng khi về già thể xác yếu dần, đau ốm, khiến cho ta bớt đi các ham muốn và nhờ thế, dục vọng cũng giảm bớt rất nhiều nên thể vía cũng thanh lọc bớt các chất nặng nề, ô trượt để khi chết, sẽ thức tỉnh ở cảnh giới cao thượng hơn. Trái lại những người còn trẻ, lòng ham muốn còn mạnh mẽ, nếu chết bất đắc kỳ tử thường đau khổ rất nhiều và phải lưu lại cõi Trung giới lâu hơn. Nếu hiểu biết như thế, ta cần phải duyệt xét lại đời sống của mình ở cõi trần để khỏi lưu lại những cảnh giới thấp thỏi, nặng nề bên cõi âm. Những người lớn tuổi cần chuẩn bị để dứt bỏ các quyến luyến, ràng buộc, các lo lắng ưu phiền, các tranh chấp, giận hờn, phải biết xả ly, dứt bỏ mọi phiền não để mau chóng siêu thoát. Một sự chuẩn bị Ở cõi trần sẽ rút ngắn thời gian bên cõi âm và chóng thúc đẩy thời gian lên cõi giới cao hơn. - Nhưng còn các ma quỷ thì sao ? - Các ông cứ cho rằng ma quỷ là một thực thể thế nào đó, khác hẳn loài người. Thật ra phần lớn chúng là những vong linh sống ở cảnh giới thứ bảy, thứ sáu mà thôi. Chúng còn lưu luyến cõi trần, còn say mê dục vọng không sao thoát ra khỏi cảnh giới này… Luật thiên nhiên không cho phép chúng trở lại cõi trần, nhưng cũng có những trường hợp đặc biệt, khiến người cõi trần trong một thoáng giây có thể nhìn thấy chúng…Khoan đã, các ông hãy xem kìa, người bạn của tôi đã làm xong việc. Hamud chỉ vào góc phòng nơi ông ta để bó len và cây kim đan áo. Mọi người bước đến gần và thấy một chiếc áo len đan bằng tay đã thành hình từ lúc nào không ai rõ. Chiếc áo đan tay rất vụng, không khéo léo nhưng trên ngực có thêu tên giáo sư Mortimer. Vị pháp sư giải thích : - Con ma này rất nghịch, và thường quanh quẩn ở đây. Tôi yêu cầu hắn đan chiếc áo len cho các ông để làm bằng chứng. Để tránh việc các ông cho rằng tôi làm trò ảo thuật, tráo vào đó một chiếc áo len khác, tôi yêu cầu hắn thêu tên người nào trong phái đoàn có nhiều nghi ngờ nhất. Các ông đều biết rằng từ khi gặp gỡ tôi không hề hỏi tên các ông, và nếu chiếc áo này không đan riêng cho các ông thì còn ai nữa ? Qủa thế, vị pháp sư gầy gò không thể mặc chiếc áo đan to tướng , rất vừa vặn cho giáo sư Mortimer, một người Âu mà kích thước đã rất ư quá khổ, so với những người Âu khác, đó là chưa kể vòng bụng khổng lồ, rất hiếm có của ông này. Hơn nữa, áo này cũng không thể may sẵn để bán vì đường kim mũi chỉ rất ư vụng về, nếu có bán, cũng chẳng ai muạ Tại nơi hoang vu, không có ai ngoài vị pháp sư và phái đoàn, sự kiện này quả thật rất lạ lùng. Giáo sư Evans-Wentz thắc mắc : - Như vậy ông có thể sai khiến ma quỷ hay sao? - Tôi không phải là một phù thuỷ, lợi dụng quyền năng cho tư lợi; mà chỉ là một người có rất nhiều bạn hữu vô hình bên cõi âm. Tôi hiểu rõ các luật thiên nhiên như Luân hồi, Nhân quả, và hậu quả việc thờ cúng ma quỷ để mưu cầu một cái gì. Tôi chỉ là một khoa học gia nghiên cứu cõi vô hình một cách đứng đắn. Sự nghiên cứu những hiện tượng siêu hình là một khoa học hết sức đứng đắn, chứ không phải mê tín dị đoạn. Nhiều người thường tỏ ý chê cười khi nói đến vấn đề ma quỷ, nên những ai có gặp ma, cũng chả dám nói vì sợ bị chê cười hay cho là loạn trí. Nếu người nào không tin hãy nghiên cứu và chứng minh một cách khoa học rằng ma quỷ chỉ là những giả thuyết tưởng tượng, còn như phủ nhận không dám chứng minh chỉ là một cái cớ che dấu sự sợ hãi. Điều khoa học chưa chứng minh được không có nghĩa là điều này không có thật, vì một ngày nào đó, khoa học sẽ tiến đến mức mà họ có thể chứng minh tất cả. Những phương pháp thông thường như cầu cơ, đồng cốt, thường gặp sai lầm vì như tôi đã trình bày, các vong linh nhập vào phần lớn cũng có kiến thức giới hạn ở cảnh giới nào đó. Đôi khi họ cũng trích dẫn vài câu trong “Thánh kinh”, hoặc sách vở, kinh điển để nâng cao giá trị lời nói, điều này có khác nào những nhà chính trị khi diễn thuyết. Phương pháp khoa học chính xác nhất là phải tự mình qua hẳn thế giới đó nghiên cứu. Các ông nên biết thân thể chúng ta không phải môi trường duy nhất của linh hồn và giác quan của nó cũng không phải phương tiện duy nhất để nghiên cứu ngoại cảnh. Nếu ta chấp nhận rằng vũ trụ có nhiều cõi giới khác nhau và mỗi thể con người tương ứng với một cõi, thì ta thấy ngay rằng thể xác cấu tạo bằng nguyên tử cõi trần nên chỉ giới hạn trong cõi này được thôi. Các thể khác cũng có giác quan riêng của nó và khi giác quan thể vía được khai mở, ta có thể quan sát các cõi giới vô hình dễ dàng. Khi từ trần, thể xác tiêu hao, các giác quan không còn sử dụng được nữa thì linh hồn sẽ tập phát triển các giác quan thể vía ngaỵ Nếu biết cách khai mở các giác quan này khi còn sống, ta có thể nhìn thấy cõi âm một cách dễ dàng. Giáo sư Allen ngập ngừng : - Nhưng có một quan niệm lại cho rằng, sau khi chết linh hồn sẽ lên thiên đàng hay xuống địa ngục vĩnh viễn, điều này ra sao ? Hamud lắc đầu : - Đó là một quan niệm không hợp lý, vì điều này cho rằng khi chết linh hồn sẽ đổi thay toàn diện. Sau khi chết, linh hồn sẽ mất hết tính xấu để trở nên toàn thiện, trở nên một vị thiên thần vào cõi thiên đàng hoặc là linh hồn có thể mất hết các tính tốt để trở nên xấu xa, trở nên một thứ ma quỷ bị đẩy vào địa ngục. Điều này vô lý vì sự tiến hoá phải từ từ, chứ không thể đột ngột được. Trên thế gian này, không ai toàn thiện hay toàn ác. Trong mỗi chúng ta đều có các chủng tử xấu, tốt do các duyên, nghiệp từ tiền kiếp để lại; tùy theo điều kiện bên ngoài mà những chủng tử này nẩy mầm, phát triển hay thui chột, không thể phát triển. Một người tu thân là một người biết mình, lo vun xới tinh thần để các nhân tốt phát triển, giống như người làm vườn lo trồng hoa và nhổ cỏ dại. Thực ra, khi sống và chết, con người không thay đổi bao nhiêu. Nếu khi sống họ ăn tham thì khi chết, họ vẫn tham ăn, chỉ có khác ở chỗ, điều này sẽ không còn được thoa? mãn vì thể xác đã hư thối, tan rã mất rồi. Sau khi chết, tìm về nhà thấy con cháu ăn uống linh đình mà họ thì không sao ăn được, lòng ham muốn gia tăng cực độ như lửa đốt gan, đốt ruột, đau khổ không sao tả được. - Như ông đã nói, loài ma đói thường rung động theo không khí quanh đó, như thế họ có thoa? mãn không ? - Khi người sống ăn ngon có các tư tưởng khoái lạc thì loài ma đói xúm quanh cũng tìm cách rung động theo tư tưởng đó, nhưng không làm sao thoa? mãn cho được. Điều này ví như khi đói, nghĩ đến món ăn ngon ta thấy khoan khoái, ứa nước bọt nhưng điều này đâu có thoa? mãn nhu cầu bao tử đâu. Các loại ma hung dữ, khát máu thường tụ tập nơi mổ sẻ súc vật, lò sát sinh để rung động theo những không khí thô bạo ở đó. Những người giết súc vật trong nhà vô tình mời gọi các vong linh này đến, sự có mặt của họ có thể gây nhiều ảnh hưởng xấu, nhất là cho nhũng người dễ thụ cảm. - Đa số mọi người đều cho rằng ma quỷ thường xuất hiện ở nghĩa địa, điều này ra sao ? - Sự hiện hình ở nghĩa địa chỉ là hình ảnh của thể phách đang tan rã, chứ không phải ma quỷ, vong linh. Khi ta chết, thể xác hư thối thì thể phách vốn là thể trung gian giữa thể xác và thể vía cũng tan rã theo. Thể phách được cấu tạo bằng những nguyên tử tương đồng với nguyên tử cõi trần. Nhưng trong đó có nhiều nguyên tử 'dĩ tháí, nên nhẹ hơn, nó thu thập các sinh lực còn rơi rớt trong thể xác, để cố gắng kéo dài sự sống thêm một thời gian nữa. Vì đang tan rã nên thể phách không hoàn toàn, do đó, đôi khi ta thấy trên nghĩa địa có những hình ảnh người cụt đầu, cụt chân, bay là là trên các nấm mồ, người không hiểu thì gọi đó là mạ Theo sự hiểu biết của tôi, thì việc thiêu xác tốt đẹp hơn việc chôn cất, vì để thể xác tan rã từ từ làm cho linh hồn đau khổ không ít và thường ở trong một giai đoạn hôn mê, bất động một thời gian rất lâu. Thiêu xác khiến vong linh thấy mình không còn gì quyến luyến nữa nên siêu thoát nhanh hơn nhiều. - Ma quỷ thường thuộc thành phần nào trong xã hội ? - Chúng thuộc đủ mọi thành phần, tùy theo dục vọng khi còn sống. Người chết bất đắc kỳ tử thường lưu lại cõi âm lâu hơn người chết già vì còn nhiều ham muốn hơn. Những kẻ sát nhân bị hành quyết vẫn sống trong cảnh tù tội, giận hờn và có ý định trả thù. Một người tự tử để trốn nợ đời cũng thế, y sẽ hôn mê trong trạng thái khổ sở lúc tự tử rất lâu. Định luật cõi âm xác nhận rằng, “Chính cáidục vọng của ta quyết định cảnh giới ta sẽ đến và lưu lại ở đó lâu hay mau.” - Số phận của những người quân nhân tử trận thì ra sao ? - Họ cũng không ra ngoài luật lệ đó, tùy theo dục vọng từng cá nhân. Tuy nhiên, người hy sinh tính mạng cho một lý tưởng có một tương lai tốt đẹp hơn, vì cái chết cao đẹp là một bậc thang lớn trong cuộc tiến hoá. Họ đã quên mình để chết và sống cho lý tưởng thì cái chết đó có khác nào những vị thánh tử đạo. Dĩ nhiên không phải quân nhân nào cũng sống cho lý tưởng và những kẻ giết chóc vì oán thù và chết trong oán thù lại khác hẳn. - Như ông nói thì người chết vẫn thấy người sống ? - Thật ra phải nói như thế này. Khi chết các giác quan thể xác đều không sử dụng được nữa, nhưng người chết vẫn theo dõi mọi sự dễ dàng vì các giác quan thể vía. Không những thế họ còn biết rất rõ tư tưởng, tình cảm liên hệ; mặc dù họ không còn nghe thấy như chúng tạ Nhờ đọc được tư tưởng, họ vẫn hiểu điều chúng ta muốn diễn tả. - Như vậy thì họ Ở gần hay ở xa chúng ta ? - Khi mới từ trần, người chết luôn quanh quẩn bên gia đình, bên những người thân nhưng theo thời gian, khi ý thức hoàn cảnh mới, họ sẽ tách rời các ràng buộc gia đình để sống hẳn ở cõi giới của họ. - Như thế có cách nào người sống tiếp xúc được với thân nhân quá cố không ? - Điều này không có gì khó. Hãy nghĩ đến họ trong giấc ngủ. Thật ra nếu hiểu biết thì ta không nên quấy rầy, vì làm thế chỉ gây trở ngại cho sự siêu thoát. Sự chết là bước vào một đời sống mới, các sinh lực từ trước vẫn hướng ra ngoài, thì nay quay vào trong, linh hồn từ từ rút khỏi thể xác bằng một bí huyệt trên đỉnh đầu. Do đó, hai chân từ từ lạnh dần rồi đến tay và sau cùng là trái tim. Lúc này người chết thấy rất an tĩnh, nhẹ nhàng không còn bị ảnh hưởng vật chất. Khi linh hồn rút lên óc, nó sẽ khơi động các ký ức, cả cuộc đời sẽ diễn lại như cuốn phim. Hiện tượng này gọi là “hồi quang phản chiếu” (Memory projection). Đây là một giây phút hết sức quan trọng vì nó ảnh hưởng rất lớn đến đời sống cõi bên kia. Sợi dây từ điện liên hệ giữa thể xác và thể phách sẽ đứt hẳn. Đây là lúc người chết hoàn toàn hôn mê, vô ý thức để linh hồn rút khỏi thể phách và thể vía bắt đầu lo bảo vệ sự sống của nó bằng cách xếp lại từng lớp nguyên tử, lớp nặng bọc ngoài và lớp thanh nhẹ Ở trong. Sự thu xếp này ấn định cõi giới nào vong linh sẽ đến. - Ông du hành sang cõi âm thế nào ? - Nói như thế không đúng lắm, vì ám chỉ một sự di chuyển từ nơi này đến nơi khác. Các cõi thật ra ở cùng một nơi chỉ khác nhau ở chiều không gian và thời gian. Sang cõi âm là sự chuyển tâm thức, sử dụng giác quan thể vía để nhận thức chứ không phải đi đến một nơi nào hết. Sở dĩ cõi trần không thấy cõi âm vì nguyên tử cấu tạo nó quá nặng nề, rung động quá chậm không thể đáp ứng với sự rung động nhanh của cõi âm. Quan niệm về không gian cũng khác vì đây là cõi tư tưởng, nghĩ đến đâu là ta đến đó liền, muốn gặp ai chỉ cần giữ hình ảnh người đó trong tư tưởng ta sẽ gặp người đó ngaỵ Khi di chuyển ta có cảm giác như lướt trôi, bay bỗng vì không còn đi bằng hai chân như thể xác. - Những người chết nhận thức về đời sống mới ra sao ? - Trừ những kẻ cực kỳ hung dữ, ghê gớm, đa số mọi người thức tỉnh trong cảnh giới thứ năm hoặc thứ sáu, vốn có rung động không khác cõi trần là bao. Lúc đầu họ còn bỡ ngỡ, hoang mang nhưng sau sẽ quen đi. Tùy theo tình cảm, dục vọng mà họ hành động. Tôi đã gặp vong linh của một thương gia giàu có, ông này cứ quanh quẩn trong ngôi nhà cũ nhiều năm, ông cho tôi biết rằng ông rất cô đơn và đau khổ. Ông không có bạn và cũng chả cần ai. Ông trở về căn nhà để sống với kỷ niệm xưa nhưng ông buồn vì vợ con ông vẫn còn đó nhưng chả ai để ý đến ông. Họ tin rằng ông đã lên thiên đàng, vì họ đã bỏ ra những số tiền, tổ chức các nghi lễ tôn giáo rất lớn, một tu sĩ đã xác nhận thế nào ông cũng được lên thiên đàng. Tôi khuyên ông ta nên cởi bỏ các quyến luyến để siêu thoát nhưng ông ta từ chối. Một vài người thân đã qua đời cũng đến tìm gặp, nhưng ông cũng không nghe họ. Có lẽ ông ta sẽ còn ở đó một thời gian lâu cho đến khi các lưu luyến phai nhạt hết. Tôi đã gặp những vong linh quanh quẩn bên cạnh cơ sở mà họ gầy dựng nên, họ vô cùng đau khổ và tức giận vì không còn ảnh hưởng được gì, họ rất khổ sở khi người nối nghiệp, con cháu có quyết định sai lầm, tiêu phá cơ nghiệp. Tôi đã gặp những người chôn cất của cải, phập phồng lo sợ có kẻ tìm ra, họ vẫn quanh quẩn gần đó và đôi khi tìm cách hiện về doa. nạt những người bén mảng đến gần nơi chốn dấu. Vong linh ghen tuông còn khổ sở hơn nữa; họ không muốn người họ yêu mến chia sẻ tình yêu với kẻ khác. Đôi khi họ điên lên khi chứng kiến sự âu yếm của người họ yêu mến và người khác. Dĩ nhiên họ không thể làm gì được nên vô cùng khổ sở. Những nhà lãnh đạo, những vua chúa, những người hống hách quyền uy thì cảm thấy bất lực khi không còn ảnh hưởng gì được nữa, nên họ hết sức đau khổ. Hãy lấy trường hợp một vong linh chết đuối, vì y không tin mình đã chết, nên cứ ở trong tình trạng lúc chết, nghĩa là ngộp nước. Vì đầu óc hôn mê, nên y không nhìn thấy cõi âm, mà vẫn giữ nguyên hình ảnh cõi trần, dĩ nhiên nó chỉ nằm trong tư tưởng của y mà thôi. Nói một cách khác, thời gian như ngừng lại, y cứ thế hôn mê trong nhiều năm. Tôi đã cố gắng thuyết phục nhưng nói gì y cũng không nghe, tôi bèn yêu cầu y trở về nhà, đầu óc y hôn mê quá rồi, nên cũng không sao trở về được. Nhờ các bạn bè cõi vô hình, tôi tìm được tên tuổi, và địa chỉ thân nhân vong linh. Tôi tiếp xúc với họ và yêu cầu lập một nghi lễ cầu siêu để cảnh tỉnh vong linh. Nhờ sức chú nguyện mãnh lực của buổi cầu siêu, tôi thấy vong linh từ từ tỉnh táo ra, nghe được lời kinh. Y trở về nhà và chứng kiến buổi cầu siêu của con cháu gần 60 năm sau khi y qua đời. Sau đó y chấp nhận việc mình đã chết và siêu thoát… - Ông cho rằng sự cầu nguyện có lợi ích đến thế sau ? - Cầu siêu cho vong linh là một điều hết sức quan trọng và ích lợi , vì nó chứa đựng một sức mạnh tư tưởng vô cùng mãnh liệt. Oai lực lời kinh và âm hưởng của nó thật là vô cùng ở cõi âm nếu người ta tụng niệm chú tâm, sử dụng hết cả tinh thần. Tiếc thay, người đời chỉ coi tụng niệm như một hình thức. Họ chỉ biết đọc các câu kinh trên đầu môi, chót lưỡi chứ không biết tập trung tinh thần, nên mất đi phần nào hiệu nghiệm. Sự cầu nguyện có một sức mạnh kinh khủng, có thể dời núi lấp sông, đó là bí huyết khoa “Mật tông Tây Tạng”. - Như ông nói thì tôn giáo Tây Tạng có hiệu nghiệm nhiều hay sao ? - Vấn đề cầu nguyện cho người chết không phân biệt tôn giáo và cũng không cần theo một nghi thức, nghi lễ nào nhất định, mà chỉ cần tập trung tư tưởng, hết sức chú tâm cầu nguyện. Theo sự hiểu biết của tôi thì tôn giáo nào cũng có những nghi lễ riêng và nghi lễ nào cũng tốt nếu người thực hành thành tâm. - Như vậy nghi lễ rửa tội trước khi chết có ích lợi gì không ? - Một số người tin rằng, hạnh phúc vĩnh cữu của con người tùy thuộc tâm trạng y lúc từ trần. Nếu lúc đó y tin rằng mình được cứu rỗi thì như được một vé phi cơ lên thiên đàng, còn không y sẽ xuống địa ngục. Điều này gây nhiều sợ hãi, lo âu vô ích. Nếu một người chết thình lình thì sao? Phải chăng họ sẽ xuống địa ngục ? Nếu một tín đồ hết sức ngoan đạo nhưng chết ngoài trận mạc thì sao ? Họ đâu được hưởng nghi lễ rửa tội ? Sự chuẩn bị hữu hiệu nhất là có một đời sống thanh cao, nếu ta đã có một đời sống cao đẹp, thì tâm trạng khi chết không quan trọng. Trái lại, ta không thể ao ước một tương lai tốt đẹp dù tang lễ được cử hành bằng các nghi lễ to lớn, linh đình nhất. Dù sao, tư tưởng chót trước khi lìa đời cũng rất hữu ích cho cuộc sống mới bên kia cửa tử . Nó giúp vong linh tỉnh táo, dễ thích hợp với hoàn cảnh mới hơn. Một cái chết thoải mái, ung dung phải hơn một cái chết quằn quại, chết không nhắm mắt được. Theo tôi thì sự hiểu biết về cõi vô hình, sự chuẩn bị cho cái chết là điều hết sức quan trọng, cần được phổ biến rộng rãi, nhưng tiếc là ít ai chú ý đến việc này. - Vậy theo ông, chúng ta cần có thái độ gì ? - Đối với người Âu tây, đời sống bắt đầu khi lọt lòng mẹ, và chấm dứt lúc chết, đó là một quan niệm cần thay đổi. Đời sống cõi trần chỉ là một phần nhỏ của chu kỳ kiếp sống. Chu kỳ này được biểu hiện bằng một vòng tròn mà sự sống và chết là những nhịp cầu chuyển tiếp giữa hai cõi âm, dương, giữa thế giới hữu hình và vô hình. Trên con đường tiến hoá, còn hằng ha sa số các chu ký, các kiếp sống cho mỗi cá nhân. Linh hồn từ cõi thượng giới cũng phải qua cõi trung giới. Phần ở cõi trần chỉ là một phẩn nhỏ của một kiếp sống mà thôi. Trong chu kỳ này, phần quan trọng ở chỗ vòng tròn tiến sâu vào cõi trần và bắt đầu chuyển ngược trở lên, đó là lúc linh hồn hết tha thiết với vật chất, mà có ý hướng về tâm linh. Các cổ thư đã vạch ra một đời sống ở cõi trần như sau : 25 năm đầu để học hỏi, 25 năm sau để lo cho gia đình, đây là giai đoạn tiến sâu vào trần thế, 25 năm sau nữa phải từ bỏ việc đời để lo cho tâm linh, đó là thời điểm quan trọng để đi ngược lên, hướng về tâm linh, và 25 năm sau chót phải từ bỏ tất cả, chỉ tham thiền, quán tưởng ở nơi rừng sâu, núi thẳm. Đối với người Á châu thì 50 tuổi là lúc từ bỏ vật chất để hướng về tâm linh, nhưng người Âu châu lại khác, họ ham mê làm việc đến độ mù quáng, cho đến già vẫn tranh đấu hết sức vất vả, cho dục vọng, cho bản ngã, cho sự sống còn, cho sự thụ hưởng . Do đó, đa số mất quân bình và khi chết hay gặp các nghịch cảnh không tốt. Theo ý tôi, chính vì sự thiếu hiểu biết về cõi âm nên con người gây nhiều tai hại ở cõi trần. Chính vì không nhìn rõ mọi sự một cách tổng quát, nên họ mới gây lầm lỗi, chứ nếu biết tỷ lệ đời sống cõi trần đối với toàn kiếp người, thì không ai dồn sức để chỉ lo cho 1/3 kiếp sống, mà sao lãng các cõi trên. Nếu con người hiểu rằng quãng đời ở cõi trần rất ngắn ngủi, đối với trọn kiếp người và đời sống các cõi khác còn gần với chân lý, sự thật hơn thì có thể họ đã hành động khác đi chăng ? Có lẽ vì quá tin tưởng vào giác quan phàm tục, nên đa số coi thế giới hư ảo này là thật và cõi khác là không có… - Nhưng nếu ông cho rằng các cõi kia còn gần với sự thật hơn, thì tại sao ta lại kéo lê kiếp sống thừa ở cõi trần làm gì ? Tại sao không rũ nhau đi sang cõi khác có tốt hơn không ? Hamud mỉm cười : - Tuy cõi trần hư ảo, nhưng nó có những lợi ích của nó, vì con người chỉ có thể tìm hiểu, và phát triển xuyên qua các rung động thô thiển này thôi. Cõi trần có các bài học mà ta không tìm thấy ở đâu khác. Chính các bậc chân tiên, bồ tát trước khi đắc quả vị đều phải chuyển kiếp xuống trần, làm các công việc vĩ đại như một thử thách cuối cùng. Muốn khai mở quyền năng, con người phải tiếp nhận các bài học ở cõi trần, nhờ học hỏi những bài học này, họ mới trở nên nhạy cảm với các rung động ở cõi trên.__._,_.___ Telegraph news
-
Được biết nhiều trường hợp như bạn, nhưng giải pháp cuối cùng vẫn phải liên hệ tây y để được điều trị cơ chế giải phẩu cắt một vài hệ thần kinh giao cảm mới hết hẳn được bạn ah, tuy nhiên giải pháp tạm thời nên dùng bột talc để rắc vào chân và tay để hút ẩm trước khi đi giày hoặc hơn nữa dùng tinh dầu oải hương để ngăn mùi.
-
Wild cần số đt của 2 bạn đính kèm ngoài bì thư để tiện việc nhận.
-
Thành thật chia buồn cùng Linh Trang và gia quyến Xin góp lời Cầu nguyện cho hương hồn Cụ sớm siêu sinh tịnh độ
-
Bạn đừng ngại! Hãy tạo điều kiện cho tôi thực hiện trọn tâm nguyện của mình, được phát triển bản Chú đến tất cả ACE thành viên trên diễn đàn và bạn bè gần xa, tôi cũng gởi cho chị em ở Bắc Mỹ theo đường bưu chính có bảo đảm, chỉ mong sao mọi người nhận và hưởng phước báu từ nơi ấy.
-
Diễn Đàn là Ảo, nhưng Nghiệp Quả là Thật!
-
Dù muộn vẫn hơn là quên! Bởi theo cách giải thích của người thấu đáo, lời cảm ơn sau khi nhận chỉ tăng thêm công năng của bản chú do đó Wild rất và rất mong các bạn hãy thực hiện động tác này để sự hiệu ứng phần lợi lạc đạt thành.
-
Chào ST! Những người tham gia vào topic này hẵn nhiên đều có 1 tấm lòng vì nhân sinh, trong đó kinh nghiệm qua sự đóng góp của bạn cũng rất giá trị đối với căn bệnh ung thư mà Mẹ chồng Tuệ Nhi đang tìm hướng can thiệp, mà bạn ơi cách đặt vấn đề của Dare cũng không ngoài mong muốn tốt đẹp như bạn, thay vì bạn suy nghĩ sâu xa làm cho người ta mất niềm tin thì bạn hãy nghĩ Dare cũng muốn bài thuốc này được chi tiết hơn cho người sử dụng nó vì cách chữa trị dân gian cũng cần độ chính xác ví như sắc thuốc chúng ta độ lửa nhỏ thuốc thấm chiết xuất được dược chất cao hơn là chúng ta chỉ hướng dẫn cứ đun sôi nấu chín dùng ngay! Chúng ta có 1 tấm lòng nhưng không đủ rộng thì xem như chúng ta đi nửa đoạn đường nhân ái, ngay cách đặt vấn đề của Dare cá nhân tôi cảm nhận Dare đã quan tâm và cần bạn cho thêm thông tin về phương thuốc mà bạn đã xuất tâm chỉ dẫn. Tôi nghĩ bạn có chứng nghiệm từ người thân nên phổ biến cũng rất đáng quý nếu bạn hỏi lại để trả lời cái muốn biết của Dare thì vô cùng hữu dụng. Chào thân ái!
-
"Phù phép" đá màu thành... đá phong thủy. Đá bán ngoài hàng với các màu xanh, đỏ, tím vàng chủ yếu là hàng nhái, hàng "dởm" được làm từ bọt đá nên chỉ có chức năng... làm cảnh là chính. Đá xanh, đỏ, tím, vàng... Tại phố Bà Triệu chúng tôi khảo sát thấy có nhiều loại đá phong thủy được bày bán với nhiều kiểu dáng khác nhau. Chị Nguyễn Thị Dung, một người mua hàng tại đây chia sẻ, chị nghe nói đá phong thủy có thể giúp gia đình làm ăn thịnh vượng, sức khoẻ tăng lên nên chị đang tìm mua để trong nhà. Nhưng khi đến đây thì chị hoàn toàn hoa mắt cũng như choáng ngợp bởi giá cả các mặt hàng này. Một con ngao bằng đá xanh được chủ cửa hàng hét giá 2,5 triệu đồng. Tại nhà ông Nguyễn Văn Mỹ, giám đốc Trung tâm Đá cảnh, gỗ lũa và tranh tượng dân gian Việt Nam, chúng tôi đã được xem nhiều loại đá phong thủy khác nhau, đặc biệt chúng hoàn toàn khác với những gì chúng tôi đã thấy ở các cửa hàng phong thủy. Đá thạch anh trắng làm tăng vượng khí trong gia đình Giải thích vấn đề này ông Mỹ cho hay, đá bán ngoài hàng với các màu xanh, đỏ, tím vàng chủ yếu là hàng nhái, hàng "dởm" được làm từ bọt đá nên chỉ có chức năng... làm cảnh là chính. Bản chất đá phong thủy phải là đá có khả năng làm linh khí gia đình tăng lên, làm ăn thịnh vượng, sức khoẻ tốt. Tuy nhiên, không phải loại nào cũng có khả năng đó mà chủ yếu chỉ là các loại đá quý và bán quý mới có "thiên năng" này. Các loại đó như đá thạch anh, ruby, thiên thạch... đặc biệt thạch anh được xem là loại đứng đầu bảng. "Lý do thạch anh có khả năng phong thủy cao bởi đá được hình thành trải qua hàng tỷ năm, thu nạp nhiều tinh hoa của vũ trụ, chịu nhiệt độ và áp suất cao của vỏ Trái đất. Vì vậy, đá thạch anh đã hàm chứa nhiều năng lượng mạnh mẽ mà con người không thể tưởng tượng nổi", ông Mỹ phân tích. Ông Mỹ bên khối đá phong thủy bằng chất liệu đá mã não. Vì có sự nhầm tưởng về năng lượng của đá phong thủy nên đá cảnh cũng đã bị phù phép trở thành đá phong thủy. Ví dụ, tại nhiều địa điểm, đá cảnh (đá vôi, đá xanh) được tạc hình tạo dáng hoặc dán bùa chú để tăng năng lượng. "Về khoa học, các loại đá trên không có hoặc năng lượng kém nên không thể có khả năng phong thủy. Còn các loại đá quý thì không cần bùa chú gì, năng lượng cũng đã rất lớn rồi", ông Mỹ cho hay. Các ứng dụng của đá phong thủy Trong khoa học, thạch anh có tên là silic dioxit, độ cứng 7, tỷ trọng 2,76g/cm3. Các nghiên cứu trên thế giới đã chứng minh thạch anh có từ trường cao nên giúp tăng vượng khí khi đặt trong nhà, giúp gia chủ làm ăn thịnh vượng, an khang. Cũng vì những lý do này nên tại các gia đình, cơ quan, tòa nhà thường sử dụng thạch anh để hỗ trợ phong thủy. Hiện nay, có khá nhiều loại thạch anh nhưng có 5 loại được ưa dùng là thạch anh trắng, tím, phù dung, đen và lưu ly. Thạch anh trắng được dùng nhiều nhất trong phong thủy công trình bởi nó chứa năng lượng lớn, trường khí mạnh dao động lên đến hàng triệu lần/m3. Còn các loại thạch anh khác có tác dụng trong hỗ trợ sức khoẻ con người như ổn định trí não, điều hòa nhịp tim, giảm bực tức trong người... Đá thạch anh hiện có thể được ứng dụng trong phong thủy ở hai khía cạnh là trấn trạch bên ngoài sân vườn và hỗ trợ trong nhà. Ví dụ, tại các nhà cao tầng, cơ quan, xí nghiệp có thể dùng đá thạch anh vừa làm cảnh vừa tạo năng lượng. Còn trong nhà, thạch anh phát ra từ trường giúp con người thu nhận.Một căn nhà nếu bị góc nhọn của nhà đối diện chĩa thẳng vào, về mặt phong thủy được cho là rất xấu, có thể hóa giải bằng cách đặt một khối đá thạch anh trắng ngay tại vị trí góc nhọn đó chiếu thẳng tới. Đá thạch anh trắng được dùng để trấn trạch bằng cách: Trước khi lát sàn nhà, người ta trải thạch anh trắng dạng đá vụn, khoảng 2 tạ/100m2, phía dưới sau đó lát gạch lên trên. Điều này giúp sàn nhà ngăn được các từ trường không tốt dưới đất xuyên lên trên đồng thời tạo ra từ trường tốt cho người sống trong căn nhà đó. Thạch anh trắng loại đá dăm có giá dao động từ 20.000 - 30.000đ/kg. Còn nữa... Theo Bee.net.vn
-
Phép Lạ Của Tâm Linh Dưới đây là câu chuyện của một người bạn cũa tác giả bị ung thư phổi di căn lên não nhưng đã khỏi bệnh nhờ vào niềm tim Phật pháp và sức mạnh của bình tâm Anh Cẫn (bạn tác giả) theo Đạo Phật vì mẹ là một Phật Tử thuần thành, thường xuyên đi Chùa, tụng kinh. Anh Cẩn rất quan tâm đến Phật Giáo Tây Tạng. Theo anh, truyền thống Tây Tạng vạch ra con đường tu tập rõ ràng cho các Phật tử còn đang sống cuộc đời thường như anh. Vẫn biết “tu là chuyển nghiệp” như nhiều thầy đã dạy, nhưng “bằng cách nào?” Phật Giáo Tây Tạng đưa ra cho anh Cẩn câu trả lời này cụ thể hơn. Do đó, anh thường lên nghe giảng pháp ở ngôi chùa Tây Tạng ở Long Beach, nơi có Geshe Tsultim Gyeltsen trụ trì. Ngài là một trong những chư vị cao tăng của Phật Giáo Tây Tạng, rất được Đức Đạt Lai Lạt Ma quí mến. Anh Cẩn - Dĩ tâm ứng tâm. Vào khoảng tháng 06/2007, anh Cẩn thấy sức khoẻ mình tự nhiên suy kiệt hẳn. Vì sao thì bác sĩ chưa chẩn đoán được. Phải đợi đến khi anh thấy mình bị chứng “double vision” - một vật mà nhìn thành hai - anh mới khám bác sĩ nhãn khoa rồi được chuyển qua bác sĩ khác để cho scan não bộ của anh. Lúc đó họ phát giác là anh bị ung thư phổi, đã di căn tới não, nên họ tức tốc đưa anh vào nhà thương. Đối với y học, ca của anh Cẩn có vẻ như đã quá trễ. Bác Sĩ vẫn bắt đầu phương pháp xạ trị mà không ai hứa hẹn điều gì. Cuộc sống của anh tính theo từng tháng. Chỉ còn chờ phép lạ … Đối với một người đọc sách Phật nhiều như anh Cẩn, anh cũng biết sinh tử là vô thường. Nhưng khi phải đối mặt trực diện với nó, anh mới thấy mọi kiến thức trước đây của mình về cái chết sao chỉ là một mớ khái niệm rỗng, không giúp gì được cả. Anh cảm thấy hoang mang quá đỗi. Anh chưa chuẩn bị sẵn sàng cho việc đi về một nơi nào đó đằng sau cái chết. Bởi vì anh vẫn còn lo cho vợ anh, con anh, và cả doanh nghiệp đang làm việc nữa, sau này không có anh rồi sẽ ra sao. Anh cố tự nhủ rằng mình chấp và bám víu như vậy là sai với tinh thần nhà Phật, nhưng anh không thể nào chế ngự được nỗi sợ hãi khi hình ảnh cái chết và vợ con mình hiện lên trong đầu. Cùng với cơ thể bệnh hoạn, tâm anh lại bị thiêu đốt trong sự sợ hãi. Thân tâm anh suy sụp toàn diện ! Đến lúc như tuyệt vọng, tự nhiên anh nghĩ đến thầy Geshe Tsultim Gyeltsen. Anh nhờ một người bạn thân đến chùa ngay để trình bày với thầy về hoàn cảnh của anh, và xin được qui y với Ngài. Thầy nhận lời ngay. Cuối tuần đó, anh sung sướng được gặp thầy, được thầy làm Lễ Qui Y chính thức. Anh xin thầy lời khuyên về sự giải thoát cho bản thân mình. Lời khuyên của Ngài thật đơn giản : giao tất cả mọi chuyện vướng bận trong đời lại cho người thân, để chuẩn bị cho mình vượt lên trên tất cả những lo toan đó. Với một niềm tin mãnh liệt vào vị thầy tôn kính, anh thực hiện đúng như vậy. Anh bàn giao lại công việc, tài sản lại cho người thân của mình lo liệu. Anh tức tốc lấy vé máy bay để cùng vợ đi Hawai, với ý nghĩ là tận hưởng những ngày tháng cuối để vui với gia đình. Đúng cái đêm trước ngày khởi hành, “phép lạ” xảy ra. Tối hôm ấy, anh cũng ngồi thiền để tĩnh tâm như mọi khi. Và khi anh nhắm mắt lại, anh thấy tự nhiên trong tâm anh tràn ngập hình ảnh vị thầy tôn kính của mình. Kỳ diệu hơn nữa, tâm của anh hoàn toàn tĩnh lặng cùng hình ảnh của thầy. Không cần một cố gắng nào cả, sự sợ hãi đang chế ngự anh trước đây tự nhiên biến mất. Giống như người lạc giữa sa mạc gặp được dòng suối mát, anh đã để tâm mình an trú trong những giây phút bình an tuyệt diệu đó. Đây là một dạng kinh nghiệm thực chứng của thiền quán mà không phải ai cũng tìm được, dù một lần trong đời. Hôm sau, anh đem theo niềm an lạc đó sang Hawaii cùng với kỳ nghỉ của mình. Buổi sáng đầu tiên ở Hawai, anh chống gậy đi ra biển để ngắm bình minh. Và trong khi để tâm mình theo dõi vẻ đẹp của trời biển trong lúc mặt trời lên, hình ảnh 20 của thầy lại tràn ngập trong anh cùng với thiên nhiên. Bình an lại đến ! Anh cảm thấy hạnh phúc trong giây phút hiện tại quá đỗi ! Lúc đó, anh mới thực sự ngộ ra rằng giây phút hiện tại là hiện hữu nhiệm màu nhất. Nó không có khởi đầu, không có kết thúc. Nó chỉ là những cảm thọ bình an nối tiếp trong tâm một cách bất tận, và anh đã an trú được trong nó. Khi về lại Cali, anh gặp thầy và kể lại những trải nghiệm này của mình. Ngài chỉ cười mà không giải thích thêm. Mà anh cũng không chờ đợi được giải thích vì cuộc sống của anh đã thực sự thay đổi rồi. Anh vẫn điều trị bệnh theo bác sĩ. Thời gian còn lại, anh tận hưởng từng giây phút của cuộc sống với gia đình, bạn bè của mình. Sống trọn vẹn như vậy, anh nghĩ rằng không có gì khác biệt giữa việc mình sống thêm một năm hay mười năm nữa. Bốn tháng sau, bác sĩ scan lại và không phát hiện ra sáu cục bướu trước đây nằm trên não của anh nữa. Có vẻ như anh đã vượt qua được giai đoạn nguy kịch nhất. Bác sĩ cũng nói “phép lạ” đã xảy ra … Cho đến hôm nay, mọi chuyện mới qua đi hơn một năm. Nhìn lại, anh Cẩn có cảm giác thời gian đó dài lắm ! Hiện tại, anh vẫn tiếp tục sống bình thản. Anh vẫn cùng bác sĩ tiếp tục theo dõi căn bệnh. Anh Cẩn bảo rằng nó có thể quay lại bất cứ lúc nào, nhưng anh tự hào là đã chiến thắng được nó một lần. Điều quan trọng là anh không còn bận tâm đến nó nhiều nữa. Không ai có thể biết chắc chắn là ngày mai chúng ta có còn sống hay không. Như vậy, đâu là sự khác biệt giữa một người ngày mai chết vì ung thư và một người ngày mai chết vì bất cứ một lý do nào đó, một tai nạn xe cộ chẳng hạn ? Vậy thì hãy sống trọn vẹn ngày hôm nay là được rồi. Được hỏi đâu là “phép lạ” trong trường hợp của anh ? Anh Cẩn cho rằng đó là sự kết hợp nhiều yếu tố. Có thể là do anh có một bác sĩ giỏi, và anh biết cách làm việc với bác sĩ của mình. Có thể là do khi anh giữ được cái tâm bình an rồi, toàn bộ năng lượng trong con người anh dùng để hồi phục những tế bào ung thư. Trong việc điều trị ung thư vào giai đoạn đã di căn thì y học chỉ đóng góp chừng phân nửa vào kết quả. Phân nửa còn lại dành cho những yếu tố 20 mà khoa học chưa thể lý giải hết, như niềm tin, sức mạnh của cái tâm bình an … Giải thích tại sao vị thầy có thể trao cho anh được sự bình an, bước ngoặc của cuộc đời mình, anh Cẩn cho rằng đầu tiên là vì anh đã đặt niềm tin tuyệt đối vào Ngài. Cộng với thầy của anh có năng lực của tâm để truyền cho anh. Còn anh cũng hết lòng nhận. “Dĩ Tâm ứng tâm” có lẽ là vậy đó. Khi cả người cho lẫn người nhận đều mở rộng tâm của mình hướng vào nhau, “phép lạ” của tâm linh sẽ xảy ra … Chia tay với anh Cẩn, tôi cảm ơn anh vì câu chuyện của anh là một món quà lớn dành cho tôi. Anh Cẩn mong rằng những điều tôi ghi lại được sẽ phần nào giúp đỡ những ai đang phải đối diện với căn bệnh ung thư như anh. Đừng bỏ cuộc. Đừng đóng cửa lại với cuộc sống. Thông điệp của anh là Hãy Tạo Cho Mình Một Niềm Tin & Một Cái Tâm Bình An. Tôi nghĩ thông điệp này đâu chỉ dành cho người bệnh, mà còn dành cho tất cả chúng ta, Những con người đang sống trong một thời đại đầy biến động này. Đoàn Hưng (bài do bạn BáTrần giới thiệu) Nguồn: Tin Tức Cao Niên
-
Xác nhận có 200,000 đ (hai trăm ngàn đồng) của Nguyên Anh ủng hộ từ thiện. Quỹ hiện có: 11,200,000 đ + 200,000 đ = 11,400,000 đ (mười một triệu bốn trăm ngàn đồng)
-
Khi đau thì vái tứ phương, Achau đã hướng dẫn cách hóa giải tâm linh và tiêu trừ nghiệp chướng, riêng Wild có một đóng góp nhỏ này đã ứng dụng cũng như giới thiệu cho nhiều người, bạn có thể tìm bột Bạch hoa Xà và Hắc hoa xà hảm nước cho Cụ uống vào mỗi buổi sáng lúc bụng đói, công dụng của 2 vị trên cũng tiêu trừ độc tố cùng ung bướu đang có trong cơ thể của con người . Mách bạn ngay lúc này bạn có thể tìm đến Ông Thầy Sáu chữa rắn cắn ngay khi qua cầu Bình điền (tính từ hướng tp về miền tây) gặp ngã tư đầu tiên đèn xanh đèn đỏ nhìn phía bên trái có cây xăng cạnh cây xăng là con hẻm vào nhà Thầy đoạn 50m bên phải có nhà vẽ Hoa Phấn đi vào hẻm nhỏ xin thuốc. Không mất tiền tuy nhiên cũng phát tâm đặt tiền vào hộp công đức để Thầy có điều kiện làm thuốc cho người đến sau. Chúc gia đình bạn sớm gặp Thầy gặp thuốc.
-
Chỉ cần buông chiếc lá cuối cùngHoa sẽ nở trong những cành lá mới Chỉ cần xem nỗi buồn là hạt bụi Thì bụi buồn theo gió sẽ bay đi. ======================== Họa bài này tặng Bác Túy Lão nhân ngày sinh nhật Bác, Chúc Bác Sức Khỏe niềm tin vui sống! Chỉ cần buông bình rượu cũTri âm sẽ mở lối tìm Chỉ cần buông lời chia sẽ bao cuộc đời thôi bớt liêu xiêu....
-
Xác nhận có 1,000,000 đ (một triệu đồng) của nhanqua ủng hộ Quỹ Từ Thiện. Quỹ hiện có: 10,200,000 đ + 1,000,000 đ = 11,200,000 đ (mười một triệu hai trăm ngàn đồng)
-
Cửa người Năm 1984, tôi mê một cô gái ở “phố nhà binh”, cô này con quan, gia đình nề nếp, kỷ cương như trại lính. Bố mẹ cô ấy phong phanh biết chuyện yêu đương của con gái, họ ra lệnh cấm trại, nội bất xuất ngoại bất nhập. Thỉnh thoảng tôi đạp xe lướt qua lướt lại, đeo kính đen, liếc trộm từ xa. Năm thì mười hoạ may thì nhìn thấy cô ấy đứng ở cửa. Một lần gặp thi sĩ Hoàng Cầm ở nhà bác Đặng Đình Hưng, hôm đó bác Cầm đọc một bài thơ mới. Bài thơ dài, tôi chỉ nhớ mỗi một câu để lẩy vào mình, để vận vào tình cảnh của mình. “Em cười như lá mỏng/ Tựa cửa vào chiêm bao”. Cái cửa chiêm bao đó thật mơ mộng, từ đó đến nay tôi không còn gặp cái cửa nào như vậy nữa. Câu chuyện thực và câu chuyện nhớ lại sau gần 30 năm có thể không trùng khít nhưng thôi, tội gì mà chả cho quá khứ đó sang sang thêm tí chút. Cửa (cổng) chùa Láng. Cách đây vài năm gia đình nhà cô vợ tôi ở Mỹ phải họp để quyết định xem ai được ở chung với bà ngoại. Từ bác cả đến cậu út ai cũng có lý của người ấy chưa kể bà mẹ vợ tôi phân trần bao nhiêu năm đi làm ăn xa, nay về hưu muốn được đón bà về ở để phụng dưỡng. Cuối cùng thì vợ chồng nhà dì Bé thắng cuộc, nguyên do giản dị thế này. Dì Bé sang Mỹ từ nhỏ, mấy chục năm ở xứ người nhưng chả hiểu sao dì lại là người giữ được nếp sống của người Việt nhất. Dì bảo “Một mẹ già bằng ba then cửa”, một câu thành ngữ hay mà ngay cả những người trẻ ở trong nước cũng không biết hoặc không còn dùng nữa. Dì nói xong, cả nhà đều nhất trí bỏ phiếu thuận để dì được ở với bà. Thế là hợp nhất vì cả hai người đều thích lối sống cổ. Lẽ đương nhiên chẳng ai hiểu theo nghĩa đen, ở với bà để bà trông nhà giúp, nhưng đến gia đình nào thấy có người già trong nhà, tự nhiên thấy an lành, thấy ấm cúng hơn thì phải. Tại sao người ta không nói ghép nhà/sân, nhà/mái mà lại nói nhà/cửa? Hướng cửa cũng là hướng nhà, ai làm nhà mà chả muốn chọn hướng tốt như sinh khí, diên niên, thiên y hoặc phục vị rồi còn sơn (vị trí của cửa), rồi còn kích thước nữa. Hiểu như vậy thì thấy cửa với nhà là một. Còn cái câu “Một năm làm nhà, ba năm làm cửa” chứng tỏ để có một bộ cửa ưng ý, hình thức kiểu cách gì, chất lượng, kỹ thuật, mỹ thuật ra sao thì phải mất rất nhiều thời gian để làm hoặc để kiếm tiền mà làm. Cửa nào mà chả là khuôn mặt của một ngôi nhà. Cửa ván lùa, cửa bức bàn, cửa thượng song hạ bản… mỗi thời có một kiểu mặt của mình. Cửa chùa Láng, Hà Nội rất độc đáo, mái không nằm trên đầu cột mà treo ở lưng chừng giữa các cột. Cửa chùa Kim Liên có bộ mái đồ sộ trên hàng cột thấp, nhỏ nhưng không bị cảm giác đè xuống nặng nề mà trái lại mái tam quan trông như con chim phượng đang vỗ cánh bay lên. Cổng chùa Mía, Sơn Tây chính là gác chuông… Nhân cái dịp đưa mấy người quen ở nước ngoài đi du xuân và chụp ảnh các cổng làng ở đồng bằng Bắc bộ. Tôi có bàn với họ: cái cổng làng cũng là bản tính của người Việt, đóng thì không đóng chặt, mở thì chỉ mở hé. Tức là chỉ mở hé và khép hờ thôi. Nếu không đóng thì làm sao bảo tồn được truyền thống qua biết bao thăng trầm của lịch sử, nếu không mở thì làm sao giao lưu được với bên ngoài, nhận được cái hay của bên ngoài vào để làm giàu mình. Hai cánh cổng của làng Việt như một cái van đóng mở tuỳ thì. Đóng – khép, mở – hé. Cái cánh đóng, giúp bảo tồn, cánh mở giúp hoà nhập. Đó là đặc điểm trong cách giao lưu của người Việt với bên ngoài. Cửa (cổng) chùa Kim Liên. Tôi đi thăm nhiều ngôi chùa cổ, thấy có những cửa sổ hình tròn, trang trí bát quái. Thế có nghĩa là khi càn khảm cấn chấn… đến thì Phật giáo đã ở đây rồi. Họ cùng chia nhau ảnh hưởng và chung sống hoà bình với nhau cũng như từ đầu công nguyên khi Phật giáo đến Việt Nam nó tự nguyện kết hợp với tín ngưỡng bản địa (thờ tứ pháp) để tồn tại và phát triển. Ở Việt Nam không có mâu thuẫn tôn giáo. Vừa rồi các vị trường lão ở làng Chùa (quê của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều) quyết định xây lại cái cổng làng. Ai cũng biết là chả thể nào dựng lại được cái đã mất nhưng vẫn cứ phải làm để đề trên cổng dòng chữ Vọng tự nhập xuất. Cái cổng cũ đã bị đổ từ thời chiến tranh nhưng những chữ đó thì vẫn còn, còn trong đầu những người già của làng Chùa. Họ muốn con cháu họ hàng ngày ra vào, đi về nhìn thấy những chữ đó để biết cách mà sống. Thiều giải thích với tôi: “Những người già của làng tôi nói nghĩa của bốn chữ đó là: nhìn chữ để biết việc ra vào. Và tôi hiểu: chữ ở đây là văn hoá. Việc “ra vào” ở đây là phép hành xử với cuộc đời. Không có văn hoá thì không biết sống như thế nào”. Hôm nọ về quê của người bạn chơi, một làng cổ nằm bên sông Đáy. Quê anh ấy vẫn nghèo, chùa của làng còn nguyên, chưa bị trùng tu, tam quan chùa nhỏ nhắn, bên phải cổng chính viết hai chữ Phương tiện, bên trái hai chữ Tuỳ duyên. Đúng ngày rằm nhưng chùa vẫn vắng vẻ. Tôi ngồi nói chuyện với sư thầy một lúc lâu, chuyện kinh kệ, chuyện Phật pháp. Tôi thắc mắc về mấy chữ ngoài cửa chùa. Sư thầy im lặng nghe, mãi khi tiễn tôi ra cổng, mới nói: Tuỳ duyên là cứ tuỳ duyên mà sống. Quá khứ thì đã qua, tương lai hay niết bàn cũng là chưa tới, yên tâm vui vẻ sống ở cuộc đời thật của hiện tại này đi đã. Còn duyên thì hợp, hết duyên thì tan. Bận tâm làm gì. Buồn hay vui, hạnh phúc hay bất hạnh, chính hay lệch, danh hay lợi, đỉnh cao hay vực sâu, gặp gỡ hay chia ly thì cũng chỉ là phương tiện. Cái cửa chùa Phương tiện – Tuỳ duyên ở quê nhà bạn tôi là cửa đạo mà cũng là cửa đời, cửa người, cửa cho mọi người, cửa cho mỗi người. Then cài cửa Then cửa Lê Thiết Cương (Kiến trúc & đời sống)
-
Nữ sinh phá thai và ngôi mộ của 4 con. Có thể nói, không khu vực nào trong nghĩa trang online lại có nhiều câu chuyện và tình tiết giàu cảm xúc như ở "nghĩa trang thiếu nhi". Có những nữ sinh ngày ngày cắp sách tới trường nhưng đêm về gục mặt trên bàn phím để khóc trước mộ ảo của con, xin con tha thứ vì đã tước bỏ quyền làm người chính đáng của đứa trẻ… Bao phủ toàn bộ khu vực "nghĩa trang thiếu nhi" là sự pha trộn của tất cả các loại cảm giác: buồn bã, đau khổ, tiếc nuối, thương nhớ, hờn giận, trách móc, ăn năn, day dứt, v...v… của những người mẹ và những vị khách vào viếng thăm, chia sẻ. Có thể nói, chưa ở nghĩa trang nào mà người nằm dưới mộ lại hưởng dương "khiêm tốn" như ở nghĩa trang thiếu nhi. Những con số 4 tuần, 6 tuần, 7 tuần, v..v... cứ lần lượt hiện lên trước mắt người xem. Vào nghĩa trang này mới thấy một “bộ mặt” khác của những nữ sinh tuổi teen phải phá thai khi tuổi đời còn quá trẻ… Khi chỉ còn lại một mình, những day dứt, đau đớn mới trở lại với họ như bao con người trưởng thành khác… 4 đứa con cùng chung một mộ Choáng nhất trong khu vực nghĩa trang thai nhi là mộ phần chung của 4 bé (cùng một mẹ). Ngôi mộ ảo này được lập ngày 13/6/2011, trên bia mộ ghi tên 4 đứa con cùng số ngày ngắn ngủi được tồn tại trên đời: Mai (1 tuần tuổi) – Sao (2 tuần tuổi) – Tuấn (3 tuần và 15 ngày tuổi) – Tùng (5 tuần tuổi). Người mẹ đã 4 lần phá thai này đau khổ viết: “Vậy là cho đến giờ, mẹ mới lập mộ được cho các con yêu của mẹ. Mẹ đã không đủ dũng cảm để giữ các con lại, chỉ vì mẹ không dám chịu trách nhiệm trước những hành động của mình... Giờ đây, ba mẹ rất hối hận các con à. Hãy tha lỗi cho ba mẹ nhé... Ba mẹ đã đặt tên cho các con rồi. Hãy cùng ở bên nhau, hòa thuận, yêu thương nhau thật nhiều các con nhé. Những thiên thần của ba mẹ. Yêu các con thật nhiều ...”. "Vậy là cho đến giờ, mẹ mới lập mộ được cho các con yêu của mẹ. Mẹ đã không đủ dũng cảm để giữ các con lại ..." Thông thường, những thai nhi bị cha mẹ bỏ khi mới hình thành đều được xử lý như rác thải y tế (với thai nhi nhỏ). Còn với các thai nhi đã lớn, thành hình hài đầy đủ, các bé sẽ được người trông nom nhà xác bệnh viện tắm rửa sạch sẽ rồi chuyển đến nơi hỏa táng. Tro cốt của các bé sẽ được mang đến các nghĩa trang, đặt trong một khu vực riêng biệt và các lọ tro cốt đều vô danh... Vì thế, những ông bố bà mẹ đã phá thai sẽ không bao giờ có thể biết con mình được mang đi đâu và cũng không có mộ phần để thờ cúng. Nhưng ở nghĩa trang online này, ngoài việc tạo được cho linh hồn các thai nhi bé bỏng một nơi “trú ngụ” ấm cúng, nó còn giúp ba mẹ chúng giải tỏa được những ăn năn, day dứt không dám thổ lộ với ai… Cho nên, có người mẹ trót phá thai khi tìm được trang web nghĩa trang online đã reo lên như tìm được một niềm vui quá lớn: “Win ơi, hôm nay mẹ vui quá, cuối cùng mẹ cũng cho con một căn nhà rồi. Mẹ biết mẹ có lỗi với con nhiều lắm, mẹ thật sự xin lỗi con! Con đừng bao giờ tha thứ cho mẹ nhé ...”. Để con ở thế giới bên kia bớt lạnh lẽo, người mẹ này còn gửi kèm trên bia mộ rất nhiều đồ chơi, quần áo, bình sữa, trái cây, thậm chí gửi cho con một chiếc giường ngủ ấm áp với đầy đủ đồ dùng xinh xắn: “Mẹ gửi cho Win này, Win có thích không?” Sau những lời “thú tội”, cô gái trẻ liên tiếp nhận được những lời chỉ trích cho rằng những lời nói, hành động trên đã quá muộn mạng, thực chất chỉ là ngụy biện cho ham muốn của bản thân. Người mẹ đau khổ đã phải thốt lên những lời cay đắng trước mộ con, dù chỉ là mộ ảo: “Mẹ không muốn bào chữa gì cho việc làm của mẹ nữa, nhưng người ta giá mà hiểu được cảm giác tội lỗi, hối hận và dằn dặt như thế nào trong từng giây, từng phút mà những người như mẹ phải chịu đựng thì chắc người ta sẽ không phũ phàng nói những lời đó đâu con nhỉ?”. Phá thai – thực tế nhiều hơn con số thống kê? Trong khu vực "nghĩa trang thiếu nhi" này, có thể thấy chiếm thế áp đảo là đối tượng nữ sinh còn đang đi học. Người xem có thể bắt gặp hàng loạt những lời tâm sự, nhắn nhủ như: “Mai mẹ đi thi rồi nên hôm nay mẹ chỉ trò chuyện với con một lát thôi nhé, thi xong mẹ sẽ lại vào thăm con nhé”; “Hôm nay mẹ vừa hoàn thành bài kiểm tra giữa kỳ xong, đề dễ nên mẹ làm tốt, mẹ vui quá con à. Con đang làm gì vậy, đã măm măm chưa?". Trên mỗi bia mộ có thể là một cái tên đầy đủ, vẹn toàn nhưng cũng có những bia mộ mà chỉ cần đọc tên thôi là cũng đã cảm thấy khóe mắt cay cay: Mộ bé Nguyễn Hữu Vô Danh, mộ bé Hoa Thủy Tinh, Bồ Công Anh, vv ... Có những người lập mộ, đặt tên cho con rồi phân trần: “Mẹ không biết con là trai hay gái, mẹ cứ gọi con là Vũ Tây Thy con nhé. Với ước mong con sẽ luôn xinh đẹp, khỏe mạnh”; “Mẹ gọi con là pé Sún nhé, là trai hay gái thì pé Sún của mẹ chắc chắn sẽ rất đáng yêu”, vv.. Ngôi mộ của những đứa trẻ hưởng dương 3 tuần tuổi, 5 tuần tuổi nằm chung với nhau ... Những người phá thai rồi vào đây lập mộ cho con hầu như đều là các nữ sinh, có những người nạo, phá thai 2, 3 đến 4 lần. Có những người mẹ đếm từng ngày kể từ khi nạo thai: “Hôm nay là tròn một tuần kể từ ngày mẹ con mình xa nhau rồi đấy. Mẹ nhớ cái cảm giác buồn nôn, chán ăn, mệt mỏi vì con. Mẹ nhớ lắm lắm, bây giờ mẹ không thể có lại cái cảm giác đó rồi. Mẹ nhớ con, yêu con biết bao nhiêu. Nhưng một người mẹ chưa đến 18 tuổi như mẹ không còn lựa chọn nào khác là phải rời xa con. Hãy tha thứ cho mẹ, con nhé”. Báo chí đã từng nói nhiều đến chuyện phá thai trong giới trẻ, nhưng vào nghĩa trang này rồi mới thấy có thể những con số được nắm bắt chưa phản ánh đúng thực tế đau buồn này. Nhưng điều đặc biệt hơn cả là chỉ khi vào nghĩa trang này người ta mới thấy những dằn vặt, đau khổ đằng sau một quyết định hết sức khó khăn. Các bác sỹ sản khoa làm nghề phá thai cho biết, một khi đã đến bệnh viện để phá thai, các cô gái đã suy nghĩ, cân nhắc rất kỹ và thực sự đã rất quyết tâm. Vì thế, họ thường dửng dưng, im lặng khi đối mặt với các thầy thuốc. Một phần vì đã “xác định tư tưởng”, một phần vì sợ “khóc lóc” sẽ bị các bác sỹ la mắng. Nhưng từ trong thâm tâm của mình, các bác sỹ sản khoa cho biết, khi phải phá thai, bất kể một cô gái nào cũng muốn giấu đi bộ mặt thật của họ: Đó là sự đau khổ, ân hận. Đây cũng chính là lý do khiến khu vực "nghĩa trang thiếu nhi" trở thành nơi được truy cập nhiều thứ 2 trong toàn bộ nghĩa trang ảo (khu vực đông nhất là Nghĩa trang chung). Người đọc có thể đi hết từ bất ngờ này đến bất ngờ khác với những tấm bia mộ bé tí xíu nhưng tấm nào cũng đầy hoa, quà, áo quần, đồ chơi và những giọt nước mắt ân hận muộn màng… Tất cả những người mẹ tham gia vào "nghĩa trang thiếu nhi" này đều cầu mong các con của mình ở thế giới bên kia sẽ gặp gỡ và yêu thương, sưởi ấm cho nhau, sớm đầu thai vào một người mẹ khác để có thể được hưởng một cuộc sống tốt đẹp mà bất cứ đứa trẻ nào cũng đáng được hưởng… Theo N.Anh VietNamNet